Blog Trang 514

Bệnh xơ nang (Cystic Fibrosis)

Các bác sĩ sử dụng nhiều loại xét nghiệm khác nhau để xác nhận bạn hoặc người thân có bị bệnh xơ nang hay không. Những xét nghiệm này bao gồm xét nghiệm máu, mồ hôi và đôi khi là phân. Các triệu chứng của bạn cũng cần được bác sĩ chuyên khoa về bệnh di truyền này xem xét.

Có một số cách để chẩn đoán xơ nang. Bài viết này sẽ xem xét những phương pháp phổ biến nhất.

Sàng lọc trẻ sơ sinh

Tất cả 50 tiểu bang và Quận Columbia đều tiến hành sàng lọc trẻ sơ sinh cho các tình trạng sức khỏe như xơ nang. Thường thì điều này được thực hiện bằng xét nghiệm máu 24 giờ sau khi sinh hoặc trước khi mẹ và bé rời bệnh viện.

Một y tá sẽ lấy một vài giọt máu từ gót chân của bé và gửi mẫu đến một phòng thí nghiệm. Tại đó, mẫu máu sẽ được kiểm tra để tìm một hóa chất do tụy sản xuất có tên là immunoreactive trypsinogen (IRT).

Xét nghiệm dựa trên IRT chỉ là xét nghiệm sàng lọc — nó không có nghĩa là để chẩn đoán. Hầu hết trẻ em “thất bại” trong xét nghiệm IRT không mắc bệnh xơ nang — họ chỉ có nguy cơ cao hơn và cần một xét nghiệm khác để xác nhận. Nếu kết quả từ xét nghiệm thứ hai bình thường, thì không còn nguy cơ hay cần phải kiểm tra thêm.

Xét nghiệm mồ hôi chloride

Xét nghiệm “mồ hôi” được cho là cách đáng tin cậy nhất để xác định xem ai đó có bị xơ nang hay không. Nó kiểm tra lượng muối trong mồ hôi của bạn. Những người mắc xơ nang có mức chloride cao hơn, một hợp chất có trong muối.

Xét nghiệm này có thể thực hiện trên bất kỳ độ tuổi nào. Nhưng một số trẻ sơ sinh có thể không đổ mồ hôi đủ và có thể cần phải được xét nghiệm nhiều hơn một lần.

Để thực hiện xét nghiệm, bác sĩ sẽ chà xát một khu vực nhỏ trên da cánh tay của bạn hoặc cánh tay của bé bằng một gel đặc biệt giúp kích hoạt các tuyến mồ hôi. Họ sẽ sử dụng một dòng điện yếu để đưa thuốc này vào da. Quá trình này không đau, nhưng có thể gây cảm giác tê hoặc ấm.

Mồ hôi sẽ được thu thập trong 30 phút trong một thiết bị thu thập mồ hôi đặc biệt gắn vào cánh tay của bạn, sau đó mẫu sẽ được gửi đến phòng thí nghiệm. Nồng độ muối cao sẽ xác nhận có xơ nang.

Xét nghiệm mang gen

Bệnh xơ nang do một gen bị lỗi được truyền từ cả hai bậc phụ huynh. Bạn có thể mang gen này mà không có triệu chứng. Nhưng nếu bạn và đối tác đều là người mang gen, có nguy cơ con bạn sẽ sinh ra mắc xơ nang.

Nếu bạn đang nghĩ đến việc bắt đầu một gia đình, DNA của bạn có thể được kiểm tra để xem bạn có gen này hay không. Để làm điều này, bác sĩ của bạn sẽ lấy mẫu máu hoặc quệt bên trong má của bạn để lấy mẫu tế bào.

Bạn có thể muốn thực hiện xét nghiệm này nếu:

  • Một thành viên trong gia đình gần gũi (như anh chị em hoặc cha mẹ) có xơ nang
  • Một thành viên trong gia đình gần gũi được biết đến là người mang gen xơ nang
  • Đối tác của bạn là người mang gen

Một cố vấn di truyền — người được đào tạo về các bệnh di truyền trong gia đình — có thể giải thích kết quả cho bạn. Họ cũng có thể giúp giải thích các lựa chọn của bạn nếu kết quả cho thấy bạn là người mang gen.

Xét nghiệm trước sinh

“Xét nghiệm mang gen” cũng được cung cấp cho những phụ nữ mới mang thai và đối tác của họ. Nếu kết quả cho thấy cả hai bạn đều có gen xơ nang, thì bạn có thể quyết định thực hiện các xét nghiệm bổ sung để kiểm tra sức khỏe của thai nhi.

Điều này có thể được thực hiện bằng cách:

  • Chọc ối: Bác sĩ kiểm tra dịch ối (bao quanh thai nhi trong bụng mẹ) để tìm bất kỳ dấu hiệu khuyết tật bẩm sinh nào. Điều này thường được thực hiện trong khoảng từ tuần 15 đến tuần 20 của thai kỳ.
  • Lấy mẫu chẩn đoán sinh vật nhung mao nhau thai (CVS): Một mẫu mô từ nhau thai cũng có thể được kiểm tra để tìm gen xơ nang bị lỗi. Bạn có thể thực hiện điều này trong khoảng từ tuần thứ 10 đến tuần thứ 12 của thai kỳ.

Xét nghiệm cho người lớn

Nếu bác sĩ nghĩ rằng bạn có thể mắc xơ nang và bạn chưa được xét nghiệm khi sinh, họ có thể đề nghị bạn thực hiện cả xét nghiệm di truyền và xét nghiệm mồ hôi. Những triệu chứng như cơn viêm tụy tái phát (tụy bị viêm), polyp mũi, nhiễm trùng xoang và phổi thường xuyên, và vô sinh là một số vấn đề có thể làm bác sĩ lo ngại.

Glôcôm do chấn thương

Khi một vật đập vào mắt, nhãn cầu bị biến dạng. Giác mạc và củng mạc phía trước bị ép đột ngột về phía sau, vùng xích đạo bị giãn, chất dịch trong nhãn cầu làm các tổ chức này giãn đột ngột. Do vậy gây rách hay gây bong các tổ chức. Chấn thương có thể gây glôcôm xuất hiện sớm hay glôcôm xuất hiện muộn.

Tổn thương các tổ chức phía trước.

Ở phía trước có bảy tổ chức có cấu tạo chạy vòng quanh (song song với vùng rìa) dễ bị căng giãn và rách trong chấn thương đụng giập:

Cơ vòng đồng tử (rách theo vết rách hình nan hoa).

Bò một mắt vùng chu biên hay còn gọi là chân thương mống mắt (đứt chân mống mắt).

Thể mi phía trước Gùi góc tiền phòng).

Chỗ thể mi bám vào cựa củng mạc (bong thể mi).

Vùng bè (rách).

Các dây chằng treo thể thủy tinh Gệch thể thủy tinh hoàn toàn hay không hoàn toàn)

Chỗ võng mạc bám vào vùng ora serrata (đứt chân võng mạc và bong võng mạc).

Nhãn cầu bị chấn thương
Hình 22.10. Nhãn cầu bị chấn thương đụng giập, vùng xích đạo bị giãn.

Cần lưu ý sau chấn thương đụng giập, phải kiểm tra cẩn thận bảy câu trúc này.

Chấn thương phía trước có rách tổ chức.

Có bảy vị trí xuất hiện tổn thương điển hình của chấn thương đụng giập:

– Rách bờ đồng tử, vết rách có dạng nan hoa điển hình, có thể gây biến dạng d nhẹ, đồng tử phản xạ với ánh sáng kém, hoặc đồng tử giãn vĩnh viễn.

Giãn đồng tử có thể do tổn thương cơ co đồng tử, hạch mi và tổn thương thị thần kinh.

  • Rách chỗ bám mống mắt vào củng mạc còn gọi là đứt chân mống mắt. Vì mống mắt mỏng nhất ở vùng này nên cũng dễ bị rách ở đây nhất. vết rách thường rộng quá một phần ba chu vi giác mạc gây biến chứng dạng mống mắt và đồng tử. Đồng tử thường bị lệch sang phía đối diện với vùng tổn thương.
  • Rách thể mi thường dẫn đến lùi góc tiền phòng, vết rách điển hình nằm ở mặt trước thể mi vùng giữa chỗ bám thể mi vào củng mạc và chỗ bám thể mi với chân mống mắt. vết rách thường hay xảy ra ở ranh giới giữa cơ vòng và cơ dọc của thể mi.

So sánh độ sâu tiền phòng vùng chu biên giữa mắt bị chấn thương với mắt không bị chấn thương, nếu độ sâu này tăng là nghi ngờ có lùi góc tiền phòng. Chẩn đoán xác định dựa vào soi góc tiền phòng. Bình thường dải thể mi đều và rộng như nhau ở cả hai mắt. Nếu dải thể mi không đều đặn hay ở một vùng rộng hơn tức là có lùi góc tiền phòng. Tuy nhiên, để chắc chắn phải so sánh với mắt lành. Cách nhiều người hay làm là khám mắt lành trước để có khái niệm bình thường rồi mới khám mắt bị chấn thương.

Thể mi bị bong ra khỏi củng mạc thường hiếm gặp hơn là rách ở vùng thể mi. Khi đó củng mạc bị hở lộ, thủy dịch từ tiền phòng trực tiếp đi vào khoảng thượng hắc mạc. Nhãn áp có thể hạ một thời gian hay vĩnh viễn.

  • Vùng bè cũng có thể bị rách gây tăng nhãn áp sớm hay muộn. Vùng bè đi từ bề mặt mống mắt tới vòng Rách vùng bè khi soi góc tiền phòng thấy ba dâu hiệu sau: Rách tua mong mắt, cựa củng mạc thấy rõ hơn, rách toàn bộ chu vi vùng bè. Nếu rách sâu hơn qua vùng bè vào ống Schlemn, có thể nhìn thây thành ống này có máu trắng đen óng ánh. Các vết rách thường thấy rõ sau chấn thương hơn là sau khi vết thương đã liền sẹo. Khi đó ta thấy thuận lưu thủy dịch tăng lên tạm thời. Tuy nhiên, để lâu ngày vết thương liền sẹo xơ hoá gây tăng nhãn áp.
  • Chấn thương dây chằng Zinn gây lệch thể thủy tinh hoàn toàn hay không hoàn toàn.
  • Rách võng mạc ở vùng ora serrata sẽ được bàn đến sau.

+ Phản ứng với hiện tượng rách tổ chức: Viêm và xuất huyết.

Có hai phản ứng xảy ra ngay sau chấn thương gây rách tổ chức, đặc biệt là chấn thương vào vùng thể mi, đó là hiện tượng viêm và xuất huyết. Viêm biểu hiện bằng các dấn hiệu sợ ánh sáng, nhức mắt, thâm nhiễm bạch cầu vào thủy dịch. Bạch cầu có thể gây tắc vùng bè gây tăng nhãn áp. Xuất huyết tiền phòng có thể nhẹ, biểu hiện bằng có hồng cầu tự do trong tiền phòng, hoặc nâng tạo ngấn máu cao hay thấp hay có cục máu đông.

Nếu soi góc tiền phòng sớm ngay sau chấn thương có thể thấy máu chảy từ mạch máu thể mi bị vỡ vào vùng bè hay qua vùng bè vào tiền phòng. Chỗ vùng bè bị cục máu đông che phủ là nơi nghi ngờ có mạch máu vỡ.

+ Glôcôm kèm theo chấn thương đụng giập vào góc tiền phòng.

Glôcôm có thể xuất hiện sớm hay muộn sau chấn thương đụng giập, có hay không có kèm lùi góc tiền phòng. Đa số các trường hợp tăng nhãn áp là có kèm lùi góc tiền phòng có hay không có xuất huyết tiền phòng. Có thể phân loại glôcôm mạn tính có kèm theo lùi góc tiền phòng (glôcôm do lùi góc tiền phòng), glôcôm mạn tính không có lùi góc tiền phòng. Glôcôm đi kèm xuất huyết tiền phòng đã được bàn đến trong phần trước.

+ Glôcôm cấp tính không kèm theo xuất huyết.

Ngay sau chấn thương đụng giập, nhãn áp có thể giảm nhẹ. Nguyên nhân có thể do chế tiết thủy dịch giảm hay thủy dịch có thêm đường thoát phụ (qua vùng bè bị rách rộng, qua chỗ bong hắc củng mạc).

Tuy nhiên có nhiều trường hợp, nhãn áp tăng kèm với nhiều tế bào viêm trong thủy tinh gây nghẽn vùng bè. Bên cạnh đó, tăng nhãn áp thường kèm theo lùi góc tiền phòng nặng, mặc dù hiếm khi có lùi góc tiền phòng mà không có xuất huyết tiền phòng. Khi lùi góc nặng, vùng bè bị rách, trở lưu thủy dịch tăng. Có ít trường hợp, nhãn áp tăng không kèm với lùi góc tiền phòng hay hiện tượng viêm nhiễm, nguyên nhân không rõ ràng.

+ Glôcôm mạn tính kèm theo lùi góc tiền phòng.

Đại đa số các trường hợp bị chấn thương đụng giập, xuất huyết tiền phòng thường đi kèm lùi góc tiền phòng hay tổn hại vùng bè. Hiếm hơn, lùi góc tiền phòng có thể không có xuất huyết đi kèm.

Nếu xuất huyết tiêu hết không để lại, biến chứng và nhãn áp vẫn bình thường, bệnh nhân được khám lại 6 tháng sau chấn thương. Nếu lùi góc quá 180o, có tới 10% nguy cơ xuất hiện glôcôm mạn tính.

– Thăm khám.

Có thể soi góc tiền phòng sau chấn thương để phát hiện tổn thương nhưng phải hết sức cẩn thận, tránh làm xuất huyết nặng thêm (tránh ấn lên giác mạc, bệnh nhân phải hợp tác tốt, nhằm mục đích nghiên cứu hay điều trị). Có khi soi góc thấy vị trí soi máu nếu nó không bị cục máu đông che lấp.

Sáu tuần sau chấn thương, cần khám mắt toàn diện để phát hiện tổn thương bao gồm cả soi góc tiền phòng và soi đáy mắt (có thể sử dụng kỹ thuật ấn củng mạc để khám kỹ vùng ora serrata).

Glôcôm xuất hiện nhiều năm sau chấn thương là do chấn thương vùng bè sau này làm sẹo gây ra, tuổi cao làm trở lưu thông vùng bè tăng thêm, hay lùi góc ở một bệnh nhân vốn có địa trạng glôcôm góc mở. Vì nguy cơ tăng nhãn áp ở các bệnh nhân bị lùi góc tiền phòng và xuất huyết tiền phòng cao, nên cần kiểm tra nhãn áp những bệnh nhân này một năm một lần.

– Hình ảnh tổ chức học.

Dải thể mi rộng, vùng bè bị xơ hoá. Đôi khi thấy có một lớp màng mỏng (liên tục với màng Descemet) phủ lên trên vùng bè, lớp màng này thường chỉ xuất hiện vùng bè đã mất chức năng cho nên vai trò thực của nó cũng chưa thật rõ ràng. Dính góc tiền phòng cũng có thể xuất hiện trong lùi góc tiền phòng do chấn thương đụng giập, nhưng không phải là nguyên nhân gây tăng nhãn áp. Vùng lùi góc có máu và fibrin che phủ sẽ đóng lại nhưng hiếm.

+ Xơ hoá sau chân thương đụng giập.

Trong chấn thương vùng bè nặng, xuất huyết tạo khung đỡ cho các tê bào xơ phát triển.

+ Điều trị chấn thương đụng giập và tăng nhãn áp.

Sau chấn thương đụng giập, trừ phi có chống chỉ định, còn nói chung nên dùng steroid tra mắt. Nếu nhãn áp tăng cấp tính do viêm hay do lùi góc tiền phòng, steroid tra tại chỗ có tác dụng làm giảm viêm và làm giảm thâm nhiễm tế bào vào vùng bè. Hiện tượng làm sẹo, xơ hoá vùng bè cũng là nguyên nhân tăng nhãn áp về sau, tra steroid 4-6 lần/ngày trong sau tuần lễ có tác dụng làm giảm bốt quá trình làm sẹo.

Nếu nhãn áp tăng, phải sử dụng thuốc làm giảm chế tiết thủy dịch như các thuốc tra mắt kháng cảm thụ bêta hay alpha, hay thuốc ức chế men carbonic anhydrase.

Với glôcôm mạn tính, sử dụng các thuốc glôcôm kinh điển. Nếu thất bại thì có thể mở rộng vùng bè bằng lade nhưng cần thận trọng vì tỷ lệ thành công thấp. Nếu cần điều trị lade thì nên xử lý từng phần ba chu vi/một buổi/ và tiếp tục làm nếu thấy có kết quả. Có khi phải phẫu thuật lỗ rò.

Có thể sử dụng lade argon để cầm máu ở góc tiền phòng, nhất là những trường hợp xuất huyết tái phát nếu soi góc còn thấy rõ.

Viêm Da Tiết Bã Là Gì? Nguyên nhân, Triệu Chứng và Điều Trị

Viêm da tiết bã là một bệnh về da phổ biến gây ra phát ban ngứa với vảy bong tróc. Nó gây ra tình trạng đỏ trên da sáng màu và những mảng sáng trên da tối màu. Nó còn được gọi là gàu, bệnh vảy nến đầu trẻ sơ sinh, tiết bã, eczema tiết bã và vảy nến tiết bã.

Viêm da tiết bã là một bệnh về da có thể gây ra phát ban ở bất kỳ đâu trên cơ thể của bạn.

Nó có thể giống như vảy nến, eczema, hoặc phản ứng dị ứng. Thông thường, nó xảy ra trên da đầu, nhưng bạn có thể gặp phải ở bất kỳ nơi nào trên cơ thể.

Viêm Da Tiết Bã So Với Gàu

Cả viêm da tiết bã và gàu đều gây ra vảy có thể ngứa và khô hoặc nhờn. Gàu có thể được coi là dạng nhẹ nhất của viêm da tiết bã. Cả hai tình trạng này đều có thể được điều trị giống nhau, nhưng bác sĩ của bạn có thể đề xuất các phương pháp điều trị bổ sung nếu bạn bị viêm da tiết bã.

Khác với viêm da tiết bã, gàu chỉ xảy ra trên da đầu. Một sự khác biệt khác là viêm da tiết bã gây sưng tấy và da có màu sắc khác thường, nhưng gàu thì không.

Vảy Nến Da Đầu So Với Viêm Da Tiết Bã Da Đầu

Cả hai đều là các tình trạng phổ biến có thể ảnh hưởng đến da đầu của bạn. Chúng có một số triệu chứng giống nhau, chẳng hạn như da viêm và có vảy. Vảy nến da đầu có những mảng vảy dày và khô hơn, trong khi viêm da tiết bã có những mảnh da bong tróc. Bác sĩ của bạn có thể xác định tình trạng nào bạn đang gặp phải bằng cách quan sát da, da đầu và móng tay của bạn.

Các phương pháp điều trị cho cả hai bao gồm dầu gội có thuốc và kem corticosteroid. Vảy nến da đầu, thường dai dẳng và khó điều trị hơn so với viêm da tiết bã, có thể yêu cầu các phương pháp điều trị khác như liệu pháp ánh sáng.

Nguyên Nhân Gây Viêm Da Tiết Bã

Viêm da tiết bã có thể do nấm men Malassezia, lượng dầu thừa trên da của bạn, hoặc vấn đề với hệ thống miễn dịch của bạn. Nó không phải do dị ứng hay do không sạch sẽ. Nó không lây nhiễm. Nhưng các chuyên gia vẫn chưa biết chính xác nguyên nhân gây ra nó.

Một số yếu tố kích thích viêm da tiết bã bao gồm:

  • Căng thẳng
  • Mệt mỏi
  • Thay đổi mùa hoặc thời tiết lạnh và khô
  • Một số tình trạng y tế và thuốc

Yếu Tố Nguy Cơ Gây Viêm Da Tiết Bã

Trẻ sơ sinh và người lớn từ 30 đến 60 tuổi có nguy cơ cao nhất bị viêm da tiết bã. Nó phổ biến hơn ở nam giới so với nữ giới và ở những người có làn da dầu. Những điều kiện này cũng có thể làm tăng nguy cơ của bạn:

  • Mụn trứng cá
  • Nghiện rượu
  • Có tình trạng sức khỏe tâm thần như trầm cảm
  • Rối loạn hệ miễn dịch như nhiễm HIV
  • Là người nhận ghép tạng
  • Phục hồi từ một tình trạng y tế căng thẳng như nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ
  • Các tình trạng hệ thần kinh như bệnh Parkinson

Triệu Chứng Của Viêm Da Tiết Bã

Các triệu chứng của bạn có thể bao gồm:

  • Da bong tróc
  • Vảy da trên ria mép hoặc râu của bạn
  • Các mảng da nhờn được phủ bởi vảy trắng hoặc vàng bong tróc hoặc có vảy
  • Phát ban có thể trông tối hơn hoặc sáng hơn ở những người có làn da nâu hoặc đen — và đỏ hơn ở những người có làn da trắng
  • Phát ban hình vòng (được gọi là viêm da tiết bã hình vòng)
  • Ngứa (ngứa)

Viêm da tiết bã có thể giống như các tình trạng da khác. Hãy đến gặp bác sĩ để nhận được chẩn đoán và kế hoạch điều trị.

Vị Trí Của Viêm Da Tiết Bã

Trẻ sơ sinh dưới 3 tháng tuổi thường bị bệnh gàu đầu trẻ sơ sinh: những vảy vàng hoặc nâu dày trên da đầu của họ. Nó thường biến mất trước khi trẻ được một tuổi, mặc dù nó có thể tái phát khi trẻ đến tuổi dậy thì. Cha mẹ có thể nhầm lẫn viêm da tiết bã với phát ban tã.

Ở người lớn, bạn có thể bị viêm da tiết bã trên mặt, đặc biệt là quanh mũi, trong lông mày, trên mí mắt, hoặc sau tai. Bạn cũng có thể phát triển tình trạng này trên da dưới râu hoặc ria mép của mình. Nó cũng có thể xuất hiện ở các bộ phận khác trên cơ thể, chẳng hạn như:

  • Ở giữa ngực
  • Xung quanh rốn
  • Trên mông
  • Trong các nếp gấp da dưới cánh tay và trên chân
  • Trong vùng bẹn
  • Dưới ngực

Chẩn Đoán Viêm Da Tiết Bã

Bác sĩ của bạn sẽ hỏi về lịch sử bệnh của bạn và xem xét làn da của bạn. Họ có thể cạo một ít da và quan sát dưới kính hiển vi để loại trừ các tình trạng ảnh hưởng đến da của bạn, bao gồm:

  • Vảy nến (Psoriasis): Gây ra nhiều vảy màu trắng bạc, thường xuất hiện ở khuỷu tay và đầu gối. Nó cũng có thể làm thay đổi hình dạng móng tay của bạn. Bạn có thể bị vảy nến cùng lúc với viêm da tiết bã.
  • Eczema (Viêm da cơ địa): Thường gây ra tình trạng da bị viêm trên đầu, khuỷu tay hoặc đầu gối.
  • Hồng ban (Rosacea): Cũng có thể xảy ra cùng với viêm da. Nó gây ra phát ban đỏ với ít hoặc không có vảy, thường xuất hiện trên mặt. Hồng ban có thể biến mất và tái phát nhiều lần.
  • Phản ứng dị ứng: Nếu phát ban của bạn ngứa và không hết với điều trị, có thể một dị ứng đang gây ra tình trạng này.
  • Bệnh lupus ban đỏ hệ thống (SLE): Một số giai đoạn của tình trạng này có thể gây ra phát ban hình bướm trên giữa khuôn mặt của bạn.

Điều Trị Viêm Da Tiết Bã

Viêm da tiết bã đôi khi có thể tự khỏi. Tuy nhiên, thường thì đây là một vấn đề suốt đời với những đợt bùng phát và giảm nhẹ. Bạn thường có thể kiểm soát nó bằng cách chăm sóc da tốt.

Hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn về kế hoạch điều trị. Họ có thể khuyên bạn bắt đầu với thuốc không kê đơn và các biện pháp tự chăm sóc tại nhà.

Nếu bạn bị viêm da tiết bã trên da đầu, hãy sử dụng dầu gội chống gàu không kê đơn với một trong các thành phần sau:

  • Dầu than đá
  • Ketoconazole
  • Axit salicylic
  • Sulfide selenium
  • Pyrithione kẽm

Nếu bé của bạn bị vảy đầu (cradle cap), hãy gội đầu cho bé hàng ngày bằng nước ấm và dầu gội dành cho trẻ em. Dầu gội chống gàu có thể gây kích ứng cho da của bé, vì vậy hãy nói chuyện với bác sĩ nhi khoa của bạn về các loại dầu gội có thuốc trước khi thử một loại. Để làm mềm các mảng dày, hãy thoa dầu khoáng lên khu vực đó và chải nhẹ nhàng bằng lược trẻ em để giúp loại bỏ vảy.

Nếu bạn bị viêm da tiết bã trên mặt và cơ thể, hãy giữ cho các khu vực bị ảnh hưởng sạch sẽ. Rửa bằng xà phòng và nước hàng ngày.

Ánh sáng mặt trời có thể ngăn chặn sự phát triển của các sinh vật nấm men gây ra vấn đề này, vì vậy việc ở ngoài trời có thể giúp làm giảm phát ban. Hãy chắc chắn rằng bạn sử dụng kem chống nắng.

Các điều trị khác bao gồm:

  • Sản phẩm chống nấm
  • Kem corticosteroid
  • Sản phẩm chứa sulfur

Các loại thuốc này có thể có tác dụng phụ, đặc biệt nếu bạn sử dụng chúng trong thời gian dài.

Dầu gội viêm da tiết bã: Bác sĩ của bạn có thể đề xuất sử dụng dầu gội có thuốc với 2% ketoconazole hoặc 1% ciclopirox (Loprox). Nhưng hãy lưu ý rằng ketoconazole có thể làm cho tóc bạn khô hơn nếu tóc bạn quăn chặt hoặc đã qua xử lý hóa học. Trong trường hợp đó, hãy sử dụng dầu gội không quá một lần mỗi tuần và sử dụng dầu xả dưỡng ẩm. Bạn có thể sử dụng các loại dầu gội có thuốc khác một lần mỗi ngày, hoặc hai đến ba lần mỗi tuần, trong vài tuần. Để nó trên da đầu của bạn vài phút trước khi xả sạch. Khi các triệu chứng của bạn biến mất, bạn có thể sử dụng nó mỗi tuần hoặc hai tuần một lần để giúp ngăn ngừa tái phát.

Bất kể phương pháp điều trị nào bạn sử dụng, hãy tuân theo lời khuyên của bác sĩ. Kết quả tốt nhất thường đến từ sự kết hợp của các phương pháp điều trị.

Liên hệ với bác sĩ của bạn nếu các khu vực bị ảnh hưởng:

  • Không cải thiện
  • Trở nên đau, đỏ hoặc sưng
  • Bắt đầu chảy mủ

Viêm Da Tiết Bã Có Khỏi Tự Nhiên Không?

Đối với trẻ sơ sinh, viêm da tiết bã (vảy đầu) sẽ tự khỏi trong vòng vài tháng. Đối với thanh thiếu niên và người lớn, tình trạng này có thể tự khỏi, nhưng bạn có thể sẽ cần điều trị. Có thể có những đợt bùng phát viêm da tiết bã trong suốt cuộc đời bạn.

Biến Chứng của Viêm Da Tiết Bã

Biến chứng từ viêm da tiết bã rất hiếm. Trong một số trường hợp, bạn có thể phát triển các nhiễm trùng vi khuẩn thứ phát ở các vùng trên cơ thể bị ảnh hưởng bởi bệnh da này. Điều này bao gồm mí mắt ở người lớn và khu vực tã ở trẻ em.

Bạn có thể gặp phải một số tình trạng rụng tóc, nhưng điều này là do ngứa và cọ xát vào da đầu và các khu vực khác bị viêm da tiết bã, không phải do chính tình trạng này. Ngứa ngáy dữ dội có thể làm hỏng các nang tóc của bạn, có thể ngắt quãng quá trình phát triển tóc tự nhiên của bạn và gây rụng tóc.

Các Biện Pháp Tại Nhà Cho Viêm Da Tiết Bã

Thay đổi lối sống và các biện pháp tại nhà có thể giúp bạn kiểm soát viêm da tiết bã. Phương pháp điều trị tốt nhất của bạn phụ thuộc vào loại da của bạn, thói quen chăm sóc cá nhân và triệu chứng. Nhưng trước khi sử dụng thực phẩm chức năng hoặc các liệu pháp thay thế khác, hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn.

Một số biện pháp tại nhà bạn có thể thử là:

  • Sử dụng dầu để loại bỏ vảy: Thoa dầu khoáng, dầu đậu phộng hoặc dầu ô liu lên da đầu của bạn trong 1 đến 3 giờ. Sau đó, chải hoặc chải tóc của bạn và rửa sạch.
  • Rửa da của bạn: Sử dụng nước ấm, không nóng, và xà phòng nhẹ hoặc chất tẩy rửa không có xà phòng. Rửa sạch kỹ lưỡng. Vỗ khô và thoa kem dưỡng ẩm khi da bạn vẫn còn ẩm.
  • Tránh sản phẩm tạo kiểu tóc: Không sử dụng xịt tóc, gel, hoặc các sản phẩm tạo kiểu khác.
  • Tránh các sản phẩm chăm sóc da và tóc có cồn: Những sản phẩm này có thể làm tình trạng của bạn tồi tệ hơn.
  • Làm sạch mí mắt: Nếu mí mắt của bạn có vảy, hãy rửa chúng hàng ngày. Trộn vài giọt dầu gội trẻ em với hai nắp nước ấm. Lau sạch vảy bằng bông gòn. Khăn ấm và ẩm đắp lên mí mắt của bạn cũng có thể giúp.
  • Sử dụng lô hội: Thoa gel lô hội lên khu vực bị ảnh hưởng. Bạn có thể chọn sản phẩm chăm sóc da chứa lô hội hoặc sử dụng lô hội trực tiếp từ lá cây lô hội.

Những Điểm Chính

  • Viêm da tiết bã là một bệnh về da phổ biến gây ra phát ban ngứa với vảy bong tróc.
  • Tình trạng này thường xảy ra trên da đầu, nhưng bạn có thể gặp ở bất kỳ đâu trên cơ thể.
  • Viêm da tiết bã không thể chữa khỏi.
  • Nó đôi khi có thể tự khỏi. Nhưng thường thì, đây là một vấn đề suốt đời với những đợt bùng phát và giảm nhẹ.
  • Biến chứng từ viêm da tiết bã rất hiếm.
  • Thay đổi lối sống và các biện pháp tại nhà có thể giúp bạn kiểm soát viêm da tiết bã.
  • Các phương pháp điều trị chính cho viêm da tiết bã là dầu gội, kem và lotion có thuốc.

Câu Hỏi Thường Gặp

Một số yếu tố kích thích viêm da tiết bã là gì?

  • Căng thẳng
  • Mệt mỏi
  • Thay đổi mùa
  • Thời tiết lạnh và khô
  • Một số tình trạng y tế và thuốc

Làm thế nào để loại bỏ viêm da tiết bã?

Nó có thể tự khỏi, nhưng các phương pháp điều trị chính cho viêm da tiết bã là dầu gội, kem, và lotion có thuốc. Các biện pháp tại nhà cũng có thể giúp.

Có thể điều trị viêm da tiết bã không?

Điều trị không thể chữa khỏi viêm da tiết bã, nhưng nó có thể làm giảm các triệu chứng như ngứa và sưng.

Sai lầm: Nên ăn trái cây sau bữa ăn

Trong những bữa cơm đoàn viên ngày tết, những bữa tiệc, liên hoan và sau những bữa ăn thường ngày, nhiều gia đình vẫn thường bày thêm đĩa trái cây để ăn “tráng miệng”. Thói quen đó vẫn có từ xa xưa cho đến nay, với ý nghĩ để làm tăng thêm sự thịnh soạn, sang trọng của bữa ăn, vừa để tỏ lòng quý khách của chủ nhân; ngoài ra ăn thêm ngay hoa quả như vậy là để cho bớt ngấy, giúp tiêu hóa tốt thức ăn, tăng thêm chất bổ dưỡng, có lợi cho sức khỏe. Thực ra, ăn như vậy, đứng về mặt bảo vệ sức khỏe mà xét thì rất không có lợi cho sức khỏe.

Trong các loại rau mà chúng ta thường ăn, phần lớn đều có chất rhodanate, nhất là trong củ cải, cải bắp, súp lơ v.v…, hàm lượng chất này lại càng cao hơn. Chất rhodanate ở trong cơ thể sau khi đã thay thế chuyển hóa sẽ hình thành thiocyanic acid. Trong các quả tươi mới như táo, lê, nho v.v… thì có một hợp chất hóa hợp flavone. Chất này ở trong đường ruột sau khi đã bị các vi khuẩn phân giải biến hóa, sẽ hình thành chất dihydroxybenzoic acid. Chất thiocyanic acid với chất dihydroxybenzoic acid tác dụng với nhau sẽ làm rối loạn công năng bình thường của tuyến giáp trạng, khi nghiêm trọng sẽ dẫn đến tình trạng làm sưng tuyến giáp trạng không phải là do thiếu iốt.

Hoa quả
Hoa quả

Nhà dinh dưỡng học của Đài Loan là Âu Dương Tinh đã chỉ ra: Sau khi thức ăn vào dạ dày, dạ dày phải co bóp, tiết ra dịch vị để phân giải tiêu hóa thức ăn, sau đó sẽ dần từng bước thải thức ăn đưa vào hành tá tràng để tiêu hóa thêm, quá trình này phải mất từ 1 đến 2 giờ. Nếu sau bữa ăn mà ăn ngay các loại trái cây thì trái cây sẽ cùng với thức ăn ứ tích trong dạ dày, như vậy không những tăng thêm gánh nặng cho dạ dày mà còn do thời gian thức ăn đọng lại trong dạ dày quá dài, cộng thêm với tác dụng phức tạp của các loại acid hữu cơ có trong các trái cây như malic acid, citric acid, tartaric acid v.v… thức ăn rất dễ sinh lên men hư hỏng, hình thành trướng khí, làm cho khoang dạ dày trướng đầy, khó tiêu hóa. Có một số người khi tiêu hóa không tốt, thường hay nấc, ợ, từ dạ dày bốc ra hơi hôi chua y như vật thể bị thối rữa, đó chính là do thức ăn trong dạ dày đã bị lên men. Có một số người ăn quá no, thậm chí đến mức đứng lên cũng phải người chống đỡ, muốn dùng trái cây để trợ giúp tiêu hóa, tiêu trừ nhanh ngay thực phẩm tích đọng, họ có biết đâu đó lại càng làm nặng thêm lên hiện tượng tích đọng thức ăn, càng khó tiêu hóa hơn. Ngoài ra, sau bữa ăn, ăn một số loại trái cây nào đó còn có thể dễ sinh bí đại tiện nữa.

Khi người ta ăn, dạ dày bị thức ăn kích thích sẽ tiết ra lượng lớn dịch vị có tác dụng tiêu hóa. Khi thức ăn ở trong dạ dày, chỉ mới là bắt đầu của quá trình tiêu hóa, chưa được tiêu hóa hoàn toàn. Lúc bấy giờ nếu lại ăn các loại quả có hàm lượng cao các chất tannin, pectin như quả hồng chẳng hạn, thì các chất đó sẽ hỗn hợp với dịch vị, với chất xơ sợi (fibre) và chất protein trong thức ăn chưa bị tiêu hóa, dễ vón kết thành những hạt tròn rất khó tiêu hóa. Những hạt tròn này nếu lưu trệ lâu trong dạ dày còn có thể hình thành sỏi dạ dày, do đó hồng không nên ăn ngay trước và sau bữa ăn, đặc biệt là sau khi ăn các thức ăn giàu chất protein như tôm, cua (hải sản) và các thức ăn cao lương mỹ vị trong ngày tết cũng như trong các bữa tiệc.

Từ những phân tích trên, chúng ta đừng bao giờ tưởng lầm rằng ăn tráng miệng các trái cây sẽ “càng tăng thêm dinh dưỡng và có ích cho bồi bổ sức khỏe”. Trên quan điểm bảo vệ sức khỏe, các nhà dinh dưỡng học và y học đề nghị chỉ nên ăn các trái cây trước bữa ăn 1 giờ và sau bữa ăn khoảng 2 đến 3 giờ. Đặc biệt đối với các loại quả có nhiều chất tannate và pectin như quả hồng thì tuyệt đối không nên ăn khi vừa ăn cơm xong cũng như khi bụng đang đói.

Địa liền – Tác dụng chữa bệnh và cách dùng

ĐỊA LIỀN

Tên khác:

Sơn nại, tam nại, sa khương, củ thiền liền, co xá choóng (Thái). Tên khoa học: Kaempferia galanga L.

Họ Gừng (Zingiberaceae)

MÔ TẢ

Cây thảo, không có thân hoặc thân rất ngắn, có thân rễ mang nhiều củ nhỏ mọc thành chuỗi. Lá mọc sát mặt đất, 2 – 3 cái có phiến rộng uốh lượn, mặt trên nhẵn màu sẫm bóng, mặt dưới có ít lông mịn, mép mỏng viền đỏ.

Cụm hoa mọc ở giữa túm lá gồm 6 – 12 cái, màu trắng có đốm tím ở giữa; đài và tràng có 3 thùy, có ống tràng dài, nhị không có chỉ nhị, có nhị lép, cánh môi chẻ 2 thùy.

Cả cây nhất là thân rễ rất thơm.

Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Địa liền
Địa liền

PHÂN BỐ, NƠI MỌC

Trên thế giới, địa liền phân bố ở châu Á, gồm Trung Quốc, Ấn Độ, các nước Đông Nam A.

ở Việt Nam, cây mọc hoang ở Tây Bắc (Sơn La, Lai Châu), Yên Bái, Hà Giang và Tây Nguyên (Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum). Thường gặp ở sườn núi và thung lũng ẩm.

Cây đã được trồng ở nhiều nơi, nhất là vùng đồng bằng sông Hồng.

BỘ PHẬN DÙNG, THU HÁI, CHẾ BIẾN

Thân rễ, thu hoạch vào mùa đông xuân, lúc thân lá bắt đầu tàn lụi. Chỉ lấy những nhánh củ to, còn những nhánh nhỏ đem vùi lại để bảo đảm cây tái sinh tự nhiên. Đem về, rửa sạch, cắt bỏ rễ con, thái từng phiến, phơi khô hoặc xông diêm sinh một ngày rồi phơi khô. Không sấy than, vì địa liền sẽ đen, mất mùi thơm, kém phẩm chất.

THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Thân rễ địa liền chứa tinh dầu, trong đó có hợp chất p-methoxy ethyl cinamat chiếm phần lớn, acid p-methoxycinamic, ethyl cinamat, camphen, borneol, aldehyd cinamic, cineol, kaempferol.

TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Qua nghiên cứu, thân rễ địa liền thể hiện có tác dụng chống viêm rõ rệt, dưới dạng cao cồn, cao nước và tinh dầu, tác dụng hạ sốt và tác dụng ức chế sự phát triển của một số nấm thường gây bệnh ngoài da. Borneol có tác dụng làm toát mồ hôi, gây hưng phấn.

CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Theo kinh nghiệm dân gian, địa liền được dùng chữa ngực bụng lạnh đau, cảm, ho, tiêu chảy, nôn mửa, khó tiêu, đau dạ dày.

Liều dùng hàng ngày: 4 – 8g dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột hoặc thuốc viên.

Dùng ngoài, địa liền thái nhỏ, ngâm vổi rượu, dùng xoa bóp chữa đau nhức, tê thấp hoặc ngậm chữa đau nhức răng (không được uống).

Tinh dầu địa liền dùng để chế nước hoa. Bột thân rễ địa liền có tác dụng bảo quản quần áo chống nhậy.

BÀI THUỐC

  • Chữa cảm, sốt, nhức đầu: Địa liền (5g), bạch chỉ (5g), cát căn (10g). Tất cả phơi khô, tán nhỏ, rây bột mịn hoặc làm viên uống mỗi ngày 10g chia làm hai lần.

Thuốc hạ sốt, giảm đau nhanh, kháng khuẩn tốt, không có tác dụng phụ, có thể dùng cho cả người lớn lẫn trẻ em.

  • Chữa cảm nhức, ngộ độc, táo bón, ăn kém tiêu: Địa liền (100g), rau má (100g), thổ phục linh (100g), cam thảo (50g). Tất cả phơi khô, tán bột mịn. Ngày uống 2 – 4g (Kinh nghiệm của Hợp tác xã thuốc dân tộc Hợp Châu).
  • Thuốc cai sữa cho trẻ: Địa liền (10g), viễn chí (10g), tế tân (10g). Tán bột, hòa với sữa mẹ hoặc dầu lạc, bôi lên lông mày của trẻ nhỏ vào buổi tối trước khi đi ngủ.

Sốt xuất huyết thể sốc ( Dengue độ 3 và 4 )

Đây là một thể nặng của Sốt xuất huyết, còn gọi là sốc Sốt xuất huyết, tương đương với Sốt xuất huyết độ 3-4 của TCYTTG (1980).

Tình hình sốc Sốt xuất huyết.

Sốc Sốt xuất huyết xuất hiện ở bệnh nhi nhiều hơn bệnh nhân lớn tuổi, ở bệnh nhi, sốc kể cả nhẹ và nặng chiếm 50-70% ở Bệnh viện nhi đồng 1 (vụ dịch 1973) và 33,5% ở Bệnh viện B (vụ dịch 1969); riêng sốc nặng gặp ở 16,6% – 20% tại Bệnh viện nhi đồng 1 và 12 – 17% tại Bệnh viện B trên tổng số bệnh nhi (Bs Nguyễn Tường Vàn, Trần Đình Đôn, Phạm Ngọc Nga, 1974; Bs Bùi Xuân Bách, 1970). ở bệnh nhân người lớn nằm tại bệnh viện, tỷ lệ sốc thấp hơn so với bệnh nhi (xem bảng 17). Mặc dù tiêu chuẩn xác định sốc chưa thật thống nhất, nhưng sơ bộ có nhận xét:

Bảng TỶ LỆ SỐC Ở BỆNH NHÂN SỐT XUẤT HUYẾT NGƯỜI LỚN TẠI CÁC BỆNH VIỆN, BỆNH XÁ

Bệnh viện, Bệnh xá Sốc  Sốt xuất huyết/ Tỷ lệ % Chú thích
Tổng số Sốt xuất huyết
Bệnh viện hậu phương: Viện 108 8/110 7,3
BV. VN-Cuba 29/150 19,3
BV. Bạch Mai 57/350 16,2
Viện 175 (a) 52/154 33,7
Bệnh viện, bệnh xá đơn vị: BV. QĐ6 45/412 11
BV. QĐd 25/286 8,9
BV.5-8 4/112 3,6
BX. E7 14/160 8,7

(a): Chỉ kể số lượng sốc và tỷ lệ trong số bệnh nhân Sốt xuất huyết nặng nằm ở khoa điều trị tích cực.

  • Trẻ em dễ bị sốc hơn người lớn.
  • Tỷ lệ bệnh nhân Sốt xuất huyết bị sốc ở bệnh viện và bệnh xá đơn vị nói chung thấp hơn so với bệnh viện hậu phương.

Lâm sàng sốc sốt xuất huyết

  • Sau vài ngày sốt từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 7 phổ biến vào ngày thứ 4-6 (2-3 ngày cuối của thời kỳ sốt cao và ngày nhiệt độ tụt), ở một số bệnh nhân nặng có dấu hiệu suy tuần hoàn (lạnh đầu chi, tím tái quanh miệng, mạch nhanh nhỏ, huyết áp giảm, đái ít), có khi kèm theo đau bụng, bệnh nhân mệt lả, ngủ gà, hoặc bồn chồn vật vã; nếu không được can thiệp sớm và đúng, sẽ vào sốc sâu: huyết áp và mạch sẽ không đo đếm được, thiểu niệu, vô niệu xuất hiện ( <20ml/giờ), da lạnh ẩm và tái sạm toàn thân, bệnh nhân nằm lịm.

sốc thường chỉ kéo dài 1-2 ngày. Bệnh nhân có thể chết sau 12-24 giờ do sốc không phục hồi dẫn đến nhiễm toan chuyển hoá, suy thận cấp, xuất huyết thứ phát do đông máu rải rác nội mạch; nếu điều trị sốc sớm và hiệu lực, bệnh nhân thường thoát sốc nhanh. Tiên lượng phụ thuộc vào việc phát hiện sớm sốc và xử trí kịp thời từ thời kỳ tiền sốc.

  • Nguyễn Tường Vân (1970) theo dõi thời gian xuất hiện sốc ở bệnh nhi tại Bệnh viện nhi đồng 1 nhận thấy: có 26,6% trường hợp sốc xuất hiện vào ngày thứ 4, 53,3% vào ngày thứ 5, và 21,1% vào ngày thứ 6 (Nguyễn Tường Vân, 1974). Trong số 79 bệnh nhân sốc Sốt xuất huyết ở Bệnh viện Bạch Mai, có 17 vào sốc ngày thứ 2, 3; 57 vào sốc ngày thứ 4, 5, 6 và 5 bệnh nhân vào sốc ngày thứ 7, 8; trong đó sốc kéo dài 1 ngày ở 49 bệnh nhân (62%), 2-3 ngày ở 25 bệnh nhân (31,6%) và 4-5 ngày ở 5 bệnh nhân; như vậy đa số sốc ở Sốt xuất huyết diễn biến trong 24 giờ (Bs Nguyễn Hữu Bình, Khoa truyền nhiễm Bệnh viện Bạch Mai, 1970). Hãn hữu có những trường hợp sốc Sốt xuất huyết kéo dài tới 7-10 ngày: như ở K43, trong 9 trường hợp tử vong vì sốc Sốt xuất huyết có 2 trường hợp dài 2 ngày, 4 trường hợp 3-4 ngày, 2 trường hợp 7 ngày, và 1 trường hợp 10 ngày (Bs Phi 1975).
  • Tiêu chuẩn xác định Sốt xuất huyết và sốc dengue về lâm sàng (theo tài liệu hướng dẫn phòng chống Sốt xuất huyết của TCYTTG, 1980):

+ Tiêu chuẩn chẩn đoán lâm sàng Sốt xuất huyết:

Sốt: cấp diễn, cao, liên tục, 2-7 ngày.

Hội chứng xuất huyết bao gồm:

  • Tối thiểu dây thắt (+)
  • Một triệu chứng xuất huyết (dưới da, niêm mạc, tiêu hoá).

Gan to (90-96% ở bệnh nhi; 60% ở bệnh nhân lớn).

Rối loạn tuần hoàn (nhẹ và lâm thời).

Tiểu cầu giảm, đồng thời có cô máu.

+ Tiêu chuẩn chẩn đoán lâm sàng sốc Sốt xuất huyết:

  • Như trên
  • Có thêm:

Mạch nhanh yếu

Huyết áp tụt (< 90 mmHg với tuổi >5; và 80 mmHg với tuổi < 5) hoặc kẹt (dưới 20 mmHg).

Da lạnh, dính nhớp.

Mệt.

Khi sốc sâu và kéo dài với huyết áp và mạch không đo đếm được, có thể dẫn tới: suy thận cấp (với thiểu vô niệu nặng, urê máu tăng, kali máu tăng), nhiễm toan chuyển hóa, rối loạn hô hấp…, ngừng tim; theo tài liệu của TCYTTG (1980), khi sốc kéo dài quá trình đông máu rải rác nội mạch có thể gây xuất huyết nghiêm trọng đường tiêu hoá (ở 1/3 trường hợp).

Sốc Sốt xuất huyết dễ nhầm: với sốc nội độc tố do nhiễm khuẩn huyết Gram (-) vì cũng có bạch cầu giảm; với thể nhiễm huyết màng não cầu kịch phát vì cũng có xuất huyết v.v…

Phân loại và tiên lượng sốc Sốt xuất huyết

Sốc Sốt xuất huyết được TCYTTG (1980) chia ra 2 mức độ: sốc nông (khi huyết áp thấp <90 mmHg hoặc <80 mmHg hoặc kẹt, mạch nhanh yếu) và sốc sâu huyết áp và mạch không đo đếm được.

Một số nơi phân ra 3 mức độ: sốc trung bình (HA 80 mmHg, mạch còn rõ), sốc nặng (HA 60, mạch nhanh và nhỏ), sốc rất nặng (huyết áp và mạch không đo đếm được).

Để tiên lượng sốc Sốt xuất huyết, người ta thường dựa vào những dấu hiệu sau:

  • Sốc trong giai đoạn sốt cao có tiên lượng xấu hơn sốc xuất hiện khi hạ sốt.
  • sốc, với mạch nhanh có tiên lượng xấu hơn sốc với mạch chậm.
  • Sốc kèm theo xuất huyết tiêu hoá thứ phát có tiên lượng xấu hơn không kèm theo xuất huyết tiêu hóa.
  • Sốc kết hợp với triệu chứng não (hôn mê) có tiên lượng xấu hơn sốc không kết hợp biểu hiện não.
  • Sóc ở bệnh nhi thường nặng hơn sốc ở bệnh nhân người lớn.
  • Sốc có thiểu niệu, vô niệu nặng kéo dài, có tiểu cầu giảm nhiều (<50,000 – 60.000), có hematocrit cao trung bình (>50%), có đông máu rải rác nội mạch năng kèm theo tiêu sợi huyết thứ phát, có rối loạn điện tim (rối loạn dẫn truyền, rối loạn tái cực, thiếu oxy cơ tim…) đều có tiên lượng dè dặt.
  • Sốc xuất hiện lúc sốt cao và khi hạ sốt:

Nói chung sốc Sốt xuất huyết xuất hiện khi đang sốt cao ít hơn nhưng tiên lượng nặng hơn so với sốc xuất hiện khi nhiệt độ tụt. Bệnh viện B gặp 90,6% là sốc lúc hạ sốt và 9,4% là sốc khi còn sốt cao, loại này có xu hướng nặng hơn (Bùi Xuân Bách, 1970). Trong 57 trường hợp sốc nặng (S1) và rất nặng (S2> của Bệnh viện Bạch Mai (xem bảng dưới), có 8 ca (14,1%) xuất hiện vào ngày thứ 2-3 lúc còn sốt cao, 49 ca (85,9%) xuất hiện vào ngày thứ 5-6 liền ngay khi nhiệt độ tụt; riêng trong 8 ca sốc lúc sốt cao đã có 5 ca bị sốc sâu (S2), ngược lại trong số 49 ca sốc lúc sốt nhẹ, chỉ có 14 ca bị sốc sâu (28,5%).

Mối liên quan giữa mức độ sốc và thời điểm xuất hiện sốc (Bs Chất, Bệnh viện Bạch Mai, 1970):

Mức độ sốc Sốc lúc sốt cao Sốc lúc hạ sốt Cộng
S1 (nặng) 3 35 38
S2 (rất nặng) 5 14 19
Cộng 8 49 57

Chú thích:             Sl: HA < 60,  mạch nhanh nhỏ

S2: HA = 0, mạch không đếm được.

Tại Bệnh viện T.N.M., Bs Hoàng Diện đã gặp 7 bệnh nhân sốc Sốt xuất huyết, cả 7 đều bị sốc vào lúc hạ sốt: lúc nhiệt độ tụt xuống nhanh 35o-36oC trong vòng 12-24 giờ, tất cả đều được điều trị thành công vì không nặng lắm (Bs Hoàng Diện, 1975).

  • Sốc kèm theo mạch nhanh hoặc mạch chậm: Nhiều tác giả gặp sốc dengue không những với mạch nhanh mà cả với mạch chậm. Mạch chậm cùng với giãn mạch ngoại vi và tụt huyết áp thường xẩy ra trong những trường hợp sốc do nguyên nhân thần kinh vận mạch, do phản xạ phó giao cảm, do histamin, v.v… (Lyght E. Merck, 1966, trang 152; Friedberg C.K., Disease of the heart, 1966, trang 451). Ở bệnh Sốt xuất huyết, cũng có những trường hợp sốc đi cùng với mạch chậm xoang, loại này tiên lượng không nặng: trong số 518 bệnh nhân Sốt xuất huyết với HA < 80 của Bệnh viện B, có 174 trường hợp mạch chậm (33,5%) và 344 trường hợp mạch nhanh (66,5%; Bùi Xuân Bách và cs., 1970). Đáng lưu ý là trong thời kỳ sốt cao, sốc thường đi đôi với mạch nhanh, và ngược lại sốc xuất hiện vào lúc hạ sốt có xu hướng đi đôi với mạch chậm xoang. Trạng thái thứ nhất là biểu hiện rõ ràng của một sốc hụt thể tích lưu hành, nhưng trong trạng thái thứ hai với huyết áp tụt và mạch chậm xoang có thể có yếu tố cường phó giao cảm và tiên lượng không nặng bằng. cơ chế nào gây huyết áp tụt đi đôi với trạng thái khác nhau “như vậy là vần đề cần được làm sáng tỏ trong sốc Sốt xuất huyết; chưa kể thêm mối quan hệ giữa sốc và xuất huyết phủ tạng, sốc và quá trình BMRRNM, sốc và cơ tim…

Mối liên quan giữa mức độ sốc và xuất huyết phủ tạng (Bs Chất, Bệnh viện Bạch Mai):

mức độ sốc Có xuất huyết tiêu hóa Có Xuất huyết phủ tạng khác Không có Xuất huyết phủ tạng Cộng
S1 (nặng) 21 14 3 38
S2 (rất nặng) 12 1 6 19
Cộng 33 15 9 57

Tại viện 108, trong 23 bệnh nhân huyết áp thấp, chúng tôi gặp 8 trường hợp hoàn toàn không có xuất huyết phủ tạng, trong đó có 1 trường hợp huyết áp tụt dưới 60 (Bùi Đại, Nguyễn Thị Kim Quy và cs, 1969), xem bảng dưới:

Huyết áp tối đa Không có xuất huyết Có xuất huyết dưới da và niêm mạc Có Xuất huyết phủ tạng Cộng
90 5 6 4 15
70-80 2 4 1 7
60 1 0 0 1
Cộng 8 10 5 23

Những thực tế trên nói lên không có thường xuyên mối liên quan nhân quả giữa xuất huyết phủ tạng và sốc dengue và nhân tố chủ yếu dẫn tới sốc ở bệnh Sốt xuất huyết là yếu tố tăng tính thấm huyết quản (thất thoát huyết tương ra ngoài lòng mạch), từ đó máu cô lại và giảm thể tích tuần hoàn.  Theo G. Sumarmo và cs, 1983, trong số 30 ca chết vì sốc dengue gặp 9 trường hợp (30%) có xuất huyết tiêu hoá tiên phát xuất hiện trước sốc, không có cô máu và tràn dịch màng phổi. Ngược lại, khi sốc kéo dài (sốc chưa phục hồi sau 6-10 giờ, có thể kèm theo xuất huyết tiêu hoá thứ phát {1/3 trường hợp) do đông máu rải rác nội mạch phát triển (TCYTTG, 1980). Những trường hợp sốc kéo dài kèm theo xuất huyết tiêu hoá thứ phát, thường do hematocrit cao, tiên lượng nặng hơn F=o với những trường hợp sốc bắt nguồn từ một xuất huyết tiêu hoá tiên phát với hematocrit thấp. Đáng lưu ý là một số trường hợp sốc thường chỉ có xuất huyết dưới da thưa thớt, lờ mờ, và những trường hợp không sốc thường thấy xuất huyết dưới da dày và rõ rệt hơn, hiện tượng này tương tự với nhận xét trong bản hướng dẫn của TCYTTG (1980), nghiệm pháp dây thắt có thể âm tính hoặc dương tính nhẹ ở thời kỳ sốc sâu và sau khi sốc phục hồi, nó thường dương tính mạnh.

  • Sốc kéo dài có biến chứng: sốc Sốt xuất huyết nếu được phát hiện, điều trị sớm và đúng, thường phục hồi nhanh, trung bình sau 6 giờ, có trường hợp sau 3-4 giờ trở lại. Những trường hợp được xử trí theo đúng phác đồ của TCYTTG mà sau 6-10 giờ vẫn không phục hồi, được coi là sốc kéo dài.

Nguyên nhân gây sốc kéo dài thường là:

  • Do sốc được can thiệp muộn, vì phát hiện muộn hoặc đến viện muộn, đã chuyển sang nhiễm toan, đông máu rải rác nội mạch
  • Do bổ sung dịch thể không đầy đủ về số lượng cũng như về chất lượng.
  • Do trong quá trình truyền dịch thể, bệnh nhân bị phản ứng rét run, sốt cao, vì có “Chất gây nhiệt” trong dịch truyền hoặc trong bộ dây truyền; phản ứng này được Bệnh viện nhi đồng 1 (1980) gọi là “run tiêm truyền”; ở một số bệnh viện phản ứng này gặp với tỉ ]ệ 10-50%, tuỳ theo chất lượng của dịch truyền và của bộ dây truyền. “Run tiêm truyền” có thể trở thành một tai nạn tăng nhiệt, dễ gây sốc kéo dài với hội chứng não cấp, xuất huyết tiêu hoá, truỵ tim mạch (Trần Tân Trâm, 1986). Bệnh nhân Sốt xuất huyết dễ có phản ứng run tiêm truyền hơn các bệnh nhân khác vì trong cơ thể đang có nhiều chất interleukin 1, TNFα, lại thường phải sử dụng một số lượng dịch truyền lớn (Nguyễn Trọng Lân và cs, 1982; Trần Tấn Trám, 1986).
  • Do thể trạng bệnh nhân có sẵn bệnh mạn tính ở thận, tim, gan, do sốc kèm theo những biến chứng như xuất huyết tiêu hoá (do đông máu rải rác nội mạch), suy thận cấp, suy-gan cấp, suy yếu chức năng co bóp cơ tim (do thiếu oxy trong tổ chức tế bào), hội chứng não cấp (do thiếu oxy não, rối loạn, điện giải, xuất Huyết đốm ở não…).

Sốc kéo dài có tử vong cao: từ 20 – đến 40%. Tình trạng này đã được thực tế chứng minh ở Viện 175 (Nguyễn Thiện Thìn, 1979), Bệnh viện hải quân (Bs Trương Quý Bình, 1975) với những thể bệnh như: sốc + xuất huyết tiêu hoá, sốc + hội chứng não, sốc + suy gan cấp, có vàng da và hoại tử nhu mô, sốc + suy thận cấp, v.v… Tại Bệnh nhân Bạch Mai, Đào Đình Đức và cs, (1969) đã đề cập đến những trường hợp sốc kèm theo rối loạn ý thức như la hét, mê sảng, hôn mê, với tiên lượng nặng.

  • Phân loại sốc dengue theo mức độ: vấn đề này cần đặt ra để lựa chọn dịch truyền (dùng mặn đẳng trương, Ringer lactat, hay là huyết tương, dextran) và để xác định tốc độ truyền (truyền 1 đường hay 2 đường,số lượng ml/kg/giờ, có bơm tĩnh mạch không ?).

Có nơi chia 2 mức độ: S1 và S2, với tiêu chuẩn S1 = HA < SO và mạch nhanh you, S2 = HA và mạch không đo, đếm được.

Có nơi chia 3 mức độ: SI = HA< 80; S2 – HA< 60;

S3 – HA = 0. *

Tài liệu hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và dự phòng của TCYTTG 1980 chia 2 độ:

  • Sốc 1 (nông): Mạch nhanh, yếu, huyết áp thấp hoặc kẹp ( 20mm Hg), đầu chi lạnh, tái tím môi. Bệnh nhân mệt, vật vã hoặc li bì.
  • Sốc 2 (sâu): Huyết áp không đo được; mạch không đếm được.

 

Chẩn đoán sớm sốc dengue

  • Tiên lượng của sốc dengue phụ thuộc vào phát hiện sớm và xử trí kịp thời từ thời kỳ tiền sốc:

Ở đa số trường hợp nếu được bổ sung đủ dịch từ sớm và kịp thời, sốc sẽ phục hồi nhanh trong vòng 6-10 tiếng trở lại, sẽ ngăn chặn hậu quả như: thiếu o xy trong tế bào và nhiễm toan chuyển hoá, suy thận cấp chức năng chuyển thành thực thể, suy gan cấp do hoại tử nhu mô, suy yếu chức năng co bóp cơ tim do giảm khối lượng lưu hành trong mạch vành và phù nề khe tim hoặc xuất huyết đốm cơ tim, xuất huyết rải rác nhiều phủ tạng do quá trình đông máu rải rác nội mạch phát triển, hôn mê do phù nề não vì rối loạn nước, điện giải, thiếu oxy não, hoặc do xuất huyết đốm trong não, v.v…

Thời kỳ tiền sốc thực sự là thời kỳ đầu của sốc nhưng triệu chứng lâm sàng còn nghèo nàn, lúc này cơ thể còn đáp ứng thích nghi nên huyết áp và mạch chưa thay đổi, vì vậy tiền sốc còn được gọi là giai đoạn tiềm tàng của sốc; trong thời kỳ này, tuy huyết áp và mạch chưa biến đổi, nói lên chưa có rối loạn huyết động ở hệ huyết quản lớn trung tâm, nhưng quá trình tăng tính thấm mạch máu kèm theo thoát huyết tương, cô máu đã diễn ra ở khu vực mao mạch phủ tạng và ngoại vi, đồng thời ở khu vực này cũng diễn ra một quá trình thích nghi phản xạ như co mạch… để đối phó lại với mối đe doạ hụt thể tích lưu hành; 2 quá trình này (bệnh lý và thích nghi) đã dẫn đến một số biểu hiện lâm sàng của thời kỳ “tiền sốc” như da lạnh, đổi sắc (tái), đái ít, bứt rứt hoặc li bì, v.v… cần bám sát bệnh nhân Sốt xuất huyết độ 1-2 để kịp thời phát hiện những ! dấu hiệu tiền sốc tức là những dấu hiệu chuyển độ.

Đỗ Hồng Ngọc (1982) nghiên cứu về dấu hiệu lâm sàng tiền sốc ở Bệnh viện nhi đồng 1, đã nêu ra 7 tiêu chuẩn lâm sàng tiền sốc với một số chi tiết. Chúng tôi đồng ý với ý kiến của Đỗ Hồng Ngọc về tiêu chuẩn tiền sốc:

  1. Triệu chứng thần kinh phản ánh tình trạng thiếu máu não được coi là triệu chứng sớm và phổ biến nhất của tiền sốc, biểu hiện đa dạng từ li bì, lừ đừ đến vật vã, bứt rứt, lăn lộn, mê sảng. Bứt rứt, vật vã có giá trị hơn, vì li bì, lừ đừ cũng gặp ở 21,5% bệnh nhân Sốt xuất huyết không sốc.
  2. Đau bụng với tính chất như đau nhiều hơn, dữ dội hơn hoặc đau xuất hiện đột ngột: có giá trị báo hiệu sốc (vì đau bụng lâm râm, ậm ạch đã được ghi nhận ở 45,6% trong nhóm Sốt xuất huyết độ 1-2 nhưng vẫn không chuyển vào sốc).
  3. Gan to lên một cách nhanh chóng ở ngày thứ 4-5 của bệnh có giá trị báo hiệu sốc (trước 24-48 giờ). Nếu chỉ ghi nhận có gan to trên 2cm-thì dấu hiệu này không được TCYTTG coi là một dấu hiệu tiền sốc vì: ở bệnh nhi Sốt xuất huyết của Thái Lan gặp 90% có gan to; ở Bệnh viện nhi đồng 1, gan to trong nhóm sốc tử vong cũng chỉ chiếm từ 52% đến 58% (Khoa cấp cứu Bệnh nhân nhi đồng 1,1379, Nguyễn Tường Vân, 1977), cho nên gan bình thường cũng không loại trừ được sốc.
  4. Xuất huyết phủ tạng và niêm mạc xuất hiện đột ngột hoặc tăng thêm: dấu hiệu này tuy không được TCYTTG (1980) nói đến, nhưng Boon và cs (1973) và Bệnh viện nhi đồng 1 (1979) coi là tiêu chuẩn thứ 4 của tiền sốc. Theo Đỗ Hồng Ngoe (1982), xuất huyết phủ tạng và niêm mạc gặp ở khoảng một nửa số bệnh nhân Sốt xuất huyết độ 1-2 không sốc (49,5%) cho nên chỉ có giá trị báo hiệu sốc khi có xuất huyết phủ tạng – niêm mạc xuất hiện một cách đột ngột, ồ ạt hoặc tăng thêm. Chúng tôi thấy nhân tố cơ bản gây sốc không phải là xuất huyết phủ tạng mà là thoát huyết tương, cô máu, hụt thể tích, cho nên không thể coi mọi xuất huyết phủ tạng là một dấu hiệu tiền sốc: không ít trường hợp không xuất huyết mà vẫn sốc và ngược lại nhiều trường hợp xuất huyết phủ tạng mà không sốc.
  5. Lạnh đầu chi: được TCYTTG xếp vào tiêu chuẩn dấu hiệu này, có giá trị tiền sốc cao hơn so với triệu chứng gan to nhanh hoặc xuất huyết phủ tạng đột ngột nay tăng thêm, bởi vì sự khác biệt về tần suất ở 2 nhóm sốc và Sốt xuất huyết không sốc rất rõ ràng, người thầy thuốc lâm sàng không thể nhầm được. Trong khi triệu chứng gan to và xuất huyết phủ tạng được ghi nhận ở cả nhóm Sốt xuất huyết 1-2 với tỷ lệ khá cao (từ 50% trở lên) thì dấu hiệu lạnh đầu chi hầu như chỉ gặp hãn hữu ở những bệnh nhân không sốc, hơn nữa bám sát để phát hiện được gan to nhanh hoặc xuất huyết phủ tạng tăng thêm là một vấn đề không dễ dàng. Lạnh đầu chi, lạnh môi, lạnh sống mũi v.v… nói lên tình trạng rối loạn huyết động đã xảy ra sớm ở khu vực mao mạch ngoại vi trong khi chưa có rối loạn huyết động trong các huyết quản lớn trung tâm (huyết áp và mạch lúc này chưa biến đổi). Để định lượng được mức độ da lạnh, một số tác giả đề nghị phương pháp đo nhiệt độ ngón cái so với nhiệt độ hậu môn và nhiệt độ trong phòng để giúp vào chẩn đoán sớm sốc (Bjun Ibsen, 1967; Joly H.R. và Weil M.H. 1969; Lê Văn Trữ, 1982).
  1. Xung huyết da: được TCYTTG (1980) coi là tiêu chuẩn tiền sốc thứ 4. Đây là một dấu hiệu có giá trị dự báo sốc, nhưng đòi hỏi phải có kinh nghiệm. Thực chất là da bệnh nhân lúc đó vừa xung huyết vừa hơi tái (BS. Đỗ Hồng Ngọc, 1982); kinh nghiệm cho thấy nếu ấn tay lên da rồi bỏ ra phải một thời gian khá lâu sau màu sắc da mới trở lại bình thường. Hiện tượng này nói lên tình trạng rối loạn huyết động ở ngoại vi và rối loạn vận mạch (ứ trệ tuần hoàn ở mao mạch, co mạch phản xạ, V..) trong thời kỳ tiền sốc.
  2. Đái ít cũng được TCYTTG (1980) xếp vào tiêu chuẩn tiền sốc thứ 5. Giá trị chẩn đoán tiền sốc của dấu hiệu này có cơ sở lý luận: khi quá trình tăng tính thấm và thoát nhiều huyết tương ra ngoài lòng mạch dẫn đến tình trạng giảm khối lượng tuần hoàn và cô máu kèm theo phản xạ co mạch thích nghi, tình trạng này diễn ra ở nhiều phủ tạng nhưng bộc lộ rõ nhất và sớm nhất ở chức năng lọc và bài tiết của thận: lượng máu tới thận giảm, mạch máu ở cầu thận co lại (phản xạ), huyết động ở thận bị ứ trệ (do cô máu, co mạch…) và do đó lượng nước tiểu/ giờ giảm xuống, với tỷ trọng nước tiểu cao hơn bình thường. Bên cạnh yếu tố cơ bản trên, đái ít còn do nhiệt độ cao, ra mồ hôi, nôn ở bệnh nhân không được bù nước.

Nhưng đáng tiếc là việc theo dõi lượng nước tiểu thường không được chính xác, nhất là ở bệnh nhi.

  • Ngoài 5 dấu hiệu tiền sốc được TCYTTG đề xuất (1980) tác giả lưu ý thêm 3 tiêu chuẩn: những bệnh nhân Sốt xuất huyết độ 1-2 tự nhiên có nhiệt độ tăng vọt lên hoặc tụt xuống thấp nhanh, những bệnh nhân vã mồ hôi liên tục hàng ngày hoặc nôn nhiều đều là những dấu hiệu có giá trị báo hiệu sốc, sự khác biệt về tần suất giữa nhóm sốc (trong giai đoạn tiền sốc) và nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (p < 0,001 và < 0,01 – 0,02). Tiêu chuẩn tăng vọt hoặc tụt nhanh có giá trị nhiều hơn ở bệnh nhân người lớn so với bệnh nhi, tiêu chuẩn vã mồ hôi và nôn dữ dội có giá trị ở bệnh nhi cao hơn ở người lớn.
  • Tiêu chuẩn xuất huyết phủ tạng theo Lê Mỵ Dung (1987) ít có giá trị báo hiệu sốc ở nhóm bệnh nhi (tần suất không khác biệt giữa 2 nhóm sốc và đối chứng) nhưng có giá trị ở nhóm bệnh nhân người lớn, bởi vì ở bệnh nhi dễ nhầm lẫn giữa nôn ra máu và ỉa phân đen do xuất huyết tiêu hoá với nôn và phân đen do nuốt phải máu cam.
  • Tiêu chuẩn gan to > 2cm (BVNĐ1, 1979) và tiêu chuẩn tràn dịch màng phổi phải (Boon và cs, 1973), theo Lê Mỵ Dung (1987) không có giá trị báo hiệu sốc ở cả 2 nhóm bệnh nhân lớn tuổi và bệnh nhi.
  • Tiêu chuẩn xét nghiệm của tiền sốc-Tiểu cầu: Tiểu cầu giảm là 1 tiêu chuẩn chẩn đoán tiền sốc tương đối chính xác. Theo TCYTTG (1980), hematocrit tăng lên từ trước khi huyết áp tụt và tiểu cầu giảm trước cả hiện tượng cô máu. vấn đề cẩn nghiên cứu là: mốc tiểu cầu giảm xuống bao nhiêu thì có giá trị báo hiệu sốc ? Tài liệu hướng dẫn về chẩn đoán, điều trị và giám sát Sốt xuất huyết của TCYTTG (1980, 1985) chỉ xác định tiểu cầu dưới 100.000/mm3 là tiêu chuẩn chẩn đoán Sốt xuất huyết, chưa đề cập đến mốc tiểu cầu của tiền sốc. Boon và cs (1973) coi mốc tiểu cầu <30.000/mní là tiêu chuẩn tiền sốc và gặp mức này ở 93.8% nhóm sốc so với 17,1% nhóm chứng. Lê Mỵ Dung thấy mốc tiểu cầu từ < 70.000/mm3 trở xuống đã có giá trị báo hiệu sốc: tiểu cầu 70.000/mm3 được tác , là ghi nhận ở 48,1% trong nhóm sốc dengue (giai đoạn tiền sốc) so với 9% ở nhóm Sốt xuất huyết không sốc (nhóm chứng; p,001); giảm tiểu cầu xuống mức này xuất hiện trước sốc khoảng 24 đến 48 giờ; theo dõi biến động hàng ngày của tiểu cầu ở bệnh nhân Sốt xuất huyết, tác giả nhận thấy tiểu cầu thường bắt đầu giảm từ ngày thứ 2-3 của bệnh, tiếp tục giảm trong tuần thứ nhất và bắt đầu tăng dần lên trên 100.000/mm3 từ đầu tuần thứ hai để đạt số lượng bình thường trong tuần thứ 3-4, trong khi đó hematocrit tăng muộn hơn tiểu cầu (thường từ ngày thứ tư của bệnh), đạt cao nhất vào những ngày 5, 6, 7 và phục hồi sớm hơn tiểu cầu (từ ngày thứ 7, 8, liền ngay sau khi bệnh nhân thoát sốc khoảng một ngày; Lê Mỵ Dung, 1987).

Hematocrit: hematocrit tăng là báo hiệu hụt thế tích huyết tương. Số lượng huyết tượng thất thoát từ 20% trở lên sẽ có sốc. Cô máu (hematocrit cao) thường xuất hiện từ trước lúc huyết áp và mạch thay đổi, cho nên cần xét nghiệm tiểu cầu và hematocrit nhiều Lần, hàng ngày, từ ngày thứ ba để sớm phát hiện và ngăn ngừa sốc (TCYTTG, 1980). Theo TCYTTG (1980), hematocrit tăng từ 20% trở lên – tức là khi hematocrit đạt 48% trở lên (tính theo hằng số hematocrit là 40%) được coi là một tiêu chuẩn chẩn đoán sốc. Mốc thể tích hồng cầu là bao nhiêu thì có giá trị dự báo sốc ? vấn đề này cũng cần xác định. TCYTTG (1980) chỉ lưu ý là khi sốc xuất hiện cấp diễn, hematocrit thường tăng vọt nhanh, vì thế cần theo dõi hematocrit nhiều lần trong ngày. Công trình của nhóm nghiên cứu phòng y học dân tộc Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Bệnh viện nhi đồng 1 (1979) xác định hematocrit 45% là một tiêu chuẩn tiền sốc. Mốc này được ghi nhận ở 72% bệnh nhân nhóm sốc so với 16,5% ở nhóm đối chứng. Lê Mỵ Dung (1987) cũng nhận xét hematocrit từ 46% trở lên đã có giá trị tiền sốc; tác giả gặp mốc này ở 57% bệnh nhân nhóm sốc (từ thời kỳ tiền sốc) so với 12% ở nhóm chứng (ĐXH không sốc; p,001). Tác giả giới thiệu 5 bệnh nhân Sốt xuất huyết có hematocrit 48% từ 1 ngày trước sốc, tới ngày vào sốc hematocrit tiếp tục tăng cao nữa ở 4 trường hợp và sau khi sốc phục hồi được 1 ngày hematocrit giảm ngay xuống bình thường ở 4 trường hợp nhưng vẫn còn cao ở 1 bệnh nhân. Theo dõi hematocrit ngoài mục đích phát hiện sớm sốc dengue còn nhằm điều chỉnh việc bổ sung dịch thể.

  • Những yếu tố đe doạ sốc dengue: để phát hiện sớm sốc dengue, cần dự đoán được sốc dengue. Những yếu tố giúp cảnh giác với sốc dengue (còn gọi là yếu tố đe doạ) là:
  • Sốc dengue xảy ra vào đầu và giữa mùa dịch (đỉnh cao) nhiều hơn so với cuối dịch.
  • Bệnh nhi dễ bị sốc hơn bệnh nhân người lớn; trong bệnh nhi, lứa tuổi nhi đồng (5-10 tuổi) dễ chuyển vào sốc hơn lứa tuổi nhỏ hơn (mẫu giáo) và lớn hơn (11-45 tuổi); trong bệnh nhân lớn tuổi, thanh niên dễ bị sốc hơn trung niên và cao niên (ở miền Bắc vẫn còn nhiều bệnh nhân lớn tuổi).
  • Những bệnh nhi thể trạng tốt dễ vào sốc, những bệnh nhi suy dinh dưỡng độ III ít bị sốc; ở những bệnh nhi suy dinh dưỡng độ I – II, sốc dengue thường không đột ngột và nhẹ; những cháu trong tiền sử đã có lần bị sốc dengue dễ bị sốc hơn những cháu lần này bị sơ nhiễm virut dengue.
  • Với bệnh nhi vào viện muộn cần cảnh giác với sốc dengue hơn, so với bệnh nhi vào từ 1-2 ngày đầu.
  • Với bệnh nhi đang nằm viện cần bám sát nhóm bệnh nhi đang ở giai đoạn toàn phát và nguy kịch dễ chuyển vào sốc (từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 7).
  • Địa phương nào đã gặp dịch dengue 1-2 lần, nếu lần này dịch bùng ra, thường có tỷ lệ sốc cao hơn những địa phương trước đây chưa gặp dịch dengue lần nào.

Một số rối loạn và tổn thương trong sốc dengue

  • Tăng tính thấm mao quản, hụt thể tích lưu hành và cô máu ở sốc dengue:rối loạn bệnh lý cơ bản dẫn đến sốc dengue là rối loạn huyết động do tăng tính thấm mao quản gây thoát huyết tương ra ngoài mạch, cô đặc máu và hụt khối lượng tuần hoàn, sốc xuất hiện khi thoát 15% – 20% huyết tương trở lên. Ngoài ra yếu tố phụ góp phần giảm thể tích lưu hành còn là mất nước và điện giải do sốt cao nhiều ngày, vã mồ hôi, nôn, v.v… hoặc xuất huyết phủ tạng. Hụt thể tích lưu hành và cô máu đều có ít nhiều ở bệnh nhân Sốt xuất huyết, nhưng nặng hơn ở bệnh nhân sốc dengue. Rõ ràng sốc dengue là một sốc giảm thể tích lưu hành chủ yếu do thoát dịch qua thành mạch vào gian bào và thanh mạc (còn gọi là thoát dịch vào “trong”, hoặc là giảm thể tích lưu hành tiên phát, có cô máu), thứ yếu do mất nước, điện giải hoặc xuất huyết (còn gọi là thoát dịch ra “ngoài”, giảm thể tích lưu hành thứ phát). Xuất huyết tiêu hoá không phải là nhân tố chính gây sốc dengue trừ một số trường hợp, sốc dengue đã xẩy ra sau một xuất huyết tiêu hoá ồ ạt. Các mạch máu tăng tính thấm dễ thoát huyết tương ra ngoài có thể do tổn thương ở nội mạch huyết quản gây ra bởi phức hợp kháng nguyên virut dengue + kháng thể + bổ thể; đặc điểm xuất hiện nhanh và phục hồi cũng rất nhanh của sốc (sau trung bình 6 giờ) gợi ý quá trình tăng tính thấm mạch máu chỉ là một quá trình rối loạn chức năng do chất trung gian vận mạch ? (TCYTTG, 1980); B. Halstead (1970) dưa giả thuyết: sốc dengue hay xảy ra những ngày 4, 5, 6 là thời gian máu bệnh nhân có nồng độ virút cao, quá nhiều bạch cầu đơn nhân to bị nhiễm virút  tiết các chất histamin hoạt hoá C’ và chất gây rối Loạn đông máu, những chất này cùng tác động và tạo ra sốc. Tất nhiên không thể bỏ qua được yếu tố cơ địa và vai trò các kháng thể dị typ sẵn có. Ngày nay, người ta đề cập tới các cytokines (TNF, IL) được giải phóng từ các monocytes nhiễm virut.

Tăng tính thấm mao quản gây ra bởi các cytokin, chất vận mạch và chất bổ thể C’ hoạt hóa, thường khởi phát từ ngày thứ 2, 3 phát triển mạnh vào những ngày 4, 5, 6 rồi chấm dứt; nhưng cũng có khi tăng tính thấm mao quản kéo dài do sự bài tiết kéo dài các cytokin và chất vận mạch, hoặc do nhiều yếu tố khác như: điều trị muộn, không đúng, bệnh nhân đã bị nhiễm toan chuyển hoá, xuất huyết ồ ạt, viêm thận cấp, v.v. Những trường hợp sốc kéo dài do tăng tính thấm mao quản kéo dài thường kèm theo phù nề và huyết áp tĩnh mạch trung tâm thấp mặc dù đã bù đủ dịch. Thoát huyết tương có thể tiếp diễn tới 24-48 giờ sau khi hết sốc. Ở những trường hợp Sốt xuất huyết không sốc (ĐXH độ 1-2), thường không thấy hoặc chỉ thấy tăng tính thấm mao quản nhẹ, có lẽ các cytokin và chất vận mạch chưa đủ nồng độ, bổ thể C’ không được hoạt hoá nhiều, phức hợp miễn dịch bệnh lý kháng nguyên + kháng thể cũng không nhiều.

  • Rối loạn đông máu ở sốc dengue:rối loạn cơ bản thứ hai đã được chấp nhận trong Sốt xuất huyết là rối loạn đông máu với cả ba yếu tố: ròn mao mạch ở tất cả các bệnh nhân, tiểu cầu giảm ít nhiều, giản đồ đông máu bệnh lý ở 80% ca có sốc và 17% ca Sốt xuất huyết không sốc.

Tài liệu hướng dẫn phòng chống Sốt xuất huyết của TCYTTG (1980-1986) nhận xét: có giảm các yếu tố II, V, VII, IX, XII ở những trường hợp nặng, giảm fibrinogen cũng song song với mức độ nặng nhẹ, thời gian prothrombin dài (PT) ở 1/3 trường hợp sốc, 50% sốc có thời gian thromboplastin dài (PTT).

Một số ca sốc kèm theo những tiêu chuẩn như tiểu cầu giảm, chất thoái dáng fibrin tăng, PTT kéo dài, fibrinogen giảm, được ghi nhận là loại đông máu rải rác nội mạch (đông máu rải rác nội mạch). đông máu rải rác nội mạch ở bệnh Sốt xuất huyết bắt* nguồn từ chất thromboplastin tổ chức được phóng ra từ những bạch cầu đơn nhân to có virut dengue sinh sản phát triển mạnh, gặp nhiều và rõ rệt hơn ở những ca có sốc so với những ca không sốc, và khi sốc kéo dài đông máu rải rác nội mạch tăng lên (do nhiễm toan) có thể gây xuất huyết nghiêm trọng đe doạ tử vong: khoảng 1/3 trường hợp sốc (chủ yếu là sốc kéo dài) có biến chứng xuất huyết đường tiêu hoá do nguyên nhân BMRRNM.

Ở những trường hợp sốc (ĐXH độ 3-4), rối loạn đông máu và tăng tính thấm mao quản đều có mặt và luôn luôn song song: hết sốc thì hết rối loạn đông máu, sốc kéo dài thì có thể xuất huyết ồ ạt. Ở những trường hợp Sốt xuất huyết không sốc (ĐXH độ 1-2) thường chỉ thấy Rối loạn đông máu nhẹ, còn tăng tính thấm mao quản thì rất nhẹ chỉ nghi ngờ hoặc không có; khi Sốt xuất huyết độ 1-2 chuyển vào sốc có lẽ Rối loạn đông máu đã góp phần phát sinh ra tăng tính thấm mao quản, từ dó 2 quá trình Rối loạn đông máu và tăng tính thấm mao quản đã tác động qua lại và bệnh chuyển sang Sốt xuất huyết độ 3-4; Rối loạn đông máu góp phần gây tăng tính thấm mao quản có thể theo 2 giả thuyết: do phức hợp KN + KT, yếu tố Hagemann (XII) bị hoạt hoá, tác động vào kallikreinogen chuyển thành kallikrein, chất này tác động vào huyết tương, globulin và kininogen tạo ra kinin (Ratnoff O.D., 1972; Halstead S.B., 1979). Trong Sốt xuất huyết, những chất ức chế plasmin giảm rất nhiều, do dó plasmin sẽ tăng hoạt động trong Sốt xuất huyết và tác động qua hệ thống kallikreinogen tạo ra kinin, và cũng có thể plasmin hoạt hoá C’1 từ đó cùng với phức hợp miễn dịch và hệ thống bổ thể (C1, C4, C2, C3) tạo ra các chất vận mạch (histamin, serotonin, anaphylatoxin, v.v…) (Funahara, 1981; Ratnoff O.D. 1971).

Mối liên quan giữa sốc dengue và Rối loạn đông máu đã được Khoa huyết học và Khoa truyền nhiễm Bạch Mai nghiên cứu (Bạch Quôc Tuyên và cs, 1969, Đào Đình Đức và cs 1969). Các tác giả nhận thấy:

  • RLĐM tăng theo với trình độ sốc: ở những trường hợp sốc sâu (huyết áp và mạch không đo đếm được), các yếu tố đông máu bị hụt nặng hơn so với sốc nông (HA=60) và so với những trường hợp không sốc.
  • Ở những trường hợp sốc, nhất là sốc nặng: tiểu cầu giảm, fibrinogen giảm, thời gian Quick dài, thời gian tiêu thụ prothrombin dài, thời gian Howell dài, chất hoá giáng fibrin tăng trong khi đó không có hiện tượng tiêu fibrin (Von Kaulla âm).

Ở 3 ca chết vì sốc đều có hiện tượng: tắc vi tuần hoàn ở nhiều phủ tạng (gan, lách, phổi, tim), mao quản giãn rộng, tăng tính thấm, tổn thương tế bào nội mạc. Bảng RỐI LOẠN ĐÔNG MÁU Ở SỐT XUẤT HUYẾT VÀ SỐC DENGUE (Đào Đình Đức, Bạch Quốc Tuyên và cs, 1969)

ĐXH 1-2 Sốc Sốt xuất huyết nông (S1) Sốc Sốt xuất huyết sâu (S2) Sốc Đ tử vong (n=3)
Tiểu cầu < 100.000 15/17 6/7 10/10 3
Fibrinogen < 0.30 7/11 5/7 7/7 3 (a)
TEG (am<57) 7/17 4/5 5/5 (c) 3 (b)
Thời gian Quick tăng 5/16 1/5 3/5 2 không đông, 1 tăng đông
Thời gian tiêu thụ prothrombin tăng 12/17 3/5 4/4 Không

đông

Howell dài 4/16 4/6 2/4 2
Von Kaulla (-) 17/17 8/8 10/10 3/3
  • Chú thích, (a): 1 ca fibrinogen = 01 (b): 3 ca “am” = 0; (c): 1 ca “am” = 0.
  • Điện tâm đồ và tim trong sốc dengue trạng tim trong sốc dengue cần được đánh giá chung và ở từng trường hợp cụ thể để tiến hành cấp cứu cho hợp lý.
  • Điều đã khẳng định là sốc dengue cơ bản không phải là một sốc tim, mà là một sốc do tăng tính thấm mao quản, thoát huyết tương, cô ,máu và hụt thể tích lưu hành. Tuy nhiên có những cơ sở để cần xem xét trong sốc dengue có ảnh hưởng ít nhiều gì tới hoạt động của tim ?
  • Tình trạng hụt khối lượng tuần hoàn chung có ảnh hưởng gì tới tuần hoàn trong hệ thống mạch vành ?
  • Quá trình tăng tính thấm mao quản và thoát huyết tương ra tổ chức kẽ có diễn ra ở mạch vành và ở cơ tim không ?
  • Hiện tượng thoát dịch vào màng phổi, màng bụng, và có thể ở cả màng tim ( ?) xảy ra d một số trường hợp sốc dengue có gây tăng gánh đôi với co bóp của tâm thất không ?
  • Chưa nói đến những biến đổi có thể có ở cơ tim do virut dengue trực tiếp gây ra.
  • Trong những sốc nhiễm khuẩn, hiện tượng suy yếu cơ tim đã được đề cập (Hechel D. B., Ratliff B. và cs, 1974). Theo C.Harf, M. Garre và F.Vachon (1976), ở sốc nhiễm khuẩn do vi khuẩn Gram (-) hoặc (+), ngay từ thời kỳ đầu đã có những biến đổi ở tim: lưu lượng tim giảm do lượng máu hồi tim tụt, do sức bóp tâm thất yếu; nguồn gốc của sức bóp tâm thất yếu, là thể tích tuần hoàn mạch vành sụt, thiếu Q và nhiễm toan ở cơ tim, ngoài ra còn có một yếu tố kìm chế cơ tim nguồn gốc là một peptit của tuỵ {myocard depressing factor: MDF). Phản xạ co mao mạch lúc đầu để thích nghi với tình trạng hụt thể tích lưu hành xảy ra ở sốc nhiễm khuẩn, cũng ít nhiều gây tăng gánh cho tâm thất – lúc đó thường tăng co bóp để bù trừ làm cho tâm thất dễ nhanh chóng suy yếu (Friedberg, 1965). đối với sốc nhiễm khuẩn do màng não cầu, Y. Aujard, A.Azsncort, C.Aufrant và cs (1980) đã thông báo hai trường hợp sốc có suy yếu cơ tim với lưu lượng tim thấp, siêu âm gợi ý là một rối loạn sức co bóp cơ tim; tiên lượng bệnh nhân đã được cải thiện bằng những thuốc trợ tim nhất là dopamin vừa trợ tim vừa cải thiện tuần hoàn tĩnh mạch hồi tim. Darragon T.H., Lhosthe, Legal] J.R. và (1976) cũng có thông báo về hiện tượng bất lực cơ tim sớm ở bệnh nhân nhiễm huyết màng não cầu tối cấp có sốc.
  • Trong sốc dengue, nhiều công trình của các tác giả Việt Nam nghiên cứu tổn thương giải phẫu những thi thể bệnh nhân chết vì Sốt xuất huyết nặng, nhất là sốc dengue đều nhận xé4: tổ chức kẽ tim bị phù nề, rải rác có đốm xuất huyết ở cơ tim kể cả màng ngoài tim, thậm chí có trường hợp tim to nhẽo, có vùng thoái hoá hoại tử (Nguyễn Như Bằng, 1970), Đinh Tuấn Bá, 1970; Vũ Công Hoè, 1970). Đặc biệt đáng lưu ý công trình của giáo sư Vũ Công Hoè (1970): trên 71 tử thi do sốc Đ và các thể Sốt xuất huyết nặng khác, tác giả nhận thấy ở 21 trường hợp có xuất huyết cơ tim, tim to nhẽo, thoái hoá hoại tử dây cơ, phù nề tổ chức kẽ, quá sản liên võng biểu hiện một suy sụp cơ tim cấp, còn ở 50 trường hợp khác chỉ có những tổn thương của một sốc với những biểu hiện rối loạn tuần hoàn ngoại vi. Gần đây J.Milai và N.J.Balomo (1983) nghiên cứu đại thể và vi thể những thi thể bệnh nhân chết vì sốt xuất huyết dengue ở Phillipin, Thái Lan, và một số sốt xuất huyết khác, cũng quan sát thấy có xuất huyết rộng trong cơ tim dưới nội mạc, đốm xuất huyết lan toả màng ngoài tim, viêm và phù nề kẽ tim, thâm nhiễm mô bào, tương bào, limphô bào, có mặt những tế bào Anitxkôp, đôi chỗ hoại tử cơ tim.
  • Biến đổi điện tim ở sốc dengue và các thế Sốt xuất huyết nặng khác cũng được Somchittlamsa Ard đề cập sơ bộ ở Thái Lan từ vụ dịch 1966: trên 5 bệnh nhân , tác giả ghi nhận có nhịp chậm ở 2 và QRS rộng ở Nhận định rõ nét về biến đổi điện tim ở Sốt xuất huyết nặng và sốc dengue bắt đầu với Hoàng Phúc Tường và cs (1969), Nguyễn Bá Duy và Ngô Khải (1974), Hyman, Wong và Tan (theo S B.Halstead, 1987). Hyman đã phát hiện những rối loạn về dẫn truyền và về điện tâm đồ ở bệnh nhân Sốt xuất huyết; Wong và Tan mô tả khoảng PR kéo dài, giảm điện động và T đảo ngược (trích theo S.B. Halstead, 1987). Tại Khoa nội Bệnh viện Bạch Mai, Hoàng Phúc Tường và cs. (1969) đã ghi điện tim cho 72 bệnh nhi Sốt xuất huyết nặng và nhận thấy điện tim bình thường ở 17 trường hợp (23%), có biến đổi bệnh lý ở 55 trường hợp (77%), xuất hiện trong cả ba giai đoạn bệnh (khởi phát, toàn phát, nguy kịch), bao gồm nhịp không đều: 29, nhịp chậm xoang: 28, p nhọn hoặc dẹt: 8, QRS biên độ thấp <5mm: 11, ST chênh xuống: 12, T cao nhọn và đối xứng: 12, QT dài: 13, blốc nhĩ thất: 9 (độ I: 8, độ II: 1) trong đó có 6 trường hợp sốc, rung nhĩ: 1, dày thất: 2 (chủ yếu dày thất trái) trong đó 1 có dấu hiệu lâm sàng của viêm cơ tim (mạch nhanh, khó thở, tiếng tim mờ, tim to nhất là tim trái, gan to…); tác giả kết luận là biến đổi điện tim gặp ở 77% bệnh nhân Sốt xuất huyết nặng trong đó có sốc dengue nhưng chưa nghiên cứu so sánh được biến đổi điện tim ở sốc dengue so với Sốt xuất huyết không sốc.

Tại Trại III D bệnh viện nhi đồng 1 (thành phố Hồ Chí Minh), Nguyễn Bá Duy và cs. (1974) trong 343 bệnh nhi Sốt xuất huyết gặp biến đổi điện tim ở 59 trường hợp (17%), bao gồm loạn nhịp: 26, nhịp chậm xoang: 6, điện thế thấp: 18, PR dài: 3, blốc nhĩ thất không hoàn toàn: 6; cũng tại đây đã gặp tràn dịch màng tim ở một số bệnh nhân; tác giả nhận xét biến đổi điện tim xuất hiện chủ yếu trong tuần đầu, kéo dài từ 2-10 tuần, và cho đó là những biến đổi thứ phát do 1 trong 3 nguyên nhân: do biến chứng tại phổi (như viêm phổi), do hụt thể tích lưu hành dẫn đến thiểu năng động mạch vành, do tràn dịch màng phổi, màng tim, phù nề cơ tim.

Để có cơ sở đánh giá một cách chính xác biến đổi điện tim ở sốc dengue, Lê Mỵ Dung (1985) đã so sánh điện tâm đồ giữa 2 nhóm, nhóm sốc dengue (59 BN) và nhóm chứng Sốt xuất huyết không có sốc {60 BN), những bệnh nhân chọn vào diện nghiên cứu đều không có tiền sử bệnh tim mạch; điện tim được ghi từ 2 đến 3 lần (thời kỳ sốc và sau khi sốc đã phục hồi) để theo dõi diễn biến của điện tâm đồ; tác giả đã đi tới một số nhận xét sau:

  • Biến đổi điện tim gặp ở nhóm sốc nhiều hơn hẳn nhóm chứng (67,8% và 20%, p,0001).
  • Ớ nhóm sốc dengue, biến đổi điện tâm đồ bao gồm: 16 loạn nhịp (5 nhịp nhanh xoang, 5 nhịp chậm xoang, 5 ngoại tâm thu, nhịp bộ nôi 1), 12 rối loạn dẫn truyền (8 blốc nh! thất độ 1, 1 blôc nh! thất độ 2, 2 blôc nhánh, 1 dẫn truyền lệch hướng) và 22 rối loạn tái cực (biến đổi bệnh lý của ST, T và QT…); một số bệnh nhân sốc có đồng thời 2-3 loại biến đổi điện tim.

Ngược lại ở nhóm chứng (ĐXH không có sốc), biến đổi điện tim chỉ có loạn nhịp (5 nhịp nhanh xoang, 6 nhịp chậm xoang, 1 ngoại tâm thu), không có rối Loạn dẫn truyền và rối loạn tái cực.

  • Những biến đổi điện tim ở nhóm sốc cũng như nhóm Sốt xuất huyết không sốc đều mất đi nhanh chóng sau khi bệnh hồi phục.

Những nhận xét trên cho thấy: biến đổi điện tâm đồ có gặp ở Sốt xuất huyết, gặp nhiều và đa dạng trong sốc dengue, xuất hiện và mất đi theo cùng với bệnh, nói lên khả năng chúng cũng bắt nguồn từ những rối loạn tổn thương chung của bệnh, tức là quá trình tăng tính thấm mao quản, thoát huyết tương vào tổ chức kẽ và hụt thể tích lưu hành đã diễn ra ở toàn cơ thể và ở cả khu vực mạch vành và cơ tim gây phù nề, xuất huyết, suy vành; khi quá trình này phục hồi thì bệnh cũng lui và rối loạn điện tim cũng mất. Hyman cho rằng những biến đổi điện tim như blốc độ 1, nhịp chậm là do rối loạn tổ chức dẫn truyền kích thích dây thần kinh phế vị. Những chấm xuất huyết ở cơ tim theo S.B.Halstead phản ánh sự nhân lên của virut đang ở cơ tim, cũng có thể là hậu quả của các chất trung gian đã gây ra tăng tính thấm mao quản và thoát huyết tương như trên đã trình bày. Tiên lượng của những biến đổi điện tim trong Sốt xuất huyết nói chung không xấu, dễ phục hồi cùng với bệnh. Nhưng lẻ tẻ cũng đã có trường hợp diễn biến xấu, có khi dẫn tới tử vong : 1 trường hợp viêm cơ tim và suy tim cấp tử vong nhanh ở Trại IIA, Bệnh viện nhi đồng 1( Bs Thanh, 1974), 1 trường hợp viêm cơ tim xuất huyết chết nhanh ở Bệnh viện 113 (trong vụ dịch Sốt xuất huyết năm 1975).

Xem tiếp:

  1. Chẩn đoán, điều trị sốt dengue và sốt xuất huyết dengue
  2. Sốt xuất huyết thể không điển hình và điển hình
  3. Phân loại thể bệnh sốt xuất huyết
  4. Sốt xuất huyết thể sốc ( Dengue độ 3 và 4 )
  5. Sốt xuất huyết thể xuất huyết phủ tạng (độ 2b)
  6. Sốt xuất huyết thể não
  7. Sốt xuất huyết thể suy gan cấp
  8. Sốt xuất huyết có đái ra huyết cầu tố (hct)
  9. Những biến chứng của Sốt xuất huyết xuất
  10. Tiên lượng bệnh sốt xuất huyết
  11. Chẩn đoán bệnh sốt xuất huyết
  12. Nguyên tắc điều trị sốt xuất huyết
  13. Điều trị sốt xuất huyết độ 1 -2 (không có sốc)
  14. Điều trị sốt xuất huyết độ 1-2 bằng thuốc nam y học cổ truyền
  15. Triệu chứng hô hấp trong bệnh sốt xuất huyết
  16. Những biến đổi thể dịch của bệnh sốt xuất huyết
  17. Biện pháp phòng dịch sốt xuất huyết
  18. Đường lây truyền bệnh sốt xuất huyết dengue
  19. Cơ chế lây truyền bệnh sốt xuất huyết
  20. Triệu chứng dengue xuất huyết thể điển hình (độ II)
  21. Triệu chứng thần kinh trong sốt xuất huyết
  22. Hội chứng tim mạch trong sốt xuất huyết
  23. Triệu chứng tiêu hoá trong sốt xuất huyết

Phương pháp khám bệnh nhân bị bệnh Phong

ĐẠI CƯƠNG

So với phương pháp khám bệnh chung trong y khoa, chuyên khoa Da Liễu có phương pháp khám bệnh riêng (xem bài “Phương Pháp Khám Bệnh Da”), và trong khám bệnh nhân Phong, ngoài việc tuân thủ phương pháp khám bệnh da, cách khám còn đặc trưng hơn nữa.

Do việc phát hiện (chẩn đoán), đưa vào điều trị và quản lý bệnh Phong nằm trong khuôn khổ của Chương Trình Quốc Gia Phòng Chống Bệnh Phong nên khám bệnh nhân Phong được thực hiện không chỉ bởi các bác sĩ chuyên khoa Da Liễu mà còn bởi các cán bộ chống Phong (Y, bác sĩ đã được tập huấn về bệnh Phong) đang công tác trong màng lưới Da Liễu từ trung ương đến địa phương. Nơi khám bệnh không chỉ diễn ra tại cơ sở chuyên khoa Da Liễu mà còn ở trên thực địa.

Nơi khám bệnh nhân phong thường diễn ra ở:

  1. Tại Bệnh Viện/Trung Tâm Y Tế (đa khoa): Có điều kiện trang bị đầy đủ của một phòng khám bệnh.
  2. Tại thực địa (nhà bệnh nhân, Trạm Y Tế Xã, Phòng Khám Khu Vực)
  3. Tại Phòng Khám chuyên khoa Da Liễu.

 MỤC ĐÍCH KHÁM

Thông thường, có 2 dạng bệnh nhân đến khám:

Lần đầu tiên đến khám: Mục đích khám của chúng ta là chẩn đoán và nếu là bệnh Phong thì phân loại (theo WHO hoặc theo Ridley-Jopling).

Khi đã được chẩn đoán và phân loại bệnh Phong rồi, bệnh nhân tái khám để được theo dõi điều trị, giám sát và săn sóc tàn tật.

Do đó, dù trong dạng nào, mục đích khi khám của các thầy thuốc là phải tìm ra các dấu hiệu (chứng cớ) lâm sàng (chủ yếu) và chỉ định cận lâm sàng để trả lời sáu câu hỏi sau đây:

  1. Có phải là bệnh Phong hay không?
  2. Nếu là bệnh Phong thì phân loại/nhóm/thể gì? Nhiều khuẩn (MB) hay ít khuẩn (PB)?
  3. Có bị phản ứng phong/viêm dây thần kinh không? Nếu có, là Phản ứng đảo nghịch hay Hồng ban nút?
  4. Tàn tật độ mấy?
  5. Vấn đề hiện tại của bệnh nhân là gì?
  6. Hướng giải quyết trước mắt và lâu dài?

 KHÁM LÂM SÀNG

Khám lâm sàng chủ yếu là để trả lời các câu hỏi trên. Tùy tình trạng của bệnh nhân đến khám: mới lần đầu, tái khám trong đa hóa trị liệu (ĐHTL) và theo dõi phản ứng, giám sát mà ta chú trọng các phần khám dưới đây nhiều hay ít.

Hỏi bệnh sử và khám tổng quát

Cũng như khám bệnh ngoài da, hỏi bệnh sử thường ít đóng vai trò quan trọng. Sau khi khám da xong mới trở lại dò hỏi bệnh sử để xác định các suy đoán lúc khám.

  • Thường hỏi về thời gian xuất hiện thương tổn đầu tiên, tình trạng thay đổi chức năng thần kinh như: mất cảm giác, teo cơ, yếu cơ, các vết loét, biến dạng…
  • Các nơi đã đến khám, các thuốc đã dùng… để biết lý do chậm trễ của việc phát hiện bệnh Phong.
  • Tiền sử bản thân (nhất là tiền sử “đau bao tử” và tiền sử gia đình).
  • Khám tổng quát: Tổng trạng, huyết áp, tim mạch, tiêu hóa, tiết niệu, hệ thần kinh… như trong khám nội khoa tổng quát.

Khám thương tổn da

  • Cần phải khám toàn diện để nhận diện đầy đủ hết tất cả các thương tổn da, do đó người bệnh cũng phải được bộc lộ dần dần cho đến toàn bộ cơ thể.
  • Xác định thương tổn căn bản là gì: Dát, mảng, củ hay u, cục… Đặc biệt Phong thể BL phải luôn có 2 dạng thương tổn đó là mảng hình vành khăn (punched-out) đặc trưng của thể B và u, cục (leprome) đặc trưng của thể L.
  • Khám thương tổn da cần chú ý màu sắc, vì màu sắc của thương tổn da trong bệnh Phong rất đặc trưng. Thường là nhạt màu hơn so với da thường, hoặc màu hồng, hồng sậm như màu đồng…
  • Nếu thương tổn là dát hoặc mảng, thường là hình tròn, bầu dục, ly tâm, hình vành khăn có khuynh hướng ly tâm.
  • Chú ý thương tổn vệ tinh trong Phong thể B (Trung gian): Xung quanh gần thương tổn lớn có một số thương tổn nhỏ (thường gọi là thương tổn con)
  • Cách sắp xếp thương tổn: Nếu là Phong thể BL thì có khuynh hướng đối xứng và thể LL thì số lượng thương tổn da rất nhiều và đối xứng
  • Thương tổn da trong bệnh Phong luôn luôn thâm nhiễm, nhưng mức độ thâm nhiễm có thể từ ít đến vừa hay rất nhiều tùy theo thể bệnh và thời gian mắc bệnh.

Thử cảm giác tại thương tổn da

Nêu có mất cảm giác ở thương tổn thì gần như chắc chắn là bệnh Phong. Vì vậy, kỹ thuật thử cảm giác rất quan trọng. Trước khi thử, phải giải thích và biểu diễn cho bệnh nhân biết mục đích và cách làm để họ hợp tác tốt, so sánh vùng da bị thương tổn với da lành và bệnh nhân phải được che mắt lại.

Có 3 dạng rối loạn cảm giác trong bệnh Phong: Mất cảm giác xúc giác (sờ chạm), cảm giác đau, cảm giác nhiệt (nóng lạnh). Thường dùng sợi tơ nylon, que gòn để thử cảm giác xúc giác, dùng đầu bút bi hay kim gút để thử cảm giác đau và 2 lọ nước (nóng và lạnh) để thử cảm giác nhiệt.

Mất cảm giác ở thương tổn da thường xảy ra ở Phong ít khuẩn (TT và BT), còn các thể Phong nhiều khuẩn nhất là LL thì hiện tượng mất cảm giác ở thương tổn thường kín đáo hoặc không có nhất là ở vùng mặt.

 CHỈ ĐỊNH LÀM PHIÊN PHẾT DA

  • Khi không đủ dấu hiệu để xác định chẩn đoán là bệnh Phong thì làm phiến phết da tìm trực khuẩn Hansen: Chỉ số vi khuẩn (Bacteriological index – BI).
  • Khi đã chẩn đoán là bệnh Phong: Làm phiến phết da để phân nhóm Phong ít khuẩn hay nhiều khuẩn.
  • Thông thường, những trường hợp bệnh Phong nhóm nhiều khuẩn (MB) thì BI (+). Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp lâm sàng rõ ràng là Phong nhiều khuẩn (như BB, BL…) nhưng vẫn không tìm thấy trực khuẩn Mycobacterium leprae, lúc đó ta vẫn phân nhóm là Phong nhiều khuẩn.
  • Ngược lại, có một số ít trường hợp lâm sàng cho thấy là Phong ít khuẩn PB (như I, TT, BT…) nhưng BI (+) thì chúng ta phân nhóm là MB. Vì vậy, làm phiến phết da là chỉ định bắt buộc trước khi cho bắt đầu đa hóa trị liệu.
  • Làm phiến phết da cũng được chỉ định thường qui mỗi năm một lần trong thời gian giám sát sau khi hoàn thành ĐHTL.

KHÁM CÁC DÂY THẦN KINH

Mục đích

  • Phát hiện viêm dây thần kinh: To, đau, nhạy cảm…
  • Nếu có dây thần kinh to, đau: Dấu hiệu của Phản ứng đảo nghịch hoặc Hồng ban nút.
  • Phải bảo tồn chức năng thần kinh: Dùng Prednisolone theo đúng liệu trình.

Cách sờ dây thần kinh

Bảo bệnh nhân ngồi đối diện, không gồng cứng các cơ.

Người khám dùng 2 hoặc 3 ngón tay (ngón 2, 3 / và 4) để sờ.

Cần lăn, nắn nhẹ trên mặt da (không móc bằng các đầu ngón tay) ở vị trí dây thần kinh.

Luôn luôn so sánh 2 bên.

  • Cảm nhân khi sờ:

Dây thần kinh bình thường: Sờ thây mềm mại, tròn đều, di động dưới ngón tay (trường hợp thần kinh Trụ), các dây thần kinh khác bình thường thì không hoặc rất khó sờ thấy.

Dây thần kinh to: Sờ thấy to rõ ràng hay chỉ hơi to rất khó nhận biết phải so sách 2 bên để đối chiếu, mềm hoặc cứng, to đều hay có chuỗi hạt, dính với mô xung quanh hay không. Trường hợp quá to có thể nhìn thấy nổi lên rõ ràng trên mặt da.

  • Có 3 mức độ đau:

+ nhạy cảm: dây thần kinh có cảm giác đau khi sờ nhẹ.

+ đau bình thường: khi bóp, nắn mạnh bệnh nhân mới cảm thấy đau.

+ đau tự nhiên: không sờ bệnh nhân cũng thấy đau nhức.

  • Ý nghĩa:

Viêm dây thần kinh cấp (có thể phục hồi chức năng tốt): To, mềm, di động, không dính với mô xung quanh, không chuỗi hạt, có nhạy cảm hoặc đau tự nhiên.

Viêm dây thần kinh mạn tính (khó có thể hồi phục chức năng): To, cứng, không di động, dính, ít hoặc không đau.

  • Kỹ thuât sờ:

Thần kinh Trụ (Ulnar nerve)

Vị trí: Chạy phía trong 1/3 dưới cách tay qua rãnh ròng rọc của lồi cầu khuỷu tay.

Cách sờ: Bệnh nhân gập khuỷu tay 90 độ, đưa ra phía trước: người khám đặt ngón áp út lên lồi cầu làm mốc, dùng 2 ngón kia lăn nhẹ từ rãnh ròng rọc trên lồi cầu để tìm dây thần kinh Trụ (chú ý tránh lầm với gân cơ).

Thần kinh Giữa (Median nerve)

  • Vị trí: Nằm giữa các dây chằng phía trước cổ tay
  • Cách sờ: Bệnh nhân gập cổ tay, người khám dùng các đầu ngón tay II, III, IV sờ hơi sâu ở vùng giữa các dây chằng phía trước cổ tay.

Nhánh dây thần kinh Tai lớn (Great Auricular nerve)

Xoay đầu bệnh nhân về phía bên kia, người khám lăn nhẹ các ngón tay từ trước cổ ra phía sau, ngang cơ ức-đòn-chũm (Sterno-cleido-mastoid) vì thần kinh chạy phía sau ngang qua cơ nầy.

Thần kinh Hông khoeo ngoài (Peroneal nerve, Sciatique poplité externe)

Bệnh nhân ngồi, gập gối 90 độ, người khám đặt đầu ngón cái trên bờ dưới xương bánh chè, 3 ngón tay kia đặt lên vùng sau-ngoài dưới đầu xương mác 2-3 cm (vùng cổ xương mác) lăn nhẹ.

Thần kinh Chày sau (Posterior Tibial nerve)

Bệnh nhân xoay bàn chân vào trong về phía mặt lòng, người khám đặt các đầu ngón tay phía dưới mắt cá trong, nắn nhẹ hướng lên trên.

Thần kinh Quay (Radial nerve)

Dây thần kinh chạy từ rãnh bờ sau cơ delta phía sau cách tay và hướng ra trước. Khi sờ, lăn các ngón tay ngang qua rãnh này.

ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG THẦN KINH.

Còn gọi là thử sức mạnh cơ và thử cảm giác (xem Bảng Thử Sức Cơ & Cảm Giác) được thực hiện để đánh giá chức năng của các dây thần kinh số V và số VII, thần kinh Trụ và Giữa (bàn tay) và thần kinh Hông khoeo ngoài và Chày Sau (bàn chân).

Chức năng thần kinh giảm hay mất đi là do phản ứng phong/viêm dây thần kinh gây ra. cần can thiệp sớm để tránh xảy ra tàn tật. cần thực hiện việc đánh giá chức năng thần kinh ngay khi chẩn đoán bệnh Phong và sau đó tiếp tục thực hiện trong suốt quá trình quản lý bệnh nhân một cách thường qui, nhất là khi có cơn phản ứng hoặc viêm dây thần kinh.

 PHÂN ĐỘ TÀN TẬT

Theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới, tàn tật trong bệnh Phong được tính ở bàn tay, bàn chân và ở mắt, chia làm 3 độ:

  • Độ 0: Không mất cảm giác, không có thương tích hoặc biến dạng nhìn thây được.
  • Độ 1: Có mất cảm giác ở lòng bàn tay và lòng bàn chân; mất cảm giác giác mạc ở mắt.
  • Độ 2: Có thương tích hoặc biến dạng nhìn thấy được ở bàn tay và bàn chân. Ví dụ: teo cơ, cò ngón, loét ổ gà, cụt, rụt.. Riêng phân độ 2 ở mắt còn tính đến thị lực bị giảm ỗ mức độ không đếm được ngón tay trong khoảng cách 6m, hoặc có tổn thương ở mắt như: mắt thỏ, viêm mống mắt-thể mi, đục giác mạc.
Độ Bàn tay, Bàn chân Mắt
0 Không mất cảm giác, không có thương tích hoặc biến dạng nhìn thấy được. Không có vấn đề ở mắt do bệnh Phong, Không giảm thị lực.
1 Mất cảm giác, nhưng không có thương tích hoặc biến dạng nhìn thây được. Có vân đề ở mắt do bệnh Phong nhưng thị lực bình thường (thị lực 6/60 hay hơn), có thể đếm ngón tay ở cách 6m.
2 Có thương tích hoặc biến dạng nhìn thấy được. Thị lực giảm nặng (dưới 6/60, không đếm được ngón tay ở cách 6m), mắt thỏ, viêm mống mắt-thể mi, đục giác mạc.

Độ tàn tật được tính theo từng vị trí: Mắt, Bàn tay, Bàn chân và độ tàn tật ở vị trí nào cao nhất chính là độ tàn tật của bệnh nhân đó. Ví dụ: một bệnh nhân có tàn tật độ 0 ở mắt, độ 1 ở bàn tay, và độ 2 ở bàn chân, thì độ tàn tật của bệnh nhân đó là độ 2.

 KHÁM CHẨN ĐOÁN PHẢN ỨNG PHONG

Khi đã chẩn đoán là bệnh Phong, đã phân thể (MB/PB hay phân theo Ridley-Jopling) và phân độ tàn tật thì đồng thời cũng phải tìm những dâu hiệu của cơn phản ứng phong để xác định có phản ứng hay không và nếu có thì phản ứng loại nào.

Nếu có phản ứng, cần khám tìm thêm các thương tổn thứ phát do phản ứng như thương tổn da có vảy, lở loét, lỗ đáo, các biến dạng, vú to ở bệnh nhân nam, viêm tinh hoàn, mũi xẹp, mắt thỏ, cò ngón, cụt rụt các ngón, hạch to…

Đánh giá chức năng thần kinh rất quan trọng trong phát hiện, theo dõi diễn tiến, theo dõi hiệu quả điều trị phản ứng.

 TỔNG KÊ CÁC VẤN ĐỀ CỦA BỆNH NHÂN

Tóm lại, sau khi khám xong bệnh nhân, dù ở giai đoạn nào (mới chẩn đoán hay đã điều trị một thời gian…), phải đánh giá, tổng kê những vấn đề của bệnh nhân hiện có. Từ đó, hoạch định việc điều trị, săn sóc và các hỗ trợ khác cũng như việc quản lý và giáo dục y tế như thế nào cho phù hợp với vấn đề của bệnh nhân đó. Thông thường, phải giải quyết ngay những vấn đề cấp bách (ví dụ: viêm dây thần kinh, phản ứng phong nặng…) và sau đó mới đến những việc cụ thể cần phải thực hiện trên bệnh nhân đó về lâu về dài (như giáo dục sức khỏe, hướng dẫn tự chăm sóc, hỗ trợ kinh tế xã hội).

Khám cận lâm sàng

Khám cận lâm sàng trong bệnh Phong không đóng vai trò quan trọng bằng khám lâm sàng. Tuy nhiên có những chỉ định cận lâm sàng là bắt buộc và phải thực hiện thường qui.

Trong Chương Trình Quốc Gia Phòng Chống Bệnh Phong, phiến phết da được thực hiện bắt buộc và thường qui.

  • Lần đầu: Giúp chẩn đoán và phân loại.
  • Những lần sau: Thường qui ít nhất mỗi năm một lần để theo dõi trong thời gian điều trị và giám sát. Chỉ khi nào ngừng giám sát thì mới không làm nữa.
  • Đối với bệnh nhân Phong nhóm ít khuẩn (PB), chỉ cần làm phiến phết da lần đầu và lúc hoàn tất liệu trình đa hóa trị liệu.

Làm phiến phết da là nhiệm vụ của cán bộ chống phong khám lâm sàng, nhất là các cán bộ chống phong trên thực địa. Sau khi làm phiến phết da, bệnh phẩm được cố định và bảo quản gửi về cho cán bộ xét nghiệm tuyến tỉnh (hoặc huyện) đọc kết quả.

Mỗi khu vực (Trung Tâm Tham vấn Khu Vực) có một số cán bộ có nhiều kinh nghiệm về đọc lam Hansen để kiểm tra chất lượng đọc của Cán Bộ Xét Nghiệm tuyến tỉnh.

Sinh thiết da

Kỹ thuật nầy ít được chỉ định, chỉ dành cho trường hợp khó chẩn đoán trên lâm sàng và trong trường hợp nghiên cứu.

Sinh thiết lấy bệnh phẩm cũng do thầy thuốc lâm sàng thực hiện (thường phải là bác sĩ). Bệnh phẩm được gửi về phòng xét nghiệm có kỹ thuật nhuộm và cắt bệnh phẩm làm tiêu bản và có bác sĩ chuyên khoa Giải phẫu bệnh lý đọc kết quả.

Kết quả giải phẫu bệnh lý là tiêu chuẩn có giá trị để chẩn đoán bệnh Phong. Tuy nhiên, theo các hướng dẫn của TCYTTG thì không thây đề cập đến giải phẫu bệnh trong các tiêu chuẩn chẩn đoán.

Làm Phản ứng Mitsuda

Phản ứng Mitsuda để biết tình trạng đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào của bệnh nhân đối với bệnh Phong chứ không phải để chẩn đoán.

KẾT LUẬN

Khám bệnh nhân Phong thường đòi hỏi có nhiều kỹ năng phức tạp. Ngoài kỹ năng khám bệnh da, khám nội khoa tổng quát còn phải biết khám ngoại khoa, các vết loét… Phải thật sự thông cảm cho bệnh nhân, không được biểu lộ sự ghê sợ bệnh, kỳ thị… sẽ làm cho người bệnh càng mặc cảm và không tin tưởng hợp tác với thầy thuốc trong suốt quá trình theo dõi, đa hóa trị liệu, giám sát và săn sóc tàn tật.

Khi đã chẩn đoán là bệnh Phong, giáo dục sức khỏe về chính căn bệnh, về điều trị, về ý thức tự phòng ngừa tàn tật, tự săn sóc tàn tật, tự săn sóc các thương tích, các vết loét cũng hết sức quan trọng.

Bệnh nhân Phong sẽ gặp gỡ với cán bộ chống phong trong một thời gian dài. Do đó, việc thiết lập mối quan hệ gần gũi thân thiết, hiểu biết và thông cảm lẫn nhau là rất cần thiết.

Thoát vị nghẹt (thoát vị bẹn nghẹt, thoát vị đùi nghẹt)

Thoát vị nghẹt là một biến chứng nặng và thường gặp của tất cả các loại thoát vị. Bao gồm thoát vị bẹn, thoát vị rốn, thoát vị đùi, thoát vị bịt, thoát vị đường trắng trong đó chủ yếu là thoát vị bẹn và thoát vị đùi. Thoát vị nghẹt cần chẩn đoán thật sớm và xử trí ngay vì nếu để muộn chỉ sau 6 – 12 giờ tạng sẽ bị hoại tử dẫn đến tình trạng viêm phúc mạc, tắc ruột và những rối loạn toàn thân.

ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC

Giới: Thoát vị bẹn nghẹt gặp nhiều ở nam hơn nữ, một phần do tỷ lệ thoát vị bẹn ở nam nhiều hơn nữ, ở nữ hay gặp thoát vị đùi nghẹt.

Tuổi: Thường gặp ở người đứng tuổi và người già vì thành bụng yếu, nhưng cũng gặp ở thanh niên và trẻ em. ở trẻ em vì các gân cơ còn mềm mại, vòng cổ túi không chắc lắm nên các tạng chui qua lỗ bẹn thường bị thắt nhẹ, khi bị nghẹt dê biểu hiện trên lâm sàng hơn.

Điểu kiện thuận lợi:

– Thoát vị bẹn nghẹt thường xảy ra sau một động tác gắng sức như đẩy xe lên dốc, ho mạnh… làm tăng áp lực ổ bụng lên đột ngột, cho nên gặp ở người thường phải lao động chân tay và những người hay đi lại nhiều.

– Vị trí thoát vị nghẹt: Bất cứ loại thoát vị nào cũng có thể bị nghẹt nhưng thoát vị đùi dễ bị nghẹt nhất vì cổ túi là một vòng xơ nhỏ và chắc. Thoát vị bẹn nghẹt thường ở hố bẹn giữa, nơi yếu nhất của vùng bẹn hoặc hố bẹn ngoài.

– Tiền sử thoát vị: những bệnh nhân thoát vị nghẹt thường có bệnh lý này từ trước, hoặc đã có một vài lần bị nghẹt nhưng sau đó trở lại bình thường. Thường thì chính bệnh nhân cũng đã tự chẩn đoán được mình bị thoát vị, có khi đã nhiều năm trước.

– Khối lượng khối thoát vị: khối thoát vị bé dễ bị nghẹt hơn khối thoát vi lớn vì cổ túi bé, vòng xơ lỗ thoát vị chắc.

GIẢI PHẪU BỆNH LÝ

1. Giải phẫu học vùng bẹn – đùi

Thoát vị bẹn – đùi gặp nhiều và cùng có những đặc điểm chung, cùng nằm ở khu vực trước dưới của thành bụng trước bên, ranh giới giữa bụng và đùi.

Ống bẹn và ống đùi đều là thành phần của lỗ cơ lược được giới hạn giải phẫu bởi: phía trên là cơ chéo trong và cơ ngang bụng, phía ngoài là cơ thắt lưng chậu.

Khu vực này được dây chằng bẹn chia ra làm hai phần: phần trên là vùng bẹn có thừng tinh chạy qua, phần dưới là vùng đùi có bó mạch đùi chạy qua. Thoát vị bẹn – đùi thực chất là thoát vị lỗ cơ lược, trong đó tuỳ theo túi thoát vị chui ra bên trên hoặc dưới dây chằng bẹn mà ta gọi là thoát vị bẹn hay thoát vị đùi.

2. Các loại thoát vị bẹn

Theo thiết đồ giải phẫu cắt ngang vùng bẹn (Hình 7.1) có thể chia thoát vị bẹn thành 3 loại. Các quai ruột chui qua lỗ bẹn, bị nghẹt có những đặc điểm khác nhau.

  • Thoát vị bẹn chếch ngoài

Khi tạng chui qua hố bẹn ngoài, ở ngoài động mạch thượng vị theo hướng chếch từ ngoài vào trong. Túi thoát vị, nằm trong bao xơ của thừng tinh và theo thừng tinh tiến dần xuống bìu. Loại thoát vị này thường bị nghẹt.

  • Thoát vị bẹn trực tiếp

Hố bẹn giữa là điểm yếu của thành bụng. Phía ngoài là động mạch thượng vị, phía trong là động mạch rốn. Tạng chui qua hố bẹn giữa nằm ngay dưới da. Thường khối thoát vị nhỏ và ít khi bị nghẹt.

  • Thoát vị bẹn chếch trong

Tạng chui qua hố bẹn trong, phía trong động mạch rốn. Loại này ít gặp và cũng ít khi bị nghẹt do thành bụng vùng này dày và chắc.

Đặc điểm thoát vị đùi

Túi thoát vị đùi đi từ ngoài dải chậu mu ở trước, dây chằng Cooper ở sau và đi dưới cung đùi đê vào ông đùi.

Lỗ thoát vị đùi – chính là vòng đùi là một vòng xơ nhỏ rất chắc do dây chằng Gimbernat, dây chằng Cooper và cung đùi tạo nên dễ nghẹt hơn thoát vị bẹn. Thoát vị đùi có thể kèm với thoát vị bẹn trực tiếp, cùng xuất phát từ tam giác Scarpa, chỉ khác nhau là túi thoát vị nằm trên hay dưới cung đùi.

Đặc điểm túi thoát vị

Túi thoát vị được hình thành khi tạng chui qua lỗ thoát vị. Lỗ thoát vị có vai trò chủ yếu trong nguyên nhân gây nghẹt. Lỗ thoát vị do các cơ, gân và dây chằng của thành bụng trước tạo nên. Lỗ thoát vị bé, chắc và dễ gây nghẹt hơn lỗ to, rộng.

Khi mổ qua da và các lớp nông ở trên, tới một túi phồng, có thể to hoặc nhỏ nhưng rất căng. Màu sắc thay đổi tuỳ theo thương tổn của các thành phần trong túi. Có thể là đỏ hồng hoặc đỏ sẫm hoặc tím đen. Thành túi có khi mỏng, có khi dày lên do viêm nhiễm.

Trong túi thường có dịch ít hoặc nhiều. Nếu được xử trí sớm, dịch có màu vàng chanh, cổ túi thắt nghẹt gây ứ trễ lưu thông gây xuất tiết dịch. Lúc đầu dịch màu trong, nếu muộn thì có màu hồng, khi ruột đã hoại tử trở thành màu đen, thối.

Cũng có khi trong túi có rất ít hoặc không có nước, thành túi dính với tạng thoát vị nên khi rạch túi phải cẩn thận vì trong trường hợp này rất dễ làm thương tổn tạng trong túi.

Các thành phần của thoát vị
Các thành phần của thoát vị

Tạng thoát vị

Nội dung trong bao thoát vị: hầu hết các trường hợp là một ruột non.

Thương tổn là do ngừng trệ tuần hoàn. Lúc đầu là máu tĩnh mạch không về được rồi máu động mạch cũng không đến được. Thương tổn nặng hay nhẹ phụ thuộc vào bệnh nhân đến muộn hay đến sớm, lỗ thoát vị hẹp hay rộng. Thương tổn nặng nhất là ở cổ túi.

Diễn biên của quai ruột nghẹt: ứ máu và phù nề, ruột có màu hồng tím, thành dày. Sau khi cắt cổ túi hoặc sau khi đắp huyết thanh nóng và phong bê novocain vào mạc treo màu sắc trở lại như cũ và co bóp bình thường. Sau đó quai ruột mất vẻ trắng bóng bình thường, thành mỏng, màu xám rõ nét nhất là ở nơi cổ túi.

Muộn hơn, quai ruột bị hoại tử từng điểm hay từng đám lớn gây viêm màng bụng toàn thế hay tạo thành một ổ nhiễm trùng lan rộng ở vùng thoát vị. Mạc treo của quai ruột nghẹt cũng bị phù nề, có khi bị nghẽn mạch gây nên những thương tổn ruột không phục hồi, cho nên khi đánh giá thương tổn phải chú ý cả mạc treo ruột.

Có khi thương tổn không phải hoàn toàn cả một quai ruột mà chỉ ở một phần của thành ruột.

Thương tổn chỉ khu trú một chỗ nhưng lại chóng đưa đến hoại tử. Lưu thông ruột vẫn bình thường.

Cũng gặp vài trường hợp ruột bị nghẹt theo hình chữ w, có một quai bị nghẹt nằm trong ổ bụng. Nếu bệnh nhân đến muộn khi ruột đã hoại tử thì chắc chắn là viêm màng bụng toàn thể.

Tình trạng ruột trên chỗ nghẹt, nếu bệnh nhân đến sớm, ruột chưa thay đổi, nếu đến muộn thì ruột trướng do ứ hơi và nước; muộn nữa thì có thể hoại tử vỡ.

ít gặp hơn có những trường hợp tạng nghẹt là một đoạn ruột già, vòi trứng, một phần bàng quang hoặc mạc nối lớn. Diễn biến chậm hơn và thương tổn cũng nhẹ.

THOÁT VỊ BẸN NGHẸT

Lâm sàng

Triệu chứng thường gặp của một thoát vị bẹn nghẹt là một quai ruột non chui qua lỗ bẹn xuống bìu và không lên được như thường’ngày, mặc dầu bệnh nhân nằm nghỉ hay tự xoa nhẹ và đẩy lên. Triệu chứng khác nhau tuỳ theo bệnh nhân đến sớm hay đến muộn.

Triệu chứng khi đến sớm

Triệu chứng cơ năng:

  • Đau: Đau xuất hiện đột ngột khi bệnh nhân đang làm một động tác mạnh. Đau rất chói ở vùng bẹn lan xuông bìu, đau liên tục.
  • Có thể nôn hoặc buồn nôn.

Triệu chứng thực thể:

  • Một khối phồng tròn vùng bẹn.
  • Nằm ở trên nếp bẹn hay chạy dài xuống bìu.
  • Sờ có cảm giác căng chắc, ấn rất đau nhất là ở phía cổ túi.
  • Đẩy không lên, nắn không thấy tiếng óc ách. Ho không làm to thêm.
  • Gõ đục.

Triệu chứng toàn thân:

Nét mặt nhăn nhó, nhưng thể trạng vẫn tốt. Huyết áp bình thường.

Triệu chứng khi đến muộn

Thường chỉ sau 6 đến 12 giờ nếu không được xử lý các triệu chứng đã thay đổi rõ rệt: biến chứng tắc ruột, hoại tử hoặc viêm phúc mạc:

  • Đau bụng từng cơn, đau càng ngày càng tăng.
  • Nôn rất nhiều, nôn liên tục. Chất nôn nâu đen.
  • Bí trung đại tiện.
  • Vùng bẹn bìu đau chói, đau căng tức làm bệnh nhân không cho sờ vào.
  • Bụng trướng, căng, gõ vang, các quai ruột nổi, có thể nhu động kiểu rắn bò.
  • Triệu chứng toàn thân thay đổi rõ rệt: Mặt hốc hác, mắt trũng, môi khô, lưỡi bẩn. Mạch nhanh nhỏ khó bắt. Không sốt hoặc sốt nhẹ, đái ít.

Cận lâm sàng

  • Xét nghiệm

Một số xét nghiệm cơ bản

Đối với những trường hợp đến muộn, có biến chứng cần làm thêm các xét nghiệm Urê niệu, điện giải đồ, yếu tố đông máu… để đánh giá tiên lượng và cản cứ vào đấy mà hồi sức cho thích hợp. Thường thấy có hiện tượng máu cô đặc do mất nước, điện giải thấp và urê huyết cao.

  • Chụp x quang

Chụp bụng không chuẩn bị có dấu hiệu tắc ruột như: quai ruột giãn, mức nước – hơi, ổ bụng mò…

Thể lâm sàng

  • Theo diễn biến

Thể nghẹt không hoàn toàn:

Thường gặp ở những bệnh nhân có khối thoát vị lớn. Thỉnh thoảng xuất hiện các triệu chứng nghẹt, nhưng nếu nằm nghỉ hoặc ngâm nóng lại khỏi.

Thể nghẹt hoàn toàn:

Hay gặp ở những khối thoát vị bẹn nhỏ. Bệnh nhân thường đến muộn sau 6 – 12 giờ. Đau chói, đau dữ dội ở vùng bẹn bìu và toàn bụng. Các triệu chứng toàn thân và cơ năng diễn biến rất nhanh chóng. Biểu hiện bằng nôn mửa liên tiếp, ỉa chảy liên tục và bệnh nhân trở nên rất nặng.

Thể nghẹt có biến chứng:

Ngoài dấu hiệu thoát vị bẹn nghẹt hoàn toàn, đến muộn còn có các biểu hiện của tắc ruột như nhiều trường hợp chẩn đoán tắc ruột mà bỏ sót do không thăm khám bẹn bìu chỉ khi chuẩn bị mổ hoặc trong mổ mới phát hiện được. Nếu hoại tử sẽ biểu hiện vùng bẹn bìu sưng, viêm tấy lan toả hoặc viêm phúc mạc.

  • Theo tạng thoát vị

Một quai ruột non:

Quai ruột non chui xuống và bị nghẹt.

Vòng thắt là ở cổ túi thoát vị. Lỗ bẹn càng bé càng dễ nghẹt và nhanh chóng hoại tử, hoại tử không chỉ các quai ở bẹn bìu mà có thể quai ruột nằm trong ổ bụng (thoát vị hình W). Có loại nghẹt chỉ một phần thành ruột nơi bờ tự do (thoát vị kiểu Richter)

Các tạng khác:

  • Mạc nối lớn: thường không có triệu chứng tắc ruột. Diễn biến chậm
  • Manh tràng, đại tràng Sigma: triệu chứng tắc ruột không rõ ràng, xuất hiện muộn.

Thương tổn tại chỗ cũng giống như thể thoát vị của quai ruột non.

  • Ruột thừa: dính vào túi thoát vị. Đau chói nhiều ở khối thoát vị, kèm theo có sốt nếu có viêm
  • Bàng quang: Phần bàng quang có khi chui và nằm trong túi thoát vị, dính và nghẹt, kèm theo có triệu chứng về tiết niệu.

Diễn biến

  • Thể nghẹt không hoàn toàn

Thoát vị nghẹt chưa có xử trí gì tự nó đã lên hoặc có thể nghỉ ngơi và dùng thuốc giảm co thắt, đẩy nhẹ tạng lên. Sau khi lên cần theo dõi trong 6 giờ có thể tái phátv hoặc quai ruột nghẹt hoại tử.

  • Thể nghẹt hoàn toàn

Biểu hiện đầy đủ các triệu chứng của thoát vị bẹn nghẹt, sau đó sẽ xuất hiện các dâu hệu của tắc ruột hay hoại tử, thường bệnh nhân sẽ chết vì các rối loạn của tắc ruột, viêm màng bụng toàn thể.

Chẩn đoán

  • Chẩn đoán xác định

Trong đa số trường hợp chẩn đoán dễ, bệnh nhân có tiền sử nhiều lần thoát vị. Chẩn đoán loại thoát vị nghẹt: Khó xác định trước mổ.

  • Chẩn đoán phân biệt

Bệnh nhân đến sớm:

Cần phân biệt khối thoát vị đùi với hạch Cloquet hoặc quai tĩnh mạch hiển trong bị viêm; khối thoát vị bẹn nghẹt với nước màng tinh hoàn, viêm tinh hoàn.

Bệnh nhân đến muộn:

Bệnh cảnh lâm sàng nổi bật là một tắc ruột. Cho nên trước một bệnh nhân tắc ruột bao giờ cũng phải thăm khám các vùng thoát vị nhất là những người béo.

Điều trị

Tất cả các loại thoát vị bẹn nghẹt khi đã chẩn đoán được phải điều trị ngay.

Điều trị bảo tồn

Đối với bệnh nhân đến sớm trước 6 giờ: đau ít, chưa có biến chứng nằm yên dùng thuốc giảm đau, giảm co thát, đẩy nhẹ, nếu tạng lên, theo dõi sau đó phẫu thuật theo kế hoạch.

Điều trị phẫu thuật

Nguyên tắc:

Tốt nhất là mổ trong vòng 6 giờ đầu

Chủ yếu là giải phóng tạng bị nghẹt, đánh giá thương tổn tạng và xử lý các biến chứng hoặc các tổn thương tạng.

Phục hồi thành bụng theo các kỹ thuật thích hợp.

Kỹ thuật:

  • Vô cảm: gây tê tuỷ sống là tốt nhất. Người già có thể gây tê tại chỗ tránh được các biến chứng. ĐỐI với trẻ em gây mê để mổ. Những trường hợp đến muộn, có biến chứng nên gây mê nội khí quản.

Đối với trẻ em có thể rạch theo đường ngang trên lỗ bẹn ngoài dài 3-4cm bộc lộ các lớp cân cơ như bình thường.

  • Xử trí tạng thoát vị: kéo thêm quai ruột xuống để đánh giá được đầy đủ thương tổn.

Chỗ ruột bị thắt, nơi cổ túi và quai ruột ở dưới vẫn đỏ hồng, bóng, co bóp bình thường, các mạch máu mạc treo đập tốt thì không cần xử trí gì.

Nếu có một vài nốt nghi ngờ hoại tử, các nơi khác tốt: có thể khâu vùi.

Ruột hoại tử thì phải cắt cổ túi, cặp ngay chỗ thắt nghẹt sau đó cắt bỏ rộng rãi và nối lại. Chỉ ở những bệnh nhân quá già yếu mối đưa hai đầu ra ngoài ổ bụng và đóng lại sau.

Đổi với những trường hợp nghi ngờ: đắp gạc có huyết thanh nóng và phong bế Xylocain vào mạch treo và chờ. Khi phong bế phải hết sức chú ý không chọc vào mạch máu. Nếu thương tổn không phục hồi thì cách xử trí tốt nhất là cắt ruột. Nếu ruột thừa bị nghẹt nên cắt và vùi gốc. Các mạc nối nghẹt cần phải cắt đi.

  • Phục hồi thành bụng theo các phương pháp sau:

+ Phương pháp Bassini: Khâu 2 bình diện nông và sâu, thừng tinh nằm giữa, cung đùi và gân kết hợp là lớp sâu, cân cơ chéo lớn là lớp nông.

+ Phương pháp Forgue: Khâu hai lớp nông và sâu, thừng tinh nằm sau.

+ Phương pháp Halstedt: Khâu hai lớp nông và sâu, thừng tinh nằm trước.

+ Phương pháp Shouldice: Phục hồi theo ba lớp: mạc ngang, lớp nông và sâu bằng đường khâu vắt đi về. Phương pháp này là kỹ thuật có tỷ lệ tái phát thấp, được nhiều phẫu thuật viên ưa dùng.

  • Các trường hợp tắc ruột muộn hoặc viêm phúc mạc do hoại tử ruột nên mở bụng đường giữa trên dưới rốn để đánh giá đầy đủ thương tổn và xử lý triệt để. Phục hồi thành bụng có thể từ bên trong hoặc rạch thêm đường mổ thoát vị bẹn.

Điều trị nội khoa phối hợp

  • Nếu bệnh nhân đến sớm, toàn thân chưa có gì thay đổi chỉ nằm yên.
  • Khi đến muộn: Bù nước, điện giải, hút dạ dày liên tục, sử dụng kháng sinh.

THOÁT VỊ ĐÙI NGHẸT

Lâm sàng

Thoát vị đùi nghẹt là thoát vị lỗ cơ lược, trong đó túi thoát vị chui qua ống đùi dưới cung đùi. Do ông đùi thường hẹp nên thoát vị đùi rất dễ bị nghẹt với khoảng 60% trường hợp. Thoát vị đùi thường gặp nhiều ở nữ hơn ở nam.

Thoát vị đùi nghẹt thường ít khi biểu hiện rõ rệt. Ngay cả khi bị nghẹt hay tắc ruột’ bệnh nhân vẫn có cảm giác khó chịu ở vùng bụng hơn là vung đùi.

Các dấu hiệu cơ năng và toàn thân không rõ ràng. Khối thoát vị nhỏ và đau ít. Khám thực thể, có thể phát hiện một trong các tình huống sau:

  • Nếu thoát vị nhỏ và không nghẹt nó thường là một khối nhỏ vùng trên mé trong đùi dưới nếp bẹn (đường Malgaine, tương ứng với cung đùi bên trong), có thể ấn xẹp được.
  • Nếu có biến chứng nghẹt sẽ sờ thấy một khối căng phồng nằm dưới nếp bẹn hoặc trong tam giác Scarpa, ấn đau chói. Ngoài ra, bệnh nhân có thể có triệu chứng đau từng cơn ở vùng bụng, bụng trướng nhẹ và nhu động ruột tăng do tắc ruột. Thăm khám vùng bẹn – đùi phải cẩn thận vì nhiều khi có thể bị bỏ qua.

Chẩn đoán

  • Chẩn đoán xác dịnh

Trường hợp đến sớm:

  • Đau: xuất hiện đột ngột ở vùng bẹn – đùi, có khi cơn đau bụng đi kèm nếu bắt đầu có dấu hiệu nghẹt ruột.
  • Nôn hoặc buồn nôn.
  • Khối phồng tròn, nằm dưới nếp bẹn.
  • Sờ có cảm giác căng chắc, ấn rất đau nhất ở phía cổ túi. Đẩy không lên, nắn không thấy tiếng óc ách. Ho không làm to thêm.

Trường hợp đến muộn: Các dấu hiệu tại khối thoát vị rất điển hình. Kèm theo có các biêu hiện của tắc ruột. Đau bụng tăng lên, nôn, bụng trướng. Toàn thân thay đổi.

  • Chẩn đoán phân biệt

Thoát vị đùi cần phân biệt với các trường hợp sau:

+ Thoát vị bẹn: khối thoát vị nằm trên nếp bẹn.

+ Hạch bẹn viêm: vùng bẹn viêm tấy, hạch to đau chói.

+ Giãn tĩnh mạch hiển trong: sờ thấy rung miu khi bệnh nhân ho và khối phồng biến mất tự nhiên khi bệnh nhân nằm.

Điều trị

  • Nguyên tắc

Điều trị thoát vị đùi nghẹt chỉ có phẫu thuật, không dừng băng giữ như thoát vị bẹn.

Cắt bỏ thoát vị muôn cắt bỏ túi thoát vị phải cắt cung đùi. Đi từ phía trên ổ bụng xuống, hoặc đường rạch thấp ở đùi.

Phục hồi thành bụng: khâu dây chằng Cooper dính ở mào lược với các cơ chéo nhỏ, cơ ngang và cân của cơ chéo lớn.

  • Phương pháp phẫu thuật

Phục hồi thành bụng: Khâu dây chằng Cooper với cơ ngang, cơ chéo bé và cân cơ chéo lớn bằng chỉ không tiêu để bịt kín vòng đùi lại. Khi khâu cần chú ý không chạm vào các mạch máu ở cạnh như tĩnh mạch đùi, động mạch thượng vị, động mạch nối động mạch thượng vị và động mạch bịt. Khâu bít lỗ đùi (phương pháp cổ điển), hoặc bít cả lỗ bẹn lẫn lỗ đùi (phương pháp Mac Vay)

Hôn mê tăng áp lực thẩm thấu do đái tháo đường

I.   ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ BỆNH

  1. Đặc điểm

Đây là hội chứng thường gặp ở người mắc đái tháo đường typ 2 trên 60 tuổi, nữ thường gặp hơn nam.

Bệnh có tiên lượng xấu, tỷ lệ tử vong cao ngay cả khi được cấp cứu ở những trung tâm có đầy đủ phương tiện và có những chuyên gia giỏi, nếu có qua khỏi cũng thường để lại di chứng.

Tăng áp lực thẩm thấu máu do tăng glucose máu không nhiễm toan ceton có thể gặp ở người chưa bao giờ được chẩn đoán đái tháo đường typ 2 và thường là nguyên nhân phải vào viện cấp cứu ở người bệnh đái tháo đường typ 2.

Hôn mê do tăng áp lực thẩm thấu tăng glucose máu có nhiều điểm giống với hôn mê nhiễm toan ceton. Tuy nhiên có nhiều điểm khác nhau, nhất là về mức độ tổn thương. Đặc điểm chính của bệnh là tăng glucose máu, mất nước và điện giải. Người hôn mê do tăng áp lực thẩm thấu tăng glucose máu không nhiễm toan ceton có đặc điểm lớn nhất là mất nước, đa phần là mất nước nặng. Thường khi đã có triệu chứng rối loạn ý thức trên lâm sàng, lượng nước mất có thể chiếm tới 25% trọng lượng cơ thể.

Đặc điểm quan trọng để phân biệt với hôn mê nhiễm toan ceton là không có thể ceton hoặc có rất ít trong nước tiểu. Đó là do:

  • Nồng độ insulin tăng cao ở hệ thống cửa làm giảm khả năng tạo ra thể ceton tại gan.
  • Hệ thống hormon đối lập không bị tăng tiết nhiều, không giảm lượng insulin máu, nên giảm khả năng ly giải triglycerides, từ đó giảm khả năng tạo thể ceton ở gan.
  • Bản thân sự tăng áp lực thẩm thấu có thể ức chế sự phân huỷ lipid – nguồn tạo ra acid béo tự do để gan tổng hợp nên các thể ceton, vì thế lượng ceton cũng không tăng lên.

2.  Nguyên nhân và yếu tố thuận lợi cho bệnh xuất hiện

Bệnh thường xuất hiện ngay sau một nhiễm trùng cấp, cũng có khi sau một stress về tinh thần hoặc thực thể; nhưng nhiều trường hợp không tìm thấy nguyên nhân trực tiếp nào.

Có tới 40% các trường hợp hôn mê do tăng áp lực thẩm thấu tăng glucose máu không nhiễm toan ceton là điều kiện để phát hiện ra người bệnh bị đái tháo đường typ 2.

Bảng 1. Các yếu tố thuận lợi làm xuất hiện hôn mê do tăng áp lực thẩm thấu máu, tăng glucose máu không nhiễm toan ceton

Các thuốc Quá trình điều trị Bệnh mạn tính Bệnh cấp tính
Glucocorticoid Lợi niệuDiphenylhydantoin Thuốc      chẹn      α      – Andrenergic DiazoxideL – asparaginase

Các thuốc ức chế miễn dịch

Lọc màng bụng Thẩm phân máu Stress ngoại khoaTruyền nhiều glucose. Sau phẫu thuật Bệnh thận Bệnh timTăng huyết áp Đột quỵUống rượu Bệnh tâm thần

Mất   cảm   giác khát

Nhiễm trùngNhiễm khuẩn tiết niệu. Loét ổ gàNhiễm trùng máu   Chảy máu đường tiêu hoá. Tai biến mạch não

Nhồi máu cơ tim Viêm tuỵ cấp.

3.  Thuật ngữ

Thuật ngữ “Tình trạng tăng áp lực thẩm thấu do tăng glucose máu” đã được Ennis và Kreisberg – năm 1994, đề nghị thay bằng “tình trạng tăng áp lực thẩm thấu do tăng glucose máu không nhiễm toan ceton” và nặng hơn là “Hôn mê tăng áp lực thẩm thấu do tăng glucose máu không nhiễm toan ceton”. Thuật ngữ này đã bao hàm các ý nghĩa sau:

  • Tình trạng tăng áp lực thẩm thấu do tăng glucose máu; lâm sàng có thể đã có tình trạng nhiễm toan ceton với nhiều mức độ khác nhau.
  • Các mức độ rối loạn ý thức khác nhau có thể gặp ở lâm sàng, nặng nhất là tình trang hôn mê.

II.   TRIỆU CHỨNG VÀ DẤU HIỆU

  1. Lâm sàng

Có bốn đặc điểm chính:

  • Lượng glucose máu  tăng  cao  ≥ 33,3mmol/l  (600mg/dl)  thường  từ   55,5 (1000mg/dl) – 111,1mmol/l (2000mg/dl).
  • Không có thể ceton trong nước tiểu hoặc có rất nhẹ.
  • Áp lực thẩm thấu huyết tương hoặc huyết thanh trên 330 mOsm/kg nước.
  • Dấu hiệu mất nước nặng.

Ngoài ra còn có nhiều các bất thường về thần kinh khác như mất ngôn ngữ, liệt nhẹ một nửa người, bán manh, rung giật nhãn cầu và thậm chí có cả dấu hiệu Babinski, cũng có thể gặp trong hôn mê tăng glucose máu không nhiễm toan ceton.

Bảng 2. Sự khác biệt chính về lâm sàng giữa hôn mê do tăng glucose máu không nhiễm toan ceton với hôn mê do nhiễm toan ceton. Có thể so sánh như sau:

Các yếu tố Nhiễm toan ceton Tăng áp lực thẩm thấu
Tuổi Bất kỳ lứa tuổi nào Thường trên 60 tuổi
Diễn biến Vài giờ hoặc vài ngày Vài ngày hoặc vài tuần
Tỷ lệ tử vong (%) > 5% 50%
Glucose máu Cao Rất cao
Áp lực thẩm thấu Cao Rất cao
Natri máu Bình thường hoặc thấp Bình thường hoặc cao
Bicarbonat < 15 mEq/L Bình thường hoặc hơi thấp
Ceton máu ++++ Âm tính hoặc (+) nhẹ
Đang điều trị Insulin Chế độ ăn ± thuốc viên hạ glucose máu

2.  Các xét nghiệm cận lâm sàng

Buộc phải có để chẩn đoán và theo dõi:

  • Glucose máu
  • Điện giải máu, nhất là Natri máu
  • Kali máu.
  • Ure và Creatinin máu
  • Bicarbonat, có thể tăng nhẹ do lượng acid lactic bị tích lại (do hạ huyết áp và tốc độ tuần hoàn ngoại biên bị suy giảm).

Có thể dựa vào công thức sau để tính áp lực thẩm thấu máu: Áp lực thẩm thấu máu = 2 (Na + K) + Urea + Glucose.

(Đơn vị tính các chỉ số là mmol/l ).

Chẩn đoán xác định khi áp lực thẩm thấu > 330 mosmol/kg nước.

3.  Chẩn đoán phân biệt

Bảng 3. Chẩn đoán phân biệt giữa tình trạng nhiễm toan ceton và hội chứng tăng áp lực thẩm thấu- tăng đường máu

Nhiễm toan ceton Tăng thẩm thấu
Nhẹ (G.ht> 13,9mmol/l) Trung bình G.ht> 13,9mmol/l) Nặng G.ht> 13,9mmol/l) G.ht> 33,3mmol/l)
pH máu ĐM 7,25- 7,30 7,0-<7,24 < 7,00 >7,3
Bicarbonate 15-18 mEq/L 10-<15 mEq/L < 10,0 mEq/L >15mEq/L
Ceton máu Dương tính Dương tính Dương tính + nhẹ
ALTT máu Thay đổi Thay đổi Thay đổi >330 mOsm/kg
Anion gap >10,0 >12,0 >12,0 Thay đổi
Tri giác Tỉnh táo Tỉnh táo/lơ mơ Sững sờ/hôn mê Sững sờ/hôn mê

Ghi chú: G.ht: Glucose huyết tương;

ALTT máu = 2 (Na + K) + Ure + Glucose (mmol/l ). Anion gap: ( Na+ )- [( Cl- + HCO3 – mEq/l]

III.   NGUYÊN TẮC ĐIỀU TRỊ

Sử dụng insulin, dịch truyền và kali cho phù hợp là điều kiện để đưa người bệnh ra khỏi tình trạng hôn mê. Tuy nhiên, nếu như trong cấp cứu hôn mê nhiễm toan ceton sử dụng insulin được quan tâm hàng đầu, thì trong hôn mê tăng áp lực thẩm thấu máu, việc bù phụ nước, điện giải phải được ưu tiên nhất.

1.  Bồi phụ nước, điện giải

Là yếu tố quan trọng nhất, dịch được chọn là các dung dịch đẳng trương. Điều cần nhớ là khi nồng độ glucose máu giảm xuống, sự mất cân bằng thứ phát giữa áp lực trong và ngoài tế bào lại xảy ra.

Để tránh hiện tượng này, người ta khuyên nên phục hồi sự mất nước ở mức độ phù hợp với tuổi và tình trạng người bệnh, đặc biệt với người cao tuổi thường kèm theo các bệnh lý về thận và tim mạch.

Điểm quan trọng để xác định lượng dịch truyền vào là phải tính được lượng Na+ thực tế. Có thể tham khảo công thức tính sau.

A= Na+ + 1,6 ( G- 5,5)/5,5.

D = 0,6* P * [(A/140)-1]

(A là lượng Na+ thực tế; Na+ là lượng đo được trong huyết tương người bệnh tính bằng mmol/l); D là lượng dịch cần bổ sung, tính bằng lít; P là trọng lượng cơ thể, tính bằng kg; G là lượng glucose huyết tương tính bằng mmol/l).

Ví dụ, một người bệnh nhập viện được chẩn đoán là hôn mê tăng đường máu không nhiễm toan ceton, nặng khoảng 60 kg, xét nghiệm có lượng Glucose máu là 35 mmol/l; Na+ huyết tương là 143 mmol/l.

Lượng Na+ thực là:

A= Na+ + 1,6(G- 5,5)/5,5 = 143 + 1,6(35 – 5,5)/5,5 = 151,6.

Lượng dịch cần bù là:

D = 0,6*P * [(A/140)-1] = 0,6 * 60 * (151,6/140 – 1) = 2,98 lít # 3 lít

Đây là lượng dịch cần bù cho cơ thể đã bị mất trong một thời gian dài. Tuy nhiên cách bù như thế nào phải phụ thuộc vào tình hình thực tế của người bệnh để có chỉ định phù hợp. Tốt nhất là đặt catheter để theo dõi áp lực tĩnh mạch trung tâm và điều chỉnh lượng dịch truyền.

Cần lưu ý nếu nồng độ Triglycerid tăng quá cao cũng sẽ làm thay đổi nồng độ Na+ máu.

Cũng cần chú ý theo dõi và điều chỉnh Kali trong máu người bệnh.

2.  Insulin

Vì người bệnh thường không có tình trạng nhiễm toan ceton nặng và mục đích phấn đấu là làm giảm nồng độ glucose máu từ 3-5 mmol/giờ, nên việc sử dụng insulin với liều nhỏ cần được chỉ định sớm. Người bệnh hôn mê tăng áp lực thẩm thấu thường nhạy cảm với insulin, do vậy dễ bị hạ glucose máu, nhất là khi truyền tĩnh mạch.

Thông thường người ta bắt đầu với liều 1- 2 đơn vị/giờ (tương đương 0,05 đơn vị/kg/giờ), sau đó phải tiếp tục theo dõi để tăng liều cho tới khi đạt được mục đích giảm glucose máu từ 3 – 5 mmol/giờ. Đích đạt tới nên duy trì mức glucose huyết tương từ 14- 16,7 mmol/L cho tới khi tình trạng tri giác của người bệnh được cải thiện.

3.  Chống đông máu

Khác với người hôn mê nhiễm toan ceton, người bệnh hôn mê do tăng áp lực thẩm thấu có nguy cơ tắc mạch cao hơn nhiều, vì thế việc sử dụng chất chống đông máu là bắt buộc cho mọi trường hợp (nếu không có chống chỉ định).

4.  Điều trị các bệnh phối hợp nếu có, bổ sung vitamin và khoáng chất.

Hội chứng kém hấp thu – Phần thứ nhất

Giải phẫu- sinh lý và phương pháp thăm dò ruột non

1. Giải phẫu đại cương

a. Cấu trúc đại thể

Kích thước:

Ruột non là một ống dài 5m nối dạ dày với đại tràng

  • Tá tràng dài 25 cm
  • Hỗng tràng – hồi tràng có độ dài xấp xỉ nhau
  • Ruột non gấp thành 15-16 quai ruột
  • Đường kính tá tràng 3cm, nhỏ dần đến gần van Bauhin còn ứng dụng ở lâm sàng khi nội soi, thông hút thăm dò ruột non:

Môn vị: ở cách 70-80cm từ nếp răng cửa

Góc Treiz ở khoảng 80-90cm

Hỗng tràng ở khoảng 130cm

Hồi tràng ở trong khoảng 180-250cm

Đại tràng bằng đầu từ 250cm trở đi

2.   Thành ruột non

  • Thành có 2 lớp cơ trơn (lớp ngoài là thớ dọc, lớp trong là thớ tròn). Mặt ngoài có diện tích 8cm2/1 cm hỗng tràng, và 6,5 cm2/1cm hồi tràng. Mặt trong diện tích tăng lên: 250 cm2/1cm hỗng tràng, và 200 cm2/1cm hồi tràng. Diện tích mặt trong tăng vì: niêm mạc có 800-900 nếp van ngang và nhung mao số lượng lớn (30-70 nhung mao/1mm3). Giữa các nhung mao là các hốc chứa tuyến ruột: Brunner ở hành tá tràng, Liberkuhn ở hồi tràng.
  • Các mảng Payer (tổ chức limpho) ở ruột non có nhiều tương bào (Plasmocid) trong lớp màng đệm (400.000 cái/mm3, trong đó 80% các tương bào bài tiết IgA, 15% tiết IgM và 5% tiết IgG).
  • Đám rối thần kinh: Meissner nằm trong lớp niêm mạc và đám rối thần kinh Auerbach nằm giữa hai lớp cơ chi phối vận động, bài tiết của ruột

3. Tế bào niêm mạc ruột non: Có 4 loại:

  • Tế bào biểu mô: có chức năng hấp thu
  • Tế bào hình đài : tiết nhầy càng gần đại tràng càng nhiều tế bào này.
  • Tế bào Paneth: Mang tính chất tế bào tiết có nhiều protein, nhiều polysaccarit, nhiều phosphalaza axit và nhiều men
  • Tế bào thuộc lệ APUD (Amin-Precuor-Uptake-Decarboxylaza) có khả năng tiết các hormon: gastrin (tá tràng), serontonnin (toàn ruột non), enteroglucagon (hồi tràng), secretin ở tá tràng và đoạn đầu hỗng tràng, cholecystokinine và GIP (Gastric- Inhibitory-Peptide) ở hỗng tràng, VIP (Vasoactive-Intestinal-Peptide) ở toàn ruột non, nhưng chủ yếu ở hồi tràng, somatostatine và motiline ở hỗng tràng.

b.   Siêu cấu trúc niêm mạc ruột non

Tổ chức niêm mạc rruột non gồm: van ngang, nhung mao. Mỗi nhung mao có khoảng 50.000 tế bào hấp thu gọi là enterocyte (xem H1). Mỗi Enterocyte cao 25 micromet (Mm) đường kính 8 micromet. Mặt tự do có các vi nhung mao là phần lồi của màng tế bào. Số vi nhung mao trên mỗi Enterocyte đạt 1500-4000 chiếc vì vậy diện tiếp xúc của ruột non với chất dinh dưỡng gấp 80 lần (Holmes 1971, Ugolev 1972). Mỗi vi nhung cao: 1-1,5 Mm, đường kính 0,08- 0,15Mm và khoảng cách giữa các vi nhung mao: 0,01-0,05Mm.

Vi nhung mao là một cấu trúc rất đặc biệt phức tạp chia thành 3 lớp:

  • Lớp glucoprotein phía trên màng: Trên bề mặt mọc ra nhiều sợi quanh co đan vào nhau tạo nên một hệ thống lưới ba chiều độc đáo gọi là glycocanic, trong đó có các cực của anion sợi này nối với cation sợi kia (xem H1).
  • Về bản chất Glycocalic là glycoprotreit và glycolipit, đó là sản phẩm hoạt động sống của Enterocyte chứ không phải do hấp thụ các phần tử mucopolysacoit từ khoang ruột (Lusenko 1976), Glycocalic có nhiều chức năng:
    1. Chọn lọc các chất có kích thước, diện tích và vi nhung
    2. Chức năng “Rây sinh học” cho chất dinh dưỡng đi một chiều, ngăn vi trùng.
    3. Tạo độ cứng cho vùng vi nhung
    4. Chi phối một số khía cạnh miễn dịch.

 

  • Màng tế bào: Vi nhung mao là màng đỉnh của tế bào Enterocyte có cấu trúc màng sinh học gồm 2 lớp: lớp protein và lipit ở giữa. Trên bề mặt màng có các bướu đường kính 6nm là các kho chứa men tiêu hoá màng: Invertaza, sacaroza, gamma-maltaza, alpha-maltaza, Di, tripeptidaza, ATPazaphotphattaza kiềm, . ở đây cũng tồn tại một số lớn men chuyển vận. Photpholipit và protein màng cũng có biến đổi hoá học trong quá trình vận chuyển chất qua màng.
  • Chất nền: Phần bên trong của vi nhung mao là phần lồi ra của các bào tương Thành phần của chất nền có một số hạt có bó sợi có 20-40 sợi tơ nhỏ (fibrilles) chạy song song, có cầu nối ngang giữa các sợi và các phân tử không định hình. Các sợi cố định trên đỉnh của vi nhung mao vào chỗ đầy nhất của màng và tiếp nối với lưới nhiệt và các tua Demosome. Thành phần chủ yếu của sợi fibrille la protit loại actin có gắn men ATPaza phụ thuộc ion Ca, Mg, Na và K cùng các men thực hiện biến đổi hoá học của sự vận chuyển qua màng các monosacarit, đồng thời bó sợi fibrille còn có tác dụng vận động các vi nhung mao qua đó mà ảnh hưởng lên quá trình hấp thu.

Trong tế bào Enterocyte hệ thống ty lạp thể, màng nội bào tương và bộ Golgi phát triển mạnh, chúng có vai trò tích cực trong quá trình hấp thu các chất dinh dưỡng.

Sinh lý ruột non

Ruột non có 3 chức năng: cơ học-tiêu hoá, hấp thu-chức năng miễn dịch.

1. Chức năng cơ học:

Vận động co bóp có 2 loại co bóp:

  • Co bóp vòng tròn lần lượt từng đoạn, đoạn nọ cách đoạn kia vài centimet, chia ruột non thành nhiều khúc nhỏ.
  • Co bóp nhu động xuôi dọc từ hỗng tràng về phía hồi tràng, lúc đầu nhanh sau càng gần van Bauhin càng chậm lại.

Thời gian thức ăn qua ruột non trung bình 4 giờ.

2.   Chức năng tiêu hóa- hấp thu

a.   Gluxit

  • Dạng hấp thu: tinh bột, Disacarit khi tới ruột non được men Amylaza của tuỵ chuyển thành monosacarit để hấp thu qua màng.
  • Nơi hấp thu: Phần cuối tá tràng, sau đó là hỗng tràng, hồi tràng.
  • Cơ chế hấp thu: Vận chuyển tích cực và khuếch tán thụ động.
  • Yếu tố ảnh hưởng đến hấp thu gluxit
    1. Lượng mỡ quá cao so với gluxit và protit, hấp thu gluxit giảm.
    2. Sự có mặt của ion Na, độ pH của môi trường liên quan hấp thu
    3. Ăn có nhiều đạm hấp thu gluxit tăng gấp 8-10 lần.
    4. Sự thiếu O2ở ruột ức chế sự tích luỹ gluxit vào niêm mạc ruột.
    5. Khi nhiễm trùng ruột, loạn khuẩn ruột hấp thu gluxit giảm.

b.   Protit

  • Dạng hấp thu: đạm đến ruột non được men trypsin, chymotrypsin chuyển thành các axit amin hấp thu qua màng.
  • Nơi tiêu hoá chủ yếu ở dạ dày, tá tràng đoạn trên hỗng tràng.
  • Cơ chế hấp thu: loại trung tính và kiềm tính bằng cơ chế vận chuyển tích cực axit amin loại toan tính chưa rõ cơ chế.
  • Các yếu tố ảnh hưởng đến hấp thu protit:
  1. Chịu ảnh hưởng của ion
  2. Độ pH ảnh hưởng tới hấp thu
  3. Glucoza ở nồng độ cao ức chế vận chuyển axit
  4. Pirindosal photphat là coenzym của nhiều enzym cần thiết hấp thu methionin, leucin, glyxin và các axit amin trung tính khác.
  5. Nhiễm trùng ruột, loại khuẩn ruột ức chế sự hấp thu protit.

c.   Lipit

  • Dạng hấp thu: mỡ đến ruột non dưới tác dụng của muối mật, men lipaza chuyển thành lixerol, axit béo, cholesterol và photpholipit hấp thu qua màng.
  • Nơi hấp thu: hỗng tràng.
  • Cơ chế không giống như hấp thu protit và gluxit
  • Các yếu tố ảnh hưởng:
  1. Hấp thu lipit tăng khi có mặt disacarit và protit ở ruột.
  2. Nhiễm trùng loạn khuẩn ruột rối loạn hấp thu lipit
  3. Ăn nhiều gluxit hấp thu cholesterol
  4. Tiêm CoA và bổ xung vào khẩu phần ăn photpho lipit thực vật (đậu tương, dầu hướng dương) làm giảm hấp thu cholesterol, giảm lipit máu.

d.   Nước, điện giải

  • Nước: 8-9 l/24h vào ống tiêu hoá (1,2-1,5 l từ ngoài vào, 7-8 l do các tuyến tiêu hoá bài tiết).
  1. Nơi hấp thu: ở hỗng tràng (3-5 l/24h), hồi tràng (2-4 l/24h), một phần hấp thu ở đại tràng (1-2 l/24h), lượng nước theo phân rất ít (0,1-0,2 l/24h).
  2. Cơ chế hấp thu nước: Cơ chế thụ động theo sự vận chuyển ion
  • Điện giải:
  1. Na: hai hướng vận chuyển: từ tế bào ruột đổ Luồng từ ruột đưa vào tế bào. Tuỳ thuộc luồng nào ưu thế ion Na sẽ hấp thụ hay bài tiết ra ngoài. Cơ chế hấp thu chủ động ở hỗng, hồi tràng.
  2. Yếu tố ảnh hưởng:

Sự có mặt của các thành phần thức ăn cần để tăng hấp thu Na. Sự hấp thu ion Na bị ức chế bởi AMP vòng.

Khi hàm lượng Na ở máu giảm thì cường lực hấp thu nó tăng HT, ĐT.

ở  phần  đầu  ĐT  Na  hấp  thu  theo  nhu  cầu  cơ  thể  (aldosteron,  DOCA,

hydrococtison có tác dụng tăng hấp thu ion Na ở đại tràng.

  1. K hấp thu bắt đầu từ dạ dày, suốt ruột non, nhất là hỗng tràng. Cơ chế vận chuyển tích cực và khuếch tán thụ động.

ở đầu ĐT kali được đào thải trao đổi với Na (được hấp thu) theo nhu cầu cơ thể. Ruột non giữ thăng bằng K huyết tương với các chất ở ruột.

  1. Cl: hấp thu thụ động ở hỗng tràng như ion
  2. Bicacbonat: hấp thu ở đoạn cuối hỗng tràng nhưng lại bị thải tiết ra ở hồi tràng.
  • Các chất khác:
  1. axit Folic: được hấp thu ở đoạn đầu hỗng tràng.
  2. Vitamin B12: sau gắn với yếu tố nội sinh, hấp thu đoạn cuối hồi
  3. Ion Fe: hấp thu ở tá tràng và hỗng tràng, một phần ở hồi tràng. (Vitamin D và hocmon cận giáp tác động vào sự vận chuyển canxi trong tế bào ruột từ phía niêm mạc sang thanh mạc. Chất đường lactoza làm tăng hấp thu Ca. Ngược lại Na làm giảm khả năng hấp thu Ca).

3.   Chức năng miễn dịch

Ruột non là tạng có khả năng sinh miễn dịch lớn nhất cơ thể do có nhiều tương bào trong đó 80% tiết IgA. Các tế bào miễn dịch này có khả năng sản xuất kháng thể đặc hiệu với kháng nguyên trong ruột và cũng nhờ tiếp xúc với những kháng nguyên này mà các tế bào miễn dịch xuất hiện và phát triển. ở những người chưa bị nhiễm khuẩn ruột chỉ thấy rất ít tế bào tiết IgA, các tế bào xuất hiện dần cùng quá trình nhiễm trùng. Huyết thanh ở trẻ sơ sinh cũng chỉ có IgM do mẹ truyền cho và không có IgA. Trong dịch ruột của trẻ không có globulin miễn dịch nào cả. Phải 15-20 ngày sau sinh tiếp xúc với kháng nguyên các IgA mới xuất hiện trong dịch ruột nhưng chưa có ở huyết tương. Trong 15-20 ngày này nhờ có IgA của sữa mẹ mà các vi khuẩn đường ruột bị sàng lọc, các kháng thể giữ lại các vi khuẩn thích hợp và loại bỏ những vi khuẩn có hại.

Chức năng miễn dịch đường ruột chủ yếu do IgA đảm nhiệm. IgG, IgM có khả năng thay thế một phần cho IgA bị suy giảm. Có sự gắn bó chặt chẽ của tình trạng suy giảm miễn dịch với một số bệnh tiêu hoá có ỉa chảy và kém hấp thu.

Các phương pháp thăm dò ruột non

Lâm sàng

1.   Hỏi bệnh

Hỏi tỉ mỉ về tiền sử bản thân, gia đình, bị bệnh từ khi nào? Ăn uống? Đau bụng? ỉa lỏng? Sức làm việc? Đã dùng thuốc gì? Tiếp xúc với chất độc?

2.   Thăm khám bụng

Da niêm mạc? Răng miệng, rêu lưỡi?, gan lách dạ dày, đại tràng? Khám trực tràng hậu môn? xem phân? vóc dáng cân nặng, trí tuệ so với tuổi?

Thăm khám cận lâm sàng

1.   X quang

Cho uống Baryt theo dõi thuốc xuống ruột non. Tính thời gian xuất hiện Baryt ở ruột non và Baryt tới van Bauhin:

Bình thường: 20-30 phút Baryt bắt đầu tới ruột non.

1giờ- 1giờ 30 phút phần lớn Baryt ở ruột non (không chuyển động) 2 giờ 30 phút- 4giờ Baryt bắt đầu tới manh tràng.

Hình ảnh X quang ruột non: lởm chởm (như lông chim). Thuốc cản X-quang phân phối đều (lòng ruột non có kích thước 2,5-3cm ở các quai ruột trên và 2-2,5cm ở các quai ruột dưới.

2.   Soi và sinh thiết ruột non

  • Soi: chủ yếu soi hỗng tràng, cho biết hình thái đại thể niêm mạc bình thường bệnh lý, các u,
  • Sinh thiết: niêm mạc ruột non, đánh giá độ teo nhung mao trên giải phẫu bệnh học. Laumonnier căn cứ vào tỷ lệ chiều cao của hốc/ chiều cao nhung mao để chia mức độ teo thành 4 mức độ. Bình thường có tỉ lệ: 0,25.

Độ I: tỷ lệ bình thường chỉ thấy tăng tế bào tiết nhầy.

Độ II: tỷ lệ hơn bình thường, vẫn dưới 1, có tăng tế bào nhầy.

Độ III: tỉ lệ lớn hơn 1.

Độ IV: các nhung mao hầu thư dẹt.

3.   Hút dịch nhầy ruột non làm xét nghiệm

Cho bệnh nhân nuốt một ống bằng chất dẻo đường kính khoảng 2mm được tiệt trùng, đầu tận cùng có trọc thủng nhiều lỗ để hút được nhiều dịch. Cần hút dịch ở nhiều đoạn khác nhau để đối chiếu kết quả. Cần định lượng vi khuẩn trong 1ml để có giá trị chẩn đoán,vì bình thường ruột non đã có một số lượng vi khuẩn các loại (người ta tính được: trong nước bọt có: 106- 107/1 ml vi khuẩn. Dịch dạ dày có 10- 103/1ml vi khuẩn. ở hỗng tràng và đoạn trên hỗng tràng có 103- 104/1ml vi khuẩn, đoạn giữa của hồi tràng có 106- 107/1ml vi khuẩn).

4.   Thăm dò chức năng ruột non

a.   Chức năng cơ học

Nghiên cứu hình ảnh X quang ruột non sau “ bữa ăn Baryt”:

  • Tăng vận động ruột non: sau uống Baryt 1h30’ ngấm thuốc ở ruột non ở một vùng rất rộng.
  • Giảm vận động: sau uống Baryt 4h thuốc phân bổ không đều ở ruột non, hình đứt quãng do co thắt, ĐT bắt đầu ngấm chậm.

b.   Chức năng tiêu hoá, hấp thu

– Thăm dò hấp thu LIPIT bằng:

+ Định lượng mỡ trong phân, bình thường bằng 5% lượng mỡ ăn vào (khoảng 70g/24h) nếu tăng hơn là rối loạn hấp thu mỡ.

+ Định lượng vitamin D, E, K (vitamin tan trong mỡ) hàm lượng các vitamin này giảm trong máu chứng tỏ có rối loạn hấp thu mỡ. Với vitaminK giảm thể hiện tỉ lệ protrombin giảm (với điều kiện chức năng gan tốt).

+ Định lượng cholesterol máu giảm.

+ Thăm dò đồng vị phóng xạ: triolein I131… liều 0,16 microcuri/1kg cân nặng hoà trong 30ml dầu hướng dương cho bệnh nhân uống, 1h sau bệnh nhân ăn sáng như bình thường (bữa ăn sáng không có mỡ). Bình thường sau uống mỡ phóng xạ độ, độ phóng xạ trong máu toàn phần tăng lên từ từ tới tối đa 9-12% vào khoảng 4h độ phóng xạ ở phân thải ra trong 72h tương đương: 3-3,5% (máu ít thì phân nhiều). Khi rối loạn hấp thu mỡ chỉ số trên thay đổi. Viêm tuỵ mạn độ phóng xa máu: 3-4% (bình thường 12-13%) và độ phóng xạ phân 31,1% (bình thường: 1,6%).

– Thăm dò hấp thu PROTEIN bằng:

+ Định hướng protein trong máu giảm (bình thường 75-80 g/l).

+ Định lượng Nitơ ở phân sau khi bệnh nhân ăn một chế độ hằng định có 80- 100g protit/24giờ (bình thường có 2/2,5g được thải theo phân/24 giờ). Trong bệnh của ống tiêu hoá thường rất nhiều protit vào ống tiêu hoá. Để đánh giá protit bị xuất tiết vào ống tiêu hoá người ta dùng phương pháp đồng vị phóng xạ với: polivinylpyrolidon I131, hay dùng methionin S35 cùng 10g methionin không phóng xạ với 50-70 microcuri methionin gắn phóng xạ S35 hoà vào 200ml nước uống. Sau đó theo dõi phóng xạ ở máu, nước tiểu, phân riêng từng ngày, trong 5 ngày liền. Dùng công thức xác định hệ số hấp thu:

Cd: nồng độ tối đa khi To.

K= (logCd- log Co)/ T

Co: Nồng độ ban đầu trong máu. T: Thời gian.

Bình thường hệ số K của methionin là: 60-10.

Độ phóng xạ ở nước tiểu 5 ngày là: 50% và ở phân là: 20%.

Bệnh lý: Xơ gan còn bù hấp thu methionin tăng nhanh, hệ số K tăng cao. Xơ gan mất bù hệ số hấp thu methionin giảm.

Viêm ruột non giảm hệ số hấp thu methionin phóng xạ vào máu và tăng thải phóng xạ ra phân.

– Thăm dò chức năng hấp thu GLUCOZA, GLUXIT.

+ Nghiệm pháp tăng đường máu ( dương tính).

+ Nghiệm pháp lactoza (dương tính).

+ Nghiệm pháp xyloza (test au xyloza).

+ ở người bình thường xyloza được hấp thu 100%. Sau khi đái hết, cho bệnh nhân uống 25g xyloza hoà vào 250ml nước. Sau 1-2 giờ cho uống thêm 250ml nước nữa. Sau khi uống xyloza 5 giờ lấy nước tiểu định lượng (bình thường có 4g xyloza). Sau 2 giờ uống lấy máu định lượng (bình thường có 0,3 g xyloza). Nếu lượng xyloza ở máu là nước tiểu ít hơn là nghiệm pháp xyloza (dương tính): chứng tỏ có kém hấp thu gluxit ở đầu ruột non.

– Hấp thu các chất khác:

+ Axit folic: bằng cách định lượng folat máu đơn thuần hoặc bằng folat máu trước và sau ống axit folic.

+ Vitamin B12: nghiệm pháp Schilling dùng vitamin B12  đánh dấu bằng phóng xạ sau uống B12

24h thấy 10% B12  trong nước tiểu. Nếu thấp hơn là nghiệm pháp (dương tính) chứng tỏ kém hấp thu ở ruột non.

+ Định lượng Fe huyết thanh, Hb, kích thước hình dáng hồng cầu.

+ Nghiệm pháp IK:

Lúc đái cho uống 25ctg Iodua Kali trong 50ml nước. Súc miệng sạch lấy nước miếng 5 phút một lần tìm iode. Bình thường sau 5 phút đã thấy IK xuất hiện nếu chậm là nghiêm pháp (dương tính) chứng tỏ kém hấp thu ở ruột non.

Việc thăm dò chức năng ruột non biết được đoạn nào của nó bị tổn thương (xem Hình 2) khó khăn, phức tạp và khá tốn kém. Thực tế trước một bệnh nhân có biểu hiện chứng hấp thu kém người ta phải xét nghiệm cơ bản sau:

  1. Nghiệm pháp xyloza: thăm dò hỗng tràng.
  2. Định lượng mỡ trong phân: thăm dò hỗng tràng.
  3. Định lượng Nitơ trong phân: thăm dò hỗng tràng.
  4. Nghiệm pháp Schilling: thăm dò hồi tràng.
  5. Chụp ruột non bằng “bữa ăn baryt” chức năng vận động.
  6. Sinh thiết niêm mạc ruột non: đánh giá tổn thương.
  7. Xét nghiệm dịch nhầy ruột non: xem vi khuẩn.

Vai trò dinh dưỡng của Ngũ cốc với trẻ em

Gạo

* Giá trị dinh dưỡng.

Trong gạo có:

  • 75 – 80% gluxit
  • 7 – 8% protein
  • Có ít
  • Các muối khoáng: photpho, sắt, canxi (hàm lượng canxi ở gạo rất thấp).

Gạo càng trắng, tỷ lệ protein, vitamin, muối khoáng càng ít. Vì các chất này tập trung phần lớn ở vỏ. Gạo thô chế thành gạo trắng tinh mất đi một số chất sau:

  • Vitamin B mất 70 – 90%.
  • Chất kẽm mất gần hết.
  • Chất sắt mất 55%
  • Chất mangan mất 86%.

Trẻ ăn cơm nấu từ gạo quá tráng mà có ít thức ăn khác thì rất dễ bị tê phù, loét lưỡi vì thiếu vitamin B1, B2; viêm khớp không vận động được. Nếu người mẹ thiếu vitamin B1, trẻ có thể bị suy tim dẫn đến chết đột ngột lúc mới sinh.gạo nếp thơm

Trong 400 – 500g gạo, có 35 – 45g protein. Gạo mới có thể có lượng protein bằng lượng protein trong 20 – 30g thịt, chưa kể đến các chất dinh dưỡng khác. Gạo càng xấu, hàm lượng protein càng giảm.

Gạo cung cấp phần lớn năng lượng cho cơ thể. Cho nên chất lượng gạo quyết định giá trị dinh dưỡng. Cần chú ý chọn gạo kỹ càng.

  • Chú ý khi chọn gạo.
  • Gạo tốt là gạo mới, có mùi thơm, mới xay xát nhưng không trắng quá, còn nguyên hạt.
  • Gạo kém chất lượng là gạo đã để lâu, có mùi hôi, quá trắng làm mất nhiều chất protein, B1. Hạt gạo không tròn, đã mất mầm.
  • Gạo tấm cũng là gạo ít chất dinh dưỡng vì gãy vụn, nát, mất nhiều vitamin B1 và protein.
  • Chú ý khi nấu cơm.

Nấu cơm đúng cách sẽ giảm được thấp nhất lượng hao phí chất dinh dưỡng có trong gạo. cần lưu ý một số điểm sau:

  • Khi vo gạo, không để lâu trong nước, nhặt sạn, thóc trước khi vo.
  • Cần vo nhanh để loại bỏ chất bẩn ở bên ngoài.
  • Không vo kỹ vì làm như vậy sẽ mất rất nhiều vitamin B1, có khi tới 45 – 50%.
  • Nấu nước sôi mới cho gạo vào nấu. Nấu cho vào từ đầu, lượng vitamin B1 bị hao hụt tới 10 – 15%.
  • Cho nước vừa đủ, tránh chắt nước cơm đi để không mất vitamin B1. Nếu không có thể mất tới 60%.
  • Tránh khuấy nhiều lần.

Tóm lại, chọn gạo tốt và nấu đúng cách thì tỉ lệ vitamin B1 chỉ giảm đi khoảng 10%, trái lại có thể mất tới 60 – 70%.

* Một số điểm chú ý khi cho trẻ ăn:

  • Gạo và các lương thực khác chỉ chiếm 50% năng lượng ở trẻ nhỏ.
  • Các bà mẹ nên cho ăn với lượng như sau:

+ Trẻ từ 4 – 10 tháng tuổi : 20 – 40g bột gạo/bữa.

+ Trẻ từ 10 – 15 tháng tuổi : 40 – 50 – 60g bột gạo/bữa.

+ Trẻ từ 15 – 36 tháng tuổi: 60 – 80g gạo/bữa.

+ Trẻ từ  3   – 4 tuổi      :   80 – 100g gạo/bữa.

+ Trẻ từ  4   – 5 tuổi      :   100 – 120g gạo/bữa.

+ Trẻ từ  5   – 6 tuổi      :   120 – 140g gạo/bữa.

Khoai.

Gồm: khoai lang, khoai sọ, khoai tây, củ mài, củ từ… Tất cả loại khoai này đều có ít protein nhưng lại nhiều gluxit.

Khoai cung cấp một số dinh dưỡng sau:

  • Nhiều
  • Muối khoáng
  • Betacaroten (tiền vitamin A).
  • Vitamin c mà ở lương thực không có.
  • Tỷ lệ canxi và photpho nhỏ nhưng cân đối nên có thể dễ hấp thụ.
  • Có nhiều chất xơ (celluloza và semieelluloza).
  • Lượng gluxit nhiều.

100g khoai lang tươi có giá trị dinh dưỡng bằng: 20g bột gạo + 1/4 lòng đỏ trứng gà + 10g rau non.

100g khoai lang tươi có giá trị dinh dưỡng nhiều hơn 30g gạo.

* Một sô điểm cần chú ý khi cho trẻ ăn khoai.

  • Nên cho trẻ ăn bột khoai tây thay thế một phần bột gạo. Vì khoai tây có nhiều tinh bột. ít chất xơ, nên có thể dễ hấp thụ (nhất là khi nhuyễn).
  • Không nên dùng khoai tây dỡ non, vỏ còn xanh, khoai tây đã nảy mầm vì có chất solamm rất độc, có thể gây chết người.
  • Trước khi nấu phải gọt sạch vỏ, loại bỏ mầm và chân mầm.
  • Phải hầm nhừ khoai nếu cho khoai vào nấu cùng bột, cháo.
  • Có thể cho trẻ ăn khoai luộc (không bị mất dinh dưỡng).
  • Có thể làm vài món khoai cho trẻ.
  • Có thể cho trẻ ăn no khoai 1 bữa và bổ sung vào các bữa hác thịt, cá, đậu đỗ…

Các bà mẹ nên chú ý khoai lang dễ sinh hơi nếu ăn không quen có thể gây rối loạn tiêu hoá lúc ban đầu. Khoai sọ có khi gây khó tiêu, tạo cảm giác khó chịu khi chưa quen ăn.

  • Có thể cho trẻ ăn khoai cùng các thực phẩm khác sẽ đem đến giá trị dinh dưỡng cao.

Ngô.

* Giá trị dinh dưỡng.

Trong ngô có lượng protein ít hơn so với gạo vì không đủ axít amin cần thiết.

Ngô có:

  • Protein: 9 – 10%.
  • Gluxit: 60%
  • Lipit: 4 – 5%.

Protein của ngô nghèo lizin và tryptophan. Lipit chủ yếu tập trung ở mầm ngô. Ngô có nhiều vitamin B1, ít vitamin pp và tỷ lệ muối khoáng, photpho, canxi, sắt thấp.

Nếu ăn ngô nhiều rất dễ bị bệnh thiếu vitamin pp.

  • Một số điểm cần chú ý khi ăn ngô:
  • Không ăn ngô bị mốc, vì có độc tố.
  • Không nên cho trẻ quá nhỏ ăn ngô, nên cho trẻ lớn ăn vì ngô là thức ăn khó tiêu hoá.
  • Không nên dùng ngô làm thức ăn chính.
  • Khi nấu phải nấu thật nhừ và ăn thêm các thức ăn khác.

Sắn.

  • Thành phần:

Sắn có ít protein nhất, nghèo vitamin và muôi khoáng, sắn tươi có chất độc nên ăn vào rất dễ gây ngộ độc (gọi là say sắn). Trẻ dưới 3 tuổi ăn một lượng sắn nhỏ tươi cũng có thể gây tử vong. Chất độc sắn thường tập trung ơ vỏ, hai đầu củ, ruột sắn.

* Một số điểm cần chú ý khi ăn sắn:

  • Khi sơ chế nên bỏ vỏ và cắt hai đầu củ.
  • Trước khi nấu nên ngâm khoảng 12 giờ.
  • Loại bỏ bớt chất độc ở sắn bằng cách:

+ Đun sôi rồi gạn bỏ nước sau đó cho thêm nước, tiếp tục đun.

+ Đun kỹ đến khi cạn nước, mở vung để bay hết chất độc.

  • Không nên dùng sắn làm lương thực.
  • Nên ăn sắn với thức ăn giàu protein làm nguồn dinh dưỡng tốt.

Các loại đậu, đỗ.

a) Giá trị dinh dưỡng.

Đậu, đỗ có giá trị dinh dưỡng cao. Trong đó có chứa các chất dinh dưỡng sau:

  • 28 – 30% protein (cao gấp đôi ở thịt nạc).
  • Có vitamin B, C, PP, betacaroten.
  • Các muối khoáng: canxi, sắt,…

Cho năng lượng tương đương với gạo:

100g gạo cho 350 kcal.

100g đậu cho 320 kcal.

Đậu, đỗ bổ sung axít amin tốt cho ngũ cốc. Trong đậu, nhất là đậu khô có rất nhiều canxi. Đó là loại thực phẩm không thể thiếu trong chế độ ăn của trẻ, là nguồn bổ sung dinh dưỡng và năng lượng rất tốt.

b) Những điểm cần chú ý khi ăn đỗ, đậu…

  • Các loại đậu, đỗ ăn vàc đều gây khó tiêu, đầy bụng, không thích hợp lắm cho trẻ từ 1 đến 3 tuổi.
  • Nên sử dụng đậu đỗ dưới dạng bột đậu, sữa đậu nành, đậu phụ… để tránh lâu tiêu.
  • Khi nấu cần hầm kỹ để chất kháng torepxin trong đậu bị phá huỷ, tạo điều kiện để cơ thể dễ hấp thụ.
  • Không nên ăn đậu tương sông vì có thể dẫn đến bướu cổ, tổn thương gan, sụt cân…
  • Nên cho trẻ ăn ít các loại đậu cô ve, đậu ván, đậu mắt cua vì chứa nhiều chất xơ nên độ hấp thụ kém. Nếu cho trẻ ăn thì phải nghiền nát hoặc chế biên thành bột và sô lượng ít.
  • Nên phối hợp thức ăn có nguồn protein động vật với một lượng đậu đỗ thích hợp’.
  • Ăn một lượng đậu đỗ chính là hướng đưa bữa ăn trở nên hợp lý.

Lạc.

Giá trị dinh dưỡng:

Lạc có chứa các chất dinh dưỡng sau:

  • Lipit
  • Các loại vitamin nhóm B, đặc biệt là pp.
  • Các loại muối khoáng: canxi, photpho, kali, natri, magiê…

Cứ 100g lạc có 27g protein và 43,6g lipit. So với đậu đỗ, lạc có nhiều protein hơn nhưng chất lượng lại không bằng.

Những điểm cần lưu ý khi ăn lạc:

  • Có thể cho trẻ trên 4 tháng tuổi ăn bột lạc rang trộn với thức ăn và nấu cháo.
  • Với trẻ dưới 1 tuổi, nên cho ăn 20 – 30g bột lạc rang một ngày.
  • Lạc rất dễ bị mốc, các độc tố ở mốc lạc khi ăn vào có thể gây ung thư. cần bảo quản lạc nơi khô ráo, loại bỏ hạt mốc.
  • Nên ăn phối hợp lạc với vừng sẽ tốt hơn ăn riêng. Tỷ lệ trộn lạc vừng là: 2/1.

Vừng.

Giá trị dinh dưỡng:

Trong vừng có:

  • Methionin – axít amin quý.
  • Giàu chất béo (chiếm 45 – 60%).
  • Có hàm lượng canxi cao: 120mg/100g,
  • Các loại chất khoáng: canxi, sắt, photpho, natri…
  • Các loại vitamin: A, B1; B2,

Cứ 100g vừng cho 560cal:

  • Protein chiếm 18g
  • Chất béo chiếm 48g
  • Chất sắt chiếm 10,4mg
  • Photpho chiếm 616mg
  • Kali chiếm 720mg
  • Natri chiếm 60mg
  • Vitamin A: 30 đơn vị…

Những điểm cần chú ý khi ăn vừng:

  • Nên ăn chung vừng với gạo để nâng giá trị sử dụng hấp thụ protein trong cơ thể.

Hẹp môn vị – Triệu chứng, chẩn đoán, điều trị ngoại khoa

Hẹp môn vị là một trong những biến chứng của loét dạ dày – tá tràng. Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác gây hẹp môn vị như ung thư dạ dày, u tá tràng, u bóng Vater, xâm lấn của u tuy… Đối với trẻ em có một bệnh lý gọi là hẹp phì đại môn vị, có đặc điểm lâm sàng và phương pháp điều trị riêng.

Hẹp môn vị thường có những triệu chứng lâm sàng và X quang điển hình, dễ dàng cho chẩn đoán nhưng đó thường là giai đoạn muộn. Tuy nhiên có thể phát hiện biến chứng hẹp môn vị sớm ở những bệnh nhân bị loét dạ dày – tá tràng lâu năm, mạn tính, không được điều trị một cách đầy đủ.

Điều trị hẹp môn vị chủ yếu là phẫu thuật. Có nhiều phương pháp phẫu thuật điều trị triệt để cũng như điều trị tạm thời.

GIẢI PHẪU BỆNH

Tất cả mọi vị trí của ổ loét dạ dày hay tá tràng, ở gần hay xa môn vị đều có thể gây nên một hẹp môn vị tạm thời hay vĩnh viễn.

  • Ổ loét ở môn vị, gần môn vị, có thể gây nên hẹp tại chỗ. Có những trường hợp đặc biệt là ổ loét nằm ngay ở lỗ môn vị sẽ thể hiện Hội chứng Reichmann.
  • Loét tá tràng: thường là những ổ loét xơ chai ở hành tá tràng gây biến dạng và tạo thành tổn thương chít hẹp, hay tạo thành những túi cùng những ổ loét sau hành tá tràng (Post bulbaire), ổ loét Dl cũng có thể dẫn đến hẹp môn vị.
  • Co thắt: có thể đơn thuần, nhưng thường phối hợp và nặng thêm thương tổn thực thể, có thể tổn thương không gây chít hẹp hoàn toàn mà do co thắt gây hẹp môn vị tạm thời.
  • Viêm nhiễm góp phần quan trọng: có những ổ loét sâu, nhiều tổ chức hoại tử, tình trạng viêm cấp tính do Helicobacter Pylory có thể xảy ra đột ngột làm phù nề vùng hang và môn vị, cản trở sự lưu thông làm cho thức ăn qua đây khó khăn. Co thắt và viêm nhiễm chỉ tạm thời, thường gặp ở những trường hợp ổ loét tiến triển, niêm mạc xung quanh ổ loét phù nề và có thể khỏi hẳn sau một thời gian ngắn điều trị nội khoa.

LÂM SÀNG

Tiền sử

Gần như tất cả các trường hợp đều có triệu chứng của loét dạ dày – tá tràng điều trị nội khoa nhưng không hoàn toàn khỏi bệnh. Các cơn đau tăng lên không đáp ứng với các loại thuốc điều trị.

Cũng có một số ít trường hợp biểu hiện hẹp môn vị cấp tính như trong hội chứng Reichmann với các triệu chứng: đau sớm, đau dữ dội, đau tăng nhanh. Nôn sớm nôn nhiều kèm theo chảy nước bọt nhiều, có khi bệnh nhân phai dùng khăn lau liên tục hoặc dùng bát để hứng.

Giai đoạn đầu

  • Lâm sàng

Đau: thường là đau sau bữa ăn, đau thường về đêm.

Nôn: khi có khi không. Thường là có cảm giác đầy bụng hay buồn nôn.

  • Xquang

Chụp dạ dày sẽ có các dấu hiệu: ứ đọng nhẹ, thuốc vẫn qua môn vị được và cũng có phim thấy môn vị vẫn mở cho thuốc xuống tá tràng bình thường do những co bóp cố gắng của dạ dày, hình ảnh cơ bản và sớm nhất trong giai đoạn này là tăng sóng nhu động, dạ dày co bóp nhiều hơn, mạnh hơn.

  • Nội soi

Soi dạ dày – tá tràng để xác định ổ loét, các biến dạng, co thắt môn vị, phù nề chít hẹp môn vị hay tá tràng. Giai đoạn này thường thấy dạ dày ứ đọng nhẹ, vùng môn vị phù nề, lỗ môn vị co thắt, đưa ống soi hơi khó nhưng vẫn qua được. Hình ảnh ổ loét tiến triển với bò gồ cao, đáy ổ loét khoét sâu, các lớp niêm mạc nề đỏ.

Giai đoạn tiến triển

Lâm sàng

Dấu hiệu cơ năng

  • Đau: đau muộn 2-3 giờ sau khi ăn, đau từng cơn, cuộn bụng, các cơn đau liên tiếp nhau. Vì đau nhiều, nên có khi bệnh nhân không dám ăn, mặc dù rất đói.
  • Nôn: càng ngày càng nhiều. Nôn ra nước ứ đọng màu xanh đen, có thức ăn của bữa cơm mới ăn lẫn với thức ăn bữa cơm trước. Nôn được thì hết đau, cho nên khi vì đau quá bệnh nhân phải được móc họng cho nôn.

Toàn thân

Da xanh, người gây, da khô, mất nước. Do nôn nhiều, ăn uống ít nên thể trạng bệnh nhân gầy sút nhanh, đái ít và táo bón.

Thực thể

  • Óc ách lúc đói: buổi sáng sớm, khi bệnh nhân chưa ăn uống, nếu lắc bụng sẽ nghe rõ tiếng óc ách.
  • Sóng nhu động: những sóng nhu động xuất hiện tự nhiên hay sau khi kích thích bằng cách búng nhẹ lên thành bụng. Sóng bắt đầu từ dưới sườn trái chuyển dần về phía phải, vùng môn vị, đôi khi chú ý có thể nghe thấy tiếng ùng ục kết thúc một sóng nhu động.
  • Dấu hiệu Bouveret: nếu đặt tay lên vùng trên rốn sẽ thấy căng lên từng lúc.

X quang

Khi soi có uống thuốc cản quang sẽ thấy:

  • Hình ảnh tuyết rơi: do những ngụm baryt đầu tiên rơi từ từ qua lớp nước ứ đọng trong dạ dày.
  • Dạ dày giãn lớn: đáy sa thấp, giảm nhu động, tạo thành hình chậu khá rõ. Có 3 mức: dưới là baryt, giữa là nước ứ đọng và trên cùng là túi hơi dạ dày.
  • Sóng nhu động: nhiều và mạnh, chứng tỏ các lớp cơ dạ dày còn tốt. Xen kẽ có đợt dạ dày ì ra không có sóng nhu động. Thuốc không xuống tá tràng hay xuống rất ít.
  • Ứ đọng dày dày: sau 6-12 giờ, nếu chiếu hoặc chụp lại, sẽ thấy thuốc cản quang nằm ứ đọng lại khá nhiều ở dạ dày.

Nội soi

Dạ dày ứ đọng, nhiều dịch màu nâu có cặn thức ăn. Dạ dày giãn, vùng hang môn vị phù nề, lỗ môn vị thắt nhỏ. Đưa ống soi khó qua, phải bơm căng và cố đẩy mối xuống đến tá tràng.

Giai đoạn cuối

Chẩn đoán hẹp môn vị ở giai đoạn này rất dễ dàng với các triệu chứng điển hình.

Lâm sàng

Cơ năng

  • Đau: đau liên tục nhưng nhẹ hơn giai đoạn trên. Cũng có khi không đau hay chỉ đau rất ít.
  • Nôn: ít nôn hơn, nhưng mỗi lần thì ra rất nhiều nước ứ đọng và thức ăn của những bữa ăn trước. Chất nôn có mùi thối. Bệnh nhân thường phải móc họng cho nôn.

Toàn thân

Tình trạng toàn thân suy sụp rõ rệt. Bệnh cảnh của một bệnh nhân mất nước: toàn thân gầy còm, mặt hốc hác, mắt lõm sâu, da khô đét nhăn nheo.

Dấu hiệu thực thể

Dạ dày dãn to, xuống quá mào chậu, có khi chiếm gần hết ổ bụng, bụng trướng không chỉ riêng ở thượng vị mà toàn bụng.

Lắc nghe rõ óc ách lúc đói.

Dạ dày mất hết trương lực, không còn co bóp, mặc dù kích thích cũng không có.

X quang

Các hình ảnh tuyết rơi, dạ dày hình chậu lại càng rõ rệt. Dạ dày không còn sóng nhu động, hay nếu có thì chỉ rất yếu ớt và vô hiệu. Sau 12 – 24 giờ hay hơn nữa baryt vẫn còn đọng ở dạ dày.

Nội soi

Dạ dày dãn to, ứ đọng nhiều dịch nâu, niêm mạc viêm đỏ do ứ đọng, môn vị chít hẹp hoàn toàn, không thể đưa ống soi qua được.

NHỮNG RỐI LOẠN VỀ THỂ DỊCH

Biểu hiện

  • Máu

Có hiện tượng máu cô: Hematocrit thường tăng. Protid trong huyết tương hơi tăng.

  • Điện giải

Clo hạ nhiều

Natri có hạ nhưng ít hơn Clo.

Kali giảm ít.

Dự trữ kiềm tăng vì mất acid (kiềm chuyển hoá).

Azot trong máu tăng, có khi tăng rất nhiều là do: tỷ lệ Clo trong máu hạ thấp: đói thận bị tổn thương, vì tình trạng kiềm làm giảm chức năng thận.

  • Nuớc

Nước mất do nôn, phần lớn được thay thế bằng nước trong khu vực nội tế bào, cho nên khối lượng nước ngoài tế bào hầu như bình thường. Một phần Clo và Kali cũng từ khu vực nội tế bào chuyển qua.

  • Nước tiểu

Bệnh nhân đái ít hơn, trong nước đái tỷ lệ Clo, Natri hạ thấp.

CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán xác định

Dựa vào lâm sàng (cơ năng, thực thể và toàn thân), X quang (soi và chụp dạ dày) nội soi dạ dày và xét nghiệm để chẩn đoán xác định và mức độ nặng nhẹ của hẹp môn vị.

Chẩn đoán phân biệt

  • Viêm teo vùng hang vị

Thường có kèm theo một ổ loét bò cong nhỏ. Teo là do viêm mãn tính vùng này, rất khó điều trị nội khoa khỏi triệt để. Chẩn đoán phải dựa vào nội soi. Vùng hang bị xơ teo, co nhỏ. Có thể có những vết viêm chợt nông và dấu hiệu X quang hình ảnh hang vị co nhỏ, gấp khúc như ngón tay đi găng.

Loại teo đơn thuần không kèm theo ổ loét có thể gặp nhưng rất hiếm, khi soi dạ dày niêm mạc lốm đốm mảng trắng hay bợt màu.

  • Hẹp phì đại cơ môn vị

Xuất hiện ở trẻ nhỏ mới đẻ. Sau vài tuần bình thường xuất hiện nôn. Nôn nhiều, ngày càng tăng dẫn đến rối loạn toàn thân. Trên phim X quang môn vị bị kéo dài như sợi chỉ, phía trên là dạ dày dãn to.

  • Ung thư

Ung thư gây hẹp môn vị chiếm tỷ lệ thứ hai sau ổ loét. Thường là những ung thư vùng hang vị và môn vị.

Hẹp có thể diễn biến từ từ, chậm chạp, nhưng thường thì rất nhanh.

Về các tính chất của hẹp thì ung thư và loét không có gì để phân biệt rõ rệt. Muôn chẩn đoán nguyên nhân, phải căn cứ vào triệu chứng của bệnh.

Triệu chứng lâm sàng

Thường là một bệnh nhân 40-60 tuổi.

Một vài tháng nay ăn uổng không thấy ngon, chán ăn có cảm giác nằng nặng, trướng ở vùng trên rốn. Đau nhè nhẹ, sút cân… hoặc bệnh nhân đến vì một khối u ở vùng trên rốn, khối u còn hay đã mất tính di động.

X quang

Có nhiều hình ảnh khác nhau:

  • Ống môn vị chít hẹp lại thành một đường nhỏ, khúc khuỷu, nham nhở, bò không đều.
  • Vùng hang vị có hình khuyết rõ rệt, môn vị bị kéo lên cao.
  • Bờ cong nhỏ cứng, có khi là một đường thẳng.

Nội soi

Tổn thương là khối u sùi choán toàn bộ vùng hang vị, niêm mạc xung quang cứng, mấp nếp. Hoặc là ổ loét lớn ở bò cong nhỏ, bờ cứng, đáy sâu có nhiêu tô chức hoại tử, lan rộng đến môn vị gây chít hẹp hoàn toàn.

  • Bệnh co thắt tâm vị

Nuôt nghẹn, nghẹn từng lúc, tăng dần và nghẹn liên tục. Nghẹn thường băt đầu là chất lỏng sau đó dần dần thức ăn đặc. Trong hay sau khi ăn, bệnh nhân oẹ rất nhiều giống như nôn.

X quang thấy thực quản dãn to, ở dưới chít hẹp lại, mềm mại, thành hình củ cải, không có túi hơi dạ dày.

Nội soi thấy ứ đọng thức ăn trong thực quản. Thực quản dãn to, tâm vị chít hẹp, co thắt liên tục nhưng niêm mạc mềm mại. Khi soi phải chò cơ tâm vị mở ra mối đưa ống soi xuông dạ dày được.

  • Hẹp tá tràng

Có thể do loét, u hay do túi thừa tá tràng. Tuỳ theo vị trí của tổn thương gây hẹp mà có các biểu hiện khác nhau:

Trên bóng Vater giống như một hẹp môn vị, không thể nào phân biệt được.

Dưới bóng vater:

+ Nôn ra nước vàng (mật – dịch vị).

+ Nôn rất nhiều.

+ Toàn thân suy sụp rất nhanh.

+ X quang xác định được chỗ hẹp, trên đó là hành tá tràng giãn rộng.

+ Nội soi xác định rõ vị trí của hẹp và tổn thương gây hẹp. Sinh thiết có thể xác định loại thương tổn.

  • Tắc ruột cao

Thường gặp trong tắc ruột cao do bã thức ăn, do dây chằng Ladd… Các triệu chứng lâm sàng khó phân biệt, cần phải chụp bụng để xác định mức nước hơi ở quai ruột cao. Nêu khó chẩn đoán có thể nội soi dạ dày – tá tràng.

  • Nguyên nhân thần kinh

Liệt dạ dày do thần kinh: dạ dày không co bóp, ì ra. Các triệu chứng xuất hiện không thường xuyên và bệnh nhân có thể hoàn toàn được hồi phục.

Tăng áp lực nội sọ: do nhiều nguyên nhân gây tăng áp lực nội sọ thể hiện bệnh nhân nôn nhiều, nôn liên tục. Kèm theo có các triệu chứng khác như đau đầu, mắt mờ…

  • Túi mật

Khi túi mật viêm do sỏi, túi mật căng to do tắc mật. Các cơn đau tăng lên đồng thời nôn nhiều, nôn tăng dần. Cơ chế gây nôn có thể:

Do co thắt môn vị.

Do tổn thương thực thể (ít gặp hơn): do các cơ chế sau:

Sỏi túi mật đè iên môn vị.

Viêm nhiễm chung quanh vùng túi mật khi túi mật viêm có mủ.

Viêm vùng môn vị, tá tràng: thành dạ dày và tá tràng dầy lên, cản trở sự lưu thông.

Các triệu chứng của hẹp môn vị mà nguyên nhân ở túi mật không có gì khác, cho nên khi chẩn đoán được nguyên nhân khi có kèm theo các triệu chứng của gan mật, nhưng thực tế cũng rất khó.

Tiền sử: đau vùng gan, rối loạn tiêu hoá kiểu túi mật.

Thực thể: thử nghiệm Murphy dương tính, có khi sờ thấy túi mật to.

X quang rất cần cho chẩn đoán: chụp dạ dày hàng loạt, tìm tổn thương ở dạ dày – tá tràng, chụp đường mật không chuẩn bị và có chuẩn bị bằng các thuốc cản quang.

Nội soi: không thấy thương tổn ở dạ dày – tá tràng.

Siêu âm: xác định sỏi mật, tình trạng túi mật.

  • Tuỵ

Viêm tuy mạn tính thể phì đại.

Ung thư đầu tuỵ.

Các biểu hiện lâm sàng với các triệu chứng của hẹp môn vị, đồng thời có các biêu hiện tắc mật, tắc Wirsung.

ĐIỀU TRỊ

Trước hết phải phân biệt là hẹp cơ năng hay thực thể. Hẹp môn vị cơ năng có chỉ định điều trị nội khoa. Chỉ cần một thời gian điều Irị nội bằng thuốc kháng sinh diệt khuẩn Helicobacter, các thuốc chống co thắt, bệnh sẽ khỏi hẳn, ngược lại hẹp môn vị thực thể là một chỉ định điều trị ngoại khoa.

Nên nhớ rằng một hẹp môn vị thực thế dù ở mức độ nặng cũng không cần phẫu thuật ngay, mà phải kịp thời bồi phụ lại sự thiếu hụt về nước, điện giải và năng lượng cho bệnh nhân.

  • Hồi sức

Đưa lại nước, điện giải, năng lượng, protid căn cứ vào lâm sàng và các xét nghiệm sinh hoá.

Việc bồi phụ nước và điện giải tiến hành trước và cả sau mổ.

  • Chuẩn bị bệnh nhân

Hàng ngày rửa dạ dày thật sạch bằng nước ấm. Dùng ông cao su to (Faucher).

Có thể sau vài lần rửa, bệnh nhân đỡ nôn, ăn uống được, toàn thân tốt hơn.

Có thể phối hợp với các thuốc chống viêm như kháng sinh: collargol, các chất chống co thắt như Buscopan…

  • Điều trị phẫu thuật

Tốt nhất là phẫu thuật cắt đoạn dạ dày, vừa giải quyết được biến chứng hẹp môn vị, vừa giải quyết được nguyên nhân của bệnh loét… Nếu bệnh nhân yếu, tình trạng chung không cho phép, urê huyết cao, ổ loét khó, thì nên nối vị tràng.

Bệnh Horton – bệnh viêm động mạch

  1. Đại cương.

1.1. Khái niệm về bệnh Horton (BH):

Horton là một bệnh viêm động mạch mà khu trú chủ yếu ở động mạch thái dương nông.

Lần đầu tiên, vào năm 1932, bệnh này đã được Horton, T.B.Magath và G.E. Brown mô tả bằng một lâm sàng kèm theo những biến đổi tổ chức học tại thành mạch và đặt tên là bệnh viêm động mạch thái dương (arteritis temporalis).

Từ đó đến nay đã có hàng loạt các công trình nghiên cứu trên nhiều mặt (miễn dịch, dị ứng, hoá – tổ chức, giải phẫu bệnh, lâm sàng, dịch tễ học,v.v…), người ta đã có nhiều hiểu biết mới về Bệnh Horton. Do đó đã có nhiều quan niệm khác nhau về bệnh này.

Hiện nay người ta cho rằng Bệnh Horton không phải là một bệnh riêng của thái dương mà là một bệnh viêm động mạch mang tính chất của hệ động mạch toàn thân, trong đó chỉ có 1/3 trường hợp là quá trình viêm khu trú ở động mạch thái dương nông và các nhánh của động mạch cảnh ngoài.

Nhiều công trình nghiên cứu đã được xác định rằng Bệnh Horton khu trú ở nhiều động mạch của các cơ quan khác nhau trong cơ thể (như các động mạch: não, cảnh, sống – nền, tủy sống, mắt, hàm, lưỡi, chủ, chậu, mạc treo, vành, phổi,…). Do đó biểu hiện lâm sàng của bệnh Horton mang đặc tính rất đa dạng tuỳ theo khu trú bệnh lý.

Tỷ lệ tử vong cao (10%) trong những trường hợp khu trú bệnh tại các động mạch quan trọng của cơ thể.

1.2. Nguyên nhân bệnh sinh:

Từ thời Horton tới nay, đã hình thành nhiều thuyết khác nhau về Bệnh Horton:

Do vi khuẩn đặc hiệu nên xếp BH vào nhóm bệnh u hạt nhiễm khuẩn (Granulome infectieus) (Horton và Frangenheim).

Do dị ứng quá mẫn xếp vào nhóm những bệnh mạch máu do dị ứng (Zeek, Morrison, Abithol).

Bệnh Horton thuộc nhóm bệnh tạo keo (Miehlke…).

Trong mấy năm gần đây, người ta nghiêng nhiều về thuyết Bệnh Horton là một bệnh tự miễn (Sauerbruch, Dorstelman, Engelke và nhiều tác giả khác). Bằng các xét nghiệm miễn dịch – huỳnh quang của mảng sinh thiết động mạch thái dương đã phát hiện thấy những Immunoglobulines (IgG, IgA, IgM) và bổ thể (chủ yếu C3) và đặc biệt còn thấy cả kháng nguyên HBS gợi ý cho một cơ chế của viêm thành mạch do phức hợp miễn dịch lưu hành (vascularrite à immuns complexes circulant) (Espinoza, Bridgeford, III, 1982).

Do virut viêm gan B và Treponema pallidum (Hickstein, Gravelyn Wharton, 1981).

Bệnh Horton xuất hiện chủ yếu ở người da trắng, còn ở những người châu Phi chỉ là trường hợp đặc biệt (Salford, Bernai, 1977).

Do yếu tố di truyền được chứng minh bằng các xét nghiệm di truyền học của hai trẻ sinh đôi mắc Bệnh Horton thể gia đình (Ninet, Gebuhr Gebuhrer, Betuel… 1983).

  1. Tổ chức bệnh học.

+ Bằng kết quả nghiên cứu trên kính hiển vi điện tử, Reinacke và Kwatabara (1969) đã xác định là bệnh BH thuộc nhóm bệnh viêm động mạch lan tràn và hoại tử. Tổn thương tổ chức bệnh lý phần lớn thấy ở khoảng giới hạn giữa bản chun trong (Internal elastic lamina) và phần trong của lớp áo giữa (média) của thành mạch máu. Hình ảnh chủ yếu thấy ở khu vực này là sự phá tung thành từng mảng của bản chun trong dẫn đến hậu quả là sự xuất hiện các tế bào khổng lồ (TBKL), tế bào limpho, tương thực bào (macrophage – plasma cells) tập trung thành từng đám do đó người ta cho rằng có nhiều khả năng những thay đổi bệnh lý đầu tiên khởi phát ở những tế bào cơ trơn là nơi lớp áo giữa và màng nền (Basal membran) của những thớ cơ trơn là nơi tổng hợp chất liệu chun giãn, cũng đã bị tổn thương. Vì vậy, người ta còn gọi Bệnh Horton là bệnh viêm động mạch tế bào khổng lồ (giantcell – arteritis).

+ Năm 1985, công trình nghiên cứu của các tác giả Pháp (X. Proger, Nilet, Boussuge,… 1985) đã xác định được hình ảnh tổn thương tổ chức bệnh lý trong từng giai đoạn của Bệnh Horton.

Giai đoạn Hình ảnh tổ chức bệnh lý
Giai đoạn I hay khởi phát (hiếm). – Cục huyết khối mới, hay không có fibrin.
–  Hoại tử cơ trơn từng ổ.

–  Thân nhiễm viêm điển hình.

–  Tổn thương ở gianh giới màng chun trong.

–  Hoại tử fibrin trong 1/3 trường hợp.

–  Không có tế bào khổng lồ.

Giai đoạn II hạt (thường gặp nhất). –  Cục huyết khối thường xuyên có kèm tổ chức hoa kết mạc.

–  Hoại tử có ở những sợi cơ trơn.

–   Tổn thương ở ranh giới màng chun trong, thâm nhiễm, viêm dày đặc và đa dạng.

–  Tế bào khổng lồ thấy hầu như thường xuyên.

–  Hoại tử fibrin trong 1/3 trường hợp.

–   Viêm mạch máu nuôi dưỡng mạch (Vasovasorium) 1/3 trường hợp.

Giai đoạn III sẹo (hiếm nhưng chẩn đoán khó do có hình ảnh tương tự viêm động mạch tuổi già). –  Cục huyết khối rất thường xuyên và bị tổ chức hoá mạnh.

–  Tổn thương sợi của áo giữa và áo ngoài.

–   Đôi khi có phá huỷ giới hạn của màng chun trong, kèm theo tân tạo mô chun (neogense).

–  Thâm nhiễm viêm kín đáo và rải rác.

–  Tế bào khổng lồ không thường xuyên.

+ Về giải phẫu bệnh lý, bệnh Horton có thể gặp một trong 3 trường hợp sau:

  • Có TBKL ở trong màng chun trong bị tổn thương nhưng không có biến đổi viêm (Fitsch, 1964).
  • Có những biến đổi viêm nhưng không có tế bào khổng lồ (TBKL).
  • Có những biến đổi màng chun trong nhưng không có TBKL và không có biến đổi viêm (Fitsch, 1964; Eulefeld, 1965).

+ Về sự hình thành TBKL:

  • Rienecke và Kuwatsava (1969) đã quan sát qua kính hiển vi điện tử thấy những biến đổi cấu trúc ban đầu của TBKL khu trú trong những sợi cơ trơn của thành mạch.
  • Harison và Kopelman (1955) đã tìm thấy TBKL nằm xa tổ chức chun trong thành mạch.
  • Goder (1966) qua kính hiển vi điện tử đã nhận định thấy TBKL của Bệnh Horton là những tổ chức áp sát nhau.

Đặc tính của TBKL trong Horton là những TBKL do dị vật, khác hẳn với các loại TBKL trong các bệnh khác của mạch máu. Nó khu trú trong vùng lân cận của màng chun trong đã bị phá huỷ tương đối rộng, đa số thuần nhất, hay trong khu vực có những ổ tổ chức hạt, hoặc ở những vùng có sự xâm nhập viêm mãn tính, nhưng không phải là tất cả những vùng mạch máu bị viêm đều có TBKL. Trái lại, trong Horton khi đã thấy TBKL thì bao giờ cũng thấy hình ảnh dị vật biến đổi hay hậu quả của quá trình viêm thành mạch, vì viêm thành mạch là nguyên nhân của sự hình thành TBKL (Fitsch, 1964).

+ Về cơ chế hình thành TBKL: bằng những kết quả do nghiên cứu về hoá tổ chức và tổ chức bệnh lý qua kính hiển vi điện tử, Kuns và Koder (1965) đã nhận xét thấy bên cạnh những hình ảnh màng chun trong bị phá huỷ, tiêu biến đi, lại có những cấu trúc chun mới được hình thành mà về bản chất không có gì khác nhau đặc biệt so với màng chun trong. Chính hậu quả của sự phân huỷ và tổn thương chất chun do viêm đã làm xuất hiện những TBKL kiểu do dị vật với đặc tính thực bào (Fickenbacher, 1971). Người ta còn cho rằng có thể nhiễm chất độc nên chất chun nguyên sinh đã bị tổn hại, khởi đầu là quá trình thoái hoá sợi chun, sau đến tan rã chất chun, rồi được hấp thu trong TBKL (Kirmelstiel, 1952).

+ Về cơ chế hình thành cục huyết khối trong lòng mạch, người ta cho rằng do hậu quả của quá trình viêm thành mạch (vascularrite) nên làm tăng sinh (proliferation) lớp áo trong, gây chít hẹp lòng mạch, tạo điều kiện cho cục huyết khối dần dần hình thành tại khu vực đoạn động mạch hẹp nghẽn đó.

Để giúp cho phân định bệnh Horton với một vài bệnh mạch máu khác, chúng tôi nêu dưới đây bảng phân loại các loại viêm động mạch có tế bào khổng lồ với những đặc điểm khác nhau về lâm sàng và giải phẫu bệnh lý của J. Ninet (1982).

B. Horton B. Takayasu B. Burger
– Giới Nữ + Nam Nữ + nam Nam + Nữ
– Tuổi 60 < 40 < 40
– Yếu tố thuận lợi 0 địa dư Nghiện thuốc lá
– Định khu ưa khu trú của tổn thương động mạch Động mạch thái dương Động mạch chủ và thân động mạch chủ ở trên động mạch chủ Những động mạch và tĩnh mạch ở ngọn các chi
– Vị trí ưu thế của u hạt viêm hay của những tổn thương áo trong, gianh giới màng chun trong áo ngoài ngoại mạc áo trong nội mạc
– Hiện diện của TBKL +++ ++ +
– Mức độ tăng sinh áo trong + +++ ++
– Tần số huyết khối trong lòng mạch +++ + ++
  1. Dịch tễ học.

Cho đến nay, trong y văn thế giới, người ta đã có những nhận xét là Horton thường xảy ra nhiều nhất ở người da trắng, đặc biệt là những người ở xứ Bắc Âu (Scandinaves, Thuỵ điển, Na uy, Đan mạch), hiếm thấy ở người da đen (J.Y. Grolleau và Barrier – 1984, X. Proger, J. Ninet, 1985).

Một số trường hợp bệnh Horton mới được thông báo ở châu Phi, và từ năm 1983 đến nay ở Việt Nam đã có 17 trường hợp BH, đã được điều trị khỏi tại Bệnh viện 103 (Vũ Quang Bích, 1986). Dưới đây xin nêu bảng tóm tắt kết quả nghiên cứu của một số tác giả ở những vùng địa dư khác nhau trên thế giới.

+ ở Thuỵ Điển (Bengtsson BA, Malmvall BS, Acta Med Scand, 1982)

– Số ca hàng năm trên 50 tuổi: 28,6/100.000.

  • Số ca hàng năm trên 80 tuổi: 70/100.000.

+ ở Pháp (Barbier – Loire – Atlantique) năm 1982:

  • Số ca hàng năm trên 55 tuổi: 9,4/100.000.
  • Nguy cơ mắc bệnh nhiều nhất: từ 75 – 80 tuổi.

+ Về đặc điểm giới tính của Bệnh Horton, đối với người cùng tuổi, nhận thấy tỷ lệ mắc ở nữ so với nam là 2/1. Chưa giải thích được nhưng giới nữ bị mắc bệnh Bệnh Horton nhiều hơn hẳn nam là một thực tế lâm sàng mang tính chất cổ điển cho đến bây giờ vẫn đúng như vậy.

+ Về tuổi, từ trước đến nay người ta vẫn cho là bệnh của người già trên 60 tuổi. Nhưng trong những năm gần đây đã có những thông báo về Bệnh Horton ở những người trẻ (NC. Bethlenpalvay, ML. Nuynowita, 1954). Trong số 17 bệnh nhân BH của chúng tôi đã có 11/17 người ở tuổi dưới 50, lại có trường hợp 21 tuổi.

+ Yếu tố di truyền có thể giữ vai trò quan trọng trong Bệnh Horton. Những công trình nghiên cứu các nhóm HLA (A, B và C) ở những bệnh nhân gốc da trắng có kết quả khác nhau, nhưng gần đây những công trình nghiên cứu về vị trí gen HLA – DR đã phát hiện, nói chung có sự tăng cao rất ý nghĩa của gen tương ứng DR 4 ở những bệnh nhân mắc bệnh Horton so với nhóm chứng… Trong y văn người ta đã tả những thể gia đình của 25 ca bệnh Horton, trong đó có một trường hợp của những trẻ sinh đôi đơn trứng.

  1. Lâm sàng.

4.1. Giai đoạn khởi phát bệnh:

Đặc điểm bệnh Horton là khởi phát mang tính quy luật tiến triển kín đáo. Thường rất khó mà có chẩn đoán xác định ngay từ lúc bắt đầu bếu không có nhạy cảm lâm sàng hay sau một lần gặp chỉ có trường hợp chẩn đoán được là khi bắt gặp ngay một biến chứng nguy hiểm về mắt (mù hay suy sụp thị lực đột ngột), đòi hỏi phải được chẩn đoán sớm về xử trí khẩn cấp, nếu không bệnh nhân sẽ phải chịu mang di chứng mù suốt đời, không thể hồi phục được. Vũ Quang Bích đã gặp một trường hợp bị mù đột ngột cả hai mắt đã khỏi hoàn toàn sau một tuần điều trị theo phác đồ bệnh Horton. Rối loạn thị lực lại thường gặp trong khoảng 33 – 35% trường hợp Bệnh Horton và có tới 12% bệnh nhân bị mù hoàn toàn (D. Migone, Mortara). Có tác giả (Hamilton) đã gặp 56% bệnh nhân BH có triệu chứng khởi phát ở mắt. Do đó bệnh này đã được chẩn đoán lúc đầu không phải do chuyên khoa thần kinh mà có tới trên 50% trường hợp là do các thầy thuốc chuyên khoa mắt và nội chung (T. Wyso, Mumenthaler, 1975).

Những triệu chứng về mắt có thể còn biểu hiện ở nhiều dạng khác nhau làm cho người ta dễ có xu hướng đi tới những tổn thương thực thể về thần kinh hoặc về mắt.

Theo thứ tự tần số thường gặp có thể phát hiện được:

  • Phù nề gai thị.
  • Tắc động mạch võng mạc trung tâm.
  • Nhìn đôi.
  • Thị trường thu hẹp.
  • ám điểm trung tâm, đau trong hố mắt.

Một số triệu chứng xuất hiện trong giai đoạn khởi phát, nhất là nhức đầu, thường bị bỏ qua. Chỉ có triệu chứng nhức đầu có thể gợi ý cho bác sỹ hướng về chẩn đoán Bệnh Horton. Còn những triệu chứng toàn thân hoặc những biểu hiện bệnh ở những khu vực khác trong cơ thể thì thường sau này qua hỏi bệnh nhân và khám xét thêm mới xác định được, ví dụ như những triệu chứng về cơ (đau cơ khớp đai vùng thắt lưng, đai vai), toàn thân, hàng đầu là sốt, hội chứng thiếu máu, tăng tốc độ lắng hồng cầu đơn thuần hay có khi có những rối loạn trong xét nghiệm sinh học về gan.

Thời gian chẩn đoán nói chung là chậm, trên thế giới ít nhất là một tháng, còn trong 17 trường hợp của Bệnh viện 103 thì ít nhất là hai tháng và phần lớn là 6 tháng tới trên dưới 1 năm. Về thực hành lâm sàng cho tới nay các tác giả trên thế giới đều xác định một thái độ xử trí thống nhất là trong trường hợp có hướng chẩn đoán lâm sàng nghiêng về bệnh Horton thì không cần thiết phải chờ kết quả sinh thiết động mạch mà phải cho bắt đầu điều trị corticoid rất nhanh để dự phòng những biến chuyển về mắt. Sự cải thiện khả quan tất cả những triệu chứng chủ yếu được coi như một test chẩn đoán thực sự của bệnh.

4.2. Những triệu chứng ở đầu:

  • Nhức đầu là triệu chứng nổi bật của bệnh, giúp cho thầy thuốc phát hiện được bệnh. Bệnh nhân không thể trì hoãn đi chữa bệnh vì không có một loại thuốc giảm đau nào có khả năng làm dịu cơn đau đầu.

Điển hình là nhức đầu vùng thái dương, thường là một bên, đôi khi cả hai bên. Trên một nền đau thường xuyên kiểu tăng cảm, đau cháy của da đầu, đột nhiên xuất hiện cơn đau đầu kịch phát tại một điểm rất chính xác trên đường phân giác 450 giữa đường gọng kính với đường thẳng đứng đi từ ngoài bờ xương ổ mắt, cách bờ ngoài ổ mắt khoảng 3 – 4cm (Vũ Quang Bích, 1986). Cơn đau có thể xuất hiện tự nhiên hay do một kích thích dù chỉ là rất nhẹ như sự đụng chạm của lược chải đầu, gọng kính, đai mũ hay gối đầu. Cơn đau này thường hay xuất hiện về đêm, làm người bệnh mất ngủ, đôi khi đau tăng lên bởi lạnh. Về cường độ đau đầu trong cơn kịch phát có thể nói là rất dữ dội, ghê gớm, buộc bệnh nhân phải lấy tay ôm đầu, vật vã, kêu la, có trường hợp bệnh nhân BH đau đầu một cách mạnh mẽ, cực độ hơn hẳn một bệnh nhân u não đang chờ mổ. Ngược lại, ở những bệnh nhân trong giai đoạn bán cấp, đau đầu mang tính chất nhức buốt kéo dài tại vùng thái dương và đau nhói buốt theo nhịp mạch đập.

Nhức đầu có thể lan tới vùng trán và hốc mắt cùng bên, vùng đỉnh chẩm gáy, có khi lan toả ra những vùng xung quanh.

Thời gian của cơn nhức đầu kịch phát này có thể kéo dài trong 1 – 2, 3 giờ với nhịp điệu cơn trong ngày khác nhau. Thường thường trung bình mỗi ngày xuất hiện 2 – 3 cơn nhức đầu nhưng chúng tôi đã gặp 10/17 trường hợp cơn kéo dài trên 12 tiếng đồng hồ với nhịp điệu cơn xuất hiện hàng ngày.

Những dấu hiệu tại chỗ của động mạch thái dương nông ở một hay hai bên có giá trị chẩn đoán bệnh BH. Trên cơ sở của nền bảng lâm sàng chung, nhất là những đặc điểm của nhức đầu Horton đã mô tả trên đây, nếu khám tỉ mỉ tại vùng thái dương sẽ phát hiện thấy một đoạn vùng động mạch thái dương với màu sắc đỏ tím, thâm nhiễm viêm, ngoằn nghoèo, dầy cứng, ấn đau, gõ đau, sờ thấy động mạch có chỗ cỡ to nhỏ không đều, có những nốt, cục nhỏ, mạch đập yếu hoặc không đập.

ở đầu ngoài động mạch thái dương nông, tổn thương thành mạch có thể khu trú ở một số động mạch khác: động mạch mặt, động mạch sau mắt, động mạch chẩm. Thường gặp hơn trong số động mạch này là động mạch mặt, gây thiếu máu cục bộ ở những cơ nhai, biểu hiện bằng dấu hiệu đặc trưng “khập khiễng hàm” (claudication de la machoire). Đau được khởi phát bởi gắng sức của động tác nhai và giảm dịu hết đau khi ngừng nhai. Đau còn có thể xuất hiện cả khi bệnh nhân nói.

Ngoài ra người ta còn gặp những trường hợp đau lưỡi, nuốt khó do tổn thương những động mạch chi phối các vùng đó.

4.3. Trạng thái toàn thân:

Những biểu hiện trạng thái toàn thân thường gặp và đôi khi trở nên chủ yếu trong bảng lâm sàng BH đó là trạng thái suy nhược, chán ăn, gầy sút, sốt theo nhiều dạng khác nhau, có thể từ hâm hấp sốt tới trạng thái sốt cao kiểu cao nguyên. Thân nhiệt có thể bình thường nhưng ra mồ hôi ban đêm do sốt nhẹ thoảng qua. Cần phải đặt vấn đề nghi ngờ bệnh nhân khi bệnh nhân có trạng thái sốt đơn độc kéo dài mà chưa tìm ra được nguyên nhân gì. Vì vậy nhiều tác giả khuyên rằng cần phải làm sinh thiết chẩn đoán động mạch thái dương cho bệnh nhân trên 60 tuổi, có bảng lâm sàng sốt không giải thích được nguyên nhân. Esposito (1984) đã gặp tới 16% sinh thiết dương tính trong những bệnh nhân sốt đơn tính kéo dài. Tất nhiên cũng cần phải cân nhắc để loại trừ nguyên nhân là những bệnh toàn thân khác có bảng lâm sàng tương tự với những nguyên nhân ẩn.

Ngoài ra còn có những biến đổi về sắc thái, tâm lý có thể làm phức tạp thêm cho chẩn đoán.

+ Giả viêm đa khớp gốc chi (pseudo – polyarthriterhizomelique).

Là dấu hiệu thâm nhiễm viêm ở những cơ đai, nhất là đai vai. Thường là đau cân đối hai bên, có khi buộc bệnh nhân phải nằm liệt giường nhưng không hạn chế vận động các khớp và không có tổn thương xương khớp trên hình ảnh X quang. Tiến triển tự nhiên của tình trạng đau này dần dần sẽ khỏi, ít ra là hai năm. Nhưng trạng thái đau này lại rất nhạy cảm với những thuốc chống viêm không corticoid và corticoid.

Trong khá nhiều trường hợp, viêm đa khớp gốc chi giả này lại hay xuất hiện trước thường kèm theo triệu chứng nhức đầu, cho nên nó được coi như nằm trong khuôn khổ của bệnh Horton thực sự. Sinh thiết động mạch thái dương có kết quả dương tính trong 10 – 50%, tuỳ theo từng trường hợp trong khi chỉ có đơn thuần những triệu chứng đau cơ khớp này.

Có trường hợp xuất hiện đau những khớp ngọn chi nhưng thực tế hiếm gặp hơn.

4.4. Những biểu hiện tổn thương về mắt:

Là những biến chứng chủ yếu, xuất hiện bất ngờ có thể làm mất thị lực nhanh chóng trong vài giờ, biến bệnh Horton thành một cấp cứu nội khoa. Biến chứng nặng nề là bệnh nhân bị mù một bên mắt, sau đó dễ chuyển sang cả hai mắt do nghẽn tắc hoàn toàn và vĩnh viễn động mạch mắt. Biến chứng này có thể xuất hiện ngay thời gian đầu hay sau một thời gian tương đối dài (trung bình khoảng từ 3 – 4 tháng).

Trước khi tiến tới mù, có thể có một số dấu hiệu nhẹ về mắt, do các cơ chế khác nhau (thiếu máu cục bộ của dây thần kinh thị với viêm dây thần kinh thị hậu nhãn cầu, tổn thương những động mạch mi sau ở động mạch mắt, hình thành những nốt, cục do rối loạn thể dịch – nodules dysoriques), huyết khối của tĩnh mạch trung tâm của võng mạc, tổn thương những cơ mắt, tổn thương những dây thần kinh vận động nhãn cầu.

Tuỳ theo mức độ tổn thương động mạch của mỗi khu vực ở mắt mà những dấu hiệu lâm sàng về mắt biểu hiện khác nhau: nhìn đôi (đôi khi sớm), liệt cơ mắt, co đồng tử một bên, mù thoảng qua, ám điểm trung tâm, rối loạn thị trường, màn xương mù, sợ ánh sáng, ảo thị giác… có khi gặp cả phù nề giác mạc.

Tất cả những tổn thương mắt này nếu không được phát hiện và xử lý sớm thì sau này thường rất khó hồi phục. Vì vậy, bao giờ người ta cũng khuyên rằng tất cả những triệu chứng mắt, dù nhẹ hay nặng xảy ra đơn độc ở người cao tuổi thì người thầy thuốc phải có “nhạy cảm lâm sàng” nghĩ tới bệnh Horton.

Trên đây là những triệu chứng chủ yếu thường gặp.

4.5. Những biểu hiện khác của Horton:

Thường hiếm gặp, khó chẩn đoán, rất dễ nhầm với nhiều bệnh khác. Trong y văn đã có nhiều thông báo:

  • Thiếu máu não hay nhồi máu não (hội chứng khu trú thần kinh, rối loạn ý thức, rối loạn tâm thần, tiền đình, ốc tai…).
  • Viêm một hay nhiều dây thần kinh
  • Bệnh Takayasu giả, phồng động mạch chủ, thiểu năng động mạch chủ, động mạch vành..
  • Biểu hiện bệnh phế quản, phổi.
  • Hội chứng về bụng do viêm động mạch mạc treo tràng
  • Viêm động mạch ngoài sọ và trong sọ.
  • Viêm động mạch ở các chi.

4.6. Những thể bệnh dễ bị bỏ sót của bệnh Horton:

Có trường hợp bệnh nhân không có triệu chứng nhức đầu, có một số biểu hiện lâm sàng gợi ý thầy thuốc nghĩ tới bệnh Horton như sau:

  • Suy sụp dần trạng thái toàn thân.
  • Tình trạng sốt đơn thuần kéo dài.
  • J. Barrier đã phát hiện chẩn đoán được BH từ 8 – 16% trong những bệnh nhân trên 60 tuổi bị sốt đơn thuần kéo dài.

Một biến cố về mắt tới nhanh, đôi khi trong chốc lát, mù một phần hay toàn bộ, tương ứng với những tổn thương động mạch võng mạc hay dây thần kinh thị giác. Những rối loạn về mắt này thường hay hiếm được hồi phục nếu không được chẩn đoán sớm và xử lý nhanh.

  • Một tai biến về thần kinh trung ương với những định khu tuỳ thuộc vào những vùng thiếu máu cục bộ khác nhau.
  • Đi khập khiễng cách hồi của chi dưới.
  • Cơn đau thắt hay một tai biến thiếu máu cục bộ ở những cơ quan bộ phận của những ngành lớn hay thân động mạch chủ. Đây là mối đe doạ nguy hiểm tới tính mạng bệnh nhân cần được chú trọng và đề phòng.

Tất cả những thể bệnh trên đây đều chứng minh sự thật về sự lan tràn của quá trình viêm nhiễm động mạch mà Gilmour đã làm sáng tỏ từ năm 1941.

  1. Cận lâm sàng.

5.1. Những xét nghiệm sinh học:

  • Hội chứng viêm:
  • Tốc độ lắng hồng cầu tăng rất cao. Mặc dù có một số trường hợp tốc độ lắng hồng cầu bình thường đã được thông báo, nhất là ở nam giới, còn phần lớn là tăng rất cao, thường bao giờ cũng ở trên mức 50mm và rất hay gặp tới 100mm/giờ thứ nhất. Tốc độ lắng hồng cầu tăng cao đã được coi như một yếu tố chẩn đoán khách quan khá quan trọng, giúp cho chẩn đoán theo dõi tiến triển và đánh giá kết quả điều trị BH. ở đây có một đặc điểm cần đáng lưu ý là tốc độ lắng hồng cầu tăng cao bao giờ cũng kéo dài thêm một thời gian mặc dù tiến triển bệnh đã tốt lên rõ rệt hoặc khỏi.
  • Điện di Protein huyết thanh thường cho kết quả tăng alpha 2 và gama- glubolin, nhưng nó có thể bình thường.
  • Fibrinogene, haptoglobine, orosomucoide thường tăng, nếu giảm xuống về mức bình thường thì được coi như một chỉ tiêu đánh giá khỏi bệnh.
  • Một số xét nghiệm khác có thể biểu hiện những biến đổi bất thường.

+ Thiếu máu kiểu do viêm (đẳng sắc, sắt trong máu thấp) thường xuất hiện sau mấy tháng bệnh tiến triển.

  • Tăng bạch cầu đa nhân trung tính, đôi khi tăng cả loại ưa eosin, tăng tiểu cầu máu.
  • Xét nghiệm gan:

Có những biến đổi bất thường được coi như hậu quả thứ phát của tổn thương động mạch gan. Tăng photphatasealcaline, tăng SGOT, SGPT huyết thanh, ứ BSP. Xét nghiệm tổ chức học không có gì đặc hiệu, thường thường hình ảnh viêm gan kiểu u hạt, thâm nhiễm khoảng cửa lympho – plamocyte, ứ mật trong tế bào gan nhẹ.

  • Những rối loạn đông máu:

Thường hiếm gặp (đông máu rải rác trong lòng mạch, tiêu fibrin).

  • Những rối loạn miễn dịch:

Ngày càng xác định được vai trò quan trọng trong bệnh sinh của bệnh Horton, nhưng chưa thấy có những biến đổi mang tính chất đặc hiệu nào. Một số trường hợp có tăng gamaglobuline trong máu nhiều dòng. T. Sauerburch (1973) đã xét nghiệm thấy ở một trường hợp Horton có những phần của bổ thể (Beta I – A, beta – I – C) và những immunoglobuline G, M, A. Họ cho rằng có những chất kết đọng (sédiment) hoặc sự hình thành tại chỗ từ những phức hợp miễn dịch. Những kháng nguyên nghi ngờ như những hoại tử của lớp áo giữa (media) thành mạch do xơ cứng động mạch, nhiễm virut, nấm (micopiasm) và Rickettsia, xa hơn nữa là do thuốc (sunfonamide) (H. Cravitto, 1959).

Mặc dù chưa phát hiện được những biến đổi có tính đặc hiệu về xét nghiệm miễn dịch, nhưng hiện nay người ta có xu hướng gần như thống nhất xếp bệnh Horton vào loại bệnh tự miễn (Knorring, 1966; T. Sauerbmuch; L.R. espinota; P. Bridgeford, 1982).

5.2. Sinh thiết động mạch có giá trị chẩn đoán quyết định:

Động mạch thái dương là nơi sinh thiết chọn lọc nhất. Thường sinh thiết động mạch ở một bên dưới gây tê tại chỗ, trong buồng phẫu thuật. Trường hợp đặc biệt khi có những biến chứng BH xảy ra ở khu vực khác thì làm sinh thiết ở những động mạch có liên quan trực tiếp. Đoạn sinh thiết phải đủ độ dài, ít nhất là 3cm, để tránh trường hợp âm tính giả, do tổn thương theo đoạn ở đoạn động mạch của bệnh Horton. Trước tiên hãy làm sinh thiết một bên, nếu kết quả sinh thiết động mạch âm tính mà vẫn nghi ngờ chẩn đoán thì có thể làm sinh thiết ở bên đối diện, vì người ta đã có kinh nghiệm rằng: chỉ có 5% trường hợp BH xâm nhập độc nhất chỉ ở một bên. Làm sinh thiết động mạch không gây biến chứng gì, trừ trường hợp do nhiễm khuẩn hay do gây tê tại chỗ. Những tai biến mạch máu não xảy ra sau khi sinh thiết trong những giờ tiếp theo là ngoại lệ. Hình ảnh giải phẫu bệnh lý ở động mạch thái dương trong bệnh BH đều được mô tả kỹ ở những phần trên. Cũng cần nhắc thêm là: nếu một tiêu bản có kết quả âm tính thì cần phải kiên nhẫn làm thêm nhiều đoạn tiêu bản thì mới có quyết định chắc chắn là đoạn động mạch đó có hay không có tổn thương của bệnh Horton.

Để đảm bảo cho sinh thiết “trúng”, nhiều tác giả khuyên nên làm sinh thiết có chọn lọc bằng những phương pháp có hỗ trợ khác như Doppler và chụp động mạch cảnh ngoài.

5.3. Làm Doppler:

Barrier, G. Rotel (1982) đã dùng Doppler để xác định đoạn động mạch có những biến đổi bất thường, đánh giá sự thăng trầm của dòng máu của động mạch mắt, hay để theo dõi tiến triển của bệnh. Tuy nhiên biện pháp Doppler cũng chưa phải đã đủ để đảm bảo chắc chắn phát hiện được tất cả những yếu tố cần thiết.

5.4. Chụp động mạch cảnh ngoài:

Mục đích chụp động mạch cảnh ngoài là để làm “sinh thiết chọn lọc” động mạch thái dương. Đảm bảo cho khả năng “sinh thiết trúng” vào đúng đoạn động mạch thái dương có tổn thương kiểu Horton. Từ khi Gillanders và Elliet đề xuất đã có nhiều tác giả áp dụng có hiệu quả trong những trường hợp BH khó khăn trong chẩn đoán. Người ta tiến hành làm sinh thiết ngay tại đoạn động mạch có hình ảnh X quang hẹp hoặc tắc nghẽn hay có hình thái bất thường.

Trong hoàn cảnh thực tế của Việt Nam thì chỉ nên áp dụng phương pháp này trong chẩn đoán những trường hợp khó khăn, thật cần thiết và được cân nhắc thận trọng vì bệnh nhân phải chịu đựng thêm một thủ thuật nữa.

  1. Điều trị.

  • Corticoid liệu pháp là biện pháp điều trị độc nhất có hiệu quả.

Bằng corticoid liệu pháp những biến chứng nguy hiểm của Bệnh Horton có thể tránh được với điều kiện là phải bắt đầu điều trị nhanh, có khi phải được coi như cấp cứu khi đã xuất hiện những tiến triển về mắt. Chỉ khi nào thị lực mới còn ở mức mất một phần thì corticoid – liệu pháp còn có khả năng hồi phục lại thị lực, nhưng đã mất hoàn toàn thị lực thì khó còn hy vọng đó nữa. Hiệu quả điều trị có tác dụng tức thời ngay. Giảm sốt, giảm đau ngay trong ngày. Những dấu hiệu sinh học viêm nhiễm giảm dần dần và tốc độ lắng hồng cầu được trở lại bình thường trong 1 đến 2 tháng.

Phải cho dùng corticoid hàng ngày, một lần vào buổi sáng, còn phương pháp cách nhật 2 ngày một lần là kém hiệu quả (theo kết quả nghiên cứu của G.G. Hunder, SG. Sheps, GL. Allen, 1975).

  • Liều tấn công: trường hợp vừa cho 0,7mg/kg thể trọng, trường hợp nặng cho 1mg/kg thể trọng/ngày trong 10 – 15 ngày, sau đó sẽ giảm liều xuống dần. Có tác giả ưa dùng liều tấn công tới 1 tháng ngay từ đợt đầu.
  • Liều duy trì: liều lượng và thời gian điều trị duy trì thực ra rất khó xác định. Nó còn tuỳ thuộc vào mức độ nặng nhẹ, thể bệnh và những biến chứng, di chứng còn tồn tại cũng như khả năng chịu đựng của từng bệnh nhân với liệu trình corticoid liệu pháp kéo dài.

Theo nhiều tác giả trên thế giới, thời gian điều trị củng cố thường là 12 tháng, và có thể kéo dài tới 3 năm. Liều duy trì nếu lâm sàng và tốc độ lắng hồng cầu trở lại bình thường thì cho giảm theo từng bậc 5mg/tuần cho tới một liều ngưỡng, tuỳ thuộc từng bệnh nhân. Bắt đầu liều duy trì thường từ 15 – 20mg/ngày rồi giảm dần một cách trải dài.

Trong giai đoạn tấn công, nếu chưa có điều kiện làm sinh thiết ngay thì kết quả đọc sinh thiết cũng không bị ảnh hưởng gì bởi thuốc đã dùng, vì tổn thương bệnh lý tại đoạn động mạch đó sẽ còn tồn tại một thời gian tương đối dài, lâu hơn cả thời điểm bình thường hoá trở lại tốc độ lắng hồng cầu.

Trong 17 trường hợp Bệnh Horton của Bệnh viện 103 phần lớn là ở thể vừa, không có biến chứng nặng về mắt, tiến triển bán cấp trên những bệnh nhân có tuổi trung bình không cao như những bệnh nhân ở các nước phương Tây. Vũ Quang Bích đã áp dụng phương pháp điều trị cho bệnh nhân chỉ đơn thuần có giai đoạn tấn công 30 ngày, không có giai đoạn điều trị củng cố bằng thuốc corticoid, theo một liệu trình 3 biện pháp: cortancyl, kháng sinh (tetracycline) và thắt động mạch thái dương nông kèm sinh thiết.

Với liệu trình như trên, kết quả đã đạt được là khỏi bệnh với mức độ khác nhau là 17/17 trường hợp. Tất cả bệnh nhân đều trở lại được với nghề nghiệp lao động từ trước thời gian mắc bệnh. Theo dõi kết quả lâu dài có hai trường hợp tái phát sau lầm điều trị trước khoảng 1 năm.

Các tác giả thường hay dùng prednisone (cortancyl) hay prednisolone.

– Dapsone Diaulone: từ 1983 một số tác giả (J.Jouquan; Y. Pennec, Diaulon, Mcttier) dã dùng dapsone để điều trị bệnh Horton đạt được kết quả tốt với mục đích dùng thay phiên với corticode và giảm liều corticode trước khi đe doạ có biến chứng cortico – liệu pháp kéo dài.

Trên thực tế lâm sàng dapsone đã kéo theo tình trạng xuất hiện methemoglobulin trong máu. Với liều dapsone trên 100mg/ngày, người ta đã gặp những trường hợp bị thiếu máu huyết tán thực sự. Có tác giả dùng naproxen (naprozine).

Những thuốc chống viêm không sterroide có thể dùng kết hợp với cortico – liệu pháp trong giai đoạn điều trị củng cố.

Trong những trường hợp Bệnh Horton ở những động mạch lớn, có thể cân nhắc dùng những loại thuốc chống đông để dự phòng những tai biến do thiếu máu cục bộ.

Việc sử dụng những loại thuốc ức chế miễn dịch trong điều trị bệnh Horton cho tới nay chưa có tài liệu thông báo.

Thuốc Leunase

Thuốc Leunase
Thuốc Leunase

LEUNASE

bột pha tiêm 10.000 KU: hộp 1 lọ.

 THÀNH PHẦN

cho 1 lọ
L-asparaginase 10.000 KU*
  • 1 đơn vị KU L-asparaginase tương đương với lượng enzym cho ra 1 mmol amoniac/1 phút khi phân hủy L-asparagine ở điều kiện 37oC

DƯỢC LỰC

tả:

  • Đặc tính chung:
Cảm quan pH Giới hạn ASTT
Ống 10.000 KU trắng 6,5-7,5 #1 (dd 2 ml/dd muối)
  • Độ bền vững: dạng tinh thể bền vững với nhiệt, pH, ánh sáng. Khoảng pH bền vững 6,0-8,5.
  • Tính chất lý hóa của hoạt chất:

L-Asparaginase là một enzym bao gồm 4 tiểu phần với tổng cộng 321 amino acid. Tên thông thường: L-asparaginase.

Phân tử lượng: 141.000.

Mô tả: tinh thể hình kim hay hình trụ. Rất tan trong nước, không tan trong methanol, acetone, chloroform.

Tính chất dược lực:

Những nghiên cứu về tác dụng chống tân sản của L-asparaginase được bắt đầu từ bài báo cáo của J.G Kidd vào năm 1953. Bài báo nêu rằng huyết thanh lấy từ chuột lang có thể hiện tác dụng chống tân sản. Vấn đề này được tiếp tục phát triển thêm khi J.D Broome tìm ra rằng hoạt chất gây tác động chính là L-asparaginase.

Leunase inj. là một chế phẩm tiêm chứa L-asparaginase – một enzym phân hủy protein được sản xuất từ chủng E. Coli HAP. Về mặt lâm sàng, Leunase inj. đã được thừa nhận có tác dụng chống lại bệnh bạch cầu cấp tính và bệnh u limphô ác tính.

Dược lý:

  • Tác dụng chống khối u: L-asparaginase có hiệu lực trên bệnh bạch cầu L5178, bệnh sarcôm limphô 6C3HED ở chuột nhắt và bệnh sarcôm 256 ở chuột cố
  • Cơ chế tác động: L-asparaginase gây tác động chống khối u do phân hủy L-asparagine trong huyết tương làm cạn nguồn dinh dưỡng cho việc phát triển tế bào u cần asparagine.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

L-asparaginase khuếch tán kém đến các mô; thời gian bán hủy bao gồm 2 pha và dao động từ 8 đến 30 giờ tùy theo người; 24 giờ sau khi tiêm tĩnh mạch 1.000 KU/kg, nồng độ trong huyết tương được ghi nhận từ 8 đến 20 KU/ml; sau khi tiêm bắp, nồng độ trong huyết tương được ghi nhận thấp hơn 50%.

THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG

Tác động lâm sàng:

Các thử nghiệm lâm sàng được tiến hành chủ yếu trên các dạng ung thư tế bào máu tại 36 bệnh viện ở Nhật Bản.

Kết quả:

Tỉ lệ đạt hiệu quả trị liệu là 57,6% (80/139) đối với trường hợp bệnh bạch cầu cấp, 75,0% (51/68) đối với trường hợp u limphô và 40,8% (29/71) đối với trường hợp bệnh bạch cầu tủy. Tỉ lệ đạt hiệu quả trị liệu đối với trường hợp u limphô ác là 55,8% (7/13) đối với dạng sarcôm tế bào lưới và 68,9% (13/190) đối với dạng sarcôm limphô.

Những phản ứng bất lợi và hậu quả được đánh giá trên 302 trường hợp:

  • Phản ứng nhạy cảm: sốc 6 trường hợp (2,0%), mề đay 17 trường hợp (5,6%).
  • Huyết học: giảm tiểu cầu 20 trường hợp (6,6%), thiếu máu 10 trường hợp (3,3%), dễ chảy máu 4/115 trường hợp (3,5%), giảm bạch cầu 14 trường hợp (4,6%).
  • Gan: tăng amoniac huyết 12/96 (12,5%), hạ protein huyết 43/112 (38,4%), tăng nồng độ albumin huyết 20/96 (20,8%), tăng nồng độ fibrinogen huyết 23/124 (18,5%).
  • Thận: phù 10 trường hợp (3,3%), tăng BUN 3 trường hợp (1,0%).
  • Tụy: hoại tử đảo Langerhands 1/103 (0,91%), tăng amylase huyết tương 1 trường hợp (0,3%).
  • Thần kinh não: rối loạn chức năng não (kể cả rối loạn chức năng cơ quan) 5 trường hợp (1,7%), co giật 6 trường hợp (2%).
  • Tiêu hóa: buồn nôn 103 trường hợp (34,1%), ói mửa 89 trường hợp (29,5%), biếng ăn 63 trường hợp (20,9%).
  • Tác động khác: sốt 43 trường hợp (14,2%), khó chịu 28 trường hợp (9,3%).

THỬ NGHIỆM PHI LÂM SÀNG

Độc tính cấp: LD50 (x104 KU/kg)

I.V. I.P. S.C.
Chuột nhắt 95,7 240,0 210,0
Chuột cống 33,3 36,1 36,1

Độc tính mạn:

Tiêm phúc mạc cho chuột với liều 500-91.000 KU/kg trong 6 tháng, chán ăn và chậm tăng trưởng được nhận thấy ở giai đoạn đầu của thí nghiệm; sung huyết và phù ở lá lách, thoái hóa mỡ và sung huyết ở gan, sung huyết và hư thận, hư thận và thoái hóa tinh trùng ở tinh hoàn đã được quan sát thấy không phụ thuộc liều.

Gây dị dạng:

Tiêm tĩnh mạch chuột nhắt và tiêm phúc mạc chuột cống ở liều 1.000 KU/kg hoặc hơn, chậm tăng trưởng, dễ tử vong, thoát vị não, bất thường ở đốt sống ngực và xương sườn, chậm tạo xương được quan sát thấy.

CHỈ ĐỊNH

Bệnh bạch cầu cấp tính (gồm cả trường hợp mạn tính chuyển thể cấp tính), u limphô ác tính.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Tránh sử dụng cho những bệnh nhân có tiền sử dị ứng với L-asparaginase.

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG và THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Chú ý đề phòng:

  • Viêm tụy cấp có thể xảy Cần theo dõi bệnh nhân cẩn thận. Nếu có những triệu chứng như đau bụng, nôn, tăng enzym tụy như amylase, phải ngưng thuốc và xử trí thích hợp.

Tiểu đường nặng có thể xảy ra. Cần theo dõi bệnh nhân cẩn thận trong quá trình trị liệu. Nếu có những triệu chứng như khô miệng khát nước, đa niệu, phải ngưng trị liệu và xử trí thích hợp.

  • Leunase có thể gây những phản ứng bất lợi như suy tủy xương, vì vậy, cần theo dõi thường xuyên những xét nghiệm về huyết học, xét nghiệm chức năng gan thận…, nếu có hiện tượng bất thường, phải giảm liều hoặc ngưng thuốc. Việc trị liệu trong thời gian dài cần phải được thực hiện với sự theo dõi kỹ lưỡng do những phản ứng bất lợi trên có thể rất nghiêm trọng và kéo dài.
  • Cần chú ý đặc biệt đến sự xuất hiện hay sự trầm trọng thêm của các khả năng nhiễm khuẩn và xuất huyết
  • Thận trọng khi trị liệu cho trẻ em, theo dõi những biểu hiện ban đầu có thể dẫn đến những phản ứng bất lợi
  • Việc trị liệu cho trẻ em và những bệnh nhân còn khả năng sinh sản cần phải thận trọng vì có sự ảnh hưởng lên cơ quan sinh dục

Thận trọng lúc dùng:

Cần thận trọng trong những trường hợp sau:

  • Viêm tụy hay có tiền sử viêm tụy (làm trầm trọng thêm hoặc gây tái phát).
  • Rối loạn chức năng gan (tăng amoniac huyết có thể dễ dàng xảy ra).
  • Rối loạn chức năng thận (tăng nitơ huyết có thể xảy ra).
  • Suy tủy (làm trầm trọng thêm).
  • Đang mắc những bệnh nhiễm khuẩn (sự nhiễm khuẩn có thể trầm trọng hơn vì suy tủy).
  • Đang mắc bệnh thủy đậu (có thể gây rối loạn toàn thân, nguy cơ tử vong).

Lưu ý khi sử dụng:

  • Trước khi sử dụng: 0,1 ml nước muối sinh lý chứa 1-10 KU Leunase tiêm dưới da và theo dõi bệnh nhân trong 30 phút đến 1 giờ để phát hiện những phản ứng bất thường nếu có.

Sử dụng ngay sau khi pha.

  • Đường sử dụng: Leunase chỉ được sử dụng bằng cách truyền tĩnh mạch nhỏ giọt.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

L-asparaginase đã được báo cáo là có thể gây quái thai ở động vật thí nghiệm. Do đó, không nên sử dụng cho phụ nữ có thai hay nghi ngờ có thai.

Chưa có kết luận về sự an toàn trong thời kỳ cho con bú. Tốt hơn cả, nên ngưng cho con bú nếu bệnh nhân cần trị liệu.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Trong nhiều trường hợp, thuốc được sử dụng kết hợp với những thuốc ung thư khác và gây nên tác dụng hợp lực. Tuy nhiên, cần có những lưu ý đặc biệt đến khả năng xảy ra những phản ứng phụ và phải nghiêm ngặt tuân theo liều chỉ định.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Dạng nặng:

  • Sốc: triệu chứng sốc có thể xảy Khi gặp bất cứ dấu hiệu nào như lơ mơ, co giật, hạ huyết áp, ớn lạnh, sốt, nôn mửa, phải ngưng thuốc lập tức và xử trí thích hợp.
  • Những rối loạn nghiêm trọng về đông máu (tăng Fibrinogen, Plasminogen, AT-III, Protein …) như xuất huyết não, nhồi máu não, xuất huyết phổi có thể xảy ra. Cần theo dõi thường xuyên bằng các xét nghiệm cận lâm sàng trong quá trình trị liệu. Nếu có những bất thường xảy ra, phải ngưng thuốc và xử trí thích hợp.
  • Viêm tụy cấp: do có thể xảy ra viêm tụy cấp, cần theo dõi bệnh nhân cẩn thậ Nếu có bất cứ triệu chứng nào như đau bụng, nôn mửa, tăng enzym tụy như amylase, cần ngưng thuốc và xử trí thích hợp.

Viêm tụy cấp có thể làm rối loạn chức năng bài tiết của tuyến tụy (hoại tử đảo Langerhans) gây tiểu đường. Cần theo dõi bệnh nhân cẩn thận. Nếu có bất cứ triệu chứng nào như khô miệng, khát nước, đa niệu, cần ngưng thuốc và xử trí thích hợp.

  • Tăng amoniac huyết: gây rối loạn khả năng ý thứ Cần theo dõi bệnh nhân cẩn thận bằng những xét nghiệm định kỳ. Nếu có những bất thường nào xảy ra, cần ngưng thuốc và xử trí thích hợp.
  • Hôn mê: có thể xảy ra hôn mê, rối loạn ý thức, mất định hướ Cần theo dõi bệnh nhân cẩn thận. Nếu có những triệu chứng bất thường xảy ra, cần ngưng thuốc và xử trí thích hợp.
  • Rối loạn tổ chức não: tử vong đã từng được ghi nhận vì có sự rối loạn tổ chức não ở diện rộng

Những phản ứng bất lợi khác:

  • Mẫn cảm: các phản ứng mẫn cảm như nổi ban
  • Huyết học: giảm tiểu cầu, thiếu máu…
  • Gan: rối loạn chức năng gan, gan ứ mỡ…
  • Thận: protein niệu, thiểu niệu, nitơ huyết, phù.
  • Tiêu hóa: biếng ăn, buồn nôn, ói mửa, tiêu chảy
  • Tâm thần: khó chịu, đau đầu, ngủ gà, lo lắng
  • Triệu chứng khác: sốt, đau mạch, gây bất thường trong sự dung nạp đường, tăng lipid huyết

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Liều lượng:

Thông thường, truyền tĩnh mạch 50-200 KU/1 kg/1 ngày, điều trị mỗi ngày hay cách ngày. Liều này có thể điều chỉnh tùy theo tuổi tác và thể trạng lâm sàng.

Cách dùng:

Leunase inj. được hòa tan bằng 2-5 ml nước cất pha tiêm. Sau đó, pha loãng bằng 200-500 ml dịch truyền và sử dụng.

QUÁ LIỀU

Sự quá liều có thể gây ra những phản ứng phụ nghiêm trọng như suy giảm chức năng tủy xương mà có thể đề phòng tránh được. Trong trường hợp thiếu chất giải độc chuyên biệt, dùng một lượng lớn thuốc có nhóm SH như vitamine B2, B6, C và glutation sẽ có tác dụng bất hoạt thuốc nhờ tăng tốc quá trình chuyển hóa phân hủy.

BẢO QUẢN

Hạn dùng: 2 năm (sử dụng trước hạn ghi trên nhãn). Bảo quản ở nhiệt độ mát (dưới 15oC).

Chỉ thực

Chỉ thực
Chỉ thực

CHỈ THỰC

Tên gọi:

Chỉ có nghĩa là tên cây, thực là quả, nên gọi là Chỉ thực.

Tên Việt Nam:

Trấp, Chấp, Kim quất, Khổ chanh, Chỉ thiệt, trái non của quả Trấp.

Tên Hán Việt khác:

Đổng đình, Niêm thích, Phá hông chùy, Chùy hông phích lịch (Hòa Hán dược khảo).

Tên khoa học:

Fructus ponciri Immaturi, Fructus aurantii Immaturi

Họ khoa học:

Thuộc họ Cam (Rutaceae).

Mô tả:

Chỉ thực là quả trấp hái vào lúc còn non nhỏ của cây Citrus Hystric D.C cây nhỡ rậm lá, có gai dài. Lá đơn mọc so le, hình bầu dục, dài 7-10cm. Hoa năm cánh trắng, thơm. Quả có vỏ sù sì, màu vàng nhạt, vỏ dày, vị đắng nhiều hạt (Xem thêm Chỉ xác).

Phân biệt:

  • Chỉ thực và Chỉ xác đều là quả phơi khô của hơn 10 cây của chi Citrus và Poncirus học Cam (Rutaceae) nhưng thu hái ở hai thời kỳ khác Chưa xác định được tên chính xác. Ở Trung Quốc còn dùng Chỉ thực hoặc Chỉ xác với nhiều cây khác nhau như cây Câu kết, Chỉ (Poncirus trifolia Raf), cây Hương viên (Citrus wilsonii Tanaka), cây Toàn đăng hay Câu đầu đăng, Bì đầu đăng (Citrus aurantiumL) cây Đại đại hoa (Citrus aurantium L Var Amara Engl). Có nơi còn dùng quả Bưởi non (Citrus grandis Osbeck) bổ đôi, phơi khô để làm Chỉ thực và Chỉ xác.
  • Chỉ thực gồm các quả nguyên hình cầu và quả bổ đôi hình bán cầu, đó là quả nguyên đường kính 0,5-1cm, vỏ ngoài màu nâu đen, có vết tích của cuống quả, bên phía đối diện có một chấm nhỏ lồi là vết tích vòi nhụy đã rụ Quả bổ đôi đường kính 0,5-1cm, vỏ ngoài màu nâu đen, có vết tích của cuống quả, bên phía đối diện có một chấm nhỏ lồi là vết tích vòi nhụy đã rụng. Quả bổ đôi đường kính 1-1,5cm. Mắt cắt ngang có một vòng vỏ quả ngoài mỏng, màu nâu, sát vỏ có các túi tinh dầu lỗ chỗ, một lớp cùi màu gà vàng hoặc vàng nâu nhạt, hơi lồi lên, giữa là ruột màu đen nâu, có những múi hình tia nan hoa bánh xe. Có chất cứng chắc, vị đắng chát, mùi thơm nhẹ.

Địa lý:

Cây mọc hoang ở Nghệ Tĩnh, Cao lạng, Hà Bắc, Thanh Hóa.

Thu hái, sơ chế: Vào tháng 4-6 lúc trời khô ráo, thu nhặt các quả non rụng dưới gốc cây thì được Chỉ thực. Dùng quả có đường kính dưới 1cm thì để nguyên, quả có đường kính trên 1cm thì bổ đôi theo chiều ngang, khi dùng rửa sạch đất bụi, ủ mềm, xắt lát hay bào mỏng, sao giòn.

Phần dùng làm thuốc: Quả non rụng phơi khô.

Mô tả dược liệu:

Chỉ thực gồm các quả nguyên hình cầu và quả bổ đôi hình bán cầu. Quả nguyên

đường kính 0,5-1cm, vỏ ngoài màu nâu đen, có vết tích của cuống quả, bên phía đối diện có một chấm nhỏ lồi là vết tích vòi nhụy đã rụng. Quả bổ đôi đường kính 1-1,5cm. Mặt cắt ngang có một vòng vỏ quả ngoài mỏng, màu nâu, sát vỏ có một vòng vỏ quả ngoài mỏng, màu nâu, sát vỏ có một túi tinh dầu lỗ chỗ, một lớp cùi màu ngà vàng hoặc vàng nâu nhạt, hơi lồi lên, giữa là ruột màu đen nâu, có những múi hình tia nan hoa bánh xe. Chất cứng chắc, vị đắng mát, mùi thơm nhẹ. Nếu loại vỏ mỏng là Cẩu quất (quít). Dùng thứ quả gần chín, còn xanh vỏ, đã bổ đôi,

cùi càng dầy càng tốt, mùi thơm, ruột bé trắng ngà, để lâu năm cứng chắc không ẩm mốc là tốt. Quả nhỏ, vỏ dày, trong đặc, chắc, nhiều thịt, nhỏ ruột không mốc, mọt là tốt. Thứ to nhiều ruột là xấu.

Loại sản xuất ở Tứ Xuyên vỏ ngoài màu xanh lục, mặt trong màu trắng vàng, dày vỏ, cứng, mùi thơm hơi đắng lá thượng phẩm.

Loại sản xuất ở Giang Tây màu hơi đen có dạng nốt ruồi lồi lên, thịt nỏ dày cứng chắc, mùi nồng nặc cũng tốt. Loại sản xuất ở Giang Tô vỏ ngoài mau xanh lục đậm, hơi vàng, thô hơn, chất nhẹ, mùi vị nhẹ, xấu hơn.

Bào chế:

Giấp nước vào cho mềm, moi bỏ các múi và hạt ở trong rồi xắt nhỏ phơi khô sao với gạo nếp hoặc cám (rồi bỏ cám đi), có khi sao cháy tồn tính rồi tán bột.

Cách dùng:

Sao dòn có tác dụng tiêu tích, hạ khí, trừ đàm giúp tiêu hóa, sao tồn tính có tác dụng cầm máu. Chỉ thực để lâu năm càng tốt.

Bảo quản:

Để nơi khô ráo, tránh ẩm.

Thành phần hóa học:

+ Hesperidin, Neohesperidin, Naringin (R F Albach và cộng sự, Phytochemistry 1969, 8 (1): 127).

+ Synephrine, N-Methyltyramine (Hà Triều Thanh, Trung Dược Chí 1981, 12 (8): 345).

+ Vỏ quả chứa chất dầu 0,469%, trong đó có a-Pinene, Limonene, Camphene, g- Terpinene, p-Cymene, Caryophyllene (Nobile Luciano và cộng sự, C A 1969, 70: 31620b).

Tác Dụng Dược Lý:

Chỉ thực và Chỉ xác đều có tác dụng cường tim, tăng huyết áp do thành phần chủ yếu là Neohesperidin nhưng không làm tăng nhịp tim. Thuốc có tác dụng co mạch, tăng lực cản của tuần hoàn ngoại vi, tăng co bóp của cơ tim, tăng lượng cGMP của cơ tim và huyết tương nơi chuột nhắt. Chỉ thực còn có tác dụng tăng lưu lượng máu của động mạch vành, não và thận, nhưng máu của động mạch đùi lại giảm (Trung Dược Học).

+ Nước sắc Chỉ thực và Chỉ xác đều có tác dụng ức chế cơ trơn ruột cô lập của chuột nhắt, chuột lang và thỏ, nhưng đối với chó đã được gây rò dạ dày và ruột thì thuốc lại có tác dụng hưng phấn làm cho nhịp co bóp của ruột và dạ dày tăng. Đó cũng là cơ sở dược lý của thuốc dùng để trị chứng dạ dày sa xuống, dạ dày gĩan, lòi dom, sa trực trường… Kết quả thực nghiệm cho thấy Chỉ thực và Chỉ xác vừa có tác dụng làm giảm trương lực cơ trơn của ruột và chống co thắt, vừa có thể hưng phấn làm tăng nhu động ruột, do trạng thái chức năng cơ thể, nồng độ thuốc và súc vật thực nghiệm khác nhau mà có tác dụng cả hai mặt ngược nhau, như vậy dùng thuốc để điều chỉnh sự rối loạn chức năng đường tiêu hóa ở trạng thái bệnh lý là tốt (Trung Dược Học).

+ Nước sắc Chỉ thực và Chỉ xác có tác dụng hưng phấn rõ rệt đối với tử cung thỏ có thai hoặc chưa có thai, cô lập hoặc không, nhưng đối với tử cung chuột nhắt cô lập lại có tác dụng ức chế.tác dụng hưng phấn tử cung của thuốc phù hợp với kết quả điều trị chứng tử cung sa có kết quả trên lâm sàng (Trung Dược Học).

+ Chỉ thực có tác dụng lợi tiểu, chống dị ứng. Chất Glucozit của Chỉ thực có tác dụng như Vitamin P làm giảm tính thẩm thấu của mao mạch (Trung Dược Học).

Tác dụng:

+ Tả đờm, hoạt khiếu, tả khí (Bản Thảo Diễn Nghĩa).

+ Tả Vị thực, khai đạo kiên kết, tiêu đờm tích, khứ đình thủy, thông tiện bí, phá kết hung (Dược Phẩm Hóa Nghĩa).

+ Hành khí trệ, tan đờm, dẫn khí xuống qua đường đại tiện (Trung Dược Học).

+ Phá khí, tiêu tính, đồng thời có tác dụng tả đàm, trừ bỉ tích, hành khí (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Tính vị:

+ Vị đắng, tính hàn (Bản Kinh).

+ Vị chua, hơi hàn, không độc (Biệt Lục).

+ Vị đắng, cay (Dược Tính Bản Thảo).

+ Vị đắng, tính hơi hàn (Trung Dược Học).

+ Vị đắng, tính hơi lạnh. (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Quy kinh:

+ Vào kinh Vị, Tỳ (Bản Thảo Kinh Sơ).

+ Vào kinh Tâm Tỳ (Lôi Công Bào Chế Dược tính Giải).

+ Vào kinh Can, Tỳ (Bản Thảo Tái Tân).

+ Vào kinh tỳ, Vị (Trung Dược Học).

+ Vào kinh tỳ, Vị (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Chủ trị:

+ Trị ngực bụng căng đầy, thực tích đàm trệ, đại tiện không thông (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Liều dùng: Dùng từ 4 – 12g.

Kiêng kỵ:

+ Tỳ Vị hư yếu, phụ nữ có thai, không nên dùng (Trung Dược Học).

+ Không có khí trệ thực tà, tỳ vị hư hàn mà không có thấp và tích trệ thì cấm dùng: Sức yếu và đàn bà có thai nên thận trọng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Đơn thuốc kinh nghiệm

+ Trị ngực đau tức, đau cứng dưới tim, đau xóc dưới sườn lên tim: Chỉ thực (lâu năm) 4 trái, Hậu phác 120g, Phỉ bạch 240g, Qua lâu 1 trái, Quế 30g, nước 5 thăng. Trước hết sắc Chỉ thực, Hậu phác, lấy nước bỏ bã, xong cho các thứ thuốc khác vào sắc, chia làm 3 lần uống (Chỉ Thực Phỉ Bạch Thang – Kim Quỹ Yếu Lược Phương).

+ Trị đau nhức trong ngực (Hung tý thống): Chỉ thực tán bột uống với nước lần 12g, ngày 3 lần, đêm 1 lần (Trửu Hậu Phương).

+ Trị bôn đồn khí thống: Chỉ thực sao, tán bột, mỗi lần uống 12g, ngày 3 lần, đêm 1 lần (Ngoại Đài Bí Yếu).

+ Trị phong chẩn ngoài da: Chỉ thực tẩm giấm, sao, chườm vào (Ngoại Đài Bí Yếu).

+ Trị sa trực trường do lỵ: Chỉ thực, mài trên đá cho nhẵn, rồi sao với mật ong cho vàng, chườm vào cho đến khi rút lên (Thiên Kim Phương).

+ Trị trẻ nhỏ lở đầu: Chỉ thực đốt cháy, trộn mỡ heo bôi vào (Thánh Huệ Phương).

+ Trị ngực đau do thương hàn, sau khi đau bụng hàn giữa ngực bỗng nhiên đau ngột: Chỉ thực sao với cám, tán bột, mỗi lần uống 8g, ngày 2 lần (Tế Sinh Phương).

+ Trị sinh xong bụng đau: Chỉ thực sao cám, Thược dược sao rượu, mỗi thứ 8g, sắc uống hoặc tán bột uống (Tế Sinh Phương)

+ Trị âm hộ sưng đau cứng: Chỉ thực 240g, gĩa nát, sao, gói trong bao vải, chườm lên chỗ đau, khi nguội sao chườm tiếp (Tử Mẫu Bí Lục Phương).

+ Trị táo bón: Chỉ thực, Tạo giáp 2 vị bằng nhau, tán bột, trộn với hồ bột làm thành viên uống (Thế Y Đắc Hiệu Phương).

+ Trị trẻ nhỏ bị các loại trĩ kinh niên: Chỉ thực tán bột, luyện với mật ong làm viên to bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 30 viên lúc đói (Tập Nghiệm Phương).

+ Chỉ thực kết hợp với Tam lăng, Nga truật, Thanh bì, Bình lang có tác dụng mòn tiêu tích khối cứng chắc, nhưng chỉ dùng cho những người tỳ vị mạnh, ăn được còn sức khỏe (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị trường vị tích nhiệt, bụng căng đầy, táo bón: Chỉ thực, Bạch truật, Phục linh, Thần khúc, Trạch tả, Đại hoàng mỗi thứ 12g, Hoàng liên 4g, Sinh khương 8g, Hoàng cầm 8g. Tán bột làm viên hoặc sắc uống (Chỉ Thực Đạo Trệ Hoàn – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị khí huyết tích trệ sau khi sinh, đau bụng, đầy tức không yên: Chỉ thực 12g, Bạch thược 12g, tán bột hoặc sắc uống (Chỉ Thực Thược Dược Tán – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị tức ngực, bụng đầy, tiêu hóa kém: Chỉ thực, Bạch truật, mỗi thứ 12g sắc uống (Chỉ Truật Thang – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị đầy tức dưới tim, ăn uống không ngon, tinh thần mệt mỏi, hoặc tiêu hóa

k m, đại tiện không thoải mái: Chỉ thực, Hoàng liên, mỗi thứ 20g, Hậu phác 16g, Can khương 4g, Chích cam thảo, Mạch nha, Phục linh, Bạch truật, mỗi thứ 8g, Bán hạ khúc, Nhân sâm, mỗi thứ 12g, tán bột, làm thành viên. Mỗi lần uống 2-12g, ngày 3 lần (Chỉ Truật Thang – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Tham khảo:

Cây Trấp còn cho rễ cây gọi là “Chỉ thụ căn bì” dùng ngâm rượu súc miệng để trị đau răng rất hay, hoặc dùng vỏ rễ nấu nước sắc uống trị chứng tiêu ra máu (Bản Thảo Thập Di).

Cạo lấy vỏ rễ cây, vỏ non trong cây, vỏ cành gọi là ‘Chỉ thụ nhự’ thân cây và vỏ trị thủng húp, bạo phong đau nhức khớp xương. Nó chữa được chứng trúng phong liệt, méo miệng, trong lúc chưa dùng thuốc gì nên cạo lấy vỏ da cây ngâm với rượu 1 đêm khi uống hâm nóng (Bản Thảo Đồ Kinh).

Muốn khai khí giữa ngực thì dùng Chỉ xác, khai khí ở dưới bụng thì dùng Chỉ thực. Chữa khí trệ thì dùng Chỉ xác, chữa khí kết thì dùng Chỉ thực. Duy cổ ngữ có nói Chỉ xác trị khí, Chỉ thực trị huyết, nhưng x ét ra khí hành thì huyết thông, 2 vị đều là thuốc lợi khí chứ không phải là thuốc thông huyết. Cho nên dùng Chỉ thực với Bạch truật thì điều hòa được Tỳ mà dùng với Đại hoàng thì thúc đẩy được khí. Nếu người khí hư trướng mà dùng Chỉ thực thì không khác gì ôm củi mà chữa cháy (Bản Thảo Cầu Chân).

Chỉ thực vị đắng, cay, chua, hơi hàn, không độc, nhập vào kinh Túc dương minh và Túc thái âm. Tính phù mà lại giáng xuống, hoàn toàn là dương dược, quả nhỏ mà tính mạnh, chữa phần dưới nhanh chóng, chủ về huyết. Phàm chứng ngực bụng bị đẩy trướng, phiền muộn, chất ăn cũ tích tụ, đờm đặc tích huyết, thì nó có công khai thông phá kết mau chóng, làm cho đổ vách xuyên tường. Dùng với Bạch truật trị chứng bỉ thuộc hư, nhưng tính nó dữ tợn, sức nó mạnh, người không có đình trệ kiêm tích thì chớ có dùng bừa bãi mà hại tới nguyên khí. Ông Vương Hải Tàng nói: bổ khí thì lấy Sâm, Truật, Can khương làm tá, để phá khí lấy Khiên ngưu, Mang tiêu, Đại hoàng làm tá (Dược Phẩm Vựng Yếu).

Cây còn cho lá non gọi là ‘Chỉ thụ nộn diệp’ sắc uống thay nước trà trị các chứng phong, trục phong (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

Thuốc Acebutolol (Sectral)

Acebutolol là gì? Acebutolol được sử dụng để làm gì?

Sectral (acebutolol) là một loại thuốc được sử dụng đơn lẻ hoặc kết hợp với các loại thuốc khác để điều trị huyết áp cao và rối loạn nhịp tim. Nó cũng được dùng để điều trị cơn đau ngực do bệnh động mạch vành (đau thắt ngực), trong đó nguồn cung cấp máu và oxy cho tim không đủ để tim bơm máu bình thường.

Tên thương mại nào có sẵn cho acebutolol?

  • Sectral

Acebutolol có sẵn dưới dạng thuốc generic không?

Tôi có cần đơn thuốc để sử dụng acebutolol không?

Tác dụng phụ của acebutolol là gì?

Hầu hết các phản ứng phụ đối với Sectral là nhẹ, không yêu cầu ngừng điều trị và có xu hướng giảm khi thời gian điều trị tăng lên. Các tác dụng phụ bao gồm:

  • Chóng mặt
  • Cảm thấy nhẹ đầu
  • Mệt mỏi quá mức
  • Đau đầu
  • Táo bón
  • Tiêu chảy
  • Đau dạ dày
  • Đau cơ

Các tác dụng phụ nghiêm trọng có thể bao gồm:

  • Suy tim
  • Nhịp tim chậm
  • Block tim
  • Nhồi máu cơ tim
  • Nhịp tim bất thường
  • Hiện tượng Raynaud
  • Lupus ban đỏ

Nếu gặp phải các tác dụng phụ nghiêm trọng như khó thở hoặc khò khè, sưng phù chân và chân dưới, và đau ngực, bạn nên liên hệ ngay với bác sĩ.

Liều lượng acebutolol là gì?

Liều lượng acebutolol sẽ được bác sĩ chỉ định dựa trên tình trạng sức khỏe cụ thể của từng bệnh nhân.

Các loại thuốc hoặc thực phẩm chức năng nào tương tác với acebutolol?

Trước khi bắt đầu sử dụng acebutolol, bạn nên thông báo cho bác sĩ về tất cả các loại thuốc và thực phẩm chức năng bạn đang sử dụng để tránh các tương tác không mong muốn.

Acebutolol có an toàn khi sử dụng trong thời kỳ mang thai hoặc cho con bú không?

Trước khi sử dụng acebutolol khi mang thai hoặc cho con bú, bạn nên tham khảo ý kiến bác sĩ để đánh giá các rủi ro và lợi ích.

Những điều gì khác tôi nên biết về acebutolol?

Acebutolol là một thuốc thuộc nhóm beta-blocker, có thể ảnh hưởng đến nhịp tim và huyết áp. Bạn nên tuân thủ hướng dẫn sử dụng và lịch hẹn tái khám với bác sĩ để theo dõi tình trạng sức khỏe của mình.

Liều lượng Acebutolol (Sectral)

Liều lượng cho acebutolol là gì?

Sectral có thể được uống cùng hoặc không cùng với thức ăn, thường một hoặc hai lần mỗi ngày. Liều lượng của Sectral nên được giảm ở những bệnh nhân có chức năng thận hoặc gan kém, vì bệnh thận hoặc gan làm giảm khả năng loại bỏ Sectral khỏi cơ thể.

Tương tác thuốc với Acebutolol

Các loại thuốc hoặc thực phẩm chức năng nào tương tác với acebutolol?

Việc sử dụng các thuốc chẹn beta cùng với fenoldopam (Corlopam), một loại thuốc được sử dụng để điều trị huyết áp cao nặng, có thể dẫn đến huyết áp thấp một cách không mong đợi, vì thuốc chẹn beta-adrenergic làm tăng hiệu ứng giảm huyết áp của fenoldopam.

Khi sử dụng đồng thời clonidine (Catapres) và thuốc chẹn beta-adrenergic, huyết áp cao nặng có thể xảy ra nếu bệnh nhân ngừng clonidine đột ngột. Do đó, tốt nhất là ngừng thuốc chẹn beta-adrenergic trước khi bắt đầu sử dụng clonidine.

Sử dụng epinephrine (Adrenalin, EpiPen) và thuốc chẹn beta-adrenergic cùng nhau có thể gây ra huyết áp cao và nhịp tim chậm, vì tác dụng kích thích beta-adrenergic của epinephrine làm tăng huyết áp và nhịp tim bị phóng đại bởi các thuốc chẹn beta-adrenergic, làm ngăn cản sự giãn nở của mạch máu và tăng nhịp tim. Để tránh tác dụng này, tốt nhất không nên sử dụng cả hai loại thuốc cùng nhau. Tuy nhiên, nếu cả hai thuốc được sử dụng cùng nhau, cần theo dõi mức huyết áp. Hơn nữa, huyết áp cao và nhịp tim chậm ít có khả năng xảy ra hơn nếu sử dụng các thuốc chẹn beta-adrenergic chọn lọc cho tim như atenolol (Tenormin) và Sectral.

Các thuốc làm giảm epinephrine và norepinephrine, chẳng hạn như reserpine (Harmonyl), có thể có tác dụng cộng gộp khi dùng với các thuốc chẹn beta và gây ra nhịp tim chậm bất thường hoặc huyết áp thấp, có thể dẫn đến chóng mặt hoặc ngất.

Acebutolol có an toàn khi sử dụng trong thời kỳ mang thai hoặc cho con bú không?

Acebutolol có an toàn khi tôi đang mang thai hoặc cho con bú không?
Hiện chưa có đủ nghiên cứu về Sectral ở phụ nữ mang thai. Nó chỉ nên được sử dụng trong thời kỳ mang thai nếu lợi ích tiềm năng vượt trội hơn rủi ro đối với thai nhi. Sectral cũng được bài tiết vào sữa mẹ, do đó, không khuyến cáo sử dụng cho các bà mẹ đang cho con bú.

Những điều cần biết khác về acebutolol

Các dạng thuốc acebutolol nào có sẵn?

  • Viên nang: 200 mg và 400 mg.

Tôi nên bảo quản acebutolol như thế nào?

  • Viên nang nên được bảo quản ở nhiệt độ phòng, 77°F (25°C), tránh ánh sáng và độ ẩm.

Tóm tắt

Sectral (acebutolol) là một loại thuốc theo đơn được sử dụng để điều trị huyết áp cao và rối loạn nhịp tim. Nó cũng được sử dụng để điều trị cơn đau ngực do đau thắt ngực. Các tác dụng phụ bao gồm:

  • Đau đầu
  • Tiêu chảy
  • Táo bón
  • Đau dạ dày
  • Mệt mỏi quá mức.

Thông tin về tương tác thuốc, liều lượng và an toàn trong thai kỳ cũng như cho con bú nên được xem xét trước khi sử dụng bất kỳ loại thuốc nào.

Điều trị Tràn khí màng phổi toàn bộ

Vũ Văn Đính

ĐẠI CƯƠNG

  • Các triệu chứng của tràn khí màng phổi (TKMP) nặng (suy hô hấp, truỵ mạch, bệnh phổi có trước)
  • Gõ trong, RRPN giảm, rung thanh tăng.
  • Lồng ngực bên tràn khí giãn, di động kém.
  • Khó thở
  • Đau ngực.

Chẩn đoán:

  • Cần dẫn lưu nhanh trước khi chuyển viện.
  • Ngạt thở nhanh chóng
  • Xuất hiện đột ngột

Đặc điểm:

ĐIỀU TRỊ

  • Chọc hút bằng kim

+ Chỉ định: TKMP nhẹ, khi cấp cứu chưa kịp hoặc ở nơi không đặt được ông dẫn lưu

+ Kĩ thuật: Chọc liên sườn 2 đường giữa xương đòn, dùng 1 bơm tiêm to để hút khí

+    Ưu điểm: Dễ thực hiện, ít biến chứng

+    Nhược điểm: Lưu lượng nhỏ, không dẫn lưu được

Cần theo dõi tái phát

  • Dẫn lưu màng phổi:

+    Các loại ống dẫn lưu: Cathcter, ống dẫn lưu có nòng kim loại. Chọc  thăm dò bằng kim loại. Dùng dao nhọn rạch da 3-5cm trên đường nách giữa, liên sườn V hoặc VI sát bờ trên xương sườn. Tiếp theo, dùng kéo tách các thớ cơ liên sườn. Chọc thủng lá thành của màng phổi, thấy hơi xì ra. Luồn ống thông dẫn lưu vào màng phổi, nối đầu ngoài ống thông với một ông nối tới một bình chứa rồi tới máy hút

+ Hút dẫn lưu màng phổi liên tục, áp lực hút -25cmH2O

  • Cách dẫn lưu khí đơn giản: Nối ống dẫn lưu với một ống thủy tinh cắm vào một lọ dung dịch sát khuẩn. Cột nước trong ống dẫn lưu sẽ là van một chiều. Đặt lọ nước thấp cách mặt giường ít nhất 30cm.

Theo dõi:

+ Ống dẫn lưu tắc dùng bơm tiêm to hút. Nếu không có hiệu quả thì rút ống thông ra vài centimet.

Rung nhĩ cho người mới bắt đầu

Rung nhĩ là gì?

Khi bạn bị rung nhĩ (AFib), tim của bạn sẽ có những nhịp đập không đều, thường nhanh. Đây được gọi là rối loạn nhịp. Khi điều này xảy ra, các buồng trên của tim bạn không đồng bộ với các buồng dưới. Bạn có thể không cảm thấy triệu chứng nào, hoặc bạn có thể có nhịp tim nhanh, đập mạnh, khó thở, hoặc cảm thấy yếu tổng thể.

Làm gì ngay lập tức

Nếu bạn đã có triệu chứng nhưng chưa có chẩn đoán chính thức, bạn cần đến gặp bác sĩ để được chẩn đoán và lập kế hoạch điều trị. Rung nhĩ làm tăng nguy cơ hình thành cục máu đông, đột quỵ, suy tim và các biến chứng liên quan đến tim khác. Đó là lý do bạn cần điều trị. Bác sĩ của bạn có thể chẩn đoán Rung nhĩ bằng cách nghe tim bạn bằng ống nghe hoặc thông qua các xét nghiệm để loại trừ các tình trạng tim khác.

Những gì bạn có thể mong đợi từ đội ngũ y tế của bạn

Đội ngũ chăm sóc sức khỏe của bạn sẽ có nhiều mục tiêu trong việc giúp bạn quản lý Rung nhĩ: đưa nhịp tim trở lại bình thường, giảm nhịp tim cao bất thường, ngăn ngừa cục máu đông, quản lý các yếu tố rủi ro cho đột quỵ, và ngăn ngừa các vấn đề về nhịp tim và suy tim khác.

Các tùy chọn điều trị

Phương pháp điều trị tốt nhất cho bạn sẽ phụ thuộc vào thời gian bạn bị Rung nhĩ, mức độ nghiêm trọng của nó và nguyên nhân gây ra nó. Bạn có thể sử dụng thuốc để điều chỉnh nhịp tim hoặc nhịp đập, hoặc thuốc chống đông máu để giúp ngăn ngừa cục máu đông. Hoặc bạn có thể cần một thủ thuật gọi là sốc tim, trong đó bác sĩ cố gắng thiết lập lại nhịp tim của bạn bằng cách sử dụng sốc điện hoặc thuốc.

Đốt nóng (Ablation)

Nếu các phương pháp điều trị khác không hiệu quả, bác sĩ của bạn có thể khuyên bạn nên thực hiện đốt nóng tim. Bác sĩ thực hiện điều này thông qua một ống thông – một ống mỏng đi đến tim qua một động mạch ở vùng bẹn – hoặc thông qua phẫu thuật mở tim. Đốt nóng sử dụng nhiệt hoặc lạnh cực độ để tạo sẹo ở phần tim gây ra vấn đề. Điều này chặn các tín hiệu điện bất thường để nhịp tim của bạn có thể trở lại bình thường.

Thay đổi lối sống

Cùng với thuốc hoặc thủ thuật để điều trị Rung nhĩ của bạn, bác sĩ có thể đề xuất một số thay đổi trong cuộc sống hàng ngày của bạn có thể giúp hỗ trợ sức khỏe tim mạch. Những thay đổi này bao gồm chế độ ăn uống tốt cho tim, tập thể dục đều đặn, duy trì mức cholesterol và huyết áp tốt, hạn chế rượu và bỏ thuốc lá.

Mẹo khi đi du lịch

Bạn hoàn toàn có thể sống một cuộc sống năng động với Rung nhĩ, nhưng có những lúc tốt nhất là nên thực hiện các biện pháp phòng ngừa bổ sung. Nếu bạn sẽ ở xa nhà trong một thời gian dài, hãy chắc chắn bạn đã mang theo thuốc của mình. Bạn cũng cần biết nơi có cơ sở y tế tại điểm đến của mình, thường xuyên vận động chân để giúp ngăn ngừa cục máu đông, và xem xét việc đeo vòng tay nhận dạng y tế nếu bạn đang dùng thuốc chống đông máu.

Biết các yếu tố kích thích

Nhiều yếu tố gây căng thẳng cho tim của bạn có thể kích hoạt một đợt Rung nhĩ. Những yếu tố này bao gồm thiếu ngủ, caffeine, rượu, mức độ tập luyện mạnh mẽ, mất nước, bữa ăn lớn và nặng, và căng thẳng trong cuộc sống hàng ngày.

Câu hỏi cho bác sĩ của bạn

Khi gặp bác sĩ, hãy yêu cầu những thông tin cần thiết. Bạn có thể hỏi:

  • Nguyên nhân nào gây ra Rung nhĩ của tôi?
  • Bạn nghĩ phương pháp điều trị tốt nhất cho tôi là gì?
  • Tôi có nên thay đổi chế độ ăn uống hoặc thói quen khác để giúp quản lý tình trạng này không?
  • Những triệu chứng nào có thể là dấu hiệu của vấn đề nghiêm trọng hơn?