Blog Trang 531

Cách làm cơm hấp hoa sen thơm ngon đặc biệt

Sen là một loại thực vật rất phổ biến ở Việt Nam. Từ cây sen, ta có thể sử dụng hoa, hạt. ngó và cả lá cùng được dùng để gói. Các loại thực phẩm tươi sống ở những chợ nhà quê thường được gói trong được những chiếc lá sen chắc chắn, hạt cốm làng vòng cũng thơm ngon hơn nhờ chiếc lá sen. Nếu như món cơm hấp lá sen đã rất quen thuộc trong món ăn Việt Nam và Trung Hoa, thì món cơm hoa sen là một món ăn mới. Món ăn được thực hiện từ nguyên liệu hạt sen trộn đều với cơm bọc trong những cánh sen hồng thơm ngát làm cho đĩa thức ăn càng thêm hấp dẫn.

Cơm hấp lá sen
Cơm hấp hoa sen

Nguyên liệu món ăn

1 lon gạo thơm (khoảng 250g)

100g dừa nạo

100g hạt sen

Hạt sen
Hạt sen

150g tôm sú

100g chả quế

100g xá xíu

100g cà rốt

Gia vị: muối, tiêu, đường

Tỏi băm

2 hoa sen dùng trang trí

Cách làm

Vắt dừa nạo lấy khoảng 1 tô nước cốt. Nấu cơm với nước cốt dừa. Khi cơm chín xới ra, để nguội cho ráo hạt.

Luộc hạt sen cho chín mềm, để nguội. Chừa lại khoảng 10 hạt sen để trang trí, phần còn lại bóp nhuyễn cho hạt sen tơi ra.

Tôm lột vỏ, bỏ đầu, bỏ đuôi, xắt hạt lựu. Chả quế, xá xíu xắt hạt lựu, cà rốt xắt hạt lựu. Ướp tôm với tỏi băm, muối, tiêu, đường.

Đặt chảo lên bếp, cho dầu vào phi tỏi cho thơm. Xào tôm và cà rốt với gia vị cho chín, trộn chung với xá xíu, chả quế, trút ra đĩa.

Cho dầu vào chảo, xào cơm cho săn, nêm chút muối, tiêu. Trộn hỗn hợp tôm, thịt xá xíu, cà rốt, chả quế và hạt sen bóp tới vào chung với cơm cho đều.

Cách làm cơm hoa sen
Cách làm cơm hoa sen

Trình bày

Xếp hạt sen dùng trang trí dưới đáy tô nhỏ, xúc cơm và ép chặt, đậy 2 lớp cánh sen lên tía tô. Dùng một đĩa lớn đậy lên miệng tô. Lật ngược lại để cơm úp ra đĩa. Món cơm hoa sen mang ra được dọn kèm với nước tương và ớt xắt khoanh.

Cơm hoa sen
Cơm hoa sen

Lịch khám thai định kỳ chuẩn cho phụ nữ mang thai

Người phụ nữ khi xuất hiện dấu hiệu có thai cần phải đi khám thai ít nhất năm lần trong thai kì, nhằm phát hiện những bất thường trong thai sản và được tư vấn những điều cần thiết trong việc bảo vệ thai cho đến ngày sinh.

Khám thai ba tháng đầu nhằm xác định có thai trong tử cung hay chửa ngoài tử cung. Nếu chửa ngoài buồng tử cung phải xử lý ngay, tránh khi thai to vỡ gây chảy máu và sốc. Ngoài ra, cần đo trọng lượng cơ thể, đo huyết áp, đo khung xương chậu bình thường hay hẹp. Có thai ngoài kế hoạch hay mang thai trong lúc đang mắc bệnh cấp tính nặng cần có biện pháp xử lí kịp thời.

Những thai phụ bị nhiễm độc thai nghén sớm thường biểu hiện bằng các triệu chứng buồn nôn hay nôn từ sau tháng thứ nhất. Các triệu chứng trên có thể hết hay giảm dần trong ba tháng đầu nếu ở thể nhẹ. Song cũng có thể tăng dần và đe dọa đến tính mạng người mẹ nếu không điều trị kịp thời, đúng phương pháp.Khi phụ nữ mang thai mắc bệnh tuyến giáp

  • Nôn nhẹ: Chứng này thường xuất hiện vào các buổi sáng sớm khi thức dậy, hay khi ngửi thấy mùi thức ăn, hơi thuốc lá. Chứng buồn nôn, hay nôn thật sự tái diễn nhiều lần trong ngày, nhiều ngày trong tháng. Ngoài ra, thai phụ có thể có tình trạng tim đập nhanh, hồi hộp do co thắt vùng thượng vị và có thể bị ngất.
  • Nôn nhiều: Cũng có thể xảy ra tình trạng nôn nhẹ kéo dài gây nên sút cân. Vì thai phụ nôn nhiều lần, nên da khô, môi khô, da nhăn nheo, hơi vàng, bụng lõm, kéo dài 30-45 ngày làm cho mạch nhanh 120-140 lần trong phút, nước tiểu ít, không muốn ăn và xuất hiện các triệu chứng thần kinh, mê sảng, vật vã, co giật, có thể hôn mê.

Xét nghiệm nước tiểu có thể phát hiện có axeton, sắc tố mật. Trong máu lượng clorua giảm, tăng urê và polygeptit, giảm dự trữ kiềm, giảm hồng cầu, lượng nội tiết tố gonadotrophin tăng, cần đưa thai phụ vào bệnh viện kịp thời để điều trị giúp thai khỏe và nâng cao thể trạng cho người mẹ.

Thai phụ cần khám thai định kỳ ở ba tháng giữa, để đánh giá tình trạng thai nhi phát triển với sự thích nghi của cơ thể người mẹ và tiêm phòng mũi vacxin uốn ván thứ nhất. Theo dõi huyết áp và xét nghiệm tìm protein trong nước tiểu. Đánh giá sự tăng cân của người mẹ và tiêu chuẩn phù hợp với tuổi thai qua mỗi lần khám thai.

Tháng thứ tư, thai phụ cần đến bệnh viện để được bác sĩ siêu âm, xác định vị trí tim thai ghi trên điện tim đồ của thai nhi, nghe tim thai, ghi nhịp tim bằng máy siêu âm hiệu ứng Doppler. Bác sĩ sẽ dùng máy siêu âm đo đường kính lưỡng đỉnh của thai nhi chính xác để tính trọng lượng của thai nhi có phù hợp với tuổi thai hay không. Mỗi tuần lễ đường kính này tăng 1,6mm hoặc hơn là thai nhi phát triển bình thường. Đường kính lưỡng đỉnh dưới 1,6mm là thai nhi kém phát triển, không tăng cân, có thể thai nhi đã chết. Ngoài ra cần theo dõi đường kính bụng người mẹ và chiều dài xương đùi thai nhi.

Siêu âm bốn chiều có thể phát hiện giới tính của thai nhi, số lượng thai, hình ảnh thai bình thường hay thai dị dạng, tình trạng nước ối, nhau thai bất thường nếu có.

Khám thai vào ba tháng cuối của thai kì để xác định thai thuận hay thai ngược, thai phát triển bình thường hay bất bình thường. Tiêm phòng vacxin uốn ván mũi thứ hai để miễn dịch cho người mẹ và con nếu tiếp xúc trực tiếp với trực khuẩn uốn ván. Phát hiện những nguy cơ xấu có thể xảy ra ở người mẹ gây ảnh hưởng xấu đến con.

Tiền sản giật có thể xuất hiện vào ba tháng cuối của thai kì, đó là dấu hiệu báo trước khi sản giật, biến chứng cấp tính nặng của hội chứng nhiễm độc thai sản với những dấu hiệu về mạch, thận cùng với những cơn co giật liên tiếp và hôn mê.

Giai đoạn tiền sản giật ở thai phụ có ba dấu hiệu: Protein niệu tăng trên hai gam trong một lít nước tiểu. Triệu chứng phù tăng nhanh, đi tiểu ít về số lần và số lượng dưới 400ml trong ngày. Thai phụ bị tăng huyết áp ở thì tâm thu quá 30mmHg, thì tâm trương trên 15mmHg. Ngoài ra còn xuất hiện dấu hiệu ruồi bay, nhìn mờ, thị lực giảm, ù tai, nhức đầu, lợm giọng, buồn nôn, mệt mỏi v.v… cần cho sản phụ ăn giảm lượng muối và đạm. Mỗi ngày ăn lượng đạm 80g và bổ sung các vitamin.

Chống phù não và uống thuốc lợi tiểu khi lượng nước tiểu chỉ có 400ml trong 24 giờ. Khi huyết áp tâm trương trên 110mmHg cần uống thuốc chống tăng huyết áp methylodopa viên 250mg. Ngày uống từ 1-3 viên.

Phòng cơn co giật: Uống diazepam viên 5mg. Ngày dùng 1-2 viên. Tốt nhất, trước khi uống, cần hỏi ý kiến bác sĩ.

Sản giật

Sản giật là biến chứng cấp tính nặng của hội chứng nhiễm độc thai sản. Biểu hiện co giật có bốn giai đoạn:

Giai đoạn xâm nhiễm: Rung cơ xuất hiện trước tiên ở cơ mặt, co giật nhẹ ở mặt lan đến hai chi trên.

Giai đoạn co cứng: Các cơ toàn thân co cứng, mặt mũi tím tái, gây ngừng thở tạm thời.

Giai đoạn co giật: Các cơ co giật liên tục, nhất là cơ mặt, tay, chân…

Giai đoạn hôn mê: Thai phụ đi vào trạng thái hôn mê nông hay sâu. Cơn hôn mê dài, ngắn tùy thuộc mức độ của bệnh. Trường hợp này cần đưa bệnh nhân đến ngay bệnh viện càng sớm càng tốt.

Với thai nhi: Nếu cổ tử cung đã mở 7cm, nên bấm ối cho mở nhanh, lấy thai bằng dụng cụ. Nếu cổ tử cung chưa mở, thai phụ co giật nhiều, nên mổ để lấy con.

Chế độ ăn uống: Trong cơn co giật hay hôn mê, nên cho thai phụ nhịn ăn. Khi hết cơn co giật, cho thai phụ uống sữa, ăn cháo loãng v.v…

Đẻ non

Đẻ non là thai nhi được sinh ra trước 40 tuần lễ. Người mẹ có thai dưới 20 tuổi và trên 35 tuổi, có tỉ lệ đẻ non tăng cao. Người phụ nữ có thai, kích thước tim thai do lượng máu cung cấp cho thai nhi bị giảm. Những thai phụ bị nhiễm khuẩn cấp tính, virut cúm týp A H5N1, viêm gan cấp… thường có tình trạng đẻ non. Ngoài ra hiện tượng này cũng xảy ra ở những người có bệnh mạn tính: Bệnh tim, lao phổi, tiểu đường, cao huyết áp, viêm thận cấp, viêm thận mạn tính, ngộ độc, nghiện thuốc lá, rượu, tử cung xơ hóa, tử cung dị dạng, hở eo cổ tử cung.

Khi thai phụ cổ tử cung đã mở, ối vỡ hay còn ối, cơn co tử cung đều hay tăng dần, cần được dùng các loại thuốc ngăn chặn nguy cơ đẻ non, hoặc phải tiến hành can thiệp giúp đỡ để việc sinh đẻ nhanh chóng, tránh gây sang chấn cho thai nhi. Nếu ngôi thuận, nên để thai phụ đẻ thường, bảo vệ ối và điều chỉnh cơn co. Nếu ngôi ngược, hoặc thai yếu nhưng có khả năng nuôi được, bác sĩ sẽ chỉ định mổ, để bảo vệ an toàn cho mẹ và thai nhi.

Thai suy trong chuyển dạ

Khi thai phụ có biểu hiện cường tính cơn co và kéo dài có thể làm cho thai nhi bị suy. Nếu nhịp tim thai nhanh từ 160-180 lần/phút, hay chậm dưới 110 lần/phút là dấu hiệu của thai suy, trong nước ối có lẫn phân su. Thai nhi được nghe tim thai bằng máy siêu âm. Nếu cho kết quả các Dip 2Dip biến đổi là thể hiện xấu của tình trạng thiếu oxy não ở thai nhi…

Nếu rơi vào tình trạng thai suy trong lúc chuyển dạ cần hồi sức thai:

Cho người mẹ thở oxy, dùng thuốc giảm cơn co nếu cơn co quá mạnh. Nên mổ lấy thai nếu ngôi chưa thuận, hay cổ tử cung chưa mở…

Tuy nhiên, những nguy cơ xấu này không phải mọi phụ nữ khi mang thai đến tháng cuối thai kì đều mắc phải, do đó các bà mẹ có thai không nên quá lo lắng, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe bản thân và sự phát triển của thai nhi. Để tránh những nguy cơ xấu có thể xảy ra, người phụ nữ mang thai cần đi khám thai theo định kì.

Sốt xuất huyết do ve và phòng chống

Sốt xuất huyết gồm một nhóm bệnh do virut và giống nhau về biểu hiện lâm sàng (hội chứng xuất huyết). Các bệnh sốt này đều có ổ bệnh trong thiên nhiên và lây truyền bằng ve.

SỐT XUẤT HUYẾT CRƯM

Bệnh này được phát hiện lần đầu tiên năm 1944 ở bán đảo Crimê và được nghiên cứu bởi Kolachev, Chumakov, Gorbov.

Tác nhân gây bệnh là một virut riêng biệt khác virut sốt xuất huyết Omsk và virut bệnh sốt xuất huyết-viêm thận Viễn Đông về cấu trúc kháng nguyên.

Virut vào cơ thể người qua vết ve đốt, xâm nhập vào dòng máu và gây tổn thương ở các mao quản.

Thời kỳ ủ bệnh là 7-12 ngày (và giảm xuống 2-3 ngày khi làm lây bệnh cho người tình nguyện). Bệnh tiến triển cấp tính. Các triệu chứng chủ yếu gồm:

  • Sốt, nhức đầu, buồn nôn và nôn mửa
  • Phù mặt và xung huyết màng tiếp hợp mắt.

Tiếp theo là nổi ban với đốm xung huyết ; xuất huyết ở mũi, phổi, ruột. Trong trường hợp nặng, xuất huyết có thể gây tử vong. Thông thường bệnh khỏi, nhưng người bệnh hồi phục chậm.

+ Sốt xuất huyết crimê có ổ bệnh trong thiên nhiên. Nguồn dự trữ virut là thỏ và động vật khác sống trên thảo nguyên. Môi giới truyền nhiễm là ve Ixodes, Hyalomma marginatum ; virut bệnh sốt xuất huyết đã được phân lập từ ve.

+ Các trường hợp bệnh xảy ra trong mùa hè, từ tháng 6 đến tháng 9 ; nhưng chủ yếu trong tháng 7 và 8, ở những người cắt cỏ và người gặp hái. Bệnh này cũng thấy ở Bungari và ở các nước Cộng hoà Xô Viết Trung á. Virut bệnh sốt xuất huyết đã được phân lập từ người bệnh và Hyalomma anatolicum (ở Uzbekixtan).

SỐT XUẤT HUYẾT OMSK

Bệnh này được phát hiện năm 1944 ở vùng OMSK và được Akhrem-Akhre- movich, Chumakov, Fedyshin nghiên cứu.

+ Tác nhân gây bệnh sốt xuất huyết Omsk giống virut bệnh viêm não do ve về cấu trúc kháng nguyên. Chuột bạch tiếp thu được bệnh. Virut này khác virut bệnh sốt xuất huyết Crưm và virut sốt xuất huyết viêm thận Viễn Đông.

Người ta bị lây khi bị ve đốt. Thời kỳ ủ bệnh là 7 đến 12. Biểu hiện lâm sàng gồm sốt và hội chứng xuất huyết. Bệnh diễn biến nhẹ hơn sốt Crưm. + Sốt xuất huyết Omsk có ổ bệnh trong thiên nhiên. Nguồn dự trữ virut là loài dơi sống ở vùng thảo nguyên ; nhiều loại gậm nhấm khác cũng có vai trò trong quá trình dịch. Môi giới truyền nhiễm là ve Dermacentor pictus. Đã phát hiện được các kháng thể ở gia súc sống ở ổ bệnh.

+ Bệnh thường xảy ra từ tháng 5 đến tháng 8. Bệnh sốt xuất huyết ở Bokovina cũng giống bệnh sốt xuất huyết Omsk. Tính chất huyết thanh đã xác minh diều đó (Chumakov). Môi giới truyền bệnh này là ve Ixodes ricinus. Những bệnh tương tự còn thấy ở vùng Carpathus và cả ở bán đảo Malaixia.

+ Các biện pháp phòng bệnh giống như đối với bệnh viêm não do ve kể cả tiêm vacxin chế từ virut địa phương giết bằng íbcmol.

SỐT XUẤT HUYẾT – VIÊM THẬN VIỄN ĐÔNG

Bệnh này được phát hiện trong những năm 30 của thế kỷ này ở bắc Mãn Châu, rồi trong những năm 50 ở Triều Tiên và đã được nghiên cứu bởi Chumakov, Smorodintsev, Churilov.

+ Tác nhân gây bệnh này khác virut sốt xuất huyết Crưm và virut sốt xuất huyết Omsk về cấu trúc kháng nguyên.

+ Thời kỳ ủ bệnh là 11-24 ngày. Biểu hiện lâm sàng là sốt, hội chứng xuất huyết và tổn thương thận. Hội chứng viêm thận là nét phân biệt bệnh này với các sốt xuất huyết khác. Tỷ lệ tử vong là 12-14%.

+ Bệnh này có ổ bệnh trong thiên nhiên. Nguồn dự trữ virut là loài dơi và các súc vật gậm nhấm khác. Môi giới truyền bệnh là ve Gamasidae. Ố bệnh thiên nhiên là các vùng đồng cỏ ngập nước.

+ Vụ dịch bùng nổ xảy ra vào mùa hè và đầu thu (từ tháng 5 đến tháng 10). Vụ dịch lớn nhất xảy ra năm 1951-1953 trong quân đội viễn chinh ở Nam Triều Tiên.

+ Biện pháp phòng bệnh chủ yếu là chống ve đốt. Các biện pháp khác chưa được nghiên cứu đầy đủ.

Cách trị bệnh tiểu đường tại nhà kiểm soát tốt đường huyết

Bệnh tiểu đường là do chất insuline trong cơ thể tiết ra không đủ, chuyển hoá đường rối loạn, hàm lượng đường máu nâng cao mà gây nên. Triệu chứng điển hình của bệnh này là uống nhiều, ăn nhiều và tiểu nhiều lần (bệnh ba nhiều). Những triệu chứng phụ khác như: gầy gò, mệt mỏi, chân tay rã rời, ỉa chảy, da dẻ ngứa ngáy. Đông y gọi bệnh này là bệnh “tiêu khát” cho rằng khí âm trong người hao tổn, gây nên khô và nóng. Nuôi dưỡng khí âm, giảm bớt hoả nhiệt đó là nguyên tắc phòng và chữa bệnh tiểu đường.

Bệnh tiểu đường nếu sớm phát hiện và chữa bệnh, tích cực áp dụng biện pháp cắt đứt vòng tuần hoàn ác tính của căn bệnh, khống chế không cho bệnh phát triển có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với kết quả chữa bệnh và cả cuộc đời con người.

Nội dung trị bệnh tiểu đường

Người bệnh tiểu đường mức độ nhẹ (rối loạn dung nạp glucose) thì không phải mời thầy uống thuốc, dùng phương pháp khống chế bằng ăn uống và phương pháp chữa bệnh bằng thể dục hoàn toàn có thể chữa bệnh được.

Biến chứng của bệnh đái tháo đường
Biến chứng của bệnh đái tháo đường

Phương pháp khống chế bằng ăn uống: Chủ yếu khống chế thức ăn chính. Thí dụ: gạo, bột mì, bột ngô và số lượng đường vào cơ thể. Rất nhiều người bị bệnh tiểu đường vì insulin tạo ra không đủ, vậy có thể tiêu hoá bao nhiêu loại đường có thể đo hàm lượng đường trong nước tiểu thì biết. Mỗi lần trước khi ăn cơm 30 phút đo lượng đường trong nước tiểu một lần, nếu dưới (+) thì chứng tỏ rằng thức ăn chính trong bữa cơm trước phù hợp với lượng đường cần thiết. Nếu cảm thấy đói sớm có thể ăn những loại không có đường như các loại thức ăn làm từ đậu, rau xanh. Hoặc dùng phương pháp ăn ít nhưng chia làm nhiều bữa.

Người bệnh phải nắm được phương pháp tự mình đo hàm lượng đường trong nước tiểu. Một phương pháp đơn giản nhất là đo bằng giấy thử đường trong nước tiểu (trong hiệu thuốc có bán loại giấy này). Mỗi ngày trước khi ăn cơm 30 phút lấy một tờ giấy thử, nhúng vào nước tiểu hơn một phút, rồi lấy ra đối chiếu với màu sắc tiêu chuẩn thì có thể đoán được.

Phải ghi chép số lượng, chủng loại thực phẩm của ba bữa để điều chỉnh hàm lượng đường trong nước tiểu.

Tinh thần ổn định thoải mái. Nhân tố tâm lý có ảnh hưởng rất quan trọng tới diễn biến của bệnh tiểu đường. Người ta khi nổi khùng, kích tố tuyến thượng thận trong máu đột ngột tăng lên làm cho đường ở trong máu cũng tăng lên.

Kiêng ăn những thứ cay nóng, bao gồm cả thuốc bổ nhiệt tính như hồng sâm, lộc nhung, phụ tử, nhục quế, hồ tiêu, gừng, nhãn, thịt dê, thịt chó, thịt nai.v.v.

Nên ăn những loại thực phẩm ít đường, nhiều abumin, ít mỡ, nhiều senluylô. Có một số loại thực phẩm có tác dụng bổ trợ cho việc chữa bệnh này như lươn, tỏi, vừng, đào, đỗ đỏ, đỗ đen, đỗ xanh, ý dĩ nhân, hoài sơn dược, lê táo.v.v. nên ăn nhiều.

Tích cực tham gia rèn luyện thể dục nhẹ nhàng như thái cực quyền, khí công.

Không được nhổ răng và làm cho da dẻ chảy máu.

Giảm bớt việc sinh hoạt vợ chồng.

Khi chữa bệnh đái đường, nếu đồng thời dùng các loại thuốc khác nhau thì phải chú ý sự hợp tác và đối kháng giữa các loại thuốc với nhau.

Kiêng thuốc lá, rượu. Nicôtin trong thuốc lá và cồn estylic làm cho đường trong máu tăng cao và có thể làm tổn thương lá lách. Rượu còn có thể làm tăng thêm phản ứng phụ của thuốc hạ thấp đường trong máu.

Không nên ăn vặt.

Chế độ ăn cho người đái tháo đường
Chế độ ăn cho người đái tháo đường

Phương pháp điều trị bệnh tiểu đường

Phương thuốc hiệu nghiệm

  1. Địa cốt bì 50 gam, nấu uống thay trà.
  2. Hạt kỷ tử 30 gam, hấp chín, ăn làm 2 lần.
  3. Bạch thược 30 gam, cam thảo 10 gam, mỗi ngày một thang, sắc làm hai lần.
  4. Cây xấu hổ, đơn bì, hoàng kỳ, sinh địa nghiền nhỏ. mỗi lần 60 gam, mỗi ngày 4 lần, uống với nước nóng.

Phương pháp ăn uống

  • Nước sôi để nguội ngâm chè xanh 10 gam, ngày uống 2-3 lần.
  • Bí ngô nấu chín ăn thay cơm, mỗi ngày 500 gam, trở lên.
  • Ốc nhồi 500 gam cho 1,5 lít nước, nấu chín ăn cả nước và cái.
  • Củ cải đường giã nhỏ lấy nước, mỗi lần 100 – 150cc, mỗi ngày 2-3 lần.
  • Hoàng tinh 10 gam, ý dĩ sống 10 gam, hoài sơn dược tươi 50 gam. Nấu thành cháo ăn thay cơm.

Phương pháp chữa bệnh khác

  1. Mỗi ngày tập thái cực quyền 1 – 2 lần.
  2. Mỗi ngày tập nội dưỡng công 1 – 2 lần.
  3. Mỗi ngày chạy chậm 10-20 phút.

(Chọn một trong ba phương pháp trên).

Tập dưỡng sinh rất tốt cho người tiểu đường
Tập dưỡng sinh rất tốt cho người tiểu đường

Những việc cần lưu ý.

Nằm nghỉ trên giường quá nhiều, không có lợi cũng dễ gây béo phì và làm cho sức đề kháng giảm xuống.

Triệu chứng đái nhiều, uống nhiều, ăn nhiều giảm xuống hoặc mất đi, trọng lượng cơ thể cũng dần dần khôi phục, không nên ngừng thuốc chữa bệnh, dễ dẫn tới bệnh tình tái phát, khó chữa.

Hạn chế ăn uống quá mức hoặc phối hợp thuốc giảm đường không đúng mức, sẽ gây nên triệu chứng đường trong máu thấp (triệu chứng đường trong máu thấp: hoảng sợ, run tay, vã mồ hôi, váng đầu, đói, buồn phiền, mệt mỏi thậm chí hôn mê.v.v. ).

Phụ nữ có thai, công năng gan thận không tốt, thể chất quá mẫn cảm, nếu điều trị không đúng, uống thuốc tây hạ lượng đường máu có thể gây ra hậu quả khôn lường.

Đau lưng: Những điều bạn cần biết

Có rất nhiều điều phụ thuộc vào cột sống của bạn. Đây là cấu trúc hỗ trợ chính của cơ thể. Nó cần giữ cho bạn ổn định để đứng thẳng nhưng cũng phải đủ linh hoạt để di chuyển. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi nhiều người gặp vấn đề về lưng từ thời gian này đến thời gian khác.

Cơn đau có thể xuất phát từ các cơ, dây chằng và gân bị đau hoặc từ các đĩa đệm thoát vị, gãy xương và các vấn đề khác ở lưng trên, giữa và dưới. Đôi khi bạn cảm thấy các triệu chứng ngay lập tức. Nhưng trong nhiều trường hợp, các vấn đề về lưng phát triển theo thời gian.

Nguyên nhân

Chúng ta thường gây ra các vấn đề về lưng do những thói quen xấu, chẳng hạn như:

  • Tư thế xấu, như ngồi không đúng cách tại bàn làm việc hoặc sau vô-lăng
  • Lặp lại cùng một chuyển động hoặc làm quá sức
  • Đẩy, kéo và nâng vật một cách bất cẩn

Cột sống thực chất là một chồng 24 xương gọi là đốt sống. Một cột sống khỏe mạnh có hình dạng chữ S khi nhìn từ bên. Nó cong ra phía sau ở vai và cong vào trong ở cổ và thắt lưng. Nó chứa và bảo vệ tủy sống, mạng lưới dây thần kinh truyền cảm giác và điều khiển chuyển động trong toàn bộ cơ thể của bạn.

Một trong những loại đau lưng phổ biến hơn là do căng thẳng các băng cơ xung quanh cột sống. Nó thường xảy ra nhất ở đường cong của lưng dưới và đáy cổ. Những vùng này hỗ trợ nhiều trọng lượng hơn lưng trên và giữa, những vùng này ít có khả năng gặp vấn đề hơn.

Chấn thương từ các môn thể thao tiếp xúc, tai nạn và ngã có thể gây ra các vấn đề từ căng cơ nhẹ đến thoát vị đĩa đệm, đến gãy xương làm hỏng cột sống hoặc tủy sống.

Cơn đau lưng nhói có thể là do co thắt cơ, khi các cơ của bạn co lại và không thư giãn, giống như chuột rút.

Thoái hóa khớp có thể ảnh hưởng đến các đốt sống của bạn, khi sụn giữa chúng bị mòn. Gai xương hoặc đĩa đệm thoát vị có thể chèn ép các dây thần kinh.

Mang thai cũng thường gây ra đau lưng. Những thay đổi nội tiết tố và tăng cân tạo ra các áp lực mới lên cột sống và chân của một người phụ nữ mang thai.

Đôi khi, lưng của bạn có thể bị đau mà không có lý do rõ ràng. Điều này được gọi là đau lưng không đặc hiệu. Nó có thể đến từ các cơ yếu không thể chịu đựng được việc đi bộ, cúi và duỗi cơ hàng ngày.

Các triệu chứng khác

Đau lưng — dù là đau âm ỉ hay nhói — chỉ là một dấu hiệu cho thấy có điều gì đó đang xảy ra với lưng của bạn. Bạn cũng có thể cảm thấy ở chân hoặc tay của mình:

  • Đau lan tỏa
  • Cảm giác kim châm
  • Yếu
  • Tiểu không kiểm soát hoặc đại tiện không kiểm soát, hoặc không thể tiểu, và yếu cơ có thể là dấu hiệu của một vấn đề nghiêm trọng như chèn ép tủy sống. Hãy gọi cho bác sĩ ngay lập tức.

Chẩn đoán

Bạn nên gặp bác sĩ:

  • Sau khi bạn bị thương, như trong một cú ngã hoặc tai nạn
  • Khi cơn đau cản trở hoạt động hàng ngày của bạn
  • Nếu cơn đau kéo dài hơn 6 tuần, hoặc lan rộng

Trong buổi khám, bác sĩ sẽ kiểm tra phạm vi chuyển động của bạn — trừ khi bạn không thể di chuyển — và kiểm tra hoạt động của các dây thần kinh của bạn. Điều này có thể đủ để quyết định bước tiếp theo.

Bạn có thể cần các xét nghiệm hình ảnh, như X-quang, MRI hoặc CT scan. Nhưng chúng không phải lúc nào cũng hữu ích, và không phải lúc nào cũng có mối liên hệ trực tiếp giữa kết quả của những xét nghiệm này và mức độ đau mà bạn cảm thấy.

Điều trị

Phương pháp điều trị cụ thể của bạn sẽ phụ thuộc vào nguyên nhân gây ra cơn đau và vị trí trong lưng của bạn.

Bất chấp những gì bạn có thể nghĩ hoặc đã được nói trước đó, việc nằm nghỉ trên giường thường không phải là câu trả lời; tập thể dục nhẹ nhàng thì có. Nó sẽ giúp giảm căng thẳng, tăng cường hỗ trợ cho cột sống và cải thiện sự linh hoạt của bạn. Một nhà vật lý trị liệu có thể làm việc với bạn để thiết kế một tập hợp các bài tập, giúp bạn giảm đau và lấy lại khả năng vận động.

Thuốc giảm đau không cần đơn, chườm đá và nhiệt sẽ giúp giảm bớt hầu hết các cơn đau lưng. Bác sĩ của bạn có thể kê đơn thuốc mạnh hơn, nhưng một số có thể khiến bạn buồn ngủ hoặc phụ thuộc vào chúng nếu bạn không cẩn thận.

Các liệu pháp bổ sung, như chỉnh hình cột sống, châm cứu và massage, cũng có thể giúp giảm đau.

Nếu xương bị tổn thương, hoặc bạn có đĩa đệm thoát vị hoặc dây thần kinh bị chèn ép, bạn có thể cần phẫu thuật. Nhưng đối với cơn đau lưng kéo dài, bác sĩ sẽ thử các phương pháp điều trị khác trước.

Tư vấn có thể giúp bạn học cách sống tốt hơn với cơn đau mãn tính cũng như đối phó với các triệu chứng trầm cảm do nó gây ra.

Phòng ngừa

Tập thể dục! Tăng cường cơ bắp xung quanh cột sống và ở vùng lõi của bạn sẽ giúp giữ cho bạn ổn định và cân bằng. Đi bộ rất tốt cho lưng dưới của bạn, và nó rất dễ thực hiện.

Thực hành tư thế tốt. Như một quy tắc chung, hãy cố gắng giữ cho tai, vai và hông của bạn thẳng hàng khi bạn ngồi, đứng và đi bộ. Nâng các vật nặng đúng cách, sử dụng hông và đầu gối để tạo sức mạnh trong khi giữ cho lưng thẳng.

Hãy thử ngủ nghiêng, trên một chiếc đệm có độ cứng vừa phải.

Đừng hút thuốc. Điều này hạn chế lưu thông máu, vì vậy các cơ và mô của bạn không nhận được một lượng chất dinh dưỡng và oxy tốt.

Vaccin kháng Haemophylus b

ACT-HIB ® (Mérieux MSD)

HI Best ® (Pasteur Vaccins)

Vaccin phối hợp được làm từ polyosid của vỏ được tinh chế của Heamophylus influenza loại b (Hib, chủng Ross).

Chỉ định: gây miễn dịch thường quy chống nhiễm trùng do Heamophylus influenza loại b ở trẻ em và sơ sinh từ 2 tháng tới 5 tuổi. Hiệu quả của vaccin trong dự phòng các nhiễm khuẩn ồ ạt do H.influenza (viêm não, nhiễm trùng huyết, viêm nắp thanh quản) đã được chứng minh.

Ngay sau đẻ Viêm gan B: tiêm chủng huyết thanh nếu mẹ mang AgHBs
Ngay tháng đầu BCG
2-3 tháng Bạch hầu, uốn ván, ho gà, bại liệt, Haemophylus b: mũi thứ 1
3-4 tháng Bạch hầu, uốn ván, ho gà, bại liệt, Haemophylus b: mũi thứ 2
4-5 tháng Bạch hầu, uốn ván, ho gà, bại liệt, Haemophylus b: mũi thứ 3
12-15 tháng Sởi, rubeola, quai bị (vaccin R.O.R). Nên tiêm chủng toàn diện ở trẻ lân hơn mà chưa bị các bệnh này.
16-18 tháng Bạch hầu, uốn ván, ho gà, bại liệt, Haemophylus b: nhắc lại lẩn 1
Trước 6 tuổi BCG: trước khi vào tập thể (trẻ không tiêm chủng hay thử âm tính). Thử tuberculin sau 3-12 tháng.
5-6 tuổi Bạch hầu, uốn ván, bại liệt: nhắc lại lần 2.

Sởi, quai bị, rubeola (cho trẻ chưa tiêm chủng).

11-13 tuổi Bạch hầu, uốn ván, bại liệt: nhắc lại lần 3. Rubeola cho con gái (tiêm chủng khởi đầu hay nhắc lại).

BCG nếu thửtuberculln âm tính (tiêm chủng hay nhắc lại).

16-21 tuổi Bạch hầu, uốn ván, bại liệt: nhắc lại lần 4.

BCG nếu thửtuberculin âm tính (tiêm chủng hay nhắc lại)

Rubeola: tiêm chủng được khuyên dùng cho thiếu nữ khi khám tránh thai, khi đó có thể mà không thử huyết thanh trước. Kiểm tra huyết thanh sau tiêm chủng không cần thường quy. Khi tiêm chủng sau tuổi dậy thì, tránh có thai trong 2 tháng sau do nguy cơ quái thai (nên có biện pháp tránh thai).

21-60 tuổi Uốn ván, bại liệt: nhắc lại cách 10 năm.

Rubeola: phu nữ không đươc miễn dich tới 45 tuổi (có biên pháp tránh thai).

  Cúm: hàng nâm (người có nguy cơ cao, nhất là khi tổn thương hô hấp và tim mạch mạn tính, đái tháo đường, suy gan).
Sau 70 tuổi Uốn ván: nhắc lại cách 10 năm Tiêm chủng chống cúm hàng năm.
Người iớn Khi đi đến các nước nhiệt đối.

Sốt vàng (đến các vùng có dịch ở châu Phi hay Nam Mỹ). Bệnh tả (tại các nước yêu cầu giấy chứng nhận).

Đôi khi: thương hàn, viêm gan B (người có nguy cơ).

Trẻ em Cập nhât các tiêm chủng thông dụng: bạch hầu, uốn ván, ho gà, sởi, bại liệt và BCG cho trẻ em từ trên 1 tuổi. Ngoài ra: – sốt vàng nếu đi vào vùng có dịch. – Đôi khi: tiêm chủng chống viêm não (A, c, V, W). Ghi chú: hai tiêm chủng sau cùng có thể phối hợp với vaccin tứ liên (bạch hầu, uốn ván, ho gà, bại liệt) hay với BCG. Có thể tiêm chủng đồng thời chống sởi và viêm não. Đảm bảo cách 2 tuần giữa tiêm vaccin virus sống và globulin miễn dịch.

 

Trẻ nhỏ từ 2 đến 6 tháng: 3 mũi cách nhau 1 tháng, tiếp theo một mũi nhắc lại lúc tới 8 tháng tuổi.

Từ 6 đến 12 tháng: 2 mũi cách nhau 1 tháng, tiếp theo một mũi nhắc lại lúc 18 tháng.

Từ 1 dến 5 tuổi: 1 mũi tiêm duy nhất.

Chống chỉ định

Mẫn cảm với protein của bệnh uốn ván.

Tác dụng phụ

Phản ứng nhẹ: ban đỏ chỗ tiêm, sốt.

Hiện tượng Arthus: phản ứng viêm tại chỗ, sốt ở trẻ em vừa mới tiêm phòng uốn ván.

Bảo quản: ở tủ lạnh từ +2°c đến 8°c.

Các phương pháp Điều trị Béo phì hiện nay

Các điều trị chính đối với tình trạng béo phì là áp dụng các thay đổi lối sống với mục đích điều trị, điều trị bằng thuốc và phẫu thuật. Các chương trình thay đổi lối sống với mục đích điều trị có thể được hướng dẫn bởi một chuyên gia duy nhất hoặc một đội ngũ chuyên gia thuộc nhiều chuyên ngành có nền tảng kiến thức về điều trị thay đổi hành vi, chế độ dinh dưỡng và/hoặc luyện tập thể chất. Hầu hết các bệnh nhân béo phì sẽ có được lợi ích khi được làm giảm cân, tuy vậy điều trị giảm cân ở bất kỳ hình thức nào bị chống chỉ định trong một số trường hợp. ví dụ như ở các đối tượng có cân bằng nitrogen âm tính và đối với phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú, mặc dù cần phải đặc biệt lưu ý để tránh xảy ra tình trạng tăng cân quá mức trong khi có thai. Đối với bệnh nhân bị rối loạn ăn uống như ăn uống vô độ hoặc mắc chứng cuồng ăn do tâm thần dù liệu pháp này có thể giúp phụ nữ mang thai không tăng cân quá nhiều. Đối với những bệnh nhân bị chứng rối loạn ăn uống hay mắc chứng cuồng ăn, hoặc có ham muốn ăn uống qua nhiều sẽ được gửi tới các chuyên gia để được chăm sóc đặc biệt. Tuổi già không phải là chống chỉ cho việc điều trị giảm cân. Những người béo phì cao tuổi, thường bị rối loạn các chức năng hoặc có các biến chứng chuyển hoá thường được khuyến cáo áp dụng liệu pháp giảm cân do có lợi ích từ việc làm hạn chế mất cơ và xương. Liệu pháp thay đổi lối sống nên được áp dụng ngay từ đầu cho tất cả các bệnh nhân và thậm chí cho cả các bệnh nhân đang điều trị thuốc hoặc phẫu thuật. Béo phì là một bệnh mạn tính, vì vậy bệnh nhân cần phải được điều trị liên tục. Thay đổi hành vi phải nỗ lực trở thành sự thay đổi lối sống lâu dài hơn là chỉ thay đổi chế độ ăn trong một thời gian ngắn. Các bác sỹ lâm sàng cần phải hỗ trợ bệnh nhân cho các lối sống mới trong suốt quá trình thực hiện liệu pháp trong mỗi lần thăm khám. Luôn phải nhắc nhở bệnh nhân về chương trình giảm cân thường quy. Những việc làm này được xem như là một phần của chương trình điều trị, do đó bệnh nhân không cảm thấy họ bị bỏ rơi. Thêm vào đó, những lối sống cũ và cân nặng có thể quay trở lại nên bệnh nhân béo phì được khuyến cáo kiểm tra định kỳ hàng năm. Chương trình thay đổi lối sống

Chương trình thay đổi lối sống

Chương trình làm thay đổi lối sống nhằm giúp bệnh nhân điều chỉnh chế độ ăn và thói quen hoạt động thể lực để xúc tiến việc làm giảm cân (hoặc để dự phòng tình trạng tiếp tục tăng cân thêm nữa). Các kỹ thuật làm thay đổi hành vi thường được sử dụng như một phần của chương trình này. Các số liệu hiện có cho đến nay chỉ dẫn là các thay đổi trong thói quen ăn uống là quan trọng nhất để đạt được tình trạng giảm cân bước đầu, và tăng cường luyện tập thể lực có vai trò quan trọng để duy trì giảm cân trong thời gian dài. Các thay đổi thói quen trong khẩu phần dinh dưỡng và hoạt động thể lực gây được tác dụng giảm cân có thể được xúc tiến thông qua các cuộc gặp mặt ngắn giữa thày thuốc và bệnh nhân, song một cách hiện thực, người thày thuốc có thể muốn gửi bệnh nhân tới tham khảo ý kiến một bác sỹ chuyên khoa khác (ví dụ: thày thuốc dinh dưỡng), tới một chương trình kiểm soát cân nặng nội khoa toàn diện hoặc tới một chương trình làm giảm cân mang tính thương mại. Bất kể cách thức nào được lựa chọn, bệnh nhân cần được hướng dẫn là đối với đa số người bệnh một đích làm giảm cân có tính hiện thực (điển hình là làm giảm 10% trọng lượng cơ thể) có thể đạt được và sẽ mang lại các lợi ích cho sức khỏe trên lâm sàng, mặc dù mục tiêu này có thể thấp hơn nhiều so với những gì bệnh nhân đang mong đợi. Thảo luận về mục tiêu thực tế của các biện pháp điều trị một cách cởi mở sẽ giúp bệnh nhân tránh được thất bại và thất vọng trong quá trình thực hiện việc làm giảm cân của họ.

Đối với các thày thuốc chỉ định điều trị thay đổi lối sống trong các lần bệnh nhân tới khám, gợi ý ban đầu để bắt đầu tiến hành điều trị giảm cân phải là các các biện pháp có tính đến khả năng là đa số bệnh nhân sẽ bắt đầu tới khám bệnh với lý do kiểm tra sức khỏe định kỳ hoặc do một bệnh lý nội khoa đi kèm và họ có thể không có dự định thảo luận về cân nặng của mình. Vì vậy, điều căn bản là người thầy thuốc phải gắn sự cần thiết của việc bệnh nhân cần giảm cân với các vấn đề sức khỏe và không được biểu lộ hoặc tỏ ý thất vọng hay đổ lỗi cho tình trạng béo phì của bệnh nhân. Thực hiện liệu pháp điều trị này tương tự như một phương pháp điều trị bệnh kết hợp là chìa khóa của thành công. Cuốn sách hướng dẫn thực hành: phát hiện, đánh giá và điều trị thừa cân và béo phì ở người lớn cung cấp những phác đồ điều trị béo phì được Viện Sức khỏe Quốc gia và Hiệp hội Nghiên cứu béo phì Bắc Mỹ (nay gọi là Hiệp hội Béo phì) xuất bản năm 2000. Sách có đưa ra một phác đồ điều trị hướng dẫn liệu pháp thay đổi lối sống có thể được áp dụng trong các lần bệnh nhân tới khám. Các bước cơ bản bao gồm đánh giá mong muốn và nguyện vọng của bệnh nhân để tiến hành các thay đổi lối sống mà các thay đổi này sẽ xúc tiến tình trạng giảm cân, đánh giá nhanh thói quen ăn uống và thói quen hoạt động thể chất hiện tại của bệnh nhân. Đặt ra các mục tiêu cụ thể để thực hiện các thay đổi khiêm tốn, từ từ, thực tế đối với các thói quen không có lợi của bệnh nhân, nhất là thói quen ăn uống, và để xúc tiến quá trình làm thiếu hụt năng lượng (tức là cung cấp một năng lượng ít hơn mức năng lượng được dự kiến) giúp bệnh nhân giảm cân. Độc giả có thể tham khảo cuốn cẩm nang của Brownell và stunkard (Xem tài liệu tham khảo và độc giả cần đọc thêm) để biết thêm chi tiết về cách đánh giá và các mục tiêu điều trị.

Gây thiếu hụt khoảng 3500 calo sẽ làm giảm được cân nặng khoảng 0,45kg, vì vậy làm giảm 500 calo mỗi ngày sẽ giúp làm giảm cân mỗi tuần được khoảng 0,45kg. Một số bệnh nhân có thể không sẵn sàng chấp nhận giảm cân nhưng có thể sẵn sàng thay đổi thói quen ăn uống để tránh tăng cân. Cuối cùng, người thày thuốc nên kiểm tra định kỳ bệnh nhân (ít nhất là hàng tháng) tiến trình điều trị, động viên và khuyến khích ngay cả những thay đổi thói quen mang lại lợi ích cho sức khỏe dù chỉ rất khiêm tốn. Đồng thời đặt ra các mục tiêu tiếp tục cho điều trị thay đổi hành vi để thúc đẩy quá trình làm giảm cân thêm nữa hoặc để duy trì tình trạng giảm cân mà bệnh nhân đã đạt được.

Khi đánh giá về thói quen ăn uống, các bác sỹ lâm sàng không nên nhận xét để bệnh nhân cảm thấy thoải mái kể về những gì họ ăn. Nên đặt những câu hỏi mở và đơn giản khi hỏi về những gì bệnh nhân ăn hàng ngày, từ khi ngủ dậy đến khi đi ngủ. Sẽ rất hữu ích khi hỏi bệnh nhân về sự khác nhau về bữa ăn giữa ngày trong tuần (ngày làm việc) với các ngày nghỉ (ngày không đi làm), vì những ngày cuối tuần, bệnh nhân có thể ăn ít bữa hơn, ăn nhiều bữa phụ và/hoặc ăn ở ngoài nhiều hơn. Các bác sỹ lâm sàng có thể chọn cách cho bệnh nhân điền vào Bộ câu hỏi mô hình bữa ăn”, một công cụ nhanh được Hiệp hội Thầy thuốc Hoa Kỳ (AMA- American Medical Association) xây dựng (có thể xem ở http://www.ama-assn.org/ama1/pub/ upload/mm/433/weight.pdf) để cung cấp những thông tin hữu ích cho việc bắt đầu thảo luận về thói quen ăn uống.

Một trong những công cụ hữu ích nhất để giúp bệnh nhân thay đổi thói quen ăn uống là ghi nhật ký bữa ăn. Công cụ này có thể áp dụng để hỗ trợ đánh giá bước đầu về thói quen ăn uống. Bệnh nhân được yêu cầu ghi lại tất cả các loại thức ăn và đồ uống trong ít nhất 3 ngày, gồm cả ngày cuối tuần. Thêm vào đó, bệnh nhân nên giữ nhật ký ghi lại chế độ ăn để theo dõi cách thay đổi thói quen ăn uống theo thời gian. AMA có đưa ra một cách viết nhật ký bữa ăn trên website. Một số trang online cho bệnh nhân truy cập miễn phí, chương trình được thiết kế theo kiểu khi bệnh nhân điền vào một loại thức ăn và đồ uống đã dùng, ngay lập tức bệnh nhân sẽ được phản hồi về lượng calo (và một số thành phần dinh dưỡng cơ bản) có trong thức ăn và đồ uống đó. Chương trình này có thể là sự lựa chọn tốt cho một số bệnh nhân (ví dụ, những người thích chương trình trao đổi trực tuyến), nhưng có thể mất thời gian và cảm thấy nhạt nhẽo, đặc biệt là trong thời gian đầu. Bảng 30-6 liệt kê những đặc điểm cơ bản của một nhật ký bữa ăn, và bảng 30-7 đưa ra một số gợi ý đặc biệt để giảm năng lượng đưa vào cơ thể.

Bảng 30-6. Đặc điểm cơ bản của nhật ký bữa ăn

Đặc điểm Mục đích / Giải thích
Tỷ mỉ và chính xác Ghi lại tất cả thức ăn và đồ uống sử dụng

Đảm bảo bệnh nhân không cần phải tự nhớ bữa ăn

Thời gian ăn chính/ ăn vặt/uống Để đảm bảo bệnh nhân không vận động quá lâu. trong suốt thời gian đi bộ mà không ăn gì
Lượng thức àn và đồ uống sử dụng Bệnh nhân nên được khuyến khích ước tính số lượng nếu có thể làm được, đặc biệt là trong 2-3 tuần đầu
Năng lượng Có thể tính toán từ các sách dinh dưỡng, các trang Web dinh dưỡng và/hoặc ở bao bì sản phẩm dinh dưỡng
Đánh giá mức độ hoạt động thể lực hiện tại của bệnh nhân được thực

Đánh giá mức độ hoạt động thể lực hiện tại của bệnh nhân được thực hiện tương tự như đánh giá thói quen ăn uống với thái độ không phán xét, sử dụng các câu hỏi mở hoặc những công cụ được thiết kế sẵn như “Bộ câu hỏi về hoạt động thể lực” của AMA, hoặc “Lịch hoạt động thể lực” (những công cụ hữu ích này có sẵn trên trang web http://www.ama-assn.org/ama1/pub/upload/ mm/433/ phactivity.pdf). Hoạt động thể lực có thể được ghi lại hàng ngày trong cuốn nhật ký bữa ăn. Tùy thuộc vào yếu tố nguy cơ của bệnh nhân (xem Bảng 30-8), bệnh nhân sẽ được kiểm tra bằng nghiệm pháp gắng sức trước khi được khuyến cáo tăng cường độ hoạt động thể lực. Các chương trình tập luyện tùy thuộc vào từng cá nhân để tránh làm nặng thêm một số bệnh lý của bệnh nhân (như tổn thương khớp). Một số trường hợp (ví dụ: bệnh nhân quá béo phì, có vấn đề về hệ thống xương khớp, bị hạn chế vận động) cần được chuyển tới các chuyên gia vật lý trị liệu để đảm bảo cho hoạt động thể lực được thực hiện an toàn. Bảng 30-9 đưa ra một số ví dụ về mức độ hoạt động thể lực trung bình, bao gồm cả những thói quen/hoạt động hàng ngày (ví dụ: làm vườn) và các hoạt động thể thao (chạy bộ). Một số hình thức về mức độ hoạt động nhẹ nhàng trong cuộc sống hàng ngày cũng được khuyến cáo như đi cầu thang bộ thay cho đi thang máy.

Bảng 30-7. Các khuyến cáo thay đổi chế độ ăn đặc hiệu

Các kiểu ví dụ cho mục tiêu làm giảm khẩu phần năng lượng đưa vào:

  • Giảm kích cỡ khẩu phần ăn (đặc biệt với các loại đồ ăn/ đồ uống).
  • Giảm hoặc hạn chế khẩu phần các thức ăn giàu calo, hoặc chuyển sang các loại thức ăn có lượng calo thấp hơn.
  • Giảm ăn các loại thức ăn nhanh hoặc lựa chọn các loại thức ăn nhanh có lợi cho sức khỏe như: bánh mỳ kẹp (sub sandwiches), hoặc salat (với nước sốt chứa ít calo).
  • Hạn chế đi ra ngoài ăn uống (do các nhà hàng có xu hướng phục vụ các khẩu phần ăn quá mức, người tiêu dùng khó kiểm soát hoặc không biết thức ăn được chế biến như thế nào).
  • Giảm hoặc hạn chế đồ uống cung cấp calo như soda, nước tăng lực, nước hoa quả ép có hàm lượng đường cao.
  • Sử dụng các sản phẩm thay thế cho bữa ăn (bánh và nước dinh dưỡng) cho 1-2 bữa và/hoặc thức ăn nguội cho các bữa ăn được kiểm soát calo và chất dinh dưỡng.

—————————————–

Cuốn sách “Hướng dẫn thực hành” cung cấp nhiều thông tin chi tiết về các cách thức đơn giản giúp bệnh nhân điều chỉnh chế độ ăn và hoạt động thể lực và có thể dễ thảo luận với bệnh nhân trong mỗi lần họ tới khám. Bất kể đã áp dụng các thay đổi nào cho bệnh nhân, các lần khám định kỳ hàng của bệnh nhân cần được lên kế hoạch để theo dõi tiến triển theo các mục tiêu đề ra, đặt ra các mục tiêu mới nếu cần, thảo luận với bệnh nhân về các rào cản để đạt được các mục tiêu điều trị và đánh giá thay đổi cân năng của bệnh nhân. Nếu và khi đạt được mục tiêu làm giảm 10% cân nặng, người thày thuốc điều trị và bệnh nhân cần quyết định xem có nên tiếp tục làm giảm thêm cân hay duy trì mức mất cân đã đạt được sao cho thích hợp nhất cho bước kế tiếp.

Bảng 30-8. Tiêu chuẩn để tiến hành nghiệm pháp gắng sức trước khi khuyến cáo tăng mức hoạt động thể lực

Hoạt động thể lực mức độ trung bình

  • Có tiền sử bệnh lý tim mạch được biết
  • Có tiếng thổi ở tim được biết
  • Có tiền sử bệnh lý hô hấp được biết
  • Có tiền sử bệnh chuyển hóa được biết
  • Có ≥ 1 dấu hiệu thực thể hoặc triệu chứng của bệnh tim mạch hoặc hô hấp

Hoạt động thể lực mức độ nặng

  • Bất kỳ tiêu chuẩn nào được nêu ở trên dưới ngưỡng đối với hoạt động thể lực trung bình
  • Tuổi >40
  • Tiền sử gia đình có người bị nhồi máu cơ tim hoặc đột tử
  • Tăng huyết áp
  • Tăng cholesterol máu
  • Đái tháo đường
  • Lối sống ít vận động

Chú ý: Trong hoạt động thể lực được khuyến cáo, nên tránh quá sức hoặc gây tái tổn thương các bệnh lý liên quan với chấn thương, tư vấn các chuyên gia vật lý trị liệu khi cần thiết. Nguồn: Gill TM, DiPietro L, Krumhole HM. Role of exercise stress testing and safely monitoring for older person starting an exercise program. JAMA 2000; 284:342-349.

Các chưcyng trình y tế quản lý cân nặng toàn diện thường liên kết với các trường đại học Y, điển hình là bao gồm một đối ngũ nhân viên y tế thuộc nhiều chuyên khoa như nội khoa, điều chỉnh thóa quen xấu, dinh dưỡng và luyện tập thể lực. Chương trình thường được tiến hành theo nhóm với các sinh hoạt định kỳ hàng tuần trong vài tháng đầu, sau đó giảm dần tần suất họp nhóm, Cùng với các thông tin về dinh dưỡng và hoạt động thể lực, các chương trình thường tập trung vào chủ đề thay đổi thói quen sinh hoạt có hại cho sức khỏe và các hành vi – nhận thức như đặt ra các mục tiêu cần đạt được, các yếu tố bên thúc đẩy nhu cầu ăn uống khi cơ thể không thấy đói, giải quyết vấn đề, thay đổi các suy nghĩ tiêu cực gây trở ngại tới nỗ lực thay đổi hành vi, sự trợ giúp của cộng đồng và dự phòng tái phát.

Một số chương trình thương mại không mang tính y học hiện đang có trên thị trường cũng có những chủ đề tương tự, mặc dù được đạo diễn bởi những cá nhân có trình độ chuyên môn rất khác nhau, mà thường bao gồm các khách hàng trước đó và/ hoặc các chuyên gia tư vấn có nghiệp vụ của chương trình. “Người theo dõi cân nặng” (Weight Watcher) là chương trình giảm cân thương mại duy nhất ờ Mỹ có dữ liệu về thử nghiệm ngẫu nhiên và theo dõi kéo dài chứng minh sự thành công của nó. Thêm vào đó, các chương trình thương mại đưa các phiên bản của họ đến tận nhà hoặc trên mạng, làm cho một số bệnh nhân thấy rất tiện ích, mặc dù không có bằng chứng đánh giá hiệu quả của nó. Để thuận tiện, một vài chương trình thương mại còn đưa nội dung đến tận các nơi làm việc, một số người quản lý còn đưa vào các chương trình kiểm soát cân nặng miễn phí hoặc chi phí thấp như là một sáng kiến bảo vệ sức khỏe nhân viên.

Điều trị thay đổi lối sống ở người trẻ

Thay đổi lối sống lúc đầu được thày thuốc giám sát của bác sỹ, các chương trình y khoa kiểm soát cân nặng và các chương trình thương mại có thể được sử dụng để giúp trẻ em và trẻ vị thành niên giảm cân. Điển hình, chương trình dành cho trẻ trước tuổi đến trường sẽ liên quan chủ yếu tới các hoạt động của bố mẹ trẻ, chương trình dành cho trẻ đi học sẽ liên quan với những hoạt động của bố mẹ và trẻ; chương trình dành cho trẻ vị thành niên tập trung trực tiếp vào giới trẻ có tham gia của cha mẹ trẻ ở các mức độ khác nhau. Những khác biệt quan trọng nhất trong các chương trình hoạt động với trẻ nhỏ và trẻ vị thành niên là không được cưỡng bức các đối tượng này tiến hành thay đổi hành vi hoặc làm mất cân ngay cả khi cha mẹ trẻ mong muốn điều đó (thực tế là giới trẻ thường không muốn tìm kiếm sự chăm sóc từ bên ngoài), nhưng có thể hạn chế được điều đó thích hợp hơn bằng cách kiểm soát các đồ ăn mua về và chế biến món ăn trong gia đình. Vì vậy, đối với trẻ đang đi học và trẻ vị thành niên, động cơ của bản thân trẻ cần được đánh giá cẩn thận và cần có tham gia của cha mẹ trẻ.

Bảng 30-9. Các ví dụ về hoạt động thể lực trung bình

Các thói quen và hoạt động hàng ngày

  • Quét lá cây trong 30 phút
  • Đi bộ 2 dặm (≈ 3,2km) trong 30 phút
  • Đẩy xe đẩy 1,5 dặm (≈ 2,4 km) trong 30 phút
  • Làm vườn trong 30-45 phút
  • Lau cửa sổ và cửa ra vào trong 45-60 phút
  • Rửa xe ôtô trong 45-60 phút

Các hoạt động thể lực thể thao

  • Chạy 1,5 dặm (≈ 2,4 km)trong 15 phút
  • Bơi sải trong 20 phút
  • Tập aerobic dưới nước trong 30 phút
  • Nhảy nhanh trong 30 phút
  • Đi xe đạp 5 dặm (≈ 8km) trong 30 phút
  • Chơi bóng rổ trong 15-20 phút hoặc chơi bóng chuyền trong 45-60 phút

Nguồn: The Practical Guide: Identification and Treatment of Overweight and Obesity in Adults, NIH Publication No. 00-4084; 2000.

Điều trị bằng thuốc

Điều trị bằng thuốc được chỉ định cho bệnh nhân có BMI > 30 (hoặc BMI > 27 nhưng có kèm theo các bệnh lý do béo phì gây ra) khi các đối tượng này không thể đạt được mục tiêu giảm cân sau khi đã cố gắng chủ động thử tham gia vào chương trình thay đổi lối sống. Chỉ nên sử dụng các thuốc làm giảm cân như một biện pháp bổ sung cho chương trình điều trị thay đổi lối sống, mà không phải như một biện pháp thay thế cho những chương trình này, do điều trị bằng thuốc kém hiệu quả khi sử dụng đơn độc so với khi được dùng kết hợp với các chương trình xử trí cân nặng toàn diện. Một số loại thuốc (ví dụ: phentermin) chỉ được phê chuẩn cho điều trị ngắn ngày đối với tình trạng béo phì. Chỉ có hai loại thuốc: orlistat và sibutramin, hiện tại được chấp thuận cho chỉ định điều trị kéo dài. Thuốc điều trị giảm cân chỉ hiệu quả trong thời gian uống thuốc, vì vậy chúng tôi khuyến cáo chỉ các thuốc được phê chuẩn cho điều trị kéo dài mới được sử dụng trong thực hành thường quy.

Tất cả các thuốc đã được phê chuẩn tác động như một chất gây chán ăn, ngoại trừ orlistat là thuốc có tác dụng ức chế hấp thu chất béo của thức ăn. Các chất gây chán ăn tác động lên trung tâm cảm giác no ở não để giảm lượng đồ ăn được ăn vào, số lần ăn trong ngày, hoặc cả hai. Methamphetamin được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê chuẩn cho điều trị ngắn hạn đối với tình trạng béo phì, nhưng đây cũng là thuốc bị Cơ quan Bài trừ ma túy Hoa Kỳ (Drug Enforcement Agency [DEA]) liệt vào thuốc nhóm II và cần tránh sử dụng do nguy cơ tiềm ẩn gây nghiện và lạm dụng thuốc. Ba thuốc gây chán ăn đã bị loại khỏi thị trường do làm tăng nguy cơ bị bệnh van tim (fenfluramin và dexfenfluramin) hoặc đột quỵ loại chảy máu não (phenylpropanolamin).

Orlistat (Xenical) gắn với lipase trong lòng ruột và ức chế chuyển hóa chất béo có trong thức ăn. ức chế tiêu hóa chất béo làm giảm sự tạo thành các vi hạt hỗn hợp và hấp thu các acid béo chuỗi dài, cholesterol và một số vitamin tan trong mỡ. Orlistat không tác động tới tác dụng của lipase hệ thống hoặc lipase tại các hệ cơ quan khác, vì nó chỉ được hấp thu không đáng kể (< 1%) qua đường tiêu hóa. Liều được khuyến cáo là uống 1 viên nang 120mg vào mỗi bữa ăn (có thể tới 3 lần/ngày) kết hợp với chế độ ăn giảm calo tức là các bữa ăn chứa không quá 30% tổng lượng calo cung cấp từ toàn bộ các chất béo và cho mỗi bữa ăn. Tác dụng phụ thường gặp nhất khi điều trị bằng orlistat là ở đường tiêu hóa (ví dụ: ỉa phân mỡ/phân dầu, tăng số lần đi ngoài, buồn đi ngoài không thể nhịn được). Các tác dụng phụ này thường xảy ra sớm trong quá trình điều trị (trong vòng 4 tuần đầu) và tự khỏi khi tiếp tục dùng thuốc. Ngoài ra, do orlistat ngăn cản hấp thu các vitamin tan trong mỡ và beta-caroten, tất cả các bệnh nhân được điều trị bằng orlistat cần uống vitamin tổng hợp hàng ngày, ít nhất 2 giờ trước hoặc sau khi uống orlistat. Cuối cùng, bệnh nhân phải được cảnh báo trước về các vấn đề về tiêu hóa trong thời gian đầu tiến hành điều trị bằng Orlistat để họ có kế hoạch tránh những nơi không có sẵn nhà vệ sinh để giải quyết “nỗi buồn”. Gần đây, đã cỏ bán trên thị trường viên nhộng orlistat 60mg (Alli) để sử dụng cho bệnh nhân như thuốc không cần kê đơn.

Sibutramin (Meridia) là một dẫn xuất của tiền chất amphetamin-P- phenylethylamin, chất này đã được làm thay đổi cấu trúc hóa học để hạn chế nguy cơ tiềm ẩn dùng lạm dụng thuốc. Sibutramin làm tăng cảm giác no bằng cách gây ngăn cản tái bắt giữ các chất dẫn truyền thần kinh monoamin (ví dụ: serotonin, norepinephrin và ở mức thấp hơn là dopamin) ở vùng dưới đồi. Tác dụng phụ thường gặp nhất khi sử dụng sibutramin là khô miệng, táo bón và mất ngủ, tuy nhiên các tác dụng phụ này thường nhẹ và thoáng qua. Do thuốc có tác dụng noradrenergic, điều trị bằng sibutramin đi kèm với tình trạng tăng huyết áp và nhịp tim liên quan với liều dùng (ví dụ: dùng sibutramin liều 10-15 mg/ngày sẽ làm tăng huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trương từ 2-4 mmHg và làm tăng nhịp tim từ 4 -6 nhịp/phút). Một số bệnh nhân có biểu hiện bị tăng huyết áp và nhịp tim nhiều hơn và cần giảm liều hoặc ngừng điều trị. Chống chỉ định dùng Sibutramin bao gồm: tăng huyết áp kém được kiểm soát, bệnh mạch vành, suy tim ứ huyết, loạn nhịp tim, đột quỵ, suy chức năng gan thận nặng, hoặc đang điều trị đồng thời bằng thuốc ức chế MAO (monoamin oxidase). Liều Sibutramin khởi đầu được khuyến cáo là 10 mg/ngày uống 1 lần/ngày vào buổi sáng để tránh gây rối loạn giấc ngủ. Để tăng cường hiệu quả tác dụng của thuốc, cần khuyên bệnh nhân chú ý khi cảm thấy no là thời điểm để kết thúc bữa ăn. Do tác dụng phụ tiềm tàng của thuốc, cần theo dõi sát huyết áp và nhịp tim.

Nếu không thấy có tác dụng giảm cân sau khi sử dụng Orlistat hoặc Sibutramin từ 1-2 tháng (có kết hợp với điều trị thay đổi lối sống) nên dừng uống thuốc. Nếu đạt được hiệu quả giảm cân trong vòng vài tháng đầu sử dụng thuốc, thuốc phải tiếp tục được dùng chừng nào bệnh nhân còn duy trì được tình trạng giảm cân và không có biểu hiện tác dụng phụ có hại. Như đã đề cập ở trên, bệnh nhân thường tăng cân trở lại nếu ngừng điều trị bằng thuốc ngay cả khi đang điều trị giảm cân có kết quả. Các dữ liệu từ các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng sử dụng orlistat hoặc sibutramin ở trẻ vị thành niên còn rất hạn chế, nhưng dường như là điều trị hứa hẹn. Cuối cùng, khi bắt đầu điều trị bằng thuốc cho bệnh nhân béo phì, bác sỹ chỉ định phải cảnh báo cho bệnh nhân về gánh nặng tài chính, do các thuốc này thường không được bảo hiểm y tế chi trả.

Điều trị phẫu thuật

Phẫu thuật giảm béo có thể là sự lựa chọn phù hợp với bệnh nhân có BMI > 40 (hoặc BMI > 35 với các bệnh lý đi kèm do béo phì gây ra). Phẫu thuật giảm béo là phương pháp hiệu quả nhất hiện có để điều trị béo phì, tuy nhiên do đây là một thủ thuật xâm lấn nên kỹ thuật này cần được dành cho những bệnh nhân không đạt được tình trạng giảm cân thỏa đáng sau các nỗ lực điều trị khác. Chống chỉ định bao gồm: bệnh nhân có tiền sử không tuân thủ với điều trị nội khoa, một số bệnh lý tâm thần có thể làm ảnh hưởng tới tuân thủ phác đồ điều trị sau phẫu thuật (trầm cảm không được kiểm soát, lạm dụng thuốc hoặc rối loạn nhân cách), hoặc có bệnh lý nội khoa đi kèm làm tăng nguy cơ phẫu thuật tới mức khó chấp nhận. Cũng như điều trị bằng thuốc, điều trị phẫu thuật chỉ được thực hiện khi kết hợp với thay đổi lối sống, chế độ ăn có lợi cho sức khỏe và tăng cường hoạt động thể lực. Phẫu thuật giảm béo ngày càng được áp dụng nhiều và được coi như một biện pháp điều trị béo phì hữu hiệu ờ trẻ vị thành niên, song phẫu thuật giảm béo đối với trẻ vị thành niên chỉ chiếm < 1% trong số các ca phẫu thuật giảm béo ở Mỹ và dữ liệu về kết cục chung hiện vẫn còn chưa đầy đủ.

Phẫu thuật giảm béo được chia làm 2 nhóm chính – nhóm chủ yếu làm hạn chế thể tích dạ dày và nhóm chủ yếu gây tình trạng kém hấp thu (ví dụ: phẫu thuật chuyển hướng mật tụy – biliopancreatic diversion). Cho tới hiện tại, phẫu thuật thuật thông dụng nhất trong điều trị giảm béo là phẫu thuật nối thông dạ dày kiểu Roux- en-Y (Roux-en Y gastric bypass) và phẫu thuật tạo hình thắt đai dạ dày bằng nội soi (laparoscopic adjustable gastric banding).

Bệnh nhân phải được đánh giá cẩn thận trước khi quyết định phẫu thuật giảm béo. Không có tiêu chuẩn nào thống nhất nào đã được chấp nhận cho việc đánh giá này; tuy nhiên, việc này được thực hiện tốt nhất bởi một nhóm các nhà phẫu thuật, y tá điều dưỡng, chuyên gia dinh dưỡng và các chuyên khoa khác nếu cần (ví dụ: các chuyên gia tâm thần/tâm lý học, chuyên gia tim mạch, hô hấp). Ngoài ra, bệnh nhân phải được tư vấn trước và kỹ lưỡng về chi phí điều trị, đặc biệt là phải xác định rõ là bảo hiểm y tế có chi trả cho cuộc phẫu thuật này hay không, và nếu được bảo hiểm chi trả, cần kiểm tra các yêu cầu đặc biệt từ phía bảo hiểm để được chi trả khi biết là các yêu cầu này rất thay đổi tùy theo cơ sở bảo hiểm. Sau phẫu thuật, bên cạnh theo dõi biến chứng, bệnh nhân cần được đánh giá lại các thay đổi trong phác đồ dùng thuốc điều trị nếu bệnh lý đi kèm được cải thiện nhờ việc giảm cân. Ví dụ, giảm cân sau phẫu thuật có thể làm giảm liều thuốc điều trị đái tháo đường một cách đáng kể.

Phẫu thuật nối thông dạ dày kiểu Roux-en-Y

Phẫu thuật nối thông dạ dày là phẫu thuật giảm béo thông dụng nhất hiện nay, chiếm khoảng 70% các thủ thuật phẫu thuật giảm béo hiện đang được tiến hành ở Mỹ. Trong thủ thuật này, tạo một túi nhỏ (thể tích khoảng 10-30 mL) ở phần trên của dạ dày bằng cách kẹp hay cắt ngang dạ dày. Đường ra của túi này được nối thông với một đoạn của hỗng tràng tạo ra hình dáng giống từ t,Roux-en-Y,>. Các men tiêu hóa tiết ra từ tụy và mật, được giải phóng từ túi mật vào đoạn hai tá tràng, không tiếp xúc với thức ân cho tới khi đi tới đoạn xa chỗ nối ờ cành Roux. Tăng độ dài của cành Roux làm tâng tình trạng giảm hấp thu và giảm cân, và độ dài của cành Roux tùy thuộc vào đích giảm cân mong muốn (tùy thuộc vào BMI của bệnh nhân). Biến chứng sớm của kỹ thuật là: chảy máu, dò miệng nối dạ dày-ruột gây viêm phúc mạc, tổn thương lách; các biến chứng muộn như hẹp miệng nối, loét miệng nối, dính miệng nối, giãn đoạn dạ dày được nối thông, thoát vị ruột, suy dinh dưỡng và hội chứng tháo rỗng dạ dày (hội chứng Dumping). Tùy thuộc vào đặc điểm của bệnh nhân, thủ thuật làm đường nối tắt dạ dày có thể thực hiện bằng kỹ thuật nội soi bởi các chuyên gia phẫu thuật giàu kinh nghiệm, và phương pháp này có các ưu điểm như ít tai biến và hồi phục nhanh (mặc dù thời gian phẫu thuật có thể lâu hơn đối với khi tiến hành thủ thuật qua nội soi).

Phẫu thuật nội soi tạo hình thắt đai dạ dày

Kỹ thuật này thực hiện đặt một đai Silicon bao quanh phần trên của dạ dày, từ đầu xa của dạ dày tới chỗ nối thực quản – dạ dày. Đai này nối với một cổng được cấy ở dưới da từ đó có thể thay đổi kích cỡ của đai bằng cách bơm vào hoặc rút bớt dung dịch muối. Như vậy, kích cỡ của đai và dạ dày được điều chỉnh qua thời gian như mong muốn dựa vào mức độ giảm cân. Tỷ lệ mắc và mức độ nặng của biến chứng gặp trong kỹ thuật này thấp hơn so với phẫu thuật nối thông dạ dày. Biến chứng chủ yếu của phẫu thuật nội soi thắt đai dạ dày là trượt đai, giãn thực quản, đai bào mòn dạ dày, nhiễm trùng đai hoặc vị trí đeo đai, dò bóng sẽ làm giảm hiệu quả giảm cân.

Tiên lượng

Các bệnh nhân khi tuân thủ các chương trình thay đổi lối sống – hành vi một cách toàn diện sẽ làm giảm được trọng lượng cơ thể của họ trung bình vào khoảng 9% sau khoảng 5-6 tháng, song trong vòng 1 năm sau khi ngừng điều trị họ lại tăng trở lại khoảng 30% đến 35% trọng lược đã mất khi áp dụng chương trình giảm cân trước đó. Mất cân trung bình sau 1 năm vào khoảng 5% so với cân nặng ban đầu và tình trạng mất cân này vẫn có ý nghĩa y học. Có một số bằng chứng cho thấy các chương trình giảm cân đối với trẻ đi học có thể có các tác động dài hạn tốt hơn khi so sánh với các chương trình giảm cân áp dụng cho người lớn. Các nhà nghiên cứu đang đánh giá các chiến lược giúp cải thiện tác dụng duy trì dài hạn của điều trị giảm cân bằng thay đổi hành vi ở người lớn và trẻ em, bao gồm kéo dài thời gian điều trị, bổ sung thêm giáo dục duy trì cân nặng đặc hiệu sau khi tiến hành giảm cân, và cung cấp một loạt các kiểu chăm sóc liên tục (ví dụ: họp nhóm định kỳ, gặp mặt kiểm tra từng đối tượng trong thời gian ngắn, tiếp xúc qua thư điện tử hoặc điện thoại).

Đối với dùng thuốc điều trị, các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng chỉ ra rằng các bệnh nhân dùng orlistat sẽ mất cân trong năm đầu tiên nhiều hơn 4% so với các đối tượng dùng giả dược, và vào năm thứ tư khác biệt vào khoảng 3%. Đối với sibutramin, một nghiên cứu các liều thay đổi thấy rằng các bệnh nhân dùng Sibutramin sẽ mất cân nhiều hơn trung bình từ 3 đến 6% so với các đối tượng dùng giả dược sau 6 tháng, tùy thuộc vào liều sibutramin. Đối với điều trị phẫu thuật, các dữ liệu chỉ dẫn phẫu thuật làm cầu nối tắt dạ dày giúp làm giảm trung bình ~70% cân nặng thừa (tức là giảm khác biệt giữa cân nặng hiện có so với cân nặng lý tưởng) vào năm thứ 2 sau phẫu thuật, về lâu dài, bệnh nhân mất khoảng 25% tổng trọng lượng cơ thể hoặc khoảng 50% cân thừa của cơ thể. Một phân tích gộp chỉ ra rằng thủ thuật đóng đai dạ dày có thể điều chỉnh được vòng đai bằng nội soi làm giảm cân ít hơn (làm giảm thấp hơn 〜10% trọng lượng cơ thể thừa), song khác biệt này theo thời gian sẽ trở nên không rõ ràng. Một lần nữa, cần ghi nhớ rằng một điều quan trọng là để có được một kết cục có lợi khi dùng thuốc điều trị hoặc phẫu thuật, vẫn cần phối hợp với điều trị thay đổi lối sống. Ngoài ra, đối với tất cả các biện pháp điều trị nói trên, các tình trạng bệnh lý nội khoa đi kèm của bệnh nhân như tăng huyết áp, các vấn đề về chỉnh hình, các triệu chứng liên quan với bệnh đái tháo đường typ 2 thường sẽ cho thấy có cải thiện rõ rệt khi tiến hành điều trị giảm cân.

Các chủ đề đặc biệt

Bệnh viện và các phòng khám cần được trang bị các thiết bị và vật dụng chuyên dụng cho phù hợp với các bệnh nhân béo phì. Hai ví dụ cơ bản là băng đo huyết áp kích thước cực rộng quần áo bệnh nhân phải có sẵn để dùng khi cần. Phòng khám phải có các ghế bành rộng kể cả các ghế bành có hoặc không có tay vịn (có bộ hỗ trợ thêm khi chuyển từ tư thế nằm sang tư thế đứng). Bệnh viện cần có các xe lăn có lòng cực rộng, cũng như một số giường bệnh có thể hỗ trợ đo huyết áp đủ rộng, quần áo bệnh nhân phải đủ lớn. Phòng khám nên có ghế to hơn, có tay vịn chắc, rộng (để giúp bệnh nhân chuyển từ tư thế nằm ngửa sang đứng dậy) hoặc không có tay ghế. Bệnh viện nên có các xe lăn to, giường nằm cho người béo phì có thể sử dụng được cho các bệnh nhân bị béo phù nặng. Danh mục các thiết bị và dụng cụ cho một phòng khám y tế để tiếp nhận bệnh nhân béo phì có thể tìm thấy online từ địa chỉ của AMA, http://www.ama-assn.org/ama1/pub/upload/mm/433/officeenvirom-ent.pdf

NHỮNG ĐIỂM QUAN TRỌNG CẦN NHỚ

  • Béo phì là một tình trạng bệnh lý mạn tính cần sự chăm sóc y tế liên tục, kể cả theo dõi định kỳ.
  • Béo phì được kết hợp với nhiều vấn đề y tế và tâm lý xã hội, và tỷ lệ hiện mắc đang tăng lên nhanh chóng.
  • Điều trị thay đổi lối sống là hướng điều trị chủ chốt. Điều trị phẫu thuật và điều trị bằng thuốc có thể được chỉ định, và cần kết hợp với điều trị thay đổi lối sống nếu bệnh nhân không đạt được hiệu quả mong muốn khi chỉ áp dụng các chương trình điều trị thay đổi lối sống đơn thuần. Thuốc điều trị chỉ có tác dụng chừng nào bệnh nhân còn tiếp tục dùng thuốc.
  • Thay đổi lối sống khi khởi đầu và để duy trì giảm cân thường khó khăn. Các thày thuốc cần hỗ trợ và phát hiện các rào cản đối với bệnh nhân. Gửi bệnh nhân tới các chương trình quản lý cân nặng toàn diện hoặc các chuyên gia có kinh nghiệm có thể giúp bệnh nhân đạt được tình trạng giảm cân thành công.

 

Isoxazolylpenicillin ( thuốc kháng sinh Penicillin Nhóm M )

Tính chất: penicillin kháng ß -lactamase, tác dụng với các tụ cầu tiết men penicillinase.

Chỉ định

  1. Nhiễm khuẩn do tụ cầu tiết men penicillinase, nhất là nhiễm trùng lành tính ở mặt, viêm xương tủy, nhiễm trùng đường hô hấp, nhiễm trùng máu.
  2. Penicillin M không được chỉ định trong viêm màng não (phân tán kém trong dịch não tuỷ).
  3. Kém hiệu quả hơn là benzylpenicillin (penicillin G) trong các nhiễm trùng do các chủng nhậy cảm.
  4. Không cần giảm liều khi suy thận nhẹ nhưng nên giảm khi suy thận nặng.

Thận trọng

  1. Khi có thai và cho con bú: lưu ý thuốc có thể di chuyển qua rau thai và sữa mẹ.
  2. Lời khuyên với người bệnh: nên uống thuốc vào lúc đói, l-2h trước bữa ăn.
  3. Với người được điều trị bằng thuốc uống chống đông máu nhóm coumarin, có thể cần phải giảm liều (kiểm tra thời gian Quick).

Tác dụng phụ (xem benzylpenicillin): viêm thận kẽ cấp tính là một biến chứng hay gặp nhất do penicillin kháng của p – lactamase so với các penicillin khác.

Tương tác: như với benzylpenicillin

CÁC BIỆT DƯỢC

  • Cloxacillin
  • Orbénine ® (SmithKline Beecham)
  1. Theo đường uống: người lớn 1- 3g/ngày, trẻ em 25-50 mg/kg/ngày, chia 2-4 lần.
  2. Theo đường tiêm bắp hay tĩnh mạch: người lớn và trẻ em 50- 100mg/kg/ngày.
  • Oxacillin
  • Bristopen ® (Bristol – Myers Squibb)
  1. Theo đường uống: Người lớn 1- 3g/ngày, trẻ em 25- 50mg/kg/ngày, chia 2-4 lần.
  2. Theo đường tiêm bắp hay tĩnh mạch: người lớn và trẻ em 50- 100mg/kg/ngày.

Neoamiyu

NEOAMIYU

Dung dịch tiêm truyền: túi nhựa 200 ml, thùng 30 túi.

THÀNH PHẦN

cho 1 túi (200 ml)
L-Isoleucine 1,500 g
L-Leucine 2,000 g
L-Lysine acetate 1,400 g
L-Methionine 1,000 g
L-Phenylalanine 1,000 g
L-Threonine 0,500 g
L-Tryptophane 0,500 g
L-Valine 1,500 g
L-Alanine 0,600 g
L-Arginine 0,600 g
Acid L-Aspartic 0,050 g
Acid L-Glutamic 0,050 g
L-Histidine 0,500 g
L-Proline 0,400 g
L-Serine 0,200 g
L-Tyrosine 0,100 g
Acid amino acetic 0,300 g
Tổng lượng acid amin 12,200 g
Nồng độ acid amin 6,100% kl/tt
Hàm lượng nitơ toàn phần 8,1 mg/ml
Nồng độ acid amin tự do toàn phần 5,90% kl/tt
Acid amin thiết yếu / Acid amin không thiết yếu 3,21
Na+ # 2 mEq/l
CH3COO- # 47 mEq/l
Chất thêm vào:
L-Cysteine 0,050 g
Natri bisulfite 0,050 g

TÍNH CHẤT

Neoamiyu là một dung dịch nước không màu và trong suốt dùng để tiêm truyền.

 

pH Tỷ số áp suất thẩm thấu
6,6-7,6 # 2

DƯỢC LỰC

Liệu pháp acid amin thiết yếu cho bệnh nhân suy thận được dùng qua đường truyền tĩnh mạch ngoại vi trên các bệnh nhân lọc máu và bệnh nhân suy thận mãn ở giai đoạn bảo tồn. Liệu pháp này cũng được dùng để cung cấp dinh dưỡng toàn phần qua đường tiêm truyền (TPN – Total Parenteral Nutrition) cho bệnh nhân suy thận cấp. Người ta đã ghi nhận liệu pháp có cải thiện chuyển hóa protein và acid amin và cũng làm giảm các triệu chứng do urê huyết tăng cũng như làm chậm quá trình suy yếu thể trạng ở người suy thận

Tuy nhiên, có những báo cáo là khi dùng chế phẩm acid amin thiết yếu cho bệnh nhân suy thận, các phản ứng phụ như buồn nôn và nôn có thể xảy ra, và khi dùng một chế phẩm acid amin thiết yếu trong điều kiện tỷ số calo/nitơ thấp trong TPN có thể xảy ra rối loạn ý thức kèm với tăng ammoniac huyết.

Neoamiyu là một chế phẩm mới, vẫn có các tác dụng của một chế phẩm acid amin thiết yếu cho suy thận, đó là các tác dụng duy trì chức năng thận và giảm các triệu chứng do urê huyết tăng. Bên cạnh đó, thuốc này bổ sung thêm các acid amin một cách tích cực hơn, an toàn và dễ sử dụng, và có một hiệu quả dinh dưỡng đầy đủ. Đó là một dung dịch tiêm truyền acid amin toàn phần dùng cho suy thận, giàu các acid amin thiết yếu và có chứa các acid amin không thiết yếu.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Hấp thu, phân bố, chuyển hóa, thải trừ:

Neoamiyu đánh dấu bởi 14C được tiêm cho chuột cống bình thường và chuột cống suy thận mãn nhận TPN. Mức độ phóng xạ cao ở các mô có tổng hợp protein hoặc tăng trưởng tế bào cao, như tụy tạng, tuyến nước bọt, ruột non và gan. Không có khác biệt về mức độ phóng xạ trong mô giữa hai nhóm nghiên cứu. Bài tiết 14CO2 trong hơi thở khoảng 44% trong vòng 72 giờ sau khi tiêm. Bài tiết vào nước tiểu thấp khoảng 5%. Như vậy, các acid amin tiêm vào được cơ thể sử dụng nhiều.

CHỈ ĐỊNH

Cung cấp các acid amin cho suy thận cấp và mãn trong các trường hợp sau:

  • Thiếu protein máu
  • Suy dinh dưỡng
  • Trước và/hoặc sau khi phẫu thuật

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

  • Hôn mê gan hoặc có thể hôn mê gan (rối loạn cân bằng acid amin có thể bị thúc đẩy làm nặng thêm hoặc dẫn đến hôn mê gan).
  • Tăng ammoniac huyết (quá tải nitơ có thể làm nặng thêm chứng tăng ammoniac huyết).
  • Bất thường bẩm sinh trong chuyển hóa acid amin (các acid amin đưa vào có thể không được chuyển hóa làm các triệu chứng nặng thêm).

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG và THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Thận trọng chung:

  • Dùng Neoamiyu khi chất dinh dưỡng không thể hoặc không được cung cấp đủ qua đường miệng cần phải nuôi bằng đường tiêm truyề
  • Dùng một chế phẩm acid amin thiết yếu cho suy thận là nguồn nitơ duy nhất được ghi nhận đã gây ra tăng ammoniac huyết hoặc rối loạn ý thứ Vì lẽ đó, ngừng dùng Neoamiyu ngay nếu thấy có một bất thường như giảm các cử động tự chủ hoặc nói nhảm.

Cẩn thận khi truyền cho những bệnh nhân sau:

  • Rối loạn chức năng tim hoặc tim mạch (lưu lượng tuần hoàn tăng gây gánh nặng cho tim và làm nặng thêm các triệu chứng).
  • Tổn thương gan hoặc xuất huyết dạ dày ruột (gây tích lũy quá mức acid amin hoặc tăng ammoniac máu).
  • Rối loạn điện giải nặng hoặc mất thăng bằng acid-bazơ (các triệu chứng có thể nặng thêm). Ở người già:

Nói chung các chức năng sinh l{ đều giảm ở người già. Nên thận trọng bằng cách truyền chậm hoặc giảm liều.

Ở trẻ em:

Sự an toàn khi sử dụng ở trẻ em chưa được xác định (chưa có kinh nghiệm lâm sàng). Cần chú ý khi sử dụng:

 Trước khi dùng:

Tinh thể có thể kết tủa. Trong trường hợp này hâm nóng dung dịch lên 50-60oC để làm tan tinh thể. Sau đó làm nguội dung dịch đến nhiệt độ của cơ thể và sử dụng.

Không được sử dụng dung dịch không hoàn toàn trong suốt.

Một khi đã mở nắp, thuốc phải được sử dụng ngay và thuốc thừa không được sử dụng lại.

Trong khi dùng:

Bệnh nhân suy thận mãn nằm viện mà không phải lọc máu, giảm 5 đến 10 g protid từ số lượng đạm có trong thức ăn cho mỗi 200 ml trước khi sử dụng thuốc.

Thuốc chứa khoảng 2 mEq/l Natri và 47 mEq/l acetate. Trong trường hợp dùng một lượng lớn hoặc có phối hợp với một dịch truyền có chất điện giải cần phải kiểm tra sự thăng bằng điện giải trong cơ thể.

Tốc độ tiêm: truyền tĩnh mạch chậm.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Sự an toàn của thuốc trong khi có thai chưa được xác định. Sử dụng thuốc ở phụ nữ có thai hoặc có thể có thai đòi hỏi lợi ích dự tính phải hơn hẳn các nguy cơ có thể xảy ra.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Tăng cảm: ngứa toàn thân có thể xảy ra không thuờng xuyên. Phát ban hoặc nổi mề đay toàn thân hiếm xảy ra. Nếu như có các triệu chứng này thì ngừng điều trị.

Dạ dày ruột: buồn nôn, nôn hoặc chán ăn có thể xảy ra không thường xuyên.

Tim mạch: khó chịu ở ngực hoặc đánh trống ngực có thể xảy ra không thường xuyên. Liều cao, truyền nhanh: truyền nhanh với liều cao có thể gây nhiễm toan.

Các dấu hiệu khác: đau đầu, tắc mũi / chảy mũi, toan chuyển hóa, tăng creatinin, hoặc tăng GOT và GPT có thể xảy ra không thường xuyên. Quá tải acid amin do thuốc có thể gây tăng BUN không thường xuyên. Hiếm khi có sốt, rét run, cảm giác nóng, nóng bỏng ở đầu, hoặc đau dọc mạch máu.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Liều lượng:

Suy thận mãn:

– Liều thường dùng cho người lớn là 200 ml một lần mỗi ngày, truyền tĩnh mạch ngoại vi nhỏ giọt chậm. Tốc độ truyền cơ bản là 200 ml trong 120 phút đến 180 phút (khoảng 25 đến 15 giọt/phút), chậm hơn đối với trẻ em, người già hay người bị bệnh nặng. Liều có thể tăng hay giảm tùy giai đoạn, triệu chứng hay thể trọng bệnh nhân. Đối với bệnh nhân lọc máu, thuốc được truyền vào bên tĩnh mạch của tuần hoàn thẩm tách, bắt đầu từ 90 đến 60 phút trước khi hoàn thành việc chạy thận. Để các acid amin được sử dụng có hiệu quả trong cơ thể, năng lượng cung cấp ít nhất phải là 1500 Kcal/ngày.

Trong trường hợp TPN, liều thường dùng cho người lớn là 400 ml/ngày, truyền nhỏ giọt vào  tĩnh mạch trung tâm. Liều có thể thay đổi tùy tuổi, triệu chứng hay thể trọng bệnh nhân. Để các acid amin được sử dụng có hiệu quả trong cơ thể, phải cung cấp ít nhất 500 Kcal năng lượng phi protein cho mỗi 1,6 g nitơ đưa vào (200 ml Neoamiyu).

Suy thận cấp:

Liều thường dùng cho người lớn là 400 ml/ngày, truyền nhỏ giọt qua đường tĩnh mạch trung tâm theo TPN. Liều có thể thay đổi tùy tuổi, triệu chứng và thể trọng bệnh nhân. Để các acid amin được sử dụng có hiệu quả trong cơ thể, phải cung cấp ít nhất 500 Kcal năng lượng phi protein cho mỗi 1,6 g nitơ đưa vào (200 ml Neoamiyu).

Thận trọng khi dùng:

  • Không cần dùng kim dẫn khí.
  • Để giữ cho dung dịch không trở nên có màu, không mở bao ngoài cho đến khi nào sẵn sàng dùng. (Có chất hấp thụ oxy đặt bên trong bao ngoài để giữ cho sản phẩm ổn định).
  • Không được dùng nếu dung dịch, bình thường trong suốt, trở nên có màu, hoặc nếu bị rò rỉ hoặc có giọt nước đọng bên trong bao ngoài.
  • Không được dùng nếu miếng phim niêm nút cao su bị bóc.
  • Đâm kim tiêm thẳng qua điểm có dấu O trên nút cao Nếu đâm nghiêng có thể làm thủng bao ngoài và gây rò rỉ.
  • Cẩn thận nhẹ tay với bao ngoài vì dung dịch sẽ trở nên có màu nếu bao ngoài bị hỏ
  • Thước đo trên túi plastic được dùng để tham khảo

BẢO QUẢN

Bảo quản ở nhiệt độ phòng

Liều lượng thuốc chống trầm cảm

Khi kê đơn thuốc chống trầm cảm, bác sĩ thường chọn liều thấp nhất có thể cần thiết để cải thiện triệu chứng của bạn.

Cách tiếp cận này nhằm mục đích giảm nguy cơ tác dụng phụ. Nếu liều này không hiệu quả, có thể tăng dần liều lượng.

Thuốc chống trầm cảm thường được sử dụng dưới dạng viên nén. Tùy thuộc vào loại thuốc chống trầm cảm được kê đơn và mức độ trầm cảm của bạn, bạn có thể phải uống từ 1 đến 3 viên mỗi ngày.

Thường mất khoảng 7 ngày trước khi bạn bắt đầu nhận thấy hiệu quả của thuốc chống trầm cảm. Hãy liên hệ với bác sĩ của bạn nếu bạn không thấy bất kỳ sự cải thiện nào sau 4 tuần, vì họ có thể khuyên bạn tăng liều hoặc thử một loại thuốc chống trầm cảm khác.

Thường được khuyến nghị rằng liệu trình sử dụng thuốc chống trầm cảm nên kéo dài ít nhất 6 tháng sau khi bạn cảm thấy tốt hơn, để ngăn ngừa tình trạng của bạn tái phát khi bạn ngừng thuốc. Một số người có bệnh tái phát được khuyên nên tiếp tục dùng thuốc vô thời hạn.

Liệu trình điều trị được khuyến nghị phần lớn phụ thuộc vào việc đánh giá lợi ích của thuốc so với tác dụng phụ. Nếu bệnh của bạn nặng và thuốc có hiệu quả, điều trị thường sẽ tiếp tục. Nếu bệnh của bạn nhẹ và thuốc không giúp ích và gây ra tác dụng phụ, việc tiếp tục điều trị sẽ không được khuyến nghị.

Trẻ bị rối loạn lo âu
Trẻ bị rối loạn lo âu

Liều bị bỏ lỡ hoặc thừa

Điều quan trọng là không bỏ lỡ bất kỳ liều nào, vì điều này có thể làm giảm hiệu quả điều trị của bạn.

Bạn cũng có thể gặp phải các triệu chứng cai nghiện do bỏ lỡ liều thuốc.

Nếu bạn bỏ lỡ một liều thuốc, hãy bỏ qua liều đã quên và uống liều tiếp theo vào thời gian thông thường. Không uống gấp đôi liều để bù cho liều bạn đã bỏ lỡ.

Nếu bạn uống nhiều viên hơn so với liều đã kê, hãy liên hệ với bác sĩ càng sớm càng tốt để được tư vấn.

Ngừng sử dụng thuốc chống trầm cảm

Hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn trước khi bạn ngừng uống thuốc chống trầm cảm. Điều quan trọng là không ngừng dùng thuốc chống trầm cảm một cách đột ngột.

Khi bạn sẵn sàng ngừng thuốc chống trầm cảm, bác sĩ của bạn có thể sẽ khuyên bạn giảm dần liều lượng trong vài tuần – hoặc lâu hơn, nếu bạn đã sử dụng chúng trong thời gian dài.

Điều này giúp ngăn ngừa bất kỳ triệu chứng cai nào mà bạn có thể gặp phải khi ngừng thuốc. Những triệu chứng này bao gồm:

  • Cảm giác bồn chồn
  • Khó ngủ
  • Mất thăng bằng
  • Ra mồ hôi
  • Vấn đề dạ dày
  • Cảm giác như có điện giật trong đầu
  • Cảm thấy cáu kỉnh, lo âu hoặc bối rối

Các triệu chứng cai thường nhẹ và tự cải thiện. Tuy nhiên, một số người có thể gặp phải triệu chứng cai nặng và kéo dài trong vài tháng hoặc lâu hơn.

Ngừng dùng thuốc chống trầm cảm quá sớm có thể khiến tình trạng của bạn trở lại. Việc ngừng trước khi bạn đã dùng thuốc được 4 tuần có thể có nghĩa là thuốc chưa có cơ hội để phát huy tác dụng.

Áp xe quanh họng và ở cổ do tai

Những biến chứng ở cổ và ở họng do viêm tai thường xuất hiện muộn có khi ổ viêm ở tai đã gần khỏi rồi mà biến chứng mới bắt đầu.Do chúng ta hay tập trung lưu ý ở cổ mà bỏ sót nguyên nhân gây bệnh ở ta.

ĐẠI CƯƠNG .

  1. Nguyên nhân :

Nguyên nhân gây bệnh thường là viêm tai cấp tính hoặc viêm xương chũm ngoài cũng có thể gây ra viêm tấy hạch ở cổ.

  1. Bệnh sinh :

Quá trình viêm nhiễm đi từ tai xuống họng và cổ bằng một trong ba lối sau đây :

A) Đường bạch huyết: thường thấy ở trẻ em bị viêm ống tai ngoài.

Bệnh nhân bị viêm tấy hạch ở cổ hoặc hạch tuyến mang ti hoặc hạch sau tai.

B) Đường tĩnh mạch: thường thấy trong viêm tai xương chũm có kèm theo viêm nghẽn ở vịnh cảnh hoặc ở tĩnh mạch cảnh. Hạch và tổ chức liên kết ở máng cảnh bị viêm và có khi biến thành viêm tấy

C) Đường xương : là lối phổ biến.

Quá trình viêm lan từ sào bào và các tế bào chũm xuống mặt dưới xương chũm (tam giác cảnh nhĩ thân của Mouret, tam giác mỏm của Bezold và từ mặt này xuống tổ chức liên kết ở cổ gây ra các thể lâm sàng Murê hoặc Bezon mà chúng tôi đã trình bày ở phần viêm xương chũm. Quá trình viêm cũng có thể xuất phát từ apxe ngoài màng cứng, tiến về phía nền sọ. Mủ sẽ đổ vào tổ chức liên kết cổ qua lỗ rách sau hoặc qua lỗ rò xương chũm.

TRIỆU CHỨNG .

  1. Apxe bên cạnh họng :

Mủ đi từ xương đá hoặc mỏm xương chũm hoặc tam giác cánh nhị thân Murê đổ vào khoảng sau trâm (khoảng dưới tuyến mang tai sau của Sêbilô).

Trong giai đoạn đầu chúng ta chỉ thấy có chảy mủ tai và triệu chứng toàn thân như sốt dao động, bộ mặt nhiễm trùng, toàn thân suy sụp. Những triệu chứng đó làm cho chúng ta nghĩ đến một ổ viêm mủ ở sâu.

Sang giai đoạn toàn phát có triệu chứng nuốt đau, nhai đau, quay cổ khó, tiếng nói thay đổi âm sắc (nới như người ngậm kẹo trong miệng). Sờ vào cổ bệnh nhân kêu đau ở máng cảnh, ít khi có hiện tượng đóng bánh. Khám họng chúng ta thấy thành bên họng nổi phổng về phía trong, amydan và trụ sau cũng bị đẩy dồn về phía trong. Một đôi khi khối sưng lan xuống đến hạ – họng và gây ra khó thở.

Ngón tay sờ vào khối sưng có cảm giác căng.

Tiên lượng của apxe này tốt : sau khi giải quyết ổ viêm và chích rạch họng, apxe se khỏi, không để lại di chứng.

  1. Apxe thành họng :

Mủ xuất phát từ ổ viêm ở mỏm xương đá, đổ vào thành họng, giữa niêm mạc và lớp cân chung quanh họng. Túi mủ thường khu trú vào những điểm sau đây : loa vòi ơxtasi, màn hầu, nóc vòm.

Apxe lao vòi ơxtasi : bệnh nhân kêu nhức tai, ù tai, đau họng. Thành họng ở sau màn hầu sưng phòng.

Apxe màn hầu : nửa bên màng hầu bị sưng phồng và xệ xuống, lưỡi gà bi Phù nề, trụ trước bị nhâm nhiễm. Bệnh nhân nuốt đau, nói giọng mũi hở, uống nước hay sặc lên mũi.

Apxe nóc vòm : túi mủ khu trú ở sau cửa mũi sau làm cho bệnh nhân tắc mũi, nới giọng mũi kín. Soi mũi sau thấy một khối u tròn, nhẫn, đỏ che gần hết vòm mũi họng. Ngón tay sở có cảm giác căng mọng.

  1. Apxe ở vùng cổ :

Viêm nghẽn xoang tĩnh mạch bên hoặc vịnh cảnh thường hay gây ra viêm tấy máng cảnh. Riêng đối vớ túi mủ chung quanh xoang tĩnh mạch bên, nó có thể thoát qua lỗ rách sau và chảy xuống cổ gây ra apxe cổ. Nhưng bên cạnh những nguvên nhân này phải nói rằng, đại đa số các túi mủ ở cổ đều do viêm xương ở mặt dướí của xương chũm mà ra.

Triệu chứng không có gì đặc biệt.

Trong thể Bezon (Bezold) vùng sau tai có vẻ bình thường, vùng bên cạnh cổ sưng phồng, đầu trên và bờ sau của cơ ức đòn chũm sưng đỏ, da bị thâm nhiễm va đau. Quay cổ có khó khăn .

Trong thể Bezon giả hiệu, mủ chỉ khu trú ở mỏm chũm gây ra hiện tượng đóng bánh và viêm cơ ức đòn chũm: Bệnh nhân thường bị vẹo cổ hoặc quay cổ rất khó khăn.

Trong thể viêm tấy máng cảnh, túi mủ thường xuất hiện ở bờ trước cơ ức đòn chũm. Trong thể viêm xương chũm sau dưới, mủ thường đổ về phía dưới chẩm và vùng gáy tạo thành một túi mủ lùng nhùng dưới da đầu.

ĐIỀU TRỊ

Đối với viêm hạch chúng ta có thể điều trị bằng kháng sinh hoặc văcxin (propidon) và có khi phải chích apxe.

Đối với túi mủ ổ viêm xương hoặc viêm tĩnh mạch chúng ta phải giải quyết Ổ viêm (phẫu thuật nạo xương chũm, mở sào bào thượng nhĩ, kho t rỗng đá chũm…) và rạch da ở cổ để dẫn lưu mủ. Trong trường hợp apxe thành họng chúng ta phải chích rạch trong họng để tháo mủ.

Kháng sinh ở đây chỉ có tác dụng tốt sau khi phẫu thuật.

Huyệt Yêu Dương Quan – vị trí, tác dụng, nằm ở đâu

Yêu Dương Quan

Tên Huyệt:

Huyệt ở vùng lưng (yêu), bên trong ứng với Đơn Điền, là giao điểm của Nguyên Dương và Nguyên Âm. Huyệt thuộc mạch Đốc, là biển của Dương mạch, là cửa ải (quan) của Dương, vì vậy gọi là Yêu Dương Quan (Trung Y Cương Mục).

Tên Khác:

Dương Quan.

Xuất Xứ:

Thiên ‘Cốt Không Luận’ (Tố Vấn.60).

Đặc Tính:

Huyệt thứ 3 của mạch Đốc.

Vị Trí:

Chỗ lõm dưới mỏm gai đốt sống thắt lưng 4 – 5, ngang với mào chậu.

Giải Phẫu:

Dưới da là cân ngực-thắt lưng của cơ lưng to, chỗ bám của cân khối cơ chung rãnh cột sống, cơ ngang-gai, dây chằng trên gai, dây chằng gian gai, dây chằng vàng, ống sống.

Thần kinh vận động cơ là các nhánh dây thần kinh sống.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh D12.

Tác Dụng:

Ôn huyết thất, ôn tinh cung, điều Thận khí, lợi vùng lưng và gối, khư? hàn thấp ở hạ tiêu.

Chủ Trị:

Trị vùng thắt lưng cùng đau nhức, liệt chi dưới, kinh nguyệt không đều, di tinh, liệt dương, ruột viêm mạn, hai bên hông đau, thần kinh hông đau.

Phối Huyệt:

1. Phối Khúc Cốt (Nh.2) + Quan Nguyên (Nh.4) + Thứ Liêu (Bàng quang.32) + Trung Liêu (Bàng quang.33) + Trung Cực (Nh.3) trị bàng quang đau buốt (Trung Quốc Châm Cứu Học).

2. Phối Mệnh Môn (Đốc.4) + Tuyệt Cốt (Đ.39) [Thuỷ châm] trị đa thần kinh viêm (Châm Cứu Học Thượng Hải).

3. Phối Thận Du (Bàng quang.23) + Thứ Liêu (Bàng quang.32) + Ủy Trung (Bàng quang.40) trị lưng đau do hàn (Lâm Sàng Kinh Nghiệm).

Châm Cứu:

Châm kim chếch lên, luồn dưới mỏm gai, hướng về khoảng gian đốt thắt lưng 4 – 5, sâu 0, 3 – 1, 5 thốn. Cứu 10 – 20 phút.

Ghi Chú: Châm sâu quá có cảm giác tê như điện giật lan xuống 2 chân.

Xét nghiệm để thực hiện truyền máu an toàn, hiệu lực

1. NGHIỆM PHÁP COOMBS TRỰC TIẾP

1.1.   Chỉ định làm nghiệm pháp Coombs trực tiếp

  • Bệnh tự miễn như: Lupus ban đỏ hệ thống, thiếu máu tan máu tự miễn;
  • Bệnh thiếu máu tan máu ở trẻ sơ sinh do bất đồng nhóm máu mẹ con;
  • Phản ứng tan máu do truyền máu.

1.2.    Chỉ định thêm xét nghiệm khi có kết quả nghiệm pháp Coombs trực tiếp dương tính

  • Xác định bản chất của kháng thể;
  • Sàng lọc kháng thể bất thường;
  • Định danh kháng thể bất thường.

2.   NGHIỆM PHÁP COOMBS GIÁN TIẾP

Chỉ định làm nghiệm pháp Coombs gián tiếp

  • Bệnh tự miễn như: Lupus ban đỏ hệ thống, thiếu máu tan máu tự miễn;
  • Bệnh thiếu máu tan máu ở trẻ sơ sinh do bất đồng nhóm máu mẹ con;
  • Người bệnh bị sốt sau truyền máu, hay truyền máu không hiệu quả.

3.   SÀNG LỌC KHÁNG THỂ BẤT THƯỜNG

3.1.   Chỉ định

  • Xét nghiệm cho đơn vị máu hiến;
  • Xét nghiệm cho người bệnh được tiên lượng sẽ phải truyền máu;
  • Xét nghiệm cho phụ nữ đã có thai và chửa, đẻ nhiều lần.

3.2.    Chỉ định thêm xét nghiệm khi có kết quả xét nghiệm sàng lọc kháng thể bất thường dương tính

  • Định danh kháng thể bất thường;
  • Xác định bản chất của kháng thể.

4.   ĐỊNH DANH KHÁNG THỂ BẤT THƯỜNG

4.1.   Chỉ định làm xét nghiệm

  • Người hiến máu có kết quả xét nghiệm sàng lọc kháng thể bất thường dương tình;
  • Người bệnh có kết quả xét nghiệm sàng lọc kháng thể bất thường dương tình;
  • Sản phụ có kết quả xét nghiệm sàng lọc kháng thể bất thường dương tình.

4.2.   Chỉ định thêm xét nghiệm khi đã xác định được tên kháng thể bất thường

Định nhóm các kháng nguyên hồng cầu tương ứng với kháng thể bất thường đã được xác định.

5.   XÁC ĐỊNH CÁC KHÁNG NGUYÊN NHÓM MÁU HỆ HỒNG CẦU

Chỉ định làm xét nghiệm

  • Người bệnh được ghép tế bào gốc;
  • Người bệnh Thalassemia và những người bệnh được tiên lượng sẽ phải truyền máu nhiều lần trong quá trính điều trị;
  • Người bệnh đã có kháng thể bất thường;
  • Xét nghiệm cho người hiến máu; Xét nghiệm để xây dựng panel hồng cầu, xây dựng lực lượng hiến máu dự bị, xây dựng ngân hàng người hiến máu có nhóm máu hiếm;
  • Xét nghiệm cho những nghiên cứu về hằng số và nhân chủng học.

6.   ĐỊNH NHÓM MÁU HỆ ABO

Chỉ định làm xét nghiệm

  • Định nhóm máu hệ ABO cho:

+ Người bệnh khi vào viện;

+ Người bệnh và đơn vị máu khi thực hiện phát máu;

+ Người bệnh được ghép tế bào gốc để theo dõi sự chuyển đổi nhóm máu;

+ Người hiến máu;

+ Làm hồ sơ khám sức khỏe.

+ Nghiên cứu về nhân chủng học.

+ Xây dựng ngân hàng máu hiếm và lực lượng hiến máu dự bị

7.   ĐỊNH NHÓM MÁU HỆ Rh (D)

Chỉ định làm xét nghiệm định nhóm máu Rh (D)

+ Người bệnh khi vào viện;

+ Người bệnh và đơn vị máu khi thực hiện phát máu;

+ Người bệnh được ghép tế bào gốc để theo dõi sự chuyển đổi nhóm máu;

+ Người hiến máu;

+ Làm hồ sơ khám sức khỏe.

+ Nghiên cứu về nhân chủng học.

+ Xây dựng ngân hàng máu hiếm và lực lượng hiến máu dự bị.

 

Huyết áp là gì

Tim và hệ tuần hoàn động mạch

Tim nằm trong lồng ngực, giữa hai lá phổi và trên cơ hoành. Nhiều mạch máu lớn đưa máu từ ngoại vi về tim và đưa máu từ tim đi đến từng cơ quan, từng tổ chức.

Tim có nhiệm vụ chủ yếu là đưa máu lên phổi để máu được thải thán khí và nhận oxy (vòng tiểu tuần hoàn), sau đó cung cấp máu có nhiều oxy đó qua các động mạch lớn rồi nhỏ tới khắp các tế bào để đảm bảo cho mọi hoạt động của cơ thể (vòng đại tuần hoàn).

Tim được coi như hai cái bơm làm việc cạnh nhau nhưng dưới các chế độ áp lực khác nhau; mỗi bơm có hai buồng, trên là nhĩ và dưới là thất. Nhĩ phải nhận máu từ các tĩnh mạch đổ về, thất phải nhận máu từ nhĩ phải xuống rồi đưa máu qua động mạch phổi lên phổi để thải bớt thán khí và nhận thêm oxy; nhĩ trái nhận máu từ tĩnh mạch phổi đổ về, thất trái nhận máu từ nhĩ trái xuống rồi tống máu qua động mạch chủ vào cả hệ động mạch để đi nuôi cơ thể. Hoạt động của tim có tính chu kỳ, khoảng 70-80 lần mỗi phút, liên tục suốt đời.

Hệ động mạch là những mạch vận chuyển máu từ tim đến các tế bào. Từ động mạch chủ, các động mạch tách ra được phân thành những động mạch có kích thước nhỏ hơn đi đến từng khu vực, từng cơ quan trong cơ thể, các động mạch này lại được phân tiếp thành các tiểu động mạch có lòng mạch càng nhỏ dần rồi thành các mao mạch đi tới từng tế bào.

Các động mạch lớn và vừa chứa nhiều sợi đàn hồi trong thành mạch; tính đàn hồi giúp cho thành mạch giãn ra được dễ dàng khi tiếp nhận khối lượng máu từ thất trái tống đi và đến khi thất trái nghỉ co bóp thì làm cho thành mạch trở lại trạng thái ban đầu, như vậy thúc cho dòng máu chảy được liên tục. Các tiểu động mạch chứa nhiều sợi cơ trơn có chức năng giãn ra hoặc co lại để điều hoà lượng máu đến các vùng và các cơ quan theo nhu cầu cần thiết của các nơi đó; đặc tính này cũng là một yếu tố rất quan trọng trong việc điều hoà áp lực máu hay huyết áp ở các động mạch lớn: khi các tiểu động mạch co lại, máu giảm lưu thông, ứ lại nhiều hơn ở trong các động mạch lớn và vừa làm cho huyết áp tăng cao, ngược lại khi các tiểu động mạch giãn ra thì máu lưu thông dễ hơn, nhiều hơn và làm giảm áp lực của máu trong các động mạch lớn và vừa đó.

Huyết áp là gì ?

Huyết áp là áp lực máu trong động mạch, thường hay được đo ở động mạch cánh tay. Thầy thuốc có thể đo huyết áp cả ở động mạch đùi, động mạch khoeo… khi cần thiết.Huyết áp là áp lực máu trong động mạch

Áp lực máu có trong động mạch là do tim co bóp đẩy máu từ thất trái vào hệ động mạch, đồng thời cũng do ảnh hưởng của lực co bóp của thành mạch và kết quả là làm cho máu được lưu thông tới các tế bào để cung cấp oxy và các chất dinh dưỡng cho nhu cầu của toàn cơ thể. Khi tim co bóp tống máu, áp lực trong động mạch là lớn nhất, ta có huyết áp tâm thu còn gọi là huyết áp tối đa. Khi tim nghỉ, áp lực đó ở mức thấp nhất, ta có huyết áp tâm trương, còn gọi là huyết áp tối thiểu.

Điều trị Ù tai

 

ĐẠI CƯƠNG

Ù tai có thể do nguyên nhân thần kinh, tâm thần nhưng đa phần là do các bệnh về tai, vì vậy, chẩn đoán và điều trị ù tai thường là công việc của các nhà lâm sàng tai – mũi – họng. Tuy nhiên, trong thực tế các nhà thần kinh học phải đối mặt với chứng bệnh này cũng không phải là ít.

Định nghĩa

Ù tai là sự nhận biết thính lực về một âm thanh trong khi không có kích thích thính giác của âm thanh đó trong thực tế. ù tai chỉ là nhận thức chủ quan của bệnh nhân và cần được phân biệt với tiếng thổi (là tiếng động có thể được cả bệnh nhân và cả người khám đều nghe thấy). Các âm thanh trong ù tai có thể là tiếng ù như gió thổi, như xay lúa, tiếng chuông, tiếng thì thầm, tiếng rì rào…

Lịch sử

Thời kỳ Ai Cập cổ đại

Theo Deines và cs (1958) ù tai đã được đề cập đến từ trong giai đoạn lịch sử Ai Cập cổ đại. Tuy nhiên, tới triều đại thứ XVII Ai Cập cổ đại (1650-1532 trước công nguyên) các bệnh về tai mới được đề cập và mô tả chi tiết, đồng thời thấy có những bài thuốc điều trị. Trong thời kỳ đó chứng ù tai và giảm thính lực còn chưa được mô tả, mà chỉ có các thuật ngữ ám chỉ bệnh cảnh tương tự như “tai bị ma làm” hay “tai mắc bùa” (bewitched ear). Theo các dịch giả thì các từ này có thể được dùng để thay cho thuật ngữ ù tai (tinnitus) ngày nay. Hoặc Wreszinsky (1913) còn gọi là “tai kỳ lạ”.

Y học thời kỳ Babilon

Nền văn hóa Babilon độc lập với Ai Cập cổ đại. Những di sản của nền văn hỏa Babllon cơ bản là những bảng gốm được khắc chữ. Trong hàng ngàn ấn phẩm được tìm thấy như vậy thì chỉ có bốn bản mô tả các bệnh về tai cùng cách điều trị. Chỉ riêng về ù tai cũng đã có khoảng hơn 20 đơn thuốc điều trị. Tuy nhiên, việc điều trị còn mang sắc thái mê tín và tôn giáo huyền bí (*)

Trong các văn bia, ù tai thường được gọi với các tên khác nhau như “tai hát”, ” tai nói” hoặc “tai thì thầm”.

Y học Ấn Độ cổ đại

Trong cuốn sách cổ Ayur – Veda, những hiểu biết y học của Ấn Độ cổ đại đã được lưu giữ lại. Sách được bắt đầu từ khoảng năm 1500 trước công nguyên và lưu chép liên tục hàng thế kỷ. Phiên bản ngày nay được viết trong Sanskrit có thể có nguồn gốc từ thế kỷ thứ I trước công nguyên; trong đó, khoảng 28 bệnh về tai được mô tả, ù tai và ảo thanh được coi là những triệu chứng có tiên lượng xấu.

(*) Một trong những đơn thuốc nói rằng: “Nếu bàn tay của quỷ đã túm được một con người và tai anh ta bông nhiên có tiếng hát, hãy mài củ Myrrhe, cuộn vào bông và tẩm với nhựa cây bách hương bôi vào tai rồi đọc lời thần trú sau:

Hỡi ngươi, kẻ tồi tệ!

Hỡi ngươi, kẻ tồi tệ!

Hỡi ngươi, kẻ theo dõi!

Dù tên ngươi là gì chăng nữa

Trên quả đất ngươi là hạt của trời

Hình dáng ngươi cũng là của trời

Không được đến gần

Dừng lại như trái núi

Ngươi đã làm dáng hình ngươi đen tối

Hỡi các ngươi bốn con quỷ đường phố

Hỡi các ngươi bốn con quỷ của các nẻo đường

Hãy biến đi theo bốn phương trời

Hãy biến đi theo bốn phương trời

Nếu không thần kiếm Niturta

Sẽ tống cổ các ngươi đi

Hỡi trời hãy đuổi chúng đi

Hỡi đất hãy đuổi chúng đi”.

Thời Hy Lạp cổ đại (460 – 377 trước công nguyên)

Với Hypocrates nền y học Hy Lạp cổ đại được coi là đỉnh cao đầu tiên của của ngành khoa học y học. Trong sách của Hypocrates, ù tai được nhắc tới 6 lần. Tuy rằng ù tai không được đề cập một cách có hệ thống, nhưng nhiều bệnh về tai đã được mô tả rất kỹ càng và trong nhiều mối quan hệ khác nhau. Tác giả đã phân biệt ù tai và giảm thính lực là hai triệu chứng riêng biệt

Thời Hy Lạp cổ đại (Aristoteles: 384 -322 trước công nguyên)

Tuy không phải là bác sĩ nhưng Aristoteles quan tâm nghiên cứu rất nhiều về giải phẫu và sinh lý. ông là cha đẻ của ngành sinh vật học. Trong tác phẩm nổi tiếng của ông “Problemata physica” thì các bệnh lý về tai cũng đã được đề cập tới mà ù tai là vấn đề thứ 9 trong chương 32.

Liên tục cho tới nay, ù tai luôn được nghiên cứu và vẫn là vấn đề tương đối khó trong lâm sàng…

Ù tai với các danh nhân lịch sử

Martin Luther (1483 – 1546) bị ù tai từ năm 43 tuổi và chứng ù tai này (sau này – năm 1989, được Felmann truy chẩn là hội chứng Menière) đã theo ông tới cuối đời.

Jean – Jacques Rousseau (1712 – 1778): nhà văn, nhà triết học, nhà phê bình âm nhạc và là một nhạc sĩ, bị mất thính lực đột ngột năm 52 tuổi kèm theo chứng ù tai hành hạ ông tới tận cuối đời.

Georg Christoph Lichtenberg (1742 – 1799): nhà vật lý học, bị ù tai vào năm 1789 trong khi mắc một chứng bệnh thần kinh, ông diễn tả một cách trào phúng rằng chứng ù tai của ông là một tác phẩm nghệ thuật, mỗi khi ông bịt tai lại thì cảm thấy dễ chịu hơn.

Ludwig Van Bethoven (1770 – 1827): nhà soạn nhạc tài ba, vào năm 28 tuổi, đúng vào thời điểm đỉnh cao của sáng tạo ông đã bị điếc và bị ù tai.

Bedrich Smetana (1824 – 1884): nhà soạn nhạc vĩ đại người Tiệp khắc cũng bị chứng ù tai và giảm thính lực hành hạ.

Francisco Goya (1746 -1828): danh họa vĩ đại Tây Ban Nha ở tuổi 46 đã mắc chứng bệnh bí ẩn làm đình trệ sự nghiệp và tạo bước ngoặt buồn thảm trong cuộc đời ông. ồng bị liệt nửa người thoáng qua, mờ mắt, giảm thính lực, ù tai, rối loạn thăng bằng và có các giai đoạn hôn mê. Cuối cùng bị điếc hoàn toàn mà chỉ còn có thể ra hiệu và trao đổi bằng cách bút đàm.

TÊN GỌI VÀ PHÂN LOẠI

Tên gọi

  • Vào giai đoạn đầu của thời kỳ y học Hypocrates các tác giả coi ù tai là triệu chứng của các bệnh toàn thân và gọi ù tai với ba tên tiếng Hy Lạp khác nhau như:

+ Échos được hiểu là “ton”, tiếng nói, âm.

+ Psóphos là tiếng động (khi hai vật va chạm vào nhau) hoặc tiếng kêu của côn trùng.

+ Bómbos là tiếng gầm, tiếng nổ, tiếng sấm, càu nhàu, gắt gỏng.

  • Đến thế kỷ XVIII tiếng Latinh được sử dụng và theo Celsus có các khái niệm diễn tả ù tal như sau:

+ Sonitus: tiếng, âm thanh, tiếng động, tiếng va chạm, tiếng ồn.

+ Susurrus: tiếng rì rào, thì thầm, tiếng réo.

+ Sibilus: tiếng thổi, tiếng sôi.

+ Plinius và sau này được gọi là tinnitus: tiếng chuông, tiếng vang, tiếng ngân.

  • Trong vùng ngôn ngữ Đức: thuật ngữ Tinnitus được chính thức dùng và đại diện cho chứng ù tai từ năm 1928 bởi Jones và Knudsen, đặc biệt từ năm 1941 bởi

Phân loại

Cho tới nay, qua nhiều giai đoạn có nhiều bảng phân loại ù tai của nhiều tác giả khác nhau như:

 

Triệu chứng

Ù tai

ĐIỀU TRỊ

Chiến lược điều trị chung

Điều trị ù tai cấp tính

Ù tai cấp tính thường là triệu chứng kèm của tổn thương cấp tính tai trong và đi đôi với giảm thính lực. Ví dụ điển hình cho trường hợp này là chấn thương cấp tính do tiếng ồn (trong sàn nhảy disco, do tiếng nổ…) và mất thính lực cấp tính. Trong những trường hợp này ù tai không phải là triệu chứng nổi bật và có tiên lượng thuận lợi. u tai sẽ giảm khi thính lực được hồi phục. Vấn đề điều trị cơ bản tập trung vào triệu chứng giảm thính lực với liệu pháp truyền dịch thể. Triệu chứng ù tai chỉ trở thành vấn đề đáng bàn luận khi bệnh bắt đầu hoặc đã chuyển sang giai đoạn mạn tính.

Vấn đề tâm lý trong điều trị ù tai mạn tính

Vì chứng ù tai thường không rõ nguyên nhân thực thể, nên các thầy thuốc cần lưu ý những vấn đề tâm lý sau:

  • Những bệnh thực thể có thể được điều trị đạt kết quả rất tốt bằng thuốc hoặc bằng phẫu thuật, nhưng nhiều bệnh nhân ù tai không có nguyên nhân thực thể. Vì vậy, thái độ của thầy thuốc khi tiếp xúc với bệnh nhân và tiếp cận chẩn đoán cũng như các phương pháp điều trị phải rất thận trọng. Không bàng quan, hờ hững, có những lởi phán đoán, lời bình hoặc nhận xét hồ đồ thiếu căn cứ.
  • Đối với bệnh nhân, có những người mới đi khám lần đầu tiên, nhưng cũng có người đã đi khám rất nhiều bác sĩ. Trong trường hợp thứ nhất, bệnh nhân đơn giản hoá việc khám và chữa bệnh và chỉ nghĩ đại khái rằng có bệnh, tới bác sĩ khám và dùng thuốc là khỏi; khi được điều trị không khỏi họ sẽ hoang mang. Đối với những người đã đi khám và được điều trị nhiều lần, đa số trong họ tới bác sĩ với ý thức “cảnh giác” và có thái độ quan trọng hoá bệnh tật một cách thái quá, mặc dù rất muốn nhưng lòng tin vào khả năng khỏi bệnh của họ đã bị giảm sút. Họ so sánh các bác sĩ với nhau về mặt này, mặt khác. Trong trường hợp này chỉ có những người bác sĩ hiểu, thông cảm với bệnh nhân, có kinh nghiệm chuyên môn mới có thể thành công.

Phải coi việc điều trị là công việc chung của bác sĩ cũng như của bệnh nhân, bệnh nhân phải có kỷ luật điều trị.

Chẩn đoán cũng là một phần của công tác điều trị. Hỏi bệnh kỹ, khám tỷ mỉ, chẩn đoán rõ ràng dễ hiểu cũng là một tiền đề tốt cho khả năng khỏi bệnh.

Nói chuyện, giải đáp mọi thắc mắc của bệnh nhân kỹ càng là điều rất cần thiết.

Điều trị bằng thuốc

Để đạt được mục đích điều trị cần xác định ba hoàn cảnh sau:

  • Điều trị đặc hiệu triệu chứng ù tai.
  • Điều trị nguyên nhân.
  • Ù tai do thuốc.

Nếu ù tại do thuốc thì phương pháp điều trị duy nhất là cắt thuốc. Điều trị nguyên nhân ù tai có rất nhiều phương pháp khác nhau. Mục đích của điều trị đặc hiệu ù tai là can thiệp vào cơ chế bệnh sinh củạ nó và vẫn còn mang nhiều tính chất kinh nghiệm. Trong thực tế, cơ chế bệnh sinh của nhiều loại ù tai còn chưa rõ hoặc chưa hoàn toàn rõ rệt nên phương pháp điều trị theo bệnh sinh còn ở dạng giả thiết. Hơn nữa trong thực tế không có nhiều các thuốc can thiệp được vào hệ thính giác. Vì vậy, điều trị ù tai tương đối khó khăn.

Nguyên tắc điều trị bằng thuốc

Cơ sở cho thuốc điều trị ù tai là can thiệp vào:

  • Tuần hoàn ốc tai.
  • Các quá trình vận chuyển ion.
  • Vận chuyển tại các si – náp cảm giác – thần kinh và thần kinh – thần kinh.
  • Mã hoá thần kinh ở dây thính lực.
  • Các quá trình ở trung khu thính giác.

Can thiệp vào tuần hoàn tai trong

Rất hay gặp trong ù tai cấp tính, thường kèm theo giảm thính lực. Nguyên nhân thường do co thắt mạch, hiện tượng nóng bừng trực tiếp tác động đến các tế bào lông ngoài.

Trong trường hợp ù tai mạn tính, nguyên nhân là do rối loạn chức năng không hồi phục củạ hệ thính giác. Mục tiêu điều trị là cải thiện các quá trình điện sinh lý, qua đó làm giảm hoặc mất đi triệu chứng ù tai. Như vậy ta phải hiểu rằng điều trị chứng ù tai không mang tính chất điều trị nguyên nhan mà chỉ là điều trị triệu chứng định hướng theo cơ chế bệnh sinh.

Các biện pháp điều trị nhằm giải quyết các yếu tố tuần hoàn như tăng huyết áp, tăng mỡ máu, tăng urê huyết, tiểu đường, làm giảm độ nhớt của máu, tăng chỉ số tuần hoàn, dãn mạch., nhằm cung cấp đủ oxy và đường cho tế bào thần kinh. Các biện pháp khác là hồi phục chức năng chuyển hoá, điều trị bằng oxy cao áp nhằm tăng nồng độ oxy hoà tan trong nội dịch, qua đó cải thiện triệu chứng lâm sàng. Dùng corticoid nhằm làm giảm các quá trình viêm ở thành mạch máu hoặc ở các khoang nội dịch qua đó gián tiếp làm tăng tuần hoàn.

Can thiệp vào các quá trình vận chuyển ion

Trong các tế bào, tổn thương thiếu oxy gây rối loạn nội môi. Thông qua dòng Ca+2 từ ngoại bào chảy vào, tế bào não thính giác cũng xảy ra quá trình tương tự vì các tế bào lông ngoài bị tổn thương sẽ không còn kích thích thính giác. Việc mất dinh dưỡng các thụ cảm thể glutamat sẽ dẫn đến rối loạn điều chỉnh Ca+2 gây dòng calci dư thừa (calcium – overload). Hậu quả này có thể được khắc phục bằng chỉ định cho thuốc chẹn kênh calci như nimodipin. Liệu pháp này làm tăng cơ hội sống sót của các tế bào bị tổn thương và có tác dụng đối với ù tai cấp tính hơn là bán cấp.

Các thuốc kháng calci còn có tác dụng tới các rối loạn hoạt động cơ học của các tế bào lông ngoài và còn có khả năng hạn chế các dòng ion bị rò rỉ.

Dần truyền qua si – náp giác quan – thần kinh (sensorneural) và thần kinh – thần kinh (neuroneurraí)

Những rối loạn quá trình hướng tâm do tổn thương tế bào lông ngoài dễ nhận biết nhất khi không có kích thích, hoặc khi kích thích thính giác có cường độ nhẹ. Các chât vận chuyển tác động vào nội môi, làm thay đổi chỉ số phóng điện cũng như chức năng của các sợi thân kinh thính lực hướng tâm. Có nhiều bằng chứng nói lên vai trò kết hợp có tính chạt quyết định của glutamat. Trong thực tế lâm sàng, khi sử dụng glutamat toàn thân và chất đối vận từng phân cuả nó (glutaminsaeure – diethylester) có thể làm giảm đáng kể ù tai trong một sô trường hợp cụ thể. Tác dụng tốt hơn có thể đạt được bằng một chất đối vận từng phần khác của glutamat (dẫn chất của quinoxalin; caroverin). Cả hai chất trên phong bế đặc hiệu các thụ cảm thể AMPA (các thụ cảm thể điều chỉnh các dòng ion Na+ vào trong tê bào), ngược lại với thụ cảm thể NMDA (điều chỉnh dòng ion Ca+2 vào trong tế bào). Sự mất thăng bằng các thụ cảm thể dưới nhóm của glutamat dẫn tới cái gọi là ù tai si – náp ốc nhĩ (cochlear – synaptic tinnitus). Khi sử dụng các chất đồng vận hoặc đối vận thỡ sự cân bằng được tái lập và làm giảm hoặc mât ù tai.

Tác động lên các chất dẫn truyền ở tế bào lông ngoài, ở đây có thể kể tới acetylcholin và GABA cũng như các chất đối vận của nó (atropin, benzodlazepin). Các chất này có thể vận dụng khi ù tai kèm theo nghe vang đau (hyperacusis, khi đó hoạt tính của tế bào lông ngoài bị giảm, tính tăng kích thích của các neuron trong colliculus inferior bị ức chế).

Mã hoá thần kinh trong dây thần kinh thính giác

Sự bình thường hoá các quá trình bệnh Ịý củạ dây thần kinh thính giác có thể đạt được bằng các thuốc chống loạn nhịp hoặc các thuốc chống động kinh. Các thuốc này tác động vào dòng natri chảy nhanh vào tế bào, từ đó tác động tới các quá trình kích thích ở các sợi thính giác hướng tâm. Thông qua cơ chế đó có thể hiểu được tác dụng ức chế của thuốc lên sự tăng phóng điện bệnh lý.

Một ví dụ điển hình là tác dụng của lidocain, với thuốc này nhiều bệnh nhân có thể giảm ù tai trong một giai đoạn nhất định.

Các quá trình thính giác trung ương

Tổn thương bệnh lý của hệ thính giác trung ương cũng có thể được ức chế bằng các thuốc chống loạn nhịp, chống co giật và glutamat. Kết quả thực nghiệm cho thấy các nhóm điện thế tự phát của dây thần kinh thính giác và nhân ốc tai của mèo trong thực nghiệm (đánh độc băng salycilat hoặc Chinin ghi được nhiều điện thế) các hoạt tính nhịp đó có thể được ức chế rất tốt bằng lidocain và glutamat.

Tác dụng của các thuốc an tĩnh, chống trầm cảm không chỉ dựa trên cơ sở của các ức chế không đặc hiệu, mà còn làm giảm các yếu tố tác động lên hệ thính lực trung ương làm tăng ù tai.

Ngoài ra, còn có các thuốc tác động lên khâu chuyển hoá phụ thuộc serotonin của các chất dẫn truyền thần kinh ở hệ thống dẫn truyền ly tâm.

Các thuốc dãn cơ và chống Parkinson (biperiden), cũng như Carbamazepin có thể được chỉ định trong điều trị palatomyoclonus (một chứng rối loạn ngoại tháp).

Các thuốc đã được kiểm tra tác dụng lâm sàng

Trong lịch sử các thuốc đã được sử dụng điều trị hệ thống thính lực là: các thuốc chống loạn nhịp, các thuốc chống co giật. Những báo cáo đầu tiên về điều trị ù tai cho thấy vai trò đi đầu của các thuốc gây tê cụ bộ dùng theo đường toàn thân (Bárány, 1935; Lewy, 1937…). Những năm sau đó có nhiều báo cáo về trị liệu ù tai căn nguyên khác nhau bằng lidocain theo đường tĩnh mạch, hoặc dẫn xuất của lidocain (tocainid) theo đường uống.

Các thuốc có tác dụng

– Thuốc chống loạn nhịp: lidocain, tocainid.

Thuốc chống co giật: Carbamazepin, phenytoin, lamotrigen.

Thuốc dẫn truyền (tiền tố) hoặc đồng vận của nó: glutamat, glutaminsaeure – diethylester, serotonin (- agonisten),

Chống trầm cảm ba vòng: amitriptylin.

Benzodiazepin, anxiolytica:

Kháng calci: nimodopin,

Thuốc khác: kháng histamin, salycilic.

Các thuốc ít có tác dụng

Đồng vận và kháng dẫn truyền: baclofen

Các thuốc đã được kiểm tra tác dụng lâm sàng

Có hàng trăm thuốc thuộc nhóm này và do kinh nghiệm cá nhân của các tác giả nêu ra mà chưa được thiết kế nghiên cứu lâm sàng cơ bản. Đó la các thuốc thuộc nhóm dãn mạch, chẹn beta, chẹn calci, dãn cơ, an tĩnh và cả liệu pháp oxy cao áp.

Các thuốc có tác dụng gây ù tai

Các thuốc có độc tính với hệ thính lực có thể gây ù tai (kèm theo giảm thính hoặc không) hoặc làm cho ù tai tăng nặng thêm.

Mất thính lực kéo dài, đặc biệt với các âm tần số cao, đặc trưng cho độc tính của aminoglucoside hoặc chất trị ung thư, đặc biệt là các hợp chất chứa platin và acid ethacrynic. ù tai thường kèm theo với đặc điểm âm thanh tần số cao và kéo dài.

Ù tai với mất thính lực có khả năng hồi phục thường liên quan tới việc sử dụng giảm đau hạ sốt non – steroid như acid acetyl sali cyIic, indomethacin, diclofenac và naproxen; các thuốc chống loạn nhịp như Chinin, Chinidin cũng như thuốc điều trị sốt rét chloroquin. Mức độ ù tai phụ thuộc vào liều lượng thuốc được dùng và thường được phục hồi sau khi cắt thuốc. Riêng đối với Chinin và chloroquin có thể có hiệu ứng tích luỹ nên nếu dùng thuốc thường xuyên có thể chuyển thành ù tai lâu dài, vĩnh viễn.

Ù tai mà không có giảm thính lực đáng kể có thể do nhiều loại thuốc khác nhau, tuy nhiên, các thuốc này trong các hoàn cảnh khác lại được sử dụng để điều trị ù tai. Đó là các thuốc nhóm chống loạn nhịp, chống co giật, chống trầm cảm, thuốc hạ huyết áp, glutamat và chẹn beta. Muốn xác định trong trường hợp cụ thể có thể cắt thuốc nghi vấn.

Các phác đồ khuyến cáo trong điều trị ù tai

Ù tai cấp (thời gian kéo dài dưới 3 tuần)

  • Truyền dịch và dùng thuốc dãn mạch, Ví dụ:

+ Rheomacrodex 500ml + procain 400 – 1000mg theo đường truyền trong 10 ngày hay

+ Hydroxyethylstaerke (HAES steril) 10%, 500ml + Pentoxifyllin (trental) 300mg theo đường truyền trong 10 ngày.

  • Thuốc dãn mạch theo đường uống, ví dụ:

+ Naftidrofuryl (dusodril ret) X 3 lần/ngày, mỗi lần 1 viên (kéo dài hơn 1 năm)

  • Các thuốc chẹn calci, ví dụ:

+ Flunarizin (sibelium capsule) X 2 – 3 lần/ngày, mỗi lần 1 viên.

+ Nimodipin (nimotop tabl) X 4 lần/ngày, mỗi lần 1 viên.

  • Các thuốc chống loạn nhịp: trong trường hợp dị ứng với lidocain dùng Xylocain 100mg theo đường tĩnh mạch trong 5 phút, ví dụ:

Tocainid (Xylotocan tabl) X 3 – 4 lần/ngày, mỗi lần 400mg.

  • Các thuốc chống co giật, ví dụ:

Carbamazepin (tegretal tabl) X 3 – 4 lần/ngày, mỗi lần 400mg.

  • Điều trị bằng các thuốc dẫn truyền thần kinh, ví dụ:

+ Glutaminsaeurediethylester và glutamat (20mg dung dịch 0,025% pha trong nước muối sinh lý).

+ Carover 160mg pha trong 100ml nước muối sinh lý.

+ Chất đối vận với GABA trong trường hợp có nghe vang đau.

+ Clonazepam đường uống.

  • Các thuốc chống trầm cảm ba vòng, ví dụ:

+ Amitriptylin (saroten).

+ Benzodiazepin (valium).

Các thể ù tai khách quan palatomyoclonus, ví dụ: Carbamazepin (tegretal) X 3lần/ngày, mỗi lần 400mg.

Kem axit azelaic – bôi ngoài da, Azelex.

TÊN GỌI THÔNG THƯỜNG: KEM AXIT AZELAIC – SỬ DỤNG ĐƯỜNG BỀ MẶT (ay-ze-LAY-ik AS-id)

TÊN THƯƠNG MẠI: Azelex

Công dụng thuốc | Cách sử dụng | Tác dụng phụ | Biện pháp phòng ngừa | Tương tác thuốc | Quá liều | Ghi chú | Liều đã quên | Bảo quản

CÔNG DỤNG:

Thuốc này được sử dụng để điều trị mụn trứng cá từ nhẹ đến trung bình. Nó hoạt động bằng cách giảm lượng vi khuẩn gây mụn trên da và giúp giữ cho lỗ chân lông của bạn mở và không bị tắc, do đó giảm số lượng mụn trứng cá. Axit azelaic thuộc nhóm thuốc được biết đến với tên gọi axit dicarboxylic.

CÁCH SỬ DỤNG:

Trước khi sử dụng thuốc này, hãy làm sạch khu vực bị ảnh hưởng và thấm khô. Thoa thuốc này lên da thường hai lần mỗi ngày, vào buổi sáng và buổi tối, hoặc theo chỉ dẫn của bác sĩ. Thoa một lớp mỏng và massage nhẹ nhàng vào các vùng bị ảnh hưởng. Rửa tay sau khi sử dụng. Sử dụng thuốc này thường xuyên để nhận được nhiều lợi ích nhất. Để giúp bạn nhớ, hãy sử dụng thuốc vào cùng một thời điểm mỗi ngày. Tránh tiếp xúc với mắt hoặc bên trong mũi và miệng. Nếu thuốc này dính vào bất kỳ khu vực nào trong số này, hãy rửa ngay bằng nhiều nước và gọi bác sĩ nếu tình trạng kích ứng vẫn tiếp diễn. Không đặt băng vết thương hoặc che đậy kem trừ khi bác sĩ yêu cầu. Không sử dụng số lượng lớn thuốc này hoặc thoa thường xuyên hơn chỉ dẫn. Tình trạng của bạn sẽ không cải thiện nhanh hơn, và nguy cơ tác dụng phụ có thể tăng lên. Sử dụng thuốc này trong suốt liệu trình điều trị theo chỉ dẫn của bác sĩ. Thông thường, mất khoảng 1 tháng để thấy cải thiện, nhưng hiệu quả đầy đủ của điều trị có thể mất nhiều thời gian hơn. Hãy cho bác sĩ biết nếu tình trạng của bạn không cải thiện sau 1 tháng hoặc nếu nó xấu đi.

TÁC DỤNG PHỤ:

Tạm thời có thể có cảm giác châm chích, bỏng rát, ngứa hoặc tê ở da, thường xảy ra ở giai đoạn đầu điều trị. Những tác dụng này thường giảm dần khi cơ thể bạn thích nghi với thuốc này. Tuy nhiên, nếu tình trạng kích ứng nhẹ vẫn tiếp diễn, bác sĩ có thể hướng dẫn bạn chỉ sử dụng sản phẩm này một lần mỗi ngày. Nếu bất kỳ tác dụng nào trong số này kéo dài hoặc xấu đi, hãy ngừng sử dụng thuốc này và thông báo cho bác sĩ hoặc dược sĩ ngay lập tức. Hãy cho bác sĩ biết ngay lập tức nếu có bất kỳ tác dụng phụ không mong muốn nào xảy ra: tình trạng bệnh herpes môi hoặc mụn nước (herpes miệng) xấu đi, hoặc tăng trưởng tóc bất thường hoặc không mong muốn. Hãy nhớ rằng bác sĩ đã kê đơn thuốc này vì họ đã đánh giá rằng lợi ích cho bạn lớn hơn nguy cơ tác dụng phụ. Nhiều người sử dụng thuốc này không gặp tác dụng phụ nghiêm trọng. Hiếm khi, một số người có thể trải qua tình trạng làm sáng màu da (giảm sắc tố) sau khi sử dụng thuốc này. Tác dụng phụ này có thể rõ ràng hơn ở những người có làn da tối màu. Tham khảo ý kiến bác sĩ để biết thêm chi tiết và báo cáo bất kỳ thay đổi nào về màu da. Hãy cho bác sĩ biết ngay lập tức nếu có bất kỳ tác dụng phụ hiếm nhưng nghiêm trọng nào xảy ra: tình trạng triệu chứng hen suyễn xấu đi (như khó thở, thở khò khè). Phản ứng dị ứng rất nghiêm trọng với thuốc này là hiếm. Tuy nhiên, hãy tìm kiếm sự trợ giúp y tế ngay lập tức nếu bạn nhận thấy bất kỳ triệu chứng nào của phản ứng dị ứng nghiêm trọng, bao gồm: phát ban, ngứa/sưng (đặc biệt là ở mặt/lưỡi/họng), chóng mặt nghiêm trọng, khó thở. Đây không phải là danh sách đầy đủ tất cả các tác dụng phụ có thể xảy ra. Nếu bạn nhận thấy các tác dụng khác không được liệt kê ở trên, hãy liên hệ với bác sĩ hoặc dược sĩ.

BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA:

Trước khi sử dụng thuốc này, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết nếu bạn bị dị ứng với thuốc này; hoặc nếu bạn có bất kỳ dị ứng nào khác. Sản phẩm này có thể chứa các thành phần không hoạt động, có thể gây ra phản ứng dị ứng hoặc các vấn đề khác. Hãy trao đổi với dược sĩ để biết thêm chi tiết. Trước khi sử dụng thuốc này, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết về lịch sử bệnh của bạn, đặc biệt là: hen suyễn, các đợt lặp lại herpes môi hoặc mụn nước (herpes miệng). Trong thời kỳ mang thai, thuốc này chỉ nên được sử dụng khi thật sự cần thiết. Hãy thảo luận về các rủi ro và lợi ích với bác sĩ của bạn. Thuốc này có thể đi vào sữa mẹ. Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi cho con bú.

TƯƠNG TÁC THUỐC:

Các tác dụng của một số loại thuốc có thể thay đổi nếu bạn sử dụng các thuốc hoặc sản phẩm thảo dược khác cùng lúc. Điều này có thể làm tăng nguy cơ tác dụng phụ nghiêm trọng hoặc có thể khiến thuốc của bạn không hoạt động đúng cách. Những tương tác thuốc này có thể xảy ra, nhưng không phải lúc nào cũng xảy ra. Bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn có thể thường xuyên ngăn ngừa hoặc quản lý các tương tác bằng cách thay đổi cách bạn sử dụng thuốc hoặc bằng cách theo dõi chặt chẽ. Để giúp bác sĩ và dược sĩ cung cấp dịch vụ chăm sóc tốt nhất cho bạn, hãy chắc chắn cho bác sĩ và dược sĩ biết về tất cả các sản phẩm bạn đang sử dụng (bao gồm cả thuốc theo toa, thuốc không kê đơn và sản phẩm thảo dược) trước khi bắt đầu điều trị bằng sản phẩm này. Trong khi sử dụng sản phẩm này, đừng bắt đầu, ngừng hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ thuốc nào khác mà bạn đang sử dụng mà không có sự đồng ý của bác sĩ. Giữ một danh sách tất cả các sản phẩm bạn đang sử dụng. Chia sẻ danh sách với bác sĩ và dược sĩ của bạn để giảm nguy cơ gặp vấn đề nghiêm trọng về thuốc.

QUÁ LIỀU:

Thuốc này có thể gây hại nếu nuốt phải. Nếu nghi ngờ nuốt phải hoặc quá liều, hãy liên hệ với trung tâm kiểm soát chất độc hoặc phòng cấp cứu ngay lập tức.

GHI CHÚ:

Không chia sẻ thuốc này với người khác.

LIỀU ĐÃ QUÊN:

Nếu bạn quên một liều, hãy thoa ngay khi nhớ ra. Nếu gần đến giờ dùng liều tiếp theo, hãy bỏ qua liều đã quên và tiếp tục theo lịch trình liều bình thường của bạn. Không gấp đôi liều để bù lại.

BẢO QUẢN:

Bảo quản ở nhiệt độ phòng từ 59-86 độ F (15-30 độ C). Không đông lạnh. Giữ tất cả thuốc tránh xa tầm tay trẻ em và thú cưng. Không xả thuốc xuống bồn cầu hoặc đổ chúng vào cống trừ khi được hướng dẫn. Vứt bỏ sản phẩm này đúng cách khi hết hạn hoặc không còn cần thiết. Tham khảo ý kiến dược sĩ hoặc công ty xử lý chất thải địa phương để biết thêm chi tiết về cách vứt bỏ sản phẩm của bạn một cách an toàn.

Bệnh Actinomycosis

Bệnh Actinomycosis là một loại nhiễm trùng do vi khuẩn hiếm gặp. Tình trạng này có thể rất nghiêm trọng nhưng thường có thể được điều trị bằng kháng sinh.

Cách lây nhiễm Actinomycosis

Vi khuẩn gây ra bệnh Actinomycosis thường sống vô hại trong cơ thể. Chúng chỉ gây nhiễm trùng khi xâm nhập vào niêm mạc của các khu vực như miệng hoặc ruột.

Bạn không thể lây nhiễm bệnh cho người khác.

Bất kỳ phần nào của cơ thể đều có thể bị nhiễm, nhưng vùng đầu và cổ, ngực, bụng và vùng chậu là những khu vực thường bị ảnh hưởng nhất.

Các nguyên nhân có thể gây ra bệnh Actinomycosis bao gồm:

  • Sâu răng và nhiễm trùng miệng
  • Chấn thương miệng
  • Hít phải thức ăn hoặc chất lỏng
  • Thiết bị đặt trong tử cung (IUD)
  • Phẫu thuật nha khoa hoặc bụng
  • Xạ trị

Bạn có nguy cơ cao mắc Actinomycosis hơn nếu bạn bị tiểu đường type 2 hoặc có hệ miễn dịch yếu.

Triệu chứng của Actinomycosis

Triệu chứng của Actinomycosis phụ thuộc vào khu vực nào của cơ thể bị ảnh hưởng.

Triệu chứng Actinomycosis ở các khu vực khác nhau của cơ thể

Khu vực của cơ thể Triệu chứng
Hàm hoặc miệng Có cục ở má hoặc cổ, khó nhai, mủ rò rỉ từ da
Phổi Khó thở, đau ngực, ho, mủ rò rỉ từ da trên ngực
Bụng Tiêu chảy hoặc táo bón, đau, có cục hoặc sưng ở bụng, mủ rò rỉ từ da trên bụng
Vùng chậu Đau ở vùng bụng dưới, chảy máu âm đạo hoặc dịch bất thường, có cục hoặc sưng ở bụng dưới

Lời khuyên không khẩn cấp: Hãy gặp bác sĩ nếu bạn có triệu chứng của Actinomycosis.

Điều trị bệnh Actinomycosis

Bệnh Actinomycosis được điều trị bằng kháng sinh. Việc điều trị bắt đầu tại bệnh viện với kháng sinh được tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch (truyền tĩnh mạch).

Khi bạn đủ khỏe để về nhà, bạn sẽ được kê đơn thuốc kháng sinh để uống trong vài tháng.

Điều quan trọng là tiếp tục uống kháng sinh cho đến khi hết liệu trình, ngay cả khi bạn cảm thấy khỏe hơn.

Bạn cũng có thể cần phẫu thuật để dẫn lưu các vùng mủ (áp xe) và loại bỏ khu vực da xung quanh nếu bị nhiễm trùng.

Cách phòng ngừa Actinomycosis

Bệnh Actinomycosis rất hiếm, vì vậy khả năng mắc phải là cực kỳ nhỏ.

Bạn có thể giúp giảm nguy cơ bằng cách chăm sóc răng miệng và nướu của mình.

AZT – Zidovudine – thuốc điều trị HIV

AZT là một dẫn chất thymidine và là thuốc HIV nhiều tuổi nhất, nhưng vẫn tiếp tục là thành phần của nhiều phác đồ HAART (trị liệu kháng retrovirus hiệu lực cao) và dự phòng lây truyền. Rất nhiều dữ liệu, thấm tốt vào TKTƯ. Tác dụng phụ quan trọng nhất là gây độc tủy xương dẫn tới thiếu máu nặng. Đáng tiếc là liều dùng ngày 1 lần là không có.

Tên thương mại: Retrovir™; thành phần của Combivir™ và Trizivir™

Retrovir™ viên nang: 100 mg hoặc 250 mg, viên nén: 300 mg; 200 ml chai truyền (10 mg/ml), 10 mg/ml xirô

Combivir™ viên nén: 300 mg AZT + 150 mg 3TC

Trizivir™ viên nén: 300 mg AZT + 150 mg 3TC + 300 mg abacavir

Nhà sản xuất: GlaxoSmithKline

Chỉ định: Nhiễm. Dự phòng lây truyền mẹ-con.

Liều dùng: 250 mg ngày 2 lần. Trong Combivir™ và Trizivir™ 300 mg ngày 2 lần.

Độ thanh thải creatinine dưới 20 ml/phút: 300 – 400 mg mỗi ngày. Lọc thận: 300 mg mỗi ngày. Suy gan: 100 mg tid.

Tác dụng phụ: buồn nôn, nôn, bụng có cảm giác khó chịu, đau đầu, đau cơ và chóng mặt. Thiếu máu hồng cầu to (MCV luôn tăng), hiếm khi giảm bạch cầu. Tăng LDH, CPK và transaminase. Hiếm gây toan lactic.

Cảnh báo: không bao giờ phối hợp với d4T! Tăng nguy cơ độc tủy xương nếu dùng cùng các thuốc ức chế tủy xương khác, đặc biệt là ganciclovir, ngoài ra còn co-trimoxazole, dapsone, pyrimethamine, interferon, sulfadiazine, amphotericin B, ribavirin và nhiều thuốc hóa trị liệu khác. Thiếu máu có thể xuất hiện sau hàng tháng điều trị.

Do ribavirin đối kháng tác động diệt virus của AZT in vitro, không nên dùng AZT cùng với ribavirin.

Hàng tháng theo dõi công thức máu, transaminase, CPK và bilirubin. Các rối loạn tiêu hóa có thể điều trị triệu chứng và thường sẽ bớt đi sau một vài tuần.

AZT luôn luôn nên có trong phác đồ dự phòng lây truyền!