Blog Trang 528

Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn (bệnh Osler )

Tên khác: bệnh Osler hoặc bệnh Jaccoud-Osler, viêm màng trong tim do vi khuẩn.

Định nghĩa

Viêm nội tâm mạc (viêm màng trong tim), nói chung do nhiễm vi khuẩn, khu trú ở các van tim, hoặc ở cả toàn bộ lớp nội tâm mạc lót thành tim, tuy hiếm xảy ra hơn.

Căn nguyên

Viêm nội tâm mạc thường bắt nguồn từ các tổn thương sùi ở van tim bị nhiễm các vi khuẩn lọt vào trong máu tuần hoàn. Tỷ lệ mắc bệnh viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn ngày càng gia tăng là do nạn nghiện ma tuý tiêm chích theo đường tĩnh mạch và do sử dụng những thuốc ức chế miễn dịch.

BỆNH TIM MẠCH: thường thì viêm nội tâm mạc hay xảy ra ở những bệnh nhân trên 50 tuổi, nam giới mắc bệnh nhiều hơn so với nữ giới.

  • Bệnh van tim do bệnh thấp: gặp trong 40-60% số trường hợp, với thứ tự giảm dần là bệnh van hai lá, van động mạch chủ, van ba lá.
  • Bệnh tim bẩm sinh: gặp trong 10-30% số trường hợp, nhất là tật lỗ động mạch chủ có hai van (van động mạch chủ có hai lá), tật còn Ống thông động mạch, tật thông liên thất, tứ chứng Fallot, tật hẹp eo động mạch chủ, tật hẹp động mạch phổi. Mọi loại shunt và mọi trường hợp hẹp đều rất dễ bị nhiễm khuẩn. Nhưng thông liên nhĩ là tật ít bị biến chứng viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn nhất.
  • Bệnh van tim thoái hoá: hẹp van động mạch chủ calci hoá, sa van hai lá, hội chứng

VAN TIM GIẢ: có từ 10-20% những trường hợp viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn xảy ra ở những bệnh nhân được thay van tim giả. Van động mạch chủ giả bị biến chứng viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn nhiều hơn, so với van hai lá giả. Từ 1-2% số trường hợp viêm nội tâm mạc xảy ra chỉ một năm sau khi thay van. Những thể sóm (xuất hiện dưới 2 tháng sau khi thay van) có tiên lượng dè dặt và thường mầm bệnh là những vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh. Những thể muộn có tiên lượng tốt hơn, và mầm bệnh thường nhạy cảm với thuốc kháng sinh.

NGHIỆN MA TUÝ TIÊM CHÍCH THEO ĐƯỜNG TĨNH MẠCH: viêm nội tâm mạc xảy ra ở những người lớn trẻ tuổi, thường không có tổn thương tim từ trước. Van ba lá thường hay bị viêm. Mầm bệnh thường gặp là tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus), liên cầu khuẩn, cầu khuẩn đường ruột, trực khuẩn Gram âm, nhất là trực khuẩn mủ xanh (Pseudomonas aeruginosa), hoặc là nấm, nhất là Candida albicans.

NHỮNG YẾU TỐ TẠO THUẬN LỢI SINH BỆNH

  • Bệnh nhiễm khuẩn: nhiễm khuẩn huyết đã rõ, viêm amidan, apxe răng, nhiễm khuẩn da, sẩy thai, nhiễm khuẩn do đặt dụng cụ tránh thai trong tử cung.
  • Nhiễm khuẩn do thầy thuốc: truyền dịch hoặc thuốc theo đường tĩnh mạch bị nhiễm bẩn, đặt ống thông (sonde) vào tĩnh mạch và động mạch trung tâm với mục đích điều trị hoặc chẩn đoán, lỗ rò do làm thẩm phân máu, đặt máy kích thích tim.
  • Can thiệp ngoại khoa không vô khuẩn: nhổ răng, phẫu thuật tai mũi họng, phẫu thuật sinh dục- tiết niệu.
  • Sử dụng thuốc ức chế miễn dịch.

Vi khuẩn học

Những mầm bệnh hiếm gặp: lậu cầu khuẩn, Bacteroides, Borrelia, Chlamydia psittaci, Haemophilus, Listeria,não mô cầu,

Nhóm HACEK: bao gồm những loài Haemophilus, Actinobacillus, Cardiobacterium, Eikenella, Kingella, là những loài có thể gây viêm nội tâm mạc ở những trường hợp có van tim giả.

Những con số nằm trong ngoặc đơn là tần suất của những mầm bệnh gây viêm nội tâm mạc trong trường hợp đặt van tim giả:

Staphylococcus aureus (tụ cầu vàng)

Staphylococcus epidermis (tụ cầu thượng bì da)

Streptococcus viridans

Những chủng streptococcus (liên cầu khuẩn) khác

Cầu khuẩn đường ruột

Những mầm bệnh Gram âm

Vi khuẩn dạng bạch hầu (giống trực khuẩn bệnh bạch hầu)

Nấm

30-40% (40-50%)

1-3% (20-30%)

30-40% (5-20%)

15-25% (35%)

5-20% (5-10%)

10% (10-20%)

(4-10%)

2-4% (5-15%)

 

Giải phẫu bệnh

Viêm nội tâm mạc cấp tính: những tổn thương là loại loét- sùi, hoại tử, và có thể gây ra hư hỏng van tim quan trọng và nhanh chóng.

Viêm nội tâm mạc bán cấp: hay tác động nhất là tới van động mạch chủ và van hai lá, van ba lá bị viêm nhiễm chủ yếu trong trường hợp nghiện ma tuý tiêm chích tĩnh mạch và thông tim phải. Trong những trường hợp bệnh tim bẩm sinh, thì nhiễm khuẩn chủ yếu xảy ra ở các tật còn ống thông động mạch, hẹp eo động mạch chủ, và thông liên thất. Những tổn thương sùi hình thành trên các van tim, đôi khi trên các sợi gân nối van tim với
thành tâm thất, hoặc trên mặt của lớp nội tâm mạch lót các buồng tim, đều cấu tạo nên bởi hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu các đại thực bào, nằm kẹt ở trong những mắt của lưới sợi huyết (fibrin). Trong cấu trúc này có chứa những tác nhân gây bệnh (vi khuẩn, nấm). Có thể phát hiện được những tổn thương nghẽn mạch ở trong lách, não, cơ tim.

Phình động mạch nấm xuất hiện ở những vị trí tiếp giáp với cục nghẽn mạch nhiễm khuẩn làm cho thành động mạch bị yếu đi. Nếu một phình động mạch nấm như vậy bị vỡ ở một động mạch của não, thì sẽ gây ra xuất huyết trong hộp sọ.

Những tổn thương thận có thể là do nghẽn mạch và dẫn tới nhồi máu thận, hoặc là tổn thương miễn dịch thì gây ra viêm thận do lắng đọng phức hợp miễn dịch ở màng đáy của các tiểu cầu thận.

Triệu chứng

VIÊM NỘI TÂM MẠC CẤP TÍNH: khởi phát đột ngột bởi sốt cao. Nghe tim thấy tiếng thổi hoặc thấy tiếng thổi đã có sẵn từ trước thay đổi. Những triệu chứng khác cũng giống như trường hợp viêm nội tâm mạc bán cấp.

VIÊM NỘI TÂM MẠC BÁN CẤP (hoặc chậm):

Khởi phát: mệt, sốt dao động hoặc liên tục, thường dưới 39°c, đôi khi kèm cơn rét run, ra mồ hôi ban đêm, đau khớp xương, đau cơ. Cũng có thể khởi phát cấp tính do nghẽn mạch não hoặc nghẽn mạch ngoại vi. Nên khám để xem lách có bị to không.

Nghe tim: thấy tiếng thổi hở van mới xuất hiện. Cường độ và tính chất của tiếng thổi có thể thay đổi hàng ngày. Nếu thấy tiếng thổi mạnh hẳn lên thì van tim đã bị hư hỏng và chẩn đoán được khẳng định.

  1. Những dấu hiệu viêm mạch máu và biểu hiện nghẽn mạch ở da và niêm mạc:

+ Chấm xuất huyết: xuất hiện trên các niêm mạc (kết mạc mắt, vòm miệng, niêm mạc miệng) hoặc ở da (các chi).

+ Các nốt (cục nhỏ) Osler: nốt nhỏ, đau, đường kính khoảng vài milllimét, màu đỏ tím, xuất hiện ở mặt gan các đầu ngón tay (gọi là giả-chín mé Osler) hoặc ngón chân, ở mô cái hoặc mô út, diễn biến trong vòng vài ngày.

+ Các vết Janeway: là các mảng ban đỏ (hồng ban) xuất hiện ở gan bàn tay hoặc gan bàn chân.

+ Đường thẳng xuất huyết dưới móng.

Những dấu hiệu thần kinh:

+ ở nhãn cầu: chấm xuất huyết ở đáy mắt, nghẽn động mạch trung tâm võng mạc, viêm dây thần kinh thị giác (viêm thị thần kinh), xuất huyết võng mạc hình bầu dục với một trung tâm màu sáng.(gọi là vết Roth).

+ ở màng não và não, có thể xảy ra: tai biến thiếu máu não cục bộ tạm thời, xuất huyết dưới màng nhện do vỡ phình động mạch nấm, apxe não, viêm màng não, viêm não.

Những dấu hiệu thận:

+ Thường hay thấy đái máu vi thể (nước tiểu có ít hồng cầu nên không thấy màu đỏ).

+ Nhồi máu thận: gây cơn đau bụng thận.

+ Viêm tiểu cầu thận do phức hợp miễn dịch: protein niệu, đái máu, trụ hạt.

BIẾN CHỨNG

Van tim bị hư hỏng: sớm hoặc muộn, dẫn tối hở van tim.

Nghẽn mạch trong các tạng hoặc ở ngoại vi: nghẽn mạch não (liệt nửa người có sốt), nghẽn mạch lách (đau hạ sườn trái), nghẽn mạch mạc treo ruột (dấu hiệu bụng cấp cứu), nghẽn động mạch các chi, đôi khi đau khớp xương giống như bệnh thấp khớp cấp hoặc bệnh viêm đa khớp dạng thấp. Trong trường hợp viêm nội tâm mạc ở tim phải thì có thể xảy ra nghẽn mạch và nhồi máu phổi (đau ngực, ho, ho ra máu).

Phình động mạch: nếu phình động mạch nấm bị vỡ ở não, thì gây ra xuất huyết dưới nàng nhện.

Ở những người nghiện ma tuý: van ba lá thường hay bị viêm nhiễm gây ra những dấu hiệu suy tim phải, nghẽn mạch nhiễm khuẩn ở phổi với các triệu chứng ho, ho ra máu, hình ảnh X quang của viêm phế quản-phổi có xu hướng vỡ ra ngoài.

Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn có thể biểu hiện như một trường hợp suy tim cấp tính hoặc tiến triển không rõ căn nguyên, hoặc như một bệnh gây suy mòn (ung thư, bệnh tạo keo).

Xét nghiệm cận lâm sàng

CẤY MÁU: là xét nghiệm quyết định, dương tính trong 95% số trường hợp. Không nên vội vã cho kháng sinh trước khi có chẩn đoán, nếu không thì phải ngừng thuốc kháng sinh trong 3-4 ngày trước khi lấy máu để cấy. Bắt đầu bằng cấy 3 mẫu máu trong các môi trường hiếu khí và kỵ khí (ái khí và yếm khí), máu được lấy từ các tĩnh mạch khác nhau, vào những khoảng thời gian cách nhau vài giờ, và vào lúc bệnh nhân đang sốt thì tốt hơn. Thường thì các mầm bệnh đều được phát hiện (mọc), nhưng nếu gặp trường hợp kết quả cấy máu âm tính, thì phải cấy máu lại luôn trong 3 ngày liên tiếp. Có lẽ cấy máu động mạch hoặc máu ở tuỷ xương cũng không cho những kết quả dương tính cao hơn. Nếu cấy máu lại nhiều lần mà vẫn cho kết quả âm tính nhưng bệnh cảnh lâm sàng vẫn có những đặc điểm của viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn thì có khả năng mầm bệnh không mọc trên những môi trường thông thường.

NƯỚC TIỂU: tìm hồng cầu trong nước tiểu bằng soi kính hiển vi.

PHẢN ỨNG HUYẾT THANH

Bệnh nấm: những kỹ thuật miễn dịch ngày càng chính xác cho phép phát hiện tốt hơn những mầm bệnh là nấm và những kháng thể của chúng.

Viêm nội tâm mạc do tụ cầu khuẩn: làm tăng hiệu giá kháng thể kháng acid teichoic.

Viêm nội tâmmạc do rickettsia hoặc do Chlamydia không thể chỉ chẩn đoán bằng phản ứng huyết thanh.

HUYẾT ĐỒ: tăng bạch cầu trong máu (thể cấp tính), thiếu máu đẳng sắc hồng cầu bình thường. Đôi khi tăng bạch cầu đơn nhân, giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu.

TỐC ĐỘ MÁU LẮNG: tăng.

CHỨC NĂNG THẬN: trong trường hợp viêm tiểu cầu thận, urê, Creatinin trong máu tăng, protein niệu, đái máu, trụ hạt.

XÉT NGHIỆM MIỄN DỊCH: tăng gammaglobulin huyết, giảm bổ thể, có các phức hợp miễn dịch lưu hành trong máu, yếu tố bệnh thấp dương tính sau một vài tuần diễn biến.

Xét nghiệm bổ sung: siêu âm tim qua thực quản có thể phát hiện thấy các tổn thương sùi đường kính trên 2 mm nằm ở trên van tim. Có thể thấy một khổì dao động nằm trên van hoặc trên van giả, một apxe ở cạnh van tim hoặc ở vách tim, thấy van tim giả mới hở ra. Có thể dùng siêu âm Doppler để đánh giá mức độ hở của van.

Chẩn đoán phân biệt

Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn bán cấp cần được phân biệt với những trường hợp sốt không rõ nguyên nhân (xem hội chứng này).

Tiên lượng

Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn nếu không được điều trị là một bệnh nguy kịch. Tiên lượng nặng thêm trong những hoàn cảnh sau: chẩn đoán và điều trị muộn, mầm bệnh kháng thuốc kháng sinh, thể bệnh cấy máu cho kết quả âm tính, nhiễm khuẩn van tim giả, bệnh nhân là người nghiện ma tuý, bệnh nhân được điều trị bằng thuốc ức chế miễn dịch. Tỷ lệ tử vong khoảng 10% trong trường hợp viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn do Streptococcuss viridans được điều trị và không bị biến chứng.

Điều trị

THUỐC KHÁNG SINH: điều trị phải dựa trên kết quả điểu tra vi khuẩn học của mầm bệnh và tính cảm thụ của mầm bệnh này với kháng sinh, được xác định bởi kỹ thuật pha loãng, kỹ thuật kháng sinh đồ trên đĩa là đủ tin cậy. Định lửợng nhiều lần hàm lượng thuốc kháng sinh trong máu cũng có ích. Trong những trường hợp khó khăn, phải duy trì các đỉnh nồng độ kháng sinh trong huyết thanh ít nhất cao gấp 8 lần so với giá trị hàm lượng thuốc diệt khuẩn in vitro. Bao giờ cũng phải cho thuốc kháng sinh bằng đường tiêm trong 2-6 tuần tuỳ theo mầm bệnh.

Viêm nội tâm mạc do Streptococcus viridans, do cầu khuẩn đường ruột, hoặc cấy máu âm tính: cho dùng penicillin G (500.000 đơn vị /kg/ ngày) + một loại aminosid (ví dụ gentamicin).

Viêm nội tâm mạc do phế cầu khuẩn hoặc liên cầu khuẩn nhóm A: penicillin G theo đường tĩnh mạch 10-20 triệu đơn vị / ngày, trong 4 tuần.

Viêm nội tâm mạc do tụ cầu vàng: cho dùng oxacillin 2g cứ 4 giờ một lần theo đường tĩnh mạch. Trong trường hợp bệnh nhân dị ứng với oxacillin hoặc mầm bệnh thuộc chủng kháng đa thuốc (Meti-R), thì cho vancomycin 0,5 g cứ 6 giờ một lần theo đường tĩnh mạch, nếu cần thì thêm một loại aminosid (xem: tụ cầu khuẩn).

Viêm nội tâm mạc do Staphylococcus epidermitis: vancomycin +

Viêm nội tâm mạc với van tim nhân tạo: điều trị kháng sinh phải kéo dài rất lâu và đôi khi phải phẫu thuật lại nếu tiên lượng không tốt.

Trong trường hợp có tật van tim thì mọi hiện tượng sốt không giải thích được nguyên nhân, kéo dài quá một tuần đều phải được điều trị như một trường hợp viêm nội tầm mạc nhiễm khuẩn, ngay cả khi cấy máu cho kết quả âm tính.

NGOẠI KHOA: những chỉ định đặt van tim giả trong trường hợp viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn đang tiến triển bao gồm:

Phòng ngừa viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn

Biện pháp phòng ngừa viêm nội tâm mạc được chỉ định ở những bệnh nhân có nguy cơ vãng khuẩn huyết sau khi thực hiện một can thiệp chẩn đoán hoặc điều trị.

CAN THIỆP CỐ NGUY CƠ THẤP: can thiệp ở răng hoặc ở lợi dễ gây chảy máu, can thiệp tai mũi họng, nội soi phế quản bằng ống cứng, nội soi tiêu hoá không làm sinh thiết, chọc sinh thiết gan hoăc thận, đẻ thường.

Bệnh nhân cố nguy cơ trung bình : cho dùng amoxicillin với liều 2-3g, uống một giờ trước khi can thiệp, sau đó 0,5 g cứ 6 giờ một lần trong 36 đến 48 giờ. Trong trường hợp bệnh nhân dị ứng với penicillin, thì cho erythromycin 1g, uống 2  giờ trước khi can thiệp và 0,5 g 6 giờ sau.

Bệnh nhãn có nguy cơ cao”: Amoxicillin truyền tĩnh mạch phối hợp với gentamicin hoặc vancomycin truyền tĩnh mạch hoặc tiêm bắp.

CAN THIỆP CÓ NGUY CƠ CAO: phẫu thuật sinh dục-tiết niệu hoặc dạ dày-ruột, soi bàng quang, thông bàng quang, nội sol đường tiêu hoá bằng ống mềm, sinh thiết gan, rạch và dẫn lưu mô bị nhiễm khuẩn, phẫu thuật tim.

Bệnh nhân có nguy cơ trung bình : cefazolin với liều 1-2 g truyền tĩnh mạch và gentamicin 1,5 mg/kg tiêm bắp hoặc truyền tĩnh mạch ngay trước khi làm thủ thuật hoặc phẫu thuật, cho nhắc lại hai lần cách nhau 8 glờ.

Bệnh nhân có nguy cơ cao”: amoxicillin truyền tĩnh mạch phối hợp VỚI gentamicin tiêm bắp hoặc truyền tĩnh mạch. Trong trường hợp bệnh nhân dị ứng với penicillin thi cho vancomycin truyền tĩnh mạch phối hợp với gentamicin tiêm bắp hoăc truyền tĩnh mạch.

‘Bệnh nhân có nguy cơ trung bình: tật van ba lá hoặc van động mạch phổi, sa van hai lá, bệnh cơ tim tắc nghẽn, thông liên nhĩ không có biến chứng.

“Bệnh nhân có nguy cơ cao: bệnh nhân mang van tim giả, hoặc động mạch giả, tật van động mạch chủ hoặc van hai lá, hẹp eo động mạch chủ, lỗ rò động-tĩnh mạch, thông liên thất, tứ chứng Fallot, bệnh nhân đã một hoặc nhiều lần bị viêm nội tâm mạc, bệnh nhân đang điều trị bằng thuốc ức chế miễn dịch hoặc đang được nuôi dưỡng ngoài đường tiêu hoá.

  • Suy tim cấp: nói chung do rách vỡ van động mạch chủ. Phải can thiệp cấp cứu dù tình trạng nhiễm khuẩn của bệnh nhân thế nào.
  • Suy tim tiến triển dần, khó điều trị bằng các biện pháp thông thường: nên can thiệp sau một vài ngày điều trị bằng thuốc kháng sinh liều mạnh.
  • Apxe cơ tim hoặc apxe vòng xơ của lỗ van tim.
  • Loạn nhịp, rối loạn dẫn truyền.
  • Cấy máu dương tính thường xuyên, tuy đã sử dụng liệu pháp kháng sinh thích đáng.
  • Vật nghẽn nhiễm khuẩn tái diễn nhiều lần.

VIÊM NỘI TÂM MẠC HUYẾT KHỐI KHÔNG NHIỄM KHUẨN

Những tổn thương sùi hình thành ở trên van tim và trên mặt của nội tâm mạc có thể gây ra nghẽn mạch nặng, nhất là ở các mạch của não, thận, lách, và các chi. Những tổn thương sùi được tạo nên bởi tiểu cầu và các sợi huyết (fibrin), có thể cản trở hoạt động của các van tim, thường có những vi sinh vật lưu hành trong máu đến khu trú ở bên trong, và như vậy sẽ diễn biến thành  viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn. Bệnh có thể xảy ra sau một chấn thương (do đưa ống thông catheter vào tim), hoặc xảy ra kèm theo với bệnh lupus ban đỏ rải rác (viêm nội tâm mạc hột cơm Libman-Sachs), với viêm mạch máu, với carcinom di căn và những bệnh khác nữa.

Điều trị: thuốc chống đông máu.

Nang khe mang

I. ĐỊNH NGHĨA

Nang khe mang được hình thành do sự vùi kẹt của biểu mô. Nang thường nằm ở vùng cổ bên sát bờ trước cơ ức đòn chũm.

II. NGUYÊN NHÂN

Là nang phát triển ở vùng cổ bên, được tạo nên bởi sự vùi kẹt của biểu mô khe mang trong thời kỳ bào thai.

III. CHẨN ĐOÁN

  1. Chẩn đoán xác định
    • Lâm sàng

Có khối phồng ở vùng cổ bên, kích thước thường từ 1-10cm.

Nang có hình tròn hay bầu dục, ranh giới rõ, mật độ căng và đàn hồi, di động

Nang thường phát triển chậm

  • Cận lâm sàng

X quang(MRI): Khối cản quang vùng cổ bên ranh giới rõ.

  1. Chẩn đoán phân biệt

Nang tuyến nước bọt dưới hàm: Phân biệt dựa vào các triệu chứng lâm sàng và kết quả mô bệnh học.

IV. ĐIỀU TRỊ

  1. Nguyên tắc

Phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ nang.

  1. Điều trị cụ thể

Phẫu thuật cắt bỏ nang.

Vô cảm

Rạch da vùng cổ bên.

Dùng dụng cụ thích hợp tách bóc vào

Tách bóc vỏ nang ra khỏi mô xung quanh và lấy toàn bộ

Cầm máu.

Đặt dẫn lưu kín.

Khâu đóng theo các lớp giải phẫu

Kháng sinh

V. TIÊN LƯỢNG VÀ BIẾN CHỨNG

  1. Tiên lượng

Phẫu thuật cắt bỏ nang khe mang, nếu thực hiện đúng kỹ thuật thì đều cho kết quả tốt, không tái phát.

  1. Biến chứng
    • Bội nhiễm: gây sưng tấy vùng cổ bên và dưới hàm, ảnh hưởng đến chức năng.
    • Rò cạnh cổ.

VI. PHÒNG BỆNH

Khám chuyên khoa răng hàm mặt định kỳ để phát hiện nang sớm và điều trị kịp thời.

Thất điều gia đình (Ataxia familialis) hay bệnh Friedreich

Đại cương:

+ Lịch sử :

Đây là bệnh hay gặp nhất trong nhóm các bệnh thất điều di truyền lặn theo nhiễm sắc thể thường có tổn thương ưu thế ở tủy sống. Bệnh do Friedreich of Heidelberg mô tả từ năm 1861 với cái tên “Thất điều gia đình tiển triển” thông qua sự quan sát của ông về một gia đình ở thành phố lân cận.

Trước đó, người ta đã biết người ta đã biết rằng thất điều vận động là đặc điểm lâm sàng nổi bật của giang mai tủy sống (qua các bài viết của Duchenne ở Paris). Chính Friedreich là người đã chỉ ra rằng còn có một loại thất điều không- giang mai (non-syphylitic) và có tính chất di truyền. ý kiến này của ông sớm được chính Duchenne xác minh. Sau đó còn có nhiều những thông báo về mặt bệnh này từ Anh, Pháp và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.

Năm 1882 trong một báo cáo đề tài về chủ đề này Bousse (người Montpelier) đã gọi tên bệnh là bệnh Friedreich.

Khi những ca bệnh mới tiếp tục được xác định, người ta thấy rằng: ở khoảng một nửa số bệnh nhân bệnh khởi phát trước năm 10 tuổi, đôi khi bệnh phát ở thập niên thứ 3, hoặc thứ 4 của cuộc đời. Cụ thể như:

  • Mollaret không có trường hợp nào phát bệnh sau 25 tuổi.
  • Bell và Carmichael đã chỉ ra có 2 kiểu di truyền, trong đó kiểu thường gặp di truyền lặn (autosomal recessive) theo nhiễm sắc thể thường, với tuổi phát bệnh trung bình là 11,75 tuổi. Kiểu thứ 2 là di truyền trội theo nhiễm sắc thể thường (autosomal domonant) có tuổi phát bệnh trung bình là 20,4.

Bệnh cảnh của biểu hiện Friedreich tương đối ổn định và tiến triển chắc chắn tăng dần. Chỉ trong vòng 5 năm đầu, của bệnh nhiều bệnh nhân đã không tự đi lại được. Tuổi tử vong trung bình của bệnh là 26,5 năm đối với kiểu di truyền lặn theo nhiễm sắc thể thường và 39 năm với di truyền trội theo nhiễm sắc thể thường.

+ Tỷ lệ

Friedreich chiếm ít nhất 50% số bệnh nhân thất điều di truyền. Tỷ lệ hiện hành của bệnh ở châu Âu và Hoa Kỳ tương đương nhau và vào khoảng 1 – 2 ca/100.000 dân. ở vùng Québeck tỷ lệ này có cao hơn đôi chút. Tỷ lệ giới tính nam/nữ = 1/1.

ở Việt Nam chưa thấy có số liệu thống kê về mặt bệnh này.

Bệnh căn-bệnh sinh:

  • Bệnh căn

Những nghiên cứu về di truyền ở 22 gia đình có ít nhất 3 cá thể bị bệnh cho phép kết luận rằng, nguyên nhân là do biến dị ở cặp nhiễm sắc thể thứ 9. Tuy lâm sàng có sự đa dạng về bệnh cảnh nhưng những bằng chứng hiện có cho thấy bệnh Friedreich được di truyền đơn gen.

  • Bệnh sinh.

Năm 1984 Bareau và cộng sự đã cố gắng xác định những thay đổi sinh hoá các bệnh nhân bị bệnh Friedreich. Có những bất thường chưa có thể giải thích được như tăng bilirubin trong huyết thanh, tăng bài tiết taurine trong nước tiểu và sự thay đổi thành phần lipid. Nhưng nói chung người ta cho rằng có sự thiếu hụt hoạt tính men lipoamide dehydrokinase hoặc các men khác của mitochondrien.

Lâm sàng:

Triệu chứng quan trọng nhất trong bệnh Friedreich là mất phối giống như mất phối trong bệnh Tabes. Ngoài ra còn biểu hiện ít nhiều các triệu chứng tiểu não.

Mất phối thường bắt đầu từ các chi dưới. Rối loạn đầu tiên thường gặp là dáng đi không bình thường, biểu hiện vụng về, chậm chạp, rất khó khăn, đi giống như bệnh nhân Tabes (nhấc cao chân, nện mạnh gót xuống nền nhà). Nhưng đồng thời có những nét dáng đi tiểu não (dạng rộng chân đế, lảo đảo lúc sang trái, lúc sang phải).

Dấu hiệu Romberg dương tính, nghiệm pháp gối – gót thực hiện kém. Dần dần về sau, mất phối lan ra các cơ thân, chi trên và mặt. Rối loạn ngồi (“Romberg trong tư thế ngồi”), rối loạn vận động tay và trở nên mất phối hợp vận động.

Lời nói chậm chạp, khó khăn, dạng rung giật, không đều.

Chữ viết thay đổi.

Sai tầm, mất liên động và nhiều biểu hiện khác của mất phối tiểu não.

Không kém đặc trưng là giảm và về sau mất hoàn toàn phản xạ gân xương.

Rất hay thấy run tay, run đầu, run và nhăn nhó cơ mặt.

Trương lực cơ giảm, các khớp lủng lẳng, khớp gối, khớp khuỷu duỗi quá mức, hãn hữu có co cứng chân.

Nysstagmus biên độ lớn (70% số ca).

Bàn chân Friedreich (Pes caxavaties) – lõm sâu vào bàn chân, các ngón – đặc biệt ngón cái đốt I duỗi rõ hay duỗi mạnh, các đốt khác gấp lại.

Rối loạn cảm giác: giảm cảm giác cơ-khớp chi dưới, giảm cảm giác rung.

Thường không đau, không có dị cảm.

Các dây thần kinh sọ não: theo thường lệ không bị tổn thương, tuy nhiên ở một vài bệnh nhân có thể thấy điếc, sụp mi, liệt vận nhãn, rối loạn phản xạ đồng tử, teo dây thần kinh thị, nhiễm sắc tố võng mạc.

Bại các chi cũng không phải là hiếm. Nhưng không nặng nề và chỉ thấy vào những thời kỳ muộn của bệnh. Bại mang tính chất trung ương, thường thấy triệu chứng Babinski, Rossolimo và các dấu hiệu bệnh lý bó tháp khác.

Dinh dưỡng cơ không bị tổn thương trong đa số các trường hợp. Tuy nhiên trong y văn được mô tả những trường hợp teo cơ do thoái hoá cũng như do thần kinh thấy cả phì đại giả.

Bệnh nhân bị mất phối Friedreich thường yếu ớt như trẻ em, thường có tổn thương cơ tim (tiếng tim mờ, có biến đổi điện tim). Trí tuệ phần lớn không bị ảnh hưởng.

Bệnh tiến triển tuần tự, chậm chạp. Bắt đầu thường vào tuổi 5- 15, nhưng hay có dao động sớm hoặc muộn hơn. Không có thoái lui thậm trí cũng không thấy tạm ngừng quá trình tiến triển. Mặc dù bệnh tăng tuần tiến, nhưng đôi khi bệnh nhân sống 30 – 40 năm, bệnh nhân chết chủ yếu do thiểu năng tim hay nhiễm khuẩn thứ phát.

Cận lâm sàng:

+ Giải phẫu bệnh

Các tế bào thần kinh trong cột Clark và các tế bào hạch rễ sau đặc biệt ở vùng thắt lưng cùng bị giảm đi về số lượng. Tuy nhiên mức độ giảm chưa đủ giải thích sự thoái hoá của cột sau. Các rễ sau teo nhỏ, một số trường hợp tế bào Bertz cũng giảm. Thông thường đoạn bó tháp từ vỏ não đến ranh giới hành não-tủy cổ tương đối bình thường. Còn bản thân tủy sống vùng cổ bị teo.

Các nhân dây thần kinh sọ não VIII, X, XII số lượng tế bào cũng bị giảm. Hiện tượng này còn thấy ở nhân răng (nucleus dentatus), cuống tiểu não trên và giữa.

Các sợi cơ tim bị thoái hoá và được thay thế bởi các nguyên bào sợi.

Chẩn đoán:

Chẩn đoán bệnh Fredreich dựa cơ bản vào các triệu chứng lâm sàng đã mô tả trên.

Cần chẩn đoán phân biệt với bệnh xơ não tủy rải rác: nhìn chung giống như mất phối gia đình nhưng rễ phân biệt, trước hết bệnh nhân xơ não tủy rải rác có co cứng rõ ở chân, tăng phản xạ gân xương và biến đổi dịch não tủy.

Friedreich có thể gặp ở một vài anh, chị em, nhưng bố mẹ bệnh nhân rất ít khi bị. Trong một vài trường hợp được công bố thấy 2 bố mẹ có quan hệ họ hàng thân thích với nhau. Các trường hợp đơn phát không hiếm. ở các trường hợp đó, những triệu chứng đầu tiên của bệnh thường xuất hiện sau nhiều bệnh nhiễm khuẩn cấp tính khác nhau.

Về phương thức di truyền thông thường người ta gặp di truyền theo kiểu lặn nhưng cũng có trường hợp di truyền trội.

Điều trị:

Cho tới nay đã có nhiều nghiên cứu đề cập vấn đề điều trị bệnh Friedreich, tuy nhiên những kết quả vẫn chưa đạt được như mong muốn.

  • Cholin chlorid và Lecithin không cải thiện được bệnh cảnh một cách có ý nghĩa.
  • Những nghiên cứu về tác dụng điều trị của physostigmin, γ-vinyl- γ- amino butyric acid, thyrotropin-releasing hormon và 5-hydroxytryptophan với benserazide cho thấy có thể cải thiện được tình trạng bệnh nhưng vẫn chưa được khẳng định chắc chắn.
  • Các triệu chứng tim mạch cần được điều trị khi chúng xuất hiện.
  • Công việc chỉnh bàn chân lõm có thể được tiến hành ở một số bệnh nhân khi cần thiết.

– Nói chung điều trị cơ bản là luyện tập và dùng các sinh tố.

  • Thất điều ưu thế tủy sống không phải Friedreich:

Đây là những trường hợp bệnh giống Friedreich nhưng khác ở chỗ vẫn còn (thậm chí tăng) phản xạ gân xương, các chi không bị co cứng, không có biểu hiện triệu chứng tim và không và không có gù vẹo cột sống. Tiên lượng của thất điều ưu thế tủy sống không Friedreich có phần tốt hơn.

Chẩn đoán và điều trị phục hồi chức năng cho trẻ bị xơ hóa cơ ức đòn chũm

Xơ hoá Cơ ức đòn chũm là tình trạng xơ hoá một phần cơ ức đòn chũm do tư thế bào thai hoặc tai biến khi sinh dẫn đến hạn chế tầm vận động của cột sống cổ.

CHẨN ĐOÁN

Lâm sàng

  • Dấu hiệu sớm: 0-3 tháng tuổi
  • Có khối u vùng cơ ức đòn chũm với các tính chất sau:

+ Phát hiện ngay sau sinh, cảm giác to nhanh trong những tháng đầu.

+ Không nóng, đỏ, đau, mật độ chắc.

+ Không di động được hoặc di động nhẹ theo cơ ức đòn chũm.

  • Hạn chế tầm vận động tại cổ: thường phát hiện muộn khi trẻ 2 đến 3 tháng tuổi.

+ Đầu trẻ nghiêng sang bên có khối xơ, do cơ ức đòn chũm bị xơ cứng nên không thể kéo dài ra như bên lành được.

+ Hạn chế nghiêng sang bên lành và xoay hai bên.

  • Dấu hiệu muộn: > 3 tháng tuổi
  • Có khối u như trên nhưng mật độ chắc hơn nhiều.
  • Hạn chế tầm vận động cột sống cổ rất nhiều, khối xơ khó kéo giãn.
  • Vẹo cột sống cổ, vẹo cột sống lưng, biến dạng lồng ngực.
  • Lác mắt.

Xét nghiệm

  • Chọc dò khối u thấy trên tiêu bản có hình ảnh:

Hồng cầu: giai đoạn đầu (xuất huyết).

Tế bào xơ: giai đoạn sau (xơ hoá).

Không thấy bạch cầu đa nhân hoặc tế bào ác tính.

Chẩn đoán phân biệt

Viêm hạch: sốt, sưng, nóng, đỏ đau. Chọc hạch có bạch cầu đa nhân.

Khối u vùng cổ: chọc dò khối u thấy trên tiêu bản có tế bào lành hoặc ác tính.

Vẹo cổ do còi xương, tổn thương đốt sống cổ: không có khối u, liệt dây thần kinh số

PHỤC HỒI CHỨC NĂNG SỚM

Nguyên tắc

Can thiệp ngay sau khi phát hiện khối xơ.

Hướng dẫn cho mẹ bệnh nhân tập tại nhà trong 3 tháng đầu.

Khám thường quy sau 1,2,3 tháng cho đến khi khỏi.

Điều trị tại Khoa Phục hồi chức năng sau 3 tháng tuổi nếu kết quả kém.

Mục tiêu

Làm mềm khối xơ.

Duy trì tầm vận động của cột sống cổ.

Ngăn ngừa biến dạng thứ phát xảy ra ở sọ mặt và cột sống cổ.

Kỹ thuật phục hồi chức năng

Vận động trị liệu

Bài tập 1: Xoa bóp cơ ức đòn chũm

  • Tư thế bệnh nhân:

+ Đặt nằm nghiêng sang bên không có khối xơ để bộc lộ bên có khối xơ (trên đùi KTV, hoặc trên gối), đầu bệnh nhân thấp hơn vai.

+ Đầu, vai, hông thẳng hàng theo một trục ngang.

  • Kỹ thuật:

+ Một tay KTV cố định khốp vai, hông.

+ Tay kia (bên đầu trẻ) dùng 1 hoặc 2 ngón tay xoa bóp theo chiều kim đồng hồ.

+ Thời gian: 5-10 phút/lần X 6-8 lần trong ngày.

Bài tập 2: kéo giãn cơ ức đòn chũm

  • Tư thế bệnh nhân:

+ Đặt nằm nghiêng sang bên không có khối xơ để bộc lộ bên có khối xơ (trên đùi KTV hoặc trên gối), đầu bệnh nhân thấp hơn vai.

+ Đầu, vai, hông thẳng hàng theo một trục ngang.

  • Kỹ thuật:

+ Một tay KTV cố định khớp vai, hông, kéo nhẹ khớp vai về phía hông.

+ Tay kia (bên đầu trẻ) ngón cái tỳ vào góc hàm, các ngón khác đặt vào phần xương chũm, phần dưới bàn tay tỳ nhẹ vào đầu trẻ và kéo xuống từ từ, nhẹ nhàng. Giữ khoảng 30 giây sau đó thả ra và làm lại như trên.

Chú ý: Nếu trẻ khóc, chống đối, tím tái thì dừng lại ngay.

Thời gian: 5-10 phút/lần X 6-8 lần/ngày

Có thể xen kẽ bài tập 1 và 2.

Bài tập 3: Đặt nằm nghiêng hai bên.

  • Đặt nằm nghiêng hai bên bằng cách dùng gối dài kê ở phía sau lưng (qua vai và hông) để đảm bảo trẻ nằm nghiêng hoàn toàn (tránh nằm ngửa, nghiêng đầu).
  • Thay đổi tư thế nằm nghiêng sang từng bên sau mỗi bữa ăn (hoặc 2-4 giờ/lần).

Những điểm cần lưu ý:

  • Ba bài tập trên được thực hiện cho đến khi trẻ. khỏi hoàn toàn.
  • Thực hiện khi khối u không có nóng, đỏ, đau.
  • Kéo giãn nhẹ nhàng, không kéo giãn tối đa ngay tức khắc mà kéo giãn từ từ.
  • Không tập khi trẻ khóc, chống đối.
  • Tập trước khi cho ăn.
  • Theo dõi dấu hiệu khó thở, tím tái thì ngừng tập.

Bài tập 4. Tập lẫy (khi trẻ 3 tháng tuổi)

  • Tư thế bệnh nhân: trẻ nằm ngửa trên đệm.
  • Kỹ thuật:

+ Chân phía dưới duỗi.

+ Gập khớp gối và khớp háng chân phía trên.

+ Xoay khớp háng chân bên trên ở tư thế gập gối, háng và nhẹ nhàng đưa chéo qua người trẻ.

Điện trị liệu

Dòng điện thấp tần một chiều không đổi Gavanic (Tần số 100-1000 Hz, điện thế 220V, cường độ 0,1-0,5 mA/1cm2 điện cực).

  • Chỉ định: trẻ trên 3 tháng, đã thực hiện các bài tập vận động không có kết quả.
  • Phương pháp:

+ Gavanic dẫn CaCl2 cổ: cực tác dụng: (+) CaCl2 đặt giữa C4 đến c7. Cực đệm: (-) đặt ở thắt lưng.

+ Gavanic dẫn KI vào khối xơ: cực tác dụng (-) đặt ở khối xơ.

Cực đệm (+) đặt giữa C4 – c7.

Phẫu thuật chỉnh hình

Chỉ định: trẻ trên 2 tuổi, vẹo cổ nặng. Không quay được cổ sang bên có khối xơ.

Chế độ ăn và phòng bệnh Tai biến mạch máu não

Tai biến mạch máu não là một bệnh nặng gây tỷ lệ tử vong cao, đặc biệt đối với người cao tuổi. Vì vậy, đối với những người có nguy cơ tai biến mạch máu não, thầy thuốc cần hướng dẫn các phương pháp dự phòng bệnh tật một cách cụ thể, hợp lý.

Các phương pháp dự phòng thường áp dụng đối với những người có nguy cơ tai biến mạch máu não bao gồm:

Quản lý bệnh tật có liên quan

  • Cần chú ý theo dõi sự thay đổi về mạch, huyết áp, đường huyết, trạng thái tinh thần, hô hấp… với những người có tiền sử về một trong các bệnh: tăng huyết áp, đái tháo đường, vữa xơ động mạch, viêm động mạch, các bệnh về tim… Dùng thuốc hợp lý để có thể kiểm soát được huyết áp, đường máu, hạn chế nguy cơ tai biến mạch máu não.
  • Khám sức khoẻ định kỳ để phát hiện và kiểm soát những yêu tố nguy cơ có liên quan đến tai biến mạch máu não.

Ăn uống

Thầy thuốc cần hướng dẫn những người có nguy cơ tai biến mạch máu não thực hiện chế độ ăn uống để dự phòng tai biến mạch máu não như sau:

  • Hạn chế bột lọc, chất béo, muối. Đặc biệt là hạn chế muối đối với người tăng huyết áp. Chỉ nên ăn khoảng 1g muối/ngày, đủ để đáp ứng cho các nhu cầu sinh lý của cơ thể. Người bình thường có nhu cầu ăn khoảng 3 – 8g muối/ngày. Vì vậy, để hạn chế muối đưa vào cơ thể, người bệnh cần điều chỉnh giảm dần, giúp cơ thể thích nghi với tình trạng mới.
  • Hạn chế ăn các loại thịt, trứng.
  • Nên ăn các loại thức ăn có nhiều chất xơ, chất khoáng.
  • Chủ yếu sử dụng các loại ngũ cốc sơ chế như: ngô, đậu… vì trong đó có nhiều loại muối vô cơ và các chất vi lượng. Đặc biệt, lượng protein trong các loại đậu khá cao.
  • Nên ăn các loại rau có màu xanh thẫm.
  • Tốt nhất nên sử dụng các loại thức ăn tươi, không nên chế biến quá kỹ, sẽ làm mất các vi lượng cần thiết cho cơ thể.
  • Các loại quả cũng có vai trò quan trọng như các loại rau. Tuy nhiên, không nên ăn quá nhiều hoa quả vì lượng đường trong đó khá cao.
  • Nên sử dụng các loại sữa có hàm lượng cholesterol thấp, lòng trắng trứng, các loại cá.
  • Nên ăn các loại nấm như: nấm Bác Khẩu, nấm hương, mộc nhĩ… vì trong thành phần của nấm có nhiều acid
  • Trong thành phần của các loại rong biển như côn bố, tảo tía… chứa các chất có tác dụng chống ngưng tập hồng cầu, do đó có thể dự phòng nhồi máu não cục bộ do cục máu đông.

    Côn bố món ăn vị thuốc phòng bệnh tai biến mạch máu não
    Côn bố món ăn vị thuốc phòng bệnh tai biến mạch máu não
  • Để dự phòng tai biến mạch máu não cũng cần chú ý: không nên ăn quá no vì như vậy sẽ làm tăng lưu lượng máu và ảnh hưởng đèn hoạt động của các cơ quan trong cơ thể, dễ gây tai biến mạch máu não.

Tâm lý

Để dự phòng tai biến mạch máu não, cần giữ cho tinh thần được thư thái, tránh cáu giận quá mức hoặc tránh gây ra các stress đối với những người có nguy cơ cao.

Sinh hoạt

Thầy thuốc cần hướng dẫn những người có nguy cơ cao thực hiện chế độ sinh hoạt đúng mức để dự phòng tai biến mạch máu não, bao gồm:

  • Có chế độ làm việc, tập luyện kết hợp với chế độ nghỉ ngơi hợp lý, tránh gây căng thẳng đầu óc, làm việc quá sức.
  • Nên tham gia các hoạt động mang tính chất thư giãn như: trồng hoa, chăm nuôi súc vật, các hoạt động đoàn hội phù hợp…
  • Đối với người cao tuổi, cần chú ý đến sự thay đổi khí hậu để có chế độ sinh hoạt phù hợp, chống táo bón để hạn chế tai biến mạch máu não.

Luyện tập

  • Đối với những người có nguy cơ cao đối với bệnh tai biến mạch máu não, thầy thuốc cần hướng dẫn thực hiện chế độ luyện tập thích hợp để tăng cường sức khoẻ, hạn chế đến mức thấp nhất khả năng bị tai biến mạch máu não.
  • Với những người đã từng bị tai biến mạch máu não: hướng dẫn người bệnh tập vận động tay nhẹ nhàng, giúp tăng cơ lực của bàn tay; tập đi bộ vừa sức… là cách phòng tránh tái phát tai biến mạch máu não.

Phòng bệnh tai biến mạch máu não theo y học cổ truyền

Các phương pháp dự phòng tai biến mạch máu não bao gồm chế độ ăn uống, quản lý bệnh tật có liên quan… chúng tôi đã trình bày trong phần y học hiện đại. Trong phần này, chúng tôi đề cập đến các phương pháp dự phòng theo y học cổ truyền.

  • Để dự phòng tai biến mạch máu não, thầy thuốc cần thực hiện công tác tư vấn để người bệnh luôn có thái độ tâm thần đúng mực trong cuộc sống, giữ cho tinh thần được thư thái, tránh cáu giận quá mức làm ảnh hưởng đến chức năng sơ tiết của tạng can, dễ gây động phong.
  • Đối với những người có nguy cơ cao đối với bệnh tai biến mạch máu não: hướng dẫn người bệnh luyện tập khí công dưỡng sinh ở mức độ phù hợp có tác dụng tăng cường sức khoẻ, giúp tinh thần thư thái, hạn chế đến mức thấp nhất khả năng bị tai biến mạch máu não.
  • Với những người đã từng bị tai biến mạch máu não: hướng dẫn người bệnh thực hiện các bài tập luyện ý và luyện thở của khí công dưỡng sinh. Đây là cách phòng tránh tái phát tai biến mạch máu não hữu hiệu của y học cổ truyền.

Để thực hiện tốt công tác dự phòng, thầy thuốc nên hướng dẫn người bệnh thực hiện các phương pháp dự phòng kết hợp y học hiện đại và y học cổ truyền một cách hợp lý để tăng tính hiệu quả trong việc phòng bệnh tai biến mạch máu não.

  • Tóm lại: tai biến mạch máu não là tình trạng bệnh cấp tính, nguy hiểm, là một trong những nguyên nhân gây tỷ lệ tử vong cao ở người cao tuổi. Nguyên nhân chủ yếu do tăng huyết áp, đái tháo đường, một số bệnh tim mạch, bệnh mạch máu ngoại biên, rối loạn lipid máu, lạm dụng thức uống có cồn (rượu, bia), rối loạn chức năng đông máu. Khi xảy ra tai biến mạch máu não, cần thiết phải xử trí cấp cứu đối với bệnh nhân để giảm đến mức thấp nhất khả năng tử vong. Cùng với xử trí cấp cứu, cần áp dụng các biện pháp dinh dưỡng, chăm sóc, luyện tập một cách hợp lý để tránh bội nhiễm thứ phát, đồng thời giúp bệnh nhân phục hồi chức năng, giảm nhẹ di chứng, cần kết hợp các phương pháp dự phòng của Y học cổ truyền và Y học hiện đại để tăng tính hiệu quả trong việc phòng bệnh tai biến mạch máu não.

Chẩn đoán và điều trị Viêm cầu thận cấp tính

Chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt

Chẩn đoán:

Dựa vào tiêu chuẩn sau:

  • Phù.
  • Đái ra máu đại thể hoặc vi thể.
  • Protein niệu (++).
  • Tăng huyết áp.
  • Xuất hiện sau nhiễm liên cầu khuẩn vùng họng hoặc ngoài da, ASLO (+); xảy ra ở trẻ em .

Tiêu chuẩn bắt buộc là protein niệu và hồng cầu niệu, kết hợp với dấu hiệu nhiễm liên cầu khuẩn.

Chẩn đoán phân biệt:

  • Viêm cầu thận do IgA: bệnh Berger do Berger mô tả 1968; biểu hiện lâm sàng là viêm cầu thận mạn tính, đái ra máu đại thể có tính chất chu kỳ.
  • Đợt bột phát của viêm cầu thận mạn tính tiên phát, cũng có thể bột phát sau nhiễm khuẩn nhưng không có mối liên quan chặt chẽ với nhiễm khuẩn, chỉ cần sốt một vài ngày đã xuất hiện bệnh cảnh của viêm cầu thận. Bệnh thường gặp ở người lớn tuổi, không tự hồi phục trong vòng 6 tháng.

Điều trị Viêm cầu thận cấp tính

Chế độ nghỉ ngơi:

Bệnh nhân cần được nghỉ ngơi tại phòng trong thời gian bệnh tiến triển cho đến lúc protein niệu âm tính. Không làm việc nặng, tránh nhiễm lạnh và tránh bị nhiễm khuẩn thêm (bệnh tái phát với bất kỳ một nhiễm khuẩn nào kể cả nhiễm virut) và không nên tiếp xúc với người nhiễm khuẩn cấp tính có tính lây truyền. Nhiễm khuẩn, nhiễm lạnh, lao động nặng là những yếu tố nguy cơ gây tái phát.

Kháng sinh:

Kháng sinh chống liên cầu khuẩn nhằm mục đích loại nguồn cung cấp kháng nguyên cho sự hình thành phức hợp miễn dịch. Kháng sinh thường dùng là:

Penicillin 2.000.000 đv/ngày, tiêm bắp thịt làm 2 lần (thử phản ứng trước khi tiêm). Penixilin vẫn có hiệu quả với liên cầu khuẩn, vừa kinh tế và hiệu quả. Nếu có phản ứng với penicillin thì có thể dùng:

Rovamycin 3.000.000 đv/ngày (với trẻ em) và 6.000.000 đv/ngày (với người lớn). Hoặc erythromycin 1g/ngày (đối với trẻ em) và 2g/ngày (đối với người lớn).

Điều trị phù:

Phù nhẹ và thường đáp ứng tốt với lợi tiểu furosemid với liều 40 mg ´ 2-3 viên/ngày, chia làm 2 lần, uống để duy trì lượng nước tiểu trên 1000ml/ngày.

Nếu đáp ứng kém hoặc kèm theo tăng huyết áp kịch phát, kèm theo suy tim cấp tính thì nên cho furosemid tiêm bắp thịt hoặc tĩnh mạch 1-2 ống/ngày.

Điều trị tăng huyết áp:

  • Chỉ cần dùng lợi tiểu furosemid, khi bệnh nhân đa niệu thì có thể tự điều chỉnh huyết áp trở về bình thường 110/70 – 120/80
  • Nếu huyết áp vẫn tăng, có thể cho kết hợp với các thuốc ức chế bêta hoặc ức chế Có thể lựa chọn một trong các thuốc sau:

. Tenormin 50-100 mg/ngày.

. Concor 5 mg/ngày.

. Adalat (nifedipin) 10 mg ´ 1-2 v/ngày.

. Plendil 5mg ´ 1 v/ngày.

. Amlor 5mg ´ 1 v/ngày.

Đối với trẻ em, nên dùng 1/2 liều trên hoặc điều chỉnh theo cân nặng.

Điều trị suy thận cấp:

  • Lasix 20 mg ´ 1-2 ống, tiêm tĩnh mạch, tăng liều dần cho đến lúc đáp ứng, duy trì nước tiểu trên 1000

-Truyền dung dịch glucose 30% ´ 300-500 ml + 15 đơn vị insulin nhanh, truyền tĩnh mạch 40 giọt/phút.

  • Dung dịch Nabica 1,25% ´ 250 ml, truyền tĩnh mạch 40 giọt/phút.

Trong điều trị suy thận cấp, cần phải cân bằng lượng nước ra và lượng nước vào để tránh ngộ độc nước. Nếu bệnh nhân không đi lỏng, không nôn thì số lượng dịch cần truyền bằng số lượng nước tiểu + 500-700 ml.

Điều trị dự phòng:

  • Giải quyết các ổ nhiễm khuẩn mạn tính, đặc biệt là những nhiễm khuẩn mạn tính ở vùng họng; cắt Amydal hốc mủ, điều trị viêm tai giữa…, giải quyết tình trạng chốc đầu, những nốt nhiễm khuẩn sưng tấy làm mủ ngoài
  • Dùng kháng sinh: penicillin chậm 1,2 triệu đv/ngày. Mỗi tháng tiêm bắp thịt một lần, tiêm trong vòng 6 tháng.
  • Không lao động quá mức, tránh nhiễm khuẩn, nhiễm lạnh; đặc biệt là trong 6 tháng đầu.

Phụ giúp thầy thuốc khám bệnh nhân tâm thần

BỐ TRÍ PHÒNG KHÁM CHO BỆNH NHÂN TÂM THAN

Phòng khám là nơi tiếp đón bệnh nhân đầu tiên, đa số các bệnh nhân tâm thần tự cho mình không bị bệnh nên từ chổi sự khám bệnh, vì vậy cách bố trí phòng khâm phải làm cho bệnh nhân có cảm giác dễ chịu thoải mái, yên tâm và hợp tác để thầy thuốc khám bệnh. Cách bố trí phòng khám phải gọn gàng, sạch đẹp, màu sắc phải hài hoà dễ chịu để làm giảm bớt sự căng thẳng về tâm thần cho bệnh nhân.

Thái độ, lời nói, cử chỉ của nhân viên y tế đón tiếp bệnh nhân phải niềm nở, ân cần, chu đáo, nhẹ nhàng và thực sự tôn trọng bệnh nhân để bệnh nhân tin tưởng và hợp tác khám bệnh.

PHỤ THẦY THUỐC KHÁM BỆNH NHÂN TÂM THẦN

Hướng dẫn chi tiết cho gia đình bệnh nhân khai báo đầy đủ và chính xác về tiền sử, bệnh sử tâm thần của bệnh nhân.

Giải quyết các thủ tục hành chính cần thiết: Ghi chép vào sổ khám bệnh đầy đủ các mục (tên, tuổi, nghề nghiệp, quê quán, nơi giới thiệu bệnh nhân…).

Kiểm tra mạch, nhiệt độ, huyết áp và đánh giá toàn trạng bệnh nhân để báo cáo thầy thuốc.

Thực hiện y lệnh của thầy thuốc một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời.

Cùng với thầy thuốc xử trí tích cực và kịp thời các trường hợp bệnh nhân cấp cứu.

HƯỚNG DẪN BỆNH NHÂN VÀ NGƯỜI NHÀ BỆNH NHÂN SỬ DỤNG THUỐC.

  • Giải thích cho người nhà bệnh nhân biết phần lớn các thuốc điều trị bệnh tâm thần là thuốc độc nên phải quản lý chặt chẽ, không để cho bệnh nhân tự động lấy thuốc uống để phòng trường hợp bệnh nhân uống quá liều hoặc bệnh nhân tự sát.

Căn dặn người nhà của bệnh nhân cho bệnh nhân uống thuốc đều đặn hàng ngày (thông thường uống sau khi ăn và buổi tối trước khi đi ngủ), uống đủ liều và uống đúng giờ quy định.

  • Nói rõ cho người nhà bệnh nhân biết các biến chứng và các tác dụng phụ của thuốc an thần kinh (như táo bón, khô miệng, khó nuốt, chảy dãi, chân tay run…) để người nhà yên tâm và khi thấy bệnh nhân có biểu hiện khác thường như mẩn ngứa, dị ứng, đi loạng choạng,., thì phải báo cáo ngay cho thầy thuốc để xử trí kịp thời.
  • Căn dặn bệnh nhân và người nhà phải đưa bệnh nhân đến khám đầy đủ, đều đặn theo định kỳ để thầy thuốc điều chỉnh lại thuốc và có hướng điều trị thích hợp.

CHUẨN BỊ DỤNG CỤ, PHƯƠNG TIỆN, BỆNH NHÂN VÀ PHỤ THẦY THUỐC LÀM CÁC THỦ THUẬT, THEO DÕI, CHĂM SÓC BỆNH NHÂN SAU KHI LÀM THỦ THUẬT

Sốc điện

Sốc điện là một liệu pháp điều trị bằng cách cho một dòng điện qua não để gây cơn co giật (giống cơn động kinh) nhưng không gây tổn thương tế bào não. Sau khi sốc điện trạng thái tâm thần của bệnh nhân tốt hơn trước khi sốc điện.

Chỉ định sốc điện chủ yếu cho những bệnh nhân trầm cảm nặng có ý tưởng hành vi tự sát, trạng thái căng trương lực trong bệnh tâm thần phân liệt, hoang tưởng, ảo giác hoặc kích động ở bệnh nhân tâm thần mạn tính mà điều trị bằng thuốc không có kết quả.

  • Chuẩn bị dụng cụ:

Kiểm tra lại máy sốc, điện cực, dây điện một lần nữa trước khi làm sốc điện để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho bệnh nhân và nhân viên y tế.

Quan sát lại xem trong phòng sốc điện đã đầy đủ các phương tiện và dụng cụ để tiến hành sổc điện.

+ Bình oxy và dụng cụ cấp cứu, thuốc cấp cứu.

+ Past để bôi vào điện cực (nếu không có past có thể dùng nước muối 0,9%. Tẩm vào gạc để thay thể).

+ Gạc hoặc băng cuộn để ngáng lưỡi.

+ Gối kê lưng, khăn mặt để lau đờm dãi cho bệnh nhân.

  • Chuẩn bị bệnh nhân:

Giải thích cho bệnh nhân và người nhà bệnh nhân để họ yên tâm.

Dặn bệnh nhân nhịn ăn trước khi sốc điện ít nhất 3 giờ để tránh tình trạng thức ăn trào ngược vào đường hô hấp khi sốc điện.

Bệnh nhân đi đại tiểu tiện trước khi sốc điện.

Tháo răng giả (nếu có), tháo các đồ trang sức trên người bệnh nhân để đề phòng tai biến có thể xảy ra.

Kiểm tra mạch, nhiệt độ, huyết áp của bệnh nhân trước khi sốc điện. Nếu thấy bất thường phải báo ngay với thầy thuốc.

Tuyệt đối không cho người nhà vào phòng sốc điện, dặn họ chò ở ngoài đến khi bệnh nhân tỉnh mới cho vào tiếp xúc.

  • Phụ thầy thuốc làm sốc điện:

Thông thường một kíp sôc điện ít nhất là 3 người: Bác sĩ chỉ huy chung và bấm máy, một người phụ giữ vai bệnh nhân và điều chỉnh ngáng lưỡi trong khi sốc, một người phụ giữ điện cực đặt vào hai bên thái dương của bệnh nhân.

Đặt bệnh nhân nằm ngửa trên giường một cách thoái mái, kê gối thấp dưới lưng bệnh nhân để đề phòng tai biến trật cột sống khi bệnh nhân lên cơn co giật, cho ngáng lưỡi vào giữa hai hàm răng bệnh nhân để bệnh nhân không cắn vào lưỡi, bảo bệnh nhân nhắm mắt lại, tay để thẳng dọc theo hai bên hông, cởi thắt lưng, khuy áo của bệnh nhân.

Bôi past vào hai điện cực, sau đó đặt hai điện cực vào hai bên thái dương bệnh nhân.

Thầy thuốc điều chỉnh đồng hồ của máy sốc cho phù hợp với bệnh nhân, cắm điện vào máy sốc, bấm nút điện trên máy sốc.

Người phụ giữ hai vai bệnh nhân, để các chi ở tư thế thoải mái đề phòng gãy xương, trật khớp.

Khi bệnh nhân hết cơn co giật thì rút gối ở lưng ra và kê gối lên đầu cho bệnh nhân, đặt đầu bệnh nhân nghiêng sang một bên, rút ngáng lưỡi. Nếu có đờm dãi thì lấy khăn mặt lau sạch cho bệnh nhân và kiểm tra xem bệnh nhân có bị xây xát không ?

Thông thường sau cơn co giật bệnh nhân có rối loạn ý thức trong một thời gian ngắn và sau đó bệnh nhân sẽ ngủ. Nhưng có một số trường hợp bệnh nhân sau làm sốc điện còn ở trong tình trạng ú ố quờ quạng, lúc này bệnh nhân không biết gì nên phải giữ bệnh nhân nằm yên tại giường cho đến khi bệnh nhân tỉnh hoàn toàn mới thôi để tránh tai biến.

Thu dọn dụng cụ máy móc.

  • Theo dõi, chăm sóc bệnh nhân sau sốc điện:

Nếu chuẩn bị tốt, chỉ định đúng, tiến hành đúng thao tác thì sẽ không xảy ra những tai biến do sốc điện (gãy xương, trật khớp, ngừng thở lâu….). Khi có tai biến xảy ra thì phải tiến hành xử trí kịp thời.

Trật khớp vai: Phải nắn vào đúng phương pháp và kịp thời.

Ngừng thở lâu: ấn nhẹ vùng trên rốh phía dưới lồng ngực vài lần để kích thích bệnh nhân thở. Thông thường ấn vài lần là bệnh nhân có thể thở được bình thường. Nếu ngừng thở kéo dài hơn thì phải cho thở oxy và làm hô hấp nhân tạo đồng thồi dùng thêm thuốc trợ hô hấp.

Nếu bệnh nhân có trạng thái lú lẫn hoặc ú ở vật vã quò quạng thì- phải giữ bệnh nhân tại giường cho đến khi bệnh nhân tỉnh hẳn mới thôi.

Nếu bệnh nhân ra đờm dãi nhiều phải lau sạch cho bệnh nhân và đặt đầu nghiêng sang một bên. Nếu bệnh nhân có nhiều mồ hôi phải lau sạch và thay quần áo cho bệnh nhân.

Kiểm tra lại mạch, nhiệt độ, huyết áp và nhịp thồ của bệnh nhân, nếu thấy bất thường phải báo ngay thầy thuốc để xử trí.

Ngoài ra sau khi sốc điện bệnh nhân có thể nhức đầu, đau lưng, giảm trí nhớ, mệt mỏi… cần phải giải thích cho bệnh nhân và người nhà yên tâm và các triệu chứng trên sẽ mất dần sau một thời gian ngừng sốc điện.

Liệu pháp tâm lý

Liệu pháp tâm lý là phương pháp tác động của người thầy thuốc một cách tích cực, có hệ thống vào tâm thần người bệnh thông qua lòi nói, thông qua các yếu tố tiếp xúc khác.

Liệu pháp tâm lý là liệu pháp cần được áp dụng từ lúc bệnh nhân đặt chân đến phòng khám và phải được tiếp tục duy trì trong suốt quá trình bệnh nhân điều trị tại bệnh viện đến khi bệnh nhân ra viện điều trị ngoại trú. Liệu pháp tâm lý bao gồm liệu pháp tâm lý gián tiếp và liệu pháp tâm lý trực tiếp.

  • Liệu pháp tâm lý gián tiếp:

Là liệu pháp sử dụng tác động tâm lý thông qua môi trường xung quanh, nó bao gồm toàn bộ công tác tổ chức bệnh viện, các quy tắc chế độ chuyên môn, thái độ của nhân viên y tế… Liệu pháp tâm lý gián tiếp nhằm mục đích làm cho bệnh nhân tin tưởng vào chuyên môn, yên tâm điều trị, tạo không khí thoải mái, dễ chịu cho bệnh nhân, từ đó mất dần những triệu chứng thứ phát lo âu, suy nghĩ, buồn rầu, sợ hãi, hiểu nhầm sinh ra.

Trong liệu pháp tâm lý gián tiếp, vấn đề cấu trúc bệnh viện đóng vai trò quan trọng, lậm cho bệnh nhân mất ấn tượng bị giam giữ khi điều trị tại bệnh viện. Bệnh viện sạch sẽ, gọn gàng, vệ sinh, trật tự tạo cảm giác cho bệnh nhân dễ chịu, thoái mái trong khi điều trị.

Khi khám bệnh, làm xét nghiệm, thủ thuật, tiêm truyền… phải đảm bảo làm đúng theo các quy tắc chế độ chuyên môn, tiến hành một cách nhẹ nhàng. Các thủ thuật trong bệnh viện cố gắng thực hiện nhằm giải phóng bệnh nhân tâm thần đến mức tôi đa, tránh trói buộc và có hành vi thô bạo với bệnh nhân. Các thủ thuật phải được tiến hành ở phòng riêng kín đáo. Khi tiếp xúc với bệnh nhân tâm thần cần tránh thái độ sỢ sệt hoặc coi thường bệnh nhân. Khi đón tiếp bệnh nhân phải niềm nỏ, ân cần và chỉ dẫn chu đáo. Đồng thời cần phải thường xuyên hướng dẫn bệnh nhân lao động và vui chơi giải trí thích hợp, từ đó duy trì được mối quan hệ thân mật gần gũi với bệnh nhân, kịp thời nắm được những diễn biến tâm lý phức tạp của bệnh nhân như cảm giác bị bọ rơi, sinh ra lo lắng sợ hãi.

Phải đảm bảo môi trường “Vô khuẩn về tâm lý”, một lời nỏi của nhân viên phục vụ phải ăn khớp với nội dung lòi nói của thầy thuốc. Những lòi nói không khéo, những tiếng cười thiếu ý thức, những lòi giải thích không có trách nhiệm… có thể làm mất tác dụng của liệu pháp tâm lý rất công phu của thầy thuốc.

Thái độ của nhân viên y tế cần đúng mực, niềm nở, chỉ dẫn tỉ mỉ, chu đáo, tận tình sẽ tác động tốt đến tâm thần của bệnh nhân.

  • Liệu pháp tâm lý trực tiếp:

Là liệu pháp dùng lời nói trực tiếp tác động vào tâm thần của bệnh nhân để chữa bệnh. Liệu pháp tâm lý trực tiếp bao gồm: Giải thích hợp lý, ám thị khi thức, ám thị trong giấc ngủ thôi miên, tự ám thị và thư giãn luyện tập. Trong các liệu pháp tâm lý trực tiếp, uy tín người thầy thuốc đóng vai trò hết sức quan trọng. Lời nói của thầy thuốc tác động trực tiếp lên tâm thần bệnh nhân và có tác dụng làm mất các triệu chứng bệnh.

Nhân viên y tế phải có mặt trong bất cứ liệu pháp tâm lý trực tiếp nào của thầy thuốc để làm cho bệnh nhân yên tâm, tin tưởng tiếp thu lời nói của thầy thuốc, gây ấn tượng mạnh mẽ cho bệnh nhân.

Trong khi thực hiện liệu pháp, nhân viên phục vụ phải tỏ ra hết sức tôn trọng người thầy thuốc ((thực hiện y lệnh đầy đủ, chính xác và kịp thời), lời nói và cử chỉ nhẹ nhàng, lịch thiệp, phối hợp ăn khớp với thầy thuốc.

  • Nhân viên phục vụ có mặt và phụ thầy thuốc trong khi tiến hành các liệu pháp, còn đóng vai trò thực hiện các động tác phụ trợ để làm tăng tác dụng tâm lý chữa bệnh của lòi nói như: dùng các thuốc kích thích, tiêm thuốc, châm cứu, bấm huyệt…
  • Trong phương pháp thư giãn luyện tập bao gồm các bài “Tâm thần thư thái”, “Giãn mềm cơ bắp” và “Sưởi ấm cơ thể” mà chủ yếu là cơ chế tự ám thị phối hợp với phương pháp luyện tập thở bụng kiểu khí công và một số tư thế YOGA.
  • Liệu pháp tâm lý trực tiếp bao gồm nhiều liệu pháp, thầy thuốc chỉ định liệu pháp tuỳ theo từng bệnh nhân cụ thể. Nhân viên y tế phụ thầy thuốc tuyệt đối không được phát ngôn bừa bãi hoặc giải thích vô trách nhiệm, trái với lời nói của thầy thuốc sau khi đã tiến hành xong liệu pháp.

Trong quá trình phụ thầy thuốc làm các liệu pháp, nhân viên y tế phụ thầy thuốc cần phải biết cách động viên, an ủi và khích lệ bệnh nhân đúng lúc, đúng chỗ và kịp thời làm cho bệnh nhân tin tưởng tuyệt đối vào kết quả chữa bệnh của liệu pháp.

Hội Chứng Guillain-Barré (viêm đa rễ thần kinh cấp tính)

Tên khác: viêm đa rễ thần kinh cấp tính, viêm đa rễ thần kinh chữa được hoặc sau nhiễm khuẩn, hội chứng Guillain-Barré-Strohl.

Định nghĩa

Viêm đa rễ dây thần kinh có đặc điểm là chủ yếu gây ra những rối loạn vận động với diễn biến cấp tính.

Tỷ lệ mắc bệnh

Tỷ lệ mới mắc bệnh hàng năm được ước lượng là từ 0,75 đến 2 trường hợp trong 100.000 dân.

Căn nguyên

Có những tổn thương mất bao myelin (vỏ lipid hoặc mỡ bao quanh những sợi thần kinh) của rễ những dây thần kinh do trong cơ thể xuất hiện những kháng thể kháng một số kháng nguyên nào đó trong thành phần của myelin (phản ứng tự miễn). Trong 2/3 số trường hợp, trước khi những triệu chứng đầu tiên của bệnh xuất hiện vài ngày hoặc hàng tuần, người ta thấy bệnh nhân đã bị một bệnh kín đáo do nhiễm virus đường hô hấp hoặc một bệnh đường dạ dày-ruột, nhất là nhiễm Campylobacter jejuni.

Giải phẫu bệnh

Dọc những dây thần kinh ngoại vi, những rễ dây thần kinh và thường cả những dây thần kinh sọ não, có những vùng mất vỏ myelin từng đoạn và đa ô, và có thâm nhiễm tế bào lympho.

Triệu chứng

RỐI LOẠN VẬN ĐỘNG: xuất hiện nhanh chóng, không có sốt, tình trạng suy giảm vận động thuộc typ ngoại vi với liệt mềm và đối xứng, bắt đầu từ hai chi dưới và có thể lan tới thân người, tới hai chi trên và mặt (liệt mặt hai bên). Liệt rõ rệt ở những đoạn gần đầu chi hơn, so với đoạn gần gốc chi. Thường mất phản xạ gân. Những phản xạ nông còn giữ được. Những rối loạn vận động diễn biến trong 7 tới 10 ngày, rồi thuyên giảm tự nhiên trong đa số trường hợp.

RỐI LOẠN CẢM GIÁC: đau cơ, cảm giác kiến bò và dị cảm ở gần đầu các chi, tiếp theo bởi đau kiểu đau dây thần kinh, đôi khi thành cơn kịch phát và khó chịu đựng. Giảm hoặc mất cảm giác theo vùng phân bố phụ thuộc các rễ dây thần kinh bị viêm.

RỐI LOẠN THẦN KINH THỰC VẬT: Có những cơn tăng huyết áp động mạch, cơn nhịp tim nhanh.

  • Thường hay thấy một đôi dây thần kinh sọ nào đó bị viêm.
  • Thể sợi trục cấp tính: xảy ra thành dịch địa phương ở một vài vùng nông thôn ở Trung Quốc, và tác động đến trẻ em và trẻ vị thành niên.

Xét nghiệm cận lâm sàng

Xét nghiệm dịch não tủy cho thấy tăng protein (tăng protein dịch não tuỷ), nhưng các tế bào không tăng đồng thời (phân ly albumin-tế bào).

Xét nghiệm bổ sung: giảm tốc độ dẫn truyền xung thần kinh. Không có phản ứng điện thoái hoá.

Chẩn đoán phân biệt

Với những bệnh dây thần kinh thứ phát (do uống rượu, trong bệnh đái tháo đường, trong bệnh ung thư).

Biến chứng

  • Liệt tiến lên hoặc hội chứng Landry:liệt mềm bắt đầu từ hai chi dưới rồi tiến lên nhanh tới các cơ hô hấp, đôi khi chỉ trong 24-48 giờ đầu tiên, và có khi phải làm hô hấp hỗ trợ (thở máy).
  • Liệt cơ của khẩu-hầu (họng- miệng):gây ra những rôl loạn động tác nuốt và đôi khi phải đặt ống nội khí quản vì suy giảm hô hấp.
  • Nghẽn mạch phổi.
  • Di chứng:suy giảm vận động vừa phải trong 1/3 số trường hợp, nặng trong 10% trường hợp, đôi khi suy giảm các cơ ở mặt.

Tiên lượng: trong 15-20% trường hợp, bệnh nhân phải thông khí hỗ trợ, và 5-10% trường hợp để lại di chứng, đặc biệt là di chứng yếu cơ.

Điều trị

  • Theo dõi hàng ngày tình trạng hô hấp và cho bệnh nhân nhập viện cấp cứu khi có rối loạn hô hấp.
  • Cho immunoglobulin theo đường tĩnh mạch hoặc thay huyết tương (4-6 lần trong một thời kỳ từ 8-14 ngày): những biện pháp này đã cho kết quả khả quan, nhất là khi được thực hiện sớm (trong vòng 2 tuần đầu sau khi bệnh khởi phát).
  • Những biện pháp toàn thân: duy trì cân bằng nước-điện giải, tập vận động thụ động các khớp xương, sau đó phục hồi chức năng bằng liệu pháp vận động.
  • Heparin đã được đề nghị sử dụng trong khi bệnh nhân vẫn phải nằm tại giường bệnh và không có chống chỉ định.

GHI CHÚ: với thuật ngữ Hội chứng Fisher hoặc hội chứng Miller- Fisher, người ta đã mô tả một biến thể của hội chứng Guillain-Barré có đặc điểm liệt mắt phía bên ngoài, kết hợp với thất điều và mất phản xạ gân. Trong huyết thanh của bệnh nhân có kháng thể kháng GQlb.

Viêm đa rễ dây thần kinh mạn tính là một bệnh tương tự, nhưng có tiên lượng xấu hơn so với hội chứng Guillain-Barré: người ta đã mô tả những trường hợp phối hợp với u tế bào lympho. Corticoid là thuốc đầu bảng trong điều trị; nếu không thành công thì có thể thay bằng azathioprin.

Bệnh thần kinh myelin mạn tính có IgM đơn clôn, là bệnh thể hiện bởi mất bao myelin nặng với những rối loạn vận động và cảm giác tiến triển. Interferon alpha hình như có hiệu quả cải thiện những dấu hiệu thần kinh trong một nửa số trường hợp.

Người ta gọi là viêm rễ dây thần kinh-màng tủy những bệnh có đặc tính viêm màng tủy và viêm rễ của các dây thần kinh, gặp trong những hoàn cảnh thâm nhiễm tế bào ác tính (có thể tìm thấy tế bào bất thường trong nước não tuỷ), trong những bệnh nhiễm virus (HIV, nhiễm virus cự bào, nhiễm virus bệnh thuỷ đậu và zona) cũng như trong bệnh Lyme.

Bệnh Sán Lá Gan nguy hiểm như thế nào

Theo các nhà y học khẳng định bệnh sán lá gan ở người là do không tuân thủ ăn uống chín, rau sống không được ngâm nước muối hoặc nước có pha thuốc tím, không có điều kiện rửa rau dưới vòi nước chảy mạnh, cho nên có thể mắc phải bệnh sán lá gan.

Bệnh sán lá gan sẽ gây ra những biến chứng làm cho bệnh nhân thiếu máu, viêm đường mật, hạn chế lưu thông mật và các tác hại khác do sán lá gan gây nên. Bệnh nhân sẽ mất ngủ, kém ăn, dẫn đến suy nhược, lo lắng, suy sụp tinh thần vì không chẩn đoán đúng và điều trị đúng. Nhiều khi các bác sĩ dễ nhầm bởi do bệnh sán lá gan khi siêu âm thấy các hình như u nhọt nằm rải rác trong gan có thể cho là áp xe gan, hoặc ung thư gan V.V..

Sán lá gan có kích thước dài khoảng 20-30mm, hình dạng như chiếc lá me, mỏng, màu xám hồng. Chúng trưởng thành và đẻ trứng trong đường mật của trâu, bò, ngựa, các súc vật ăn cỏ nói chung. Trứng của sán lá gan theo đường mật đến ruột và theo phân ra ngoài. Ở các môi trường phù hợp như ào, hồ, đầm, sống, trứng sẽ phát triển thành ấu trùng có lớp vỏ bao bọc bên ngoài và sống ký sinh một thời gian trong các loại ốc dưới nước (Limnea Truneatula) và chuyển thành hậu ấu trùng. Hậu ấu trùng này chui ra khỏi ốc, bám vào các cây như rau muống, rau cần, xà lách soong, rau ngổ, loại cây thuỷ sinh… Khi người và súc vật ăn phải, các hậu ấu trùng này sẽ vào ruột, lúc này các lớp vỏ bọc bên ngoài của ấu trùng sẽ vỡ và các con sán non tự do tung tẩy đi xuyên qua vách ruột theo máu để vào gan, và ở đây cuộc đời chúng lại trưởng thành, sinh nở, đẻ trứng ở hệ thống dẫn mật trong gan. Trứng lại như thế hệ trước của nó, theo dịch mật để xuống ruột, theo phân ra ngoài, tiếp tục một vòng chu trình mới.

Sán lá gan
Sán Lá Gan lớn

Cũng chẳng bao lâu, khoảng 10-20 ngày sau, nếu bạn ăn phải thức ăn có ấu trùng sán lá gan, bạn sẽ thấy các triệu chứng bệnh qua các giai đoạn sau:

Giai đoạn 1: Bệnh nhân thấv đau bụng âm ỉ liên tục ở vùng gan, sốt, chán ăn, mệt mỏi, tiêu chảy, có khi ngứa như dị ứng, giai đoạn này sán đang di chuyển từ ruột vào gan và kéo dài 2-3 tháng.

Giai đoan 2: Là giai đoạn bệnh nhân vẫn đau bụng ở vùng gan, hoặc vùng hông phải, gan ngày càng sưng to và đau ngày càng nhiều hơn, hệ thống dẫn mật bị tắc nghẽn, thành ống dẫn mật viêm dày lên hạn chế việc bài tiết mật, bệnh nhân thấy vàng da và mắt do hiện tượng ứ mật, đôi khi những cơn đau dễ làm cho bác sĩ chẩn đoán nhầm là bệnh dạ dày, viêm gan không do sán lá gan hoặc rối loạn tiêu hoá.

Nếu uống giảm đau có thể giảm, nhưng sau đó đau lại nhiều lần bởi vì chưa diệt được sán lá gan. Giai đoạn này là giai đoạn sán lá gan gây viêm đường mật.

Muôn phát hiện bệnh sán lá gan, khi thấy nghi ngờ cần phải đến bệnh viện để siêu âm, thử máu và làm các xét nghiệm đặc biệt để chẩn đoán bệnh này. Hiện nay để điều trị sán lá gan, người ta có thể dùng Emetin Praziquantel, tuy nhiên phải có theo dõi chặt chẽ của bác sĩ trong bệnh viện, bởi vì có những loại thuốc sẽ ảnh hưởng đến cơ quan tim mạch, thậm chí gây ngừng tim đột ngột. Theo các nhà dược học cho biết thuốc điều trị sán lá gan tốt nhất hiện nay là Bithimol Triclabendazol.

Hiện nay, phong trào dùng rau sạch đang phát triển khắp mọi nơi. Tuy nhiên các công nghệ bảo đảm rau sạch chưa hẳn đầy đủ. Do vậy tốt nhất không nên ăn rau sống, nếu quá cần thiết cho bữa ăn, chúng ta cần tôn trọng quy trình rửa và diệt trùng trước khi ăn.

 

Chóp Xoay Vai Là Gì và Tại Sao Nó Gây Đau?

Chóp Xoay Vai Là Gì?

Chóp xoay vai của bạn được cấu tạo từ các cơ và gân giữ đầu xương cánh tay (humerus) trong ổ khớp vai. Nó cũng giúp bạn nâng và xoay cánh tay. Đây là một quá trình phức tạp mà cơ thể bạn làm cho trông rất dễ dàng.

Các cơ của chóp xoay vai

Mỗi cơ sau đây là một phần của chóp xoay vai và đóng vai trò quan trọng:

  • Supraspinatus: Giúp giữ xương cánh tay của bạn ở vị trí, giữ cho cánh tay trên ổn định và giúp nâng cánh tay.
  • Infraspinatus: Là cơ chính cho phép bạn xoay và mở rộng vai.
  • Teres minor: Là cơ nhỏ nhất trong chóp xoay vai. Nhiệm vụ chính của nó là giúp xoay cánh tay ra xa khỏi cơ thể.
  • Subscapularis: Giúp giữ xương cánh tay của bạn với xương bả vai và giúp bạn xoay cánh tay, giữ nó thẳng ra ngoài và hạ xuống.

Các cơ này được nối với xương cánh tay bằng các gân tạo thành một lớp bao (cuff) trên đầu xương cánh tay.

Chóp xoay vai giúp bạn thực hiện những việc như lấy đồ vật từ kệ cao và chải tóc. Nó đặc biệt quan trọng trong các môn thể thao như bóng chày, bơi lội và quần vợt.

Chấn Thương Chóp Xoay Vai

  • Rách chóp xoay vai: Các gân trong vai của bạn có thể bị xơ, rách một phần hoặc hoàn toàn tách rời khỏi xương. Điều này thường là kết quả của sự mài mòn từ việc sử dụng hàng ngày theo thời gian. Bạn có nhiều khả năng bị chấn thương này nếu bạn có công việc yêu cầu bạn phải di chuyển cánh tay theo một cách nhất định lặp đi lặp lại, như họa sĩ hoặc thợ mộc, hoặc bạn chơi thể thao như quần vợt và bóng chày. Nó cũng có thể xảy ra đột ngột nếu bạn ngã vào cánh tay hoặc cố gắng nâng một vật nặng.
  • Tình trạng gân chóp xoay: Trước đây được gọi là viêm gân, đây là tình trạng viêm hoặc kích thích của một gân gắn liền với xương. Nó gây ra đau ở vùng ngay bên ngoài khớp. Các loại tình trạng gân phổ biến bao gồm vai của người ném và vai của người bơi.
  • Viêm bao hoạt dịch: Bao hoạt dịch (bursa), một túi nhỏ chứa đầy chất lỏng bảo vệ chóp xoay vai của bạn, có thể bị kích thích khi bạn lặp lại cùng một động tác liên tục, như ném bóng chày hoặc nâng một vật gì đó lên trên đầu. Viêm bao hoạt dịch cũng có thể do nhiễm trùng.

Triệu Chứng Chấn Thương Chóp Xoay Vai

Một chấn thương chóp xoay vai có thể gây ra:

  • Đau âm ỉ ở vai
  • Yếu cánh tay
  • Khó ngủ
  • Đau xuất hiện khi bạn chạm vào đầu hoặc với tay ra sau lưng

Đau chóp xoay vai có thể giới hạn biên độ vận động của cánh tay bạn. Bạn có thể cảm thấy tiếng kêu hoặc răng rắc khi di chuyển vai. Đôi khi, bạn có thể bị chấn thương chóp xoay vai mà không cảm thấy đau chút nào.

Chẩn Đoán Đau Vai

Để chẩn đoán đau vai của bạn, bác sĩ sẽ di chuyển cánh tay của bạn, ấn vào hoặc xung quanh vai, và kiểm tra sức mạnh của các cơ trong vai và cánh tay.

Bạn không thể nhìn thấy rách chóp xoay vai trên X-quang, nhưng bác sĩ của bạn sẽ có thể nhìn thấy các chấn thương khác của vai như viêm khớp hoặc mấu xương.

Bạn có thể cần thực hiện các xét nghiệm khác, bao gồm:

  • Siêu âm: Cho thấy các khu vực mô mềm như gân và cơ, và cách vai của bạn trông như thế nào khi đang di chuyển. Kỹ thuật viên có thể quét vai còn lại của bạn để xem sự so sánh giữa hai bên.
  • Cộng hưởng từ (MRI): Cung cấp hình ảnh chi tiết về cấu trúc của vai bạn.

Điều Trị Chấn Thương Chóp Xoay Vai

Hầu hết các chấn thương chóp xoay vai sẽ cải thiện theo thời gian mà không cần điều trị tích cực nào. Đối với viêm gân, viêm bao hoạt dịch, hoặc rách nhẹ, bác sĩ của bạn có thể khuyên:

  • Nghỉ ngơi, bao gồm việc tránh các chuyển động lặp đi lặp lại hoặc các môn thể thao trên đầu (quần vợt, bóng chày, bóng chuyền, bơi lội và những môn khác)
  • Kết hợp giữa đá và nhiệt
  • Các loại thuốc giảm đau không cần đơn như aspirin, ibuprofen và naproxen
  • Vật lý trị liệu, bao gồm các bài tập kéo dài và tăng cường để giúp bạn di chuyển linh hoạt hơn

Nếu bạn vẫn còn đau và có các triệu chứng khác sau khi điều trị chấn thương chóp xoay vai tại nhà, bạn có thể cần điều trị khác.

Tiêm steroid

Một mũi cortisone vào khớp có thể giúp nếu cơn đau vai của bạn khiến bạn không ngủ được hoặc giới hạn các hoạt động hàng ngày của bạn. Trong khi chúng có thể cung cấp giảm đau nhanh chóng, tiêm steroid có thể làm yếu gân của bạn theo thời gian.

Phẫu thuật

Khoảng 80% đến 85% các chấn thương chóp xoay vai cải thiện mà không cần phẫu thuật. Bác sĩ của bạn có thể khuyên phẫu thuật nếu bạn vẫn còn đau sau khi thử các phương pháp điều trị khác. Tuy nhiên, điều này sẽ phụ thuộc vào tuổi tác của bạn, sức khỏe tổng thể và các hoạt động bạn tham gia. Không có hại gì khi thử các tùy chọn không phẫu thuật trước. Các bác sĩ không tìm thấy sự khác biệt trong kết quả phẫu thuật nếu bạn thực hiện ngay lập tức hoặc chờ đợi.

Phẫu thuật có thể là lựa chọn đầu tiên nếu bạn đã rách hoàn toàn một gân trong một vụ ngã hoặc tai nạn khác.

Có nhiều loại phẫu thuật cho các vết rách chóp xoay vai, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của chấn thương của bạn. Bạn có thể cần khâu gân lại với xương, hoặc bạn có thể cần phải xây dựng lại hoàn toàn vai của mình.

Ngăn Ngừa Chấn Thương Chóp Xoay Vai

Chóp xoay vai của bạn có thể bị rách lần nữa sau khi điều trị hoặc phẫu thuật, vì vậy điều quan trọng là phải ngăn ngừa chấn thương khác. Dưới đây là những gì bạn có thể làm:

  • Bảo vệ khớp của bạn: Hãy hỏi bác sĩ về những chuyển động và hoạt động bạn nên tránh để cho vai có cơ hội hồi phục. Cẩn thận khi bạn nâng cánh tay qua đầu và không giữ các vật nặng ra khỏi cơ thể. Chú ý đến tư thế của bạn, và nếu bạn tham gia thể thao, hãy kiểm tra với huấn luyện viên để đảm bảo bạn đang sử dụng hình thức tốt.
  • Tăng cường: Tăng cường các cơ xung quanh vai sẽ giúp giữ cho chóp xoay vai của bạn ổn định và giảm đau. Tập trung vào các cơ ở tất cả các phần của vai, lưng trên và cánh tay.
  • Tăng độ linh hoạt: Sau khi tăng cường, các bài tập kéo dài nhẹ nhàng sẽ phục hồi biên độ vận động của vai, giảm đau nhức và kéo dài cơ bắp của bạn.

Bạn sẽ nhận được kết quả tốt nhất từ chương trình điều kiện vai nếu bạn thực hiện các bài tập của mình từ hai đến ba lần một tuần. Trước khi bắt đầu, hãy nói chuyện với bác sĩ hoặc chuyên gia vật lý trị liệu về các loại bài tập tốt nhất để thực hiện.

Các Bài Tập Chóp Xoay Vai

Cách tăng cường chóp xoay vai

Trước khi bắt đầu chương trình tập luyện của bạn, hãy kiểm tra biên độ vận động ở vai. Điều này sẽ giúp bạn đánh giá sự tiến bộ của mình.
Bắt đầu các bài tập của bạn một cách từ từ. Dừng lại khi bạn bắt đầu cảm thấy đau.
Khởi động trong 10 phút trước khi bắt đầu các bài tập của bạn bằng một hoạt động tác động thấp như đạp xe trên xe đạp tĩnh hoặc đi bộ.
Thực hành tư thế tốt cho vai: Trong khi ngồi hoặc đứng, hãy tập trung kéo vai xuống và giữ chúng ở vị trí đó.
Chườm đá lên vai khoảng 20 phút mỗi ngày.
Dưới đây là một số bài tập đơn giản có thể thực hiện tại nhà với ít hoặc không cần thiết bị.

  1. Đu lắc: Đặt một tay lên bàn hoặc mặt phẳng và nghiêng người về phía trước. Tay còn lại của bạn nên treo lỏng lẻo bên hông. Giữ lưng thẳng và khuỵu đầu gối. Lắc nhẹ cánh tay của bạn về phía trước và phía sau, sau đó từ bên này sang bên kia, và cuối cùng là theo vòng tròn. Lặp lại với cánh tay còn lại cho hai bộ 10 lần.
  2. Kéo căng vai: Thư giãn vai và đưa một cánh tay qua ngực. Gập cánh tay còn lại và sử dụng nó để kéo cánh tay mở rộng lại gần ngực. Không kéo vào khuỷu tay. Giữ vị trí này trong 30 giây và thư giãn thêm 30 giây. Thực hiện bốn lần, sau đó lặp lại ở bên kia.
  3. Kéo căng người nằm nghiêng: Nằm nghiêng trên một bề mặt cứng với vai bị thương nằm ở dưới. Duỗi cánh tay bị ảnh hưởng thẳng về phía trước và gập khuỷu tay ở góc 90 độ sao cho bàn tay hướng lên trần nhà. Sử dụng tay còn lại, nắm lấy cánh tay trên cổ tay và ấn xuống về phía hông. Dừng lại khi bạn cảm thấy căng ở phía sau vai bị ảnh hưởng. Giữ vị trí này trong 30 giây và thư giãn thêm 30 giây. Lặp lại bốn lần, ba lần một ngày.
  4. Gập khuỷu tay: Chọn một trọng lượng mà bạn có thể nâng lên cho ba bộ tám lần. Đứng, cầm một trọng lượng ở mỗi tay với khuỷu tay gần bên hông. Từ từ gập một cánh tay, đưa trọng lượng về phía vai và giữ trong 2 giây. Trả trọng lượng từ từ về vị trí ban đầu. Lặp lại với cánh tay còn lại. Tăng trọng lượng lên một pound mỗi lần khi bài tập trở nên dễ dàng hơn, với trọng lượng tối đa từ 10 đến 15 pound.
  5. Kéo khuỷu tay: Gắn giữa một dây kháng lực vào núm cửa của một cánh cửa đóng hoặc một vật ổn định khác. Đối diện với điểm neo, cầm hai đầu của dây trong mỗi tay và giữ khuỷu tay gập ở bên hông. Bước lùi lại cho đến khi bạn cảm thấy có lực kéo. Đẩy từ từ cả hai khuỷu tay về phía sau và sau đó từ từ quay trở lại vị trí bắt đầu, siết chặt vai lại khi bạn kéo. Thực hiện ba bộ tám lần kéo.

Sai lầm: Tập luyện vào buổi sáng tinh mơ thích hợp nhất

Mọi người thường dùng câu danh ngôn của người xưa “gà gáy sáng dậy tập luyện” để cổ vũ mình và người khác, hãy .dậy sớm để tập luyện, rèn luyện ý chí. Có một số người vừa sáng ra nghe thấy tiếng gà gáy báo sáng hoặc chuông đồng hồ kêu lên là đã bật dậy khỏi giường, vội vàng chạy ra ngoài trời tập luyện thể thao thể dục. Nhưng làm như vậy đối với sức khỏe có thích hợp không?

Chúng ta thử xét xem tình trạng của cơ thể trước và sau lúc sáng sớm tinh mơ như thế nào nhé!

Khi người ta ngủ, tế bào thần kinh của đại não ở trong trạng thái ức chế có tính chất bảo vệ, do đó mà ở trong tình trạng được nghỉ ngơi. Hoạt động của các nội tạng trong cơ thể cũng đang trong tình trạng uể oải, chậm chạp, tim đập giảm, chậm lại, huyết áp hơi thấp, hô hấp nhỏ, chậm chạp, sự thay cũ đổi mới và chuyển hóa chậm, thân nhiệt có hơi hạ thấp. Ngay lượng dịch vị tiết ra và lượng sinh thành nước tiểu cũng giảm thiểu, cơ bắp toàn thân rệu rã.

Buổi sáng tinh mơ, vừa ngủ dậy, cơ thể chưa hoàn toàn tỉnh táo, chỉ mới là thúc đẩy một số cực ít tế bào não trong đại não đang trong giấc ngủ tỉnh dậy. Lúc đó, trạng thái ức chế của hệ thần kinh trung khu vừa mới qua đi, đại bộ phận tế bào còn ở trong trạng thái lơ mơ nửa ngủ nửa tỉnh chứ chưa nói đến bộ phận các tổ chức, cơ quan và tế bào khác nữa, đại bộ phận các tạng và cơ bắp trong toàn thân vẫn đang trong trạng thái nửa ngủ, rất lỏng nhão.

Có thể rất nhiều người đều đã từng trải qua tình trạng như thế. Sáng ra mắt còn đang lim dim ngái ngủ đã vội dậy đi đánh răng, lúc đó thường sẽ cảm thấy người nôn nao thế nào ấy, có thể bạn cho rằng đó là do bàn chải đánh răng đã kích thích họng sinh ra hiện tượng đó, nhưng vì sao buổi tối khi đánh răng súc miệng lại không thấy có hiện tượng đó? Đó chính là vì họng và dạ dày của người ta chưa hoàn toàn thức tỉnh, hễ gặp phải lạnh hoặc những kích thích của các nhân tố khác thì sẽ lập tức sinh phản ứng “cự tuyệt”. Những người lái xe ô tô cũng đều biết nếu vừa mới ngủ dậy đã lái ngay xe chạy trên đường thì thường vẫn cảm thấy tinh lực không được dồi dào cho lắm, phản ứng của mắt, của tai, của não, của tay và của chân không nhạy cảm, không nghe theo sự điều khiển của tay lái, lúc bấy giờ rất dễ xảy ra nguy hiểm. Điều này nói lên là muốn cho đại não và thần kinh ngoại biên tỉnh táo hẳn đều phải có một thời gian chứ không thể ngay tức khắc được.

Nếu sau khi vừa ngủ dậy đã tiến hành ngay hoạt động thể thao thể dục mạnh mẽ tức khắc, do vì nội tạng và cơ bắp vẫn chưa đi vào trạng thái làm việc bình thường, thiếu sự bảo vệ đã phải thừa nhận ngay lượng vận động mạnh mẽ, thì lúc đó rất dễ sinh ra siêu phụ tải và sẽ bị tổn thương nhiều.

Quy luật sinh lý của con người là ban ngày chủ yếu nhờ vào thần kinh giao cảm có tính hưng phấn để chi phối hoạt động của cơ thể, đến tối và về đêm lại do thần kinh phó giao cảm có tính ức chế chủ quản, do đó mà hình thành nhịp điệu sinh hoạt đêm nghỉ, ngày làm việc. Nếu khi thần kinh phó giao cảm vẫn chưa “giao ban” một cách thuận lợi cho thần kinh giao cảm, mà đã bò dậy để làm việc hoặc vận động thì rất dễ “ngã lăn kềnh”, hiệu quả của làm việc và vận động cũng không thể nào tốt được.

Vì vậy cho nên, sau khi ta thức dậy, tốt nhất nên nằm lại trên giường một lát, đặc biệt là những người huyết áp thấp, nếu như vừa tỉnh dậy đã lập tức ra khỏi giường ngay dễ chóng mặt, choáng váng trong khoảnh khắc rất dễ bị ngã. Người già, trước khi ra khỏi giường còn cần nằm trên giường duỗi thẳng chân, dang tay và vươn vai cho thật thư giãn các khớp xương tay chân, và cơ bắp, ngồi lên định thần một lát rồi hãy xuống giường. Hoạt động sau khi ra khỏi giường cũng không nên mạnh mẽ quá, tốt nhất là đi bộ, tập thể dục nhẹ nhàng hoặc vận động một cách khoan thai, nhẹ nhàng, êm dịu. Còn những vận động thể thao tương đối mạnh mẽ thì cần tiến hành sau khi ngủ dậy khoảng một giờ trở ra. Lúc đó các bộ phận của cơ thể đã từng bước đi vào trạng thái làm việc, như vậy khó bị tổn thương, hiệu quả vận động cũng sẽ tốt hơn.

Điều trị Loãng xương và những điều cần chú ý

Các chỉ định điều trị

Tất cả phụ nữ mãn kinh cần được đánh giá các yếu tố nguy cơ loãng xương. Nên đo mật độ xương cho tất cả những người trưởng thành có gãy xương và cân nhắc tiến hành đối với phụ nữ mãn kinh dựa trên tuổi và yếu tố nguy cơ. Các khuyến cáo thay đổi lối sống và các khuyến cáo điều trị không dùng thuốc cần được đề nghị áp dụng cho tất cả người trưởng thành, bao gồm cả những người không đủ tiêu chuẩn áp dụng các phương pháp điều trị đặc hiệu đối với loãng xương, để dự phòng tiến triển của loãng xương. Phần tiếp theo sau đây là các chỉ định bắt đầu điều trị đặc hiệu đối với loãng xương. (Điều quan trọng cần lưu ý là các nghiên cứu dược lý tiến cứu ngẫu nhiên có đối chứng cho điều trị loãng xương chủ yếu được thực hiện trên phụ nữ da trắng [85%->95% trong hầu hết các nghiên cứu điều trị], nên các dữ liệu hiện có để sử dụng về lợi ích của điều trị thuốc trong các nhóm đối tượng khác còn hạn chế).

  • Tất cả người trưởng thành có gãy xương cột sống hoặc cổ xương đùi do loãng xương.
  • Người trưởng thành có chỉ số điểm T (T score) <- 2,0 độ lệch chuẩn (SD) và không có yếu tố nguy cơ loãng xương đặc biệt.
  • Người trưởng thành có chỉ số T (T score) < -1,5 độ lệch chuẩn (SD) và có các yếu tố nguy cơ loãng xương.

Các lựa chọn điều trị không dùng thuốc

Người trưởng thành bị loãng xương cần được khuyến khích bỏ thuốc lá và tránh lạm dụng rượu. Các bài tập mang vật nặng (weight-bearing execise) cần được khuyến khích. Nhiều nghiên cứu quan sát nhỏ ngẫu nhiên và có đối chứng đã chứng minh là luyện tập thể lực thường xuyên có thể giúp làm tăng tối đa khối lượng xương đỉnh ở phụ nữ trẻ, giảm mất xương liên quan với tuổi tác và thực tế là giúp cải thiện BMD trong một số tình huống, giúp duy trì cân bằng cơ và cơ lực. Đích cần đạt là cần tập luyện từ 30 đến 60 phút ít nhất 3 lần/tuần. Các bài tập mang vác vật nặng có tác động lớn, như đi bộ nhanh, đi rảo bước, tập tạ và chơi đập bóng (racket sport) là các kiểu luyện tập thể lực hữu ích. Các hoạt động không chống lại trọng lực (như bơi lội) mang lại lợi ích chưa thật sự thuyết phục. Luyện tập chưa bao giờ được chứng minh là có khả năng làm giảm lâu dài nguy cơ loãng xương, nhưng nó thực sự giúp cải thiện chức năng và làm giảm tỷ lệ bị trượt ngã. Bệnh nhân cũng cần được đánh giá về các nguyên nhân dễ làm họ bị trượt ngã thuộc loại có thể điều chỉnh được như quá liều thuốc, các vấn đề về thần kinh và thị lực, đi giày dép không phù hợp. Đối với các bệnh nhân có nguy cơ bị trượt ngã cao, ch đeo đai bảo vệ hông dưới quần áo đã cho thấy giúp làm giảm tới 60% tỷ lệ gãy cổ xương đùi. Một chương trình tích hợp tích cực kết hợp các điều trị không dùng thuốc đã chứng minh là làm giảm tới 25% tỷ lệ gãy cổ xương đùi.

Lựa chọn điều trị dùng thuốc

Canxi và vitamin D

Cung cấp đủ canxi là điều cần thiết để đạt được khối lượng xương đỉnh trong thời kỳ đầu của giai đoạn trưởng thành và để duy trì khối lượng xương trong suốt giai đoạn sau mãn kinh. Vitamin D làm tăng hấp thu canxi ở ruột non và tái hấp thu canxi ở thận. Vitamin D được cung cấp bằng chế độ ăn và thông qua chuyển đổi các tiền chất ở da dưới tác dụng của ánh nắng mặt trời. Người lớn tuổi, đặc biệt là những người có bệnh mạn tính hoặc sống trong nhà dưỡng lão, thường có tỷ lệ thiếu vitamin D cao do hạn chế tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Phần lớn các thử nghiệm lâm sàng đã chỉ ra rằng bổ sung canxi và vitamin D có lợi ích khiêm tốn đối với BMD. Quan trọng hơn, một nghiên cứu trên phụ nữ lớn tuổi ở nhà dưỡng lão cho thấy bổ sung vitamin D và canxi làm giảm tỷ lệ gãy cổ xương đùi và các gãy xương khác, về cơ bản, tất cả các nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên, có đối chứng và giả dược dùng các thuốc chống tiêu hủy xương, thuốc tạo xương cho thấy các bệnh nhân trong cả nhóm giả dược và nhóm được điều trị đều được bổ sung canxi và vitamin D hoặc có nồng độ vitamin huyết thanh được kiểm tra và bổ sung vitamin D nếu nồng độ này thấp.

Lượng canxi cho phép hàng ngày được khuyến cáo có các khác biệt nhỏ giữa các hướng dẫn điều trị đồng thuận, nhưng nhìn chung lượng này ít nhất phải từ 1000 tới 1200mg/ngày (Bảng 25-5).

Các thực phẩm giàu canxi bao gồm sữa, sữa chua, pho mát, cá sardin và nước hoa quả có bổ sung canxi. Khẩu phần canxi nhập trung bình hàng ngày từ thực phẩm không bơ sữa ở người trưởng thành là 250 mg/ngày. Lượng nguyên tố canxi được ước tính trong các sản phẩm bơ sữa thường dùng được liệt kê dưới đây:

  • 240 mL (8 oz) sữa: 300 mg
  • 230 mL (8 oz) sữa chua: 400 mg
  • 28 g (1 oz) pho mát: 200 mg
  • Nước quả bổ sung canxi: khác nhau tuỳ loại
25-5. Khuyến cáo lượng canxi cần cung cấp hàng ngày

Tổ chức Tuổi (năm) Khuyến cáo lượng nguyên tố canxi cho phép hàng ngày
Hội Loãng xương Quốc gia Tất cả các lứa tuổi 1200 mg/ngày
Viện Sức khỏe Quốc 11-24 1200-1500 mg/ngày
gia 25-50 1000 mg/ngày
50-65 Nam. 1000 mg/ngày
>65 Nữ sử dụng liệu pháp thay thế hormon: 1000 mg/ngày Nữ không sử dụng liệu pháp thay thế hormon: 1500 mg/ngày

Về cơ bản, tất cả các nghiên cứu lâm sàng trên người trưởng thành bị loãng xương đều bao gồm việc đánh giá khẩu phần nhập canxi trong chế độ ăn cho thấy khẩu phần nhập canxi trong chế độ ăn ở hầu hết người trưởng thành đều thấp hơn đáng kể so với ngưỡng được khuyến cáo. Do đó, hầu hết người trưởng thành có hoặc không có loãng xương đều cần được bổ sung canxi. Hiện có vô số các chế phẩm bổ sung canxi lưu hành trên thị trường, hầu hết ở dạng canxi carbonat hoặc canxi acetat. Điều quan trọng cần được nhận thức là các khuyến cáo về bổ sung canxi đều nói về hàm lượng nguyên tố canxi và nhiều chế phẩm bổ sung canxi không rõ nguồn gốc lại ghi hàm lượng canxi carbonat hoặc canxi acetat trong mỗi viên thuốc trên nhãn. Muối canxi được hấp thu tốt nhất khi uống giữa bữa ăn. Lượng vitamin D cho phép hàng ngày là 400 đến 800 đơn vị dùng theo đường uống, với các lương cao hơn được khuyến cáo cho người trưởng thành có nguy cơ bị thiếu hụt viatmin D cao nhất. Các thực phẩm giàu vitamin D bao gồm sữa và ngũ cốc được bổ sung vitamin D, lòng đỏ trứng và gan. Một vài chế phẩm bổ sung canxi có chứa cả vitamin D (Os-Cal D).

Các Biphosphonat: Alendronat (Fosamax),Risedronat (Actonel),Ibandronat (Boniva), và acid Zoledronic (Zometa, Reclast)

Các biphosphonat là các thuốc tốt nhất hiện có trên thị trường để điều trị loãng xương. Biphosphonat gắn vào xương được khoáng hóa và ức chế hoạt tính của hủy cốt bào. Biphosphonat ức chế cả tình trạng hủy xương lẫn tạo xương nhưng tác dụng ức chế hủy xương ở mức độ lớn hơn. Alendronat, risedronat và ibandronat là 3 biphosphonat dùng theo đường uống được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) Hoa Kỳ chấp thuận để điều trị loãng xương (Bảng 25-6). Cả 3 thuốc này cho thấy có khả năng cải thiện mật độ xương ở các vị trí khác nhau của bộ xương và giảm tổng tỷ lệ gãy xương, gãy cổ xương đùi và gãy đốt sống có hoặc không có triệu chứng (trong các thử nghiệm điều trị bằng ibandronat đã được công bố cho thấy thuốc chỉ làm giảm được tỷ lệ gãy đốt sống). Các nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng cho thấy lợi ích làm giảm gãy xương kéo dài tới 4 năm. Các lợi ích lâu dài trong cải thiện mật độ xương đã được chứng minh khi điều trị với alendronat trong 10 năm và risedronat trong 7 năm. Alendronat và risedronat là các thuốc duy nhất cho đến nay vẫn cho thấy có tác dụng làm giảm gãy cổ xương đùi ở bệnh nhân loãng xương. Tuy nhiên, chỉ thấy giảm rõ rệt tỷ lệ gãy cổ xương đùi ở bệnh nhân bị loãng xương rõ (T < -2,5) và là đối tượng đã có gãy đốt sống trước đó. Lợi ích làm giảm tuyệt đối gãy xương các loại của cả hai thuốc nổi bật hơn ở các bệnh nhân có tiền sử gãy đốt sống.

Nên uống biphosphonat vào sáng sớm với một cốc nước đầy trước khi ăn và uống bất cứ thuốc gì 30 phút để tránh cho viên thuốc bị giữ lại ở thực quản. Các thuốc kháng acid và canxi hạn chế hấp thu các thuốc này. Trong các nghiên cứu ngẫu nhiên, đối chứng placebo với alendronat, risedronat và ibandronat, không thấy có khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ tác dụng phụ trên hệ tiêu hóa giữa thuốc và nhóm sử dụng giả dược. Tuy nhiên, trong thực hành lâm sàng, các tác dụng phụ trên thực quản và dạ dày và các biến chứng đã được ghi nhận, điều này củng cố thêm cho việc cần dùng đúng liều. Phác đồ sử dụng alendronat và risedronat một lần một tuần thích hợp đối với cả dự phòng và điều trị loãng xương và có thể làm tăng mức tuân thủ điều trị. Ibandronat có thể sử dụng một lần/tháng.

Ibandronate (Boniva) Risedronat (Actonel) Alendronat

(Fosamax)

Thuốc
FDA chấp thuận cho mục đích phòng bệnh
2,5 mg/ngày đường uống 5 mg/ngày đường uống

35 mg đường uống X 1 lần/tuần

5 mg/ngày đường uống

35mg đường uống X 1 lần /tuần

Liều để phòng bệnh
FDA chấp thuận cho mục đích điều trị
2,5 mg/ngày đường uống hoặc 150 mg đường uống X 1 lần tháng; hoặc 3 mg đường tĩnh mạch X 3 tháng/ lần 5 mg/ngày đường uống

35 mg đường uống X 1 lần/tuần

10 mg/ngày đường uống

70mg đường uống X 1 lần/tuần

Liều để điều trị
Đau bụng, khó tiêu, đau lưng, đau cơ Đau bụng, khó tiêu, viêm dạ dày, viêm thực quản Đau bụng, khó tiêu, nôn, viêm thực quản, đau cơ xương Tác dụng phụ
Estrogen (đơn độc hoặc kết hợp với progesteron); nhiều dạng thuốc kết hợp có trên thị trường Raloxifen (Evista) Zoledronat

(Zometa, Reclast)

Thuốc
Không FDA chấp thuận cho mục đích phòng bệnh
Nhiều dạng

Thường dùng estrogen liên hợp 0,625 mg/ngày đường uống

60 mg /ngày đường uống Không áp dụng Liều để phòng bệnh
Không FDA chấp thuận cho mục đích điều trị
Không áp dụng 60 mg /ngày đường uống 5 mg đường tĩnh mạch X 1lần/năm Liều để điều trị
Chảy máu âm đạo, căng tức vú, tăng nguy cơ bệnh mạch vành, đột quỵ, tắc tĩnh mạch sâu/tắc mạch phổi, ung thư vú Cơn bốc hỏa, chuột rút chân, phù chi dưới, tăng nguy cơ tắc tĩnh mạch sâu/tắc mạch phổi Đau cơ, đau khớp, sốt, rung nhĩ Tác dụng phụ

Từ tiếng Anh viết tắt: FDA (Food and Drug Administration). Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ.

Acid zoledronic còn được gọi là Zometa và Reclast, là các biphosphonat dùng theo đường tĩnh mạch. Một nghiên cứu gần đây cho thấy truyền Zometa hàng năm ít nhất cũng có hiệu quả tương đương, nếu không muốn nói là có lợi hơn so với sử dụng biphosphonat theo đường uống. Nghiên cứu HORIZON (Các kết cục sức khỏe và làm giảm tỷ lệ mắc bằng acid zoledronic một lần hàng năm) là một thử nghiệm đa trung tâm, ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng và có giả dược tiến hành ở phụ nữ sau mãn kinh có loãng xương được chia ngẫu nhiên vào nhóm sử dụng giả dược so sánh với nhóm truyền tĩnh mạch 5mg acid zoledronic hàng năm, và theo dõi trong 3 năm trong khi vẫn cung cấp canxi và vitamin D cho cả 2 nhánh. Điều trị bằng acid zoledronic làm giảm 70% nguy cơ gãy đốt sống, 41% gãy cổ xương đùi và 25% các gãy xương ngoài cột sống. Làm lại nghiên cứu này cũng giống như tiến hành các thử nghiệm so sánh giữa acid zoledronic với biphosphonat dùng đường uống, là cần thiết để xác định đây là thuốc điều trị đầu tay cho tình trạng loãng xương. Tuy nhiên, truyền acid zoledronic một lần hàng năm có thể cung cấp câu trả lời cho những khó khăn hiện tại khi điều trị bằng biphosphonat theo đường uống.

Hoại tử xương hàm đã được ghi nhận như là một biến chứng của điều trị biphosphonat loại có chứa nitrogen. Đã có dưới 50 trường hợp bị hoại tử xương hàm đã được báo cáo trong y văn gặp ở các bệnh nhân được điều trị biphosphonat đường uống. Hầu hết các trường hợp được báo cáo có liên quan tới dùng biphosphonat đường tĩnh mạch ở bệnh nhân có di căn xương. Người ta còn chưa biết rõ là liệu tỷ lệ bị biến chứng này thấp hơn ở các bệnh nhân dùng thuốc để điều trị loãng xương là do sử dụng liều biphosphonat thấp hơn hay do ung thư có xu hướng gây một nguy cơ bị biến chứng này cao hơn. Trong nghiên cứu về sử dụng acid zoledronic hàng năm để điều trị loãng xương nói trên, chỉ gặp 2 trường hợp hoại tử xương hàm tiềm tàng, một trong nhóm giả dược và một trong nhóm điều trị thuốc và cả hai trường hợp này đều được điều trị khỏi bằng phẫu thuật.

Liệu pháp thay thế hormon/estrogen

Đã có nhiều thay đổi trong vai trò của liệu pháp thay thế estrogen (ERT) với mục đích dự phòng và điều trị loãng xương trong những năm gần đây. Liệu pháp thay thế estrogen (ERT) cải thiện mật độ xương thông qua ức chế hoạt tính của hủy cốt bào. Có có ít dữ liệu lâm sàng đánh giá tác động của estrogen đối với phụ nữ được khẳng định bị loãng xương. Vì vậy, hầu hết các dữ liệu liên quan với điều trị bằng estrogen dường như thích hợp để áp dụng cho dự phòng hơn là cho điều trị loãng xương. Thêm vào đó, cho tới lần công bố gần đây của Chương trình Sáng kiến sức khỏe của phụ nữ (WHI), hầu hết các dữ liệu về gãy xương và điều trị thay thế estrogen là từ các nghiên cứu mô tả.

Chương trình Sáng kiến sức khỏe của phụ nữ (WHI) trả lời nhiều câu hỏi quan trọng về việc sử dụng liệu pháp thay thế estrogen để dự phòng các tình trạng mạn tính. Chương trình này là một nghiên cứu ngẫu nhiên, tiến cứu, có đối chứng quy mô lớn đầu tiên chỉ ra điều trị thay thế hormon kết hợp estrogen – progesterone làm giảm tỷ lệ gãy xương. Tất cả các gãy xương, gãy đốt sống, gãy cổ xương đùi, và các gãy xương do loãng xương khác giảm xuống tương ứng lần lượt là 24%, 34%, 34% và 23%. Mặc dù tỷ lệ ung thư đại tràng cũng giảm 37%, nhưng về tổng thể, tỷ lệ bị các biến cố ngoại ý (bao gồm bệnh mạch vành tảng 29%, đột quỵ tăng 41 %, tắc tĩnh mạch sâu/tắc mạch phổi tăng 111%, và ung thư vú tăng 26%) vượt hơn lợi ích thu được (bao gồm giảm gãy xương). Các tỷ lệ làm giảm gảy xương tương tự cũng được thấy ở nhóm phụ nữ chỉ sử dụng estrogen trong chương trình WHI đã phẫu thuật cắt tử cung, với ít tác dụng ngoại ý hơn so với nhóm điều trị kết hợp estrogen/ progesteron.

Thực tế là còn có ít dữ liệu tiến cứu ở các bệnh nhân bị loãng xương đã được biết; chỉ có một nghiên cứu nhỏ đã được công bố cho thấy có giảm tỷ lệ gãy đốt sống nhờ sử dụng estrogen qua da. Dựa vào thực tế là còn thiếu các dữ liệu trong điều trị loãng xương đã được chẩn đoán và cân bằng với các tác dụng ngoại ý như được chỉ ra trong Chương trình sáng kiến sức khỏe của phụ nữ, liệu pháp thay thế estrogen (ERT) đã không còn được ưa chuộng để áp dụng với mục đích dự phòng hoặc điều trị loãng xương. Hiện tại liệu pháp thay thế estrogen đã không được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê chuẩn cho điều trị loãng xương; các phác đồ điều trị khác có hiệu quả hơn và ít gây độc hơn được sử dụng để dự phòng tình trạng này.

Raloxifen (Evista)

Raloxifen là một chất điều biến chọn lọc thụ thể estrogen có các tác dụng tiền chất estrogen (proestrogen) trên một số mô nhất định và có tác dụng kháng estrogen (antiestrogen) trên các mô khác. Raloxifen biểu hiện các tác dụng có lợi trên xương thông qua ngăn chặn hoạt tính của các cytokin có vai trò kích thích tiêu xương trung gian qua hủy cốt bào. Raloxifen đâ được chứng minh qua các nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng kéo dài từ 3 đến 4 năm là giúp cải thiện mật độ khoáng của xương (BMD) ở cột sống và cổ xương đùi và làm giảm tỷ lệ các gây đốt sống mới (nghiên cứu MORE). Raloxifen đã không cho thấy có tác động có ý nghĩa trên gãy cổ xương đùi hoặc toàn bộ các gãy xương không phải là đốt sống. Do đó, các ứng viên lý tưởng cho điều trị bằng raloxifen là phụ nữ bị giảm mật độ khoáng của xương xảy ra ưu thế đối với cột sống song còn duy trì được một mức độ nhất định mật độ khoáng của xương ờ cổ xương đùi, nhất là ở phụ nữ không dung nạp được với điều trị bằng biphosphonat. Raloxifen làm giảm nồng độ cholesterol toàn phần và cholesterol loại lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL-cholesterol) theo cách tương tự như estrogen, nhưng không làm tăng cholesterol loại lipoprotein tỷ trọng cao (HDL-cholesterol) và triglycerid như estrogen. Raloxifen không gây ra các cơn bốc hỏa. Thuốc làm tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu và tắc mạch phổi theo kiểu tương tự như estrogen. Tuy nhiên, raloxifen không kích thích nội mạc tử cung hay vú và không làm tăng nguy cơ bị tăng sản hoặc ung thư nội mạc tử cung hoặc ung thư vú. Thực tế là, giảm có ý nghĩa đối với các ung thư vú dương tính với thụ thể estrogen như một kết thứ cấp được thấy trong một nghiên cứu lâm sàng lớn với raloxifen.

Xem xét các biến cố tim mạch ngoại ý có liên quan tới sử dụng estrogen, nghiên cứu RUTH được tiến hành để đánh giá các tác động trên tim mạch của raloxifen. Trong một nghiên cứu tiến cứu, ngẫu nhiên, có đối chứng lớn tiến hành trên 10.101 phụ nữ sau mãn kinh có bệnh mạch vành hoặc yếu tố nguy cơ mắc bệnh mạch vành được theo dõi trung bình trong 5,6 năm, đã không thấy có khác biệt có ý nghĩa thống kê về nguy cơ bị các biến cố mạch vành tiên phát giữa nhóm sử dụng raloxifen và nhóm giả dược. Nghiên cứu cho thấy có tình trạng giảm tương tự trong nguy cơ bị ung như được thấy trong các nghiên cứu về raloxifen trước đó nhưng cũng thấy có một gia tăng nguy cơ bị thuyên tắc mạch huyết khối nguồn gốc tĩnh mạch và đột quỵ gây tử vong ở nhánh điều trị, mặc dù tỷ lệ tử vong do tất cả các nguyên nhân là tương tự nhau giữa nhóm điều trị raloxifen và nhóm dùng giả dược. Do đó, cần cân nhắc các nguy cơ này với các lợi ích thu được do làm giảm gãy đốt sống và nguy cơ bị ung thư vú ở phụ nữ được xem xét chỉ định điều trị bằng raloxifen.

Calcitonin (Miacalcin)

Calcitonin là một peptid ngoại sinh có tác dụng làm tăng mật độ khoáng của xương thông qua ức chế hoạt tính của hủy cốt bào. Calcitonin có trên thị trường cả dạng xịt qua mũi và dạng tiêm dưới da, nhưng con đường xịt qua mũi là dạng được nghiên cứu nhiều nhất trong điều trị loãng xương. Các tác dụng có lợi của calcitonin trên mật độ khoáng của xương (BMD) đối với cột sống nói chung kém hơn so với hầu hết các thuốc điều trị loãng xương khác hiện có trên thị trường. Tác động được coi là không đáng kể hoặc không có tác động trên mật độ khoáng của xương đối với cổ xương đùi. Trong nghiên cứu PROOF (nghiên cứu Phòng ngừa tái phát gãy xương do loãng xương) liều 200 đơn vị/ngày calcitonin đã cho thấy có tác dụng làm giảm gãy đốt sống sau 5 năm. Không thấy có đáp ứng phụ thuộc liều đối với gãy đốt sống và không có lợi ích có ý nghĩa trong tác dụng làm giảm gãy cổ xương đùi và các gãy xương ngoài cột sống. Calcitonin thường là một thuốc được lựa chọn thứ hai hoặc thứ ba trong điều trị loãng xương và được dành chủ yếu cho các bệnh nhân có chống chỉ định hoặc không dung nạp được với tác dụng phụ của các thuốc khác, đặc biệt là biphosphonat. Tuy nhiên, calcitonin dạng xịt qua mũi đã không được chứng minh là mang lại lợi ích trong điều trị tình trạng đau do các gãy chén ép cấp đốt sống. Teriparatid (Forteo)

Teriparatid một hợp chất tái tổ hợp của phần peptid 34 N-terminal có hoạt tính của hormon cận giáp. Mặc dù tiếp xúc liên tục với PTH (như ở các bệnh nhân bị cường cận giáp tiên phát) dẫn tới tăng hủy xương, song tiếp xúc từng lúc với hormon này lại cho thấy là kích thích tạo xương. Teriparatid là thuốc đầu tiên có tác dụng chính làm tăng tạo xương thông qua kích thích hoạt tính của tạo cốt bào. Đối lập với tất cả các thuốc điều trị loãng xương khác có cơ chế tác động chủ yếu thông qua giảm quay vòng xương ưu thế hơn là kích thích tạo xương mới, teriparatid hoạt động bằng cách kích thích tạo xương mới ưu thế hơn là kích thích hủy xương.

Teriparatid đã được nghiên cú ờ phụ nữ có nguy cơ cao có tiền sử bị gẫy đốt sống trong vòng 2 năm trong đó thuốc được dùng bằng cách tiêm dưới da hàng ngày. Cải thiện trong mật độ xương được thấy nhiều hơn bất kỳ thuốc điều trị loãng xương khác hiện có trên thị trường (Bàng 25-7). Gãy xương cột sống và toàn bộ các gãy xương ngoài cột sống được làm giảm có ý nghĩa thống kê, nhưng nghiên cứu quá nhỏ và quá ngắn nên không có đủ số trường hợp bị gãy cổ xương đùi để đánh giá tiêu chí nghiên cứu này. Do chi phí đáng kể khi dùng thuốc, nói chung teriparatid thường được để dành cho các bệnh nhân bị loãng xương nặng hoặc đã được xác định rõ, đặc biệt là các đối tượng không thể sử dụng hoặc thất bại với điều trị bằng biphosphonat. Tăng canxi máu nhẹ đôi khi xảy ra. Chuột được điều trị bằng teriparatid liều cao bị tăng tỷ lệ xuất hiện tình trạng sarcoma xương. Mặc dù biến chứng này chưa được thấy ở các nghiên cứu trên người, song tờ thông tin trong hộp thuốc teriparatid có cảnh báo trong khung đen (black-box warning) vì nguy cơ bị sarcoma xương khi dùng thuốc. Teriparatid bị chống chỉ định ở bệnh nhân đã có tăng canxi máu hoặc di căn xương và những người có tăng nguy cơ bị sarcoma xương, như bệnh nhân bị bệnh Paget, tiền sử được điều trị tia xạ trước đó và ở trẻ em. Không khuyến cáo điều trị thuốc kéo dài quá 2 nảm.

Strontium Ranelate

Strontium ranelate là một thuốc mới, được chấp thuận sử dụng gần đây ở châu Âu, thuốc làm tăng bắt giữ canxi và tạo xương cũng như ức chế hủy xương. Thuốc được dùng theo đường uống và trong một nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng, dùng thuốc hàng ngày giúp làm giảm 40% nguy cơ bị gãy đốt sống. Gãy cổ xương đùi được làm giảm tới 36% ờ các bệnh nhân trong một phân nhóm ( >74 tuổi và có chỉ số T đối với kết quả đo mật độ khoáng của xương ở cổ xương đùi <-3,0). Thuốc dung nạp tốt và không có tác dụng ngoại ý đặc biệt nào đã được báo cáo. Hiện tại strontium ranelate vẫn chưa được Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ chấp thuận sử dụng.

Điều trị kết hợp

Một số phác đồ kết hợp thuốc khác nhau đã được nghiên cứu với ác kết quả thu được không giống nhau. Các nghiên cứu đánh giá phác đồ điều trị kết hợp thuốc chủ yếu nghiên cứu tác động đối với mật độ khoáng của xương và thường không đủ lớn hoặc đủ dài để đánh giá được nguy cơ gãy xương. Phối hợp thêm alendronat hoặc risedronat vào phác đồ điều trị cho các bệnh nhân đã sử dụng liệu pháp thay thế hormon đã được chứng minh là giúp cải thiện mật độ xương so với giả dược. Điều trị kết hợp alendronat với liệu pháp thay thế hormon giúp cải thiện mật độ xương sau 3 năm nhiều hơn so với khi dùng từng thuốc riêng rẽ. cần có các nghiên cứu lớn hơn để tìm hiểu là liệu tình trạng cải thiện mật độ xương khi điều trị phối hợp hai thuốc có cơ chế tác dụng tương tự nói trên có thể mang lại một kết quả tốt hơn trong cải thiện tỷ lệ gãy xương hay không. Do không có các dữ liệu này, các tác dụng ngoại ý có thể gặp khi tiến hành điều trị hormon thay thế cần được cân nhắc trước khi bắt đầu điều trị bằng hai thuốc.

Thêm teriparatid vào phác đồ điều trị hormon thay thế đã chứng minh giúp cải thiện mật độ khoáng của xương. Hứa hẹn nhất là điều trị kết hợp teriparatid với biphosphonat bằng cách sử dụng các thuốc mạnh nhất đối với tinh trạng tiêu xương và tạo xương. Tuy nhiên, các dữ liệu còn mâu thuẫn nhau trong lĩnh vực này. Một số nghiên cứu, bao gồm một nghiên cứu trên nam giới, đã cho thấy điều trị kết hợp teriparatid và alendronat kém hiệu quả hơn điều trị đơn độc bằng teriparatid trong cải thiện mật độ khoáng của xương và tăng tạo xương mới, trong khi các nghiên cứu khác lại cho thấy có các cải thiện nhỏ về mật độ khoáng của xương ở phụ nữ trước đó đã được điều trị bằng aíendronat và được sử dụng teriparatỉd hàng ngày hoặc theo chu kỳ (dùng PTH hàng ngày trong 3 tháng, sau đó nghỉ thuốc 3 tháng). Khởi đầu điều trị biphosphonat sau khi hoàn thành 2 năm điều trị teriparatid là một hướng mang tính chất lý thuyết và trong một nghiên cứu gần đây, cải thiện mật độ khoáng của xương sau một năm điều trị bằng teriparatid vẫn được duy trì hoặc tăng lên khi sử dụng alendronat kế tiếp nhưng sẽ mất đi nếu không tiếp tục điều trị bằng biphosphonat. Do đó, sự phối hợp này có thể là liệu pháp kết hợp thuốc tốt nhất, mặc dù còn cần nhiều nghiên cứu để khẳng định.

Tác động của các phương pháp điều trị nội khoa khác trên loãng xương

Hai dạng điều trị nội khoa thường gặp được cho là có khả năng có tác động đến nguy cơ gãy xương do loãng xương là các thuốc lợi tiểu thiazid và các thuốc ức chế enzym 3-methylglutaryl coenzym A (HMG-COA) của gan. Các thuốc lợi tiểu thiazid được cho là có ích do thuốc làm giảm bài tiết canxi qua nước tiểu. Một nghiên cứu đoàn hệ lớn trên cộng đồng cho thấy người trưởng thành sử dụng lợi tiểu thiazid ít bị gãy cổ xương đùi hơn một cách có ý nghĩa, đặc biệt nếu đã được điều trị được >1 năm. Các nghiên cứu bệnh chứng ban đầu bằng thuốc ức chế enzym HMG-COA reductase gợi ý có sự kết hợp giữa dùng thuốc với tỷ lệ gãy cổ xương đùi ít gặp hơn, nhưng nhiều nghiên cứu gần đây lại không tìm thấy lợi ích có ý nghĩa của điều trị này.

Theo dõi

Theo dõi các bệnh nhân bị loãng xương bao gồm theo dõi các biến chứng, tác dụng phụ và đáp ứng với điều trị. cần tiến hành đánh giá liên tục đối với các yếu tố nguy cơ có thể làm thay đổi gây tình trạng trượt ngã như các rối loạn về dáng đi, các vấn đề về thị lực, hoặc sử dụng thuốc an thần (xem Bảng 25-3). Nên theo dõi thường xuyên chiều cao để sàng lọc các tình trạng gãy đốt sống không có triệu chứng. Nhìn chung, các điều trị chống tiêu hủy xương cần được tiếp tục lâu dài, do các tác dụng có lợi trên mật độ khoáng của xương sẽ mất đi theo thời gian sau khi ngừng điều trị, nhất là với điều trị hormon thay thế. Mật độ khoáng của xương (BMD) nên được đánh giá lại sau mỗi 12-18 tháng/lần để đánh giá đáp ứng với điều trị. Các đo đạc nhắc lại được thực hiện sớm hơn thời gian này có thể khó nhận định kết quả, do các thay đổi về mật độ khoáng của xương được dự kiến trong một giai đoạn ngắn hơn có thể nằm trong khoảng dao động của độ chính xác của máy. Nói chung mật độ khoáng của xương cần thay đổi ít nhất 3% mới được coi là có ý nghĩa, do độ chính xác của hầu hết các máy đo mật độ xương vào khoảng 1% tới 1.5%. cần đo lại bằng cùng một máy đo mật độ xương để cho kết quả so sánh chính xác. Bệnh nhân được sàng lọc nhưng không được điều trị loãng xương nên đợi ít nhất 2 năm trước khi tiến hành làm lại thăm dò đo mật độ xương.

Bảng 25-7. Các thuốc hiện có điều trị loãng xương: Tác động trên mật độ khoáng xương (BMD) và gãy xương

Thuốc Tăng

BMD

của cột sống

Giảm tỷ lệ gãy đốt sống Tăng BMD của cổ xương đùi Giảm tỷ lệ gãy cổ xương đùi Giảm tỷ lệ gãy ngoài đốt sống
Alendronat

(Fosamax)

6%-13% 40%-55% 4%-7% 50%-55% 20%-47%
Risedronat

(Actonel)

5%-11% 40%-60% 2%-5% 40%-60% 20%-40%
Ibandronat

(Boniva)

3%-5% 50%-60% 2%-5% Nghiên cứu không đủ mạnh Nghiên cứu không đủ mạnh
Zoledronat

(Zometa,

Reclast)

4%-7% 70% 3%-6% 41% 25%
Raloxifen

(Evista)

3% 30%-50% 2% Không đặc hiệu Không đặc hiệu
Liệu pháp thay thế hormon/ estrogena 4%-7% 34%-40% 2%-4% 34%-36% 24%-27%
Calcitonin

(Miacalcin)

1%-2% 33% Không thay đổi Không đặc hiệu Không đặc hiệu
Teriparatid

(Forteo)

8%-14% 65%-70% 3%-5% Nghiên cứu không đủ mạnh 53%
Strontium

Ranelate

14% 40% 8% 36% Không có nghiên cứu

[a] Dữ liệu cho liệu pháp thay thế hormon/estrogen được lấy từ các nghiên cứu trên phụ nữ sau mãn kinh và không tiến hành trên phụ nữ đã được chẩn đoán loãng xương.

Loãng xương ở nam giới

Hiểu biết về tình trạng loãng xương ờ nam ít hơn nhiều so với hiểu biết về tình trạng này ở nữ. Tỷ lệ mắc loãng xương và gãy xương do loãng xương ở nam ít thường gặp hơn so với nữ do nam giới đạt được khối lượng xương đỉnh cao hơn, tốc độ mất xương chậm hơn và có tuổi thọ ngắn hơn. Nam giới thường có mật độ khoáng của xương cao hơn 8% đến 18% so với nữ ở các vị trí khác nhau. Nam giới bắt đầu trải qua các biến chứng do loãng xương vào khoảng 15 tới 20 năm muộn hơn so với nữ. Các biến chứng của loãng xương được coi là đáng kể ở nam giới, ví dụ một người đàn ông 50 tuổi có 13% nguy cơ gãy xương do loãng xương trong cả cuộc đời. Khoảng 30% gãy cổ xương đùi xảy ra ở nam giới và nam có tỷ lệ tử vong sau gãy cổ xương đùi cao hơn nữ. Nam giới có tỷ lệ tử vong trong vòng 1 năm sau gãy cổ xương đùi 31%, tỷ lệ phải nằm trong các trại an dưỡng hoặc sống cần trợ giúp trong 1 năm là 79%, 60% số bệnh nhân sẽ bị tàn tật vĩnh viễn và chỉ có 41% khôi phục lại được khả năng vận động như trước.

Ước tính tỷ lệ mắc hiện hành loãng xương ở nam phụ thuộc vào ngưỡng giá trị mật độ xương được sử dụng để chẩn đoán loãng xương. Có các quan điểm khác nhau về việc nên sử dụng ngưỡng giá trị mật độ xương của nam hay nữ. 2% tới 6% nam giới trên 60 tuổi đủ tiêu chuẩn chẩn đoán loãng xương, với các con số thay đổi tùy thuộc vào giá trị ngưỡng của nam hay nữ được dùng để so sánh. Nên cân nhắc đo mật độ chất khoáng của xương ở các nam giới bị gãy xương không do chấn thương, có tình trạng nhược xương trên phim X-quang, dùng steroid dài ngày, suy sinh dục, cường cận giáp, và có các yếu tố nguy cơ khác gây loãng xương thứ phát. Không có các hướng dẫn điều trị đồng thuận toàn cầu cho sàng lọc thường quy ở nam giới, mặc dù một số chuyên gia khuyến cáo tiến hành sàng lọc cho các nam trên 70 hoặc 75 tuổi. Hướng dẫn điều trị gần đây nhất của Canada khuyến cáo sàng lọc cho các nam giới trên 65 tuổi. Nam dường như bị loãng xương thứ phát nhiều hơn nữ. Đánh giá bằng xét nghiệm, bao gồm sàng lọc testosteron, nhìn chung được khuyến cáo ở nam, do 30% đến 60% số bệnh nhân có nguyên nhân gây loãng xương đặc hiệu.

Điều trị không dùng thuốc, bao gồm các bài tập mang vác vật nặng, bỏ thuốc lá, giảm lượng rượu uống và giảm nguy cơ trượt ngã, được khuyến cáo đối với các nam giới giống như với phụ nữ. Bổ sung canxi và vitamin D được khuyến cáo. Alendronat đã được chứng minh là có tác dụng cải thiện mật độ xương và làm giảm tỷ lệ gãy đốt sống ở nam. Alendronat là thuốc được Cơ quan Quản lý Dược phẩm và Thực phầm Hoa Kỳ chấp thuận cho điều trị loãng xương, kể cả loãng xương do dùng steroid và risedronat được chấp thuận cho điều trị loãng xương do dùng steroid. Teriparatid đã được cho thấy là làm cải thiện mật độ khoáng của xương và là một lựa chọn khác đối với bệnh nhân nam. Điều trị thay thế testosteron bằng các thuốc tiêm bắp, miếng dán tại chỗ và gel bôi tại chỗ nên được chỉ định cho các nam giới được chẩn đoán xác định suy sinh dục. Các nghiên cứu luôn thấy là chỉ một tỷ lệ nhỏ nam giới có tình trạng gãy xương do xương ròn được chẩn đoán và điều trị loãng xương.

NHỮNG ĐIỂM QUAN TRỌNG CẦN GHI NHỚ

Các hậu quả lâm sàng của loãng xương chủ yếu có liên quan tới biến chứng gãy xương do ròn xương, rất thường xảy ra ở cột sống, cổ xương đùi, và cổ tay. Phần quan trọng trong đánh giá bệnh nhân nghi ngờ bị loãng xương là đánh giá mật độ khoáng của xương bằng kỹ thuật DEXA. Loãng xương và thiếu xương được định nghĩa là khi chỉ số T (T score) > 2,5 và ở dưới từ 1 đến 2,5 độ lệch chuẩn (SD) so với mức tham chiếu trung bình của người trưởng thành trẻ tuổi.

Tất cả các bệnh nhân bị gãy xương do loãng xương, có chỉ số T (T score) <-2,0, hoặc khi chỉ số T (T score) <-1,5 kèm với các yếu tố nguy cơ nên được điều trị loãng xương.

Điều sống còn là phải đảm bảo tất cả các bệnh nhân bị loãng xương được cung cấp đủ canxi và vitamin D và các thành phần này thường cần được bổ sung. Liệu pháp thay thế hormon và liệu pháp thay thế estrogen có thể giúp ngăn ngừa xuất hiện biến chứng gãy xương do loãng xương, nhưng những lợi ích này cần được cân nhắc so với gia tăng nguy cơ nhiều kết cục không mong muốn. Biphosphonat (alendronat, risedronat và ibandronat) nói chung là các thuốc đầu tay trong điều trị loãng xương do chúng là các lựa chọn điều trị đã được chứng minh có khả năng làm giảm xuất hiện biến chứng gãy đốt sống và cổ xương đùi.

Các phác đồ điều trị mới bao gồm hormon cận giáp đơn trị liệu hoặc sau điều trị bằng biphosphonat và sử dụng strontium ranelate mang lại nhiều hứa hẹn trong điều trị loãng xương.

Phương pháp mổ bệnh hẹp eo động mạch chủ

Đó là một bệnh bẩm sinh ở động mạch chủ: hẹp hay bị kín hoàn toàn ở một khúc nào đó của động mạch chủ. Thường thấy nhất là động mạch chủ ngực, ngay dưới chỗ xuất phát của động mạch dưới đòn trái. Chỗ hẹp có thể thấy trên cung động mạch chủ hay trên động mạch chủ bụng. Theo tài liệu của nhiều tác giả khác nhau hẹp eo động mạch chủ chiếm khoảng từ 5,5 đến 22,5% tất cả các trường hợp bệnh tim bẩm sinh. Ở nước ta rất hiếm gặp bệnh này.

Sơ đồ hẹp eo động mạch chủ ở nhiều chỗ
Sơ đồ hẹp eo động mạch chủ ở nhiều chỗ

Khi mắc bệnh này, áp lực động mạch chủ ở trên chỗ hẹp tăng lên cao, dẫn tới một số hiện tượng sau đây: tăng huyết áp động mạch não với sự xuất hiện các dấu hiệu thần kinh, tăng gánh tâm thu tâm thất trái với dấu hiệu phì đại cơ tim, và cuối cùng dẫn tới suy tim. Áp lực động mạch ở phía dưới chỗ hẹp động mạch chủ thường rất thấp, đôi khi không sờ thấy cả mạch trên các động mạch ngoại biên. Phần cơ thể ở dưới chỗ động mạch chủ bị hẹp được nuôi dưỡng bởi các tuần hoàn bàng hệ, và thường là không bao giờ đầy đủ cả.

Chẩn đoán bệnh hẹp eo động mạch chủ thường dễ dàng, khi ta có sự chênh lệch rõ ràng giữa áp lực động mạch ở chi trên và chi dưới; áp lực động mạch ở tay đôi khi lên tới 200 – 300mmHg tối đa, trong đó áp lực động mạch ở chân thường không đo được hay giảm xuống rất nhiều. Chức năng thận đôi khi rất kém do rối loạn tuần hoàn ở thận. Ở bệnh nhân thường thấy các dấu hiệu chóng mặt, nhức đầu, kém mắt, chóng mỏi chân khi đi lại, hay bị tê và lạnh chân. Có thể thấy động mạch liên sườn đập và nếu ta đặc ống nghe lên chỗ đó sẽ thấy tiếng thổi tâm thu. Khi ta đặt ống nghe lên thành ngực, chỗ tương ứng với nơi hẹp eo động mạch chủ, ta sẽ nghe thấy tiếng thổi tâm thu. Trên băng ghi điện tim có thể thấy dày thất phải. Ở một số trường hợp, bệnh tiến triển im lặng, không phát hiện thấy một dấu hiệu lâm sàng hay một biến đổi gì trên băng ghi điện tim.

Trên phim chụp X quang ngực, thấy tâm thất to ra, và đặc biệt, thấy 3-4 đôi xương sườn trên cùng có dấu hiệu “mòn răng cưa”. Trên phim X quang thẳng trước – sau, thấy cung thứ nhất và thứ hai của xương sườn có hình số “3”. Khi thông tim có thể phát hiện được các bệnh tim bẩm sinh khác kèm theo. Nhờ phương pháp chụp cản X quang các buồng tim ta có thể định vị được vị trí, thể hình, kích thước và mức độ hẹp động mạch chủ, đồng thời cũng có thể định được trạng thái của động mạch lớn xuất phát từ động mạch chủ.

Tuổi sống trung bình của những bệnh nhân không được điều trị bằng mổ xẻ là từ 30 đến 35 tuổi. Những biến chứng thường dẫn tới tử vong của bệnh hẹp eo động mạch chủ là: vỡ động mạch não, vỡ động mạch chủ, viêm nội mạc tim, suy tim, v.v…Bệnh hẹp eo động mạch chủ

Điều trị bệnh hẹp eo động mạch chủ chỉ có thể thực hiện bằng phương pháp mổ xẻ: cắt bỏ chỗ hẹp động mạch chủ và nối lại tận-tận. Trong trường hợp động mạch chủ bị hẹp ở một đoạn dài, sau khi cắt bỏ chỗ hẹp cần phải ghép thay vào đó bằng một ống ghép mạch máu nhân tạo dacron hay têflon v.v… Kết quả sau mổ thường rất tốt. Tuy vậy, trong một số ít trường hợp khi thành động mạch chủ bị vôi hóa nặng, kết quả sau mổ thường xấu và tiên lượng bệnh cũng rất xấu.

Phác đồ điều trị Bệnh tay chân miệng ở trẻ em

I. ĐẠI CƯƠNG

– Bệnh tay chân miệng là bệnh truyền nhiễm lây từ người sang người, dễ gây thành dịch do vi rút đường ruột gây ra. Hai nhóm tác nhân gây bệnh thường gặp là Coxsackie virus A16 và Enterovirus 71 (EV71). Biểu hiện chính là tổn thương da, niêm mạc dưới dạng phỏng nước ở các vị trí đặc biệt như niêm mạc miệng, lòng bàn tay, lòng bàn chân, mông, gối. Bệnh có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm như viêm não-màng não, viêm cơ tim, phù phổi cấp dẫn đến tử vong nếu không được phát hiện sớm và xử trí kịp thời. Các trường hợp biến chứng nặng thường do EV71.
– Bệnh lây chủ yếu theo đường tiêu hoá. Nguồn lây chính từ nước bọt, phỏng nước và phân của trẻ nhiễm bệnh.
– Bệnh tay chân miệng gặp rải rác quanh năm ở hầu hết các địa phương.
Tại các tỉnh phía Nam, bệnh có xu hướng tăng cao vào hai thời điểm từ tháng 3 đến tháng 5 và từ tháng 9 đến tháng 12 hàng năm.
– Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp ở trẻ dưới 5 tuổi, đặc biệt tập trung ở nhóm tuổi dưới 3 tuổi. Các yếu tố sinh hoạt tập thể như trẻ đi học tại nhà trẻ, mẫu giáo, đến các nơi trẻ chơi tập trung là các yếu tố nguy cơ lây truyền bệnh, đặc biệt là trong các đợt bùng phát.

II. CHẨN ĐOÁN

1. Lâm sàng:

1.1. Triệu chứng lâm sàng:

a) Giai đoạn ủ bệnh: 3-7 ngày.
b) Giai đoạn khởi phát: Từ 1-2 ngày với các triệu chứng như sốt nhẹ, mệt mỏi, đau họng, biếng ăn, tiêu chảy vài lần trong ngày.
c) Giai đoạn toàn phát: Có thể kéo dài 3-10 ngày với các triệu chứng điển hình của bệnh:
– Loét miệng: vết loét đỏ hay phỏng nước đường kính 2-3 mm ở niêm mạc miệng, lợi, lưỡi, gây đau miệng, bỏ ăn, bỏ bú, tăng tiết nước bọt.
– Phát ban dạng phỏng nước: Ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, gối, mông; tồn tại trong thời gian ngắn (dưới 7 ngày) sau đó có thể để lại vết thâm, rất hiếm khi loét hay bội nhiễm.
– Sốt nhẹ.
– Nôn.
– Nếu trẻ sốt cao và nôn nhiều dễ có nguy cơ biến chứng.
– Biến chứng thần kinh, tim mạch, hô hấp thường xuất hiện sớm từ ngày 2 đến ngày 5 của bệnh.
d) Giai đoạn lui bệnh: Thường từ 3-5 ngày sau, trẻ hồi phục hoàn toàn nếu không có biến chứng.

1.2. Các thể lâm sàng:

– Thể tối cấp: Bệnh diễn tiến rất nhanh có các biến chứng nặng như suy tuần hoàn, suy hô hấp, hôn mê dẫn đến tử vong trong vòng 24-48 giờ.
– Thể cấp tính với bốn giai đoạn điển hình như trên.
– Thể không điển hình: Dấu hiệu phát ban không rõ ràng hoặc chỉ có loét miệng hoặc chỉ có triệu chứng thần kinh, tim mạch, hô hấp mà không phát ban và loét miệng.

2. Cận lâm sàng:

2.1. Các xét nghiệm cơ bản:

– Công thức máu: Bạch cầu thường trong giới hạn bình thường. Bạch cầu tăng trên 16.000/mm3 hay đường huyết tăng > 160 mg% (8,9 mmol/L) thường liên quan đến biến chứng
– Protein C phản ứng (CRP) (nếu có điều kiện) trong giới hạn bình thường (< 10 mg/L).
– Đường huyết, điện giải đồ, X quang phổi đối với các trường hợp có biến chứng từ độ 2b.

2.2. Các xét nghiệm theo dõi phát hiện biến chứng:

– Khí máu khi có suy hô hấp
– Troponin I, siêu âm tim khi nhịp tim nhanh ≥ 150 lần/phút, nghi ngờ viêm cơ tim hoặc sốc.
– Dịch não tủy:
+ Chỉ định chọc dò tủy sống khi có biến chứng thần kinh hoặc không loại trừ viêm màng não mủ.
+ Xét nghiệm protein bình thường hoặc tăng, số lượng tế bào trong giới hạn bình thường hoặc tăng, có thể là bạch cầu đơn nhân hay bạch cầu đa nhân ưu thế.

2.3. Xét nghiệm phát hiện vi rút (nếu có điều kiện) từ độ 2b trở lên hoặc cần chẩn đoán phân biệt:

Lấy bệnh phẩm hầu họng, phỏng nước, trực tràng, dịch não tuỷ để thực hiện xét nghiệm RT-PCR hoặc phân lập vi rút chẩn đoán xác định nguyên nhân.

2.4. Chụp cộng hưởng từ não: Chỉ thực hiện khi có điều kiện và khi cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh lý ngoại thần kinh.

3. Chẩn đoán:

3.1. Chẩn đoán ca lâm sàng: Dựa vào triệu chứng lâm sàng và dịch tễ học.

– Yếu tố dịch tễ: Căn cứ vào tuổi, mùa, vùng lưu hành bệnh, số trẻ mắc bệnh trong cùng một thời gian.
– Lâm sàng: Phỏng nước điển hình ở miệng, lòng bàn tay, lòng bàn chân, gối, mông, kèm sốt hoặc không.

3.2. Chẩn đoán xác định:

– Xét nghiệm RT-PCR hoặc phân lập có vi rút gây bệnh.

4. Chẩn đoán phân biệt:

4.1. Các bệnh có biểu hiện loét miệng:

Viêm loét miệng (áp-tơ): Vết loét sâu, có dịch tiết, hay tái phát.

4.2. Các bệnh có phát ban da:

– Sốt phát ban: hồng ban xen kẽ ít dạng sẩn, thường có hạch sau tai.
– Dị ứng: hồng ban đa dạng, không có phỏng nước.
– Viêm da mủ: Đỏ, đau, có mủ.
– Thuỷ đậu: Phỏng nước nhiều lứa tuổi, rải rác toàn thân.
– Nhiễm khuẩn huyết do não mô cầu: mảng xuất huyết hoại tử trung tâm.
– Sốt xuất huyết Dengue: Chấm xuất huyết, bầm máu, xuất huyết niêm mạc.

4.3. Viêm não-màng não:

– Viêm màng não do vi khuẩn.
– Viêm não-màng não do vi rút khác.

4.4. Nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn, viêm phổi.

5. Biến chứng:

5.1. Biến chứng thần kinh: Viêm não, viêm thân não, viêm não tủy, viêm màng não.

– Rung giật cơ (myoclonic jerk, giật mình chới với): Từng cơn ngắn 1-2 giây, chủ yếu ở tay và chân, dễ xuất hiện khi bắt đầu giấc ngủ hay khi cho trẻ nằm ngửa.
– Ngủ gà, bứt rứt, chới với, đi loạng choạng, run chi, mắt nhìn ngược.
– Rung giật nhãn cầu.
– Yếu, liệt chi (liệt mềm cấp).
– Liệt dây thần kinh sọ não.
– Co giật, hôn mê là dấu hiệu nặng, thường đi kèm với suy hô hấp, tuần hoàn.
– Tăng trương lực cơ (biểu hiện duỗi cứng mất não, gồng cứng mất vỏ)

5.2. Biến chứng tim mạch, hô hấp: Viêm cơ tim, phù phổi cấp, tăng huyết áp, suy tim, trụy mạch.

– Mạch nhanh > 150 lần/phút.
– Thời gian đổ đầy mao mạch chậm trên 2 giây.
– Da nổi vân tím, vã mồ hôi, chi lạnh. Các biểu hiện rối loạn vận mạch có thể chỉ khu trú ở 1 vùng cơ thể (1 tay, 1 chân,…)
– Giai đoạn đầu có huyết áp tăng (HA tâm thu: trẻ dưới 1 tuổi 100 mmHg, trẻ từ 1-2 tuổi ≥ 110 mmHg, trẻ trên 2 tuổi ≥ 115 mmHg), giai đoạn sau mạch, huyết áp không đo được.
– Khó thở: Thở nhanh, rút lõm ngực, khò khè, thở rít thì hít vào, thở nông, thở bụng, thở không đều.
– Phù phổi cấp: Sùi bọt hồng, khó thở, tím tái, phổi nhiều ran ẩm, nội khí quản có máu hay bọt hồng.

6. Phân độ lâm sàng:

6.1. Độ 1: Chỉ loét miệng và/hoặc tổn thương da.

6.2. Độ 2:

6.2.1. Độ 2a: có một trong các dấu hiệu sau:
+ Bệnh sử có giật mình dưới 2 lần/30 phút và không ghi nhận lúc khám
+ Sốt trên 2 ngày, hay sốt trên 390C, nôn, lừ đừ, khó ngủ, quấy khóc vô cớ.

6.2.2. Độ 2b: có dấu hiệu thuộc nhóm 1 hoặc nhóm 2 :
* Nhóm 1: Có một trong các biểu hiện sau:
– Giật mình ghi nhận lúc khám.
– Bệnh sử có giật mình ≥ 2 lần /30 phút.
– Bệnh sử có giật mình kèm theo một dấu hiệu sau:
+ Ngủ gà.
+ Mạch nhanh > 130 lần /phút (khi trẻ nằm yên, không sốt).
* Nhóm 2: Có một trong các biểu hiện sau:
– Sốt cao ≥ 39,5oC (đo nhiệt độ hậu môn) không đáp ứng với thuốc hạ sốt.
– Mạch nhanh > 150 lần /phút (khi trẻ nằm yên, không sốt).
– Thất điều: run chi, run người, ngồi không vững, đi loạng choạng.
– Rung giật nhãn cầu, lác mắt.
– Yếu chi hoặc liệt chi.
– Liệt thần kinh sọ: nuốt sặc, thay đổi giọng nói…

6.3. Độ 3: có các dấu hiệu sau:

– Mạch nhanh > 170 lần/phút (khi trẻ nằm yên, không sốt).
– Một số trường hợp có thể mạch chậm (dấu hiệu rất nặng).
– Vã mồ hôi, lạnh toàn thân hoặc khu trú.
– HA tâm thu tăng:
+ Trẻ dưới 12 tháng HA > 100 mmHg.
+ Trẻ từ 12 tháng đến dưới 24 tháng HA > 110 mmHg.
+ Trẻ từ trên 24 tháng HA > 115 mmHg.
– Thở nhanh, thở bất thường: Cơn ngưng thở, thở bụng, thở nông, rút lõm ngực, khò khè, thở rít thì hít vào.
– Rối loạn tri giác (Glasgow < 10 điểm).
– Tăng trương lực cơ.

6.4. Độ 4: có một trong các dấu hiệu sau:

– Sốc.
– Phù phổi cấp.
– Tím tái, SpO2 < 92%.
– Ngưng thở, thở nấc.

III. ĐIỀU TRỊ

1. Nguyên tắc điều trị:

– Hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, chỉ điều trị hỗ trợ (không dùng kháng sinh khi không có bội nhiễm).
– Theo dõi sát, phát hiện sớm, phân độ đúng và điều trị phù hợp.
– Đối với trường hợp nặng phải đảm bảo xử trí theo nguyên tắc hồi sức cấp cứu (ABC…)
– Bảo đảm dinh dưỡng đầy đủ, nâng cao thể trạng.

2. Phân tuyến điều trị:

2.1. Trạm y tế xã và phòng khám tư nhân:

– Khám và điều trị ngoại trú bệnh tay chân miệng độ 1
– Chuyển tuyến: đối với bệnh tay chân miệng độ 2a trở lên hoặc độ 1 với trẻ dưới 12 tháng hoặc có bệnh phối hợp kèm theo.
– Điều kiện: Bác sỹ, điều dưỡng đã được tập huấn chẩn đoán, điều trị bệnh tay chân miệng.

2.2. Bệnh viện huyện, bệnh viện tư nhân.

– Khám, điều trị bệnh tay chân miệng độ 1 và 2a.
– Chuyển tuyến: đối với bệnh tay chân miệng độ 2b trở lên hoặc độ 2a có bệnh phối hợp kèm theo.
– Điều kiện: Bác sỹ, điều dưỡng đã được tập huấn chẩn đoán, điều trị bệnh tay chân miệng.

2.3. Bệnh viện đa khoa, đa khoa khu vực, chuyên khoa Nhi tuyến tỉnh.

– Khám, điều trị bệnh tay chân miệng tất cả các độ.
– Chuyển tuyến: Đối với bệnh tay chân miệng độ 3,4 khi không có đủ điều kiện hồi sức tích cực Nhi, đảm bảo chuyển tuyến an toàn.
– Điều kiện:
+ Bác sỹ, điều dưỡng được huấn luyện nâng cao về điều trị và hồi sức bệnh tay chân miệng.
+ Có đơn nguyên điều trị bệnh tay chân miệng.

2.4. Bệnh viện Nhi, Truyền nhiễm và các bệnh viện được Bộ Y tế phân công là bệnh viện tuyến cuối của các khu vực.

– Khám, điều trị bệnh tay chân miệng tất cả các độ.
– Điều kiện:
+ Bác sỹ, điều dưỡng được huấn luyện nâng cao về điều trị và hồi sức bệnh tay chân miệng.
+ Có đầy đủ trang thiết bị cấp cứu, hồi sức bệnh tay chân miệng.
+ Có đơn vị huấn luyện bệnh tay chân miệng.

3. Điều trị cụ thể:

3.1. Độ 1: Điều trị ngoại trú và theo dõi tại y tế cơ sở.

– Dinh dưỡng đầy đủ theo tuổi. Trẻ còn bú cần tiếp tục cho ăn sữa mẹ.
– Hạ sốt khi sốt cao bằng Paracetamol liều 10 mg/kg/lần (uống) hoặc 15 mg/kg/lần (toạ dược) mỗi 6 giờ.
– Vệ sinh răng miệng.
– Nghỉ ngơi, tránh kích thích.
– Tái khám mỗi 1-2 ngày trong 8-10 ngày đầu của bệnh. Trẻ có sốt phải tái khám mỗi ngày cho đến khi hết sốt ít nhất 48 giờ.
– Cần tái khám ngay khi có dấu hiệu từ độ 2a trở lên như:
+ Sốt cao ≥ 39oC.
+ Thở nhanh, khó thở.
+ Giật mình, lừ đừ, run chi, quấy khóc, bứt rứt khó ngủ, nôn nhiều.
+ Đi loạng choạng.
+ Da nổi vân tím, vã mồ hôi, tay chân lạnh.
+ Co giật, hôn mê.

3.2. Độ 2: Điều trị nội trú tại bệnh viện

3.2.1. Độ 2a:
– Điều trị như độ 1. Trường hợp trẻ sốt cao không đáp ứng tốt với paracetamol có thể phối hợp với ibuprofen 5-10 mg/kg/lần lặp lại mỗi 6-8 giờ nếu cần (dùng xen kẽ với các lần sử dụng paracetamol, không dùng thuốc hạ sốt nhóm aspirin). Tổng liều tối đa của ibuprofen là 40 mg/kg/ngày.
– Thuốc: Phenobarbital 5 – 7 mg/kg/ngày, uống.
– Theo dõi sát để phát hiện dấu hiệu chuyển độ.
3.2.2. Độ 2b: Điều trị tại phòng cấp cứu hoặc hồi sức
– Nằm đầu cao 30°.
– Thở oxy qua mũi 3-6 lít/phút.
– Hạ sốt tích cực nếu trẻ có sốt.
– Thuốc:
+ Phenobarbital 10 – 20 mg/kg truyền tĩnh mạch. Lặp lại sau 8-12 giờ khi cần.
+ Immunoglobulin:
√ Nhóm 2: 1g/kg/ngày truyền tĩnh mạch chậm trong 6-8 giờ. Sau 24 giờ nếu còn dấu hiệu độ 2b: Dùng liều thứ 2
√ Nhóm 1: Không chỉ định Immunoglobulin thường quy. Nếu triệu chứng không giảm sau 6 giờ điều trị bằng Phenobarbital thì cần chỉ định
Immunoglobulin. Sau 24 giờ đánh giá lại để quyết định liều thứ 2 như nhóm 2.
– Theo dõi mạch, nhiệt độ, huyết áp, nhịp thở, kiểu thở, tri giác, ran phổi mỗi 1- 3 giờ trong 6 giờ đầu, sau đó theo chu kỳ 4-5 giờ.
– Đo độ bão hòa oxy SpO2 và theo dõi mạch liên tục (nếu có máy).

3.3. Độ 3: Điều trị tại đơn vị hồi sức tích cực

– Thở oxy qua mũi 3-6 lít/phút, sau 30 – 60 phút nếu đáp ứng kém nên đặt nội khí quản giúp thở sớm.
– Chống phù não: nằm đầu cao 30 , hạn chế dịch (tổng dịch bằng 1/2-3/4 nhu cầu bình thường), thở máy tăng thông khí giữ PaCO2 từ 30-35 mmHg và duy trì PaO2 từ 90-100 mmHg.
– Phenobarbital 10 – 20 mg/kg truyền tĩnh mạch. Lặp lại sau 8-12 giờ khi cần. Liều tối đa: 30 mg/kg/24 giờ.
– Immunoglobulin (Gammaglobulin): 1g/kg/ngày truyền tĩnh mạch chậm trong 6-8 giờ, dùng trong 2 ngày liên tục.
– Dobutamin được chỉ định khi suy tim mạch > 170 lần/phút, liều khởi đầu 5µg/kg/phút truyền tĩnh mạch, tăng dần 1-2,5µg/kg/phút mỗi 15 phút cho đến khi có cải thiện lâm sàng; liều tối đa 20µg/kg/phút (không dùng Dopamin).
– Milrinone truyền tĩnh mạch 0,4 – 0,75 µg/kg/phút chỉ dùng khi HA cao, trong 24-72 giờ. Nếu huyết áp ổn định trong 12-24 giờ, giảm dần liều milrinone 0,1 µg/kg/phút mỗi 30-60 phút cho đến liều tối thiểu 0,25 µg/kg/phút. Nếu huyết áp ổn định ở liều tối thiểu này trong ít nhất 6 giờ thì xem xét ngưng milrinone.
– Điều chỉnh rối loạn nước, điện giải, toan kiềm, điều trị hạ đường huyết.
– Hạ sốt tích cực.
– Điều trị co giật nếu có: Midazolam 0,15 mg/kg/lần hoặc Diazepam 0,2-0,3 mg/kg truyền tĩnh mạch chậm, lập lại sau 10 phút nếu còn co giật (tối đa 3 lần).
– Theo dõi mạch, nhiệt độ, huyết áp, nhịp thở, tri giác, ran phổi, SpO2, mỗi 1- 2 giờ. Nếu có điều kiện nên theo dõi huyết áp động mạch xâm lấn.

2.4. Độ 4: Điều trị tại các đơn vị hồi sức tích cực

– Đặt Nội khí quản thở máy: Tăng thông khí giữ PaCO2 từ 30-35 mmHg và duy trì PaO2 từ 90-100 mmHg.
– Chống sốc: Sốc do viêm cơ tim hoặc tổn thương trung tâm vận mạch ở thân não.
+ Nếu không có dấu hiệu lâm sàng của phù phổi hoặc suy tim: Truyền dịch Natri clorua 0,9% hoặc Ringer lactat: 5 ml/kg/15 phút, điều chỉnh tốc độ theo hướng dẫn CVP và đáp ứng lâm sàng. Trường hợp không có CVP cần theo dõi sát dấu hiệu quá tải, phù phổi cấp.
+ Đo và theo dõi áp lực tĩnh mạch trung ương.
+ Dobutamin liều khởi đầu 5µg/kg/phút, tăng dần 2- 3µg/kg/phút mỗi 15 phút cho đến khi có hiệu quả, liều tối đa 20 µg/kg/phút.
– Phù phổi cấp:
+ Ngừng ngay dịch truyền nếu đang truyền dịch.
+ Dùng Dobutamin liều 5-20 µg/kg/phút.
+ Furosemide 1-2 mg/kg/lần tiêm tĩnh mạch chỉ định khi quá tải dịch.
– Điều chỉnh rối loạn kiềm toan, điện giải, hạ đường huyết và chống phù não:
– Lọc máu liên tục hay ECMO (nếu có điều kiện).
– Immunoglobulin: Chỉ định khi HA trung bình ≥ 50mmHg
– Kháng sinh: Chỉ dùng kháng sinh khi có bội nhiễm hoặc chưa loại trừ các bệnh nhiễm khuẩn nặng khác
– Theo dõi mạch, nhiệt độ, huyết áp, nhịp thở, tri giác, ran phổi, SpO2, nước tiểu mỗi 30 phút trong 6 giờ đầu, sau đó điều chỉnh theo đáp ứng lâm sàng;
Áp lực tĩnh mạch trung tâm mỗi giờ, nếu có điều kiện nên theo dõi huyết áp động mạch xâm lấn.

4. Tiêu chuẩn xuất viện:

Người bệnh tay chân miệng có biến chứng nặng (độ 3, 4) được chỉ định xuất viện không chỉ ổn định về lâm sàng mà còn phải ổn định về các biến chứng và di chứng. Đối với các trường hợp bệnh tay chân miệng điều trị nội trú khác có thể xuất viện khi có đủ 4 điều kiện sau:
– Không sốt ít nhất 24 giờ liên tục (không sử dụng thuốc hạ sốt)
– Không còn các biểu hiện lâm sàng phân độ nặng từ độ 2a trở lên ít nhất trong 48 giờ.
– Có điều kiện theo dõi tại nhà và tái khám ngay nếu có diễn tiến nặng
(nếu chưa đến ngày thứ 8 của bệnh, tính từ lúc khởi phát).
– Các di chứng (nếu có) đã ổn định: không cần hỗ trợ hô hấp, ăn được qua đường miệng.

IV. PHÒNG BỆNH

1. Nguyên tắc phòng bệnh:

– Hiện chưa có vắc xin phòng bệnh đặc hiệu.
– Áp dụng các biện pháp phòng ngừa chuẩn và phòng ngừa đối với bệnh lây qua đường tiêu hoá, đặc biệt chú ý tiếp xúc trực tiếp với nguồn lây.

2. Phòng bệnh tại các cơ sở y tế:

– Cách ly theo nhóm bệnh.
– Nhân viên y tế: Mang khẩu trang, rửa, sát khuẩn tay trước và sau khi chăm sóc.
– Khử khuẩn bề mặt, giường bệnh, buồng bệnh bằng Cloramin B 2%. Lưu ý khử khuẩn các ghế ngồi của bệnh nhân và thân nhân tại khu khám bệnh.
– Xử lý chất thải, quần áo, khăn trải giường của bệnh nhân và dụng cụ chăm sóc sử dụng lại theo quy trình phòng bệnh lây qua đường tiêu hoá.

3. Phòng bệnh ở cộng đồng:

– Vệ sinh cá nhân, rửa tay bằng xà phòng (đặc biệt sau khi thay quần áo, tã, sau khi tiếp xúc với phân, nước bọt).
– Rửa sạch đồ chơi, vật dụng, sàn nhà.
– Lau sàn nhà bằng dung dịch khử khuẩn Cloramin B 2% hoặc các dung dịch khử khuẩn khác.
– Cách ly trẻ bệnh tại nhà. Không đến nhà trẻ, trường học, nơi các trẻ chơi tập trung trong 10 – 14 ngày đầu của bệnh./.

Cam toại

Cam toại
Cam toại

CAM TOẠI

Tên khoa học: Euphorbia sieblodian Morren et Decasne hay Euphorbia kansui Liou.), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae)

Mô tả:

Cây: Cây thảo sống đa niên, có độc. Thân cao hơn 0,3m, gốc rễ màu hơi hồng tím, lá dài hình viên chùy, mép nguyên, mọc đôi, lá dưới cuống hoa tương đối lớn, nở hoa đầu mùa hè màu nâu tím.

Dược liệu: Rễ khô Cam toại hình thoi dạng chuỗi liền, xoắn không đều, dài khoảng 3,2-6cm, hai đầu nhỏ hơn, chính giữa phình lớn, vỏ ngoài màu vàng trắng hoặc màu trắng bẩn, nhiều nhất là nơi lõm vào, chỉ nhân ngang ít hơn, chất nhẹ giòn, chính giữa mặt cắt ngang có chất xơ dính liền, mặt cắt chất bột màu trắng gần tâm có tổ chức một vòng dạng xơ thể hiện màu vàng trắng. Loại to, ít xơ, nhiều bột trắng ngà, không có mọt là tốt.

Bộ phận dùng: Dược liệu là rễ cây Cam toại (Euphorbia sieblodian Morren et Decasne hay Euphorbia kansui Liou.)

Phân bố: Vị thuốc phải nhập từ Trung Quốc.

Thu hái: Chọn rễ vào tháng 2, tháng 8, phơi trong râm cho khô.

Bộ phận dùng: rễ.

Thành phần hoá học:

Phenolic: 1,1-bis(2,6-dihydroxy-3- acetyl-4-methoxyphenyl)methane, methyl (2,4- dihydroxy-3-formyl-6-methoxy)phenyl ketone; Diterpene: 20-O-(2’E,4’E-decadienoyl)ingenol, 20-O-(2’E,4’Z-decadienoyl)ingenol, 3-O-(2’E,4’Z-decadienoyl)ingenol, 3-O-(2’E,4’E-decadienoyl)ingenol, 3-O-(2’E,4’Z- decadienoyl)-5-O-acetylingenol, 3-O-(2’E,4’Z-decadienoyl)-20-O-acetylingenol, 3- O-(2’E,4’E-decadienoyl)-20-O-acetylingenol, 20-O-(decanoyl)ingenol, and 5-O- (2’E,4’E-decadienoyl)ingenol

Công năng: Thông lợi đại tiểu tiện, bài tiết thủy thấp, trục ẩm, đồng thời có tác dụng giải độc tán kết.

Công dụng: Là thuốc xổ tẩy mạnh. Trị phù thủng, đàm ẩm, nước tích ở xoang ngực, bụng. Dùng ngoài để trị thấp nhiệt sưng độc

Cách dùng, liều lượng: Cam toại dùng sống (Sinh cam toại) có tác dụng mạnh và độc tính mạnh (liều mỗi ngày 0,3-1g). Cam toại nướng, xào dấm làm chậm tác dụng xổ tẩy và giảm độc tính (liều mỗi ngày 1,5-3g). Dùng dạng bột hay dạng viên.

Bào chế:

+ Lấy rễ gĩa nát nhỏ dùng nước Cam thảo ngâm 3 ngày, khi ấy nước thành đen như mực, xong vớt ra ngâm vào nước chảy. Rửa đãi 3-7 lần cho đến khi nước trong thì thôi. Sao giòn dùng (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Luận).

+ Lấy bột bọc Cam toại nướng chín cho bớt chất độc rồi dùng (Bản Thảo Cương Mục).

+ Lấy rễ ngâm nước trong vòng 3 giờ, vớt ra cạo sạch vỏ ngoài, xắt mỏng, sao với Cám, tỷ lệ cứ 1 phần Cam toại một phần Cám bằng nhau, cho tới khi vàng giòn. Có thể tán bột (Có người ngâm với nước Cam thảo và Tề ni rồi mới làm như trên) (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+ Lấy Cam đã rẩy qua nước cho ẩm, bọc lấy Cam toại đã rửa sạch, xong đốt cho cháy cám ở ngoài (Trung Dược Đại Từ Điển).

Bài thuốc:

+ Thương hàn biến chứng thủy kết hung, dùng Cam toại bỏ vào thang “Hãm hung thang” uống rất hiệu quả (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+ Mặt mình sưng húp dùng Cam toại 2 chỉ, dùng thịt thăn của heo đực “Yêu tử” cắt làm 7 miếng, bỏ bột Cam toại vào lấy giấy ướt bao ngoài nướng chín ngày ăn một miếng, liên tục 4-5 ngày khi nào nghe sôi bụng, lợi tiểu là có hiệu quả (Trửu Hậu Phương).

+ Dưới tim như có cảm giác nước đọng đầy cứng, mạch Phục, bệnh nhân đi cầu là dễ chịu: Cam toại củ lớn 3 củ, Bán hạ 12 củ, sắc một thăng nước còn phân nửa, bỏ vào 5 củ Thược dược với 2 bát nước sắc lại còn nửa thăng bỏ bã, trộn với nửa cân mật ong sắc còn 8 phân uống (Cam Toại Bán Hạ Thang – Kim Quỹ Yếu Lược).

+ Đại tiểu tiện không thông dùng bột Cam toại, bột miến sống trộn dẻo đều đắp vào giữa rốn rồi đơn điền rồi cứu 3 tráng, bên trong uống ‘Cam Thảo Thang’, khi nào thông thì thôi, lại dùng Cam toại 1 lượng trộn mật, chia làm 4 lần, ngày uống 1 lần thì thông (Thánh Huệ Phương).

+ Phù thủng, thở gấp dùng Cam toại, Đại kích mỗi thứ 1 lượng, sao lửa cho kỹ tán bột, lần uống nửa muỗng cà phê sắc với nửa ch n nước sôi uống (Thánh Tế Tổng Lục).

+ Bí đái tức tối khó chịu: bột Cam toại 4g uống với ‘Trư Linh Thang’ thì thông (Bút Phong Tạp Hứng Phương).

+ Phù thủng bụng căng đầy: dùng Cam toại (sao) 2 chỉ 2 phân, Hắc khiên ngưu 1 lượng 5 chỉ tán bột sắc, uống từng hớp (Phổ Tế Phương).

+ Phù thẳng căng đầy, đại tiểu tiện không lợi muốn chết, dùng Cam thảo 5 chỉ (nửa sống nửa sao), dùng Yên chi phôi tử 5 muỗng cà phê tán bột lần uống 1 chỉ, Bạch miến 4 lượng trộn nước làm như con cờ nấu với nước khi nào nổi lên là được rồi ăn nhạt, sau khi lợi đại tiểu tiện dùng tiếp “Bình vị tán” gia thục Phụ tử 2 chỉ sắc uống (Phổ Tế Phương).

+ Thận thủy lưu chú làm đùi gối co quắp, tứ chi sưng đau, dùng bài trên gia thêm Mộc hương 4 chỉ, mỗi lần dùng 2 chỉ lùi chín uống nhai với rượu nóng khi nào đái ra nước vàng thì có hiệu quả (Ngự Dược Viên Phương).

+ Trẻ em cam thủy dùng Cam toại (sao), Thanh quật bì, 2 vị bằng nhau tán bột, 3 tuổi dùng 1 chỉ uống với “Mạch nha thang”, khi nào đi ngoài được là thôi. Củ đồ chua mặn trong 3,5 ngày gọi là “Thủy bảo tán” (Tổng Vi Luận Phương).

+ Phù thủng thở gấp, đại tiểu tiện không thông dùng “Thập táp hoàn” gồm Cam toại, Đại kích, Nguyên hoa, các vị bằng nhau tán bột, lấy Táo nhục làm viên bằng hạt ngô đồng, lần uống 40 viên với ‘Xâm Thần Nhiệt Thang’ khi nào đi ra nước vàng là thôi, nếu chưa thì trưa hôm sau uống tiếp (Tam Nhân Phương).

+ Có thai phù húp thở gấp, bụng dưới đầy, tiểu không thông, đã dùng ‘Trư Kinh Tán’ nhưng không bớt, dùng Cam toại 2 lượng, gĩa nát, trộn mật viên bằng hạt ngô đồng lần uống 50 viên, hễ đi ra ngoài được là tốt nhưng phải uống ‘Trư Linh Tán’, nếu không đi được, lại uống tiếp (Tiểu Phẩm Phương).

+ Cước khí sưng đau, phong khí đập vào thận khí, hạ bộ ngứa dùng Cam loại nửa lượng. Mộc miết tử nhân 4 cái tán bột, thăn thịt heo 1 cái bỏ màng da xắt lát để dùng, lần 4 chỉ thuốc bỏ vào trong thịt bao với giấu ướt nướng chín ăn lúc đói với nước cơm, sau khi uống thì duỗi 2 chân răng, đi đại tiện xong phải ăn cháo trắng 2-3 ngày là có hiệu quả (Bản Sự Phương).

+ Sán khí sa dịch hoàn, dùng Cam toại, Hồi hương 2 vị bằng nhau tán bột uống lần 2 chỉ (Nho Môn Sự Thân).

+ Đàn bà huyết kết ở bụng nước căng đầy tiểu khó nhưng không khát nước là do thủy và huyết cùng kết lại ở huyết thất, dùng Đại hoàng 3 lượng, Cam toại, A giao mỗi thứ 1 lượng, 1 thăng rưỡi nước sắc còn nửa thăng uống thì huyết đó sẽ hạ (Trọng cảnh phương).

+ Nghẹn, nấc cụt, dùng Cam thảo trộn với miến nướng 5 chỉ, Nam mộc hương một chỉ tán bột, người mạnh lần uống 1 chỉ, người yếu uống 5 phân với rượu (Quái Bệnh Phương).

+ Tức ngực phát sốt, ra mồ hôi trộm đầu nhức vùng vai lưng dùng Cam toại bao với miến nấu với nước tương thật sôi bỏ iến đi rồi lấy cám nhỏ sao vàng tán bột, người lớn dùng 3 chỉ, trẻ em dùng 1 chỉ uống với mật khi ngủ. Cữ dầu béo, thịt cá (Phổ tế phương).

+ Tiêu khát hay khát nước dùng Cam toại (sao cám) nửa lượng, Hoàng liên 1 lượng tán bột nấu làm bánh bằng hạt đậu xanh, lần uống 2 viên với nước Bạc hà, Kỵ Cam thảo (Dương Thị Gia Tàng).

+ Trị phong đàm làm mê tâm khiếu, động kinh, đàn bà phong tà ở tâm huyết, dùng Cam toại 2 lượng tán bột, bỏ thuốc vào tim heo bao giấy lại nước chín bảo vào 1 chỉ Thần sa chia làm 4 viên, lần uống một viên với nước sắc ‘Tâm Tiển Thang’, đại tiện ra những vật độc là có hiệu quả, không nên uống tiếp (Toại Tâm Đơn – Tế Sinh Phương).

+ Mã tỳ phong dùng Cam toại bao với miến sắc 1 chỉ rưỡi, Thần sa (thủy phi) 2 chỉ rưỡi khinh phấn 1/4 muỗng cà phê. Lần uống nửa muỗng cà phê, 1 chút nước tương, nhỏ 1 giọt trên thuốc cho thấm xuống rồi bỏ nước tương đi, rót nước vào đó gọi là “Vô giá tán” (Toàn Ấu Tâm Giám).

+ Trị tê mất cảm giác đau nhức, dùng Cam toại 2 lượng, Tỳ ma nhân tử 4 lượng, Chương nảo 1 lượng tán bột làm bánh dán vào đó, trong uống Cam thảo thang (Vạn Linh Cao – Trích Huyền Phương).

+ Tai điếc đột ngột, dùng Cam toại nửa tấc ta, bọc lông lại nhét vào trong hai lỗ tai, trong miệng nhai Cam thảo thì tai tự nhiên thông (Vĩnh Loại Kiềm Phương).

+ Trị Can Tỳ sưng lớn, cổ trướng, đại tiểu tiện ít, mạch trầm sác có lực “” gồm: Cam toại 1 lượng, Nguyên hoa 1 lượng, Đại kích 1 lượng, Khiên ngưu tử 4 lượng, Binh lang 5 chỉ, Khinh phấn 1 chỉ, Mộc hương 5 chỉ, Thanh bì 5 chỉ, Tất cả tán bột trộn hồ làm viên bằng hạt đậu xanh, lần uống 1 chỉ, ngày 1 lần lúc đói với nước nóng (Chu Xa Hoàn). Cần chú ý bệnh tình phản ứng sau khi uống thuốc để dùng tiếp hoặc ngưng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị thủy kết hung hiếp, đầy tức ngực, bón, mạch chứng đều thuộc nhiệt, các loại động kinh có đàm nhớt ủng thịnh: Cam toại 5 phân, Đại hoàng 3 chỉ, Mang tiêu 3 chỉ, sắc uống (Đại Hãm Hung Thang – Kim Quỹ Yếu Lược)

+ Trị sưng độc do thấp nhiệt các loại bỉ khối: Bột Cam toại trộn nước dán nơi sưng đồng thời sắc nước Cam thảo uống, dùng để triï các loại sưng độc (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị điên cuồng có thể dùng Cam toại 5 phân, Châu sa 3 phân, tán bột uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Ghi chú: Dược liệu độc, không dùng cho phụ nữ có thai, không dùng chung với Cam thảo.

Bệnh viêm động mạch thái dương (viêm động mạch sọ)

Tên khác: bệnh Horton, viêm động mạch tế bào khổng lồ, viêm động mạch sọ.

Định nghĩa

Viêm mạch máu hoại tử có các tế bào không lồ, chủ yếu xảy ra ở động mạch thái dương, đôi khi ở cả các động mạch khác nữa của thân động mạch tay đầu.

Bệnh giả viêm đa khớp gốc chi (bệnh thấp viêm các đai chi) thường hay kết hợp với bệnh viêm động mạch thái dương và có thể xuất hiện trước hoặc sau bệnh viêm động mạch này.

Căn nguyên

Chưa rõ. Tỷ lệ bị bệnh ước lượng là 200/100.000 người.

Giải phẫu bệnh

Những nhánh có kích cỡ trung bình của động mạch cảnh ngoài bị viêm. Thành cơ của các động mạch này (lớp áo cơ) bị thâm nhiễm bởi những tế bào lympho và hình thành những mô hạt, trong đó có chứa những tế bào khổng lồ nhiều nhân (đa nhân).

Thâm nhiễm tế bào lympho và tế bào khổng lồ nhiều nhân gây ra dày lớp nội mô, và làm cho lòng động mạch hẹp lại. Thường có những huyết khối hình thành ở những đoạn động mạch bị tổn thương viêm.

Triệu chứng

Bệnh hiếm thấy ở đối tượng dưới 60 tuổi, nữ giới bị bệnh nhiều gấp ba lần hơn so với nam giới. Viêm động mạch thái dương thể hiện bởi những cơn nhức đầu kèm theo giảm thị lực, động tác của các cơ nhai bị yếu từng lúc (gián cách), da đầu nhạy cảm quá mức, thân nhiệt ở mức sốt nhẹ. Sờ nắn các động mạch thái dương thấy cứng rắn và đau (gọi là thừng viêm) và có thể có cảm giác như sờ thấy chuỗi hạt.

Biến chứng

Nếu không được điều trị, viêm động mạch thái dương có thể bị biến chứng bất ngờ tắc nghẽn động mạch trung tâm võng mạc từ đó gây ra mù đột ngột và không hồi phục. Những động mạch khác của não cũng có thể bị bệnh tác động và ở đó hình thành huyết khối gây liệt các dây thần kinh vận nhãn, suy giảm chức năng thần kinh, và rối loạn tâm thần. Huyết khối trong các động mạch ở chi trên và ở động mạch vành (gây ra nhồi máu cơ tim) cũng có thể hình thành trong quá trình bệnh, tuy hiếm hơn.

Xét nghiệm cận lâm sàng

  • Tốc độ máu lắng(huyết trầm): tăng mạnh (trên 100 mm sau giờ đầu tiên).
  • Huyết đồ:thiếu máu nhẹ (nhược sắc hoặc đẳng sắc), tăng bạch cầu trong máu không nhất thiết, đôi khi tăng số lượng tiểu cầu.
  • Giảm albumin-huyết, tăng alpha-2-globulin và tăng fibrinogen (chất sinh sợi huyết).

Xét nghiệm bổ sung: chẩn đoán xác định dựa trên sinh thiết động mạch thái dương phát hiện thấy những tế bào khổng lồ nhiều nhân.

Chẩn đoán, dựa trên:

Triệu chứng nhức đầu, thường kèm theo rối loạn thị lực và các cơ nhai yếu từng lúc.

Bệnh xuất hiện ở đối tượng trên 50 tuổi, với sốt nhẹ và gày.

Sờ nắn động mạch thái dương thấy không bình thường.

Tốc độ máu lắng tăng mạnh .

Sinh thiết động mạch thái dương có hình ảnh điển hình (tế bào khổng lồ nhiều nhân)

Tiên lượng: được điều trị sớm thì tiên lượng tốt.

Điều trị

Để phòng ngừa huyết khối ở động mạch trung tâm võng mạc, nhất là ở bệnh nhân già, thì bắt buộc phải sử dụng liệu pháp corticoid. Có thể cho prednisolon với liều 40-60 mg mỗi ngày cho tới khi khỏi cơn bệnh, rồi giảm dần dần tới liều duy trì (khoảng 10 mg/ngày). Tốc độ máu lắng là một chỉ số tốt chứng tỏ điều trị có hiệu quả. Nếu kết quả đưa tốc độ máu lắng trở lại bình thường thì có thể ngừng điều trị dần dần sau từ 1-3 năm.

Chứng Tiểu trường khí trệ

Chứng Tiểu trường khí trệ còn gọi là Tiểu trường khí thống. Chứng n là tên gọi chung do ngoại cảm hàn tà, âm hàn ngưng trệ ở Tiểu trường, khí cơ không thư sướng, nếu xuất hiện chứng đau thắt ở bụng dưới hoặc Tiểu trường từ phía dưới khoang bụng đi vào bộ phận âm nang làm cho khí trường trệ và đau; Bệnh phần nhiều do ngoại cảm hàn tà, hoặc tình tự uất ức, cáu giận gào khóc gây nên.

Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là bụng dưới đau thắt, trướng bụng ruột sôi, âm nang sán thống, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Trầm Huyền hoặc Trầm Hoạt.

Chứng Tiểu trường khí trệ thường gặp trong các bệnh Hàn sán, Khí sán và Phúc thống.

Cần chẩn đoán phân biệt với chứng Tiểu trường hư hàn.

Phân tích

– Trong bệnh Hàn sán, chứng Tiểu trường khí trệ phần nhiều biểu hiện các chứng trạng âm nang co rút và đau, ưa ấm sợ lạnh, hoặc cơ thể lạnh, chân lạnh, rêu lưỡi trắng, mạch Trầm Huyền. Bệnh đa số do nằm lâu nơi đất ẩm, trời lạnh lại lội nước bị cảm nhiễm tà khí hàn thấp đến nỗi hàn thấp ngưng trệ. Mạch của Túc Quyết âm Can, chằng qua bộ phận sinh dục, đi qua phía trong bụng dưới, bị hàn ngưng khí trệ đi vào đường lạc của Quyết âm mà thành bệnh. Sách Chư bệnh nguyên hậu luận viết: Các bệnh Sán, âm khí tích ở trong, lại bị thêm hàn khí, khiến cho doanh vệ không điều hòa, khí huyết hư yếu, cho nên phong lạnh đi vào trong bụng mà thành bệnh Sán. Điều trị nên Ôn Can tán hàn, cho uống bài Noãn Cam tiễn (Cảnh Nhạc toàn thư).

– Nếu bệnh Khí sán gặp ở chứng Tiểu trường khí, phần nhiều xuất hiện chứng âm nang sưng trướng, Cao hoàn trướng đau lệch một bên, bụng dưới kết trệ khó chịu, lúc chùng, lúc căng, thường do cáu giận hoặc gào khóc, mệt nhọc quá mức mà phát cơn đau, rêu lưỡi mỏng, mạch Huyề Đây là do tìiín chí ức uất, Can uất khí trệ, dồn xuống Cao hoàn gây nên sưng đau. Như thể trạng vốn hư yếu, gắng sức quá mệt nhọc, mệt nhọc thì khí háo, khí hư hạ hãm đến nỗi Cao hoàn ở bụng dưới sa xuống và đau hình thành Khí sán. Lý Diên nói: “Khí sán bên trên liền với Thận du, bên dưới liền với âm nang, khi bị uất ức gào khóc tức giận thì trướng, hoặc mệt nhọc cưỡi ngựa làm cho hòn ngoại thận sưng trướng”. Khí trệ thuộc Thực, nên sơ Can lý khí, cho uống bài Thiên thai ô dược tán (Y học phát minh). Khí hãm thuộc Hư, nên ích khí nâng hãm lên, cho uống Bổ trung ích khí thang (Tỳ Vị luận).

– Chứng Tiểu trường khí gặp trong bệnh Phúc thống phần nhiều có chứng đau thắt bụng dưới, đau mà cự án, trướng bụng sôi bụng, gặp sự cáu giận phiền não thì dễ phát cơn đau hoặc đau tăng, gặp hơi ấm hoặc trung tiện thì giảm đau; rêu lưỡi mỏng, mạch Huyền Tế, điều trị chủ yếu phải thư Can điều khí, cho uống Tân định ngô thù du thang(Kim Quỹ dực) hợp với Thược dược cam thảo thang (Thương hàn luận) gia giảm.

Chứng Tiểu trường khí trệ có liên quan tới hàn ngưng khí trệ thuộc Can kinh; Do đó điều trị phần nhiều chủ yếu phải sơ Can lý khí. Trên lâm sàng, những người bị chứng Sán khí nên khuyên họ giữ ấm, hạn chế lao động mệt nhọc quá mức, tính tình cần thư thái đề phòng xúc động phát sinh chứng này.

Chẩn đoán phân biệt

Chứng Tiểu trường hư hàn với chứng Tiểu trường khí trệ, cả hai đều là bệnh biến ở Tiểu trường, đều có chứng trạng chủ yếu là đau bụng. Nhưng tính chất đau bụng khác nhau. Một loại là Hư chứng, một loại là Thực chứng.

Chứng Tiểu trường hư hàn phần nhiều do cơ thể vốn trung thế Tỳ dương bất túc, hoặc uống lạnh thương thực kéo dài tạo thành tế Tỳ dương bất túc, âm hàn thịnh ở trong, công năng biến hóa vật chất của Tiểu trường mất điều hòa, có thể xuất hiện các chứng trạng bụng dưới đau âm ỉ ưa xoa bóp, sôi bụng đại tiện lỏng ra đồ ăn không tiêu, tiểu tiện trong dài, rêu lưỡi trắng nhợt, mạch Tế Hoãn v.v… Còn chứng Tiểu trường khí trệ có liên quan tới hàn ngưng khí trệ ở Tiểu trường, có chứng bụng dưới đau gấp, đau mà cự án, Tiểu trường sa trệ, âm nang sán thống v.v… triệu chứng đau bụng thường liên can tới biến hóa tình tự, lo buồn cáu giận, gào khóc la thét thường khiến cho tình thế bệnh tăng thêm. Lâm sàng có thể căn cứ vào tính chất đau bụng với những đặc điểm dị biệt mà chẩn đoán phân biệt.

Trích dẫn y văn

Các bệnh Sán khí, bụng dưới và cao hoàn sưng đau, lúc phát lúc ngừng là bệnh này. Nhưng chứng Sán bất nhất, như sách Nội kinh bảo là Hồ sán là chỉ loại ngoại thận lên xuống thất thường, có khi bảo là Đồi sán là chỉ loại sưng to ngoan cố không có cảm giác đau… Cũng có loại Tiểu trường sán, như nói ở Tà khí tạng phủ bệnh hình thiên là chỉ loại này (Tạp chứng mô – Cảnh Nhạc toàn thư).

Thuốc đông y điều trị bệnh ngoài da

Y HỌC CỔ TRUYỀN ÁP DỤNG TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH NGOÀI DA

PGS Nguyên ngọc Thụy

1. Phương châm và nguyên tắc.

Phương châm kết hợp 2 nền y học hiện đại với y học cổ truyền là một trong những phương châm cơ bản của nền y học nước ta, mang ba tính chất khoa học, dân tộc và đại chúng. Với ngành Da liễu thì phương châm trên còn có ý nghĩa đặc biệt, vì phần lớn bệnh ngoài da là bệnh của quần chúng, rất phổ biến trong nhân dân. Trong quân đội thì bệnh ngoài da hay gặp ở chiến sĩ,do bệnh có liên quan đến điều kiện môi trường sinh hoạt công tác của bộ đội.

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, nên ông cha ta đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm về điều trị,và phòng bệnh ngoài da bằng thuốc dân tộc rất có hiệu quả, mà ngày nay chúng ta cần phải học tập, thừa kế, khai thác phát huy những kinh nghiệm, những bài thuốc quí đó nhằm nâng cao sức khoẻ cho nhân dân.

Đa số người mắc bệnh ngoài da sống ở vùng nông thôn, rừng núi, vùng sâu vùng xa và cũng chính ở những nới đó sẵn có kho tàng các cây thuốc, dược liệu rất phong phú. Vì vậy nếu biết khai thác được sẽ áp dụng rộng rãi trong nhân dân thực hiện ” hậu cần tại chỗ” góp phần cho công tác điều trị kịp thời và mang lại cả lợi ích về kinh tế.

Trong công tác điều trị bệnh ngoài da thì việc cung cấp thuốc men thuốc men còn nhiều tốn kém, vì phần lớn là thuốc nhập ngoại. Do đó việc khai thác nguồn cây thuóc dân gian sẽ có hiệu quả kinh tế phù hợp với quan điểm quần chúng nhân dân.

Bệnh ngoài da được nghiên cứu điều trị bằng cây thuốc có thuận lợi hơn so với các bệnh khác vì dễ đánh giá tác dụng kết quả điều trị, dễ bảo đảm an toàn và được người bệnh dễ dàng đồng tình cộng tác.

Các nguyên tắc áp dụng y học cổ truyền trong điều trị bệnh ngoài da.

+ An toàn trong điều trị: thuốc dùng phải an toàn, ít độc hại với các cơ quan nội tạng, không gây tổn thương da, không dị ứng,không gây tai biến.

+ Khoa học: khi sử dụng phải đúng cây thuốc, dùng đúng bộ phận, thu hái chế biến, sản xuất phải phù hợp với qui trình, đồng thời phải chống các phương pháp có tính cách me tín dị đoan hay phương thực điều trị không khoa học, không đảm bảo vệ sinh. Tuy nhiên bước đầu không cầu toàn, không đòi hỏi phải biết rõ công thức hoá học cơ chế tác dụng. Song cần phấn đấu nâng cao dần tính khoa học để nghiên cứu công thức, chiết xuất ,tinh chế, bào chế.v.v…

+ ứng dụng phải có trọng tâm, trọng điểm từng thời kỳ, từ thấp lên cao, từ giản đơn đến phức tạp, từ triệu chứng đến nguyên nhân, tiến tới thay thế một phần thuốc tây y, có kết luận , tổng kết dứt điểm khi nghiên cứu các bài thuốc cổ truyền.

Đại chúng : các phương pháp điều trị phải phổ biến đại trà, đại chúng, cây con thuốc dễ tìm kiếm địa phương nào cũng có, dễ chế biến, sử dụng đơn giản , rẻ tiền nhưng hiệu quả.

Một số bài thuốc.

1.     Điều trị bệnh chốc loét.

  • Thuốc rửa: hái từ 1-3 thứ lá sau đây, rồi đun sắc đặc rửa kỹ nơi bị chốc loét trước khi đắp, bôi hoặc rắc thuốc.

Lá đào,lá ổi,lá sim, lá vối, lá chè tươi, lá khổ sâm, lá cứt lợn, lá bồ cu vẽ.

  • Thuốc đắp: lá đậu ván tía 10 gam, lá nhọ lồi 10 gam, rau sam 10 gam, ba thứ giã nát với một ít muối, đắp lên chỗ chốc khoảng 1 giờ sau bỏ bã đi lau khô rồi bôi thuốc.
  • Thuốc bôi : chanh quả để nguyên đốt thành than, tán nhỏ hoà với dầu vừng hoặc dầu lạc bôi vào chỗ chốc.
  • Thuốc dán: lá bấn ( xích đồng năm hoặc bạch đồng nữ) đun rửa sạch rồi luộc hoặc hấp cho chín dán lên chôc chốc loét ngày 2 lần thời gian 1-2 tuần.
  • Thuốc đắp: lá vòi voi 20 gam, lá mỏ quạ 20 gam giã nhỏ mịn rồi đắp vào chỗ chốc hoặc loét ngày 1- 2 lần.

2.  Điều trị eczema (chàm).

  • Thuốc rửa: như nêu ở phần điều trị chốc loét.
  • Thuốc đắp : sâm đại hành 2 củ, lá bạc thau 1 nắm , lá bồ cu vẽ 1 nắm, giã nát rồi đắp lên hàng ngày.
  • Thuốc bôi : vỏ núc nác 40 gam, nghệ vàng 20 gam, quả ké 20 gam, ba vị phơi khô, tán bột trộn lẫn với dầu vừng hoặc dầu lạc rồi bôi hàng ngày.
  • Hồ thành đại:

Bột thanh đại 40 gam, bột hoàng liên 1 gam, thạch cao 20 gam , dầu lạc 60 gam, trộn đều ngày bôi 2 lần.

  • Thuốc dùng trong : kim ngân hoa, ké dầu ngựa 15 gam, tô mộc 10 gam, vỏ núc nác 12 gam, các thứ thái nhủ đun sắc lấy nước uống hàng ngày.

3.  Điều trị tổ đỉa.

  • Thuốc bôi ngoài:trứng gà lấy lòng đỏ đem đốt chày thành dầu , lấy dầu đó bôi ngày 2-3 lần.
  • lá bạch hoa xà 1 nắm giã nát, luộc chín, đắp và băng lại trước khi đi ngủ, sáng dậy bỏ thuốc ra, ngày băng một lần.
  • Vôi bột trộn lá ngải cứu rồi đốt xông khói hoặc xông khói hương truật và bột lá lốt.

4.  Điều trị ghẻ.

+ Nước tắm :lá khổ sâm, lá ba chạc, lá thầu dầu tía, lá xuyên tâm liên, vài ba thứ lá trên đun sắc đặc rồi tắm rửa hàng ngày.

+ Thuốc bôi :

  • Lá trầu không 7 lá, dường 1 thìa cà phê, đem giã nát trộn đều, bọc gạc xát vào chỗ bị ghẻ.
  • Hạt máu chó 100 gam giã mịn, dầu lạc hoặc dầu vừng 50 gam, hai thứ nấu kỹ để nguội bôi vào chỗ ghẻ.
  • Lá trầu không 50 gam, diêm sinh 100 gam, mỡ lợn 140 gam, nấu chảy ra trộn đều với nước cốt lá trầu không( lá trầu không được giã nát vắt lấy nước) và bột diêm sinh, trộn cho nhuyễn, bôi ghẻ buổi tối.

5.  Điều trị vảy nến .

+ Nước sắc hạt đậu miêu 10% ngày uống 1 lần.

+ Cao vàng Đàm lương ( Đàm pomát) ngày bôi 1-2 lần.

6.  Điều trị bạch biến.

Dùng phá cố chỉ 10- 15 gam sắc uống ngày 1 lần với thời gian 30- 60 ngày, đồng thời bôi dung dịch 15% vào tổn thương, kéo dài 2-3 tháng.

  1. Điều trị hạt cơm.

+ Lấy lá tía tô sát lên tổn thương ngày 1 lần x 20- 30 ngày.

+ Đốivới hạt cơm dẹt thì hàng ngày lau bằng nước vôi nhì sau đó sát ké nội kim thời gian 20-30 ngày.

  1. Điều trị dị ứng do sơn.

Lá khế chua 20 gam giã vắt nước cốt uống, bã gói vào gạc sát vào chỗ da nổi đỏ.

8. Điều trị nấm da.

+ Cồn rễ cây bạch hạc ( uy linh tiên, kiến cò).

Rễ cây bạch hạc thái nhỏ, giã nát        20- 50 gam. Cồn etylic                  700 vừa đủ                        100 ml.

Ngâm trong 1-2 tuần, sau lọc qua bông, lấy dịch bôi ngày 2 lần vào tổn thương nấm hắc lào, lang ben.

+ Cồn lá cây chút chít ( cây lưỡi bò).

  • Lá chút chít thái nhỏ 30
  • Cồn etylic 700vừa đủ              100 ml.

Ngâm trong 2 tuần, lọc lấy dịch bôi ngày hai lần vào tổn thương nấm da.

+ Lá cây chút chít                     100 gam.

Củ riềng                                   100 gam.

Chanh                                        1 quả.

Lá cây chút chít và củ riềng giã nát, vắt nước chanh vào, đun nóng rồi bôi vào vết tổn thương nấm.

+ Cồn hạt muồng trâu:

Hạt muồng trâu hĩa nhỏ            30 gam.

Cồn etylic 700 vừa đủ                100 ml.

Ngâm trong 2 tuần , lọc lấy dịch bôi nấm hắc lào, lang ben.

+ Lá muồng trâu              10 gam.

Muối ăn                           1 thìa cà phê.

Giã nát, bọc vào gạc sát vào tổn thương nấm da hàng ngày.

+ Hạt muồng trâu            100 gam.

Khế chua                          40 gam.

Lá trầu không                   10 lá.

Giã nhỏ, bọc vào gạc sát vào tổn thương nấm da hàng ngày.

+ Dung dịch riềng, dâm thanh. Riềng giã nhỏ                                       30 gam.

Dấm thanh vừa đủ            100 ml. Ngâm 1 tuần, sau bôi chữa lang ben.