Blog Trang 529

Phòng ở của trẻ em không được bố trí những gì?

1/ Trẻ em không nên ở trong nhà bếp lâu.

Trong quá trình đun nấu, than củi toả ra rất nhiều khí thể và bụi khói độc như ôxit cacbon, cacbon điôxit, benzen, bụi than v.v… Trẻ em đang ở thời kỳ lớn lên, các hệ thống phát dục còn chưa hoàn thiện, năng lực thích ứng và kháng bệnh con tương đối kém nên đặc biệt mẫn cảm đối với những vật có hại này, dễ dẫn đến mắc các bệnh viêm mũi, viêm họng, viêm khí quản, viêm phổi v.v… cấp tính và mãn tính. Lại còn có thể dẫn đến mắc các bệnh quá mẫn cảm, như hen xuyễn, thở khò khè, viêm phổi thở dốc, viêm mũi dị ứng, bệnh mề đay, bệnh mẩn ngứa v.v…

2/ Không nên khoá trẻ em ở trong phòng.

Có bậc cha mẹ sợ con mình ra ngoài nghịch ngợm, liền nhốt trẻ ở trong phòng, khoá cửa lại. Nếu chẳng may xảy ra những chuyện bất ngờ, như hoả hoạn, điện giật, trúng độc khí than v.v… mà không ai biết hậu quá không thể cứu vãn nổi. Cho dù có người phát hiện thì cũng khó có thể cứu chữa kịp thời.

3/ Không nên đặt chậu cây trúc đào ở trong phòng ở của trẻ em.

Trừ phấn hoa gây bệnh ra, có một số bộ phận khác của một số loài hoa cũng có chất độc. Ví dụ như nước cây Tiên nhân chưởng có chất độc, nếu bị nó đâm chảy máu thì có thể gây ra viêm da. Lá cây trúc đào, vỏ cây trúc đào có chất glucôxit, nếu ăn nhầm phải thì sẽ trúng độc. Trong gia đình và ở nhà nuôi trẻ không nên đặt những chậu cây trúc đào ở trong phòng ngủ của trẻ em.. Đồng thời cũng không nên để cho trẻ em còn nhỏ chơi những loài hoa có chất độc, càng không được để cho các em chơi trò ngậm hoa và cành hoa. Những loại hoa thơm nồng như hoa Đinh hương, hoa Mễ lan, hoa Vi li v.v… để đề phòng phản ứng quá mẫn cảm, ban đêm không nên để những chậu hoa ấy ở trong phòng ngủ.Rối loạn giấc ngủ ở trẻ em làm sao để khắc phục

4/ Không nên dùng củi làm chất đốt ở trong phòng của trẻ em.

Đối với hệ thống hô hấp của con người, đốt củi sẽ gây ô nhiễm cực kỳ có hại, trong quá trình ôxy hoá, trong khói củi có các chất ô-xit cac-bon, đi-ô-xit cac bon, đi- ô-xit sun-phua, chất an-đê-hit, chất ben-zen v.v… là những chất hoá học rất độc, nó còn làm cho tiêm mao niêm mạc đường hô hấp bị tổn thương, niêm dịch an-đê-hit A, an-đê-hit phụ, an-đê-hit B, phê-nôn và phê-nôn A bị ngưng kết.

Trẻ em thường xuyên tiếp xúc với những chất thoát ra trong khi đun củi sẽ rất hại cho sức khoẻ, có thể xảy ra viêm khí quản, viêm chi khí quản và bệnh viêm các đường hô hấp khác. Trẻ em trước tuổi đến trường mà hít phải khói củi này lâu ngày thì sẽ sinh bệnh ho và khó thở. Nhất là những em mà đã mắc các bệnh như viêm chi khí quản, bệnh thở dốc, các bệnh về đường hô hấp v.v… nếu hít thở phải khói củi này thì bệnh sẽ nặng hơn nhiều.

Khi đốt củi lửa còn có thể sản sinh ra rất nhiều vật chất khả nghi có thể dẫn đến ung thư khác. Cho nên khi dùng củi gỗ làm chất đốt thì phải chú ý thông gió, bảo đảm nhiệt độ trong phòng. Trong phòng ở của trẻ em không nên dùng củi gỗ làm chất đốt, đặc biệt là trong phòng có các em bị mắc bệnh đường hô hấp lại càng không được dùng củi gỗ để đốt sưởi hoặc thổi cơm.

5/ Không để cho phòng ở bị ô nhiễm.

Một nhà khoa học về môi trường đã tiến hành một cuộc thí nghiệm thật là thú vị, ông mang theo máy đo và phân tích bụi thải trong không khí đi đến một số nơi. Ông phát hiện ra rằng, nơi có nồng độ bụi thải cao nhất lại không phải là ở ngoài khu phố chợ có lượng người đông đúc nhất mà lại là ở trong khu vực nhà ở của chúng ta.

Trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, đại khái có trên 70% thời gian chúng ta ở trong phòng như ở trong nhà , ở trong văn phòng làm việc, ở trong trường học, ở trong rạp hát, chiếu bóng, ở trong các cửa hàng bách hoá, ở trong tàu, xe v.v… Song song với việc nhân khẩu thành thị tăng lên một cách nhanh chóng, các vật kiến trúc cũng đang thay đổi không ngừng như cao ốc hoá, tập trung hoá, càng dễ dẫn đến các vật ô nhiễm trong không khí tràn vào trong các căn hộ, uy hiếp sức khoẻ con người.

Chất đốt có liên quan mật thiết đến cuộc sống thường ngày của con người là nguồn phát sinh chủ yêú ô nhiễm không khí ở trong phòng ở. Trong quá trình đốt than sản sinh ra rất nhiều vật chất có hại. Khi mà hệ thống thông hơi, thông khói không tốt, khi khói khó thoát ra ngoài hoặc không thoát được ra ngoài thì những khí thể có hại này sẽ đọng lại ở trong không trung ở trong phòng sẽ tạo thành ô nhiễm. Chất ô-xit cac-bon mà người ta thường gọi là “ khí than” theo đường hô hấp vào trong cơ thể, kết hợp với huyết sắc tố ở trong máu biến thành chất ô-xit huyết sắc tố, do đó mà phá hoại sự lưu chuyển ô-xy bình thường cuả máu, làm cho cơ thể người ta vì thiếu ô-xy mà cảm thấy người khó chịu. Nhẹ thi nhức đầu, chóng mặt, hoa mắt, nặng thì tim đập mạnh, buồn nôn. Khi nồng độ ô-xit cac-bon ở trong phòng tương đương với mức độ (1000ppm) thì người ta sẽ bị ngạt thở, bị chết vì thiếu ô-xy. Vì khí ô-xit cac-bon là chất khí không có màu sắc, không có sự kích thích, nên không dễ bị phát giác, cho nên đối với tính ô nhiễm tiềm ẩn của nó cần phải đề cao cảnh giác.

Người ta thường dùng nhiều đồ gỗ ở trong nhà, có không ít đồ gỗ được dùng keo phê-nôn an-đê-hit để ghép lại. Loại keo này cũng bốc ra mùi an-đê-hit A có hại cho sức khỏe. Nếu nồng độ cao thì có thể làm cho người ta bị nhức đầu, buồn nôn và chảy máu mũi.

Trong cuộc sống hàng ngày, có khi chúng ta còn bị những mùi rất khó chịu quấy rầy, như mùi hôi của mồ hôi, mùi hôi nách, mùi thối của giày dép, mùi hôi của quần áo cũ v.v… Còn nữa, khi trong nhà đun nấu sẽ toả ra các mùi vị. Tất cả những mùi vị đó nếu cứ kéo dài sẽ làm cho tầng vỏ đại não bị kích thích ác tính mà làm cho người ta nhức đầu, buồn nôn, ăn không ngon. ở những nơi công cộng như trong rạp hat, chiếu bóng, trong hội trường, trong bệnh viện v.v… do có nhiều sự tản nhiệt, tản độ ẩm, tản hơi thở và các loại bài tiết, khiến cho không khí biến thành ô nhiễm nặng nề. Theo thống kê, trong một rạp chiếu bóng có 1000 người, cứ mỗi một đợt chiếu phim, sẽ có khoảng 14 vạn ki-lô ca-lo, 80 cân hơi nước va 46 m3 khí thể đi-ô-xit cac-bon được thải ra. Cho nên, thường khiến cho người ta cảm thấy bải hoải, buồn nôn và khó thở, đó cũng là mối nguy hại vô hình đối với cơ thể người ta.

Để giảm bớt ô nhiễm không khí ở trong phòng, cần phải cố gắng làm được mấy điểm sau đây : Nếu dùng than thì nên chọn mua loại than tốt, có it chất sun-phua. Phòng ở và nhà bếp nên tách rời nhau. Nếu dùng than thì phải có ống thông khói. Nếu dùng bếp than tổ ong thì phải có đường thoát khói ra ngoài , nhất thiết không để khói xông vào trong nhà . Phải thường xuyên mở cửa và cửa sổ, để cho trong phòng có không khí tươi mới, phải thường xuyên quét nhà, lau nhà, các góc tường, chân giường v.v… để lau sạch bụi bặm và trước khi quét nhà phải vẩy nước hoăc quét bằng chổi ướt để tránh bụi bay mù lên. Khi ở ngoài về nhà thì không nên nằm nghỉ ngay mà trước hết nên rũ bụi bặm trên quần áo. Không nên mặc quần áo lao động về nhà. Nên hết sức giảm bớt những lần đến những nơi quá đông đúc (trong những căn phòng yên tĩnh, mỗi mét khối, lượng bụi chỉ có khoảng 0,12 đến 0,50 mg bụi, còn ở trong cửa hàng bách hoá thì lên tới 1,6 đến 9,7 mg). Bố trí hợp lý các căn phòng, nếu có điều kiện thì nên trồng một số cây hoa cảnh thì có thể giảm bớt được ô nhiễm.

6/ Không nên tưới nước để làm giảm nhiệt độ trong phòng.

Vào mùa hè nóng nực, nhiều nơi nhiệt độ ở trong nhà có thể lên đến trên dưới 37 – 38 0 C. Để giải quyết việc khô hanh, có một số nhà đã té rất nhiều nước ở trong phòng, để mong làm giảm độ nóng ở trong phòng, nâng cao được không khí trong sạch ở trong phòng. Kỳ thực như vậy là rất không khoa học.

Nói chung, nước bốc hơi, đúng là có mang theo một số nhiệt lượng đi thật, do đó mà có tác dụng giảm bớt độ nóng ở trong phòng. Nếu trong mùa hè viêm nhiệt, sau một trận mưa rào, người ta cảm thấy không khí thật là tươi mát dễ chịu, trong đó có một phần nguyên nhân là nước mưa bốc hơi làm tan đi một phần nhiệt lượng làm cho không khí tươi mát. Nhưng tưới nước ở trong phòng thì lại không phải như vậy, bởi vì việc tán phát hơi nước là nhờ vào sự lưu thông của không khí. Việc lưu thông khí trong phòng thuận lợi thì nước dễ bốc hơi, nhưng không khí trong phòng, do bị những bức tường ngăn trở, nên nói chung lưu thông không thật dễ dàng, nhất là trong tình hình nhiệt độ ở bên ngoài phòng lại cao, sức gió ít nên việc lưu thông không khí ở trong phòng càng khó khăn, thường thường ở vào trạng thái tương đối tĩnh lặng. Lúc này tưới nước ở trong phòng, hơi nước không có cách nào để tản ra ngoài được mà phải đọng lại trong không khí, khiến cho độ ẩm ở trong phòng không ngừng tăng lên. Trong phòng nhiệt độ cao lại thêm độ ẩm lớn, như vậy chang khác gì nhiệt độ không khí trước khi có cơn dông, làm cho người ta cảm thấy ngột ngạt khó chịu hơn nhiều so với lúc bình thường, như vậy rất bất lợi cho cả thể xác lẫn tinh thần. Đồng thời vì nhiệt độ cao, hơi nước bốc nhanh, rất nhiều vi trùng và bụi bặm ở trên sàn theo hơi nước bay vào trong không khí tạo thành không khí hỗn tạp hơn nhiều so với trước khi tưới nước.

Cho nên, phương pháp tưới nước ở trong phòng để làm giảm nhiệt độ thì không thật thoả đáng, không nên dùng. Trong những căn phòng có điều kiện thông gió tương đối tốt, nếu có sử dụng phương pháp tưới nước để làm giảm nhiệt độ, thì cũng chỉ nên dùng nước lạnh tưới cho ướt mặt sàn là được, tốt nhất là nên dùng khăn ướt đã vắt hết nước để lau mặt sàn nhà, song tất cả các cửa đều phải mở hết, nếu có quạt máy thì bật quạt để không khí được lưu thông.

7/ Tuyệt đối không nên dùng đèn đất ở trong phòng ở.

Có một số vùng nông thôn và vùng núi chưa có đèn điện, có nhiều gia đình đã dùng đèn đất (a-xê-ti-len) để chiếu sáng. Như vậy không những ô nhiễm môi trường trong phòng, rất nguy hại cho sức khoẻ mọi người mà còn có thể gây nổ rất nguy hiểm.

Nhà nông dùng đèn đất để chiếu sáng, chủ yếu là do đất đèn gặp nước phát sinh phản ứng hoá học mà tạo ra thể khí có thể cháy được. Thành phần hoá học chủ yếu của đất đèn là đá vôi, còn có các tạp chất như lưu huỳnh, lân, thạch tín, si-lich v.v… Cho nên trong khi hoá thành khí a-xê-ti-len thường có một số thể khí như sun-phua hy-đrô, lân nhẹ, thạch tín nhẹ, silich cháy v.v… Những chất khí có hại này sau khi vào trong cơ thể con người sẽ làm cho người ta nhức đầu, tim đập mạnh, buồn nôn, đau bụng, trạng thái tê bì v.v… gây nguy hiểm nghiêm trọng cho tính mạng con người.

Ngọn lửa mà đèn đất chiếu sáng, là vì nó chứa trên 92% thán khí, cho nên cường độ sáng của nó mạnh gấp 15 đến 20 lần ánh sáng đèn dầu. Khí thể a-xê-ti-len hỗn hợp với không khí dễ gây nổ. Nếu khí a-xê-ti-len cháy không hết hoặc bị rò rỉ, rất dễ gây nên nguy hiểm bị nổ bất cứ lúc nào. Cho nên các vị nông gia ở nông thôn hoặc miền núi không có điện nên dùng đèn dầu thì tốt hơn, tuyệt đối không nên dùng đèn đất để chiếu sáng. Nên tích cực sáng tạo điều kiện, ra sức phát triển thuỷ điện nhỏ hoặc ở nông thôn thì dùng khí mê-tan để phát điện, như vậy càng giảm được sự ô nhiễm, tăng cường sức khoẻ cho mọi người, lại có thể phát triển nguồn năng lượng, nâng cao được hiệu quả kinh tế.

8/ Tuyệt đối không nên đóng cửa đốt lửa cho phụ nữ và trẻ em sưởi.

Có một gia đình có 3 người ở trong một căn nhà đóng kín hết các cửa sổ và cửa ra vào, ngồi xung quanh một đống lửa cháy rừng rực để sưởi, kết quả là cả nhà đã bị trúng độc chết hết.

Đó là do than củi khi cháy đã toả ra khí độc ô-xit cac-bon gây ra. Bởi vì ô-xit cac-bon so với ô-xy của huyết sắc tố to hơn 300 lần, mà tốc độ phân giải của huyết sắc tố thán khí so với ô-xy có huyết sắc tố chậm hơn 3600 lần, do đó mà sinh ra thiếu ô- xy trong máu, làm tổn hại cho ngũ tạng, nhẹ thì đau đầu, chóng mặt, nặng thi hôn mê, kinh giật, cuối cùng thì chết vì tuần hoàn hô hấp bị suy kiệt.

Cho nên trong mùa đông, khi đốt củi sưởi cần chú ý trong phòng phải thoáng gió. Trước khi đi ngủ phải đem lò để ra ngoài nhà, nếu như xảy ra trúng độc ô-xit cac-bon thì phải nhanh chóng làm hô hấp nhân tạo. Nếu bị trúng độc nghiêm trọng thì phải nhanh chóng đưa đến bệnh viện cấp cứu.

9/ Không nên để những phế vật lâu ở trong nhà.

Bất kỳ là thành thị hay nông thôn, nhà máy hay hầm mỏ có nhiều gia đình thường hay tích trữ những vật đã dùng rồi, thậm chí có thứ không dùng lại được nữa, làm mất một khoảng không gian như trong nhà bếp, góc tủ, dưới gầm giường, làm cho bụi bặm bám đầy, chuột bọ làm tổ rất mất vệ sinh, lại còn hao tiền tốn của. Những phế vật này như quần áo trẻ em không dùng được nữa, những đồ chơi của trẻ em không chơi nữa, những đồ vật đã hỏng v.v… đều tích tụ chúng lại, rõ ràng là không thích hợp, mà cũng không cần thiết. Ví dụ như quần áo và đồ chơi, để lại sẽ chiếm mất một không gian nhất định, khiến cho trong tủ chật ních không xếp vào đâu được nữa. Nếu giữ cho đến khi cần sử dụng lại thì những thứ đó đã mục nát hoặc đã lạc hậu mất rồi, không thể dùng được nữa. Biện pháp tốt nhất là dùng xong nên cho ngay người khác hoặc đem bán đi. Ví như chiếc đài bán dẫn không chữa được, không muốn vứt đi, giữ lại chỉ là đồ bỏ đi, chi bằng bán quách cho hiệu đồ cũ, để họ thay thế sử dụng. Cho nên trong nhà không nên giữ lại các đồ đã cũ hỏng. Phải tạo cho mình và con cái mình một môi trường gia đình gọn gàng, sạch sẽ lành mạnh. Đối với những thứ “Bỏ thì thương, vương thì tội” này cần phải xử lý một cách dứt khoát. Cái đáng vứt thì vứt đi ngay, cái đáng bán thì bán, đáng cho thì cho ngay, phải phát huy tác dụng “Phế vật bất phế, biến phế vi bảo”, vừa tăng thêm được một khoản thu nhập nhất định, lại vừa làm cho nhà cửa được sạch sẽ gọn gàng. Như vậy chính là nhất cử lưỡng tiện, các bà chủ chẳng vui lắm sao !

Huyệt Thiên Tỉnh

Thiên Tỉnh

Tên Huyệt:

Thiên = trời, ý chỉ ở trên cao. Tỉnh = cái giếng, ý chỉ chỗ lõm. Huyệt ở chỗ lõm phía trên khớp khủy, giống hình cái giếng (tỉnh), vì vậy, gọi là Thiên Tỉnh (Trung Y Cương Mục).

Xuất Xứ:

Thiên ‘Bản Du’ (Linh khu.2).

Đặc Tính:

Huyệt thứ 10 của kinh Tam Tiêu.

Huyệt Hợp của kinh Tam Tiêu, thuộc hành Thổ.

Huyệt Tả của kinh Tam Tiêu.

Vị Trí huyệt:

Chỗ lõm trên đầu mỏm khuỷ xương trụ, trên khớp khuỷ 1 thốn, nơi gân cơ tam đầu cánh tay.

Giải Phẫu:

Dưới da là gân cơ 3 đầu cánh tay, đầu dưới xương cánh tay.

Thần kinh vận động cơ là các nhánh của dây thần kinh quay.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh C6.

Tác Dụng:

Hóa đờm thấp ở kinh lạc.

Chủ Trị:

Trị khớp khủy tay và tổ chức phầm mềm quanh khớp bị viêm, tim đau.

Phối Huyệt:

1. Phối Khúc Trì (Đại trường.11) + Ngoại Quan (Tam tiêu.5) trị tay tê dại (Thiên Kim Phương).

2. Phối Tiểu Hải (Tiểu trường.8) trị điên, động kinh (Thiên Kim Phương).

3. Phối Tâm Du (Bàng quang.15) + Thần Đạo (Đc.11) trị buồn sầu (Thiên Kim Phương ).

4. Phối Túc Lâm Khấp (Đ.41) trị ngực tê, tim đau (Tư Sinh Kinh).

5. Phối Âm Lăng Tuyền (Tỳ 9) + Khúc Trì (Đại trường.11) + Kiên Tỉnh (Đ.21) + Tam Dương Lạc (Tam tiêu.8) trị loa lịch, lao hạch (Châm Cứu Cứu Đại Thành).

6. Phối cứu Tam Gian (Đại trường.3) [21 tráng] + Thiên Trì (Tâm bào.1) [14 tráng] trị loa lịch, lao hạch (Loại Kinh Đồ Dực).

7. Phối Khúc Trì (Đại trường.11) thấu Tý Nhu (Đại trường.14) trị gáy tê, kết hạch [lao hạch] (Châm Cứu Học Giản Biên).

8. Phối Khúc Trì (Đại trường.11) thấu Thiếu Hải (Tm.3) trị bịnh ở khớp khuỷ (Châm Cứu Học Thượng Hải).

Cách châm Cứu:

Châm thẳng 0, 5 – 1 thốn. Cứu 3 – 7 tráng – Ôn cứu 5 – 10 phút.

Quả Na và những tác dụng chữa bệnh tuyệt diệu

Cây na thuộc loại thân gỗ nhỏ, cao 2-5m. Lá có hình mũi mác tù hay nhọn, dài 8-12cm, rộng 4-5cm. Hoa nhỏ mọc đối với lá, màu xanh lục, có cuống dài, nhiều nhị, thơm. Quả mọng, kép, khi non có màu xanh, quả chín có màu hơi trắng hay hanh vàng, thịt quả trắng, hạt nhỏ dài và đen, vỏ cứng. Quả na chín ăn thơm ngon và rất bổ. Quả và hạt na được dùng làm thuốc chữa bệnh.

Cây na thuộc loại thân gỗ nhỏ, cao 2-5m
Cây na thuộc loại thân gỗ nhỏ, cao 2-5m

Theo Đông y, quả na vị ngọt, chua, tính ấm, hạ khí tiêu đờm. Quả na xanh làm săn da, tiêu sưng, chữa lỵ, tiết tỉnh, đái tháo chữa bệnh tiêu khát, tiêu chảy, chữa mụn nhọt, viêm vú. Hạt na có vị đắng, hôi, tính lạnh, ít độc, thanh can, giải nhiệt tiêu độc, sát trùng, diệt côn trùng, chấy rận.

Thuốc chữa bệnh ứng dụng từ Quả Na:

Bài 1. Thuốc chữa bệnh viêm vú

+ Quả na non bị khô trên cây 1 quả

+ Giấm ăn     50ml

Quả na giã nhỏ, cho vào giấm ăn, trộn đều ngâm 2 giờ. Người bệnh dùng bông thấm nước giấm đắp vào chỗ đau, bông khô lại thấm đắp tiếp, cần đắp liền 7-9 ngày.

Bài 2. Thuốc trừ chấy

+ Hạt na                                50g

+ Rượu trắng                        50ml

Hạt na giã nhỏ, ngâm vào rượu sau 6 giờ, chắt lấy rượu, dùng vải sạch thấm rượu bôi ướt tóc hên tục 2 giờ. cần làm liền 5-7 ngày.

Bài 3. Thuốc chữa bệnh kiết lỵ

+ Quả na gần chín 300g

+ Lá mơ lông 100g

+ Rau diếp cá 50g

Quả na rửa sạch, bỏ hết hạt, cùng các vị thuốc cho vào nồi thêm 600ml nước đun nhỏ lửa cho thuốc nhừ, khi còn 300ml nước thuốc chắt lấy nước, bỏ bã. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày, trước khi ăn. cần uống liền 9 ngày.

Quả na hạ khí tiêu đờm
Quả na hạ khí tiêu đờm

Bài 4. Thuốc chữa bệnh ho do viêm họng

+ Quả na điếc                       150g (quả na không phát triển bị khô trên cành)

+ Nhân hạt gấc                     20g

+ Sinh địa                              50g

+ Sạ can                                30g

+ Cam thảo đất 25g

+ Lá bạc hà 50g

+ Lá chanh 30g

+ Lá táo 25g

Quả na điếc đốt tồn tính, các vị thuốc sấy khô; tất cả đem tán nhỏ mịn, dùng mật mía luyện viên bằng hạt ngô phơi khô đem dùng.

Người lớn ngày dùng 8 viên chia hai lần với nước sôi để nguội, uống sau khi ăn.

Trẻ em dưới 10 tuổi dùng 4 viên, chia 2 lần với nước sôi để nguội, sau khi ăn. cần dùng liền 5 ngày.

Bài 5. Thuốc chữa bệnh tiêu chảy

+ Quả na điếc                      20g

+ Vỏ quả lựu                        10g

+ Can khương                      5g

Quả na điếc đốt tồn tính, cùng các vị thuốc cho vào nồi thêm 600ml nước đun nhỏ lửa cho thuốc nhừ, khi còn 300ml nước thuốc chắt lấy nước, bỏ bã. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày, trước khi ăn. cần uống liền 3 ngày.

Bài 6. Thuốc chữa bệnh kiết ly

+ Quả na điếc                      20g

+ Kim ngân hoa                   10g

+ Hoàng liên                        5g

Quả na điếc đốt tồn tính, cùng các vị thuốc cho vào nồi thêm 600ml nước đun nhỏ lửa cho thuốc nhừ, khi còn 300ml nước thuốc chắt lấy nước, bỏ bã. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày, trước khi ăn. cần uống liền 5 ngày.

Bài 7. Thuốc chữa bệnh sốt rét

+ Quả na điếc                         40g

+ Tỏi khô                                20g

+ Giun đất (khoang cô) 80g

+ Phèn phi                              20g

Quả na điếc giã nhỏ, tẩm rượu sao vàng; giun đất làm sạch, bỏ hết đất trong ruột, rửa lại bằng rượu phơi khô, sao vàng. Tất cả tán nhỏ mịn, dùng nước tỏi luyện viên bằng hạt đậu xanh, phơi khô đem dùng. Người lớn ngày dùng 20 viên, chia hai lần uống với nước sôi để nguội. Trẻ nhỏ dưới 10 tuổi uống 1/3 liều dùng người lớn. cần uống liền trong nhiều ngày.

Những điều cần tránh khi ăn quả Na

Quả na ăn nhiều dễ mọc mụn, táo bón

Na được nhiều người ưa thích và nhầm tưởng là quả “lành tính”, nhưng thực ra na lại là một trong số các loại quả gây nóng cho cơ thể. Chỉ cần một vài quả là khiến da bị nổi mụn cho một số người vốn sẵn tính nóng trong người. Thậm chí, tình huống xấu hơn là nhiều người khi ăn na xong sẽ bị táo bón, mọc mụn.

Na ngọt nhưng có tác dụng giảm cân

Nhiều người cho rằng, ngọt lịm, vị ngon nên dễ ăn nhiều vì vậy rất dễ tăng cân. Tuy nhiên, ưu điển rất lớn trong quả na là chứa rất nhiều vitamin C, không chứa chất béo bão hòa và cholesterol, hàm lượng natri thấp, nên rất có lợi cho những người ăn kiêng hoặc đang có ý định giảm cân.

Hãy thêm vào khẩu phần ăn mỗi ngày của bạn 1 quả na . Bạn sẽ thấy tác dụng giảm cân rõ rệt sau vài tuần.

Không cắn vỡ hạt na khi ăn

Hạt của qủa na thể dùng để làm thuốc chữa bệnh nhưng lại có độc tố cao. Vì vậy khi ăn nên cẩn thận, nếu sơ ý nuốt phải hạt thì không sao vì hạt na có vỏ dày và cứng bao bọc, còn nếu cắn vỡ hạt na thì độc tố trong nhân hạt na rất dễ phát huy tác dụng, gây hại cho cơ thể.

Người tiểu đường không ăn nhiều

Đối với người mắc tiểu đường, đặc biệt là phụ nữ mang thai có tiền sử bệnh tiểu đường thì không nên ăn nhiều na bởi trong na có hàm lượng đường tương đối cao.

Cảnh giác với giòi trong quả na

Với những quả na vỏ có nhiều vẩy trắng, nhiều vết nứt nẻ, ở các vết đó có dấu hiệu chảy nước thì tuyệt đối không nên ăn. Đặc biệt những quả na có mắt thâm đen, cứng, khi ăn cần cảnh giác vì sẽ không ngon, vị ủng hoặc đa số là có giòi.

Thiếu máu ở bệnh thận mạn

 1. ĐẠI CƯƠNG

Thiếu máu ở người bệnh bệnh thận mạn ( bao gồm cả bệnh thận giai đoạn cuối và ghép thận) là một tình trạng liên quan đến chức năng thận suy giảm và nhiều rối loạn khác như huyết học, dạ dày ruột, hocmon…Thiếu máu gặp ở 43% và 57% số người bệnh bệnh thận mạn tương ứng giai đoạn 1-2 và 3-5. Nồng độ Hemoglobin(Hb) máu phụ thuộc vào độ tuổi, giới tính, chủng tộc, nhiễm trùng, viêm, các tình trạng bệnh tật đồng thời, việc lọc máu đầy đủ, chất lượng nước…. Thiếu máu gây tăng tỷ lệ tử vong, tăng phì đại thất trái và suy tim xung huyết, tăng tốc độ tiến triển đến suy thận giai đoạn cuối[6]. Kết quả một nghiên cứu cho thấy, nguy cơ tử vong tăng lên 3 lần với mỗi 10g/l Hb giảm đi (trong khoảng 90- 130g/l).

2. CƠ CHẾ CỦA THIẾU MÁU Ở NGƯỜI BỆNH BỆNH THẬN MẠN

Thiếu Erythropoietin( EPO): (Là cơ chế chủ yếu). Bình thường, nồng độ Erythropoietin(EPO) từ 3-30 mU/ml, tăng lên 100 lần khi Hb giảm xuố Mối liên quan nghịch này giảm hoặc mất đi khi mức lọc cầu thận <30 -40 ml/p. Một số cơ chế gây ra tình trạng thiếu EPO tương đối (1): thích nghi của thận giảm làm giảm tiêu thụ oxy, cải thiện sự oxy hóa ở phần tủy thận ngoài, giảm kích thích sản xuất EPO; (2): EPO được trung hòa bởi các receptor EPO hòa tan( tăng sản xuất khi có mặt các chất trung gian; (3): EPO bị bất hoạt bởi các proteinase( hoạt động tăng lên trong môi trường ure máu cao) ;(4): thậm chí nếu EPO với một lượng đầy đủ đến được một tủy xương nguyên vẹn, hoạt động của nó vẫn có thể bị suy yếu bởi sự vắng mặt của các yếu tố cho phép( IL-3, calcitriol,..) và sự có mặt của các yếu tố ngăn cản( PTH..).

Thiếu sắt: Bao gồm thiếu sắt tuyệt đối và tương đối

  • Thiếu sắt tuyệt đối do một số nguyên nhân như mất máu, loạn sản mạch máu ruột, chảy máu do ure máu Người bệnh thận nhân tạo mất sắt trung bình 1-3g/năm.
  • Thiếu sắt tương đối( thiếu sắt chức năng) xảy ra khi cơ thể không thể huy động được đủ sắt từ nguồn dự trữ cung cấp cho quá trình sinh sản hồng cầu.

Tan máu: Ở người bệnh mắc bệnh thận mạn, tế bào hồng cầu bị tăng phá hủ Hồng cầu có tính chất nhược sắc, ít sắt, sớm bị vỡ và bị thực bào. Màng tế bào hồng cầu giảm khả năng biến dạng. Tan máu có thể xảy ra trong thận nhân tạo do hiện tượng  ly  giải  cơ  học  và  tiếp  xúc  với  chất  gây  ô  nhiễm  nguồn  nước ( chloramines, arsenic, kẽm…).

Thiếu dinh dưỡng: Đây là một trong những yếu tố dễ bị bỏ Các Vitamin nhóm B( đặc biệt B6, B9( acid folic), B12) là các đồng yếu tố thiết yếu trong sinh sản hồng cầu. L-carnitin giảm khi mức lọc cầu thận giảm và bổ sung L-Cartinine có thể chống lại sự chết tế bào. Giảm phosphate máu làm cạn kiệt ATP, giảm sự biến dạng màng tế bào hồng cầu, dẫn tới lão hóa sớm hoặc thậm chí là thiếu máu tan máu cấp.

3. CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán xác định:. Chẩn đoán thiếu máu ở người bệnh mắc bệnh thận mạn

+ > 15 tuổi: khi Hb<130g/l ở nam và <120g/l ở nữ

+ 12-15 tuổi: khi Hb <120g/l

+ 5-12 tuổi: khi Hb<115g/l

+ 6 tháng-5 tuổi: <110g/l

Kết quả Hb có thể dao động tới 5g/l trong một mẫu máu[4]. Ở người bệnh thận nhân tạo, nồng độ Hb khác nhau giữa các thời điểm. Mỗi lít siêu lọc làm tăng Hb đến 0,4g/dl. Vì vậy, nên xét nghiệm Hb vào buổi lọc máu giữa tuần, giá trị này thường xấp xỉ với Hb trung bình của cả tuần.

Tần suất đánh giá thiếu máu ( đo lường nồng độ Hb máu)

  • Với người bệnh không thiếu máu

+ Ít nhất hàng năm với CKD giai đoạn 3

+ Ít nhất 2 lần/năm với CKD giai đoạn 4-5

+ Ít nhất mỗi 3 tháng với người bệnh thận nhân tạo hoặc lọc màng bụng.

– Với người bệnh thiếu máu không điều trị bằng ESA

+ Ít nhất mỗi 3 tháng với người bệnh mắc bệnh thận mạn không do đái tháo đường và người bệnh lọc màng bụng

+Ít nhất hàng tháng với người bệnh thận nhân tạo

Đánh giá các tình trạng liên quan: Đánh giá sơ bộ bao gồm

  • Tế bào máu ngoại vi
  • Đếm tế bào hồng cầu lưới tuyệt đối
  • Ferritin máu
  • Độ bão hòa transferin(TSAT)
  • Nồng độ vitamin B12 và acid folic

Cần loại trừ thiếu máu do không tái tạo (bất sản) và các rối loạn tủy xương khác. Đo lường nồng độ EPO ít có giá trị và không được khuyến cáo.

Thiếu sắt có thể thực sự tồn tại kể cả khi chưa có thiếu máu. Thông số tốt nhất đánh giá dự trữ sắt là khó xác định. Một số chỉ số như MCH hoặc MCV gợi ý thiếu sắt nhưng không đặc hiệu. Trên lâm sàng, Ferritin máu thường được sử dụng. Bình thường, 1ng/ml ferritin tương ứng với 8 mg sắt dự trữ. Khi có tình trạng viêm mạn tính, Ferritin máu phản ánh không đúng tình trạng Ferritin ở mô. Ferritin máu cũng không quá liên quan đến tình trạng sắt ở tủy xương. Độ bão hòa transferring đại diện cho khả năng sẵn có của sắt cung cấp cho sinh sản hồng cầu nhưng giá trị thường dao động tại các thời điểm khác nhau. Một số chỉ số khác như lượng Hb trong hồng cầu lưới, tỷ lệ hồng cầu nhược sắc, TfR hòa tan( bài tiết bởi các hc trong tủy đang thiếu sắt )…đều không đặc hiệu. Nồng độ hepcidin máu và protoporphyrin hồng cầu được xem là có giá trị, tuy nhiên đo lường chính xác hepcidin máu hiện nay là bất khả thi trên lâm sàng.

4. ĐIỀU TRỊ

  • ESAs(Erythropoiesis Stimulating Agents): vẫn là yếu tố quan trọng nhất( được trình bày ở một bài riêng, bài này chỉ đề cập đến một vài điểm chính)

Thời điểm: Nên bắt đầu dùng ESAs cho người bệnh CKD có mức Hb 90- 100g/l. Trước khi dùng, nên chẩn đoán và điều trị các nguyên nhân có thể gây thiếu máu khác, cân nhắc lợi ích và tác hại của thuốc đối với từng người bệnh cụ thể.

Mục tiêu: Nồng độ Hb mục tiêu là 115g/l. Ngừng liệu pháp ESAs nếu Hb>130g/l.

Liều:

Liều khởi đầu: dựa vào Hb, cân nặng và tình trạng lâm sàng của người bệnh.

+ Với Epoetin alfa hoặc Epoetin beta là 20-50UI/kg x 3 lần mỗi tuần.

+ Với Darbeopetin-alfa là 0,45mg/kg x 1lần mỗi tuần tiêm dưới da hoặc tĩnh mạch, hoặc 0,75mg/kg x 1lần mỗi 2 tuần tiêm dưới da.

+ Với CERA là 0,6mg/kg x1 lần mỗi 2 tuần tiêm dưới da hoặc tĩnh mạch, hoặc 1,2mg/kg x1lần mỗi 4 tuần tiêm dưới da.

– Việc điều chỉnh liều nên dựa vào nồng độ Hb và sự thay đổi của nó, liều ESAs hiện dùng và tình trạng lâm sàng của người bệnh.

Đường dùng:

Với người bệnh thận nhân tạo, nên tiêm ESAs dưới da hoặc tĩnh mạch

–  Với người bệnh CKD và người bệnh lọc màng bụng, nên tiêm ESAs dưới da.

  • Bổ sung sắt:

Lợi ích: Bổ sung sắt luôn được nhấn mạnh như là một trong những điểm mấu chốt của điều trị thiếu máu ở người bệnh Hơn nữa, bổ sung sắt có thể có những lợi ích ngoài khía cạnh huyết học, bao gồm cải thiện các chức năng nhận thức, miễn dịch, điều nhiệt, thích nghi với luyện tập thể lực.

Các chế phẩm

Sắt uống: thường đáp ứng hơn kém hơn sắt tĩnh mạ Tuy vậy, do giá thành thấp và dễ sử dụng, sắt uống vẫn được sử dụng trước sắt tĩnh mạch. Đáp ứng kém được cho là (1): mất một lượng sắt qua thận nhân tạo trong khi sắt hấp thu qua ruột không kịp bù, (2) sự kết hợp tối đa của sắt và tế bào hồng cầu xảy ra muộn( 33 ngày so với 8,6 ngày nếu tiêm tĩnh mạch); (3): nồng độ hepcidin ( tăng lên trong suy thận) cao gây ức chế hấp thu sắt uống từ tá tràng.

Sắt tĩnh mạch: Nhiều dạng sắt tĩnh mạch sẵn có trên thị trường. Sắt dextrans có 2 loại cấu tạo: phân tử lượng cao( ít sử dụng do liên quan đến các phản ứng phản vệ) và phân tử lượng thấp. Sắt sucrose được dùng với liều ≤200-300 mg trong 2 giờ, liều 400-500 mg có thể gây hạ HA và co thắt động mạch vành . Sắt gluconate được dùng với liều 125-250 mg trong 1-4 giờ, liều cao hơn cũng thường gây hạ HA. Có nhiều lo ngại khi sử dụng sắt tĩnh mạch, bất kể chế phẩm nào. Nguy cơ của quá tải sắt khi tổng lượng sắt trong cơ thể >5g( vượt quá khả năng của hệ liên võng nội mô), ít gặp khi Ferritin máu <2000 ng/ml.

Những thuốc sắt mới hoặc đang thực nghiệm:

+ Sắt uống: Các loại sắt heme được hấp thu qua dạ dày ruột hiệu quả 10 lần hơn sắt không heme.

+ Sắt tĩnh mạch: Ferurnoxytol( Feraheme), không có chứa sắt tự do, có thể dùng liều 510 mg trong 17 giây mà không tác dụng nặng nề nào. Sắt carboxymaltose ( Ferinject), chứa một chút sắt tự do và có thể dùng liều 1g trong 15 phút. Sắt Isomaltoside 1000 mg ( Monofer), là dạng sắt tĩnh mạch mới nhất, tương đối tinh khiết và có nhiều ưu điểm vượt trội.

Phác đồ bổ sung sắt

  • Nên cân nhắc lợi ích và những nguy cơ tiềm tàng( sốc phản vệ, các phản ứng dị cấp tính hoặc các nguy cơ lâu dài chưa được biết) trước khi kê toa.
  • Người bệnh thiếu máu chưa sử dụng ESAs hoặc sắt, có thể dùng sắt tĩnh mạch( hoặc ở người bệnh mắc bệnh thận mạn không do đái tháo đường, có thể dùng sắt uống trong 1-3 tháng) nếu:

+ Nồng độ Hemoglobin tăng lên mà không cần phải bắt đầu sử dụng ESA và

+ TSAT ≤30% và ferrtin≤500 ng/ml

  • Với người bệnh đang dùng ESAs không kèm bổ sung sắt, có thể dùng sắt tĩnh mạch (hoặc ở người bệnh mắc bệnh thận mạn không do đái tháo đường, có thể dùng sắt uống trong 1-3 tháng) nếu:

+ Nồng độ Hemoglobin tăng lên hoặc giảm được liều ESA và

+ TSAT ≤30% và ferritin≤500ng/ml

  • Lựa chọn đường dùng dựa trên mức độ thiếu sắt, sự sẵn có một đường vào tĩnh mạch, đáp ứng với sắt uống trước đó, tác dụng phụ với sắt uống hoặc sắt tĩnh mạch trước đó, giá cả, sự chấp thuận của người bệnh
  • Hướng dẫn đường dùng sắt tiếp theo dựa trên đáp ứng cải thiện nồng độ Hb với liệu pháp bổ sung sắt gần đây, cũng như tình trạng mất máu tiếp diễn, các xét nghiệm đánh giá dự trữ sắt( TSAT, Ferritin), nồng độ Hb, đáp ứng với ESA và liều ESA, diễn biến của mỗi thông số và tình trạng lâm sàng của người bệ
  • Với người bệnh trẻ em có thiếu máu nhưng hiện tại không sử dụng ESA hoặc bổ sung sắt, có thể dùng sắt uống( hoặc sắt tĩnh mạch ở người bệnh thận nhân tạo) khi TSAT≤20% và Ferritin ≤ 100ng/ml(≤100µg/l)
  • Với người bệnh trẻ em đang điều trị bằng ESA nhưng không bổ sung sắt, có thể dùng sắt uống( hoặc sắt tĩnh mạch cho người bệnh thận nhân tạo) để duy trì TSAT>20% và Ferritin >100ng/ml(>100µg/l)

Đánh giá tình trạng sắt

  • Đánh giá tình trạng sắt( TSAT và Ferritin) ít nhất 3 tháng trong quá trình điều trị bằng ESA, trước khi quyết định bắt đầu hoặc tiếp tục liệu pháp.
  • Xét nghiệm tình trạng sắt( TSAT và Ferritin) thường xuyên hơn khi bắt đầu điều trị hoặc khi tăng liều ESA, khi có mất máu, khi theo dõi đáp ứng sau một đợt truyền sắt tĩnh mạch, và trong các hoàn cảnh khác khi có giảm dự trữ sắt

Các cảnh báo khi bổ sung sắt

Khi truyền sắt, nên theo dõi người bệnh 60 phút sau khi bắt đầu và nên chuẩn bị sẵn sàng các phương tiện hồi sức( bao gồm thuốc) cũng như đội ngũ y tế được đào tạo để xử trí các trường hợp phản ứng nghiêm trọng.

Tránh sử dụng sắt tĩnh mạch ở người bệnh đang có nhiễm trùng toàn thân.

  • Truyền khối hồng cầu

Nên tránh truyền khối hồng cầu nếu có thể, để tối thiểu hóa những nguy cơ liên quan đến liệu pháp này.

Ở người bệnh chờ ghép thận, đặc biệt nên tránh truyền khối hồng cầu để tối thiểu hóa nguy cơ mẫn cảm thận ghép.

Tuy nhiên, truyền khối hồng cầu vẫn là cần thiết nếu:

+ Liệu pháp ESAs không hiệu quả( ví dụ bệnh Hemoglobin, suy tủy xương, kháng ESAs).

+ Nguy cơ của liệu pháp ESAs có thể lớn hơn lợi ích của nó( ung thư trước đó hoặc hiện tại, đột quỵ trước đó)

  • Quyết định truyền khối hồng cầu khi không có mất máu cấp không nên dựa trên bất cứ ngưỡng Hemoglobin tùy ý nào, mà nên dựa trên sự hiện diện của các triệu chứng thiếu máu.
  • Truyền khối hồng cầu cấp: Trong các tình huống cấp cứu, nên truyền khối hồng cầu khi lợi ích của nó nhiều hơn nguy cơ, bao gồm:

+ Cần điều trị thiếu máu nhanh chóng để ổn định tình trạng người bệnh(ví dụ chảy máu, bệnh động mạch vành không ổn định)

+ Cần điều trị thiếu máu nhanh chóng trước phẫu thuật

5. KẾT LUẬN

Thiếu máu thường gặp ở người bệnh CKD và gây tăng tỷ lệ bệnh tật và tử vong. Nguyên nhân là kết quả sự giao thoa các tình trạng sinh học- bệnh lý, bao gồm tình trạng thiếu sắt và thiếu EPO tương đối. Việc làm sáng tỏ hơn nữa nguyên nhân cũng như các đặc điểm chẩn đoán vẫn còn nhiều thách thức. Trong kỷ nguyên y học hiện đại, điều trị thiếu máu ở người bệnh mắc bệnh thận mạn đã tiến triển từ giai đoạn sơ khai( chủ yếu liên quan đến truyền máu), cho đến giai đoạn tiến bộ hiện nay( bao gồm điều trị bằng ESAs và bổ sung sắt), và tiếp tục phát triển với nỗ lực phát hiện những cơ chế và thuốc điều trị mới.

Thuốc điều trị bệnh đái tháo đường typ 2

I.   CÁC THUỐC HẠ GLUCOSE MÁU BẰNG ĐƯỜNG UỐNG

  1. Metformin (Dimethylbiguanide)

Là thuốc được sử dụng rộng rãi ở tất cả các quốc gia. Trước đây 30 năm là thuốc điều trị chính của đái tháo đường typ 2.

Các loại viên Metformin 500mg, 850mg, 1000 mg. Hiện nay Phenformin không còn lưu hành trên thị trường.

Liều khởi đầu viên 500 hoặc 850mg: 500 hoặc 850 mg (1 viên/ngày), thường uống vào buổi chiều, trước hoặc sau ăn.

Hiện nay liều tối đa khuyến cáo là 2000mg/ngày hoặc 850mg x 3 lần/ngày. Tăng liều hơn nữa không tăng thêm hiệu quả nhưng sẽ tăng tác dụng phụ.

Metformin tác động chủ yếu là ức chế sản xuất glucose từ gan nhưng cũng làm tăng tính nhạy của insulin ở mô đích ngoại vi. Tác động hạ glucose trong khoảng 2-4 mmol/l và có thể giảm HbA1c đến 2%. Vì nó không kích thích tuỵ chế tiết insulin nên không gây hạ glucose máu khi sử dụng đơn độc.

Metformin còn là thuốc được khuyến cáo lựa chọn dùng điều trị người đái tháo đường thừa cân, béo phì, để duy trì hoặc làm giảm cân nặng, thuốc còn có tác động có lợi đến giảm lipid máu.

Metformin có thể gây ra tác dụng không mong muốn ở đường tiêu hoá, nên dùng cùng bữa ăn và bắt đầu bằng liều thấp (500 mg/ngày).

* Chống chỉ định của metformin là suy tim nặng, bệnh gan (kể cả nghiện rượu), bệnh thận (creatinin máu > 160 mmol/l), người có tiền sử nhiễm toan lactic, do làm tăng nguy cơ nhiễm acid lactic. Metformin cũng chống chỉ định ở những trường hợp có thiếu oxy mô cấp như người đang có nhồi máu cơ tim, choáng nhiễm trùng …

2.  Sulfonylurea

Sulfonylurea kích thích tuỵ tiết insulin. Tác động làm giảm glucose trung bình là 50 – 60 mg/dl, giảm HbA1c tới 2%. Sulfonylurea được dùng thận trọng với người già, người bị bệnh thận (creatinine máu > 200 mmol/L) hoặc rối loạn chức năng gan khi đó liều thuốc cần được giảm đi. Sulfonylurea không được sử dụng để điều trị tăng glucose máu ở người bệnh đái tháo đường typ 1, nhiễm toan ceton, người bệnh có thai, và một số tình trạng đặc biệt khác như nhiễm trùng, phẫu thuật…

Các loại sulfonylurea trên thị trường:

  • Thế hệ 1: thuốc thuộc nhóm này gồm Tolbutamide, Chlorpropamide, viên 500mg – nhóm này hiện ít được sử dụng do nhiều tác dụng phụ.
  • Thế hệ 2: các thuốc thuộc nhóm này gồm Glibenclamid (Hemidaonil 2,5mg; Daonil 5mg; Glibenhexal 3,5mg;…); Gliclazid (Diamicron 80mg; Diamicron MR30 mg; Diamicron MR60 mg, Predian 80mg;…); Glipizid (minidiab), Glyburid;…

Thuốc thuộc thế hệ này có tác dụng hạ glucose máu tốt, ít tác dụng phụ hơn thuốc thế hệ 1. Nhóm Gliclazid các tác dụng đặc hiệu lên kênh KATP làm phục hồi đỉnh tiết sớm của insulin gần giống sự bài tiết insulin sinh lý nên ít gây hạ glucose máu hơn các thuốc sulfonylurea khác. Gliclazid (Diamicron 30mg MR) dùng một lần trong ngày.

Nhóm Glimepirid (Amaryl viên 1mg, 2mg và 4mg). Tác dụng hạ glucose máu tốt, ngoài tác dụng kích thích tế bào beta của tuỵ bài tiết insulin gần giống với bài tiết insulin sinh lý (tác dụng đặc hiệu lên kênh KATP làm phục hồi đỉnh tiết sớm của insulin), còn có tác dụng làm tăng nhạy cảm của mô ngoại vi với insulin. Thuốc có ít tác dụng phụ và ít gây tăng cân ở người bệnh đái tháo đường thừa cân. Chỉ uống một lần trong ngày nên thuận tiện cho người sử dụng.

Liều thông thường của nhóm Sulfonylurea:

  • Glipizid từ 2,5 mg đến 20,0mg/ ngày.
  • Gliclazid từ 40 – 320mg/ngày.
  • Gliclazid MR từ 30 – 120 mg/ngày.
  • Glimepirid từ 1,0 – 6,0 mg/ngày- cá biệt tới 8,0 mg/ngày.
  • Glibenclamid từ 1,25 – 15,0 mg/ ngày.

Các thuốc sulfonylurea được sử dụng rộng rãi dưới dạng đơn trị liệu hoặc phối hợp với các thuốc nhóm Biguanid, Glitazon, thuốc ức chế men Alpha-glucosidase, ức chế men DPP-4, insulin.

3.  Thuốc ức chế enzym Alpha- glucosidase

Enzym Alpha-glucosidase có tác dụng phá vỡ đường đôi (disaccharide) thành đường đơn (monosaccharide). Thuốc ức chế Alpha-glucosidase, vì thế có tác dụng làm chậm hấp thu monosaccharide, do vậy hạ thấp lượng glucose máu sau bữa ăn. Những thuốc nhóm này gồm:

  • Acarbose: Glucobay (50mg và 100mg). Tác dụng không mong muốn: đầy bụng, ỉa chảy…

Liều thuốc có thể tăng từ 25mg đến 50mg hoặc 100mg/mỗi bữa ăn.

  • Nhóm Voglibose: thuốc này hiện không có tại Việt Nam Chú ý khi sử dụng thuốc:
  • Thuốc cần sử dụng phối hợp với một loại hạ glucose máu khác.
  • Thuốc uống ngay trong khi ăn, tốt nhất là ngay sau miếng cơm đầu tiên. Trong bữa ăn phải có carbohydrat để thuốc tác dụng.

4.    Metiglinide/Repaglinide – thuốc kích thích bài tiết insulin sau ăn (khi có tăng glucose trong máu)

Về lý thuyết nhóm này không thuộc nhóm sulfonylurea; nhưng nó có khả năng kích thích tế bào beta tuyến tuỵ tiết insulin- nhờ có chứa nhóm benzamido.

Về cách sử dụng có thể dùng như một đơn trị liệu hoặc kết hợp với Metformin, với insulin. Người ta cũng đã có những số liệu chứng minh việc kết hợp Repaglinid với NPH trước khi đi ngủ đạt kết quả tốt trong điều trị hạ glucose máu ở người đái tháo đường typ 2.

Liều dùng: Hiện có hai thuốc trong nhóm này:

  • Repaglinid liều từ 0,5 đến 4 mg/bữa ăn. Liều tối đa 16 mg/ngày.
  • Nateglinid liều từ 60 đến 180 mg/bữa ăn. Liều tối đa 540,0 mg/ngày.

5.  Thiazolidinedion (Glitazone)

Thuốc làm tăng nhạy cảm của cơ và tổ chức mỡ với insulin bằng cách hoạt hoá PPARg (peroxisome proliferator-activated receptor g) vì vậy làm tăng thu nạp glucose từ máu. Thuốc làm tăng nhạy cảm của insulin ở cơ vân, mô mỡ đồng thời ngăn cản quá trình sản xuất glucose từ gan

Thuốc hiện có: Pioglitazon, có thể dùng đơn độc hoặc kết hợp với các thuốc uống khác hoặc insulin. Tác dụng phụ bao gồm tăng cân, giữ nước và mất xương, tăng nguy cơ suy tim. Nên lưu ý kiểm tra chức năng gan. Trước kia có khuyến cáo khi dùng troglitazon cần xét nghiệm chức năng gan 2 tháng một lần, hiện nay thuốc này đã bị cấm lưu hành.

Liều dùng:

  • Pioglitazon liều từ 15 đến 45 mg/ngày.

Chống chỉ định của nhóm thuốc này: người có triệu chứng hoặc dấu hiệu suy tim, tổn thương gan. Nhiều chuyên gia, nhiều quốc gia cũng khuyến cáo không nên phối hợp nhóm thuốc glitazon với insulin.

Hiện nay tại một số nước trên thế giới không khuyến cáo sử dụng nhóm glitazone do tăng nguy cơ biến cố tim mạch (rosiglitazon), hoặc ung thư nhất là ung thư bàng quang (pioglitazon).

6.  Gliptin

Gliptin là nhóm thuốc ức chế enzym DPP-4 (Dipeptidylpeptidase-4) để làm tăng nồng độ GLP1 nội sinh, GLP1 có tác dụng kích thích bài tiết insulin, và ức chế sự tiết glucagon khi có tăng glucose máu sau khi ăn.

Các thuốc ức chế enzym DPP-4 hiện đã có tại Việt Nam như sau:

  • Sitagliptin liều 50-100 mg/ngày
  • Vildagliptin liều 2×50 mg/ngày.
  • Saxagliptin–liều 2,5 – 5 mg/ ngày
  • Linagliptin- liều 5 mg/ngày

II. PHỐI HỢP CÁC THUỐC VIÊN HẠ GLUCOSE MÁU

Các thuốc phối hợp hiện tại trên thị trường Việt

Viên Thành phần Nồng độ (mg)
Glucovanc Metformin + Glibenclamid 500:2,5; 500:5,0
CoAmaryl Metformin+ Glimepirid 500:2,0;
Galvusmet Metformin + Vildagliptin 500:50; 850:50; 1000:50
Janumet Metformin + Sitagliptin 500:50; 850:50; 1000: 50;
Komboglyze Metformin+ Saxagliptin 500: 5

* Chú ý: Người ta thường dựa vào tác dụng của thuốc để phân chia liều lượng và loại thuốc, sao cho đạt được tác dụng tối đa. Không dùng phối hợp hai loại biệt dược của cùng một nhóm thuốc.

III.   INSULIN

  1. Cơ sở sử dụng insulin

Người bệnh đái tháo đường typ 1 phụ thuộc vào insulin ngoại sinh để tồn tại. Ngược lại, người bệnh đái tháo đường typ 2 không phải phụ thuộc vào insulin ngoại sinh để tồn tại. Nhưng sau một thời gian mắc bệnh, nếu không ổn định tốt glucose máu, nhiều người bệnh đái tháo đường typ 2 giảm sút khả năng sản xuất insulin, đòi hỏi phải bổ sung insulin ngoại sinh để kiểm soát glucose máu một cách đầy đủ.

Sử dụng insulin để đạt được hiệu quả kiểm soát chuyển hoá glucose tốt nhất đòi hỏi sự hiểu biết về khoảng thời gian tác dụng của các loại insulin khác nhau.

2.  Quy trình tiêm

Insulin nên được tiêm vào tổ chức dưới da. Người bệnh có thể tự tiêm bằng cách kéo nhẹ da gấp lên và tiêm ở góc 90 độ. Những người gầy hoặc trẻ em có thể dùng kim ngắn hoặc có thể véo da lên và tiêm góc 45 độ để tránh tiêm vào cơ, đặc biệt ở vùng đùi. Đặc biệt khi dùng bút tiêm insulin, kim nên lưu lại trong da 5 giây sau khi đã ấn toàn bộ pít tông để đảm bảo cung cấp đủ toàn bộ liều insulin.

Tiêm insulin vào tổ chức dưới da bụng thường được dùng, nhưng cũng có thể tiêm vào mông, đùi hoặc cánh tay. Quay vòng vị trí tiêm là cần thiết để ngừa phì đại hoặc teo tổ chức mỡ dưới da tại nơi tiêm.

3.  Bảo quản insulin

Lọ insulin nên để ở tủ lạnh, nhưng không để trong ngăn đá, tránh để insulin tiếp xúc với ánh nắng. Nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp và lắc nhiều có thể làm hỏng insulin. Insulin đang sử dụng có thể giữ ở nhiệt độ phòng để hạn chế gây kích thích tại vị trí tiêm.

Tắc vòi nhĩ – Nguyên nhân, chẩn đoán và điều trị

Tắc vòi nhĩ gây nghe kém, ù tai và có thể đưa tới viêm tai giữa.

NGUYÊN NHÂN

-Ở trẻ em thường gặp nhất do V. A. quá phát hay viêm mạn.

-Do viêm mũi xoang, nhất là viêm xoang sau mạn mủ.

-Do các u lành hay u ác ở vòm như u xơ hay polyp vòm họng, ung thư vòm (N. P.C), thoái hoá đuôi cuốn dưới…

-Do thay đổi áp lực không khí đột ngột như khi đi máy bay, nhảy cầu, lặn hay làm việc trong buồng khí nén.

CHẨN ĐOÁN

-Ù tai, thường là tiếng trầm.

-Nghe kém thể truyền âm, rõ rệt với các tiếng trầm, thường có tiếng tự vang (nghe tiếng mình nói to, vang hơn).

-Có cảm giác vướng, tức trong tai.

-Khám tai: màng tai lõm vào, mất tam giác sáng, cán búa nằm ngang ra sau và nổi rõ hơn.

-Nghiệm pháp Valsalva (Vanxanva) âm tính.

Cách làm: bệnh nhân bịt chặt 2 lồ mũi, phồng mồm thổi hơi mạnh nhưng phải ngậm miệng để hơi không thoát ra. Nếu không nghe thấy tiếng hơi qua vòi đập vào màng tai là âm tính, do vòi nhĩ bị tắc.

Lưu ý trong các trường hợp mủ đọng ở vòm (do viêm xoang sau, N.p.c…) không nên thổi hơi mà để bệnh nhân bịt mũi, ngậm miệng, nuốt nước bọt, bình thường khí trong thùng tai theo vòi nhĩ đi xuống cùng gây tiếng động ở màng tai, nếu không có tiếng động là âm tính gọi là nghiệm pháp Toonbay.

-Dùng ống bơm hơi Siegle không thấy thay đổi màng tai.

XỬ TRÍ

-Nếu vòi bán tắc hay mới bị do thay đổi áp lực không khí đột ngột có thể tự làm thông vòi bằng cách thổi hơi như làm nghiệm pháp Valsalva nhiều lần.

-Nếu bị tắc phải tiến hành bơm hơi hay nong vòi nhĩ. cần nhớ chỉ được làm thổi hơi hay bơm hơi vòi nhĩ khi không có viêm nhiễm, ứ mủ ở mũi họng.

-Giải quyết nguyên nhân bằng cách loại bỏ các ổ viêm (như nạo V.A….), các yếu tố gây tắc (như cắt bỏ polyp, u xơ vòm họng).

CẦN NHỚ

  1. Hướng dẫn cách tự thổi hơi vòi tai để tự xử trí ngay khi bị tắc vòi do đi máy bay, nhảy cầu, lặn…

Cho ngậm kẹo cứng, chua để phải luôn nuốt làm thông khí vòi tai, tránh bị tắc khi phải làm việc ở nơi thay đổi áp suất: trong chuông khí nén, thợ lặn, leo núi cao, hay đi máy bay.

Phòng trị viêm phổi vi khuẩn lần tràng hạt

Loại vi khuẩn lần tràng hạt tồn tại rộng rãi trong tự nhiên, cũng là loại khuẩn cộng thê, sống gửi ở da, khoang miệng, đường tiêu hóa và trong âm đạo của người khỏe mạnh; khi cơ thể con người do một nguyên nhân nào đó sức đề kháng giảm thấp, thì có thể gây bệnh. Loại khuẩn lần tràng hạt có thể xâm nhập rất nhiều bộ phận cơ thể con người, khi nó xâm nhập đến phổi thì gọi là viêm phổi do vi khuẩn lần tràng hạt, viêm phổi loại này là một loại bệnh trực khuẩn ở bộ phận sâu.

  1. Đặc trưng lâm sàng

Các chứng bệnh thường xảy ở trẻ sơ sinh, như viêm phổi, lao phổi, đái đường, các bệnh về máu, dùng nhiều thuốc kháng khuẩn, các kích tố (hormone) là nguyên nhân dẫn đến chủ yếu. Đó là vì Penicillin có tác dụng kích thích quá độ sinh sôi của khuẩn tràng hạt màu trắng. Chất kháng sinh quảng phổ ức chế vi trùng trong cơ thể, khiến cho khuẩn tràng hạt mất đi sự ràng buộc của vi trùng, kích thích tố của da có thể ức chế chức năng miễn dịch trong cơ thể.

Có đầy đủ các triệu chứng và những đặc trưng viêm phổi nhánh phế quản, nhưng bệnh xảy ra từ từ, phần lớn dùng thuốc kháng sinh trong quá trình điều trị mà xuất hiện viêm phổi hoặc nặng thêm, có thể sốt, ho, mạch dồn dập, đờm không màu dính đặc như keo, thỉnh thoảng có tia máu. Nghe trong phổi có âm thanh bọt nước nhỏ, vừa.

Nếu chẩn đoán nhầm mà tăng lượng kháng sinh để chữa trị, thường thường làm cho bệnh tình nặng thêm, nhưng sau khi ngừng dùng thuốc kháng sinh thì tự khỏi bệnh.

Thường đồng thời có vùng nhiễm bệnh khác bị nhiễm khuẩn tràng hạt, như bệnh viêm miệng thấy nhiều nhất, cá biệt có bệnh trực khuẩn ở da hoặc đường tiêu hóa.

X quang vùng ngực: vết đen chiếm vùng lớn. ở đáy phổi và giữa phổi, cá biệt những vết đen bằng hạt thóc, nhưng trong thời gian ngắn có thể biến hóa.

Máu: bạch cầu giảm

Trong đờm kiểm tra thấy có men và tổ chức dạng sợi trực khuan nảy mầm khuẩn tràng hạt.

Triệu chứng lâm sàng nhẹ. còn dấu hiệu X quang phổi thì nghiêm trọng; sử dụng thuốc: kháng sinh bệnh sẽ tồi tệ hơn; sử dụng thuốc kháng trực khuẩn sẽ có hiệu quả rõ rệt.

  1. Chữa trị

Do ứng dụng thuốc kháng sinh tràn lan và kích tố màng tuyến thượng thận, những năm gần đây, bệnh này có xu thế ngày càng tăng, biện pháp chữa trị như sau:

  • Sau khi phát hiện bệnh này, cần phải ngừng việc sử dụng các chất kháng sinh, kích tố màng tuyến thượng thận và chất ức chế miễn dịch.
  • Tăng cường dinh dưỡng và vệ sinh, tiến hành xử lí đối chứng và liệu pháp hỗ trợ toàn thân; chú ý bổ sung loại vitamin B, trong ăn uống về nhiệt lượng và dinh dưỡng phải đầy đủ. Chú ý cân bằng nước, chất điện giải: khi cần thiết phải truyền máu tươi để tăng cao sức miễn dịch của cơ thể.
  • Ứng dụng thuốc kháng trực khuẩn

+ Amphoterccinum B: có tác dụng ức chế mạnh đối với khuẩn tràng hạt, là loại thuốc chủ yếu để chữa trị bệnh khuẩn tràng hạt nặng, nhưng tác dụng phụ của thuốc này tương đối lớn, truyền nhỏ giọt vào tĩnh mạch không lâu là có thể xuất hiện phản ứng sốt cao, rùng mình, nôn mửa, dùng lâu dài sẽ có tác dụng độc hại đối với gan. thận, tim. Cho nên, liệu trình không được kéo dài, nên dùng 50mg/kg/ngày. Trước hết đem thuốc này pha loãng trong 10ml nước cất, sau đó cho vào trong dung dịch đường glucose 5% – 10% pha loãng thành nồng độ 0,lmg/ml nhỏ giọt vào tĩnh mạch, truyền trong thời gian 6 – 8 giờ là hết. Khi truyền phải dùng giấy đen bọc quanh bình thuốc che kín ánh sáng.

+ Fluorouracilim: có tác dụng ức chế tốt đối với khuẩn tràng hạt, dùng riêng nó hiệu quả kém hơn Amphotercinum B, nhưng nếu hai thứ dùng phối hợp, có tác dụng hiệp trợ, thì hiệu quả tăng lên. Tác dụng phụ nhỏ hơn Amphotercinum B lưỡng tính, khi sử dụng có thể xuất hiện triệu chứng đường tiêu hóa, dùng thời gian dài, có một số ít trẻ’ có khả năng bị ức chế gan, thận, và tủy xương. Lượng dùng: 100mg/kg/ngày chia làm 3 – 4 lần để uống hoặc pha vào dịch để truyền vào tĩnh mạch.

+ Dịch tỏi: có tác dụng ức chế trực khuẩn, kháng khuẩn, tiêu viêm. Trẻ con mỗi ngày 10 – 40mg, cho vào trong dịch đường glucose 5% (nhưng pha loãng không được nhỏ hơn 4 lần) truyền vào tĩnh mạch, mỗi ngày một lần, liệu trình 2 tuần – 2-t.háng. Tác dụng phụ ít.

– Erythromycin: tác dụng -kháng khuẩn giống .như Amphotericinium B. có tác dụng ức chế tương đối tốt đối với khuẩn tràng hạt, nhưng tác dụng kháng khuẩn yếu

hơn so với Amphotericinium B, độc tính cũng tương đối nhỏ. Cách dùng: lần đầu 40 – 100 ụ/kg, mỗi lần tăng thêm 40 – 100 p/kg. tăng dần dần đến 600 – 800 μ/kg/lần. Mỗi ngày hoặc cách mỗi ngày 1 lần, truyền vào tĩnh mạch.

Thiếu máu trong thai kỳ

Các loại thiếu máu trong thai kỳ

  • Các yếu tố nguy cơ gây thiếu máu trong thai kỳ
  • Triệu chứng của thiếu máu trong thai kỳ
  • Nguy cơ của thiếu máu trong thai kỳ

Khi bạn mang thai, bạn có thể phát triển tình trạng thiếu máu. Khi bạn bị thiếu máu, máu của bạn không có đủ tế bào hồng cầu khỏe mạnh để mang oxy đến các mô của bạn và cho em bé.

Trong thai kỳ, cơ thể bạn sản xuất thêm máu để hỗ trợ sự phát triển của thai nhi. Nếu bạn không nhận đủ sắt hoặc một số dưỡng chất khác, cơ thể bạn có thể không tạo ra đủ tế bào hồng cầu để sản xuất lượng máu bổ sung này.

Thiếu máu nhẹ trong thai kỳ là bình thường. Tuy nhiên, bạn có thể bị thiếu máu nghiêm trọng hơn do thiếu sắt, vitamin hoặc các lý do khác.

Thiếu máu có thể khiến bạn cảm thấy mệt mỏi và yếu. Nếu thiếu máu nghiêm trọng và không được điều trị, nó có thể làm tăng nguy cơ gặp các biến chứng nghiêm trọng như sinh non.

Dưới đây là những điều bạn cần biết về nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị thiếu máu trong thai kỳ.

Thiếu máu trong thai kỳ
Thiếu máu trong thai kỳ

Các loại thiếu máu trong thai kỳ

Có nhiều loại thiếu máu có thể phát triển trong thai kỳ, bao gồm:

  • Thiếu máu do thiếu sắt
  • Thiếu máu do thiếu folate
  • Thiếu hụt vitamin B12

Dưới đây là lý do những loại thiếu máu này có thể phát triển:

Thiếu máu do thiếu sắt. Loại thiếu máu này xảy ra khi cơ thể không có đủ sắt để sản xuất đủ lượng hemoglobin. Hemoglobin là một loại protein trong tế bào hồng cầu, mang oxy từ phổi đến các phần còn lại của cơ thể.

Trong thiếu máu do thiếu sắt, máu không thể mang đủ oxy đến các mô trên khắp cơ thể. Thiếu sắt là nguyên nhân phổ biến nhất của thiếu máu trong thai kỳ.

Thiếu máu do thiếu folate. Folate là một loại vitamin tự nhiên có trong một số thực phẩm như rau lá xanh. Đây là một loại vitamin B mà cơ thể cần để tạo ra các tế bào mới, bao gồm cả các tế bào hồng cầu khỏe mạnh.

Trong thời kỳ mang thai, phụ nữ cần bổ sung thêm folate. Nhưng đôi khi, họ không nhận đủ từ chế độ ăn uống. Khi điều đó xảy ra, cơ thể không thể tạo ra đủ tế bào hồng cầu bình thường để vận chuyển oxy đến các mô. Thực phẩm bổ sung folate nhân tạo được gọi là axit folic.

Thiếu folate có thể góp phần trực tiếp vào một số dị tật bẩm sinh như bất thường ống thần kinh (nứt đốt sống) và sinh con nhẹ cân.

Thiếu hụt vitamin B12. Cơ thể cần vitamin B12 để tạo ra các tế bào hồng cầu khỏe mạnh. Khi phụ nữ mang thai không nhận đủ vitamin B12 từ chế độ ăn, cơ thể họ không thể tạo ra đủ tế bào hồng cầu khỏe mạnh. Phụ nữ không ăn thịt, gia cầm, sản phẩm sữa và trứng có nguy cơ cao hơn bị thiếu vitamin B12, điều này có thể góp phần gây dị tật ống thần kinh và dẫn đến sinh non.

Mất máu trong quá trình và sau khi sinh cũng có thể gây thiếu máu.

Các yếu tố nguy cơ gây thiếu máu trong thai kỳ

Tất cả phụ nữ mang thai đều có nguy cơ bị thiếu máu. Đó là vì họ cần nhiều sắt và axit folic hơn bình thường. Tuy nhiên, nguy cơ cao hơn nếu bạn:

  • Mang thai đôi hoặc nhiều hơn
  • Có hai lần mang thai gần nhau
  • Nôn nhiều do nghén
  • Mang thai khi còn vị thành niên
  • Không ăn đủ thực phẩm giàu sắt
  • Bị thiếu máu trước khi mang thai

Triệu chứng của thiếu máu trong thai kỳ

Các triệu chứng phổ biến nhất của thiếu máu trong thai kỳ bao gồm:

  • Da, môi, và móng nhợt nhạt
  • Cảm thấy mệt mỏi hoặc yếu
  • Chóng mặt
  • Khó thở
  • Tim đập nhanh
  • Khó tập trung

Trong giai đoạn đầu của thiếu máu, bạn có thể không có triệu chứng rõ ràng. Và nhiều triệu chứng có thể xuất hiện khi bạn mang thai ngay cả khi bạn không bị thiếu máu. Vì vậy, hãy chắc chắn làm các xét nghiệm máu định kỳ để kiểm tra thiếu máu tại các buổi khám thai.

Nguy cơ của thiếu máu trong thai kỳ

Thiếu máu do thiếu sắt nghiêm trọng hoặc không được điều trị trong thai kỳ có thể làm tăng nguy cơ:

  • Sinh non hoặc sinh con nhẹ cân
  • Truyền máu (nếu mất nhiều máu trong quá trình sinh)
  • Trầm cảm sau sinh
  • Trẻ sơ sinh bị thiếu máu
  • Trẻ chậm phát triển

Thiếu folate không được điều trị có thể làm tăng nguy cơ sinh:

  • Sinh non hoặc sinh con nhẹ cân
  • Trẻ có dị tật bẩm sinh nghiêm trọng về cột sống hoặc não (dị tật ống thần kinh)

Thiếu hụt vitamin B12 không được điều trị cũng có thể làm tăng nguy cơ sinh con có dị tật ống thần kinh.

Các xét nghiệm thiếu máu

Trong buổi khám thai đầu tiên, bạn sẽ được làm xét nghiệm máu để bác sĩ kiểm tra xem bạn có bị thiếu máu không. Các xét nghiệm máu thường bao gồm:

  • Xét nghiệm hemoglobin. Nó đo lượng hemoglobin — một loại protein giàu sắt trong tế bào hồng cầu, mang oxy từ phổi đến các mô trong cơ thể.
  • Xét nghiệm hematocrit. Nó đo tỷ lệ phần trăm của tế bào hồng cầu trong một mẫu máu.

Nếu bạn có mức hemoglobin hoặc hematocrit thấp hơn bình thường, bạn có thể bị thiếu máu do thiếu sắt. Bác sĩ có thể kiểm tra các xét nghiệm máu khác để xác định liệu bạn có bị thiếu sắt hoặc nguyên nhân khác gây thiếu máu.

Ngay cả khi bạn không bị thiếu máu lúc bắt đầu thai kỳ, bác sĩ có thể sẽ khuyến nghị bạn làm xét nghiệm máu khác để kiểm tra thiếu máu ở tam cá nguyệt thứ hai hoặc thứ ba.

Điều trị thiếu máu

Nếu bạn bị thiếu máu trong thai kỳ, bạn có thể cần bắt đầu bổ sung sắt và/hoặc axit folic bên cạnh vitamin trước khi sinh. Bác sĩ cũng có thể đề nghị bạn bổ sung thêm thực phẩm giàu sắt và axit folic vào chế độ ăn uống.

Ngoài ra, bạn sẽ được yêu cầu làm xét nghiệm máu lại sau một khoảng thời gian nhất định để bác sĩ kiểm tra xem mức hemoglobin và hematocrit của bạn có được cải thiện hay không.

Để điều trị thiếu hụt vitamin B12, bác sĩ có thể khuyến nghị bạn bổ sung vitamin B12.

Bác sĩ cũng có thể đề nghị bạn ăn nhiều thực phẩm có nguồn gốc động vật hơn như:

  • Thịt
  • Trứng
  • Sản phẩm từ sữa

Bác sĩ sản khoa của bạn có thể giới thiệu bạn đến chuyên gia huyết học, người chuyên về thiếu máu/các vấn đề về máu. Chuyên gia này có thể theo dõi bạn suốt quá trình thai kỳ và hỗ trợ bác sĩ sản khoa của bạn quản lý thiếu máu.

Phòng ngừa thiếu máu

Để ngăn ngừa thiếu máu trong thai kỳ, hãy đảm bảo bạn nhận đủ sắt. Ăn các bữa ăn cân bằng và thêm nhiều thực phẩm giàu sắt vào chế độ ăn.

Hãy đặt mục tiêu ít nhất ba khẩu phần ăn mỗi ngày từ các thực phẩm giàu sắt, như:

  • Thịt đỏ nạc, gia cầm và cá
  • Rau lá xanh đậm (như rau bina, bông cải xanh và cải kale)
  • Ngũ cốc và hạt được bổ sung sắt
  • Đậu, đậu lăng và đậu phụ
  • Các loại hạt và hạt giống
  • Trứng

Thực phẩm giàu vitamin C có thể giúp cơ thể bạn hấp thụ sắt tốt hơn. Những thực phẩm này bao gồm:

  • Trái cây họ cam quýt và nước ép
  • Dâu tây
  • Kiwi
  • Cà chua
  • Ớt chuông

Hãy thử ăn những thực phẩm này cùng lúc với các thực phẩm giàu sắt. Ví dụ, bạn có thể uống một ly nước cam và ăn ngũ cốc giàu sắt cho bữa sáng.

Ngoài ra, hãy chọn những thực phẩm giàu folate để giúp ngăn ngừa thiếu folate. Những thực phẩm này bao gồm:

  • Rau lá xanh
  • Trái cây họ cam quýt và nước ép
  • Đậu khô
  • Bánh mì và ngũ cốc được bổ sung axit folic

Hãy tuân theo chỉ dẫn của bác sĩ và uống vitamin trước khi sinh, vitamin bổ sung sắt hoặc axit folic theo toa.

Nếu bạn không ăn các sản phẩm từ động vật, hãy hỏi bác sĩ xem bạn có cần bổ sung thêm vitamin B12 hay không.

Trẻ hay bị nôn – Biểu hiện, cách phòng tránh

Biểu hiện:

Nôn, thực ra không phải là bệnh mà là một hiện tượng hay gặp ở trẻ em. “Nôn chỉ là phản ứng tích cực của cơ thể nhằm tống khỏi dạ dày những thức ăn, nước uống của cơ thể tiếp thu được.

Các trường hợp và cách phòng tránh:

  • Nôn do lúc hơi nhiều quá.

Khi trẻ đói, mẹ cho bú nên trẻ bú vội. Nếu vú mẹ ít sữa hoặc sữa không xuống kịp thì trẻ vừa nuốt sữa, vừa nuốt cả hơi. Vì thế dạ dày nhanh căng, trẻ không bú nữa.

Lúc này nếu người mẹ cho con nằm thì không khí trong dạ dày tràn ra miệng trẻ nên đẩy cả sữa ra.

Tránh nôn do đầy hơi bằng cách:

+ Khi cho trẻ bú, nếu thấy sữa xuống ít, nên nặn thêm sữa để sữa ra nhiều để trẻ nuốt ít không khí.

+ Sau khi cho trẻ bú no, không nên cho trẻ nằm ngay mặc dù trẻ thích nằm và dễ ngủ. Nên bê dựng trẻ lên, áp cằm vào vai mẹ rồi vỗ nhẹ vào lưng hoặc xoa bụng. Hoặc có thể để trẻ ngồi lên đùi mẹ rồi vuốt vuốt dạ dày bé. Nếu trẻ ngủ ngay, nên bế như vậy để trẻ ợ hơi ra và trẻ sẽ không bị nôn. Sau đó mới đặt trẻ nằm ngủ.

  • Nôn do ăn uống quá nhiều:

Có nhiều trẻ ăn không biết chán. Các bà mẹ cứ tưởng ăn càng nhiều càng tốt nên đã để trẻ ăn thoải mái. Một số trẻ vì ăn quá liều lượng nên bị nôn. Đây là hiện tượng bình thường nhưng trẻ nôn quá nhiều lần sẽ sợ và không dám ăn nữa.

Muốn tránh tình trạng này, các bà mẹ nên cho con mình ăn uống điều độ, có chừng mực, với thể trọng của đứa trẻ. Không nên cho trẻ ăn quá nhiều, nhất là tăng về khối lượng. Chú ý trẻ ăn no vừa phải, đủ chất, có thể trẻ sẽ dễ hấp thụ không gây nôn.

  • Nôn vì ăn thức ăn lạ:

Trẻ em rất nhạy cảm với thức ăn lạ. Thức ăn trẻ chưa ăn lần nào cho dù ngon và bổ, trẻ ăn vào sẽ bị nôn ngay.

Tránh hiện tượng này không khó, các bà mẹ nên cho con ăn thử thức ăn lạ một ít, cho đên khi quen.

Ngoài ra, trẻ có thể bị nôn nếu ăn phải thức ăn có độc tố thực phẩm ôi thiu hoặc rau quả bị ủng… Tránh tình trạng này bằng cách không cho trẻ ăn thức ăn để quá 4 giờ, rau quả phải còn tươi…

  • Trẻ nôn do mắc bệnh nhiễm khuẩn.

Trẻ bị nôn, kèm theo sốt thì không nên bắt trẻ phải ăn hết phần ăn hàng ngày trẻ vẫn ăn. Lúc này phải chăm sóc trẻ theo chế độ đặc biệt.

  • Trẻ nôn vì mắc bệnh về họng.

Trẻ bị viêm họng hay mắc một số bệnh về họng thường hay nôn. Vì vậy cần đưa trẻ đi khám tại cơ sở y tế ngay.

  • Một số điểm cần chú ý khi trẻ bị nôn:

Cứ để trẻ nôn thoải mái, không hạn chế nôn.

Sau khi trẻ nôn xong phải cho trẻ súc miệng.

Hút mũi để không cho chất nôn ứ đọng trong mũi.

Sau khi nôn xong, phải theo dõi trẻ. Nếu có gì bất thường, phải đưa trẻ đi khám ngay.

Các bệnh của mi mắt và điều trị

VIÊM MI MẮT

Mi mắt, đặc biệt là ở bờ nhẵn của mi bị viêm. Viêm mắt có thể đơn giản (sung huyết, rử mắt hoặc đóng vẩy) hoặc có thể loét (thường do tụ cầu vàng). Bệnh nhân có cảm giác có dị vật và bỏng rát. Bờ tự do của mi đỏ, mi bị phù, kết mạc bị kích thích, sợ ánh sáng, chảy nước mắt. Hai mi mắt dính vào nhau khi ngủ.

Điều trị: bôi thuốc mỡ sulfamid hoặc kháng sinh (ví dụ; erythromycin). Lấy rử mắt, vẩy.

CHẮP

Là một khối u hạt nhỏ ở một mi mắt do tuyến Meibomius của sụn mi bị viêm mạn tính. Sờ nắn thấy khối chắp di động dưới da mi.

Thường hay gặp viêm kết mạc ở vùng gần chắp. Phần lớn chắp tự hết sau vài tháng.

Điều trị: mổ cắt bỏ chắp. Có thể bị tái phát.

VIÊM TÚI LỆ

Viêm túi lệ cấp tính hoặc mạn tính ở phái tên ống dẫn lệ bị tắc. Các vi khuẩn thường gặp nhất trong các thể cấp là tụ cầu, liên cầu dung huyết beta; trong thể mạn tính là phế cầu hoặc Candida albicans.

Thể cấp tính có sưng, đau, đỏ ở phía dưới – trong góc trong của mắt, xung quanh có phù nề lan lên mi mắt và má. Điều trị: kháng sinh đường toàn thân và tại chỗ. Nếu vẫn còn cản trở trong ống lệ thì hay bị tái phát. Nếu bị chuyển thành áp xe thì phải mổ dẫn lưu.

Triệu chứng chính của thể mạn tính là chảy nước mắt. Khi khám, thấy túi lệ sưng, nổi lên ở góc trong của mắt, không đau; từ đó, có dịch nhầy – mủ chảy ra hoặc khi ấn thì chảy ra. Điều trị triệu chứng bằng nhỏ thuốc kháng sinh và lau rửa ổng lệ. Điều trị ngoại khoa để lấy bỏ vật gây tắc.

Tắc tuyến lệ bẩm sinh ở trẻ nhỏ thường tự khỏi vào khoảng 6 tuổi.

LỘN MI (HẾCH MI, LỘN NIÊM MẠC)

Bờ tự do của mi bị lộn ra ngoài, thường là ở mi dưới, làm lộ kết mạc và sụn mi kề bên dưới, dẫn đến chàm mạn tính và chảy nước mắt .Thể liệt là do liệt nhãn cầu (gặp trong liệt dây mặt ngoại biên); thể ở người già do viêm kết mạc mạn tính và thể sẹo do chấn thương, bỏng hoặc do bị acid hoặc kiềm bắn vào.

Điều trị: nếu lộn mi gây chảy quá nhiều nước mắt thì cần phải điều trị bằng ngoại khoa.

CỤP MI

Bờ tự do của mi lộn vào trong, lông mi cọ vào giác mạc.

  • Thể ở người già:cụp mi mi dưới, có co thắt.
  • Thê sẹo: cụp mi trên do kết mạc mi bị co lại vì vết thương (sang chấn, bỏng), loét giang mai hoặc lao (hiếm).

Cụp mi, nhất là do mắt hột có thể gây lông quặm ở mi trên và mi dưới; tức là các lông mi bị xiên vào trong và cọ vào nhãn cầu, gây viêm mi mạn tính và tạo thành vết sẹo kích thích thường xuyên kết mạc nhãn cầu và giác mạc, chảy nước mắt và làm giác mạc bị dục dần.

Điều trị: tuỳ theo mức độ: mổ mi (gây tê tại chỗ), tái tạo mi hoặc cắt sụn mi để nâng mi.

LẸO

Bờ tự do của mi bị viêm cấp có mủ, giống như một hạt ngô ở các tuyến Zeiss. Lẹo thường do tụ cầu và thường có viêm mi kèm theo.

Lẹo có một điểm nhỏ, màu vàng. Khi áp xe vỡ, mủ chảy ra và hết đau.

Điều trị: chườm nóng để giảm đau, nhỏ hoặc bôi sulfamid hoặc kháng sinh (nhỏ vào túi kết mạc). ít khi phải chích rạch.

Lây nhiễm Uốn ván và phòng chống bệnh

Uốn ván là một bệnh nhiễm khuẩn nặng, kèm theo những cơn co giật, phát sinh sau những tổn thương ở da.

TÁC NHÂN GÂY BỆNH VÀ CHẨN ĐOÁN

  1. Tác nhân gây bệnh uốn ván là Clostridium tetani. Đó là một trực khuẩn sinh bào tử và yếm khí (như tác nhân gây bệnh hoại thư khí và bệnh botulinum). Trực khuẩn uốn ván tạo ra một ngoại độc tố mạnh, tác dụng lên hệ thần kinh (tetano-spasmin).

Bào tử của trực khuẩn uốn ván rất bền vững (như bào tử của trực khuẩn than). Dung dịch clorua Hg 1% và dung dịch phenol 5% giết chúng sau 8-10 giờ ; dung dịch focmalin 1% giết chúng nhanh hơn. Bào tử chết sau 2 giờ khi đun nóng 90° và chết sau 30 phút khi đun sôi.

Trong đất và trên các vật dụng (đinh rỉ, dụng cụ đồng áng) bào tử của chúng sống được nhiều năm.

  1. Bệnh sinh và biểu hiện lâm sàng:

Người bị nhiễm khuẩn khi tác nhân gây bệnh rơi vào vết thương cùng với đất hoặc mảnh quần áo. Khi đó, bệnh uốn ván có thể phát sinh, nếu trong vết thương có những diều kiện yếm khí. Chính vì vậy mà bệnh hay phát sinh ở những người bị tai nạn giao thông hoặc chấn thương trên đồng áng. Trong trường hợp này, bào tử uốn ván nở, rồi sinh sản trong vết thương và bài xuất ra ngoại độc tố. Ngoại độc tố lan truyền theo dây thần kinh và theo máu gây tổn thương ở tổ chức thần kinh. Độc tố uốn ván tác dụng lên hệ thần kinh gây những cơn co giật cứng và co giật rung, làm tiêu huỷ hồng cầu. Thời kỳ ủ bệnh thuờng là 1-2 tuần lễ, nhưng cũng có thể ngắn hơn (2-3 ngày) hay dài hơn. Bệnh thường kết thúc bằng tử vong ; nếu bệnh khỏi, thì có miễn dịch lâu bền.

  1. Chẩn đoán:

Chẩn đoán bệnh thường căn cứ vào bệnh cảnh lâm sàng đặc biệt. Chẩn đoán bằng xét nghiệm rất khó khăn, vì việc phân lập tác nhân gây bệnh từ vết thương rất lâu.

QUÁ TRÌNH TRUYỀN NHIỄM

  1. Nguồn truyền nhiễm:

Clostridium phổ biến trong thiên nhiên. Chúng thường trú trong ruột các loài nhai lại và đôi khi có mặt cả trong ruột người mà không gây hậu quả tai hại nào. Cùng với phân, chúng sẽ rơi vãi vào đất và các đồ dùng bẩn.

  1. Đường truyền nhiễm:

Mức độ mắc bệnh tuỳ thuộc vào mức độ nhiễm khuẩn của đất. Trong đa số trường hợp nguyên nhân bệnh uốn ván là những chấn thương trên đồng áng hoặc tai nạn giao thông. Uốn ván dễ xảy ra trong trường hợp nạo thai bất hợp pháp và cắt rốn bằng dao, kéo bẩn hay băng rốn cho trẻ sơ sinh ở gia đình. Trong thời gian chiến tranh, mức độ mắc bệnh uống ván tăng vọt do vết thương vì bom đạn.

Sau cùng uốn ván ẩn (cryptogenic tetanus) là hậu quả của tự nhiễm.

ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ

Ngày nay, bệnh uốn ván chỉ còn những trường hợp đơn phát. Mức độ mắc bệnh tuỳ thuộc vào mức độ nhiễm khuẩn của đất và vào nhiều yếu tố khác nhau như không tiến hành phòng uốn ván khi xử lý các vết thương và khi phẫu thuật, như phụ nữ không sinh đẻ ở nhà hộ sinh. Trong những trường hợp này, tỷ lệ chết từ 84-96%.

PHÒNG BỆNH UỐN VÁN

Chủ yếu là đề phòng các chấn thương và tạo miễn dịch chủ động và bị động cho những nhóm người có nguy cơ bị uốn ván.

Trong các vùng mà tỷ lệ mắc bệnh cao (1-6 cho 100.000 dân) thì phải tiêm giải độc tố (anatoxin) cho toàn dân chúng làm nông nghiệp.

Trong các vùng khác có tỷ lệ mắc bệnh không cao (dưới 1 cho 100.000 dân) và tại thành thị, có thể chỉ tiêm giải độc tố cho những nhóm người sau đây:

  • Công nhân đường sắt và đường thuỷ, công nhân xây dựng, công nhân làm đất, công nhân mỏ than bùn, công nhân vệ sinh cống rãnh, công nhân công trình lọc nước.
  • Bộ đội và công nhân công nghiệp quốc phòng, thanh niên dân quân tự vệ luyện tập chuẩn bị tòng quân.
  • Nhân viên các phòng xét nghiệm làm việc với môi trường nuôi cấy trực khuẩn uốn ván.

Nên tiêm chủng giải độc tố uốn ván được hấp phụ và tinh chế. Tiêm dưới da 2 lần (1 và 2ml) cách nhau 2-3 tuần lễ. Tiêm chủng lại 2ml sau một năm, sau này cứ 5-10 năm lại tiêm một lần 2ml.

Tốt hơn cả là kết hợp tiêm giải độc tố uốn ván với vacxin khác. Thí dụ nếu tiêm cho trẻ em có thể kết hợp tiêm chông bạch hầu-ho gà và uốn ván ; nếu tiêm cho người lớn có thể tiêm chống bạch hầu-thương hàn và uốn ván.

Đối với những người bị chấn thương mà chưa được tiêm giải độc tố uốn ván, thì phải tạo miễn dịch bị động-chủ động trong những trường hợp sau đây: – vết thương bị nhiễm đất, mảnh quần áo

  • Gẫy xương hở
  • Vết thương sâu do đâm hoặc mảnh bom
  • Vết bỏng

Tiêm dưới da huyết thanh chống uốn ván (1.500-3.000 đơn vị) sau 15 phút tiêm lml giải độc tố ucín ván ở chỗ khác sau 2 tuần lại tiêm 2ml giải độc tố.

Đối với những người bị thương mà đã tiêm giải độc tố, nếu bị thương nhẹ, thì chỉ cần tiêm một lần 2ml giải độc tố ; nếu bị thương nặng, thì phải tiêm huyết thanh chống uốn ván (3.000 đơn vị) và sau 15 phút tiêm 2ml giải độc tố.

Phụ nữ nạo thai bất hợp pháp, phải tiêm huyết thanh và giải độc tố để phòng uốn ván. Nếu phải sinh đẻ ở nhà mà không có nữ hộ sinh, thì nên tiêm cho mẹ huyết thanh + giải độc tố và tiêm cho trẻ sơ sinh một liều huyết thanh để phòng uốn ván.

Khi tiêm huyết thanh, không được quên làm giải dị ứng theo phương pháp Besredka.

Thành công của việc phòng bệnh là ở chỗ bản thân dân chúng phải hiểu sự nguy hiểm của bệnh uốn ván và các điều kiện làm phát sinh ra bệnh. Cho nên công tác giải thích, tuyên truyền vệ sinh có một ý nghĩa lớn.

Những thành phần mỹ phẩm tốt và xấu cho eczema

Yêu thích: Bơ shea

Các triệu chứng khó chịu của eczema chủ yếu xuất phát từ hai vấn đề chính: da khô nghiêm trọng và hàng rào bảo vệ da bị hỏng trước vi khuẩn và chất gây kích ứng. Nghiên cứu cho thấy bơ shea vừa giữ ẩm vừa ngăn chặn vi khuẩn. Điều này có thể do chất giữ ẩm này chứa axit linoleic, một loại chất béo có trong da mà những người bị eczema thường thiếu.

Yêu thích: Glycerin

Chất giữ ẩm như glycerin hấp thụ nước từ không khí xung quanh. Nghiên cứu cho thấy rằng các loại kem chứa thành phần này giúp giảm tình trạng da khô do eczema mà không gây rát hoặc bỏng như các sản phẩm khác.

Yêu thích: Axit hyaluronic

Cơ thể bạn tự sản xuất axit hyaluronic. Giống như glycerin, nó hấp thụ nước từ không khí xung quanh và có thể kéo nước vào da của bạn. Một vài nghiên cứu cho thấy rằng các loại bọt chứa thành phần này giúp giảm triệu chứng eczema nhẹ đến vừa.

Yêu thích: Niacinamide

Là một loại vitamin B, đây là một chất mà cơ thể bạn tự sản xuất. Các nghiên cứu cho thấy niacinamide có thể làm cho da vừa mạnh mẽ vừa mịn màng. Nó cũng có vẻ như làm giảm viêm, giảm đỏ và tăng cường độ ẩm.

Yêu thích: Petrolatum

Bạn có thể biết petrolatum với tên gọi là gel khoáng. Nó giúp giữ nước trong da và có thể giúp sửa chữa hàng rào bảo vệ da. Một số nghiên cứu cho thấy nó giúp da tạo ra các hợp chất kháng khuẩn có thể chống lại nhiễm trùng. Tất cả đều là những lợi ích tuyệt vời cho những người mắc eczema. Gel khoáng để lại cảm giác hơi nhờn, vì vậy bạn có thể chỉ nên sử dụng nó vào ban đêm. Hãy chắc chắn rằng bạn chọn loại gel khoáng 100% trắng.

Yêu thích: Lô hội

Mọi người thường bôi gel lô hội lên vết cắt và bỏng để làm dịu da và hỗ trợ quá trình lành vết thương. Gel từ cây lô hội được biết đến với khả năng chống viêm, kháng khuẩn và làm lành vết thương. Tất cả những đặc tính này đều có thể mang lại lợi ích cho những người sống chung với eczema.

Tránh: Lanolin

Lanolin là một chất dưỡng ẩm tự nhiên được chiết xuất từ lông cừu, nên bạn có thể nghĩ rằng nó sẽ rất tốt cho eczema. Nhưng các nghiên cứu cho thấy một số ít người mắc eczema bị dị ứng với loại chất béo tự nhiên này. Nếu bạn chưa bao giờ sử dụng các sản phẩm dưỡng ẩm chứa lanolin, tốt nhất là nên tránh chúng.

Tránh: Urea

Các bác sĩ da liễu khuyên dùng urea cho một số tình trạng da, bao gồm cả bệnh vẩy nến. Nhưng đối với những người mắc eczema, hợp chất này có thể gây kích ứng da và làm tổn thương thêm hàng rào bảo vệ da.

Tránh: Retinoids

Retinol, hay retinoids, xuất hiện phổ biến trong nhiều sản phẩm chăm sóc da, từ sản phẩm trị mụn đến sản phẩm chống lão hóa. Nhưng đối với những người mắc eczema, dẫn xuất vitamin A này có thể gây kích ứng da và kích hoạt các đợt bùng phát.

Tránh: Hương liệu

Những người mắc eczema hoặc bất kỳ tình trạng nào gây ra da nhạy cảm nên tránh hương liệu trong các sản phẩm chăm sóc da. Điều này cũng áp dụng cho các sản phẩm vệ sinh và chất tẩy rửa trong gia đình. Hương liệu được thêm vào các sản phẩm này là các chất gây dị ứng phổ biến và có thể kích hoạt bùng phát.

Lưu ý khi chọn sản phẩm

Tốt nhất là bạn nên tham khảo ý kiến của bác sĩ da liễu trước khi thử một sản phẩm mới. Họ có thể giúp bạn chọn một sản phẩm chứa đủ thành phần hoạt tính mà bạn đang tìm kiếm và không chứa các chất gây kích ứng khác. Bạn cũng có thể cố gắng chọn các sản phẩm có dấu “Seal of Acceptance” của Hiệp hội Eczema Quốc gia (NEA). Trang web của NEA có danh sách các sản phẩm được chấp nhận có thể tìm kiếm

Lọc máu – Chạy thận nhân tạo, lọc màng bụng

TỔNG QUAN

Quyết định bắt đầu lọc máu luôn dựa trên sự kết hợp của triệu chứng lâm sàng, các bệnh kèm theo và các giá trị xét nghiệm. Trừ khi có người hiến tạng, việc ghép tạng được hoãn lại, vì sự khan hiếm nguồn tạng ghép từ người chết (thời gian đợi chờ trung bình là 3–6 năm ở hầu hết các trung tâm ghép tạng). Tùy chọn lọc máu bao gồm chạy thận nhân tạo và lọc màng bụng. Có khoảng 85% bệnh nhân ở Hoa Kỳ bắt đầu bằng chạy thận nhân tạo. Chỉ định tuyệt đối của lọc máu bao gồm quá tải thể tích trầm trọng không đáp ứng với thuốc lợi tiểu, tăng năng kali máu và/hoặc nhiễm toan, bệnh não vô căn, và viêm màng ngoài tim và các viêm thanh mạc khác. Các chỉ định khác cho lọc máu gồm triệu chứng của tăng urê huyết (mệt mỏi khó chữa, chán ăn, loạn vị giác, buồn nôn, nôn, ngứa, khó duy trì tập trung và chú ý) và suy dinh dưỡng protein năng lượng/chậm phát triển mà không có nguyên nhân nào khác. Không có nồng độ huyết thanh chính xác, BUN, độ thanh thải creatinin hoặc urê, hoặc mức lọc cầu thận được dùng như điểm cắt tuyệt đối cho chỉ định lọc máu, dù theo phần lớn kinh nghiệm cá nhân, hoặc sẽ sớm phát triển, các triệu chứng và biến chứng khi mức lọc cầu thận dưới ~10 ml/phút. Tuy nhiên, chỉ định lọc máu sớm cho bệnh nhân, từ trước cho đến khi có các dấu hiệu lâm sàng, không củng cố được kết quả của bệnh thận giai đoạn cuối.

CHẠY THẬN NHÂN TẠO

Điều này cần sự đánh giá trực tiếp hệ tuần hoàn, hoặc qua một đường thông động-tĩnh mạch bẩm sinh (phương pháp đánh giá mạch máu được ưa dùng), luôn ở cổ tay (đường thông Brescia-Cimino); một động-tĩnh mạch ghép, luôn được làm từ polytetrafluoroethylene; một ống thông tĩnh mạch nòng lớn; hoặc một thiết bị cấy dưới da kèm ống thông tĩnh mạch. Máu được bơm qua các ống rỗng của quả thận nhân tạo (máy lọc máu) và được nhúng trong dung dịch chứa các chất hóa học thích hợp (dung dịch đẳng trương, không có urê hoặc các hợp chất nitơ khác, và hàm lượng kali thấp. [K+] thẩm tách được thay đổi từ 0 đến 4 mM, tùy thuộc vào [K+] trước lọc máu và tình trạng lâm sàng. [Ca2+] thẩm tách là 2.5 mg/dl (1.25 mM), [HCO3] là 35 mEq/l, và [Na+] thẩm tách là 140 mM; những giá trị này cũng có thể bị thay đổi, tùy thuộc vào hoàn cảnh lâm sàng. Phần lớn bệnh nhân lọc máu 3 lần/tuần, thường từ 3-4 giờ. Hiệu quả lọc máu phần lớn phụ thuộc vào thời gian lọc, tốc độ dòng máu, tốc độ dòng máu lọc, và diện tích bề mặt của bộ lọc.

BẢNG 150-1 BIẾN CHỨNG CỦA CHẠY THẬN NHÂN TẠO

Tụt huyết áp

Bệnh Amyloid liên quan đến lọc máu

Tăng nhanh bệnh mạch máu

Suy dinh dưỡng protein năng lượng

Xuất huyết

Mất nhanh chóng chức năng thận còn lại

Tăng huyết khối

Phản ứng phản vệa

Tăng nhiễm trùng qua catheter


aTrước hết do sự thay đổi tính không tương thích sinh học của màng lọc cellulose.

Những biến chứng của chạy thận nhân tạo được nêu ở Bảng 150-1. Nhiều biến chứng có liên quan đến quá trình chạy thận nhân tạo như một liệu pháp liên tục, dữ dội. Trong sự trái ngược với thận tự nhiên hay lọc màng bụng, những chức năng lọc chính (sự thanh thải các chất hòa tan và loại bỏ dịch, hoặc siêu lọc) được thực hiện trong khoảng thời gian tương đối ngắn. Dịch chảy quá nhanh có thể gây nên tụt huyết áp, thậm chí không có bệnh nhân nào đạt được trọng lượng khô. Tụt huyết áp liên quan đến chạy thận nhân tạo thường thấy ở bệnh nhân đái tháo đường có bệnh thần kinh ngăn cản các phản ứng bù (co mạch và nhịp tim nhanh) với giảm thể tích nội mạch. Thỉnh thoảng, có thể có sự lẫn lộn hay các triệu chứng của thần kinh trung ương. Hội chứng mất cân bằng trong lọc máu liên quan đến sự tăng nặng của đau đầu, lú lẫn, hiếm khi có co giật, trong sự kết hợp với nhanh chóng loại bỏ chất tan trong quá trình lọc máu, trước khi thích ứng được với phương pháp này; các biến chứng chủ yếu tránh được bởi sự gia tăng cảm ứng của liệu pháp lọc máu mạn tính ở bệnh nhân tăng urê máu, bắt đầu điều trị với thời gian ngắn, tốc độ dòng máu và dòng lọc thấp hơn.

LỌC MÀNG BỤNG

Lọc màng bụng không liên quan trực tiếp đến vòng tuần hoàn; nó bắt buộc đặt một catheter màng bụng cho phép truyền các dung dịch thẩm tách vào khoang màng bụng; cho phép vận chuyển các chất tan (urê, kali, các phân tử có urê khác) đi quaphúc mạc, hoạt động như là thận nhân tạo. Phương pháp này cũng giống chạy thận nhân tạo, ngoại trừ việc nó phải vô trùng, và sử dụng lactat hơn là bicarbonat để cung cấp dịch nền đẳng trương. Lọc màng bụng ít hiệu quả hơn chạy thận nhân tạo trong làm sạch dòng máy do đó cần thời gian điều trị dài hơn. Bệnh nhân thường có thể chọn cách lọc cho riêng mình (lọc 2-3 lít, 4-5 lần/ngày) hoặc sử dụng thiết bị tự động vào ban đêm. So với chạy thận nhân tạo, lọc màng bụng có những ưu điểm sau: (1) độc lập và linh hoạt, và (2) tình trạng huyết động nhẹ nhàng hơn. Các biến chứng được nêu Bảng 150-2. Viêm phúc mạc là biến chứng nghiêm trọng nhất. Biểu hiện lâm sàng điển hình gồm đau bụng và dịch lọc đục; số lượng bạch cầu trong dịch màng bụng >100/μl, 50% bạch cầu ái kiềm. Ngoài những tác động tiêu cực của phản ứng viêm toàn thân, mất protein rất nhiều trong suốt quá trình viêm màng bụng. Nếu bệnh nặng hoặc kéo dài, có thể phải loại bỏ catheter màng bụng hoặc thậm chí ngừng các phương thức điều trị (chuyển sang chạy thận nhân tạo). Vi khuẩn Gram dươn  (đặc biệt là tụ cầu vàng và các Staphylococcus khác) chiếm ưu thế; nhiễm Pseudomonas hoặc nấm (thường là Candida) có xu hướng kháng điều trị và bắt buộc loại bỏ catheter. Kháng sinh đường tĩnh mạch hoặc đường màng bụng có thể dùng khi cần biện pháp điều trị chuyên sâu.

BẢNG 150-2 CÁC BIẾN CHỨNG CỦA LỌC MÀNG BỤNG

Viêm phúc mạc

Bệnh thoái hóa dạng bột liên quan đến lọc máu

Tăng đường máu

Giảm độ thanh thải thận do bệnh mạch máu hoặc các yếu tố khác

Tăng urê máu thứ phát do mất chức năng thận còn lại

Tăng triglycerid máu

Béo phì

Giảm protein máu


Rimifon có thể chữa trị bệnh ỉa chảy thu đông của trẻ

Rimifon còn có tên là Isoniazid là một loại thuốc chống lao thường thấy trên lâm sàng. Do hiệu quả điều trị rõ rệt, ít tác dụng phụ, thường thường được sử dụng hàng đầu để chống bệnh lao. Mấy năm gần đây, bác sĩ lâm sàng lại phát hiện, nó còn có tác dụng chống virut, hiệu quả điều trị bệnh trẻ ỉa chảy về mùa thu, đông tương đối tốt.

Trẻ thơ ỉa chảy về mùa thu đông phần lớn là do nhiễm loại virut dạng vành, đối với việc điều trị ỉa chảy do virut dạng vành, hiện nay vẫn chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu. Rimifon có thể làm giảm sự trao đổi chất của protein trong khụẩn thể nhạy cảm, ảnh hưởng sự sinh sôi, nảy nở của virut mà sản sinh tác dụng ức chế hoặc giết chết virut.

Virut cần tăng sinh trong tế bào nhạy cảm, do vậy mà đối với vị thuốc ức chế và tiêu diệt virut phải thông qua màng tế bào thấm vào trong tế bào; phân tử Rimifon nhỏ, lực xuyên thấu mạnh, có thể thấm vào trong tế bào làm nhiễu sự nhân bản của virut, từ đó làm cho chứng máu nhiễm virut giảm nhẹ, rút ngăn quá trình mắc bệnh tự nhiên, mà tác dụng phụ ít. uống theo sự chỉ đạo của thầy thuốc, đối với bệnh trẻ ỉa chảy thu đông hiệu quả điều trị rất tốt.

Nutrisol-S

NUTRISOL-S (5%)

dung dịch tiêm truyền 5%: chai 250 ml và 500 ml.

 THÀNH PHẦN

cho 100 ml
L-Isoleucine 352 mg
L-Leucine 490 mg
L-Lysine chlorhydrate 430 mg
L-Méthionine 225 mg
L-Phenylalanine 533 mg
L-Threonine 250 mg
L-Tryptophane 90 mg
L-Valine 360 mg
L-Arginine chlorhydrate 500 mg
L-Histidine chlorhydrate 250 mg
Acide aminoacetique 760 mg
L-Alanine 200 mg
Acide L-Glutamique 75 mg
Acide L-Aspartique 250 mg
L-Proline 100 mg
L-Serine 100 mg
L-Tyrosine 25 mg
L-Cystine 10 mg
ứng với: Tổng số acide amine 5000 mg
D-Sorbitol 5000 mg
(pH) (5,0 – 7,0)
(Tỉ lệ áp suất thẩm thấu với dd muối sinh lý) (tương đương 3)
(Các acide amine tự do) (4.760 mg/dl)
(Nitơ toàn phần) (725 mg/dl)
(Na+) (37 mEq/l)
(Cl-) (59 mEq/l)
(Calorie) (40 kcal/dl)

CHỈ ĐỊNH

Cung cấp acide amine trong những trường hợp:

  • Giảm proteine huyết
  • Suy dinh dưỡng
  • Tiền và hậu phẫu

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Không được dùng trong các trường hợp:

  • Bệnh nhân hôn mê gan hoặc có nguy cơ
  • Bệnh nhân suy thận nặng hoặc tăng natri huyết
  • Bệnh nhân có rối loạn biến dưỡng acide amine và không dung nạp fructose di truyền (suy gan và thận nặng có thể xảy ra).

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Dùng thận trọng trong các trường hợp:

  • Toan máu tiến triển
  • Suy tim sung huyết

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Dị ứng: Nổi mẩn đôi khi có xảy ra. Khi đó ngưng dùng thuốc. Hệ tiêu hóa: Buồn nôn và ói đôi khi xảy ra.

Hệ tuần hoàn: Nặng ngực, tim đập nhanh đôi khi xảy ra. Dùng nhanh liều cao: Có thể dẫn đến toan huyết.

Các dấu hiệu khác: Run, sốt, nóng, nhức đầu đôi khi xảy ra.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Liều lượng:

Người lớn: 20 ml (tương ứng 1 g acide amine)/kg/ngày, tối đa 30 ml (tương ứng 1,5 g acide amine)/kg/ngày.

Trẻ em và trẻ sơ sinh: 40 ml (tương ứng 2 g acide amine)/kg/ngày, tối đa 50 ml (tương ứng 2,5 g acide amine)/kg/ngày.

Liều trên có thể điều chỉnh tùy theo tuổi, tình trạng và trọng lượng cơ thể. Liều tối đa mỗi ngày: 4 chai 500 ml (tương ứng 100 g D-Sorbitol).

Nutrisol-S (5 %) chứa khoảng 37 mEq/L Na+ và 59 mEq/L Cl-. Khi sử dụng liều cao hoặc kết hợp với các dung dịch điện giải khác, cần lưu ý thăng bằng điện giải.

Nên sử dụng Nutrisol-S (5 %) bằng đường truyền tĩnh mạch chậm.

Cách dùng:

Người lớn: 20-500 ml/lần, truyền tĩnh mạch chậm hoặc nhỏ giọt tĩnh mạch. Tốc độ truyền vào khoảng 10 g acide amine trong vòng 60 phút (60-100 phút/500 ml tương ứng 80-60 giọt/phút).

Hướng Dẫn Sàng Lọc Ung Thư Đại Tràng

Việc khám định kỳ và sàng lọc ung thư đại tràng là cách tốt nhất để ngăn ngừa ung thư đại tràng. Việc phát hiện và loại bỏ các polyp đại tràng có thể giúp ngăn ngừa ung thư đại tràng. Hơn nữa, sàng lọc ung thư đại tràng có thể giúp phát hiện ung thư ở giai đoạn sớm, làm tăng khả năng chữa khỏi. Bác sĩ tiêu hóa của bạn sẽ xác định và giải thích khoảng thời gian giữa các lần nội soi đại tràng vì nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố (bao gồm cả chất lượng chuẩn bị).

Sàng Lọc Ung Thư Đại Tràng cho Người Có Nguy Cơ Cao

Những người có các yếu tố nguy cơ sau nên bắt đầu sàng lọc đại tràng trước tuổi 45:

  • Tiền sử cá nhân về polyp đại tràng.
  • Tiền sử bệnh viêm ruột (bệnh Crohn hoặc viêm loét đại tràng).
  • Người thân gần gũi đã mắc bệnh đại tràng hoặc polyp trước 60 tuổi hoặc có hai người thân cấp một mắc ung thư đại tràng ở bất kỳ độ tuổi nào.
  • Tiền sử gia đình về polyp đại tràng gia đình hoặc ung thư đại tràng không có polyp di truyền.

Các khuyến nghị cụ thể cho người có nguy cơ cao như sau:

Người có tiền sử nhiều polyp hoặc polyp lớn:

  • Nội soi đại tràng tại thời điểm chẩn đoán polyp ban đầu.
  • Nếu có 1-2 polyp tuyến tính nhỏ với bất thường độ thấp, lặp lại trong 5 năm.
  • Nếu có 3-10 polyp tuyến tính hoặc 1 polyp tuyến tính lớn hơn 1 cm, lặp lại nội soi đại tràng trong vòng ba năm sau khi loại bỏ polyp.
  • Với các loại polyp nhất định hoặc với bất thường độ cao, lặp lại nội soi đại tràng trong vòng ba năm.
  • Nếu bình thường, lặp lại sau 5 năm.
  • Nếu có hơn 10 polyp tuyến tính, lặp lại trong chưa đầy 3 năm.
  • Nếu polyp dính chắc chắn và không trên cuống và được loại bỏ từng phần, lặp lại nội soi đại tràng trong 2-6 tháng để xác minh việc loại bỏ hoàn toàn polyp.

Người đã phẫu thuật điều trị ung thư đại tràng:

  • Nội soi đại tràng trong vòng một năm sau phẫu thuật; nếu bình thường, lặp lại trong ba năm; nếu vẫn bình thường, lặp lại trong năm năm.

Người có tiền sử gia đình:

  • Nội soi đại tràng ở tuổi 40 hoặc 10 năm trước độ tuổi mà thành viên gia đình mắc ung thư, tùy theo điều nào đến trước; nếu bình thường, lặp lại mỗi năm năm.

Người có tiền sử gia đình về polyp đại tràng gia đình:

  • Bắt đầu sàng lọc bằng nội soi đại tràng ở tuổi 10 đến 12 và tiếp tục hàng năm.
  • Nếu xét nghiệm di truyền dương tính, nên xem xét việc loại bỏ đại tràng do nguy cơ rất cao mắc ung thư đại tràng.

Người có tiền sử gia đình về ung thư đại tràng không có polyp di truyền:

  • Nội soi đại tràng mỗi một đến hai năm, bắt đầu từ độ tuổi 20 đến 25 hoặc 2 đến 5 năm trước độ tuổi mà thành viên gia đình mắc ung thư, tùy theo điều nào đến trước.
  • Xét nghiệm di truyền được đề nghị cho các thành viên trong gia đình cấp một.

Người có bệnh viêm ruột:

  • Nội soi đại tràng mỗi một đến hai năm, bắt đầu tám năm sau khi bắt đầu bệnh.

Trẻ bị đau họng – Nguyên nhân, nên xử lý thế nào

Những bậc cha mẹ đã phải chăm con nhỏ qua vài mùa đông sẽ không lấy làm ngạc nhiên khi biết rằng viêm họng là một trong những vấn đề sức khỏe thường gặp nhất ở trẻ em trong độ tuổi đến trường, và thường thì viêm họng là dấu hiệu đầu tiên của một cơn cảm lạnh thông thường. Mặc dù cảm lạnh và viêm họng thường gặp hơn vào mùa đông, song viêm họng do virus lại là bệnh hay xuất hiện trong các tháng mùa hè, đặc biệt là ở trẻ từ 1-6 tuổi.

Các loại thuốc kháng sinh có thể chữa khỏi viêm họng và các loại bệnh do nhiễm khuẩn khác. Tuy nhiên, nếu nguyên nhân là do virus thì cách chữa trị duy nhất là nghỉ ngơi và đợi cho bệnh dần khỏi. Trong thời gian điều trị bệnh, bạn có thể cho bé uống các loại thuốc hạ sốt có chứa acetaminophen hoặc ibuprofen để giúp bé thấy dễ chịu hơn. Ngoài ra, bạn cũng nên cho bé uống các đồ uống mát và thức ăn mềm để bé dễ nuốt. Viêm họng do virus thường tự hết trong vòng từ 3-5 ngày, nhưng viêm họng do nhiễm khuẩn lại có thể dẫn đến biến chứng nếu không được điều trị đúng cách và kịp thời.

Một số trẻ em thường thấy họng hơi đau và khô khi thức dậy vào buổi sáng vì các bé thở bằng miệng khi ngủ. Nguyên nhân của việc này có thể là do bé bị ngạt mũi do dị ứng, do a-mi-đan quá to, hoặc do các nguyên nhân khác. Bé sẽ thấy dễ chịu hơn sau khi uống một loại nước nào đó để giúp làm ẩm cho họng. Nếu bé bị viêm họng định kỳ do dị ứng, hãy đưa bé đến gặp bác sĩ nhi để được khám và điều trị dị ứng. Bên cạnh đó, một máy làm ẩm có phun sương mát đặt trong phòng ngủ cũng sẽ giúp ích cho họng của bé. Bình thường khi họng bé không bị viêm, bạn sẽ thấy trên a-mi-đan (hạch) ở hai bên cuống họng của bé có những nốt trắng, đó là các hạt thức ăn dính lại trên hạch và thường là không đáng ngại nếu bé khỏe mạnh bình thường.

Gọi ngay cho bác sĩ nhi nếu con bạn bị viêm họng kèm theo:

  • Thân nhiệt ở mức 39°c hoặc cao hơn
  • Đau tai
  • Một loạt các triệu chứng như buồn nôn, sưng hạch, nổi mẩn, đau đầu dữ dội, khó thở hoặc các khớp tay chân chuyển màu đỏ và đau
  • Nước tiểu đục trong vòng 3-4 tuần sau khi bị đau họng
  • Nổi mẩn
  • A-mi-đan có mủ (các vết đốm sáng màu).

Có nên cắt a-mi-đan cho trẻ?

Trước khi thuốc kháng sinh được dùng để điều trị những loại viêm nhiễm đường họng và ngăn ngừa biến chứng, a-mi-đan thường được cắt bỏ ở những trẻ thường xuyên bị viêm họng. Ngày nay các bác sĩ nhi vẫn khuyên cắt bỏ a-mi-đan và nạo VA trong các trường hợp a-mi-đan bị sưng liên tục gầy cản trở cho bệnh nhân khi nuốt, khi thở hoặc gây ra các vấn để khi ngủ hoặc ngáy, hoặc bệnh nhân có a-mi-đan thường xuyên áp xe quanh a-mi-đan nặng. Ngoài ra những trẻ bị viêm nhiều hơn 6-7 lần trong một năm cũng được khuyên nên cắt bỏ a-mi-đan.

CẢNH BÁO!

Nếu con bạn được chẩn đoán bị viêm họng do nhiễm khuẩn, bác sĩ sẽ kê đơn thuốc kháng sinh cho bé. Hãy đảm bảo rằng con uống đủ thuốc và đủ liều theo đúng thời gian chỉ định của bác sĩ, kể cả trong một đến hai ngày sau khi bé đã thấy đỡ đau. Dừng thuốc trước khi vi trùng gây bệnh bị tiêu diệt hoàn toàn có thể sẽ làm cho chứng viêm họng tái phát.

MỐI BẬN TÂM CỦA BẠN NGUYÊN NHÂN CÓ THỂ CÓ HÀNH ĐỘNG CẦN THỰC HIỆN
Con bạn bị viêm họng trong vài ngày, kèm theo chảy nước mũi hoặc ho. Cảm lạnh thông thường hoặc viêm đường hô hấp trên do virus. Bạn có thể giúp trẻ thấy dễ chịu hơn bằng cách cho trẻ uống nhiều nước và các đồ uống khác để bù lượng nước bị mất. Bạn có thể cho trẻ uống acetaminophen hoặc ibuprofen để hạ sốt. Ở trẻ trên 5 tuổi, có thể cho trẻ ngậm các loại kẹo chữa đau họng, còn với trẻ trên 8 tuổi, hãy cho trẻ súc miệng thường xuyên bằng nước muối sinh lý để giảm đau. Nếu sau một tuần bệnh không thuyên giảm hoặc các triệu chứng trở nên trầm trọng hơn, hãy xin ý kiến tư vấn từ bác sĩ nhi.
Họng của con bạn đỏ và viêm. Bạn có thể nhìn thấy những đốm màu xanh tái trên hai a-mi-đan. Bé bị sưng hạch hoặc đau bụng. Thân nhiệt của bé ở mức 38.30C hoặc cao hơn. Chứng viêm họng.

Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân do viêm nhiễm (infectious mononucleosis).

Các dạng nhiễm trùng họng khác.

Gọi cho bác sĩ nhi để được chẩn đoán và nhận được lời khuyên về việc điều trị bệnh. Bé có thể sẽ phải uống kháng sinh. Trong vòng 24 giờ sau khi bắt đầu điều trị, nếu thân nhiệt của bé hạ xuống 38°c hoặc thấp hơn, bé có thể đi học hoặc tham gia các hoạt động khác.
Con bạn hay kêu đau họng trong các tháng mùa hè và bạn có thể thấy cả các nốt sưng rộp trong họng trẻ. Nhiễm virus coxsackie hoặc một loại virus khác.

Tay chân miệng.

Gọi cho bác sĩ nhi, họ sẽ khám và khuyến nghị cách điều trị thích hợp.
Con bạn không chịu uống hoặc ăn đồ ăn đặc, cứng và quấy khóc, đồng thời trên lưỡi và nướu (lợi) của trẻ xuất hiện những đốm trắng. Nấm miệng. Gọi cho bác sĩ nhi, họ sẽ khám cho bé.Trường hợp bé bị bệnh nấm miệng thông thường, bác sĩ sẽ kê đơn để chữa cho bé.
Con bạn bị đau, sốt và chảy nước dãi, kèm theo khó thở. Viêm họng do một số bệnh nguy hiểm như: viêm tiểu thiệt, có nhọt ở họng, viêm a-mi-đan hoặc họng có dị vật. Đưa trẻ đến trung tâm cấp cứu gần nhất để được cứu chữa kịp thời.
Con bạn bị đau dữ dội, đặc biệt là khi ăn hoặc uống, kèm theo chảy nước dãi. Lưỡi và nướu của bé cũng bị đau. Bé bị sốt và có hạch bị sưng. Bé bị nhiễm virus Herpes ở miệng. Gọi ngay cho bác sĩ nhi để được kiểm tra và đưa ra cách điều trị.

Chẩn đoán và điều trị suy thận cấp ở trẻ em

Suy thận cấp là một hội chứng rối loạn chức năng nghiêm trọng và nhất thời do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng có chung dấu hiệu thiểu niệu hoặc vô niệu, tăng nitơ huyết và rối loạn nước điện giải. Phải coi suy thận cấp là một cấp cứu.

CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán xác định

  • Dựa vào lâm sàng:

+ Trong bệnh sử phát hiện các dấu hiệu và yếu tố có nguy cơ đưa đến suy thận: các dấu hiệu của bệnh viêm cầu thận, rối loạn tiểu tiện, tình trạng nhiễm khuẩn, mất nước điện giải.

+ Thiểu niệu hoặc vô niệu.

+ Các dấu hiệu rối loạn nội môi: rối loạn điện giải, cân bằng toan kiềm.

  • Dựa vào xét nghiệm:

+ Tăng urê máu > 8,5mmol/l.

+ Tăng Creatinin máu lên 50% giá trị bình thường theo lứa tuổi, hoặc > 100pmol/l đối với trẻ trên 2 tuổi.

Chẩn đoán suy thận cấp trước thận, tại thận và sau thận

  • Dựa vào lâm sàng:

+ Suy thận cấp trước thận thường xảy ra khi có mất nước điện giải nặng, tình trạng sốc do các nguyên nhân, thận hư.

+ Suy thận cấp tại thận: thường do các bệnh viêm cầu thận, ngộ độc, bệnh mạch máu thận.

+ Suy thận cấp sau thận: thường có biểu hiện ứ đọng nước tiểu (bí đái, ứ nước thận).

  Suy thận trước thận Suy thận tại thận Suy thận sau thận
Xét nghiệm Một

phần

Hoàn toàn
– Nồng độ Na niệu < 20mEq/l 20-40 >40 Thăm khám kỹ
– BUN/Creatinin >20 10-20 10 siêu âm và Xquang là có ý
– Hệ số lọc Na: FNa TSNĐTT niệu/máu < 1 1-2 >2 nghĩa.

ĐIỀU TRỊ

Đánh giá điều trị bước đầu

Đánh giá điều trị bước đầu

 

Điều trị chung trong giai đoạn thiểu hoặc vô niệu

  • Chế độ ăn: bảo đảm nhiệt lượng 60-100kcal/kg, chủ yếu bằng lipid và glucid.

Protid: 0,5-0,8g/kg/ngày.

Hạn chế tuyệt đối natri và kali nếu vô niệu hoàn toàn.

  • Lập cân bằng nước và điện giải.

+ Nhu cầu nước: vô niệu hoàn toàn + không sốt: 15 -20ml/kg/24giờ hoặc 500ml/m2 diện tích cơ thể.

+ Sốt > 37°C: cứ l°c tăng thêm 10%. Thường truyền dung dịch glucose 10%.

  • Chống tăng kali máu (theo dõi bằng điện tâm đồ và điện giải): dung dịch glucose ưu trương 10-20%; phương pháp trao đổi ion ở ruột = resin lg/kg/ngày, mỗi gram resin trao đổi được lmEq kali; lợi tiểu….
  • Chống nhiễm toan máu:

Tính X mEq natri bicarbonat cần bù = p X 0,3 X [-BE]

Nếu pH < 7,2 -> bù 100%

Nếu pH > 7,2 -> bù 50%

  • Chống hạ calci máu: chế phẩm có calci 0,5-lg/24giờ. Tuỳ theo tuổi + vitamin D2 200-300 đv/ngày.
  • Gây bài niệu mạnh: ở trẻ em thường chỉ dùng furosemid 5-10mg/kg/24 giờ, tiêm TM chậm mũi đầu tiên thường dùng 50% tổng liều trong ngày, nếu trẻ có phản ứng (chóng mặt, nhức đầu, nôn…) có thể tiêm truyền.
  • Kháng sinh: chống bội nhiễm vĩ suy thận cấp sẽ giảm sức đề kháng, chỉ dùng kháng sinh không độc với thận.

Penicillin 1-2 triệu/ngày, TM chậm (sáng – chiều).

  • Truyền máu: trong suy thận cấp ít phải chỉ định. Trừ khi thiếu máu rõ (Hb < 9g%).
  • Khi cần thiết nên chỉ định heparin 100-150 đv/kg/ngày.
  • Chỉ định lọc máu ngoài thận:

+ Với các biện pháp phục hồi như trên sau 2 ngày tình trạng không cải thiện.

+ Biến loạn nghiêm trọng về cân bằng toan kiềm.

+ Có dấu hiệu ngộ độc nước: phù tăng, huyết áp cao, có dấu hiệu phù não, phù phổi, co giật.

+ Về sinh hoá: Urê máu > 200mg% (> 32mmol/L).

Créatinin máu > 270 – 300pmol/l, tuỳ tuổi.

HC03 < 12mEq/L.

Kali máu > 6mEq/L.

Chú ý phải đánh giá một cách tổng hợp về diễn biến lâm sàng và biến đổi sinh học để chỉ định cho kịp thời và phù hợp.

Những chỉ định đặc biệt cần hỏi ý kiến chuyên khoa hoặc chuyên gia.

Trong giai đoạn đa niệu

Chú ý cân bằng nước, điện giải. Trong giai đoạn này bệnh nhân bài niệu nhiều, nên phải chú ý bồi phụ đầy đủ nước, điện giải.

Điều trị nguyên nhân gây suy thận cấp

Tuỳ theo nguyên nhân mà điều trị nội khoa, hoặc kết hợp điều trị ngoại khoa.