Blog Trang 530

Ngộ độc thức ăn do vi khuẩn salmonella, staphylococcus, Clostridium botulinum

Ngộ độc thức ăn do salmonella

TÁC NHÂN GÂY BỆNH, CHẨN ĐOÁN BẰNG XÉT NGHIỆM

Nhóm bệnh này gồm các bệnh ngộ độc thức ăn gây ra bởi các vi khuẩn s.para typhi. Hiện nay có khoảng 700 loại Salmonella chia thành nhóm A,B,C,D V. V.. trên cơ sở có cấu trúc kháng nguyên o chung: từng nhóm lại chia thành loại, căn cứ theo sự khác nhau của cấu trúc kháng nguyên H. Tuy vậy, các tác nhân gây bệnh ngộ độc thức ăn chỉ gồm đại diện của khoảng 30-40 loại, thậm chí 15-20 loại.

  1. Tác nhân gây bệnh:

Salmonella là những trực khuẩn di động, hiếu khí, họ hàng với nhau về mặt huyết thanh học, Gram âm, sống lâu ở ngoài cơ thể người và động vật.

Trên các thực phẩm khác nhau, chúng sống dược nhiều ngày, nhiều tuần và có khi hàng tháng; ở nhiệt độ 20°c chúng có thể sinh sản.

Tên thực phẩm Thời gian sống
Thịp ướp muối (10-15% muối) 2-3 tháng
Trứng gà 3 tuần
Trứng vịt 1 tháng
Sữa chưa đun sôi:
– ở nhiệt độ 18-26° 11 ngày 11 ngày
– ở nhiệt độ 5-8° 20 ngày 20 ngày

Những Salmonella này bền vững hơn s.typhi và s.para A và B đối với tác dụng nhiệt.

Khi đun nóng đến 60°, chúng chết sau 1 giờ

Khi đun sôi, chúng chết tức khắc

Tác nhân gây bệnh sơ bộ sinh sản và tích luỹ trên các thức ăn bị nhiễm bẩn.

Đun nóng thức ăn sẽ khử được vi khuẩn gây bệnh. Điều này chứng minh rằng trong thức ăn không có độc tố bền vững với nhiệt độ. Tính không độc của chất lọc môi trường nuôi cấy Salmonella cũng chứng minh rằng trong chất dó không có độc tố tự do.

Các thức ăn, có chứa một lượng lớn Salmonella nguy hiểm hơn, nhưng ở các trẻ nhỏ, một liều nhỏ vi khuẩn cũng có thể gây ngộ độc. Ngoài liều lượng thì tác dụng gây bệnh của Salmonella còn tuỳ thuộc vào khả năng gây bệnh của chúng đối với người trong từng giai đoạn phát triển tiến hoá khác nhau, bởi vì chúng là những vi khuẩn gây bệnh có điều kiện. Liều lượng Salmonella gây bệnh thực nghiệm ở người, dao động rõ rệt do khả năng gây bệnh của chúng. Thí dụ:

s.daby (nhóm B) từ 1,3 đến 15 triệu

S.Bareilly (nhóm C) từ 1,3 đến 17 triệu

Sinh bệnh học giống thương hàn và phó thương hàn. Bằng cách thực nghiệm và cả trên lâm sàng dã chứng minh rằng trong quá trình bệnh, vi khuẩn đã ra khỏi thành ruột và xâm nhập vào máu mật và nước tiểu, vấn đề này cần phải nghiên cứu trực tiếp, vi khuẩn gây bệnh được giải phóng ra khỏi cơ thể cùng vứi phân, ít khi cùng với chất nôn và nước tiểu.

  1. Biểu hiện lâm sàng:

Thời kỳ ủ bệnh thường ngắn, từ 6-12 đến 21-48 giờ, nhưng cũng có khả năng ủ bệnh lâu hơn. Những dấu hiệu lâm sàng của ngộ độc bởi Salmonella rất khác nhau. Điều này là do ‘có nhiều loại tác nhân gây bệnh và do sức đề kháng khác nhau của chúng, về mặt lâm sàng, bệnh ngộ độc bởi Salmonella biểu thị chủ yếu bằng các hình thái sau đây:

  • Viêm dạ dày-ruột cấp tính
  • Viêm kết đại tràng (giống lỵ)
  • Hình thái như tả
  • Hình thái như thương hàn
  • Hình thái ở ngoài ruột (viêm khớp, apxe)

Các triệu chứng chủ yếu là buồn nôn, nôn mửa, ỉa chảy, sốt. Đồng thời có đau ở các cơ và khớp, đôi khi có viêm kết mạc và mẩn dỏ ở mặt. Bệnh kéo dài 2-3 ngày và thường khỏi hẳn.

Ở hình thái thương hàn, sau những hiện tượng cấp tính trong những ngày đầu, sẽ phát sinh ra trạng thái sốt. ở hình thái như tả thấy ỉa chảy nhiều lần, mất nước, nhiệt độ dưới trung bình và co giật. Tỷ lệ chết không quá 1%.

Trên thực tế khó mà chẩn đoán được bênh ngộ độc do Salmonella nếu không sử dụng những phương pháp xét nghiệm phân, chất nôn, thức ăn thừa, máu nạn nhân để tìm vi khuẩn gây bệnh. Có thể lấy máu trong thời kỳ phát bệnh và 10-15 ngày sau để xem đậm dộ kháng thể trong huyết thanh có tăng hay không.

Bệnh ngộ độc thức ăn cũng có thể gây nên bởi các loại vi khuẩn đường ruột khác như Shigella sonnei, Escherichia coli, và Proteus morgani, tuy rằng vai trò gây bệnh của E.Coli và Proteus morgani vẫn chưa được chứng minh dứt khoát.

Trong trường hợp nghi là E.Coli hoặc Proteus morgani thì xét nghiệm máu là phương pháp duy nhất để chẩn đoán chính xác, vì các vi khuẩn này gặp ở khắp nơi.

QUÁ TRÌNH DỊCH

  1. Nguồn truyền nhiễm:

Nguồn truyền nhiễm là súc vật (ốm hoặc mang vi khuẩn) và người mang vi khuẩn.

Thịt có thể bị nhiễm Salmonella trong quá trình mổ và pha thịt, nấu nướng và bảo quản bởi người mang vi khuẩn và phân chuột. Cho đến những năm gần đây, người ta vẫn cho rằng tình trạng mang vi khuẩn không kéo dài quá 3-4 ngày. Nhưng có rất nhiều số liệu chứng minh rằng tình trạng người khỏi mang vi khuẩn có thể kéo dài nhiều tuần và nhiều tháng, đôi khi đến một năm (3,7%). Có thể có tình trạng người lành mang vi khuẩn Salmonella (1,9%) như đối với mọi tác nhân gây bệnh có điều kiện khác (tụ cầu khuẩn, Cl.botulinum).

Nguồn truyền nhiễm có thể là những loài động vật khác nhau, thường là súc vật lớn có sừng; ít hơn là lợn và các súc vật nhỏ có sừng; thường là vịt, ngỗng (biết bơi), ít hơn là gà. Salmonella gây bệnh nhiễm khuẩn ở súc vật như:

Dịch trâu bò (peste bovine) ỉa chảy ở bê

Viêm phổi truyền nhiễm ở lợn

ỉa cứt trắng ở vịt

Salmonella còn thấy ở súc vật khoẻ mang vi khuẩn, ở súc vật lớn có sừng 20%, ở lợn 7-24%, ở mèo chó 3-77%. Khi sức đề kháng của súc vật giảm sút, vi

khuẩn sẽ vượt qua ruột vào phủ tạng và thịt. Trường hợp này xảy ra khi giết súc vật gầy yếu hay mệt mỏi.

Có thể phát hiện thấy nhiều loại Salmonella khác nhau ở súc vật, thường tìm thấy s.typhi muriun (nhóm B). Loại này gây bệnh nặng và dịch tương đối lớn. Các số liệu sau đây minh hoạ ý nghĩa của những loại Salmonella khác nhau trong bệnh căn của 1.262 trường hợp ngộ độc thức ăn do Salmonella:

Loại Salmonella Nước Anh 1923-1938 374 trường hợp Nước Anh 1928-1932 149 trường hợp Nước Đan Mạch 1924- 1940, 374 trường hợp
Nhóm B 55 65 70
Nhóm c 23 17 13
Nhóm D 14 12 15
Các nhóm khác 8 6 2
  1. Đường truyền nhiễm:

Thường là thức ăn nguồn gốc động vật (68-88%). Các thức ăn băm nhỏ, ẩm ướt có ít muối, pH trung tính dều dễ gây bệnh vì có đủ điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn phát triển (thịt, xúc xích, patê, cá).

Trứng còn sống (trứng bác, trứng lập là), là những hỗn hợp có trứng cũng có thể truyền bệnh. Ngoài ra, một số thức ăn khác như sữa, rau sống cũng có thể truyền bệnh.

Nguy hiểm nhất là thịt bị nhiễm khuẩn khi súc vật còn sông. Trong trường hợp nhiễm khuẩn huyết, tác nhân gây bệnh đều có trong thịt và phủ tạng của súc vật. Sau khi giết súc vật để chạy dịch, vi khuẩn sẽ sinh sản rất nhiều, nếu vi phạm các quy tắc vệ sinh khi bảo quản, chuyên chở và nấu nướng.

ít nguy hiểm hơn là thịt bị nhiễm Salmonella sau khi giết súc vật. Điều này xảy ra nếu không pha thịt và làm lông ở những nơi riêng biệt, hoặc giết súc vật khoẻ và súc vật ốm ở cùng một nơi. ở nhiệt độ nhất định, vi khuẩn trong vòng 1-2 ngày có thể vào sâu trong thịt đến 10-12cm. Ruồi, chuột cũng có thể làm thịt bị nhiễm khuẩn.

Trong số các bán thành phẩm, đặc biệt nguy hiểm là món thịt băm nhỏ, vì trong quá trình chế biến thịt này luôn lan truyền ra toàn khối thịt băm nhỏ; trong thời gian một vài giờ từ lúc băm nhỏ đến lúc nấu nướng ở nhiệt độ bình thường cũng dủ để Salmonella sinh sản mạnh mẽ.

Trong số các thực phẩm bị nhiễm khuẩn sau khi nấu nướng, đặc biệt nguy hiểm là các món ăn lỏng và sệt. Trong các món ăn lỏng, Salmonella sinh sản nhanh hơn là trong các món ăn đặc và dễ lan truyền ra cả khối thực phẩm.

Các món ăn chín bị nhiễm khuẩn nếu không có dao thớt riêng để thái thịt chín và thịt sống. Cả ruồi và tay nhân viên phục vụ cũng có thể làm nhiễm khuẩn các thức ăn sẵn.

Như vậy, yếu tố truyền bệnh ngộ độc thức ăn bởi Salmonella chủ yếu là thực phẩm. Điều đó là dặc điểm của những bệnh ngộ độc thức ăn.

  1. Thời gian miễn dịch:

Miễn dịch sau khi khỏi bệnh, vẫn chưa được nghiên cứu. Từ tuần thứ hai của bệnh, thì phản ứng ngưng kết trở nên dương tính.

ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ

  1. Thời gian ủ bệnh:

Trước đây, người ta cho rằng một trong những đặc điểm của bệnh này là sự phát sinh bất ngờ do thời kỳ ủ bệnh rất ngắn và do sự mắc bệnh hàng loạt.

Nhưng hiện nay, người ta đã nghiên cứu nhiều vụ ngộ độc do Salmonella, kể cả các trường hợp đơn phát và thấy rằng cần phải chú ý phát hiện bệnh sau một thời gian ủ bệnh tương đối dài. Điều này có thể do bị nhiễm những liều lượng nhỏ của tác nhân gây bệnh.

Đặc trưng của các đợt dịch bột phát do Salmonella là bệnh tiến triển trong một thời gian ngắn. Như trên đã nói, những trường hợp đơn phát có thể kéo dài hơn.

  1. Sự lây lan tiếp theo:

Hiện nay, đã có những quan sát chứng minh rằng trong ổ dịch có thể có sự lây bệnh tiếp theo, tuy không phải là thường xảy ra, vì bệnh phát sinh phải có những điều kiện đặc biệt:

Hoặc là lây bằng một liều lượng lớn tác nhân gây bệnh; điều này làm cho cơ chế truyền bệnh khó thực hiện được từ người sang người.

Hoặc là Salmonella xâm nhập vào một cơ thể có sức đề kháng bị giảm sút (trẻ con, người già).

Cả 2 điều kiện trên không phải là luôn luôn thực hiện được: do đó trong ổ bệnh do Salmonella, những lần mắc bệnh tiếp theo phát sinh ra tương đối ít hơn so với ổ bệnh nhiễm khuẩn đường ruột do các tác nhân gây bệnh không điều kiện (lỵ, thương hàn). Tính ít lây của các bệnh do Salmonella là chung cho tất cả các bệnh do các tác nhân gây bệnh có điều kiện, như viêm phổi do phế cầu, viêm quầng (érysipèle) do liên cầu.

  1. Số lượng người mắc bệnh:

Được quyết định nhiều ít tuỳ theo sự tổ chức ăn uống (ăn riêng hay ăn tập thể) và tính chất lớn hay nhỏ các tập thể được cơ quan ăn uống phục vụ.

Vì vậy, số lượng những đợt bột phát bệnh do Salmonella dao động trong phạm vi rất rộng, từ vài trường hợp mắc bệnh đến hàng chục và có khi hàng trăm.

  1. Các sản phẩm nhiễm khuẩn:

Trong số các sản phẩm bị nhiễm khuẩn, thì thịt (thịt đông, V.V..) chiếm vị

trí hàng đầu (40% những vụ ngộ độc), các sản phẩm của sữa (bánh mì sữa, sữa chua) ở vị trí thứ hai (26,5%), các sản phẩm của cá õ vị trí thứ ba (10,9%).

  1. Mùa dịch:

Cũng như các bệnh nhiễm khuẩn đường ruột khác, bệnh ngộ độc do Salmonella thường xảy ra vào mùa hè nóng bức.

Điều này chủ yếu phụ thuộc vào 2 nguyên nhân:

  • Thứ nhất, vào mùa xuân hạ bệnh do Salmonella phổ biến trong gia súc ra ăn cỏ trên các bãi chăn. Mức độ thịt bị nhiễm khuẩn cũng tăng lên do bắt buộc phải giết các súc vật ốm.
  • Thứ hai, vào mùa hè có các điều kiện thuận lợi để cho Salmonella sinh sản nhiều trong thực phẩm.

Dưới đây là những số liệu về sự phân bố của những trường hợp ngộ độc thức ăn liên quan đến việc dùng thịt, tính theo tháng trong năm (tính theo % so với tổng số)

Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Tổng

cộng

Phần

trăm

8,4 2,4 2,1 2,7 9,7 11 15,6 20,6 12,3 6,3 8,6 1,3 100

CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG VÀ CHỐNG NGỘ ĐỘC DO SALMONELLA

  1. Các biện pháp phòng ngộ độc:
  • Cần phải chống tệ sát sinh gia súc ở ngoài lò sát sinh
  • Nhân viên thú ý phải khám xét các gia súc trước khi giết. Cấm giết gia súc ốm ở cùng một nơi với gia súc khoẻ.

Phải kiểm nghiệm tất cả thịt và phủ tạng sau khi giết, cần phải tuân thủ một chế độ thích đáng dể phòng ngừa thịt bị nhiễm khuẩn trong quá trình pha chế thịt (pha thịt và làm lòng riêng).

Thịt phải bảo quản trong buồng lạnh, để riêng biệt các gia súc ốm buộc phải giết. Phải chuyên chở thịt cẩn thận, nhất là khi phải chuyên chở đường dài.

Tại các cửa hàng thực phẩm và nhà ăn công cộng, tất cả các thực phẩm dễ bị hư hỏng đều phải bảo quản trong buồng lạnh. Pha, thái thịt sống đều phải tiến hành riêng biệt với thịt đã nấu chín (bàn, dao, thớt khác). Đối với cá cũng như vậy. Việc bảo quản hoặc chuyên chở thức ăn dã nấu chín phải thực hiện bằng đồ đựng sạch sẽ và ướp lạnh.

Các nơi ăn uống phải thật sạch sẽ và tuân thủ các chế độ vệ sinh để loại trừ khả năng thực phẩm bị nhiễm bẩn bởi ruồi, tay bẩn, nước bẩn và dộ đựng bẩn.

Một bảo đảm tốt nhất để phòng ngừa bệnh ngộ độc do Salmonella là xử lý lại bằng nhiệt các thức ăn chín ngay trước khi dùng.

  1. Các biện pháp chống ngộ độc:

Nếu xảy ra đợt bột phát bệnh do Salmonella cần phải áp dụng những biện pháp sau đây:

– Tìm nguyên nhân gây ra bệnh để nhanh chóng đình chỉ sự lây lan mới

Phải hỏi người bệnh một cách chi tiết để phát hiện món ăn nào có thể là nguyên nhân của đợt bột phát này.

Phải liệt kê tất cả những người bị ngộ dộc, tất cả các loại món ăn đã ăn trong vòng 2 ngày sau, viết riêng cột ăn sáng, ăn trưa và ăn chiều hàng ngày. Nếu phát hiện là còn ăn thêm những món ăn khác nữa thì ghi thêm vào cột ghi chú:

Các mẫu thức ăn còn thừa đều phải gửi nhanh chóng về phòng xét nghiệm; nếu không gửi ngay được thì các mẫu đó phải tạm thời bảo quản trong nước đá. Khám xét nơi ăn để phát hiện những sự vi phạm vệ sinh đã xảy ra và giữ lại không cho dùng các thực phẩm nghi ngờ.

Ngày 14-7 Ngày 15-7
STT Họ và tên Ăn sáng Bữa trưa Bữa

chiều

Ăn sáng Bữa trưa Bữa

chiều

Ghi chú
‘1 Nguyễn Văn Cháo Thịt Cá mòi
Sôi Rau

sống

Rau sào

Thịt để xét nghiệm nên lấy nhiều miếng nhỏ ở những chỗ khác nhau khoảng 200-500g. Thịt muối nên lấy theo từng lớp thịt và lấy nước muối riêng. Đối với các thức ăn lỏng và sệt, trước khi lấy mẫu phải trộn đều và lấy 100-200g vào bình đã tiệt khuẩn. Các thức ăn rắn, phải gói vào một vài lớp giấy đã tiệt khuẩn và bọc giấy bao ngoài.

Để xét nghiệm vi khuẩn, phải lấy chất nôn mửa (50-100ml), nước rửa dạ dày (100-200ml), phân, nước tiểu và máu (10-20ml) của người bệnh.

Sau một tuần, có thể làm phản ứng ngưng kết, cần lấy máu của người bệnh một lần nữa để xem hiệu giá ngưng kết có tăng hay không.

Chỉ cho phép trẻ em lại đến nhà trẻ và trường học, người lớn lại đến làm việc tại các nơi ăn uống, sau khi đã theo dõi trong 15 ngày và đã qua 3 lần xét nghiệm phân có kết quả âm tính.

Ngộ độc thức ăn do tụ cầu khuẩn staphylococcus

TÁC NHÂN GÂY BỆNH VÀ BIỂU HIỆN LÂM SÀNG

Tác nhân gây bệnh hay gặp nhất là tụ cầu vàng (St.aureus) sản sinh ra độc tố ruột, trong những điều kiện nhất định. Trong các thực phẩm khác nhau (sữa, món ăn có thịt, cá hộp), tụ cầu khuẩn sinh sản nhanh ở 25-30° và sống tương đối dai. Các tác nhân lý hoá có tác dụng giết tụ cầu khuẩn trong một thời gian ngắn. Khi đun sôi, chúng chết ngay tức khắc; trong dung dịch muối 12% và dung dịch đường 50% thì sự phát triển của chúng bị kìm lại, nhưng trong những dung dịch muối (6-10,5%) và đường (30-35%) kém đậm độ hơn, thì tụ cầu khuẩn có thể sinh sản được.

Độc tố ruột (entérotoxin) của tụ cầu khuẩn có độ bền vững lớn đối với nhiệt.

Trong sữa, toxin không bị phá huỷ khi đun sôi 30 phút, ngay cả khi đun sôi trong 1 giờ hoặc làm nóng ở nồi hấp (autoclave) trong 20 phút. Tình tiết này sẽ rất quan trọng trong thực tế, vì nếu chậm xử lý các thực phẩm bằng nhiệt sau khi toxin ruột đã tích tụ nhiều rồi thì sẽ không có kết quả. Độc tố ruột còn giữ độc tính trong 2 tháng.

Biểu hiện lâm sàng. Thời kỳ ủ bệnh rất ngắn, thường là 2-4 giờ. Những biểu hiện lâm sàng là đau ở vùng dạ dày, nôn mửa, ỉa chảy. Trong những trường hợp viêm dạ dày-ruột nặng, thấy có máu lẫn vào chất nôn và phân và bệnh nhân co giật. Nhiệt độ ít khi tăng. Tiến trình của bệnh ngắn, bệnh khỏi trong 2 ngày ít khi gây tử vong.

Người ta chẩn đoán đợt bột phát trên cơ sở diễn biến lâm sàng của bệnh và cả bằng thử nghiệm sinh học trên mèo con và mèo cái có tính nhậy cảm đối với dộc tố« ruột của tụ cầu khuẩn.

NGUỒN TRUYỀN NHIỄM

Đối với thực phẩm do người chuẩn bị thực phẩm mà tay bị nhiễm khuẩn tụ cầu (chín mé, viêm da có mủ); những người bị viêm mũi và viêm họng cũng nguy hiểm, vì có thể làm nhiễm khuẩn thực phẩm khi hắt hơi và ho. Đôi khi nguồn truyền nhiễm có thể là súc vật ốm (bò và dê cái viêm vú) có thể làm ô nhiễm sữa.

Những yếu tố truyền nhiễm thông thường nhất là những sản phẩm dược chế biến bằng sữa (như kem sữa, bánh sữa và các đồ ngọt khác, kem đá), ít khi là thịt muối xúc xích, cá ướp dầu. Những bệnh ngộ độc chỉ có thể xảy ra khi bảo quản thực phẩm đã bị nhiễm khuẩn ở những điều kiện nhiệt độ thích hợp và trong một thời gian cần thiết. Người ta dã xác định rằng ở nhiệt độ thích hợp, độc tố ruột được tạo thành sau 4-5 giờ.

Sau sữa, thì cá ướp dầu cũng là yếu tố truyền bệnh quan trọng, bởi vì tụ cầu khuẩn là loại yếm khí tuỳ tiện. Cho nên sinh sản rất tốt trong đồ hộp có dầu. Khi xử lý các đồ hộp bằng nhiệt cũng không phá huỷ được độc tố ruột của tụ cầu khuẩn.

Theo các số liệu nước ngoài (Liên Xô, Mỹ) thì ngộ độc thức ăn do tụ cầu khuẩn đứng ở vị trí đầu trong số các bệnh ngộ độc thức ăn.

CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG BỆNH

Phòng bệnh ngộ độc do tụ cầu khuẩn giống như đối với các bệnh ngộ độc do Salmonella. Đặc biệt là cấm những người đang bị viêm mủ ở bàn tay và mũi họng đến làm việc tại các nơi ăn uống.

Ngộ độc thức ăn do Clostridium botulinum (Botulisme)

TÁC NHÂN GÂY BỆNH VÀ BIỂU HIỆN LÂM SÀNG

  1. Tác nhân gây bệnh:

Tác nhân gây bệnh là Clostridium botulinum, là một trực khuẩn gram âm, tạo thành bào tử; phát triển tốt trên môi trường dinh dưỡng trong điều kiện kỵ khí và tiết ra ngoại độc tố rất mạnh.

Dạng sinh trưởng không bền vững. Dạng bào tử rất bền vững đối với bất kỳ loại yếu tố bên ngoài nào, đặc biệt trong môi trường có chứa nhiều mỡ. Môi trường có 8% muối ăn và 55% đường kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn ở nồng độ cao hơn các chất này sẽ giết chết vi khuẩn.

Cá bảo quản trong dung dịch muối 14%, bào tử vẫn còn sống trong vòng 2 tháng.

Bào tử có sức chịu nhiệt cao, còn tồn tại 5-6 giờ ở 100°, chịu được 105° từ 40 phút đến 2 giờ và chỉ bị diệt ở 120° sau 20-30 phút.

Acid clohydric 10% chỉ giết được bào tử sau một giờ, dung dịch focmalin 20% và dung dịch phenol 5% sau 24 giờ; cồn êtylic 95° không diệt được bào tử sau 2 tháng.

Hiện nay, người ta phân biệt 6 loại Cl.botulinum (A,B,C,D,E,F) theo huyết thanh, trong số này A,B,E gây bệnh cho người. Thường hay gặp là loại A và B, ít khi gặp loại E.

Vi khuẩn Cl.botulinum tạo ra độc tố đặc hiệu đối với từng loại. Điều kiện thích hợp nhất để tạo ra độc tố là 22-37°; dưới 14-15° thì việc tạo độc tố bị đình chỉ.

Độc tố này là một chất độc hữu cơ mạnh nhất nhưng nó không chịu được nhiệt và bị huỷ ở 80° trong 20-30 phút; ở 100° trong 10-15 phút. Dưới tác dụng trực tiếp của tia sáng mặt trời, toxin bị phá huỷ sau 5 ngày; ở. dạng khô trong ống thuỷ tinh hàn kín để ở nơi không nắng, toxin này bảo quản được nhiều năm.

Bệnh sinh: bệnh botulisme phát sinh khi ăn phải thực phẩm trong đó đã tích luỹ một số lượng nhất định vi khuẩn và toxin, một tính chất đặc biệt của botulotoxin là bền vững đối với các men tiêu hoá. Toxin làm tê liệt sức đề kháng của các mô, do đó bào tử có thể qua ruột vào máu, xâm nhập vào các cơ quan và sinh sản ở đó.

Ngày nay, người ta đã bác bỏ quan niệm của Van Ermenghem và của một số tác giả khác về bản chất ngộ độc thuần tuý của bệnh. Bằng thí nghiệm trên động vật đã chứng minh khả năng gây bệnh này do bào tử.

Bệnh botulinum có một thời kỳ ủ bệnh có thể kéo dài đến 9-10 ngày. Điều này cũng nói lên bản chất nhiễm khuẩn và nhiễm độc của bệnh chứ không phải nhiễm độc thuần tuý. Nói một cách khác, sự phát triển của bào tử và sự sinh sản ra toxin có thể diễn ra cả trong cơ thể người, chứ không phải chỉ trong thực phẩm

Trong các cơ quan của những người chết vì bệnh botulisme, người ta đã phát hiện ra tác nhân gây bệnh. Điều này xác nhận bản chất nhiễm khuẩn và nhiễm độc của bệnh.

Tên cơ quan Số lượng nghiên cứu Số lượng có kết quả
Dạ dày 7 3
Ruột non 19 13
Ruột già 9 8
Đại não 4 4
Tuỷ xương 5 3
Lách 10 5
Gan 3 1
Tuỷ sống 4 4

Sự khỏi bệnh chậm cũng nói. lên bản chất nhiễm khuẩn và nhiễm độc của bệnh. Sau đây là các số liệu của Matveev:

Số người bệnh Thời gian bị bệnh
42 2 tuần
74 1 tháng
26 2 tháng
8 3 tháng

Việc phát hiện còn toxin trong cơ thể sau khi đã khỏi bệnh lâu ngày cũng nói lên điều đó.

  • Biểu hiện lâm sàng:

Thời kỳ ủ bệnh thường ngắn (18-24 giờ), nhưng có thể kéo dài đến 10 ngày. Bệnh botulisme chủ yếu gây tổn thương ở hệ thần kinh, còn các rối loạn ở dạ dày-ruột thường nhẹ. Điểm này phân biệt bệnh botulisme với các bệnh ngộ độc thức ăn khác do vi khuẩn.

Thoạt đầu khi mới phát hiện, thấy có suy nhược toàn thân, nhức dầu, chóng mặt, buồn nôn; đôi khi nôn, đau bụng, có cảm giác tức và nặng nề ở dạ dày. Thường thấy chướng bụng táo bón, không có ỉa chảy.

Người bệnh than phiền về rối loạn thị giác, trông thấy mờ, một thành hai.

Khi khám thấy giãn đồng tử, giảm sự điều tiết, sa sụp một hay cả hai mi trên.

Ngoài ra, còn nhận thấy nuốt khó, khô miệng, giọng khàn, nói khó. Nhiệt độ bình thường, nhưng mạch nhanh. Tất cả những dấu hiệu này là kết quả của tác động của toxin lên hệ thần kinh trung ương.

Thời kỳ ủ bệnh càng ngắn thì bệnh càng nặng. Trong trường hợp bệnh nặng thì các triệu chứng trên sẽ tăng lên, và người bệnh sẽ chết (do ngừng hô hấp hoặc tim ngừng đập) thường trong những ngày đầu tiên. Trong những trường hợp khỏi bệnh, bệnh có thể kéo dài từ 4-5 ngày đến một tháng hay hơn. Tỷ lệ chết có thể lên đến 60-70%, nhưng có thể giảm xuống 16-18% nếu điều trị bằng huyết thanh kháng độc.

QUÁ TRÌNH DỊCH

  1. Nguồn truyền nhiễm:

Nguồn lây bệnh là các động vật máu nóng mang vi khuẩn ở trong ruột. Matveev đã tìm thấy Cl.botulinum ở 12 con chuột nhà trong số 50 con được nghiên cứu. Thường thấy vi khuẩn được giải phóng ra từ ruột nhiều động vật khác và người. Những vi khuẩn này có cả trong cơ thể cá và ốc sên. Người và súc vật mang vi khuẩn ở trong ruột mà không bị bệnh là vì số lượng vi khuẩn ít và vì toxin của vi khuẩn bị trung hoà bởi niêm mạc ruột.

Dạng bào tử phổ biến rộng rãi trong thiên nhiên, từ ruột động vật và người, chúng rơi vào đất, nước , cỏ cây, lá cây.

  1. Cơ chế và yếu tố truyền nhiễm:

Yếu tố truyền bệnh chủ yếu là các thực phẩm đóng hộp (cá, rau, thịt) trong đó có những điều kiện thích ứng để vi khuẩn và độc tố tích luỹ. Điều này có thể xảy ra khi bảo quản các sản phẩm bị nhiễm bào tử botulinum ở nhiệt độ 16-37°, trong những điều kiện yếm khí nhất trong 4-5 ngày. Nếu trong các sản phẩm, các chất bảo quản (như muối, đường, acid) không đầy đủ, thì tác nhân gây bệnh sẽ phát triển và tạo thành độc tố. Sự kết hợp những điều kiện này không xảy ra thường xuyên, cho nên bệnh botulisme cũng hiếm thấy, tuy bào tử botulinum phổ biến khắp mọi nơi.

Sản phẩm (thịt ướp, cá ướp muối, xúc xích, dăm bông) bị nhiễm khuẩn bề ngoài vẫn có vẻ tốt, chỉ đôi khi mới có sự thay đổi màu, mùi (dàu đã khét) và thể chất.

  1. Miễn dịch:

Tất nhiên là miễn dịch có hình thành trong quá trình bệnh. Còn thời gian miễn dịch là bao lâu, thì chưa được nghiên cứu.

ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ

Ở Tây Âu, 80% các trường hợp bệnh là do các sản phẩm thịt (thịt hun khói, lạp xường, dăm bông). Thịt bị nhiễm bào tử botulinum khi giết và pha thịt (do phân, đất) và khi dùng ruột chưa làm sạch đúng cách để làm lạp xường.

ơ Mỹ, 70% các trường hợp bệnh là do rau đóng hộp mà dân chúng dùng rất nhiều (đậu, rau cải). Rau bị nhiễm bào tử botulinum (do phân, đất). Do không xử lý nhiệt đúng cách và bảo quản không đúng cách, nên tạo những điều kiện cho vi khuẩn phát triển và tạo độc tố.

Ớ Liên Xô, đa số các trường hợp ngộ độc là do cá và các sản phẩm của cá (cá muối, cá hun khói, cá phơi khô). Thịt của cá có thể bị nhiễm bào tử ngay trong quá trình đánh cá, bắt cá nếu dùng những dụng cụ làm thủng ruột cá. Thịt cũng có thể bị nhiễm bào tử nếu mổ ruột không cẩn thận và bảo quản không đúng cách và lâu dài.

CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG VÀ CHỐNG BỆNH BOTULISME

  1. Biện pháp phòng bệnh:

Quan trọng nhất là chế biến và bảo quản cẩn thận đồ hộp, các thực phẩm ướp để dùng lâu (thịt hun khói, thịt muối, cá muối). Thịt cá phải còn tươi, rau quả phải có lớp phủ ngoài còn nguyên vẹn, không bị xây xước, không chín quá, không dính chất bẩn.

Những thực phẩm muôn bảo quản lâu dài phải được tiệt khuẩn cẩn thận (120° trong 45 phút). Sau khi đã tiệt khuẩn, cần kiểm tra lại các đồ hộp. Phải chọn một số hộp để kiểm nghiệm về mặt vi khuẩn để xem có vi khuẩn yếm khí không ? Toàn bộ lô hộp ấy phải thử bỏ vào tủ điều nhiệt trong vòng 10 ngày. Những hộp nào bị phồng thì phải bỏ đi.

Nếu một số hộp bị nhiễm vi khuẩn gây bệnh thì phải huỷ bỏ toàn bộ lô hộp ấy.

Những đồ hộp phải bảo quản trong buồng lạnh, cần chuyển vận đồ hộp cho cẩn thận, nghĩa là phải bảo đảm hộp hoặc chai lọ nguyên vẹn và dậy kín. Nếu chuyển vận lâu dài, thì phải bảo đảm chế dộ nhiệt độ cần thiết. Trước khi dùng, nên dun lại các đồ hộp 80° trong 20 phút.

  1. Các biện pháp chống bệnh:

Nếu phát sinh một đợt bột phát bệnh, thì phải thu lại tất cả các thức ăn thừa và xét nghiệm những thức ăn này (đặc biệt là đồ hộp).

Chẩn đoán xét nghiệm bằng cách phân lập vi khuẩn Cl.botulinum từ thức ăn chất nôn và phân bằng cách tìm độc tố botulinum trong máu và nước tiểu (tiêm 5-8ml cho chuột lang để gây bệnh thực nghiệm). Có thể định loại vi khuẩn gây bệnh bằng cách tiêm trước cho chuột huyết thanh dặc hiệu. Tiêm cho 2 động vật, 1 con tiêm huyết thanh A và 1 con tiêm huyết thanh B. Nếu chuột được tiêm huyết thanh A chết, thì tác nhân gây bệnh thuộc loại B và ngược lại. Nếu làm phản ứng ngưng kết và kết hợp bổ thể thì phải lấy máu lại ở giai đoạn bệnh muộn hơn.

Phải đưa người bệnh vào bệnh viện. Phải lập tức rửa dạ dày và tiêm huyết thanh kháng độc tố A và B 50.000-100.000 đơn vị, dưới da hoặc vào bắp. Nếu cần thì tiêm lại huyết thanh trong vòng 3-4 ngày. Một số tác giả còn cho uống kháng huyết thanh.

Tất cả những người đã ăn phải thức ăn khả nghi đều được theo dõi trong 12 ngày và được tiêm phòng vào bắp 1/2 liều huyết thanh điều trị (25.000 đơn vị).

Tất cả những biện pháp khác (điều tra dịch tễ học, các biện pháp thanh toán bệnh) đều tiến hành như trong bệnh ngộ độc thức ăn khác.

Thái Uyên – Huyệt vị, vị trí, tác dụng, cách xác định, ở đâu

Thái Uyên

Tên Huyệt:

Khi hơi co bàn tay vào phía cẳng tay, tại bờ ngoài lằn chỉ cổ tay, gần xương tay quay, tạo thành 1 chỗ rất (thái) lõm, như 1 cái hố sâu (uyên), vì vậy, gọi là Thái Uyên.

Xuất Xứ:

Thiên ‘BảnDu’ (Linh khu 2).

Tên Khác:

Quỷ Tâm, Quỷ Thiên, Thái Thiên, Thái Tuyền.

Đặc Tính:

Huyệt thứ 9 của kinh Phế.

Huyệt Du – Nguyên, thuộc hành Thổ.

Huyệt Hội của Mạch.

Huyệt Bổ của kinh Phế.

Vị Trí huyệt:

Trên lằn chỉ ngang cổ tay, nơi chỗ lõm trên động mạch tay quay, dưới huyệt là rãnh mạch tay quay.

Giải Phẫu:

Dưới da là rãnh mạch quay. Rãnh ở đoạn này cấu tạo bởi gân cơ dạng dài và gân cơ duỗi ngắn ngón tay cái (ở ngoài). Gân cơ gang tay to và gân cơ gấp chung nông các ngón tay (ở trong). Gân cơ gấp dài ngón tay cái và xương thuyền (ở đáy).

Thần kinh vận động cơ là các nhánh của dây thần kinh giữa và dây thần kinh quay.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh C6.

Tác Dụng:

Khu phong, hóa đàm, lý phế, chỉ khát.

Chủ Trị:

Trị ngực đau, lưng và vai đau, quanh khớp cổ tay đau, ho suyễn.

Phối Huyệt:

1. Phối Chiếu Hải (Th.6) + Hội Âm (Nh.1) trị chứng tê (Giáp Ất Kinh).

2. Phối Thần Môn (Tm.7) trị nôn ra máu mà người lạnh, suyễn (Thiên Kim Phương).

3. Phối Kinh Cừ (Phế 8) trị cánh tay co rút, đau (Thiên Kim Phương).

4. Phối Hành Gian (C.2) + Ngư Tế (Phế 10) + Thái Xung (C.3) + Thần Môn (Tm.7) trị ho ra máu (Tư Sinh Kinh).

5. Phối Kinh Cừ (Phế 8) + Thái Khê (Th.3) trị sốt rét, ngực tức (Tư Sinh Kinh).

6. Phối Liệt Khuyết (Phế 7) trị ho phong đờm (Ngọc Long Kinh).

7. Phối Ngư Tế (Phế 10) trị họng khô (Châm Cứu Đại Thành).

8. Phối Dịch Môn (Tam tiêu.2) trị hàn quyết (Châm Cứu Đại Thành).

9. Phối Ngư Tế (Phế 10) trị cổ khô (Châm Cứu Đại Thành).

10. Phối Hợp Cốc (Đại trường.4) + Thận Du (Bàng quang.23) trị phế ung [áp xe phổi], nôn ra mủ (Loại Kinh Đồ Dực).

11. Phối Khúc Trì (Đại trường.11) + Nội Quan (Tâm bào.6) + Tâm Du (Bàng quang.15) + Xích Trạch (Phế 5) trị chứng vô mạch (Cấp Chứng Châm Cứu Liệu Pháp).

12. Phối Nội Quan (Tâm bào.6) + Tứ Phùng trị ho gà (Châm Cứu Học Thượng Hải).

Cách châm Cứu:

Châm thẳng, từ mặt trong lòng bàn tay, hướng mũi kim tới mặt phía lưng bàn tay, sâu 0, 3 – 0, 5 thốn, Ôn cứu 3 – 5 phút.

Ghi Chú: Tránh châm vào động mạch và xương.

Tham Khảo:

(“Thiên ‘Nhiệt Bệnh’ ghi: “Nhiệt bệnh mồ hôi vẫn ra mà mạch lại thuận, có thể châm cho ra mồ hôi, nên thủ huyệt Ngư Tế (Phế 10), Thái Uyên (Phế 9), Đại Đô (Tỳ 2), Thái Bạch [Tỳ 3], châm tả các huyệt này sẽ làm cho nhiệt giảm bớt, châm bổ thì ra mồ hôi (Linh khu.23, 30).

(“Thiên ‘Quyết Bệnh’ ghi: “Chứng Quyết tâm thống, nếu nằm hoặc nhàn rỗi thì Tâm thống được giãn, bớt, khi nào hoạt động thì đau nhiều hơn, không biến sắc mặt, gọi là chứng ‘Phế Tâm thống’, thủ huyệt Ngư Tế, Đại Uyên” (Linh khu 24, 15).

(“Phế chủ, Đại trường khách : Thái âm nhiều khí ít huyết, ngực tức, lòng bàn tay nóng, ho suyễn, vùng khuyết bồn đau, khó chịu, cuống họng khô đau, mồ hôi ra, phía trước vai và 2 vú đau, đờm kết ở ngực, hụt hơi. Sở sinh bệnh tìm huyệt gì? Bảo rằng huyệt Thái Uyên + Thiên Lịch [Đại trường.6]” (Thập nhị Kinh Trị Chứng Chủ Khách Nguyên Lạc).

Nguyên nhân gây ra bệnh say do vi trùng lúa mạch

Bệnh sinh ra do nhiễm phải vi khuẩn hình lưỡi liềm ở nông thôn gọi loại lúa mạch đó là lúa mạch hôn mê. hoặc loại lúa mạch bệnh khuẩn đỏ. Không chỉ ở cây lúa mạch, mà tất cả các cây lúa đều có thể nhiễm phải loại khuẩn này, rồi gây ra độc tố men đỏ. Sau khi dùng các loại thực phẩm đó sẽ gây ra bệnh này.

Khi thu hoạch mà gặp phải trời mưa dầm ẩm thấp là lúc dễ nhiễm phải khuẩn hình lưỡi liềm nhất. Nếu khi lúa mạch ngậm sữa gặp trời mưa phùn hoặc sau khi thu hoạch lại đánh đống để quá lâu thì sẽ là cơ hội tốt tạo điều kiện cho vi khuẩn sinh trưởng. Bề ngoài của hạt lúa mạch mang bệnh lên men đỏ là hạt lúa mạch bình thường không giống nhau, vỏ xám không trơn, hạt không mẩy căng, dễ mủn thành bột, có khi còn lốm đốm màu phấn nhạt. Hạt nặng bằng một nửa hạt mạch tốt, bên trong chứa chất lòng trắng trứng thì rõ ràng đã có biến dạng. Hạt nảy mầm khả năng là thấp.

Độc tố của bệnh men khuẩn đỏ này có khả năng kháng nhiệt rất mạnh, ở 60oC phải duy trì trong 2 ngày mới bị phá hủy, còn ở 100°c khi đun 1 giờ mà chất độc không hề giảm. Dùng bột mạch này để làm thực phẩm, thì bất kể là chế biến nấu, rán, luộc, ninh V.V…. theo kiểu gì thì sự gây bệnh cũng không thay đổi. Khi ngộ độc rồi bệnh phát rất nhanh, thường chỉ 1 giờ sau khi ăn đã thấy xuất hiện triệu chứng, có khi chỉ hơn 10 phút. Đầu tiên có ợ chua, lạnh, váng đầu, chóng mặt tinh thần sa sút, bước đi lộn xộn, có khi lại có biểu hiện là hưng phấn sắc mặt đỏ bừng lên. Do người bệnh có những biểu hiện giống như người vừa uống rượu xong bị say tuý luý cho nên mới gọi đó là bệnh tuý cốc (bệnh say ngũ cố). Đa số các triệu chứng nhanh chóng sẽ rút đi, nhưng cũng có khi kéo dài 2 đến 3 ngày. Có một số ít bệnh nhân bị rất nặng do ăn nhiều lần. Nhưng chưa có báo cáo nào về các trường hợp tử vong.

Khi gặp phải các ca bệnh nghi ngờ thì phải kiểm tra ngay các loại cốc. Bằng mắt thường cũng có thể phát hiện được các hạt mạch mang bệnh khuẩn đỏ, dùng kính hiển vi phóng sẽ nhìn thấy rất rõ các đám màu phấn hồng, đồng thời dưới kính hiển vi sẽ nhìn rõ các khuẩn tơ dày ở vách, các đám dầy bao tử, điều này có thể giúp cho chẩn đoán.

Do các hạt mạch có mầm bệnh là nhẹ, do vậy khi chọn hạt có thể tách chúng ra được. Chỉ cần có ý thức về lúa mạch cô có bệnh men khuẩn đỏ, thì việc đề phòng là không khó.

Chữa trị bệnh này, ngoài việc rửa dạ dày và thụt ra, thì điều trị trực tiếp đúng bệnh là chủ yếu.

Thiết thụ diệp

Thiết thụ diệp ( 铁树叶 )

Tên và nguồn gốc

+ Tên thuốc: Thiết thụ diệp (Xuất xứ: Dược tính khảo).

+ Tên khác: Chu tiêu (朱蕉), Thiết thụ (铁树), Chu trúc (朱竹), Thiết liên thảo (铁连草), Hồng diệp thiết thụ (红叶铁树), Hồng thiết thụ (红铁树).

+ Tên Trung văn: 铁树叶 TIESHUYE

+ Tên La tinh: Cordyline fruticosa (l.) A. Cheval

+ Nguồn gốc: Là lá của Chu tiêu thực vật họ Long Thiệt Lan (Agavaceae).

– Thu hoạch –

Cả năm có thể thu hái.

Tính vị

– Trung dược đại từ điển: Ngọt, nhạt, mát.

– Bản thảo cầu nguyên: Nhạt, hơi lạnh.

– Lục xuyên bản thảo: Đắng, lạnh.

– Quảng Tây Trung thảo dược: Vị ngọt, tính bình, không độc.

Công dụng và chủ trị

Thanh nhiệt, cầm máu, tán ứ.

Trị kiết lỵ, ói máu, đi cầu ra máu, đau bao tử, tiểu ra máu, nguyệt kinh quá nhiều, té đánh sưng đau.

– Cương mục thập di: Trị tất cả đau tâm vị và khí.

– Bản thảo cầu nguyên: Tán ứ cầm máu, họat huyết trong gân xương. Trị tiêu ra máu, ói máu, nấu với thịt ăn. Té đánh sưng đau, cùng rượu Đồng Nguyên đắp vậy; thêm hành Tây, giấm đắp vậy, nhổ trừ tất cả độc phong, tửu phong.

– Thực vật danh thực đồ khảo: Trị chứng lỵ.

– Lục xuyên bản thảo: Giải nhiệt độc, lương huyết, cầm máu. Trị kiết lỵ, ruột ra máu, tiểu ra máu.

– Quảng châu bộ đội – Thường dùng trung thảo dược thủ sách: Trị Phế lao khạc huyết , sanh non báo trước, kinh nguyệt quá nhiều, tiểu ra máu, mụt trĩ ra máu.

– Liều dùng và cách dùng –

Uống trong: Sắc thang, 0,5 ~ 1 lượng.

– Thành phần hoá học –

Hàm chứa phenols, amino acid, đường (Trung dược đại từ điển)

Bài thuốc cổ kim tham khảo

+ Phương thuốc 1:Trị xích lỵ: Thiết thụ diệp 1 lượng, Thạch lựu bì 3 chỉ, Mã xỉ hiện 1 lượng, Ngân hoa 5 chỉ. Sắc nước uống.

(Lục xuyên bản thảo)

+ Phương thuốc 2: Thiết thụ diệp phương

– Thành phần: Thiết thụ diệp, Hồng đằng mỗi thứ 50g, Bạch hoa xà thiệt thảo 150g, Bán chi liên 50 – 100g.

– Cách dùng: Sắc lấy nước uống, ngày 1 thang.

– Chứng thích ứng: Trị ung thư tuyến tuỵ, có hiệu quả nhất định.

+ Phương thuốc 3:

– Thành phần: Thiết thụ diệp 90 ~120g, Đại táo 7 ~ 10 quả.

– Cách dùng: Nấu lấy nước uống.

– Chứng thích ứng: Khối u buồng trứng.

Xạ Trị Điều Trị Ung Thư

Xạ trị hoạt động như thế nào?

Nếu bạn được chẩn đoán mắc ung thư, bác sĩ của bạn có thể đề nghị bạn thực hiện xạ trị. Đây là một phương pháp điều trị phổ biến giúp thu nhỏ khối u và tiêu diệt tế bào ung thư — và có thể là phương pháp duy nhất bạn cần để đối phó với căn bệnh của mình.

Các tế bào trong cơ thể bạn luôn phân chia và tạo ra bản sao mới. Tuy nhiên, khi bạn mắc ung thư, một số tế bào bắt đầu phân chia quá nhanh.

Đó là lúc xạ trị có thể giúp ích. Xạ trị sử dụng các hạt năng lượng cao để tạo ra các vết nhỏ trong DNA của tế bào ung thư, nhằm phá hủy hoặc làm hư hại chúng, để chúng không thể tạo ra bản sao mới.

xạ trị
xạ trị

Mục tiêu của xạ trị là gì?

Mục tiêu là điều trị ung thư của bạn bằng cách làm chậm hoặc ngăn chặn sự phát triển của khối u. Bác sĩ của bạn có thể đôi khi đề nghị bạn thực hiện xạ trị để thu nhỏ một khối u trước khi bạn phẫu thuật. Hoặc họ có thể khuyên bạn thực hiện xạ trị sau phẫu thuật để ngăn khối u quay trở lại.

Nếu các tế bào ung thư đã lây lan sang các bộ phận khác của cơ thể bạn, xạ trị có thể tiêu diệt chúng trước khi chúng phát triển thành khối u mới.

Nếu bạn mắc ung thư không thể chữa khỏi, bác sĩ của bạn vẫn có thể đề nghị bạn sử dụng xạ trị “giảm nhẹ”. Mục tiêu là thu nhỏ các khối u và giảm bớt triệu chứng của bệnh.

Các loại xạ trị

Loại xạ trị bạn nhận được phụ thuộc vào các yếu tố như:

  • Loại ung thư bạn mắc phải
  • Kích thước khối u của bạn
  • Vị trí của khối u
  • Khoảng cách của khối u đến các mô khác
  • Sức khỏe tổng quát của bạn
  • Các phương pháp điều trị khác mà bạn đang nhận

Hai loại xạ trị chính cho ung thư là:

  • Xạ trị chùm ngoài (External beam radiation therapy): Một máy lớn sẽ hướng các chùm bức xạ từ bên ngoài cơ thể bạn vào một khối u ung thư từ nhiều góc độ. Nó có thể điều trị nhiều loại ung thư khác nhau.Máy có thể khá ồn, nhưng nó sẽ không chạm vào bạn. Nó gửi bức xạ đến khu vực cụ thể nơi có ung thư. Nó sử dụng các chương trình máy tính để phân tích hình ảnh quét và nhắm mục tiêu điều trị theo hình dạng của khối u.

    Một buổi điều trị thường kéo dài từ 30 phút đến một giờ, phần lớn thời gian là để đưa bạn vào vị trí đúng. Điều trị thực tế thường mất 5 phút hoặc ít hơn.

    Hầu hết mọi người nhận một liều xạ trị 5 ngày mỗi tuần. Lịch trình của bạn có thể thay đổi. Nó phụ thuộc vào loại chùm bức xạ được sử dụng và các yếu tố khác, bao gồm loại, kích thước và vị trí của ung thư.

    Xạ trị chùm ngoài sẽ không làm bạn trở thành phóng xạ, vì vậy bạn có thể an toàn khi ở gần người khác.

  • Xạ trị nội bộ (Internal radiation therapy): Bạn sẽ nhận bức xạ được đặt bên trong cơ thể bạn dưới dạng rắn hoặc lỏng. Bạn có thể nuốt hoặc nhận tiêm tĩnh mạch dung dịch i-ốt phóng xạ, sẽ di chuyển khắp cơ thể bạn để tìm và tiêu diệt các tế bào ung thư. Đây được gọi là liệu pháp hệ thống. Các bác sĩ thường sử dụng nó để điều trị ung thư tuyến giáp.Trong một tùy chọn khác, gọi là xạ trị brachytherapy, một kỹ thuật viên sẽ đặt một dạng rắn của bức xạ — như một viên nang hoặc một loại cấy ghép khác — vào cơ thể bạn. Họ đưa nó vào cơ thể bạn bằng cách sử dụng một ống nhỏ gọi là catheter hoặc một thiết bị được gọi là applicator.

    Brachytherapy thường điều trị các loại ung thư ở đầu, cổ, vú, cổ tử cung, nội mạc tử cung, tuyến tiền liệt và mắt.

    Nếu bác sĩ của bạn sử dụng liều thấp trong brachytherapy, họ sẽ tháo cấy ghép ra sau vài ngày. Nếu họ sử dụng liều cao hơn, họ thường tháo nó ra sau 10 đến 20 phút, và bạn sẽ nhận hai liều mỗi ngày trong khoảng 2 đến 5 tuần.

    Tùy thuộc vào loại và vị trí của ung thư của bạn và các phương pháp điều trị khác mà bạn đã nhận, bác sĩ của bạn cũng có thể đặt một cấy ghép trong cơ thể bạn vĩnh viễn và bức xạ sẽ giảm theo thời gian.

    Sau khi bạn nhận xạ trị nội bộ, cơ thể hoặc dịch cơ thể của bạn có thể phát ra bức xạ trong một thời gian, vì vậy bạn có thể cần ở lại bệnh viện và sẽ cần tránh hoặc hạn chế thăm bạn bè và người thân trong thời gian đầu.

Dù bạn nhận loại xạ trị nào, bạn sẽ có các cuộc hẹn theo dõi định kỳ để kiểm tra xem liệu pháp có hiệu quả hay không. Bác sĩ của bạn sẽ kiểm tra bạn và thảo luận về tác dụng phụ và triệu chứng. Họ cũng có thể yêu cầu các xét nghiệm phòng thí nghiệm và hình ảnh, bao gồm xét nghiệm máu, chụp X-quang, hoặc các xét nghiệm CT, MRI, hoặc PET để kiểm tra dấu hiệu ung thư.

Ưu điểm và Nhược điểm

Xạ trị có thể làm tăng một chút nguy cơ mắc các loại ung thư khác. Nguy cơ này nhỏ đến mức thường được coi là lợi ích, nhưng bác sĩ của bạn sẽ giúp bạn quyết định phương pháp điều trị nào là tốt nhất cho bạn.

Hãy cho bác sĩ của bạn biết nếu bạn đang mang thai hoặc có kế hoạch mang thai. Xạ trị có thể gây hại cho thai nhi. Chưa có nhiều thông tin về cách xạ trị ảnh hưởng đến tinh trùng, vì vậy bác sĩ thường khuyên đàn ông tránh việc để bạn đời mang thai trong và vài tuần sau điều trị.

Tác dụng phụ

Vì xạ trị cũng ảnh hưởng đến các tế bào khỏe mạnh, nó có thể gây ra tác dụng phụ. Những tác dụng phụ này có thể xuất hiện trong quá trình điều trị và biến mất sau vài tuần, hoặc có thể kéo dài nhiều năm. Một số tác dụng phụ thậm chí có thể xuất hiện lần đầu tiên sau vài tháng hoặc năm.

Tùy thuộc vào bộ phận cơ thể nào đang được điều trị, tác dụng phụ có thể bao gồm mệt mỏi, rụng tóc tạm thời, các vấn đề về tình dục và khả năng sinh sản, mờ mắt và thay đổi về da.

Một số vấn đề khác mà bạn có thể gặp phải là:

  • Buồn nôn và nôn
  • Đau đầu
  • Sưng
  • Thay đổi vị giác
  • Khó nuốt
  • Các vấn đề về tiểu tiện
  • Tiêu chảy

Hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn nếu bạn có bất kỳ tác dụng phụ nào trong số này. Có nhiều biện pháp, bao gồm thuốc, có thể giúp giảm bớt triệu chứng của bạn.

Quả Nhót và những tác dụng trong chữa bệnh

Cây nhót mọc leo nhờ tay quấn, cành vươn dài, đôi khi có gai. Lá to, hình bầu dục, mọc so le, mặt trên lá có màu lục bóng, mặt dưới trắng bạc. Quả nhót hình bầu dục khi chín có màu đỏ, một hạt. Quả nhót ăn được, quả xanh, quả chín đều được dùng làm thuốc chữa bệnh.

Cây nhót mọc leo nhờ tay quấn
Cây nhót mọc leo nhờ tay quấn

Lá nhót chứa tanin, saponosid, polyphenol. Quả nhót chứa rất nhiều chất dinh dưỡng, được dùng để nấu canh chua, vị thơm; quả nhót xanh, thái ngang dày 3 – 5mm, phơi hoặc sấy khô để làm thuốc. Ngoài quả, lá, nhân hạt, rễ của cây nhót cũng có tác dụng chữa bệnh.

Theo Đông y, quả nhót có vị chua, ngọt, tính bình. Tác dụng trị hen suyễn, cầm tiêu chảy, chữa kiết lỵ mãn tính.

Thuốc chữa bệnh từ quả nhót:

Bài 1. Thuốc chữa đi ngoài

+ Quả nhót xanh                    10 quả

+ Rễ cây nhót                        4g

+ Rễ cây mơ                          2g

Các thứ rửa sạch, cho vào nồi cùng 400ml nước đun sỏi kỹ, chắt lấy 180ml nước đặc. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày, trước bữa ăn. cần uống liền 5 ngày.

+ Quả nhót xanh          6 quả

+ Vỏ dộp ổi                            4g

+ Vỏ lựu                                3g

+ Cam thảo đất                     3g

Các thứ rửa sạch, cho vào nồi cùng 450ml nước đun sôi kỹ, chắt lấy 180ml nước đặc. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày, trước bữa ăn. cần uống liền 5 ngày.

 Thuốc chữa bệnh kiết lỵ mãn tính từ quả nhót
Thuốc chữa bệnh kiết lỵ mãn tính từ quả nhót

Bài 2. Thuốc chữa bệnh kiết lỵ mãn tính

+ Quả nhót chín 7 quả

+ Lá mơ lông 25g

+ Lá khổ sâm 10g

Các thứ rửa sạch, cho vào nồi cùng 400ml nước đun sôi kỹ, chắt lấy 180ml nước đặc. Người bệnh chia đều 3 lần uống hết trong ngày, trước bữa ăn. cần uống liền 8-10 ngày.

Bài 3. Thuốc chữa ho lâu ngày

+ Quả nhót xanh                   10 quả

+ Trần bì                               10g

+ Quả quất                            10 quả

Các vị thuốc rửa sạch, cho vào nồi cùng 400ml nước đun sôi kỹ, chắt lấy 150ml nước đặc. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày, trước bữa ăn. cần uống liền 5 ngày.

Những điều cần tránh khi dùng nhớt

Kiêng kỵ: Lá và rễ nhót không dùng cho phụ nữ có thai.

Khi sử dụng nhót, cần tránh nhầm lẫn với vị thuốc nhót tây, còn gọi nhót Nhật Bản, hay tỳ bà diệp. Nhót tây mọc hoang và được trồng ở nhiều ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Nội… Nhót tây cao tới 6 – 8m. Lá mọc so le, hình mác, có răng cưa, dài 12 – 30cm, rộng 3 – 8cm, phía mặt dưới của lá có rất nhiều lông màu xám hay vàng nhạt. Đây là đặc điểm nổi bật để phân biệt với nhót. Lá nhót tây cũng được sử dụng để trị ho, hen.

Lung bế (bí đái) Đông y và pháp, phương thuốc điều trị

Bí đái là bệnh có triệu chứng chính là đái không thông thoát hoặc bí đái. Đái không thông thoát thường đái nhỏ giọt, nước tiểu ít, bệnh từ từ (lung), còn bí đái là muốn đái mà đái không được bệnh thường đến đột ngột (bế). Đây là bệnh ở bàng quang do khi hóa ở bàng quang không lợi gây nên.

Lung bế và lâm chứng có điểm giống nhau là đi đái khó, song lung bế chỉ nói đến đi đái khó, nước tiểu ra khó hoặc không ra được, còn lâm chứng là nói đến khi đái nước tiểu ra ít són ra và đau. Trong y học hiện đại chứng này thường do các bệnh gây tích nước tiểu hoặc vô niệu gây nên.

Về nguyên nhân: Bí đái do thận và bàng quang bị nhiệt gây nên (Nam dược thần hiệu-bí tiểu tiện). Trương cảnh Nhạc cho là: hoặc tinh bại, hoặc tích huyết làm tắc đường nước nên đái không thông (hoặc dĩ tinh bại, hoặc dĩ tích huyết, tắc trở thủy đạo, nhi bất thông dã). Nay thường cho là đó thấp nhiệt úng trệ ở bàng quang hoặc nhiệt ở thận xuống bàng quang kết hợp với thấp làm cho khí hóa không lợi; hoặc nhiệt úng thịnh ở phế, tân dịch không xuống thận được, hoặc nhiệt ở phế đi xuống bàng quang làm cho khi cơ không điều hòa, sự vận chuyển và khí hóa của thủy dịch ở tam tiêu thất thường gây nên, hoặc ở bàng quang có huyết ứ ngưng tụ, sỏi làm tắc đường nước, hoặc thận dương hư làm khí hóa của bàng quang không lợi, không có nước tiểu. Về điều trị Tuệ Tĩnh cho rằng: “nên xét tận gốc” để chữa, không nên chỉ dùng một phương để chữa nó.

Bí đái do thấp nhiệt úng trệ.

Triệu chứng: thường có đái không thông lợi hoặc đái không được, miệng nhạt lợm giọng buồn nôn, không khát, rêu vàng cáu, mạch phù hoạt.

Phép điều trị: Thanh nhiệt hóa thấp.

Phương thuốc: (Nam dược thần hiệu – bí tiểu tiện)

Vỏ bí đao (đông qua bì) sắc đặc cho uống.

Phương thuốc: Tỳ giải chi tử thang (Thuốc nam châm cứu – bí đái)

Tỳ giải 16 Rễ cỏ tranh 12g
Chi tử 12g Thổ phục linh 16g
Hoa lá mã đề 12g Quế chi 4g

Ý nghĩa: vỏ bí đao, Chi tử, Tỳ giải, Thổ phục linh để thanh hóa thấp nhiệt lợi tiểu. Quế để trợ khí hóa của bàng quang, Mã đề để lợi tiểu.

Vị thuốc Tỳ giải
Vị thuốc Tỳ giải

Phương thuốc: Tư thận thông quan hoàn (Lam thất bí tàng) hợp Bát chính tán (Cục phương)

Tri mẫu 12g Hoàng bá 12g
Nhục quế 4g Xa tiền tử 12g
Cù mạch 12g Biển súc 12g
Hoạt thạch 12g Chi tử 12g
Cam thảo 8g Mộc thông 8g
Đại hoàng 8g Đăng tâm thảo 12g

Ý nghĩa: Tri mẫu, Hoàng bá, Sơn chi, Hoạt thạch, Mộc thông, Cù mạch, Biển súc để thanh nhiệt lợi thấp thông lâm Đại hoàng để tiết nhiệt. Đăng tâm thảo để dẫn nhiệt đi xuống. Cam thảo để hoãn cấp. Quế để trợ khí hóa của bàng quang.

Phương thuốc: Lục nhất tán (Thương hàn trực cách)

Hoạt thạch 6 lạng  Cam thảo 1 lạng

Tán mịn, 3 đồng cân một lần, ngày uống 2-3 lần Ý nghĩa: Hoạt thạch để thanh nhiệt, lợi tiểu, Cam thảo để thanh nhiệt hòa trung.

Nhiệt kết ở hạ tiêu.

Triệu chứng: Đái khó, bụng dưới đau trướng, không khát, nước tiểu nắng hoặc không đái được, mạch sác.

Phép điều trị: Thanh nhiệt thông tiểu tiện.

Phương thuốc: Núc nác chi tử thang (Thuốc nam châm cứu — bí đái)

Vỏ núc nác                  16g             Thạch hộc                12g

Chi tử                          12g             Rau má tươi             20g

Nhục quế                      4g

Phương thuốc: Tư thận hoàn (Lý Đông Viên)

Hoàng bá                 21ạng             Tri mẫu                21ạng

Nhục quế         2 đồng cân

Tán mịn, hoàn hồ mỗi lần dùng 3 đồng cân Ý nghĩa: Núc nác, Hoàng bá, Chi tử, Rau má, Tri mẫu, Thạch hộc để thanh nhiệt, tư âm. Quế để trợ khí hóa của bàng quang.

Thuốc dùng ngoài (Nam dược thần hiệu – bí tiểu thiện) Dành dành 14 quả, tỏi 1 củ to, ít tép, muối một ít Giã nát mịn rịt vào rôh và bìu đái, sau một lúc sẽ đái.

Bí đái do nhiệt úng thịnh ở phế

Triệu chứng: Đái nhỏ giọt, không thông hoặc không thông thoát, họng khô, phiền khát muốn uống, thỏ gấp nhanh, rêu vàng mỏng, mạch sác.

Phép điều trị: Thanh phế, lợi niệu.

Phương thuốc: (Nam dược thần hiệu – bí tiểu tiện)

Mã đề vò lấy 1 bát nước cốt, nước bí đao hoặc nước bí đao, nước cốt lá dâu uống với 1 muỗng mật.

Phương thuốc: Tang bì mã đề thang (Thuốc nam châm cứu — bí đái)

Chi tử                          12g           Mạch môn                12g

Tang bạch bì                12g           Mã đề (hoa lá)          80g

Mộc thông                 10g.

Ý nghĩa: Lá dâu, Bí đao, Tang bạch bì để thanh phế nhiệt. Mạch môn để tư âm thanh nhiệt, Chi tử để thanh thấp nhiệt ở tam tiêu, Mộc thông Bí đao, Mã để để thanh nhiệt thông lâm.

Phương thuốc: Hoàng cầm thanh phế thang (Chính trị chuẩn thằng)

Hoàng cầm       1 đồng cân           Chi tử 3 quả sao      cháy

Uống nóng cho thổ ra.

Phương thuốc: Thanh phế ẩm (Chính trị hội bổ)

Phục linh 12g Hoàng cầm 12g
Tang bạch bì 12g Mạch đông 12g
Xa tiền tử 12g Chi tử 12g
Mộc thông 8g

Ý nghĩa: Hoàng cầm, Tang bạch bì, Mạch môn để tư âm thanh phế; Xa tiền, Mộc thông, Phục linh, Chi tử để thanh nhiệt thông lâm.

Bí đái do thấp nhiệt không hóa được vỏ vị.

Triệu chứng: Khát, không đái hoặc đái không thông thoát

Phương pháp điều trị: Thảm thấp lợi thủy.

Phương thuốc: Tứ linh tán (ôn dịch luận).

Trạch tả                      3 đồng cân  Trư linh                   3 đồng cân

Phục linh                    3 đồng cân  Bạch truật               3 đồng cân

Tán mịn mỗi lần uống 3 đồng cân

Bí đái do khí hư thương thấp ở tỳ.

Triệu chứng chính: Khát, đái không lợi.

Phép điều trị: Phân lợi thủy thấp.

Phương thuốc: Xuân trạch thang (Chính trị chuẩn thằng) tức là Ngũ linh tán thêm Nhân sâm.

Ý nghĩa: Trạch tả để lợi thủy thảm thấp. Phục linh để lợi thủy hóa ẩm, Bạch truật để kiện tỳ. Quế để tăng khí hóa của bàng quang. Trư linh để lợi thủy hóa ẩm, Nhân sâm để bổ khí.

Bí đái do khí cơ uất trệ.

Triệu chứng: u uất, dễ cáu gắt, dễ bị kích thích, đái không thông, hoặc đái không thông thoát, sườn bụng căng đầy, rêu vàng mỏng hoặc vàng, lưỡi đỏ, mạch huyền.

Phép điều trị: Điều khí cơ, thông lợi tiểu tiện.

Phương thuốc: Trầm hương tán (Kim quĩ dực, Loại chứng trị tài)

Trầm hương 5 đồng cân Thạch vi 3 đồng cân
Hoạt thạch 5 đồng cân Đương quy 5 đồng cân
Trần bì 5 đồng cân Bạch thược 7,5 đồng cân
Đông quỳ tử 7,5 đồng cân Cam thảo 2,5 đồng cân
Vương bất lưu hành 5 đồng cân

Tán mịn, mỗi lần uống 2 đồng cân

Ý nghĩa: Trầm hương, Trần bì để sơ đạt can khí, hợp với Đương quy, Bạch thược Vương bất lưu hành để hành khí huyết ở hạ tiêu. Thạch vi, Quỳ tử, Hoạt thạch để thông lợi thủy đạo. Cam thảo để kiện tỳ, thêm Hương phụ, Uất kim, Ô dược để tăng thêm hành khí. Nếu uất hỏa thêm Đan bì, Chi tử để tả hỏa.

Bí đái do niệu đạo bị tắc

Triệu chứng: Đái són hoặc dòng nước tiểu xé nhỏ, hoặc không đái được, bụng dưới căng đầy đau âm ỉ, lưỡi tím, mạch sác hoặc tế sác.

Phép điều trị: Hành ứ tán kết, thanh lợi thủy đạo.

Phương thuốc: (Trích từ Thuốc nam châm cứu – bí đái)

Mã đề 16g Râu mèo 20g
Tô mộc 12g Rễ cỏ tranh • 12g
Rễ cỏ xước 16g Mộc thông 12g

Ý nghĩa: Rễ cỏ xước để hành ứ tán kết. Rễ cỏ tranh, Râu mèo, Mộc thông để thanh lợi thủy đạo.

– Thuốc dùng ngoài (Nam dược thần hiệu – bí tiểu tiện)

Ốc bươu 1con      Muối  2g

Cùng giã nát, rịt vào rốn cao 1 tấc 3 phân để giúp đi đái.

Đại để đương hoàn (Chính trị chuẩn thằng)

Đại hoàng 4 lạng Quy vĩ 1 lạng
Xuyên sơn giáp 1 lạng Sinh địa 1 lạng
Mang tiêu 1 lạng Nhục quế 3 đồng cân
Đào nhân 60 hạt

Ý nghĩa: Quy vĩ, Xuyên sơn giáp, Đào nhân, Đại hoàng, Mang tiêu để thông ứ hóa kết. Sinh địa để thông huyết tư âm. Nhục quế để trợ khí hóa của bàng quang.

Có thể thêm Kim tiền thảo. Hải kim sa, Đông quỳ tử, Cù mạch, Biển súc để tán kết, thông niệu đạo.

Bí đái do thận dương suy tổn.

Triệu chứng: Đái không thông được vọt ra-yếu không thông thoát, sức tống nước tiểu ra yếu, mặt bệch, thần khí yếu, lưng mỏi, gối yếu, lưỡi nhạt, mạch trầm tế trì.

Phép điều trị: Ôn dương ích khí, bổ thận thông khiếu. Phương thuốc: (Trích từ Thuốc nam châm cứu – Bí đái)

Cao ban long        20g            Nhục quế                   4g

Mã đề            12g            Rễ cỏ xước              12g

Ý nghĩa: Cao ban long, Rễ cỏ xước, Nhục quế để ôn thận ích khí. Mã đề để thông tiểu tiện.

Phương thuốc: Tế sinh thận khí hoàn (Tế sinh phương)

Sơn thù 1 lạng Đan bì 1 lạng
Phục linh 1 lạng Trạch tả 1 lạng
Phu tử 2 củ Nhục quế 0,5 lạng
Ngưu tất 0,5 lạng Xa tiền tử 1 lạng
Thục địa 2 lạng Sơn dược 1 lạng

Ý nghĩa: Thục để bổ thận âm, Thù, Hoài bổ can tỳ, Quế, Phụ để ôn bổ thận dương, Xa tiền Ngưu tất để lợi thủy, ở người già thêm Nhân sâm, Nhung phiến. Dâm dương hoắc để ôn bổ hạ nguyên.

Các phương thuốc dùng ngoài (Thuốc nam châm cứu)

  • Ốc ao (nhồi, vạn) 5-6 con. Hành tăm (củ) 20g

Thịt ốc giã lẫn với hành thật mịn, nặn thành hình tròn (có vài nhân băng phiến càng tốt) đắp lên rốn băng lại. Đái được thì bỏ ra.

  • Tỏi lớn 1 củ, Dành dành 7 quả, Muối 5g

Giã nhuyễn, phết lên miếng giấy, dán vào huyệt Khí hải (lót 2 lớp giấy ở dưới), đái được thì bỏ đi.

  • Muối sao nóng gói vào khăn vải chườm vùng bàng quang.
  • Hành tươi giã với giun đất đắp huyệt Khí hải, đái được thì bỏ đi.
  • Trầu không hơ nóng đắp Khí hải.
  • Cứu huyệt Thần khuyết (rốn).

Gây mê mask thanh quản

Mask thanh quản là một phương tiện đảm bảo thông suốt đường thở trên, cấu tạo gồm một ống nòng to và đầu dưới có một bóng chèn hình ê – líp. Sau khi đặt và bơm hơi, bóng nầy kín với áp lực thấp quanh lối vào thanh quản.

CHỈ ĐỊNH:

1- Phẫu thuật ngắn và vừa (dưới 2 giờ).

2- Phẫu thuật người bệnh ngoại trú.

3- Phẫu thuật người bệnh nguy cơ tim mạch cao

4- Một giải pháp khi đặt nội khí quản khó.

CHỐNH CHỈ ĐỊNH:

  1. Dạ dày đầy.
  2. Bệnh lý ở bụng.
  3. Cần thông khí có áp lực đẩy vào trên 20 cmH2O (co thắt phế quản, béo bệu nằm sấp…).
  4. Chấn thương cột sống cổ.

CHUẨN BỊ:

+ Chuẩn bị các phương tiện giống như đặt nội khí quản. Chọn cỡ mask thanh quản, xác định lượng khí bơm, kiểm tra bóng không thở.

Cỡ 1: trẻ sơ sinh, dưới 6,5 kg, bơm 3,5ml.

Cỡ 2: trẻ 6,5 – 15kg, bơm 10ml.

Cỡ 2,5: trẻ 15 – 25kg, bơm 15ml.

Cỡ 3: 25 – 40kg bơm 20ml.

Cỡ 4: trên 40kg, bơm 30ml.

Cỡ 5: người lớn rất to, bơm 40ml.

Người bệnh:

+ Người bệnh có đủ các xét nghiệm tiền phẫu.

+ Người bệnh được sử dụng các thuốc chống nôn, trào ngược: ondansetron, primperan, kháng acid…

+ Người bệnh đồng ý.

CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH:

  • Hút, xẹp bóng, bôi trơn mặt sau
  • Khởi mê đủ sâu (propofol> thiopenthal, có thể tê thần kinh vùng) 3- Đầu ngửa tối đa, há miệng.
    • Luồn mask thanh quản qua miệng, tì mặt sau mask trượt theo vịm hầu cứng, đặt đầu ngón trỏ tay thuận vào chỗ nối giữa ống và bóng, đẩy mask xuống sâu hạ họng tới khi cảm thấy sức cản tăng (vạch đen dọc ống luôn hướng lên môi trên). Bơm bóng đủ lượng không khí, trong khi giữ ống để mask nằm đúng vị trí (ống sẽ tự lùi ra một chút).
      • Giữ ống, lắp bóp bóng oxy, kiểm tra nghe thông khí đều 2 bên phổi.
      • Duy trì mê đủ sâu, có thể để tự thở qua mask hoặc thông khí cơ học (có thể dãn cơ).

Nếu áp lực đẩy vào dưới 20 cmH2O hoặc luồn nội khí quản nhỏ hơn mask để thay thế.

RÚT MASK THANH QUẢN:

  • Chỉ khi hồi phục phản xạ bảo vệ đường thở (nuốt, há miệng theo lệnh). Hút cho bóng xẹp bớt và rút, bóng sẽ kéo theo cả đàm dãi ở họng.
  • Tránh hút họng, tháo bóng, rút mask thanh quản khi người bệnh chưa tỉnh.

– Cố định chắc: dùng băng kín dán quanh ống.

THEO DÕI:

– Đảm bảo mask không tuột, vạch đen dọc ống luôn hướng lên môi trên, nghe ở cổ phát hiện hở khí.

TAI BIẾN VÀ XỬ LÝ:

  1. Khó đặt: không cố đẩy, kiểm tra đầu mask thanh quản không cuộn, tì vào thành sau họng, để đầu ngửa tối đa, đẩy hàm dưới ra trước.
  2. Lệch, tắc mask thanh quản, rút ra đặt lại.
  3. Tỉnh trong lúc phẫu thuật hoặc co thắt thanh quản: do mê nông, vì lúc phẫu thuật gây đau di động mask thanh quản. Cần thông khí 100% nhanh chóng gây mê sâu hơn.
  4. Hút chất nôn vô phổi: hút kỹ ống sau khi bóp, bóng oxy 100%. Thay ống mask thanh quản bằng ống nội khí quản, soi hút khí quản, thở PEEP.

Chuyển hóa Lipid, Lipoprotein và Apolipoprotein

Các lipid, lipoprotein và apolipoprotein

Lipoprotein là các phức hợp đại phân tử cấu tạo từ một nhân lipid kỵ nước (các cholesteryl ester, triglyceride và các vitamin tan trong mỡ) và vỏ ái nước [các phospholipid, cholesterol tự do và các protein chuyên biệt được biết như các apolipoprotein (apo)].

Nhân lipid được bao quanh bởi một lớp đơn phospholipid với các đầu cực hướng ra ngoài. Các apolipoprotein được cài vào lớp đơn phospholipid và đóng vai trò trung tâm trong điều hòa vận chuyển và chuyển hóa lipid. Ngoài khả năng gắn lipid của chúng các apo đảm bảo tính ổn định cấu trúc của các lipoprotein, gắn vào các thụ thể tế bào và hoạt hóa hoặc ức chê các enzym chủ chốt hoặc vận chuyển các protein.

Chức năng chủ yếu của các phần tử lipoprotein là vận chuyển các lipid trong dòng máu và tái phân bố chúng giữa các tế bào. Cholesterol là thành phần thiết yếu của các màng tế bào và tiền chất chuyển hóa của các acid mật và các hormon steroid (ví dụ như các hormon vỏ thượng thận và hormon sinh dục). Nó được thu nhận từ thức ăn và được tổng hợp trong gan, niêm mạc ruột và các tế bào khác. Gần 3/4 lượng cholesterol trong dòng máu được ester hóa với acid béo để tạo thành cholesteryl ester. Một khâu có tốc độ giới hạn trong quá trình tổng hợp cholesterol liên quan đến 3-hydroxy-3-methylglutaryl coenzym A (HMG- CoA) reductase, enzym chuyển HMG-CoA thành acid mevalonic.

Các triglyceride cấu tạo từ 3 phân tử acid béo được ester hóa với một phân tử glycerol. Chúng là dạng dự trữ của các acid béo, vì thế, là nguồn năng lượng chủ yếu của cơ thể con người.

Các phospholipid là đơn vị cấu trúc cơ bản thực sự của tất cả các màng tế bào (lớp kép phospholipid) và có vai trò quan trọng ở mô não và sự phát triển của bào thai. Vì có hàm lượng cao phospholipid, myelin có thể cách điện tế bào thần kinh với môi trường xung quanh. Các phospholipid cấu tạo từ một đuôi kỵ nước, acid phosphatidic ester hóa với đầu ái nước của các phân tử như choline, serine hoặc ethanolamine, tạo thành phosphatidylcholine, phosphatidylserine và phosphati – dyletholamine tương ứng. Acid phosphatidic tương tự như phân tử triglyceride, sự khác biệt duy nhất là sự có mặt của phosphate thay cho aid béo. Sự kết hợp của các phân tử kỵ nước và ái nước làm cho phospholipid trở thành một giao diện nước-lipid hoàn hảo.

Sự phân loại lipoprotein được dựa trên đường kính, tỷ trọng khi siêu ly tâm, điện di và thành phần (bảng 4.1). Theo apo cấu trúc chủ yếu (bảng 4.2) các lipoprotein có thể được chia thành 3 nhóm lớn: các lipoprotein mang apoB48, apoBlOO, và apoAI.

Các lipoprotein mang apoB48 là các chylomicron và các sản phẩm phụ của chúng, được gọi là các chylomicron tàn dư. Các chylomicron là những phần tử lipoprotein lớn nhất và tỷ trọng nhẹ nhất, không có tính điện di, và thường không có trong huyết tương khi đói. Chúng xuất hiện trong dòng máu sau ăn và cấu tạo chủ yếu từ triglyceride.

Các lipoprotein mang apoBlOO là những phần tử lipoprotein tỷ trọng rất thấp (VLDL) và các sản phẩm phụ của của chúng, đó là lipoprotein tỷ trọng trung gian (IDL) và các phần tử lipoprotein tỷ trọng thâp (LDL). Các phần tử VLDL là các lipoprotein tương đối lớn và tỷ trọng nhẹ, giàu triglyceride với vạch điện di pre-p. Chúng bao gồm 2 dưới nhóm chính: VLDL1 lớn hơn và tỷ trọng nhẹ hơn (Sf 60 – 400) và VLDL2 nhỏ hơn và tỷ trọng nặng hơn (Sf 20-60). Các phần tử LDLvận chuyển hầu hết cholesterol huyết tương, nhỏ hơn và tỷ trọng nặng hơn các phần tử VLDL và có vạch điện di p. Các phần tử IDL có tỷ trọng, thành phần và vạch điện di trung gian giữa các phần tử VLDL và LDL, và chứa lượng cholesterol và triglyceride tương đương. Mỗi lipoprotein mang apoB được bao quanh bởi một phân tử apoBlOO tạo thành trụ cột của phần tử từ khi được tổng hợp ở gan như VLDL cho đến khi được thanh lọc khỏi tuần hoàn như ở dạng IDL hoặc LDL. Sau khi được bài tiết vào huyết tương, các phần tử VLDL (cũng như các chylomicron) thu được các apoC và apoE chuyển từ các lipoprotein khác, đặc biệt là các phần tử HDL. Lipoprotein(a) [Lp(a)] cũng là lipoprotein mang apoBlOO. Nó là lipoprotein giàu cholesterol ester, giống LDL, mang apo(a) đặc trưng mà được mã hóa bởi một trong những gen đa hình thái nhất được biết ở người.

Lipoprotein Đường kính (nm) Tỷ trọng (g/ml) Điện di Lipid

chính

Apo

chính

Nguồn

chính

Chylomicron 75-1200 <0.95 Gốc TG B48, AIV (E và các C chuyển từ HDL) Ruột
Chylomicron tàn dư 30-80 <1,006 Tiền β chậm TG, cholesterol B48, E Chylomicron
VLDL 30-80 0,95-1,006 Tiền β TG B100, E, các C Gan
IDL 25-35 1,006-1,019 Tiền β chậm TG, cholesterol B100, E VLDL
LDL 18-25 1,019-1,063 β Cholesterol B100 IDL
HDL2 8-12 1,063-1,125 α Phospholipid,

cholesterol

AI.AII,

cácC

HDL3
HDL3 5-9 1,125-1,21 α Phospholipid AI.AII.E Ruột, gan,

chylomicron,

VLDL

Lp(a) 25-30 1,055-1,085 Tiền β Cholesterol B100, (a) Gan

Các phần tử HDL đại diện cho các lipoprotein mang apoAI , là những phần tử nhỏ nhất và tỷ trọng nặng nhất. Các phần tử HDL mang lượng lipid /protein ít nhất, và có thường có vạch điện di a. Một bộ phận các phần tử HDL có vạch điện di pre-P và được tổng hợp ở ruột như những phần tử hình đĩa được gọi là pre-β-LpAI. Thành phần protein của các phần tử HDL bao gồm một số apo, khoảng 90% là ApoAI và apoAII. ApoAIV và các apoC đều là những thành phần chuẩn của HDL. Một bộ phận nhỏ của HDL, cũng được gọi là HDLq hay HDLC (trong đó HDLC là HDL do cung cấp cholesterol), chứa các apoE và giàu cholesteryl ester. Đây là những phần tử lớn hơn (13-25 nm) nổi ở tỷ trọng l,03-l,10g/ml. Các phần tử HDL có thể được tách thành 2 bộ phận chính bằng ly tâm gradien tỷ trọng, HDL2 (1,063 – l,125g/ml) và HDL3 (1,125 – 1,210 g/ml) và giàu phospholipid. Tỷ số phân tử lượng apoAI/apoAII là 9:1 trong HDL2 và chỉ là 2:1 trong HDL3.

Apolipoprotein Nơi tổng hợp chính TL phân tử (Dalton) Kết hợp với lipoprotein Chức năng chính đã biết
AI Ruột, gan 28100 HDL Hoạt hóa LCAT
All Gan 17 400 HDL Chưa biết
AIV Ruột 43 000 HDL, chylomicron Vận chuyển TGỞCM
B48 Ruột 246 000 Chylomicron Tạo chylomicron
B100 Gan 513 000 VLDL, IDL, LDL, Lp(a) Tao VLDL, kết nối cho LDLR
Cl Gan 6 600 VLDL.HDL,

Chylomicron

Thay dổi thu nhận lipid giàu TG qua trung gian thụ thể
Cll Gan 8 800 VLDL,HDL,Chylomicron Hoạt hóa LPL
Clll Gan 8 750 VLDL.HDL, chylomicron ức chế thu nhận lipid giàu TG qua trung gian thụ thể
E Gan, đại thực bào, tế bào tạo keratin 3 420 Tàn dư chylomicron, IDL, HDL Chất kết nối cho LDLR, LRP và các thụ thể apoE
(a) Gan 400 000 – 800 000 Lp(a) Chưa biết

Tổng quan về chuyển hóa lipoprotein

  • Chuyển hóa các lipoprotein mang ApoB48

Các chylomicron được sản xuất bởi các tế bào biểu mô ruột, đặc biệt là đoạn gần của hổng tràng, nguyên liệu được hấp thu từ thức ăn. Các acid béo chuỗi ngắn được hấp thu trực tiếp vào tuần hoàn hệ tĩnh mạch cửa. Triglyceride được sử dụng để tạo thành các phần tử chylomicron, được tổng hợp từ các acid béo chuỗi dài (trên 12-14 nguyên tử carbon) và monotriglyceride. Các phospholipid và cholesterol được hấp thu trực tiếp hoặc tổng hợp bởi các tế bào ruột. Các lipid được lắp ráp bằng apoB48. Qúa trình này cần một protein chuyển triglyceride của microsom (microsomal triglycerid transíer protein, MTP). ApoB48 xuất phát từ một gen trên nhiễm sắc thể 2, gen này cũng chịu trách nhiệm sản xuất apoBlOO. Trong ruột non RNA thông tin của apoB được sửa đổi bởi một phức hợp để đảm tổng hợp ra apoB48, trong khi RNA thông tin của apoB nguyên chiều dài được sao mã để sản xuất ra apoBlOO ở gan. Các chylomicron được tổng hợp mối cũng bao gồm cả apoAIV. Sau khi bài tiết vào hệ bạch huyết của mạc treo, các chylomicron chuyên qua ống ngực và cuối cùng đi vào tuần hoàn chung. Ở đây, chúng thu nạp apoC và apoE chủ yếu qua trao đổi với các HDL. Khi đã vào tuần hoàn chung, các chylomicron gắn vào enzym lipoprotein lipase (LPL) gắn vào các tê bào nội mạc mao mạch nhò heparan sulfate proteoglycan (HSPG). LPL được hoạt hóa bởi các phân tử apoCII xuất hiện từ bề mặt của chylomicron. Triglyceride nằm trên nhân của chylomicron vì thế được thuỷ phân thành các acid béo tự do (FFA) và được vận chuyển đến các mô khác nhau, tham gia vào các quá trình chuyển hóa cho những mục đích khác nhau.

Các acid béo có thể được tàng trữ dưới dạng triglyceride ở mô mỡ. Đây là nguồn cung cấp năng lượng cho cơ hoặc được tái sử dụng bởi gan để tổng hợp lipoprotein. Sau khi hầu hết triglyceride được thuỷ phân, các phần tử được giải phóng từ LPL dưới dạng chylomicron tàn dư. Các phần tử tàn dư được thanh thải nhanh chóng khỏi huyết tương nhờ thụ thể của LDL (LDLR) và các protein liên quan với thụ thể của LDL (LRP). Các phần tử này cuối cùng đề bị thoái giáng bởi các tế bào gan. Qúa trình thanh lọc huyết tương bắt đầu từ sự lưu giữ ở khoảng Disse (khoang nhỏ ngăn cách xoang và các tế gan) bởi các HSPG-heparan sulfate proteoglycans, với sự tham gia của LPL và lipase gan (Hepatic lipase, HP); quá trình xử lý tiếp theo gồm quá trình gắn lên bề mặt tế bào, quá trình xâm nhập nội bào thông qua sự tương tác apoE-HSPG- LDLR/LRP.

  • Chuyển hóa các lipoprotein mang apoB100

Các hạt VLDL nhỏ hơn, đậm đặc hơn chylomicron, được sinh ra bởi các tế bào gan. Những giai đoạn đầu của chuyển hóa VLDL rất giống với chuyển hóa chylomicron. Các triglyceride, cholesterol được tập hợp lại với apoBlOO trong phạm vi lưới nội chất trong một quá trình đòi hỏi có MTP. Sau khi được bài tiết vào huyết tương, các VLDL cũng thu nhận apoC và apoE nhò chuyển chủ yếu từ các HDL. Cũng giống như chylomicron, các triglyceride của VLDL được thuỷ phân bởi LPL, sinh ra các phần tử tàn dư gọi là các IDLs. Các phần tử này có thể được thu nhận bởi LDLR hoặc LRP của gan hoặc chuyển thành LDL qua một quá trình có HL tham gia. Chức năng chính của các phần tử LDL là cung cấp cholesterol đến hầu hết các tế bào. Các LDLR được tìm thấy ở hầu hết các mô trong khắp cơ thể, và apoBlOO được sử dụng như chất kết nối cho LDLR. Phần lớn các phần tử LDL được thanh lọc bởi gan.

Lp(a) có thể được mô tả như một phần tử LDL có đặc trưng bởi sự có mặt của một protein duy nhất là apo(a). Sự lắp ráp Lp(a) bao gồm nhiều tương tác giữa apo(a) và apoBlOO của LDL, cũng như kết nối disulfide của 2 gốc cystein tự do trên cả 2 protein. Apo(a) rất giống với plasminogen và khác nhau khá nhiều về trọng lượng phân tử ở những người khác nhau. Apo(a) được tổng hợp bởi gan, và người ta phát hiện rằng cả hai cơ chế dịch mã và hậu dịch mã đều điều hòa sản xuất Lp(a). Sự lắp ráp Lp(a) dường như xảy ra ngoài tế bào từ apo(a) mới được tổng hợp và LDL lưu hành, thậm chí tuy các nghiên cứu động in vivo đã phát hiện khả năng lắp ráp ở trong tế bào. Lp(a) có thời gian bán huỷ dài hơn so với LDL và không được loại khỏi huyết tương nhờ thụ thể của LDL( LDLR). Tuy nhiên, vị trí và cơ chế dị hóa nó chưa được rõ. Nồng độ Lp(a) huyết tương khác nhau rất nhiều giữa các cá thể và khác nhau đáng kể giữa các quần thể, và được xác định bởi sự tổng hợp chứ không phải bởi sự thoái giáng.

  • Chuyển hóa các lipoprotein mang ApoAI

Các HDL chịu trácnh nhiệm vận chuyển ngược cholesterol, trong quá trình này cholesterol dư thừa ở ngoại vi được chuyển về gan đê bài tiết vào mật. ApoAI được tổng hợp ở cả ruột và gan. Người ta cho rằng các HDL mới sinh là những phần tử hình đĩa, có khả năng thu nhận các cholesterol không ester hóa từ các mô ngoại vi. Quá trình này cần có protein tế bào gọi là protein gắn ATP Al (ABCAl) thúc đẩy qua trình này. Cholesterol không ester hóa được ester hóa bởi enzyme lecithin:cholesterol acyltmnsferase (LCAT), một enzyme huyết tương kết hợp với các HDL. Vì hoạt động của LCAT sản sinh nhiều hơn cholesteryl ester, các HDL mới sinh trở thành các phần tử hình cầu, chúng tăng kích thước khi thu nhận thêm các thành phần lipid và protein từ chylomicron và VLDL khi nhân triglyceride của các lipoprotein này bị thuỷ phân. Các cholesteryl ester của HDL có thể được chuyển về gan thông qua ít nhất 2 con đường.

  1. Thứ nhất: các cholesteryl ester của HDL có thể được trao đổi với triglyceride của các lipoprotein mang ApoB nhờ tác động protein chuyên cholesteryl ester (CEPT). Một số trong những lipoprotein mang apoB này sau đó được loại khỏi huyết thanh bởi gan nhờ LDLR hoặc LRP. HDL được làm giàu triglyceride là một cơ chất của lipase gan, nó thuỷ phân triglyceride và phospholipide của HDL để sinh ra các phần tử HDLnhỏhơn.
  2. Thứ hai, các cholesteryl ester của HDL có thể được thu nhận trực tiếp bởi gan trong một quá trình “thu nhận cholesterol chọn lọc”. Quá trình này thông qua trung gian thụ thể thu dọn nhóm B týp I (SR-BI), một thụ thể bề mặt tế bào thúc đẩy sự thu nhận cholesteryl ester của HDL chứ không phải thu nhận cả phần tử lipoprotein.

Như thế, sự chuyển hóa cholesteryl ester và ApoAI của HDL không đi đôi với nhau. Cuối cùng, apoAI được loại khỏi tuần hoàn nhờ một quá trình còn chưa được hiểu rõ nhưng dường như xảy ra chủ yếu ở thận. Người ta đã tìm thấy Cubilin, thụ thể cho yếu tố nội – vitamin B12 gắn kết với các HDL nhỏ và apoAI không có lipid, trên tế bào biểu mô của ống lượn gần của thận. Cũng đã có bằng chứng cho thây, thụ thể nội tế bào megalin, một thành viên khác của gia đình thụ thể LDL gắn với cubilin, hoạt động cùng với cubilin để thu nhận HDL vào trong tế bào- nếu bị ức chế hoạt tính hoặc giảm biểu lộ của megalin, đều dẫn đến sự ức chế thu nhận HDL vào tế bào qua trung gian cubilin. ApoAI không có lipid và HDL nhỏ sẽ bị giáng hóa trong các lysosome sau khi nhập nội bão.

Rối loạn chuyển hóa lipid và bệnh lý tim mạch

Rối loạn chuyển hoá lipid gắn liền với bệnh lý mạch máu, đặc biệt là bệnh lý mạch vành. Điều hoà các rối loạn lipid máu có tác dụng cải thiện rõ rệt tiên lượng bệnh lý tim mạch ở người mắc bệnh đái tháo đường.

Rối loạn lipid máu, tăng huyết áp, béo phì…là những yếu tố nguy cơ làm tăng tỷ lệ bệnh xơ vữa động mạch ở người đái tháo đường typ 2. Trong số các yếu tố nguy cơ này thường gặp nhất là các rối loạn lipid. Người mắc bệnh đái tháo đường typ 2 có tỷ lệ rối loạn chuyển hoá lipid cao gấp 2-3 lần người không bị mắc bệnh đái tháo đường. Thậm chí người có rối loạn dung nạp glucose, suy giảm dung nạp glucose máu lúc đói cũng đã có những rối loạn chuyển hoá lipid tương tự. Điều nguy hiểm cho những đối tượng này là ở chỗ, họ không biết mình bị mắc bệnh để đề phòng mặc dù mức độ nguy cơ với những tai biến tim mạch của họ không khác gì so với người mắc bệnh đái tháo đường typ 2.

Bệnh lý mạch vành có vị trí hàng đầu trong bệnh lý tim mạch, tỷ lệ bệnh mạch vành ở người đái tháo đường cao gấp 2 đến 3 lần người không mắc bệnh đái tháo đường. Một nghiên cứu ở Vương quốc Anh, tại thời điểm chẩn đoán bệnh đái tháo đường typ 2 đã có 16,5% người bệnh nam giới và 9,7% người bệnh nữ giới đã có nhồi máu cơ tim.

Nhiều nghiên cứu cũng đã chứng minh rằng tỷ lệ nhồi máu cơ tim, cơn đau thắt ngực cao hơn hẳn ở những người mắc bệnh đái tháo đường. Tỷ lệ này tăng song hành với tăng nồng độ cholesterol máu.

Nghiên cứu UKPDS thấy ở người đái tháo đường có tăng LDL-C, tăng tỷ lệ triglycerid, giảm HDL-C máu. Những rối loạn này luôn kết hợp với tăng nguy cơ mắc bệnh lý mạch vành. Tiên lượng bệnh lý mạch vành được cải thiện đáng kể, thậm chí giảm cả tỷ lệ tử vong do mạch vành, nhờ điều chỉnh được các rối loạn chuyển hoá lipid.

Mô mỡ – một cơ quan nội tiết

  • Quá trình hình thành, phát triển quan niệm”mô mỡ- một cơ quan nội tiết”

Nghiên cứu sinh học mô mỡ, nhất là về các cơ chế sinh mô mỡ thật sự “bùng nổ” trong những thập kỷ qua. Sự phát hiện ra leptin năm 1994 đã gây ra những ảnh hưởng mạnh mẽ, mở ra một thời kỳ nghiên cứu sâu rộng nhằm khám phá các vai trò nội tiết và cận nội tiết của mô mỡ, đặc biệt là vai trò của nó trong sinh bệnh học các bệnh chuyển hóa, bệnh thừa cân, béo phì và các bệnh liên quan. Khái niệm ban đầu về điều hoà hằng định nội môi của cán cân năng lượng (kể cả khối mô mỡ) có từ thời Lavoisier và Laplace(1894). Việc chứng minh vai trò chủ chốt của não bộ trong điều hoà các cân bằng này đến muộn hơn. Điều thú vị là các kết luận có tính chất nghiên cứu này lại xuất phát từ những nhận xét, gợi ý lâm sàng. Những nghiên cứu cung cấp các bằng chứng rằng các nhân thất trong của hypothalamus (ventromedical nuclues of the hypothalamus, VMH) là trung tâm no quan trọng nhất trong hệ thần kinh trung ương. Tổn thương VMH gây ra bệnh ăn không biết no, giảm tiêu hao năng lượng, hậu quả là thừa cân, béo phì. Đây là cơ sở để lập luận rằng cán cân năng lượng được điều hoà bởi một vòng phản hồi( feedkack) trong đó khả năng dự trữ năng lượng của cơ thể được cảm nhận bởi hypothalamus, rồi chính trung tâm này lại phát ra các tín hiệu để kiểm soát cả hai quá trình thu nhập thức ăn và tiêu hao năng lượng. Bản chất của các tín hiệu đầu vào đến hypothalamus còn chưa rõ. Sau này, J. Mayer đề xuất lý thuyết “glucose tĩnh”- trong đó glucose máu là tín hiệu được hypothalamus cảm nhận. Kennedy đã chứng minh sự hiện diện của yếu tố chuyển hóa chất béo và đề xuất lý thuyết về lipid tĩnh. Trong giả thuyết này, tín hiệu đến từ các kho dự trữ mỡ ở mô mỡ được hệ thần kinh trung ương tiếp nhận và có phản xạ lại bằng điều hoà sự ăn uống nhằm hằng định nội môi năng lượng. Gỉa thuyết này sau đó được củng cố thêm bởi các nghiên cứu dẫn truyền thần kinh do Hervey thực hiện. Năm 1973, Coleman tiến hành các nghiên cứu dẫn truyền thần kinh bằng sử dụng các mô hình một gen duy nhất về béo phì (chuột ob /ob và db / db) và đã kết luận rằng sản phẩm của gen ob do mô mỡ bài tiết, được vận chuyển theo dòng máu và được thu nhận bởi các thụ thể(được mã hóa bởi gen db) ở hypothalamus. Sự tương tác giữa một yếu tố do mô mỡ sản xuất và một thụ thể ở hypothalamus là điều kiện đê khởi phát một chuỗi các tín hiệu thần kinh và nội tiết, có tác dụng kiểm soát quá trình thu nhập thức ăn và tiêu hao năng lượng.

Các bằng chứng thực nghiệm này trở thành nền tảng để Leibel và cs thực hiện nhân bản vô tính các gen ob và db, dẫn đến sự khám phá leptin, được công bố trên tạp trí NatureC1994), về thụ thể của leptin trên tạp trí Cell(1995).

  • Các protein được bài tiết bởi các tê bào mỡ

Từ khi khám phá ra leptin, quan niệm đơn giản về mô mỡ đơn thuần như một khối dự trữ chất béo đã chuyển sang một quan niệm phức tạp hơn, luôn gây tranh cãi. Đó là vì; 1/ thứ nhất, kích thước của mô mỡ không chỉ được kiểm soát bởi sự thu nạp vào nó các tế bào mỡ đã tồn tại sẵn mà còn liên quan đến các cơ chế được điều chỉnh rất tinh vi, nhất là quá trình kiểm soát sự biệt hóa và chết theo chương trình của mô này; 2/ thứ hai, kho tập trung của mô mỡ là những cơ quan bài tiết đa năng. Trong thực tế, mô mỡ không chỉ được tạo thành chủ yếu từ các tế bào mỡ, mà còn các nguyên bào sợi, các tế bào miễn dịch như các đại thực bào, dưỡng bào(mast cells)…Những tếbào này đều sử dụng các con đường nội tiết, cận nội tiết và tự nội tiết để bài tiết các protein có hoạt tính sinh học được gọi là các adipokine hoặc các adipcytokine. Các tế bào mỡ đáp ứng với nhiều kích thích khác nhau như các hormon lưu hành, các chất chuyển hóa, tín hiệu neuron và các tín hiệu năng lượng tế bào bằng cách giải phóng các hormon và các cơ chất như :

+ Các TNF-a: Các interleukin, TGF-ị3, FGF, EGF.

+ CácMPC-1.

+ Các acid béo tự do, các lysophospholipid, các lactate.

+ Các Adenosin, Prostaglandins, các Glutamin.

+ Agouti protein.

+ Retinol.

+ Plasminogen activator inhibitor-1.

+ Leptin.

+ Protein kích thích adenincyclase.

+ Các Angiotensin, angiotensin-II.

+ Estrogen.

+ Adipsin.

+ Adiponectin.

+ Resistin.

+ Visfatin.

+ Các protein tạo hình thái xương.

+ IGF-1, IGFBP.

Như vậy có nhiều yếu tố được bài tiết bởi các tế bào mõ, một số trong chúng được bài tiết vào dòng máu, như IL-6 và leptin, trong khi các chất khác như TNF-a thể hiện tác động của chúng theo cách cận-tự nội tiết.

Người ta cũng đã biết rằng, tuy mô mỡ có diện mạo mô học tương tự trong khắp cơ thể, nhưng có những khác biệt cơ bản là khả năng bài tiết về chất lượng và số lượng các adipokine khác nhau, tùy theo vùng cơ thể. Đặc biệt hơn, các protein được bài tiết lại có các chức năng điều hòa sinh lý và bệnh lý khác nhauu; ví dụ:

  1. Hằng định nội môi năng lượng (leptin, adiponectin, v.v…).
  2. Hệ miễn dịch bẩm sinh (TNF-a, IL-6,V.V….).
  3. Hệ mạch (VEGF, monobutyrin, ESM-1,V.V..).
  4. Đáp ứng theo mức độ phản ứng; ví dụ pha cấp (oq lacid glycoprotein, SAA3, PTX-3,V.V..).
  5. Các phân tử tham gia vào chuyển hóa lipoprotein như LPL hoặc các thành phần của chất ngoại bào (collagen týp IV).
  6. Thu nạp các tế bào miễn dịch (MCP-1).

Sau đây xin giới thiệu một số các adipokihe chủ yếu tham gia vào chuyển hóa của toàn cơ thể. Chúng tác động đồng thời vào các mô khác nhau, bao gồm não, gan, cơ xương và thậm chí- cả chính mô mỡ.

Bệnh lý lympho ác tính

Ung thư bạch huyết thường dùng để mô tả các bản sao ác tính của tế bào trong các giai đoạn riêng biệt trong quá trình biệt hóa tế bào lympho bình thường. Khi các biểu hiện của tủy xương và máu ngoại vi chiếm ưu thế trên lâm sàng, bệnh được xếp vào nhóm bệnh bạch cầu dòng lympho. Khi hạch bạch huyết và/hoặc các vị trí ngoài hạch khác của bệnh chiếm ưu thế, khối u được gọi là u lympho. Sự phân biệt giữa u lympho và bệnh bạch cầu đôi khi mờ nhạt; ví dụ, u lympho loại tế bào nhỏ và bạch cầu kinh thể lympho là các khối u cùng loại tế bào và được phân biệt tùy ý trên cơ sở số lượng tuyệt đối của tế bào lympho trong máu ngoại vi (>5 × 109/L xác định bệnh bạch cầu).

PHÂN LOẠI

Trong lịch sử, các khối u lympho được chia thành các nhóm bệnh lý dựa trên các hội chứng lâm sàng—u lympho theo Rappaport, Kiel hoặc hệ thống Working Formulation; bạch cầu cấp theo hệ thống Pháp-Mỹ-Anh (FAB) ; bệnh Hodgkintheo phân loại Rye. U tủy nói chung không được phân dưới nhóm bằng các đặc điểm bệnh lý của các tế bào ung thư. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đề xuất một hệ thống phân loại thống nhất, tập hợp tất cả các loại ung thư bạch huyết và một khuôn khổ duy nhất. Mặc dù hệ thống mới căn cứ vào định nghĩa các thể bệnh về mô học, bất thường về gen, kiểu hình miễn dịch và các đặc điểm lâm sàng, tổ chức hệ thống dựa trên nguồn gốc tế bào (tế bào B và T) và giai đoạn trưởng thành (tiền thân và trưởng thành) của khối u, các đặc điểm có giá trị giới hạn cho các bác sỹ lâm sàng. Bảng 73-1 liệt kê danh sách các bệnh thực thể theo một giản đồ lâm sàng hữu ích hơn dựa trên các biểu hiện lâm sàng các lịch sử tự nhiên của bệnh.

BẢNG 73-1 GIẢN ĐỒ LÂM SÀNG CỦA UNG THƯ LYMPHO

Bạch cầu kinh thể lympho/u lympho

Bạch cầu kinh thể lympho/u lympho loại tế bào nhỏ (99% tế bào B, 1% tế bào T)

Bệnh bạch cầu thể tiền lympho (90% tế bào B, 10% tế bào T)

Bệnh bạch cầu lympho hạt lớn [80% TB diệt tự nhiên (NK), 20% TB T] Bệnh bạch cầu tế bào lông (99–100% tế bào B)

U lympho tiến triển chậm

U lympho thể nang, độ I và II (100% tế bào B)

U lympho lymphoplasmacytic/macroglobulinemia Waldenström (100% tế bào B)

U lympho vùng rìa (100% tế bào B)

Ngoài hạch [u lympho mô bạch huyết niêm mạc(MALT)]

Hạch (u lympho tế bào B monocytoid)

U lympho vùng rìa lách

U lympho tế bào T ở da (u sùi dạng nấm) (100% tế bào T)

U lympho tiến triển nhanh

U lympho tế bào lớn lan tỏa (85% TB B, 15% TB T), gồm nguyên bào miễn dịch

U lympho thể nang, độ III (100% tế bào B)

U lympho tế bào vỏ (100% tế bào B)

U lympho tế bào B lớn ở trung thất tiên phát (tuyến ức) (100% TB B)

U lympho dạng Burkitt (100% tế bào B)

U lympho tế bào T ngoại vi (100% tế bào T)

U lympho nguyên bào miễn dịch – mạch máu (100% tế bào T)

U lympho tâm mạch (80% tế bào T, 20% tế bào NK)

U lympho tế bào T ở ruột (100% tế bào T)

U lympho tế bào lớn không biệt hóa (70% tế bào T, 30% tế bào null)

Bạch cầu cấp thể lympho/u lympho

Bệnh bạch cầu tiền thân nguyên bào lympho/u lympho (80% TB T, 20% TB B)

Bệnh bạch cầu Burkitt/u lympho (100% tế bào B)

Bệnh bạch cầu tế bào T người lớn/u lympho (100% tế bào T)

Các rối loạn tương bào (100% tế bào B)

Bệnh lý gama đơn dòng chưa xác định

U tương bào đơn độc

U tương bào ngoài tủy

Đa u tủy

Bệnh bạch cầu tương bào

Bệnh Hodgkin (nguồn gốc tế bào chủ yếu là tế bào B)

Tế bào lympho chiếm ưu thế

Xơ nốt

Hỗn hợp tế bào

Cạn kiệt tế bào lympho


TỶ LỆ MẮC

Tỷ lệ mắc u lympho ngày càng tăng. Gần 116,000 trường hợp được chẩn đoán vào năm 2012 ở Hoa Kỳ (Hình 73-1).

BỆNH NGUYÊN

Phần lớn ung thư bạch huyết chưa rõ nguyên nhân. Các tế bào ác tính đơn dòng và thường chứa nhiều bất thường về di truyền. Một số biến đổi di truyền đặc trưng cho các thực thể mô học đặc biệt: t(8;14) trong u lympho Burkitt, t(14;18) trong u lympho thể nang, t(11;14) trong u lympho tế bào vỏ, t(2;5) trong u lympho tế bào lớn không biệt hóa, chuyển vị hoặc đột biến liên quan bcl-6 trên 3q27 trong u lympho tế bào lớn lan tỏa và các loại khác. Trong hầu hết trường hợp, chuyển vị liên quan đến việc chèn một đoạn nhiễm sắc thể ở xa vào gen receptor kháng nguyên (hoặc globulin miễn dịch hoặc receptor tế bào T) trong quá trình tái sắp xếp đoạn gen hình thành các thụ thể.

Ba virus—Epstein-Barr virus (EBV), herpesvirus ở người 8 (HHV-8) (cả các loại virus herpes gia đình) và virus gây bạch cầu cấp dòng lympho T ở người type I (HTLV-I, một loại retrovirus)—gây nhiều loại u bạch huyết. EBV có quan hệ chặt chẽ với u lympho Burkitt châu Phi và u lympho gây biến chứng suy giảm miễn dịch (liên quan đến bệnh hoặc do thầy thuốc). EBV có mối liên hệ chưa rõ ràng với bệnh Hodgkin thể hỗn hợp tế bào và u lympho tâm mạch. HHV-8 gây ra các bệnh hiếm, u lympho trong khoang cơ thể, chủ yếu ở bệnh nhân AIDS. HTLV-I có liên quan tới bệnh bạch cầu tế bào T người lớn/u lympho. Virus và bệnh đều là đặc thù của vùng tây nam Nhật Bản và vùng Caribbe.

Nhiễm Helicobacter pylori dạ dày có mối liên hệ với u lympho mô bạch huyết niêm mạc (MALT) và có thể cả u lympho tế bào lớn dạ dày. Điều trị triệt để nhiễm trùng làm thuyên giảm lâu dài ở một nửa số bệnh nhân u lympho MALT dạ dày. U lympho MALT ở các vị trí khác liên quan tới các nhiễm trùng khác (phần phụ nhãn cầu, Chlamydia psittaci; ruột non, Campylobacter jejuni; da, Borrelia) hoặc tự miễn (tuyến nước bọt, hội chứng Sjögren; tuyến giáp, viêm tuyến giáp Hashimoto).

Suy giảm miễn dịch di truyền hoặc mắc phải và các rối loạn tự miễn dẫn tới u lympho. U lympho gặp ở những người nhiễm HIV nhiều hơn những người không nhiễm HIV 17 lần. Nông dân và công nhân ngành thịt có tỷ lệ mắc u lympho cao hơn; bệnh Hodgkin hay gặp hơn ở thợ mộc.

CHẨN ĐOÁN VÀ GIAI ĐOẠN

Sinh thiết cắt là thủ thuật chẩn đoán chuẩn; cần lấy đúng mô phù hợp. Làm các xét nghiệm mô: (1) hiển vi quang học để phân biệt mô hình phát triển và các đặc điểm hình thái của tế bào ác tính, (2) đếm dòng tế bào để đánh giá kiểu hình miễn dịch và (3) nghiên cứu di truyền (di truyền tế bào, tách chiết DNA). Chọc hút kim nhỏ hạch và khối ngoài hạch không phải thủ thuật chẩn đoán thích hợp. Chẩn đoán bệnh bạch cầu và giai đoạn u lympho gồm sinh thiết mào chậu hai bên rộng rãi. Chẩn đoán phân biệt với bệnh hạch.bệnh lý lympho ác tính

HÌNH 73-1 Tần số tương đối các bệnh lý lympho ác tính. ALL: bạch cầu cấp thể lympho; CLL: bạch cầu kinh thể lympho; MALT: mô bạch huyết niêm mạc

Phân giai đoạn thay đổi theo chẩn đoán. Trong bạch cầu cấp, số lượng blast máu ngoại vi là quan trọng nhất để tiên lượng. Trong bạch cầu mạn leukemia, số lượng hồng cầu (HC) và tiểu cầu máu ngoại vi mới là yếu tố tiên lượng quan trọng nhất. U lympho không Hodgkin có 5 yếu tố tiên tượng trên lâm sàng; u lympho tiến triển chậm và nhanh dùng 3 trong 5 yếu tố đó, giai đoạn tiến triển, nồng độ lactate dehydrogenase (LDH) cao và tuổi >60. Trong u lympho thể nang, 2 yếu tố cuối cùng là Hb <120 g/L (<12 g/dL) và có trên 4 vị trí hạch bị ảnh hưởng. Trong u lympho tiến triển nhanh, có trên một vị trí ngoài hạch và tình trạng hoạt động giúp tiên lượng hậu quả. Trong u tủy, nồng độ paraprotein, creatinine và β2-microglobulin huyết thanh dự đoán khả năng sống thêm.

Các Bệnh lý lympho ác tính

 

Bạch cầu kinh dòng Lympho

Xem Bạch cầu kinh dòng Lympho

U Lympho tiến triển nhanh và tiến triển chậm

Xem U Lympho tiến triển nhanh và tiến triển chậm

Bạch cầu cấp thể Lympho/U Lympho

Xem Bạch cầu cấp thể Lympho/U Lympho

Các rối loạn tương bào

Xem Các rối loạn tương bào

Hội chứng gan – thận

Tên khác: bệnh thận do gan.

Định nghĩa: rối loạn chức năng thận khi bị suy gan nặng, đôi khi sau phẫu thuật đường mật mà không có các triệu chứng lâm sàng, hoá sinh hoặc giải phẫu bệnh của các nguyên nhân khác.

Căn nguyên: chưa rõ. Hội chứng chủ yếu có ở người bị xơ gan do rượu ở giai đoạn nặng, có cổ trướng, đôi khi sau đa niệu hoặc sau khi tiêm chích.

Triệu chứng: bệnh cảnh lâm sàng suy thận có thiểu niệu ở người bị suy gan nặng, thường có vàng da và cổ trướng. Thiểu niệu với nước tiểu ưu trương mặc dù natri niệu thấp dưới 10 mmol/1.

Chẩn đoán: cần phân biệt hội chứng gan-thận với hoại tử ống thận cấp có thể xảy ra ở người bị suy gan (huyết áp giảm do xuất huyết tiêu hoá, nhiễm khuẩn huyết).

Điều trị: điều trị triệu chứng. Không dùng các thuốc độc với thận, nhất là các aminosid, thuốc chống viêm không phải steroid và các thuốc ức chế men chuyển. Lọc máu không làm tiên lượng tốt hơn. Ghép thận trong trường hợp có thể. Tiên lượng: tỷ lệ tử vong trên 90%.

Pantoloc

Thuốc Pantoloc 40 mg - Điều trị bệnh viêm loét dạ dày
Pantoloc 40 mg

PANTOLOC

BYK GULDEN

Viên nang tan trong ruột 40 mg: hộp 14 viên. Bột pha tiêm tĩnh mạch 40 mg: hộp 1 lọ.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Pantoprazole 40 mg

 

cho 1 lọ
Pantoprazole 40 mg

DƯỢC LỰC

Chất ức chế chọn lọc bơm proton ; về cấu trúc hóa học là dẫn xuất của benzimidazol.

CHỈ ĐỊNH

  • Loét tá tràng.
  • Loét dạ dày.
  • Viêm thực quản trào ngược trung bình và nặng
  • Ngoài ra, dạng viên còn được dùng phối hợp với hai kháng sinh thích hợp (xem phần Liều lượng và Cách dùng) để diệt Helicobacter pylori ở những bệnh nhân loét dạ dày, nhằm giảm tái phát chứng loét tá tràng và dạ dày do vi sinh vật này gây ra.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

  • Không nên dùng Pantoloc trong điều trị phối hợp để diệt Helicobacter pylori ở những bệnh nhân bị rối loạn chức năng gan và thận ở mức trung bình đến nặng, vì hiện thời chưa có dữ liệu về tính công hiệu và an toàn của Pantoloc trong điều trị phối hợp cho các bệnh nhân này.
  • Nói chung, không nên dùng Pantoloc cho các trường hợp có tiền sử nhạy cảm với một trong các thành phần của Pantoloc hoặc với thuốc dùng phối hợp cùng Pantoloc.
  • Kinh nghiệm lâm sàng về Pantoloc khi dùng trong thai kỳ hiện còn hạn chế. Trong nghiên cứu về sinh sản ở động vật, đã thấy độc tính nhẹ của Pantoloc đối với thai súc vật, ở liều dùng trên 5 mg/kg. Hiện không có thông tin về bài xuất của pantoprazole qua sữa mẹ.

Chỉ dùng Pantoloc khi lợi ích cho người mẹ được xem là lớn hơn rủi ro đối với thai nhi và em bé.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

  • Chỉ khuyến nghị dùng dạng tiêm khi dùng đường uống không thích hợp
  • Không chỉ định Pantoloc cho những ca rối loạn tiêu hóa nhẹ như chứng khó tiêu liên quan tới thần kinh.
  • Trong liệu pháp phối hợp thuốc, cần phải quan tâm đến đặc tính của thuốc phối hợp
  • Trước khi điều trị với Pantoloc, phải loại trừ khả năng loét dạ dày ác tính hoặc viêm thực quản ác tính, vì điều trị với pantoprazole có thể nhất thời làm mất các triệu chứng của bệnh loét ác tính, do đó có thể làm chậm chẩn đoán ung thư.
  • Chẩn đoán viêm thực quản trào ngược cần được khẳng định bằng nội
  • Không vượt quá liều 40 mg pantoprazole khi dùng cho bệnh nhân cao tuổi hoặc suy thận
  • Ở bệnh nhân suy gan nặng, liều dùng hàng ngày phải giảm xuống 20 mg Ngoài ra ở các bệnh nhân này cần phải giám sát các enzyme gan trong liệu trình Pantoloc IV. Khi enzyme gan tăng, phải ngưng dùng Pantoloc IV.
  • Hiện chưa có kinh nghiệm về việc điều trị với Pantoloc ở trẻ
  • Hiện chưa rõ tác dụng của thuốc khi dùng cho người lái xe hay vận hành máy móc.

TƯƠNG TÁC THUỐC

  • Pantoloc có thể làm giảm độ hấp thu của các thuốc khác dùng đồng thời mà độ hấp thu phụ thuộc vào pH (thí dụ: ketoconazole). Điều này cũng xảy ra với những thuốc dùng trước Pantoloc IV một thời gian ngắ
  • Hoạt chất của Pantoloc được chuyển hóa ở gan nhờ hệ enzyme cytochrome Không loại trừ khả năng pantoprazole tương tác với những thuốc khác chuyển hóa cùng hệ enzyme cytochrome P450. Tuy nhiên, ở lâm sàng chưa thấy tương tác đáng kể trong những thử nghiệm đặc hiệu với một số thuốc hoặc hợp chất có tính chất nói trên, như carbamazepine, cafein, diazepam, diclofenac, digoxine, ethanol, glibenclamide, metoprolol, nifedipine, phenprocoumon, phenytoin, theophylline, warfarine và các thuốc tránh thai dùng bằng đường uống.
  • Cũng không thấy Pantoloc tương tác với thuốc kháng acid (trị đau dạ dày) uống đồng thờ
  • Không thấy có tương tác với các kháng sinh dùng phối hợp (clarithromycine, metronidazol, amoxicylline) trong điều trị diệt Helicobacter

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

  • Điều trị với Pantoloc có thể thỉnh thoảng dẫn đến nhức đầu hay tiêu chả
  • Đã có báo cáo về những trường hợp hiếm gặp: buồn nôn, đau bụng trên, đầy hơi, ban da, ngứa và choáng váng.
  • Trong những trường hợp cá biệt, đã xảy ra phù nề, sốt, viêm tĩnh mạch huyết khối, cơn trầm cảm và rối loạn thị giác (nhìn mờ).

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Dạng viên:

Liều khuyến cáo:

Ở những bệnh nhân loét dạ dày và tá tràng, nhiễm Helicobacter pylori (dương tính), cần thực hiện việc diệt vi khuẩn bằng trị liệu phối hợp. Tùy theo kiểu kháng thuốc, có thể theo các sơ đồ phối hợp sau để diệt Helicobacter pylori:

 Phác đồ 1:

Mỗi ngày 2 lần x (1 viên Pantoloc + 1000 mg amoxicylline + 500 mg clarithromycine).

 Phác đồ 2:

Mỗi ngày 2 lần x (1 viên Pantoloc + 500 mg metronidazol + 500 mg clarithromycine).

 Phác đồ 3:

Mỗi ngày 2 lần x (1 viên Pantoloc + 1000 mg amoxicylline + 500 mg metronidazol). Nếu không cần dùng trị liệu phối hợp, nghĩa là bệnh nhân đã thử nghiệm âm tính về

Helicobacter pylori, hướng dẫn sau đây về liều lượng được áp dụng cho đơn liệu pháp Pantoloc:

Loét tá tràng, loét dạ dày và viêm thực quản trào ngược:

  • Trong phần lớn các trường hợp, dùng mỗi ngày 1 viên Pantoloc tan ở ruột. Trong trường hợp cá biệt, có thể tăng liều dùng gấp đôi (mỗi ngày tới 2 viên Pantoloc), đặc biệt khi mà trị liệu khác đã không cho đáp ứ
  • Đối với bệnh nhân suy gan nặng, liều dùng cần giảm xuống 1 viên (40 mg pantoprazole), hai ngày một lần. Ngoài ra, đối với các bệnh nhân này, cần theo dõi các enzyme gan trong liệu trình Nếu giá trị enzyme gan tăng, nên ngưng dùng Pantoloc.
  • Không được dùng qua 1iều 40 mg pantoprazole một ngày ở người có tuổi hoặc suy thậ Ngoại lệ là trị liệu phối hợp diệt Helicobacter pylori, trong đó người có tuổi cũng phải dùng liều pantoprazole thông thường (2 x 40 mg/ngày) trong một tuần điều trị.

Cách dùng và thời gian điều trị:

  • Không được nhai hoặc nghiền nhỏ viên Pantoloc mà phải uống nguyên viên với nước, một giờ trước bữa ăn sáng. Trong trị liệu phối hợp diệt Helicobacter pylori, cần uống viên Pantoloc thứ hai trước bữa tố
  • Nếu quên không dùng thuốc đúng giờ, không nên dùng liều bù vào lúc muộn trong ngày, nên tiếp tục dùng liều bình thường vào ngày hôm sau trong liệu trình.
  • Nói chung, liệu pháp phối hợp thực hiện trong 7 ngày có thể kéo tối đa trong 2 tuầ Nếu cần điều trị thêm với pantoprazole để chữa lành bệnh loét, cần chú ý tới khuyến nghị về liều lượng dùng trong loét tá tràng và loét dạ dày. Nói chung, có thể chữa lành loét tá tràng trong vòng 2 tuần. Nếu thời gian điều trị 2 tuần chưa đủ, trong hầu hết các trường hợp có thể chữa lành loét tá tràng khi dùng Pantoloc thêm 2 tuần nữa. Thông thường, thời gian 4 tuần là cần thiết để điều trị loét dạ dày và loét thực quản trào ngược. Nếu thời gian này không đủ, thường có thể chữa khỏi bệnh nếu dùng Pantoloc thêm 4 tuần nữa.
  • Vì hiện chưa đủ kinh nghiệm dùng dài hạn, điều trị với Pantoloc không được vượt quá 8 tuần.

Dạng tiêm tĩnh mạch:

Chỉ khuyến nghị dùng Pantoloc IV khi dùng đường uống không thích hợp. Liều Pantoloc tĩnh mạch là 1 lọ (40 mg pantoprazole) mỗi ngày.

Hướng dẫn cách dùng và pha chế:

  • Để pha thuốc tiêm, bơm 10 ml dung dịch NaCl sinh lý vào lọ chứa chất đông khô (pantoprazole). Có thể dùng dung dịch này để tiêm trực tiếp sau khi pha loãng với 100 ml dung dịch NaCl, glucose 5% hoặc 10%.
  • Không pha chế hay hỗn hợp Pantoloc IV với dung môi nào khác ngoài các dung môi nói trên. Giá trị pH của dung dịch phải là 9.
  • Thuốc Pantoloc IV được tiêm tĩnh mạch trong thời gian 2 đến 15 phút.
  • Dung dịch tái tạo (đã pha chế) cần được dùng trong vòng 3 giờ sau khi pha chế.

QUÁ LIỀU

Hiện chưa biết triệu chứng khi dùng quá liều ở người.

Trong trường hợp dùng quá liều và có triệu chứng nhiễm độc lâm sàng, áp dụng các quy tắc giải độc thông thường.

BẢO QUẢN

Bảo quản ở nhiệt độ dưới 25oC

Bối mẫu

bối mẫu
bối mẫu

Tên khoa học:

Fritillaria roylel Hook. Họ khoa học: Liliaceae.

Thứ lớn gọi là Thổ Bối mẫu, thứ nhỏ gọi là Xuyên Bối mẫu.

Tên Hán Việt khác:

Càn mẫu, Khổ thái, Khổ hoa, Không thảo (Biệt Lục) Manh (Nhĩ Nhã), Manh dương thật (Bản Thảo Cương Mục), Biên lạp bách hợp (Nhật Bản), Manh, Thương thảo, Không thái, Càn mẫu, Sách mẫu, Thương sách mẫu, Mẫu long tinh, Ngõa lung ban, Du đông sách mẫu (Hòa Hán Dược Khảo) Điềm Bối mẫu (Cương mục thập di).

Mô tả:

Bối mẫu gồm hai loại:

  1. Xuyên bối mẫu (Fritillaria roylei Hook) là loại cây mọc lâu năm, cao chừng 40- Lá gồm 3-6 lá mọc vòng, đầu lá cuộn lại. Hoa hình truông chúc xuống đất, dài 3,5 đến 5cm, ngoài màu vàng lục nhạt. Có ở Tứ xuyên, Trung Quốc, vì vậy gọi là Xuyên bối mẫu.
  2. Triết Bối mẫu (Fritillaria verticillata Willd var Thunbegri Baker): Cây này khác Xuyên bối mẫu ở chỗ lá hẹp hơn, 3-4 lá mọc vòng và dài 2-3cm. Cây này có ở Triết giang nên gọi là Triết bối mẫu hoặc Tượng bối mẫ

Địa lý:

Chưa tìm thấy ở nước ta, vị này còn phải nhập ở Trung Quốc.

bối mẫu hồ bắc
bối mẫu hồ bắc

Thu hái, sơ chế:

  • Xuyên bối mẫu: đào dò về vào khoảng giữa tháng 8-10, rửa sạch, phơi trong râm cho khô.
  • Triết bối mẫu: đào dò về sau tiết lập hạ, rửa sạch, rồi lựa loạt lớn thì tách thành tép riêng, bỏ vỏ ngoài, cho vôi vào để hút chất nhựa, rồi phơi nắng hoặc sấy khô gọi là ‘Nguyên Bảo Bối’, loại nhỏ gọi là ‘Châu Bối’. Loại to thường tốt hơn loại nhỏ. Có nơi dùng thứ nhỏ màu trắng đầu nhọn là thứ tốt nhất gọi là Tiêm Bố

Phần dùng làm thuốc:

Thân hành, vảy.

Mô tả dược liệu:

  • Xuyên bối mẫu sản xuất ở Tứ xuyên, hình cầu dẹt hoặc gần hình cầu viên chùy, hợp thành bởi 2 phiến lá vảy dầy mập lớn nhỏ và 2 phiến vảy nhỏ bọc bên trong, dày khoảng 2-3 phân, vùng đầu nhọn, vùng dưới rộng, hai phiến lá bên ngoài thể hiện hình tròn trứng trong lõm ngoài lồi hơn, phẳng trơn màu trắng, 2-3 phiến cánh trong nhỏ dài hẹp màu vàng nhạt có chất bột có chất bộ Loại sản xuất ở huyện Tòng xuyên như dạng bồng con, hình tròn bóng trơn sạch sẽ, hơi ngọt, vị này tương đối tốt nên được gọi là Chân trâu Bối mẫu.
  • Triết bối mẫu sản xuất ở Tượng Sơn (Triết Giang) cho nên người ta gọi là Tượng Bối mẫu, hình tròn hơi giống bánh bao, họp thành 2 phiến lá vảy dầy mập và vài phiến lá vảy nhỏ bọc bên trong, lớp ngoài phiến vảy mọc dài như dạng nguyên bửu (vàng xưa) đường kính khoảng 2,5-3cm đến hơn 3cm, mặt ngoài màu trắng phấn, vùng vỏ tàng dư gh màu vàng nhạt nâu. Triết bối mẫu nguyên vẹn chính giữa có 2-3 lá vẩy nhỏ héo teo, mặt bên ngoài màu xám trắng thường có vết đốm màu vàng nhạ mặt bên trong màu nâu có chất bột giòn. Các loại Bối mẫu trắng nặng nhiều bột, khô, không đen không mốc mọt, hoặc vụn nát là tốt.

Bào chế:

+ Bối mẫu bỏ lõi, sao với gạo nếp cho tới khi vàng, sàng bỏ gạo nếp, lấy bối mẫu cất dùng. Hoặc sau khi bỏ lõi, tẩm với nước gừng sao vàng (Lôi Công Bào Chích Luận).

+ Xuyên bối mẫu rút bỏ lõi, sấy khô tán bột dùng sống hoặc tẩm với nước gừng sao vàng tán bột, khi dùng hoà nước thuốc thang đã sắc mà uống (loại này không dùng sắc). Thổ bối mẫu loại củ tròn không nhọn đầu. Rửa sạch, ủ, bào mỏng, phơi khô hoặc tẩm nước gừng sao vàng (Loại này thường dùng sắc với thuốc) (Trung Dược Học).

Bảo quản:

Để nơi khô ráo, đựng trong thùng lọ, có lót vôi sống dễ bị mọt.

Khí vị:

Vị đắng cay, hơi hàn, không độc, vào kinh Thủ thái âm và Thủ thiếu âm, Hậu phác, Bạch vi làm sứ, ghét Đào hoa, sợ Tần giao, phản Ô đầu.

Chủ trị:

Vị đắng thì tả Tâm hỏa, cay thì tán Phế uất, tiêu đờm đặc hên cách mạc, có công hiệu mau đối với chứng ho lâu, tan khí nghịch trong Tâm, người nhiều sầu uất thì có công hiệu khác thường, chứng thời dịch vàng da, chứng sán hà, tê cổ họng, thanh khí, hóa đờm, trừ nhiệt giải độc, nôn ra máu, khạc ra máu, phế nuy, phế ung, tan uất, thông sữa, thanh Tâm, nhuận Phế, mọi độc ác sang đều có hiệu quả, mụt vú, tràng nhạc cũng dùng được. Ngăn được chứng tiêu khát, phiền nhiệt, bôi lở trên mặt rất hay. Là vị thuốc chủ yếu để tan kết, trừ nhiệt, giải độc, hóa đờm, sau khi đẻ nhau không ra đều lấy nó tán nhỏ uống vói rượu.

Cấm kỵ:

Vị hàn, Tỳ hư, hàn đờm đình ẩm, đau đầu, đờm quyết, lợm mửa, tiết tả đều kiêng dùng. Thứ ở giữa có cái rễ, không tách ra làm đôi, không có vỏ gọi là Đan long tinh thì làm tôn hại cho gân mạch, không nên dùng.

Cách chế:

Chọn cái to trắng, bỏ ruột đi mà dùng, người Vị hàn thì sao với Gạo, chừng nào gạo chín là được, hoặc tẩm với nước gừng sao.

Nhận xét:

Công dụng của Bối mầu là đi vào tạng Phế để trị táo đàm, nhưng uống lâu thì tạng Tỳ không ưa. Thường cho Bán hạ táo, có độc, dùng Bối mẫu để thay, không biết Bối mẫu trị đờm táo của Phế kim cho nên phải nhuận, Bán hạ trị đờm thấp của Tỳ thổ cho nên phải táo, một vị thì nhuận, một vị thì táo, khác nhau một trời, một vực, nếu dùng lầm cái này ra cái kia thì rất có hại, thay thế sao được.

Vả lại Thổ Bối mẫu vị rất đắng, tính hàn, công dụng của nó phần nhiều để giải độc, hóa đờm, tan uất, trừ nhiệt, Xuyên bối mẫu vị ít đắng hơn thì tính hàn cũng giảm bớt, công dụng để thanh nhiệt, giải độc tuy không bằng Thổ bối mẫu mà sức nhuận Phế hóa đờm thì lại hơn.

GIỚI THIỆU THAM KHẢO

“Y học tâm ngộ”

Bài Bối mẫu qua lâu tán

Bối mẫu 6-10g, Qua lâu 8-10g, Thiên hoa phấn 8-12g, Quất hồng 8-12g, Bạch linh 8-12g, Cát cánh 8-12g. sắc, chia uống vài lần trong ngày.

Có tác dụng thanh nhiệt, hóa đàm, nhuận Phế, chỉ khái.

Trị ho do Phế bị táo, khó khạc đờm, họng khô đau, lười đỏ, ít rêu mà khô.

Trên lâm sàng hiện nay thương dùng chữa viêm Phế quản, ho gà thể táo nhiệt.

“Y học tâm ngộ”

Bài Khải cách hoàn

Sa sâm 10g, Đan sâm 10, Bối mẫu 6g, Bạch linh 4g, uất kim 4g, Sa nhân xác l,2g, Hà diệp đế 2 lá, Ngô đầu khang 15g.

Sắc, Chia uống vài lần trong ngày. Có tác dụng nhuận táo, giải uất, hóa đờm, giáng nghịch.

Chữa chứng ế cách, như vướng vật gì trong họng, ăn vào thì mửa, bụng trướng, tảo bón.

Bài Tiêu loa hoàn

Huyền sâm, sinh Mẫu lệ, Bối mẫu-lượng bằng nhau, tán bột mịn, lấy Mật làm hoàn. Mỗi lần uống 8-12g, ngày 2 lần. Có tác dung thanh hóa đờm nhiệt, nhuyễn kiên, tán kết.

Chữa u bướu, đờm hạch.

Trên lâm sàng thường dùng trị viêm hạch bạch huyết, lao hạch, vú sưng, vú có khối u, bướu cổ, đờm hạch.

Gia giảm:

Âm hư, hỏa vượng, miệng khô, họng khát thì tăng Huyền sâm, gia thêm Mạch môn, Sinh địa, Đơn bì để tư âm, giáng hỏa.

Nếu đờm nhiều, dính đặc, miệng đắng thì tăng lượng Bối mẫu, thêm Qua lâu, Hải phù thạch để thanh nhiệt, hóa đờm.

Nếu có khối u cứng thì tăng lượng Mẫu lệ, thêm Côn bố, Hải tảo, Hạ khô thảo để tăng tác dụng nhuyễn kiên, tán kết.

Nếu Can khí uất, ngực đầy đau thì thêm Sài hồ, Bạch thược, Thanh bì để sơ Can, giải uất, lý khí, hành trệ.

“Chứng trị chuẩn thằng”

Bài Hải đái hoàn

Hải đới 80g, Thanh bì 80g, Trần bì 40g, Bối mẫu 60g.

Cùng tán nhỏ, thêm Mật làm hoàn, liều uống 6-12g, ngày 2

Cùng tán nhỏ, thêm Mật làm hoàn, liều uống 8-16g, ngày 2 lần.

Có tác dụng hóa đờm, mềm kết rắn, tiêu tan u bướu.

Chữa tuyến giáp trạng sưng to, lao hạch, đờm hạch.

Tên gọi:

+ Vị thuốc có củ như những con ốc bện (Bối tử) nên gọi là Bối mẫu (Danh Y Biệt Lục).

+ Vị này bám chi chít vào rễ như đàn con bám vào vú mẹ, cũng là loại thuốc quý như Bảo bối nên gọi là Bối mẫu (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+ Xuyên bối mẫu khác Triết bối mẫu. Xuyên bối mẫu tính tư nhuận mạnh, thường dùng trị Phế nhiệt, ho khan, Phế hư, ho lao. Triết bối mẫu sức khai tiết mạnh, dùng trong ngoại cảm phong tà, đàm nhiệt uất Phế dẫn đến ho (Thực Dụng Trung Y Học).

Phân biệt: Ở Việt Nam có nhiều nơi dùng cây Hoa cựa (Disporum cantoniense (Lour) Merr = Disporum pullum Salisb) dùng làm thuốc có tác dụng như cây Bối mẫu, đó là cây thảo phân nhánh nhiều từ phần gốc, có thân và cành mảnh. Lá hình dải, mũi mác, có cuống ngắn, hơi thót lại ở gốc, nhọn dài ra ở chóp, dài tới 8cm, rộng tới 3cm, gân gốc 3. Tán hoa có cuống ngắn mang 3-7 hoa, thường là 4-5 hoa màu hồng lục. Bao hoa 6 mảnh, thuôn nhọn, có 3 gân, cựu tiêu giảm thành 1 u dạng lườn ở bên ngoài. Nhị 6 bằng nhau, chỉ nhị dầy, bầu hình trứng thuôn, vòi dạng sợi chia ra 3 đầu nhụy hình giải. Quả mọng hình cầu, nạc. Cây ra hoa vào mùa hè, thường thấy ở Lào Cai, Hoà Bình.

Gen trị liệu kháng tạo mạch trong ung thư

MỞ ĐẦU

Rõ ràng là tăng trưởng khối u phụ thuộc vào sự tạo mạch, một quá trình phát triển liên tục các tế bào nội mô từ các mạch máu đã sẵn có từ trước. In situ, các khối u có đường kính nhỏ hơn 3 mm tồn tại ở trạng thái tiền huyết quản (prevascular state) bị hạn chế khả năng tăng trưởng (với điều kiện không cần tưới máu từ nguồn cung cấp). Không giống như quá trình tân huyết quản hóa, các khối u đang “im lìm” này vẫn ở kích cỡ hiển vi và nằm yên lặng trong nhiều năm. Khi tăng thêm các mạch máu mới sẽ làm tăng khả năng cung ứng oxy và các chất chuyển hóa cho các khối u và loại đi các chất thải loại. Tuy nhiên, những mạch máu mới được tạo thành này sẽ tạo thuận lợi cho sự tẩu thoát của các tế bào khối u tới những vùng xa hơn của cơ thể, ở đó có thể phát hiện được sự hình thành các di căn. Bằng chứng cho thấy những mạch máu mới phát triển từ các tế bào tiền thân nội mô có nguồn gốc từ tủy xương cũng góp phần vào việc làm tăng trưởng các mạch máu của khối u. Vì thế, ức chế sự tạo mạch khối u là một trị liệu tiềm năng quan trọng đối với tất cả các dạng ác tính, kể cả các khối u đặc và tủy xương (với các bệnh ác tính về máu). Việc ức chế hay kìm hãm chỉ một mao mạch đơn lẻ cũng đụng chạm tới sự tăng trưởng của nhiều tế bào khối u. Các kiểu trị liệu được thiết kế nhằm ức chế sự hình thành các mạch máu mới có lợi thế là nó nhắm vào các tế bào nội mô ổn định về mặt di truyền đang hỗ trợ cho sự tăng trưởng khối u và ít khả năng kháng lại cách trị liệu kháng sự tạo mạch. Trái lại, các hóa trị liệu chuẩn hiện nay lại được thiết kế nhằm tấn công các tế bào khối u không ổn định về mặt di truyền, do vậy mà có thể dẫn đến việc kháng lại nhanh chóng các tác nhân trị liệu hóa học.

Tạo mạch là một quá trình gồm nhiều bước và rất phức tạp, nó liên quan đến các quá trình sinh lý học bình thường ở người trưởng thành bao hàm cả hệ thống sinh sản của phụ nữ và sự làm lành vết thương. Ngoài việc làm cho các khối u tăng trưởng, sự tạo mạch mới còn giữ vai trò quan trọng trong nhiều quá trình bệnh lý bao gồm viêm khớp, lạc nội mạc tử cung, bệnh võng mạc do đái tháo đường và thoái hóa cơ.

Quá trình tạo mạch đã được mô tả rất kỹ trong nhiều tài liệu. Các tế bào nội mô trong các mao mạch hoặc tiểu tĩnh mạch dưới mao mạch nhận các kích thích tiền tạo mạch từ các yếu tố tăng trưởng hòa tan bao gồm yếu tố tăng trưởng nội mô huyết quản (vascular endothelial growth factor – VEGF) và yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi cơ bản (basic fibroblast growth factor – bFGF) với phương thức cận tiết (paracrine) từ các tế bào khối u bao quanh hoặc các tế bào mô đệm và khoang ngoại bào. Sự thoái hóa màng cơ bản do serin protease như plasmin và metalloproteinase gian bào (matrix metalloproteinases – MMP) sau khi hoạt hóa tế bào nội mô cho phép các tế bào này rời khỏi mạch máu đã được thiết lập để hướng tới kích thích sự tạo mạch. Những tế bào nội mô đang yên lặng một cách bình thường trở nên tăng sinh nhanh chóng theo hướng phát triển chồi (mầm) mao mạch. Các tế bào nội mô đâm mầm sẽ tạo nên các ống và nối với các mạch máu khác cho phép máu lưu thông. Các mao mach nguyên thủy này chưa hỗ trợ các tế bào quanh mạch nhưng đã bắt đầu có biểu hiện về sự hình thành màng cơ bản.

Hoạt hóa receptor angiopoietin 1/Tie 2 (tyrosin kinase 2) sẽ khởi đầu sự yên lặng nội mô, sự trưởng thành của mạch với sự hoàn tất màng cơ bản và tăng các tế bào trung mô và dần trở thành các tế bào quanh mạch (pericyte). Không giống như sự tạo mạch sinh lý học ở mô bình thường, các mạch máu của khối u không trải qua quá trình sinh trưởng theo kiểu này. Những mạch máu này vẫn ở trạng thái chưa trưởng thành và bị rò rỉ là do tác động của angiopoietin 2 – một kháng chủ vận đối với angiopoietn 1, tạo tín hiệu không ổn định đối với mạch máu, thúc đẩy sự sửa đổi huyết quản bổ sung khi có sự hiện diện của các yếu tố tăng trưởng tạo mạch.

Tân huyết quản hóa khối u không đơn giản là phát sinh từ việc biểu hiện quá mức các yếu tố tăng trưởng tạo mạch. Folkman và Hanahan đề xuất vấn đề về hiện diện của “sự chuyển đổi tạo mạch” (angiogenic switch) để mô tả sự chuyển dịch trong cân bằng giữa các yếu tố dương và âm kiểm soát tăng trưởng, tăng sinh của nội mô và sự hình thành huyết quản trong khối u.

Sự điều hòa gen thông qua việc biểu hiện thấp đi các yếu tố điều hòa âm sự tạo mạch cũng góp phần vào việc phát triển kiểu hình tạo mạch (Hình 11.1).

Cơ chế tạo mạch của khối u

Hình 11.1. Cơ chế tạo mạch của khối u. Các yếu tố tiền tạo mạch được tạo ra bởi các tế bào khối u, bao gồm yếu tố tăng trưởng nội mô huyết quản (VEGF) kích thích tế bào nội mô yên lặng cạnh các mao mạch đã có từ trước. Các tế bào nội mô hoạt hóa sẽ tăng sinh và tiết ra các enzym proteolytic làm thoái hóa các chất ở ngoại bào, cho phép các tế bào di cư tới khối u. Các tế bào đang di cư tạo màng cơ bản dọc theo mạch máu mới được mọc ra. Hơn nữa, các tế bào tiền thân nội mô cũng có thể được tuyển mộ từ tủy xương sẽ đi vào các mao mạch mới được tạo thành. Sự ổn định hóa của mạch là do số lượng các tế bào bao quanh, nó được thu hút bởi yếu tố tăng trưởng có nguồn gốc từ tiểu cầu (platelet-derived growth factor -PDGF) giải phóng bởi các tế bào nội mô.

(Theo Steve Gyorffy, Jack Gauldie, A. Keith Stewart và Xiao-Yan Wen. (2005) Cancer Gene Therapy. Human Press. Totowwa, New Jersey)

Ngoài các yếu tố tăng trưởng tạo mạch như VEGF và bFGF, trên 28 chất trung gian (mediator) của sự tạo mạch đã được xác định. Trái ngược với các yếu tố này là trên 50 chất ức chế tạo mạch nội sinh cũng đã được biết đến. Nhiều trong số các chất ức chế này là các đoạn proteolytic của các đại phân tử đã được xác định là có hoạt tính kháng tạo mạch, bao gồm: angiostatin, endostatin, canstatin, vasostatin và 2 peptid mới được xác định là tumstatin và endorepellin.

Trong các mô hình tiền lâm sàng trên chuột, khi phân phối toàn hệ thống các chất ức chế tạo mạch là các protein tái tổ hợp đã làm thu nhỏ các khối u. Tuy nhiên, ngoại trừ các cytokin kháng tạo mạch, các chất ức chế angiostatin và endostatin lại rất an toàn, trong thời gian phân phối kéo dài không có phản ứng phụ nào xảy ra. Điều này có thể do tính đặc hiệu của các chất ức chế đối với tế bào nội mô góp phần vào việc tạo mạch khối u. Các nghiên cứu trên động vật chỉ rõ các protein kháng tạo mạch tái tổ hợp có thể được phân phối lặp đi lặp lại nhiều lần ở liều lượng cao sẽ làm nhỏ lại các khối u. Những protein tái tổ hợp này rất khó sản xuất và tinh chế với lượng lớn để có thể sử dụng được trong thực hành lâm sàng. Các protein tái tổ hợp cũng không ổn định và đời sống bán phần trong huyết tương ngắn do có sự biến đổi glycosyl hóa. Với việc đầu tư kỹ thuật và tài chính cho sản xuất các chất ức chế tạo mạch tái tổ hợp nội sinh cho ứng dụng trong lâm sàng thì gen trị liệu có thể duy trì các mức protein lưu hành sản xuất trực tiếp từ các tế bào của bệnh nhân đã được xử lý với các vec tơ.

CÁC CHIẾN LƯỢC GEN TRỊ LIỆU KHÁNG SỰ TẠO MẠCH

Hai chiến lược gen trị liệu đã được đề xuất để chuyển giao các protein kháng tạo mạch. Chiến lược thứ nhất liên quan tới gen trị liệu hệ thống, theo đó các vectơ được tiêm vào các bệnh nhân để tạo nên chất ức chế tạo mạch lưu thông ở nồng độ cao. Lý do là trong các mô hình tiền lâm sàng trên chuột và các TNLS pha I gần đây không thấy có độc tố tế bào khi sử dụng protein angiostatin hoặc endostatin. Tuy nhiên, độc tế bào do việc phân phối toàn hệ thống các vec tơ vẫn có thể là hiệu ứng phụ tiềm ẩn, đặc biệt là khi sử dụng các vec tơ virus.

Chiến lược thứ hai là gen trị liệu kháng tạo mạch được hướng bởi khối u nhằm tăng mức các protein kháng tạo mạch trong môi trường khối u. Cách tiếp cận này nhằm duy trì các protein ở mức cao trong khối u và có thể hạn chế được độc tế bào cho cả hệ thống do đặc tính sinh học của protein hoặc vec tơ. Tuy nhiên, những giới hạn tiềm tàng vẫn có thể xảy ra với cách tiếp cận này, đặc biệt khi điều trị các khối u mà chưa thể áp dụng được bằng chuyển giao vec tơ hoặc khi xử lý các di căn.

Với các trị liệu kháng tạo mạch khác bao gồm protein tái tổ hợp, kháng thể đơn dòng hoặc các chất ức chế chuyển tải tín hiệu có trọng lượng phân tử nhỏ, các gen chuyển tiềm năng,… đều là các thể loại chất ức chế “trực tiếp” hay “gián tiếp” kháng tạo mạch. Các chất ức chế trực tiếp nhắm đặc hiệu vào các tế bào nội mô trong khối u, còn cách tiếp cận gián tiếp lại nhắm vào khả năng của các tế bào khối u hoặc các tế bào người ngoài cuộc sản sinh ra các yếu tố tăng trưởng tạo mạch như VEGF và bFGF. Những yếu tố này làm phức tạp thêm cho các phương pháp gen trị liệu kháng tạo mạch sẽ được áp dụng đối với các dạng khối u khác nhau. Mặc dầu việc ức chế sự tân huyết quản hóa được nhận thức là một trị liệu khá phổ biến đối với ung thư, nhưng trong thực tế thì thành công của gen trị liệu kháng tạo mạch còn phụ thuộc vào khả năng tối ưu hóa hệ thống vec tơ với một gen chuyển phù hợp và có thể đặc hiệu cho một dạng khối u.

Gen trị liệu kháng tạo mạch đang sử dụng các sinh phẩm không virus như plasmid hoặc DNA trần cũng như các chiến lược có liên quan tới các virus như adenovirus, virus adeno liên hợp, retrooncovirus, lentivirus đã được sử dụng trong nhiều mô hình khối u loài gặm nhấm (Bảng 11.1). Phần lớn các cách tiếp cận này đều sử dụng các gen chuyển trực tiếp gây độc tế bào tới các tế bào nội mô khối u như angiostatin và endostatin. Những cách tiếp cận khác nhằm kiểm soát ức chế các yếu tố tăng trưởng tiền tạo mạch cũng như các quá trình nới rộng bằng việc nhắm tới các con đường MMP hoặc serin protease.

GEN TRỊ LIỆU CƠ SỞ TẾ BÀO VÀ PLASMID

Gen trị liệu dựa trên cơ sở plasmid DNA được đóng gói bằng các chất dẻo biểu hiện endostatin người đã có hiệu ứng làm chậm sự tăng trưởng Renca dưới da và ung thư phổi Lewis (Lewis lung carcinoma – LLC) trên chuột. Công trình này đã chứng minh rằng khi tiêm vào trong cơ một phức hợp plasmid – polymer sẽ duy trì được mức endostatin lưu thông có thể phát hiện được ở chuột sau 14 ngày xử lý. Một mô hình di căn phổi trên chuột được xử lý sơ bộ bằng việc tiêm plasmid vào cơ, sau một tuần tiêm lại đã làm giảm đáng kể các hạch u phổi. Những kết quả của nghiên cứu này đã chứng minh tính khả thi của việc tiêm lặp lại các phức hợp plasmid nhằm cảm ứng vừa phải sự ức chế tăng trưởng của khối u mà không làm phát triển các ĐUMD đối với vec tơ. Vì không có ĐUMD lại an toàn và pha chế tương đối dễ dàng nên phức hợp plasmid – polymer dùng cho việc chuyển giao là những đặc tính hấp dẫn của hệ thống này.

Tiêm cục bộ các vec tơ plasmid – polymer biểu hiện angiostatin hoặc endostatin sẽ làm giảm sự tăng trưởng khối u lần lượt là 36 và 49%, sau 3 lần tiêm trong khối u trong mô hình ung thư vú.

Trong một công trình được tiến hành song song, phức hợp plasmid – polymer biểu hiện endostatin được phân phối toàn hệ thống qua tĩnh mạch đã làm giảm kích cỡ khối u 40% so với đối chứng.

Trong mô hình ung thư vú ở chuột chuyển gen, các gen ung thư HER/neu được điều khiển bởi promoter virus khối u vú của chuột (murine mammary tumor virus – MMTV), một vec tơ plasmid-lisosom biểu hiện angiostatin được tiêm vào tuyến vú chuột trước khi phát hiện có các khối u hình thành. Chuột được nhận gen angiostatin đã giảm đáng kể cả về số lượng và kích cỡ khối u so với đối chứng. Không còn các di căn phổi trong các chuột đã được xử lý, điều đó chứng tỏ rằng có cả hiệu ứng hệ thống và hiệu ứng cục bộ trong trị liệu kháng tạo mạch.

Cấy ghép các tế bào thâm chuyển ex vivo có các plasmid mang DNA bổ cứu của angiostatin hoặc endostatin đã làm ức chế sự tăng trưởng khối u một cách cục bộ cũng như hệ thống. Thâm chuyển một khối u ác tính của mô liên kết có nguồn gốc từ nguyên bào sợi (sarcoma sợi) T241 của chuột tạo mạch cao với angiostatin đã kiềm chế sự tăng trưởng khối u nguyên phát và có thể ức chế sự phát triển của các di căn nhỏ ở phổi chuột. Khi tiêm dưới da các tế bào thận chuột hamster sơ sinh đã được thâm chuyển với andostatin ở dạng vi đóng gói là các hạt alginat – poly – L- lysin đã làm ức chế sự tăng trưởng của u nguyên bào đệm người ở mô hình chuột nude. Khi tiêm dưới da đơn 2×105 tế bào công nghệ hóa đã tiết ra liên tục endostatin và ức chế tăng trưởng khối u tới 62% trên 3 tuần.

Trong mô hình ung thư não, plasmid của endostatin đã đóng gói thâm chuyển 293 tế bào được cấy vào não đã làm giảm sự hình thành các mạch máu của khối u, tăng sống sót của động vật tới 85%. Các tế bào cấy ghép có thể biến đổi và tiết ra endostatin trong 4 tháng. Sự biểu hiện dài hạn và phát triển ĐUMD kháng lại các TB được đóng gói ở mức cực tiểu là các đặc tính hấp dẫn đối với các tiến trình gen trị liệu kháng sự tạo mạch.

Các tế bào gốc hay các tế bào tiền thân nội mô đã được chỉ rõ là rất quan trọng trong sự tân huyết quản hóa khối u. Có khả năng những TB tải nạp với các gen kháng sự tạo mạch này là các phương tiện chuyển giao quan trọng, nó có thể được tiêm vào toàn hệ thống, nhưng tốt nhất là tới những vùng có tăng trưởng khối u. Trị liệu tế bào theo kiểu này có thể được thực hành với các tế bào tiền thân nội mô tự thân được phân lập từ tủy xương của bệnh nhân hoặc trực tiếp từ máu.

Bảng 11.1. Những ví dụ về gen trị liệu kháng tạo mạch ở các mô hình ung thư loài gặm nhấm

Vec tơ                                                                        Gen

 

Plasmid                                                                     Endoststin

Angiostatin

Các TB thâm chuyển bởi plasmid                      Endoststin, angioststin Endostatin Throbospondin

Tế bào gốc tiền thân nội mô                               VEGFR2 (Flk-1) hòa tan

Adenovirus                                                               Angiostatin

IL-12

Endostatin

VEGFR1 (Flt-1) hòa tan VEGFR2 (Flk-1) hòa tan TIE- 2

TIMP

Virus adeno liên hợp                                            VEGF antisense Angiostatin

VEGFR1 (Flt—1) hòa tan

Lentivirus/các tế bào gốc                                      (Tie2/Tek promoter/thymidine kinase Virus gây bệnh bạch cầu chuột Moloney                                                                  Endostatin, angiostatin

Yếu tố tiểu cầu 4 (PF4) Flk-1 âm tính ưu thế

Một cách tiếp cận ex vivo khác đã sử dụng những “nhà máy” tế bào trên giàn cấy ghép. Những cấy ghép trong màng bụng các phiến polyglycolic acid dễ phân hủy được gieo với các nguyên bào sợi NIH3T3 có retrovirus biểu hiện throbospondin-2 đã chứng minh có sự ức chế tạo mạch và tăng trưởng khối u trong ung thư tế bào vảy, u hắc sắc tố và các mô hình ghép ex vivo các TB thâm chuyển trong các nghiên cứu trên người nhằm ức chế tân huyết quản hóa khối u. Điều này còn phụ thuộc vào việc phát hiện các tế bào thích hợp để có thể cấy ghép an toàn vào trong vật chủ.

Một chiến lược đích mới sử dụng các hạt nano cũng đã được báo cáo. Hood và cộng sự đã phát triển hạt nano cationic gắn với ligand hữu cơ phân tử nhỏ nhắm tới integrin αv β3 của nội mô tạo mạch. Chuyển giao qua tĩnh mạch αv β3 ligand –NP cộng hợp với phân tử truyền tín hiệu Raf đột biến không có khả năng gắn với adenosin triphosphat đã làm ngăn chặn con đường tín hiệu nội mô và sự tạo mạch, dẫn đến apoptosis các tế bào nội mô có liên quan khối u và cảm ứng sự thu nhỏ của các khối u tiên phát cũng như các khối u đã di căn. Sử dụng các hạt nano cũng có thể cho những lợi thế vượt trội các vec tơ virus bởi vì chúng không sinh miễn dịch và có thể áp dụng lặp lại với các liệu trình điều trị kéo dài dai dẳng các khối u và các di căn.

Các phương thức ức chế bởi gen trị liệu kháng tạo mạch trực tiếp

Hình 11.2. Các phương thức ức chế bởi gen trị liệu kháng tạo mạch trực tiếp. Gen trị liệu kháng sự tạo mạch nhắm tới các tế bào nội mô khối u đang hoạt động. Các vec tơ có thể được tiêm trực tiếp vào khối u hoặc chuyển giao toàn hệ thống qua hệ tuần hoàn. Các tế bào tiền thân nội mô tải nạp ex vivo được tiêm tĩnh mạch sẽ tới các vị trí tạo mạch, tạo nên việc sản xuất cục bộ các chất ức chế tạo mạch. Sự ức chế tăng trưởng mạch mới được hoàn tất với việc các gen chuyển biểu hiện được các chất ức chế tế bào nội mô, ngăn chặn các yếu tố tăng trưởng nội mô tiền tạo mạch và làm trở ngại sự phân giải chất ngoại gian bào.

(Theo Steve Gyorffy, Jack Gauldie, A. Keith Stewart và Xiao-Yan Wen. (2005) Cancer Gene Therapy. Human Press. Totowwa, New Jersey)

Chuyển giao các chất ức chế tạo mạch bởi các adenovirus

Các vec tơ adenovirus thế hệ đầu tiên khiếm khuyết sao chép đã được sử dụng chủ yếu trong các nghiên cứu gen trị liệu kháng tạo mạch. Những vec tơ này có rất nhiều lợi thế cho gen trị liệu như khả năng thâm nhiễm được các tế bào đang sao chép cũng như không sao chép, biểu hiện gen nhất thời cao, không gắn với các nguy cơ cho người và có khả năng sản xuất được virus độ chuẩn cao. Tuy nhiên, việc áp dụng các vec tơ này vẫn bị hạn chế vì túc chủ phát triển các ĐUMD thể dịch và tế bào ngay sau khi tiếp nhận vec tơ lần đầu tiên.

Một vec tơ adenovirus typ 5 biểu hiện angiostatin chuột (Ad-angiostatin) đã được mô tả. Vec tơ này được chỉ rõ là in vitro có hiệu ứng ức chế tăng trưởng các tế bào nội mô nuôi cấy và tân huyết quản hóa trong mô hình matrigel tạo mạch được điều khiển bởi bFGF. Bổ sung thêm 109  pfu virus đã tạo được apoptosis cho các tế

bào nội mô đang di cư trong nút matrigel (matrigel lug) 1 tuần sau cấy ghép dưới da. Trong mô hình ung thư vú di căn phổi đã làm giảm đáng kể những gánh nặng về khối u và làm chậm lại sự xuất hiện của các hạch khối u có thể nhìn thấy được. Sự biểu hiện quá mức cục bộ 5-10 ngày nhờ việc tiêm trực tiếp Ad-angiostatin vào chuột chuyển gen mang khối u vú do cấy ghép gen chuyển đã làm chậm lại sự tăng trưởng khối u và tăng sự sống sót của chuột đã được xử lý 3 tuần so với các đối chứng. Mật độ vi mạch máu xác định được bằng nhuộm CD31 thấy giảm đáng kể, trong khi đó hoại tử và apoptosis lại tăng lên trong các khối u đã được xử lý với angiostatin.

Những kết quả tương tự cũng phát hiện thấy khi sử dụng cytokin kháng tạo mạch tiềm năng interleukin -12 (IL-12) biểu hiện cục bộ tại khối u. Động học của sự tăng trưởng khối u trong 2 tuần khởi đầu tương tự như các khối u được xử lý với Ad- angiostatin hoặc Ad-IL-12. Không giống như chuột được xử lý với angiostatin, có ít phần trăm chuột xử lý với IL-12 tiếp tục thoái lui hoàn toàn khối khu. Những sự thoái lui này là nhờ khả năng kích thích miễn dịch của cytokin mà tạo nên ĐUMD đặc hiệu tế bào T. Những kết quả từ các mô hình ung thư vú tiên phát và di căn đã chứng minh rằng mặc dầu sự biểu hiện của angiostatin có thể làm chậm đi sự tăng trưởng khối u, nhưng nó chưa đủ để cảm ứng thoái lui hoàn toàn khối u đã được thiết lập. Tổ hợp angiostatin với IL-12 sẽ làm giảm tiềm năng hơn mật độ các vi mạch máu và ức chế sự tăng trưởng khối u. Những chuột được xử lý với trị liệu tổ hợp này đã tăng đáng kể tổi thọ và nói chung có thoái lui khối u.

Những chuột được xử lý với Ad-angiostatin được phân phối qua mũi hoặc trong màng bụng hay đưa thẳng vào khối u đều tăng trọng tới 30%. Tác dụng phụ này xảy ra trong vòng 2 tuần khi phân phối vec tơ cho cả chuột cái FVB và chuột C57Bl/6. Kiểm tra những chuột này thấy có suy giảm chức năng buồng trứng và giảm mức estradiol và progesteron giống như sự khởi đầu của thời kỳ mãn kinh.

Những dẫn liệu này đã khẳng định chắc chắn rằng các angiostatin lưu thông ở mức cao có tác động tới sự tạo mạch sinh lý học bình thường của hệ sinh sản của nữ giới. Những kết quả này chỉ rõ rằng việc theo dõi cẩn thận các bệnh nhân nữ đang ở tuối sinh đẻ mà lại tiến hành gen trị liệu kháng tạo mạch là một đòi hỏi cần thiết.

Nhiều nhóm nghiên cứu đã báo cáo về hiệu lực chuyển gen endostatin của adenovirus trong nhiều mô hình khối u. Những kết quả của Wen và cộng sự chỉ rõ việc phân phối toàn hệ thống vec tơ qua tĩnh mạch sẽ có protein endostatin lưu thông ở mức cao trên 2 tháng trong chuột 129/J. Trái lại, chuột Balb/c khi nhận một lượng vec tơ giống hệt lại có mức endostatin thấp hơn nhiều và chỉ biểu hiện trong thời gian ngắn. Trong mô hình u phổi di căn, khi phân phối vec tơ toàn hệ thống đã làm giảm đáng kể di căn EOMA so với chuột được xử lý với vec tơ đối chứng. Tuy nhiên, không thấy giảm tăng trưởng u sắc tố đã di căn ở B18 khi sử dụng liều virus tương tự như ở chuột C57Bl/6.

Trong mô hình di căn gan từ trực kết tràng, gen trị liệu endostatin adenovirus đã bảo vệ 25% chuột không phát triển các tổn thương di căn. Nghiên cứu này đã tận dụng tính hướng gan của vec tơ adenovirus nhằm tạo nên một môi trường tạo mạch nghèo nàn cho việc phát triển các di căn kết tràng. Phân phối trước các vec tơ adenovirus cũng có hiệu ứng ức chế phát triển khối u trong mô hình ung thư vú ở chuột chuyển gen. Sự tạo mạch thông qua việc phân phối toàn hệ thống vec tơ có thể làm chậm lại sự chuyển đổi từ tổn thương vú xâm lấn tới ung thư xâm lấn.

Gen trị liệu adenovirus sử dụng receptor kháng chủ vận nhắm vào các yếu tố tăng trưởng tạo mạch đã được báo cáo là có hiệu quả. Các vec tơ biểu hiện các receptor hòa tan của VEGF đã chứng minh là những kết quả hứa hẹn trong các mô hình động vật. Tiêm trong cơ vec tơ sản xuất VEGFR1 hòa tan (Flt-1 [ Fms-like tyrosine kinase) hòa với phần Fc của IgG có thể ức chế sự tăng trưởng khối u phổi tiết VEGF ở mức cao. Các kháng chủ vận VEGF lưu thông có thể phát hiện được trong 21 ngày và không phát hiện thấy độc tố tế bào nào đối với động vật. Flt-1 dạng hòa tan cũng có hiệu ứng làm giảm sự tăng trưởng của u nguyên bào sợi T241 và LLC khi tiêm vec tơ qua đường tĩnh mạch. Báo cáo này cũng chứng minh được hiệu quả của vec tơ adeno sản xuất ra VEGFR2 hòa tan (Flk-Fc [ fatal liver kinase- Fc]) để ức chế sự tăng trưởng khối u đại tràng trong chuột SCID.

Những kết quả này đã chứng minh hiệu quả của receptor VEGF trong việc ức chế tăng trưởng các dạng khối u khác nhau. Tuy nhiên, vẫn chưa giải thích được độc tính gây nên bệnh cổ trướng sau khi sử dụng vec tơ Flt-1.

Adenovirus biểu hiện Tie 2 hòa tan đã ức chế sự tăng trưởng của các khối u tiên phát và đã di căn. Lin và cộng sự đã chứng minh rằng khi chuyển giao toàn hệ thống thì vec tơ này tác động với phương thức bắt chước tác động của angiopoietin 2, bao gồm sự tan dã mạch máu dẫn đến việc thu nhỏ các mạch máu của khối u.

Người ta đã nghiên cứu việc chuyển giao các chất ức chế mô metalloproteinase (tissue inhibitor of metalloproteinase- TIMP) – kháng chủ vận tự nhiên của MMP đối với việc ức chế xâm lấn và sự tạo mạch của tế bào khối u. Các vec tơ biểu hiện TIMP1 hoặc TIMP2 đã ức chế sự xâm lấn của khối u đối với các tế bào ung thư trong tụy tạng ở chuột khi adenovirus được phân phối sớm vào các khối u đang phát triển. Tiêm trực tiếp một vec tơ biểu hiện Ad-TIMP2 sẽ rất hiệu lực đối với việc ức chế tăng trưởng LLC sơ cấp cũng như làm giảm số lượng di căn phổi.

Giảm đáng kể mật độ vi mạch máu cũng quan sát thấy nhờ nhuộm WF. Tuy nhiên, ích lợi về thời gian sống sót nói chung chỉ là 12 ngày so với các động vật đối chứng.

Những nhược điểm của sự chuyển gen adenovirus hiện nay nhằm ức chế sự tạo mạch đã được loại bớt đi rất nhiều ở vec tơ thế hệ thứ 3 – đó là các adenovirus “phụ thuộc helper”. Park và cộng sự đã phát triển hệ thống vec tơ adenovirus phụ thuộc helper với việc loại bỏ toàn bộ các trình tự mã hóa của virus. Những vec tơ này sau này có thể được sử dụng để chuyên chở tới 33,6 kb DNA ngoại sinh. Tuy nhiên, vì những vec tơ này không biểu hiện protein virus nên đã làm giảm rất nhiều ĐUMD đối với túc chủ, dẫn đến biểu hiện kéo dài các gen chuyển, đó thật sự là lý tưởng đối với trị liệu kháng tạo mạch. Tuy nhiên, những ưu điểm của hệ thống này vẫn chưa được vận dụng trong bất cứ nghiên cứu tạo mạch nào in vitro cũng như in vivo.

Chuyển gen kháng tạo mạch bởi virus adeno liên hợp

Các virus adeno liên hợp tái tổ hợp (recombinant adeno-asociated virus –rAA) là các vec tơ khiếm khuyết sao chép, không gây bệnh thuộc nhóm parvovirus của người. Những vec tơ này có tiềm năng to lớn đối với gen trị liệu ung thư bởi vì chúng có thể tải nạp được cả những tế bào đang phân chia và không phân chia, tính sinh miễn dịch kém hơn các vec tơ khác và có thể hợp nhất được vào hệ gen của túc chủ, cho phép biểu hiện dài hạn các gen chuyển. Tuy nhiên, cũng như những hệ thống vec tơ tích hợp khác, những quan ngại về đột biến ghép tiềm tàng có thể làm hạn chế các ứng dụng của chúng.

Có vài bài báo về việc sử dụng những vec tơ này để chuyển giao các gen kháng tạo mạch trong trị liệu ung thư. Nguyen và cộng sự đã phát triển các vec tơ rAAV chứa các gen angiostatin, endostatin và mRNA antisense VEGF. Nghiên cứu này đã chứng minh được khả năng sản xuất các protein endostatin và angiostatin hoạt hóa và khả năng ức chế sản xuất VEGF từ các TB khối u nuôi cấy. Tuy nhiên, nghiên cứu này vẫn chưa mở rộng được tới các mô hình động vật.

Ma và cộng tác đã xử lý thành công các mô hình khối u não chuột khi tiêm vào hộp sọ hay trong cơ rAAV biểu hiện angiostatin.Thâm chuyển ổn định các tế bào u thần kinh đệm C6 với rAAV-angiostatin sau đó cho ghép nội sọ, kết quả là ức chế đáng kể sự tăng trưởng khối u. Các khối u đạt thể tích tối đa 2 tuần sau cấy ghép, nhưng lại thu hẹp lại đáng kể sau 5 tuần. Trái lại, các TB khối u tải nạp đối chứng thì đạt thể tích nguy hiểm tối đa trong vòng 3 tuần. Những sự thoái lui tương tự cũng quan sát được khi tiêm trực tiếp vec tơ vào các khối u não đã có từ trước. Khả năng sống sót cũng tăng đáng kể, 40% chuột được xử lý có sự phân bố mạch nhỏ và thưa thớt tại các khối u trong 6 tháng. Khả năng sống sót đã tăng tới 55% khi tiêm đồng thời với gen tự sát RSVtk. Độc tính liên quan tới việc xử lý tiếp theo với ganciclovir làm hạn chế khả năng sống sót cũng cao hơn. Trong một nghiên cứu tiếp theo, người ta tiêm đơn rAAV-angiostatin vào cơ chân chuột nude đã làm ức chế sự sinh huyết quản của khối u và làm tăng trưởng các tế bào U87 nội sọ. Mức angiostatin lưu thông cao đã làm tăng thời gian sống sót của nhóm điều trị, 40% chuột sống sót trên 10 tháng.

Biểu hiện dài hạn là lợi ích chính của các vec tơ rAAV. Khi tiêm vào tĩnh mạch cửa một vec tơ sản xuất Flk-1 hòa tan đã chứng minh được sự biểu hiện của protein từ gan trên 6 tháng. Điều này đã chỉ rõ có hiệu ứng trong việc làm giảm mật độ mạch máu của khối u cũng như kích cỡ khối u dưới da SK-NEP-1 trong các mô hình trên chuột.

Ức chế tân huyết quản hóa khối u bởi retrovirus

Gen trị liệu trung gian retrovirus đã được nhiều nhóm nghiên cứu sử dụng để chuyển giao các chất ức chế tạo mạch biểu hiện dài hạn trong các mô hình khối u. Đa số các nghiên cứu này đều sử dụng retrooncovirus bệnh bạch cầu chuột Moloney (Molooney murine leukemia – MmuLv). Các vec tơ lentivirus thế hệ thứ 3 khiếm khuyết sao chép dựa trên nền tảng virus gây thiếu hụt miễn dịch trên người đã được phát triển cho các ứng dụng kháng tạo mạch. Đây là một cố gắng để vượt qua các hạn chế về khả năng của các vec tơ MMuLv nhằm thâm nhiễm chỉ với các TB đang phân chia.

Chuyển giao tổ hợp angiostatin và endostatin bởi retrovirus đã chỉ rõ là có tác động đồng vận trong các mô hình trị liệu u sắc tố và bệnh bạch cầu. Chuột được cấy ghép các tế bào bệnh bạch cầu L1210 được tải nạp bởi MMuLv biểu hiện cả 2 chất ức chế tạo mạch, khả năng sống sót không u nói chung là 40%, trong khi đó lại không thấy các lợi thế sống sót đối với các nhóm TB chỉ tải nạp với angiostatin hoặc endostatin.

Các vec tơ retrovirus cũng được sử dụng trong các mô hình u thần kinh đệm loài gặm nhấm để chuyển giao yếu tố tiểu cầu 4 (PF4) và một Flk-1 âm tính trội (dominant negative Flk-1). Tanaka và cộng tác đã chứng minh rằng: 14 ngày sau cấy ghép các tế bào thần kinh đệm RT2 tải nạp với PF4 thì các khối u tạo ra vẫn còn nhỏ và giảm sự phân bố mạch máu. Trái lại các khối u đối chứng thì tăng cường huyết quản hóa và lớn hơn khá nhiều. Trong một nghiên cứu về u thần kinh đệm GS-9L của chuột, các TB tải nạp với Flk-1 âm tính trội, thiếu domain báo hiệu nội bào có thể ức chế được tăng trưởng khối u khi được tiêm vào não. Không thấy có sự thu nhỏ đáng kể khối u xảy ra khi dich nổi (supeRNAtant) có chứa virus được tiêm vào các khối u đã có từ trước, điều đó chứng tỏ hiệu ứng tải nạp của các vec tơ retrovirus in vivo còn rất nghèo nàn.

Mặc dù các nghiên cứu về retrovirus này là rất quan trọng trong việc chứng minh những hiệu ứng có lợi của việc biểu hiện chất ức chế tạo mạch dài hạn, tuy nhiên những áp dụng thực tế trong điều trị các khối u của người thì vẫn còn hạn chế.

KẾT LUẬN

Những nghiên cứu về sự tạo mạch là một lĩnh vực chỉ mới được thiết lập 30 năm nay. Trong thời kỳ này người ta đã chứng minh rõ rằng trong ung thư thì các khối u “hiếu chiến” đòi hỏi các mạch máu phải được phát triển để có thể di căn hóa sang các điểm xa hơn trong cơ thể. Điểm nổi bật ở thập kỷ trước là nhiều chất ức chế tạo mạch là các protein nội sinh hay các mảnh protein đã được phát hiện trong cơ thể. Hiện nay các TNLS đang khảo sát độ an toàn và hiệu lực của các chất ức chế này. Những protein tái tổ hợp này có những đặc tính rất đặc biệt và nhiều trở ngại đã được vượt qua trong việc tìm hiểu các cơ chế tác động, liều lượng sử dụng và các hiệu ứng sinh học trong lâm sàng.

Đã có bằng chứng cho thấy nhiều chất ức chế protein này có cấu trúc phức tạp và rất khó sản xuất với số lượng lớn để có thể sử dụng cho các bệnh nhân ung thư. Hy vọng rằng gen trị liệu sẽ làm giảm nhẹ các nhược điểm này bằng cách làm cho bệnh nhân có thể tạo được các chất ức chế một cách trực tiếp bằng chính các tế bào của mình.

Đối với các áp dụng khác của gen trị liệu ung thư thì trở ngại chính trong cách tiếp cận kháng tạo mạch là việc phát triển các vec tơ an toàn và thích hợp. Vec tơ gen trị liệu tối ưu cho trị liệu tạo mạch phải chuyển giao được một cách chắc chắn các gen chuyển trong nhiều giai đoạn. Hơn nữa, vec tơ phải an toàn và tính sinh miễn dịch thấp mới cho phép áp dụng được nhiều lần vì các bệnh nhân ung thư rất có thể phải duy trì các chất ức chế này trong nhiều tháng thì mới thiết lập được sự thoái lui bệnh tột bậc và ổn định. Sau chót là, vec tơ thích hợp được sử dụng có thể còn phụ thuộc vào các dạng ung thư và các đặc tính sinh học của gen chuyển kháng tạo mạch. Tuy vậy, cũng chẳng phải nghi ngờ gì nữa gen trị liệu kháng tạo mạch sẽ là một phương pháp điều trị có ý nghĩa đối với ung thư trong một tương lai gần.

Địa cốt bì

Địa cốt bì
Địa cốt bì

ĐỊA CỐT BÌ

Tên Việt Nam:

Khô kỷ, Khổ di, Kỷ căn, Khước thử, Địa tinh, Cẩu kế, Địa tiết, Địa tiên, Tiên trượng, Tiên nhân tượng, Khước lão căn, Tử kim bì, Địa cốt quan, Phục trần chiên, Tây vương mẫu trượng, Kim sơn gìa căn (Hòa Hán Dược Khảo), Tính cốt bì (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

Tên khoa học: Cortex lycci Sinensis. Họ khoa học: Solanaceae.

Mô tả:

Địa cốt bì là vỏ rễ của cây Câu kỷ (Lycium sinense Mill) thuộc họ Solanaceae. (Xem: Câu kỷ tử).

Phân biệt:

Ở một số nơi trong nước ta, cũng như ở Trung Quốc, người ta dùng vỏ rễ của cây Đại thanh (Isatis tinctoria L.,) hoặc vỏ của cây rễ Bọ mẩy (Clerodendron Cyrtophyllum Turcz) (Xem: Bản lam căn) để làm thay thế cho vị Địa cốt bì. Cần phân biệt chú ý để khỏi nhầm lẫn.

Mô tả dược liệu:

Địa cốt bì có vỏ cuộn hình lòng máng hay hình ống, hoặc hai lần hình ống. Mặt ngoài màu vàng đất hay vàng nâu, có những đường nứt dọc ngang, có lớp bần dễ bong. Mặt trong màu trắng hay vàng xám có nhiều đường vân dọc, đôi khi còn sót một ít gỗ. Chất nhẹ, giòn, dễ bẻ. Mặt bẻ lởm chởm. Mặt cắt ngang, có lớp bần phía ngoài, libe phía trong màu trắng xám. Mùi thơm hơi hắc, vị lúc đầu hơi ngọt, sau hơi đắng. Loại phiến lớn không có lõi là tốt. Vỏ to dầy, sắc vàng lại có đốm trắng nhiều lõi là loại xấu.

Trong khi đó vỏ rễ của cây Bọ mẩy có vỏ cuộn tròn hình lòng máng hay cuộn hình ống. Mặt ngoài màu vàng nâu đến lục xám, sần sùi, mặt trong màu vàng nâu, có nhiều đường vân dọc, hơi sần sùi. Chất giòn; dễ bẻ. Mặt bẻ thô. Mặt cắt ngang có lớp bầm mỏng, mô mềm vỏ lổn nhổn như có sạn. Không mùi, vị hơi chát, khi nhấm như có sạn.

Thu hái, sơ chế:

Đào được rễ, rửa sạch, rút bỏ lõi. Thu hái vào trước đầu mùa xuân hoặc cuối mùa thu.

Phần dùng làm thuốc:

Vỏ rễ.

Bào chế

  • Sau khi cắt thành từng đoạn ngắn bằng nhau, sắc nước Cam thảo ngâm một đêm rồi vớt ra sấy khô (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Luận).
  • Chọn vỏ không còn lỏi, rửa sạch, xắc nhỏ phơi khô dùng sống, có khi tẩm rượu sấy qua (Trung Dược Học).

Tính vị:

Vị ngọt, Tính lạnh.

Quy kinh:

Vào kinh Phế, Can Thận, Tam tiêu.

Tác dụng:

Thanh nhiệt, lương huyết (chuyên chữa nóng trong xương), đồng thời có tác dụng sinh tân, chỉ khát.

Chủ trị:

+ Trị sốt về chiều do âm hư, sốt lâu ngày không lui.

Liều lượng:

  • 5 chỉ.

Kiêng kỵ:

Vị này chuyên thanh hư nhiệt hễ bị ngoại cảm phong hàn phát sốt thì cấm dùng. Tỳ Vị hư hàn cấm dùng.

Bảo quản:

Để nơi khô ráo, không nên chất nặng lên sợ dẹp nát.

Đơn thuốc kinh nghiệm:

+ Làm mạnh gân cốt, bổ tinh tủy, sống lâu không gìa : dùng Câu kỷ (rễ), Sinh địa hoàng, Cam cúc hoa, mỗi thứ 1 cân đâm nhuyễn, lấy 1 chén nước lớn sắc lấy nước cốt, lấy nước này mà nấu xôi. Xôi chín xới ra để nguội rải đều cho men rượu vào đợi lên men cho chín cất thành rượu để lắng trong ngày uống 3 chén (Địa Cốt Tửu

  • Thánh Tế Tổng Lục).

+ Trị hư lao, sốt hâm hấp : rễ Câu kỷ tán bột uống với nước sôi, bệnh nhân mãn tính cố tật lâu ngày không nên dùng (Thiên Kim Phương).

+ Trị nóng nảy bức rức, nóng trong xương và các loại nóng nảy bứt rứt do hư lao, nóng nảy bứt rứt sau khi bệnh nặng: Địa cốt bì 2 lượng, Phòng phong 1 lượng, Cam thảo (chích) 5 chỉ. Mỗi lần dùng 5 chỉ sắc với 5 lát gừng tươi uống (Địa Tiên Tán – Tế Sinh Phưong).

+ Trị chứng nhiệt lao người nóng như đốt, dùng Địa cốt bì 2 lượng, Sài hồ 1 lượng tán bột. Mỗi lần uống 2 chỉ với nước sắc Mạnh môn đông (Thánh Tế Tổng Lục).

+ Hư lao đắng miệng khát nước, xương khớp nóng bức rức, hoặc lạnh, dùng Câu kỷ (rễ) loại vỏ trắng cắt ra 5 thăng. Mạch môn đông 3 thăng, Tiểu mạch 2 thăng, nấu cho đến khi chín nhừ, bỏ bã mỗi lần uống một thăng, khi khát thì uống (Thiên Kim Phương).

+ Đau thắt lưng do thận suy dùng Rễ câu tử, Đỗ trọng, Tỳ giải mỗi thứ 1 cân, ngâm với 3 đấu rượu ngon bịt kín, bỏ trong nồi nấu 1 ngày, khi thích thì uống (Thiên Kim Phương).

+ Nôn ra máu không dứt, dùng rễ Câu kỷ (vỏ) tán bột sắc uống hàng ngày (Thánh Tế Tổng Lục).

+ Trị tiểu ra máu: Địa cốt bì mới rửa sạch, gĩa nát lấy nước, sắc, mỗi lần uống 1 chén, hoặc bỏ vào một tý rượu uống nóng trước khi ăn (Giản Tiện Phương).

+ Trị bạch đới, mạch chạy Sác, dùng 1 cân rễ Câu kỷ, Sinh địa hoàng 5 cân, 1 đấu rượu. Sắc còn 5 thăng uống hằng ngày (Thiên Kim Phương).

+ Dịch sưng đỏ mắt, sưng húp dùng Địa cốt bì 3 cân, 3 đấu nước sắc còn 3 thăng, bỏ bã, bỏ vào 1 lượng muối sắc còn 2 thăng đem rửa mắt ( Thiên Trúc Kinh Phương).

+ Sâu nhức răng, dùng Rễ câu kỷ loại vỏ trắng sắc với dấm súc ngậm hoặc sắc với nước uống cũng được (Trửu hậu phương).

  • Miệng lưỡi lở láy, dùng Địa cốt bì thang trị bàng quang di nhiệt xuống tiểu trường, ở trên làm cho miệng lở loét, tâm nhiệt vị uất, cơm nước ăn không xuống, dùng Sài hồ, Địa cốt bì mỗi thứ 3 chỉ, sắc uống (Đông viên phương).
  • Trẻ con bị cam ăn ở tai, sau tai là do thận cam, dùng Địa cốt bì sắc lấy nước rửa, hoặc trộn với dầu Mè xức vào (Cao văn Hổ, Liêu châu nhàn lục phương).
  • “Ứng hiệu tán” còn gọi là “Thác lý tán”, trị rò, cam sang, lâu năm không dứt, dùng Địa cốt bì mùa đông tán bột, mỗi lần dùng lấy giấy cuộn lại chấm thuốc bỏ vào lỗ rò hoặc nơi lở nhiều lần thì tự nhiên sinh thịt mới, rồi lại lấy thuốc bột này uống với nước cơm lần 2 chỉ, ngày uống 3 lần (Ngoại khoa tinh nghĩa phương).
  • Đàn ông bị dương vật sưng loét ngứa đầu, máu mủ cứ chảy nước bẩn Trước hết lấy nước tương rửa sạch, sau đó lấy bột Địa cốt bì có tác dụng sinh cơ giảm đau (Vệ sinh bửu giám phương).
  • Phụ nữ âm hộ lở láy, rễ Câu kỷ sắc rửa nhiều lần (Vĩnh loại kiềm phương).
  • Trị 13 loại đinh nhọt, 3 ngày thượng kiến mùa xuân thu hái lá gọi là “Thiên tinh”, 3 ngày thượng kiến mùa hè thu hái nhánh gọi là “Câu kỷ”, 3 ngày thượng kiến mùa thu, thu hái quả gọi là “Khước lão”, 3 ngày thượng kiến mùa đông thu hái rễ gọi là “Địa cốt”. Phơi khô tán bột, nếu không theo như thế để trọn lựa thu hái có thể dùng 1 loại cũng được. Ngưu hoàng lớn bằng hạt ngô đồng lớn, Câu cức châm 7 quả, Xích tiểu đậu 7 hạ Tán bột làm bánh trộn bột Câu kỷ uống với rượu lúc đói ngày 2 lần (Thiên kim phương).
  • Ung nhọt lở dữ tợn, máu mủ chảy ra không dứt; lấy Địa cốt bì nhiều ít tùy ý rửa sạch cạo bỏ vỏ thô lấy vỏ mịn trắng ở trong, lấy vỏ thô sắc lấy nước rửa làm cho sạch máu mủ xong lấy vỏ mịn trắng dán đắp lên đó rất có hiệu quả. Trước đây có vị quan trọng triều ở giữa bụng vá nách bị nhọt đã lâu năm, lấy Địa cốt bì sắc rửa thì ra máu 1-2 thăng, người nhà sợ muốn bỏ không rửa nữa, ông nói mặc dù ra máu nhưng thấy dễ chịu và rửa tiếp chừng 5 thăng thì thấy máu nhạt dần rồi thôi, xong lấy vỏ mịn trắng đắp lên, ngày sau khô đóng vẩy rồi lành (Đường thận Vi, Bản sự phương).
  • Trị “tiếu thư” ra mồ hôi, ở tay chân, vai, lưng mọc mụn lấm tấm như hạt đậu đỏ, dùng rễ cây Câu kỷ, Qùy căn diệp sắc lấy nước thật đặc quẹo như Mạch nha uống (Thiên kim phương).
  • Chai chân, chai ngón chân đau lở dùng Địa cốt bì, Hồng hoa tán bột xức vào, nhiều ngày thì lành (Khuê cát sự nghi phương).

Đơn thuốc kinh nghiệm hiện nay:

  • Lương huyết thối nhiệt âm ỉ:

Dùng trong trường hợp âm hư huyết nhiệt nóng âm ỉ trong xương, sốt buổi chiều, ra mồ hôi trộm, tự ra mồ hôi.

  • “Địa cốt bì thang”, gồm: Địa cốt 3 chỉ, Miết giáp 3 chỉ, Tri mẫu 3 chỉ, Ngân sào hồ 4 chỉ, Tần cửu 3 chỉ. Sắc uố Trị lao phổi trong xương nóng âm ỉ, ra mồ hôi trộm.
  • Địa cốt bì tươi và lá, thân mỗi thứ 5 chỉ, Thiết thảo quy 5 chỉ Gan heo 2 lượ Sắc uống. Trị trẻ con cam tích hay sốt về chiều.
  • Thanh phế chỉ khát: Dùng trong trường hợp ho do phế nhiệt

“Tả bạch tán”: Dùng địa cốt bì 3 chỉ, Tang bạch bì 3 chỉ, Sinh cam thảo 2 chỉ, Gạo nếp 5 chỉ. Sắc uống trị viêm khí quản, viêm phổi, ho, ôn độ thấp, ho, thở khò khè.

  • Sinh tân chỉ khát: Dùng trong trường hợp bệnh đái đường, khát nước, đái nhiều. Địa cốt bì, Ngọc mễ tu mỗi thứ 1 cân, ngày uống 8 phân sắc uố

Ngoài ra theo báo cáo, dùng Địa cốt bì, rễ cây Dâu (Tang căn) loại rễ cây Ngô đồng, mỗi thứ 4 lượng. Sắc uống trị bệnh huyết áp cao. Đau đầu gia thêm Dã cúc hoa 5 chỉ hoặc Thương nhĩ thảo 8 chỉ sắc uống.

Tham khảo:

  • Vị Đơn bì cùng với Địa cốt bì đều có tác dụng thanh âm và thanh nhiệt ẩn núp trong âm phận, có thể trị lao nhiệt nóng bức rức trong xương. Nhưng, vị Đơn bì lạnh mà vị cay, thích hợp trong chứng không ra mồ hôi, còn vị Địa cốt bì lạnh mà vị ngọt, thích hợp trong trường hợp chứng có mồ hôi (Trung dược giảng nghĩa).
  • Địa cốt bì tán nhỏ hòa bột mì nấu chín ăn, khử được phong ở thận, ích tinh khí (Chân quyền-Dược tính bản thảo Đường).
  • Địa cốt bì khử nóng âm ỉ trong xương, tiêu khát (Mạnh Sằn – Thực liệu bản thảo, Đường).
  • Địa cốt bì chữa được các vết thương do dao búa rất tốt và thần hiệu (Trần Thừa
  • Bản thảo biệt thuyết, Tống).
  • Địa cốt bì giải nóng âm ỉ trong xương và da dẻ nóng, tiêu khát, phong thấp tê, cứng mạch gân xương, mát huyết (Trương nguyên Tố – Trân châu nang, Kim).
  • Địa cốt bì chữa phong tà vô địch ở biểu và chứng lao phổi, nóng trong xương có mồ hôi (Lý Đông Viên – Dụng dược pháp tượng, Nguyên).
  • Địa cốt bì tả thận hỏa, giáng phục hỏa trong phế, khử hỏa trong bào thai, giảm sốt, bổ chính khí (Vương hiếu Cổ – Thang dịch bản thảo, Nguyên).
  • Địa cốt bì chữa thổ huyết vùng thượng cách, sắc nước súc miệng cầm chảy máu răng chữa cốt tào phong (chứng sưng hàm gò má rất khó chữa) (Ngô thoại – Nhật dụng bản thảo, Nguyên).
  • Địa cốt bì khử hư nhiệt ở hạ tiêu can thận (Lý Thời Trân – Bản thảo cương mục, Minh).
  • Địa cốt bì tức là vỏ rễ của cây Câu kỷ, vị ngọt khí hàn. Tuy với Đơn bì cũng là thuốc chữa cốt chưng, nhưng Đơn bì vị cay, chữa được nóng âm ỉ trong xương không ra mồ hôi, còn Địa cốt bì có vị ngọt chữa được chứng âm ỉ trong xương có mồ hôi. Đơn bì lại vốn thuộc loại vào huyết phận, tán ứ, mồ hôi là huyết, không có mồ hôi mà thấy huyết ứ thì mùi cay hàn là thích hợp nhấ Nếu nóng âm ỉ trong xương mà có mồ hôi, dùng Đơn bì cay phát tán, thì quả thật làm cho mồ hôi bị cướp đoạt và mát máu chăng. Nội kinh nói, nhiệt tà ở bên trong, tả bằng vị ngọt tính mát, nó là Địa cốt bì. Theo Địa cốt bì vào phế giảng hỏa, vào thận, mát huyết, mát xương, hễ nội nhiệt mà thấy sốt tiểu nhiệt ở cơ da, bí đại tiểu tiện, ngực sườn đau nhói, hễ ở đầu đau do phong, ở biểu thấy sốt cơn vô định, ở phế thấy tiêu khát, ho không ngừng đều dùng thuốc này để giải. Người đời nay chỉ biết Cầm, Liên để chữa hỏa ở thượng tiêu, biết Bá để chữa hỏa ở hạ tiêu, mà không biết ý nghĩa ngọt nhạt hơi lạnh của Địa cốt bì, cực kỳ bổ âm thoái nhiệt vậy, thường có công hiệu đặc biệt. Lý Đông Viên ghi rằng Địa là âm, Cốt là lý, là bí tiểu, dùng thuốc này vừa chữa nối nhiệt không sinh, lại chữa tà phù du (di động) ở biểu lý, đều khỏi cả, đây là thuốc biểu lý, trên dưới đều chữa, mà ở phần dưới lại càng cần thiết hơn, nhưng tỳ vị hư hàn thì cấm dùng. Khi dùng ngâm nước Cam thảo đề dùng (Hoàng cung Tú – Bản thảo cầu chân, Thanh).
  • Địa cốt bì làm thuốc bổ, giải sốt rét, phát hãn. Dùng địa cốt bì 1 cân xắt mỏng, rượu nhẹ 4 cân, trước tiên dùng 2 cân rượu ngâm 1 ngày, cho vào rổ tre cho khô, còn phần rượu còn lại rưới rửa tiếp, xong đem vào nồi đất nấu cho rượu còn phần nửa, chưng cách thủy cho tan khí thanh cao là được, cứ mỗi lần dùng 2-3 phân.

Nếu dùng để chữa sốt rét mỗi lần dùng 3,5 – 5 phân. Hoặc có phương pháp khác dùng Địa cốt bì nửa lượng, nước chín 10 lượng, cho vào đồ đựng có nắp, ngâm 1 giờ đồng hồ lọc bỏ bã là được, mỗi lần dùng 3chỉ – 1 lượng.

  • Địa cốt bì có vị ngọt tính chìm, mà rất lạnh, chuyên để lui mồ hôi, lao nhiệt nóng trong xương, hỏa phục ở thận và phế, bổ ích khí của can, mát huyết, mát xương, trừ tà khí trong ngũ tạng, tiêu khát, nhiệt ở trung tiêu, cùng trừ nhiệt ở cơ thịt, lợi đại tiểu tiệ Trị nóng trong xương, công ngang với Đơn bì, nhưng Đơn bì giải chứng không ra mồ hôi, so với Tri, Bá đắng và hàn sao bằng Cốt bì ngọt mà hàn, hạ khí của dạ dầy. Sách nói rằng: Ruột trơn thì cấm dùng Câu kỷ tử, hàn lành ở trong thì cấm dùng Địa cốt bì (Hải Thượng Lãn Ông – Dược phẩm vậng yếu, tập Thủy)

Hạt ngô – Bắp ngô và tác dụng chữa bệnh

Cây ngô thân thảo, sống hàng năm, cao 1-1,5m. Lá to, dài rộng, có nhiều lông, hoa đực mọc ở ngọn cây, hoa cái có hình trụ mọc ở nách lá, có nhiều lá bấc, các vòi nhụy hình sợi màu vàng, tạo thành tua vượt khỏi lá bấc (gọi là râu ngô). Quả hình trứng hay nhiều góc xếp sát nhau tạo thành 8-10 dãy dọc. Hạt cứng bóng, có màu sắc thay đổi tùy loại. Quả ngô (hạt ngô) ngoài dùng để ăn và chăn nuôi, còn được dùng làm thuốc chữa bệnh.

Cây ngô thân thảo cao 1-1,5m
Cây ngô thân thảo cao 1-1,5m

Giá trị dinh dưỡng của ngô

Ngô chủ yếu bao gồm carbohydrates, có một lượng nhỏ protein và chất béo.

Carbs

Giống như tất cả các loại hạt ngũ cốc, ngô chủ yếu bao gồm các tinh bột và đường.

Tinh bột là thành phần chính tìm thấy trong bắp, chiếm 28-80% trọng lượng khô. Ngô cũng chứa một lượng đường nhỏ (1-3%)

Ngô chủ yếu bao gồm các tinh bột và đường
Ngô chủ yếu bao gồm các tinh bột và đường

Ngô đường chứa tinh bột đặc biệt thấp (28%) có hàm lượng cao hơn đường (18%), hầu hết trong số đó là sucrose. Mặc dù hàm lượng đường trong ngô đường, không phải là một loại thực phẩm cao glycemic và xếp hạng thấp hoặc trung bình về chỉ số glycemic

Ngô chủ yếu bao gồm các tinh bột và đường, các chỉ số đường huyết thấp, đó đó ngô không gây đột biến lượng đường trong máu quá lớn.

Chất xơ

Một túi bỏng ngô trung bình (112 g) trong rạp chiếu phim có chứa khoảng 16 gam chất xơ. Chiếm 42% và 64% lượng chất xơ tương ứng cung cấp hàng ngày cho nam giới và phụ nữ.

Hàm lượng chất xơ của các loại ngô khác nhau, nhưng nhìn chung chất xơ chiếm khoảng 9-15%. Chất xơ chủ yêu trong ngô là chất xơ không hòa tan, như hemicellulose, cellulose và lignin.

Ngô có khá nhiều chất xơ. Trong thực tế, một túi bỏng ngô có thể chứa một tỷ lệ lớn chất xơ được đáp ứng hàng ngày.

Protein

Ngô là một nguồn phong phú của protein. Tùy thuộc vào giống ngô, nhưng hầu hết các hàm lượng protein trong ngô khoảng 10-15%.

Các protein có nhiều nhất trong ngô được biết đến như zeins, chiếm 44-79% tổng lượng protein. Nhìn chung, chất lượng protein của zeins là nghèo vì nó thiếu một số axit amin thiết yếu, chủ yếu là lysine và tryptophan.

Ngoài vai trò trong dinh dưỡng, zeins được sử dụng trong sản xuất keo dán, mực in, sơn, kẹo và các loại hạt.

Chất lượng protein trong ngô không được đánh giá cao.

Dầu ngô

Hàm lượng chất béo trong ngô rất ít. Tuy nhiên, ngô non một nguyên liệu dồi dào, rất giàu chất béo và được sử dụng để làm cho dầu ngô (bắp), thường được sử dụng để nấu ăn.

Dầu ngô (bắp) tinh chế chủ yếu bao gồm các axit linoleic, một axit béo không bão hòa đa, trong khi không bão hòa đơn và chất béo bão hòa, tạo nên phần còn lại.

Dầu ngô cũng chứa một lượng đáng kể vitamin E, ubiquinone (Q10) và phytosterol, hiệu quả cho việc giảm mức cholesterol.

Tuy nhiên, vẫn còn có một số mối quan tâm với các loại dầu hạt tinh chế như dầu ngô. Ngô là tốt, nhưng dầu ngô không được khuyến cáo.

Ngô là tương đối thấp trong chất béo. Tuy nhiên, dầu ngô thường được chế biến từ ngô non.

Vitamin và khoáng chất

Bỏng ngô:

  • Mangan: Một yếu tố vi lượng thiết yếu, được tìm thấy với số lượng cao trong ngũ cốc, đậu, trái cây và rau quả. Mangan là kém hấp thu từ ngô do hàm lượng axit phytic.
  • Phốt pho: Được tìm thấy số lượng nhiều trong cả bỏng ngô và ngô, phốt pho là một khoáng chất đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển và duy trì các mô cơ thể.
  • Magiê: Một chế độ ăn uống với nhiều khoáng chất quan trọng. Tình trạng nghèo magiê có thể làm tăng nguy cơ của nhiều bệnh mãn tính, như bệnh tim.
  • Kẽm: Một nguyên tố vi lượng có nhiều chức năng quan trọng trong cơ thể. Do sự hiện diện của axit phytic trong ngô, khiến kẽm khó được hấp thụ.
  • Đồng: Một yếu tố vi lượng chất chống oxy hóa, nói chung là thấp trong chế độ ăn uống phương Tây. Thiếu đồng có thể có tác động xấu đến sức khỏe tim mạch.

Ngô:

  • Axit pantothenic: Một trong những vitamin B, còn được gọi là vitamin B5. Được tìm thấy ở một mức độ trong gần như tất cả các loại thực phẩm.
  • Folate: Còn được gọi là vitamin B9 hoặc axít folic, folate là một chất dinh dưỡng thiết yếu, đặc biệt quan trọng trong thời kỳ mang thai.
  • Vitamin B6: Thuộc một nhóm của các vitamin, phổ biến nhất trong số đó là pyridoxine. Nó phục vụ các chức năng khác nhau trong cơ thể.
  • Niacin: Còn được gọi là vitamin B3, niacin trong ngô không được hấp thu tốt.
  • Kali: Một chất dinh dưỡng cần thiết, quan trọng để kiểm soát huyết áp và có thể cải thiện sức khỏe tim mạch.
Ngô là một nguồn tốt của nhiều loại vitamin và khoáng chất.
Ngô là một nguồn tốt của nhiều loại vitamin và khoáng chất.

Ngô là một nguồn tốt của nhiều loại vitamin và khoáng chất.

Các hợp chất thực vật khác

Ngô có chứa một số hợp chất thực vật hoạt tính sinh học, một số trong đó có thể đem lại sức khỏe tốt cho con người.

Trong thực tế, ngô có chứa một lượng cao chất chống oxy hóa hơn so với nhiều loại hạt ngũ cốc thông thường khác.

  • Axit ferulic: Một trong những chất chống oxy hóa polyphenol chính trong ngô, trong đó có chứa một lượng cao hơn so với các loại ngũ cốc khác như lúa mì, yến mạch và lúa.
  • Anthocyanins: Các sắc tố chống oxy hóa có trách nhiệm cho màu sắc của ngô.
  • Zeaxanthin: Được đặt theo tên ngô (Zea mays), zeaxanthin là một trong những carotenoid phổ biến nhất được tìm thấy trong hầu hết trong những cây thực vật. Ở người, zeaxanthin được liên kết với cải thiện sức khỏe của mắt.
  • Lutein: Một trong các carotenoid chính trong ngô. Giống như zeaxanthin, lutein được tìm thấy trong mắt người (võng mạc), nơi nó phục vụ như là một chất chống oxy hóa, bảo vệ mắt khỏi bị tổn thương oxy hóa.
  • Axit phytic: Một chất chống oxy hóa có thể làm giảm sự hấp thu các khoáng chất dinh dưỡng, chẳng hạn như kẽm và sắt.

Ngô có chứa một lượng cao chất chống oxy hóa cao hơn so với nhiều loại hạt ngũ cốc khác, Ngoài ra ngô rất giàu carotenoids có lợi cho sức khỏe của mắt.

Theo Đông y, hạt ngô có vị ngọt tính bình. Tác dụng lợi niệu đạo, tiêu thũng, bình can, lợi đàm, chữa viêm thận phù thũng, viêm đường tiết niệu và sỏi, xơ gan cổ chướng, viêm túi mật, sỏi mật, viêm gan, đái tháo đường, huyết áp cao, liều dùng 25-30g.

Bài thuốc hay chữa bệnh từ Ngô:

Bài 1. Thuốc chữa bệnh huyết áp cao

+ Ngô non                              300g

Ngô để cả bẹ, râu rửa sạch cho vào nồi luộc, lấy 200ml nước ngô luộc, chia 3 lần uống trong ngày và ăn hết ngô luộc, cần ăn mỗi ngày một lần, ăn trong nhiều ngày.

Bài 2. Thuốc chữa bệnh viêm túi mật

+ Ngô non (cả bẹ, râu) 100g

+ Nhân trần 30g

+ Cam thảo 10g

Các vị thuốc rửa sạch, cho vào nồi cùng 450ml nước đun sôi kỹ, chắt lấy 180ml nước đặc. Người bệnh uống ngày 3 lần, trước bữa ăn, mỗi lần 60ml nước thuốc, và ăn ngô. cần uống liền 10-15 ngày.

Huyệt Âm Cốc

Âm Cốc

Tên Huyệt Âm Cốc:

Huyệt nằm ở hõm nếp nhượng chân, giống hình cái hang = cốc, lại ở mặt trong chân (mặt phía trong = Âm), vì vậy gọi là Âm Cốc.

Xuất Xứ:

Thiên ‘Bản Du’ (Linh khu.2).

Đặc Tính Huyệt Âm Cốc:

Huyệt thứ 10 của kinh Thận.

Huyệt Hợp, thuộc hành Thuỷ .

Nơi xuất phát kinh Biệt Thận.

Vị Trí

Huyệt Âm Cốc

:

Ngồi thõng chân hoặc hơi co gối để nổi gân lên, huyệt ở đầu trong nếp gấp nhượng chân, sau lồi cầu trong xương chầy, trong khe của gân cơ bán gân (gân chắc, nhỏ) và gân cơ bán mạc (gân mềm, lớn hơn, nằm ở trên).

Giải Phẫu:

Dưới da là khe giữa gân cơ bán gân và gân cơ bán mạc, đầu trên cơ sinh đôi trong, khe khớp nhượng chân.

Thần kinh vận động cơ là các nhánh của dây thần kinh hông và dây thần kinh chầy sau.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh L3.

Tác Dụng

Huyệt Âm Cốc

:

Trừ thấp, thông tiểu, tư Thận, thanh nhiệt, sơ tiết quyết khí, lợi hạ tiêu.

Chủ Trị

Huyệt Âm Cốc

:

Trị khớp gối viêm, mặt trong khớp gối sưng đau, vùng bụng dưới đau, tiểu gắt, tiểu buốt, băng lậu, liệt dương, thoát vị.

Phối Huyệt:

1. Phối Đại Đôn (C.1) + Ủy Dương (Bàng quang.39) + Ủy Trung (Bàng quang.40) trị tiểu khó (Tư Sinh Kinh).

2. Phối Túc Tam Lý (Vị 36) trị hoắc loạn, thổ Tả (Châm Cứu Tụ Anh ).

3. Phối Âm Lăng Tuyền (Tỳ 9) trị tiểu không thông (Châm Cứu Đại Thành).

4. Phối Nhiên Cốc (Th.2) + Phục Lưu (Th.7) trị đờm (Châm Cứu Đại Thành).

5. Phối Bàng Quang Du (Bàng quang.28) + Khí Hải (Nh.6) + Quan Nguyên (Nh.4) + Thái Khê (Th.3) + Thận Du (Bàng quang.23) trị nước tiểu vàng, nước tiểu đỏ (Châm Cứu Đại Thành).

6. Phối Thuỷ Phân (Nh.9) + Túc Tam Lý (Vị 36) có tác dụng lợi tiểu, trị phù (Thái Ất Ca).

7. Phối Khí Hải (Nh.6) + Tam Tiêu Du (Bàng quang.22) + Thận Du (Bàng quang.23) + Ủy Dương (Bàng quang.39) trị tiểu bí do Thận khí bất túc (Tứ Bản Giáo Tài Châm Cứu Học).

Cách châm Cứu

Huyệt Âm Cốc

:

Châm thẳng 1 – 1, 5 thốn. Cứu 3 – 5 tráng, Ôn cứu 5 – 10 phút.

Hãy cảnh giác với bệnh tim bẩm sinh của trẻ

Bệnh tim bẩm sinh của trẻ phát hiện thời kì ban đầu, nếu chữa trị kịp thời, thích đáng, sẽ thu được hiệu quả điều trị tương đối tốt. Các bậc bố mẹ trẻ cần chú ý những trường hợp như sau:

Nếu trẻ khi mới ra đời nhẹ cân, đẻ non, khi đẻ ra ngạt thở, sau khi cấp cứu ra mẹ tròn con vuông, phát hiện sắc mặt đen tím hoặc là nhịp tim có tạp âm, thì phải nghĩ đến khả năng bệnh tim bẩm sinh.

Có trẻ bị bệnh bắt đầu sau khi sinh ra 2 – 3 tháng, phát sinh triệu chứng khó thở, lười ăn, da trắng nhợt ra mồ hôi nhiều, tay chân lạnh, thường xuyên cảm mạo, ho và bị nhiễm đường hô hấp, cũng thường được liệt vào bệnh tim bẩm sinh.

Những trẻ bị bệnh tim bẩm sinh người bầm tím nghiêm trọng. Khi bú, khi ăn, khi khóc hoặc khi đại tiểu tiện thường phát sinh thiếu oxi, khó thở, toàn thân tím bầm nặng thêm, thậm chí xuất hiện co giật mà mất đi tri giác, trẻ bị nặng có thể dẫn đến tử vong. Trường hợp đó thường xảy ra ở trẻ 3 – 4 tháng, đến khoảng 5 tuổi thì bệnh tự khỏi dần cho đến khỏi hẳn. Cần chú ý rằng, trẻ bình thường khi khóc quấy quyết liệt cũng có thể xuất hiện tím bầm, thậm chí co giật, đó gọi là bệnh lên cơn tức khí, không cần điều trị, sẽ tự nhiên khỏi dần.

Trẻ bị bệnh này, thời gian biết bò, biết ngồi cũng muộn hơn trẻ bình thường, thời gian đứng một mình cũng ngắn. Khi ngủ thích nằm nghiêng, đồng thời chân tay đều co theo. Sau khi lớn đến tuổi nhi đồng, khi chạy nhảy hoặc bơi lội, thể lực kém hẳn so bạn cùng tuổi bình thường. Có em sau khi hoạt động cảm thấy mệt mỏi, thích ngồi xuống một lát, rồi lại đứng dậy hoạt động, mà sau khi hoạt động một thời gian lại phải ngồi xuống nghỉ. Thầy thuốc gọi đó là “hiện tượng thích ngồi”. Có những trẻ bị bệnh tim bẩm sinh da thịt bầm tím, khi vừa ra đời lại hoàn toàn không bầm tím, sau khi lớn lên dần dần xuất hiện; Đồng thời ở đầu mút ngón tay và ngón chân đều phình to ra thành dạng dùi trống, gọi là “ngón đầu chầy”.

Về bệnh tim bẩm sinh với lịch sử gia tộc có mối quan hệ nhất định. Thành viên trong gia tộc có ai bị dị dạng bẩm sinh không? Có bị sẩy thai, thai chết lưu hoặc đẻ non? Trong gia đình có ai bị bệnh tim bẩm sinh không? v.v… Ngoài ra còn phải xem tình hình sức khỏe của người mẹ trong thời gian mang thai, như trong thời kì đầu có thai bị chứng mề đay hoặc bị nhiễm các loại virut khác, tình hình dùng thuốc, và đã chiếu chụp X quang? Nếu như đã có những trường hợp nói trên, thì càng phải chú ý đến tình trạng thân thể của trẻ, để kịp thời đưa đến bệnh viện tiếp tục kiểm tra và điều trị thỏa đáng.