Xuyên khung

Xuyên khung( Khung cùng)
Xuyên khung( Khung cùng)

Tên khác:

Khung cùng, phù khung

Tên khoa học:

Ligusticum wallichii Franch

Họ khoa học:

Họ Hoa tán – Umbelliferae (Apiaceae)

Mô tả:

Xuyên khung là 1 loại cây thảo, sống lâu năm. Thân mọc thẳng, giữa ruột rỗng, mặt ngoài có đường gân dọc. Lá mọc so le, kép 2-3 lần, lá chét có 3-5 đôi, cuống dài, phiến lá rách sâu, khi dùng tay vò ra có mùi thơm, cuống lá dài 9-17cm, phía dưới ôm lấy thân. Hoa họp thành tán kép, cuống tán phụ ngắn chừng 1cm, hoa nhỏ, mầu trắng. Quả loại song bế, hình trứng.

Nguồn gốc:

Đây là thân, rễ xuyên khung khô thuộc loài thực vật họ hình ô dù. Sản xuất chủ yếu ở Tứ Xuyên, Quí Châu, Vân Nam, Thiểm Tây v.v…

Phân biệt tính chất, đặc điểm:

Xuyên khung có dạng miếng mỏng thái ngang hoặc miếng mỏng thái dọc không đồng đều. Bề mặt màu be vàng hoặc đen xám, nhăn chun sần sùi, có nhiều tật nhỏ. Mặt cắt màu trắng vàng hoặc vàng xám, có thể thấy rõ những vân vòng hình lượn sóng hoặc các vân hình đa giác không đồng đều, rải rác có những chấm dầu nhỏ màu nâu vàng, phần tuỷ màu tương đối nhạt. Chất cứng mà dai, có hương thơm đặc biệt. VỊ đắng và cay, hơi có cảm giác tê lưỡi. Món nào chất rắn chắc, mặt cắt màu trắng vàng, giầu chất dầu, hương thơm đậm là loại tốt.

Tính vị và công hiệu:

Xuyên khung tính ôn, vị cay, lợi về kinh can đởm, tâm bào. Có công hiệu hoạt huyết hành khí, trừ phong giảm đau. Dùng cho các bệnh đau đầu, đau ngực, đau lườn, tắc kinh, thống kinh, đau phong thấp, ngã hoặc và chạm mạnh gây tổn thương, đau tim tê ngực v.v…

Theo các nghiên cứu hiện đại, xuyên khung hàm chứa các chất dầu hay hơi, kiềm sinh vật, Pipenazin xuyên khung, a ngụy toan v.v… Có tác dụng làm trấn tĩnh, giảm đau, chống co giật; có thể làm giãn các mạch máu ở chung quanh, làm tăng lưu lượng máu ở động mạch cơ tim và ở 2 chi dưới, hạ thấp huyết áp; có tác dụng kích thích tử cung và chống chứng bệnh thiếu vitamin E; có tác dụng kháng khuẩn.

Bảo quản:

Để nơi râm mát khô ráo, đề phòng biến thành độc tố.

Những bài thuốc thường dùng:

Xuyên khung tửu (rượu xuyên khung)

Xuyên khung 30g – Rượu trắng 500ml.

Ngâm 7 ngày sau đem ra uống ngày 3 lần, mỗi lần 10 – 20ml.

Dùng cho người bị ngã hoặc và chạm mạnh gây ra đau đớn, thiên đầu phong thông.

Xuyên khung hoàng kỳ chúc (cháo xuyên khung hoàng kỳ)

Xuyên khung 6g – Hoàng kỳ 15g

Gạo nếp 50 – 100g

Xuyên khung, hoàng kỳ sắc lấy nước, cho gạo nếp vào nấu cháo.

Dùng cho người bị động thai.

Xuyên khung đường trà (trà đường xuyên khung)

Xuyên khung 6g – Chè (khô) 6g

Đường đỏ vừa phải.

Xuyên khung sắc lấy nước sôi pha chè, pha đường vào. Uống nhiều lần thay trà. Dùng cho người bị đau đầu, váng đầu, tim thảng thốt khí đoản, tinh thẩn và thể xác đều mệt mỏi, không thiết ăn uống, sắc mặt xanh xao, lưỡi nhạt, tưa lưỡi trắng v.v…

Xuyên khung chử kê đản (xuyên khung nấu với trứng gà)

Xuyên khung 9g

Hành tươi 5 cây

Trứng gà 2 quả

Cho cả vào nồi đất nấu lên, trứng chín thì đập bỏ vỏ cho vào lại đun sôi 1 lát. Ăn trứng uống thang. Ngày 1 lần, ăn liền một số ngày.

Dùng cho người bị ngoại cảm phong hàn đau đầu, đau suốt từ cổ chạy xuống Sống lưng, cảm lạnh dữ dội v.v…

Xuyên khung đỗ trọng tửu (rượu xuyên khung, đỗ trọng)

Đỗ trọng 40g

Tần giao 30g

Xuyên khung 30g

Gừng sao 20g

Chê ô đầu 30g

Ngủ gia bì 40g

Tỳ giải 40g

Tế tân 5g

Cam thảo sao 20g

Xuyên tiêu 15g

Nhục quế 30g

Khương hoạt 40g

Thạch hộc 30g

Phòng phong 40g

Chê phụ tử 40g

Cát ngạnh 30g

Tục đoạn 40g

Địa cốt bì 30g

Rượu 2000ml

Rễ qua lâu 20g

Tất cả các vị thuốc trên cùng giã nát, bỏ vào ngâm rượu, 5 ngày sau mang ra uống. Trước mỗi bữa ăn uống 1 cốc vừa.

Dùng cho người đau lưng do thận hư, do phong hàn, do ngồi lâu nơi đất ẩm, do bị ngã chấn thương.

Sinh hoá thang (thang thuốc sinh hoá)

Đương qui 24g

Xuyên khung 9g

Gừng sao 2g

Cam thảo sao 2g

Đào nhân 5g.

Sắc 2 nước trộn đều, uống ngày 1 thang chia 2 lần. Dùng cho người đẻ xong bị tụ máu nội trở, bụng dưới đau dữ dội.

Xuyên khung tán (thuốc bột xuyên khung)

Xuyên khung nghiền thành bột mịn, lấy 5 – 10g, pha giấm, đánh đều. Bôi gọn vào 1 chỗ. Cách 1 ngày thay thuốc 1 lần.

Dùng cho người bị bệnh chồi xương.

Xuyên khung thảo ô tán (thuốc bột xuyên khung thảo ô)

Xuyên khung 15g

Thảo ô tươi 5g

Nghiền chung thành bột cực mịn. Dùng cho người bị chồi xương gót chân sinh đau đớn. Thuốc bột trên đựng vào túi vải có kích thước vừa bằng với gót chân, dày khoảng 0,3 – 0,5cm, đệm vào gót giầy ở vị trí xương gót bị chồi, đau. Phun 1 ít cồn vào để giữ độ ẩm. Thuốc bột cứ khoảng 3 – 5 ngày thay 1 lần. Khi xương chồi đã tiêu, khỏi rồi, vẫn điều trị củng cố thêm 1 tuần lễ nữa.

Xuyên khung mộc hương tán (Thuốc bột xuyên khung, mộc hương)

Xuyên khung, mộc hương (lượng bằng nhau)

Nghiền chung thành bột mịn trộn đều. Uống ngày 6g chia 2 lần, uống bằng hoàng tửu hoặc nước sôi.

Dùng cho người bị sút lưng, tức thở đau mạng sườn, giãn dây chằng thắt lưng, đau thần kinh liên sườn v.v…

Sài hồ thư can thang (Thang thuốc sài hồ trợ gan)

Sài hồ 6g – Chỉ xác 6g

Xuyên khung 6g – Hương phụ 6g

Thược dược 6g – Cam thảo sao 3g

Sắc 2 nước, trộn đều, uống ngày 1 thang, chia 2 lần uống hết.

Dùng cho người can khí uất kết, hai bên sườn đau nhức, lúc nóng lúc lạnh thất thường.

* Những cấm kỵ khi dùng thuốc:

Thuốc này tân ôn thăng tán, nếu dùng nhiều quá có khả năng sẽ bị thất thoát chân khí. Bởi thế, đối với những người âm hư khi nhược, lao nhiệt nhiều mồ hôi và hay ợ, hay nấc, can dương, đau đầu, phụ nữ kinh nguyệt quá nhiều v.v… Phải hết sức thận trọng khi sử dụng.

Theo “Dược phẩm vựng yếu”

Xuyên khung (Hình khối, nặng chắc, màu sắc trắng là tốt. Phụ: Phù khung)

Khí vị:

Vị cay, khí ấm, không độc, nổi mà đưa lên, là dương dược, vào Can kinh, sợ Hoàng liên, Bạch chỉ làm sứ.

Chủ dụng:

Chữa khỏi chứng nhức đầu do Can kinh huyết hư, giải tán các chứng phong, không thể thiếu đối với chứng diện du phong, cũng như du phong trên đầu, trúng phong vào não, tất cả các chứng đầu thống, thiên đầu thống đều kiến hiệu, bên trên chạy khắp đầu mặt, bên dưới chạy vào huyết hải, chữa tất cả các chứng ứ máu cục mà nuôi dưỡng huyết mới, chữa các chứng thổ huyết, nục huyết, niệu huyết, đàn bà kinh bế không có thai, trị tất cả các bệnh về khí, khu trừ các chứng tích khí, bụng dạ kết khí và đau sườn đờm khí, sán khí, trúng ác, thình lình đau, khí kết thành khối, chữa cả ngoại khoa, sinh da thịt, mưng mủ, tiêu ứ, chuyên chữa ngoại cảm, gây ấm bên trong, táo thấp, khu hàn.

Hợp dụng:

Được đi cùng Mầu lệ thì chữa chứng đầu phong, choáng váng, thổ nghịch, được đi cùng Tế tân thì chữa vết thương đâm chém sưng đau, cùng Địa hoàng nấu Rượu thì chữa băng huyết, rong huyết, cùng Ngải cứu lâu năm tán uống để xem có thai hay không. Đông Viên nói: Đau đầu tất phải dùng Xuyên khung và gia thêm vị dẫn kinh: vào Thái dương thì gia Khương hoạt, vào Dương minh gia Bạch chỉ, vào Thiếu dương gia Sài hồ, vào Thái âm gia Thương truật, vào Quyết âm gia Ngô thù, vào Thiếu âm gia Tế tân.

Kỵ dụng:

Khí vị cay, tán, không nên uống lâu, cũng như uống độc một vị ấy, vì nó có thể tiết hết chân khí làm cho người chết thình lình, với chứng hư hỏa bốc lên, nôn ói, ho nghịch là rất kỵ, đậu sởi không mọc không dương lên tuy rằng phải dùng nó, nhưng không được dùng nhiều, vì sợ nó bốc ra và đưa lên quá nhiều.

Cách chế:

Rửa nước sao qua khử dầu hoặc nấu để dùng, nếu dùng sống thì chữa phong tê ngoài da.

Nhận xét:

Xuyên khung cay, ấm cho nên có thể đi lên đầu giúp khí thanh dương để chỉ thống. Đông Viên nói: bên trên chạy tới đầu, mắt, bên dưới chạy vào huyết hải, là khí ở trong huyết dược thuộc Can kinh. Khấu Tông Thích nói: uống lâu ngày làm cho người chết thình lình, bởi vì nó chạy vào Phế, mà Phế thắng hơn thì Can hư tổn, lâu ngày thì tuyệt một bên, nếu cấu trúc vừa phải theo quân, thần, tá, sứ thời đâu đến nỗi thế. Đông Viên cho rằng chạy xuống huyết hải, nuôi dưỡng huyết mới sinh và điều kinh, Đan Khê nói Xuyên khung vị cay nhưng có khả năng thăng tán mà không cố thủ ở dưới, máu huyết quý hồ yên ổn mà không nên khuấy động. Tứ vật thang dùng nó để vận hành sự nê trệ của huyết dược, chứ đâu phải cay tán mà dưỡng được huyết ở hạ nguyên. Lời nói của Đông Viên và Đơn Khê không trái ngược nhau, vốn là để hành trệ, phá ứ rồi sau mới có thể dưỡng huyết mới sinh.

PHỤ: PHÙ KHUNG: Cái bé gọi là Phù khung

Chủ dụng:

Khai uất, làm khoan khoái trong lồng ngực, thông suốt cả Tam tiêu, làm sứ dược để thông âm, dưỡng khí huyết, khí thăng lên thì uất tự phải tan, cho nên Việt cúc hoàn dùng nó làm sứ ý nghĩa là như thế.

GIỚI THIỆU THAM KHẢO “Hòa tễ cục phương”

Bài Xuyên khung trà điều tán

Xuyên khung 16g, Bạc hà 20-30g, Kinh giới 8-16g. Bạch chỉ 8-12g, Phòng phong 6-8g, Khương hoạt 6-8g, Tế tân (bỏ

cuống) 4g, Trà thanh 4g, chích Cam thảo 4g, cùng tán bột, mỗi lần uống 6-8g, với nước trà, ngày 2 lần.

Tác dụng sơ phong, tán hàn, chỉ thống.

Trị đau đầu do cảm phong hàn, đau nửa đẩu, đau vùng trán, chỏng mặt, nghẹt mũi, rêu lưỡi trang nhạt, mạch phù.

“Hành giản trân nhu”-Hải Thượng Lãn Ông

  • Chữa chứng tê: bì tê, mạch tê, cơ tê, cốt tô, cân tê, gọi là ngũ tê, dùng Xuyên khung, Nhân sâm, Bạch truật, Đỗ trọng, Tục đoạn, Ngưu tất, Tần giao, Quế chi, các vị 6-8g.

Sắc, chia uống vài lần trong ngày.

  • Chữa nhiệt bốc, mắt choáng váng, trong ngực không khoan khoái (do phong nhiệt), dùng Xuyên khung, quả Hòe, mỗi thứ 1 lạng, tán nhỏ, liều uống 3đ với nước, ngày 2 lần.
  • Chữa chứng chóng mặt vì đau đầu phong, nhiều mồ hôi, sợ gió, ngực đầy trướng, đờm ẩm, dùng Xuyên khung 5đ, Thiên ma 2 lạng, cùng tán nhỏ, luyện Mật làm viên bằng hạt đậu xanh, liều uống 10 viên với nước trà.

“Hướng dẫn sử dụng các bài thuốc”

  • Bài Gia vị tiêu giao hợp tứ vật thang

Bạch linh, Bạch truật, Bạch thược, Sài hồ, Đan bì, Chi tử, Đương quy, Cam thảo, Xuyên khung, Sinh địa đều 9g, Can khương, Bạc hà đều 3g. sắc, chia uống 3 lần trong ngày.

Áp dụng: Thuốc chữa các bệnh thuộc huyết cho phần nhiều là phụ nữ. Phụ nữ thiếu huyết, mệt mỏi, nóng rét, đau mạng sườn của bài Tiêu giao, thêm khô da, rám da, có khi đen da, cứng da, sinh eczema. Những người nằm đau vai, bỏ tay ra ngoài thấy lạnh, bỏ tay vào trong thấy nóng, bồn chồn, ít ngủ. Với chứng rám da, mề day do chức năng Gan kém nên thêm Kinh giới, Địa cốt.

  • Bài Nữ thần thang

Đương quy 10g, Xuyên khung 8g, Bạch truật 8g, Hạt cau 6- 10g, Quế chi 6-10g, Hoàng cầm 6-10g, Nhân sâm 6g, Cam thảo 4g, Hoàng liên 3-6g, Mộc hương 3-6g, Đinh hương 3-6g, Đại hoàng 2-4g, Hương phụ 10g.

Thuốc dùng cho người sức khỏe bình thường nhưng có rối loạn về đường huyết. Ây là phụ nữ trước và sau lúc sinh đẻ, bị thượng xung, ‘Phóng mặt, rối loạn thần kinh, hoặc phụ nữ rối loạn kinh nguyệt khi mãn kinh. Người bệnh có thể mất ngủ kéo dài, đau đâu. mạch tăng nhanh, tâm trạng u uất.

  • Bài Ôn kinh thang

Bán hạ 6-10g, Mạch môn 6-20g, Đương quy 4-6g, Xuyên khung, Bạch thược, Nhân sâm, Quế chi, A giao, Đan bì, Cam thảo đều 4g, Can khương, Ngô thù đều 2g. sắc, chia uống 2 lần trong ngày.

Phân tích: Nhân sâm, Mạch môn, Đan bì, A giao tư âm, sinh tân dịch; Bạch thược, Đương quy dưỡng Can huyết, Bán hạ phá hàn đàm, Quế, Khương phá hàn, hành khí, Ngô thù lui hàn khí sinh dương

Áp dụng: Những người có phục nhiệt hại âm huyết; hư nhiệt làm cho họ cảm thấy nóng, môi khô, lòng bàn tay nóng, chân tay cước lạnh. Trong thì sinh kinh nguyệt khó, bạch đới, mất ngủ; ngoài sinh eczema; nặng hem thì vô sinh; dùng thuốc này rất hiệu nghiệm. Bài này chữa người hư nhiệt ở lý đã khá nặng.

Bài Tứ vật tiêu phong ẩm (Y tông kim giám)

Sinh địa hoàng 16g, Kinh giới 6g, Đương quy 8g, Phòng phong 6g, Xích thược 8g, Bạch tiên bì 15g, Xuyên khung 8g, Thuyền thoái 6g, Bạc hà 6g, Độc hoạt 6g, Sài hồ 8g, Đại táo 2 quả. Sắc, chia uống 3 lần trong ngày.

Có tác dụng dưỡng huyết, khu phong.

Chữa thấp chẩn mạn tính, viêm da thần kinh và mẩn mề đay.

Bài viết liên quan
Bài viết cùng danh mục

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây