Blog Trang 481

Sắc mặt vàng bủng – Phân biệt triệu chứng bệnh Đông y

Khái niệm

Màu sắc ở vùng mặt bệnh nhân so với người bình thường vàng mà không tươi gọi là chứng sắc mặt vàng bủng. Sắc mặt vàng bủng nói chung chủ về hư chứng và thấp chứng. Tố vấn – Ngũ tạng sinh thành thiên viết: “Đem sắc và vị tương đương với ngũ tạng… thì sắc vàng thuộc Tỳ. có vị ngọt”. Linh khu – Ngũ sắc thiên viết: “Lấy ngũ sắc để liên hệ với tạng… thì sắc vàng thuộc Tỳ”. Chứng trị chuẩn thằng – Sát sắc yếu lược thì viết: “Sắc vàng thuộc thổ chủ thấp là màu sắc của Túc Thái âm Tỳ kinh. Trên lâm sàng chứng Sắc mặt vàng bủng nên phân biệt với chứng “Phát hoàng”, loại sau là chủ bì phu toàn thân như mặt, mắt thân thể và tiểu tiện đều phát mầu vàng thuộc chứng Hoàng đản, còn chứng này là chỉ vùng mặt vàng bủng không tươi khác với chứng Hoàng đản.

Phân biệt

Chứng hậu thường gặp

  • Sắc mặt vàng bủng do Tỳ Vị khí hư: Có chứng sắc mặt vàng bủng, ăn uống kém, sau khi ăn vào trướng bụng, mệt mỏi yếu sức, đoản hơi biếng nói, đại tiện lỏng nhão, lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng mạch Hoãn Nhược.
  • sắc mặt vàng bủng do Tỳ hư thấp ngăn trở: Có chứng Sắc mặt vàng bủng, mặt phù, chân tay thũng, tứ chi nặng nề kém ăn trướng bụng, mệt mỏi yếu sức, thanh âm nặng đục, tiểu tiện ít, đại tiện nhão, chất lưỡi nhợt, thể lưỡi mập hoặc có vết răng, rêu lưỡi trơn nhớt, mạch Hoãn vô lực.
  • Sắc mặt vàng bủng do doanh huyết bất túc: Có chứng sắc mặt vàng bủng, rêu lưỡi nhợt, đầu choáng mắt hoa, hồi hộp mất ngủ, chân tay tê dại, phụ nữ thì hành kinh lượng ít, hành kinh kéo dài hoặc bế kinh đoản hơi, nói thấp khẽ mạch Tế vô lực.

Phân tích

  • Chứng Sắc mặt vàng bủng do Tỳ Vị khí hư với chứng Sắc mặt vàng bủng do Tỳ hư thấp ngăn trở: Loại trên là do Tỳ Vị khí hư mất chức năng vận hóa, nguồn sinh hóa khí huyết bất túc, cơ bắp không được nuôi dưỡng gây nên bệnh. Loại dưới là do Tỳ hư thủy thấp ứ trệ gây nên. cả hai chứng đều có biểu hiện Tỳ Vị hư như: sắc mặt vàng bủng, kém ăn trướng bụng, mệt mỏi đại tiện nhão nhưng chứng Sắc mặt vàng bủng do Tỳ hư thấp ngăn trở thường kiêm chứng thủy thấp nghẽn trở cho nên có đặc điểm thân thể và mặt phù thũng, chân tay nặng nề, tiểu tiện sẻn ít, loại trên thì không có những chứng này. Chứng sắc mặt vàng bủng do Tỳ Vị khí hư điều trị nên ích khí kiện Tỳ dùng phương Tứ quân tử thang gia vị. Chứng sắc mặt vàng bủng do Tỳ hư thấp ngăn trở điều trị nên kiện Tỳ lợi thấp chọn dùng phương Hoắc phác hạ linh thang hoặc VỊ linh thang.
  • Chứng Sắc mặt vàng bủng do doanh huyết bất túc: Chứng này thường do mất huyết quá nhiều hoặc Tỳ Vị hư yếu, nguồn sinh hóa hư yếu hoặc tổn thương do thất tình doanh huyết bị hao ngấm ngầm gây nên bệnh cho nên có các chứng trạng cơ phu mất sự nuôi dưỡng và đầu choáng mắt hoa, sắc mặt vàng bủng hồi hộp mất ngủ chân tay tê dại, hành kinh lượng ít, mạch Tế vô lực… rất dễ chẩn đoán phân biệt. Điều trị nên ích khí dưỡng huyết chọn dùng phương Bổ huyết thang hợp Tứ vật thang hoặc Nhân sâm dưỡng vinh thang gia giảm.

Vàng là sắc của Tỳ thổ; sắc mặt vàng bủng là Tỳ hư mất sự chuyển vận hoặc là ốm lâu huyết hư không được nuôi dưỡng. Chẩn đoán chứng sắc mặt vàng bủng cần phải chú ý đến màu sắc tươi nhuận như vàng mà khô ráo không tươi nhuận là Vị khí bị tổn thương. Ngũ tạng sinh thành thiên – Sách Tố vấn có viết: “Vàng như Chì thực thì chết… vàng như bụng cua thì sống”. Mạch yếu tinh vi luận – Sách Tố vấn cũng viết: “Vàng phải như Hùng hoàng bọc lụa chứ không được như đất thó”.

Trích dẫn y văn

  • Nếu như ở đầu mũi, khu vực Niên thọ và Ấn đường có sắc vàng tươi nhuận là dấu hiệu bệnh rút có tin mừng, nếu như khô ráo non nớt thì chết. Những bệnh mà muốn khỏi thì bao giờ đầu con mắt cũng có sắc vàng. (Chứng trị chuẩn thằng – Sát sắc yếu lược).
  • Bởi vì vàng là màu sắc của trung thổ, người bệnh mặt mắt vàng rõ rệt mà không bị một màu sắc nào xâm lấn thì rất tốt. Mặt mắt không có màu sắc vàng mà lại có màu sắc khác xâm lấn thì rất xấu (Y môn pháp luật – Vọng sắc luận).

Thuốc Azelaic acid được sử dụng để làm gì?

Tên chung: axit azelaic

Tên thương mại: Azelex, Finacea

Lớp thuốc: Các tác nhân trị mụn, sử dụng tại chỗ

Axit azelaic là gì và được sử dụng để làm gì?

Axit azelaic là một loại axit tự nhiên có mặt trong các loại ngũ cốc nguyên hạt như lúa mì, lúa mạch và gạo, đồng thời cũng được sản xuất bởi Malassezia furfur, một loài nấm men thường sống trên da người.

Axit azelaic được sản xuất thương mại để điều trị các tình trạng da như mụn trứng cá (acne vulgaris), gây ra mụn nhọt, sần, mụn mủ, u nang và đầu trắng hoặc đầu đen (comedones), và bệnh rosacea, một rối loạn gây đỏ mặt và sần đỏ trên da.

Cơ chế chính xác của axit azelaic trong điều trị rosacea chưa rõ ràng. Tính chất chống viêm và chống oxy hóa của axit azelaic có thể giúp làm sạch các tổn thương do rosacea. Axit azelaic dường như hoạt động theo nhiều cách trong điều trị mụn trứng cá:

  • Ức chế tổng hợp protein và sự phát triển của vi khuẩn gây ra mụn, đặc biệt là Staphylococcus epidermidis và Propionibacterium acnes.
  • Giảm tiết bã nhờn, chất béo được sản xuất bởi các tuyến bã nhờn trong da, và giữ cho lỗ chân lông trên da thông thoáng.
  • Giảm sự hình thành keratin, một loại protein sợi trong da là yếu tố góp phần vào sự hình thành mụn.
  • Giảm viêm trong khu vực nang lông và cũng tiêu diệt các gốc tự do (các loại oxy phản ứng), những phân tử không ổn định trong tế bào gây hại cho mô.

Cảnh báo

  • Không sử dụng axit azelaic cho những bệnh nhân có phản ứng quá mẫn cảm với bất kỳ thành phần nào trong công thức.
  • Axit azelaic chỉ được sử dụng ngoài da, không dùng để uống, nhỏ mắt, hoặc sử dụng trong âm đạo.
  • Axit azelaic có thể gây ra các phản ứng quá mẫn như sưng mặt, khó thở, nổi mề đay hoặc các phản ứng khác trên da. Theo dõi bệnh nhân và ngừng sử dụng nếu bệnh nhân có các phản ứng như vậy.
  • Kích ứng da có thể xảy ra trong những tuần đầu điều trị. Nếu kích ứng kéo dài hoặc trở nên nghiêm trọng, hãy ngừng sử dụng axit azelaic.
  • Axit azelaic có thể gây mất sắc tố da. Theo dõi các dấu hiệu sớm của tình trạng giảm sắc tố, đặc biệt ở những bệnh nhân có làn da tối màu.
  • Đánh giá lại việc sử dụng gel axit azelaic nếu không thấy cải thiện sau 12 tuần điều trị.
  • Axit azelaic có thể làm trầm trọng thêm bệnh hen suyễn. Sử dụng cẩn thận ở những bệnh nhân mắc bệnh hen.
  • Một số công thức có thể chứa polysorbate 80. Tránh sử dụng các công thức này ở những bệnh nhân có phản ứng quá mẫn với polysorbate 80.
  • Một số công thức có thể chứa propylene glycol, có thể gây độc ở liều lượng lớn.

Các tác dụng phụ của axit azelaic là gì?

Các tác dụng phụ phổ biến của axit azelaic bao gồm:

Các phản ứng tại chỗ khi bôi, bao gồm:

  • Rát
  • Ngứa ran
  • Đau nhói
  • Đau
  • Ngứa (pruritus)
  • Khô da
  • Đỏ da
  • Cảm giác chặt chẽ
  • Da bị bong tróc
  • Da bị tróc vảy
  • Kích ứng
  • Phát ban da
  • Viêm da tiếp xúc
  • Mụn trứng cá

Các tác dụng phụ ít phổ biến hơn của axit azelaic bao gồm:

  • Tình trạng hen suyễn hoặc thở khò khè trở nên trầm trọng hơn
  • Các phản ứng quá mẫn, bao gồm:
    • Sưng mắt
    • Sưng mặt
    • Sưng dưới da và niêm mạc (phù mạch)
    • Nổi mề đay (urticaria)
    • Rát và kích ứng trên mặt
    • Phát ban nang lông (keratosis pilaris)
    • Tăng trưởng lông quá mức (hypertrichosis)
    • Giảm sắc tố (hypopigmentation)
    • Mất sắc tố theo mảng (vitiligo)
    • Các đốm mất sắc tố nhỏ
    • Tình trạng herpes môi trở nên nặng hơn hoặc tái phát
    • Kích ứng ở mắt và viêm màng irit và cơ thể mi ở mắt (iridocyclitis) khi tiếp xúc với thuốc

Gọi cho bác sĩ ngay lập tức nếu bạn gặp bất kỳ triệu chứng hoặc tác dụng phụ nghiêm trọng nào sau khi sử dụng thuốc này, bao gồm:

  • Các triệu chứng nghiêm trọng về tim bao gồm nhịp tim nhanh hoặc đập mạnh, cảm giác lật trong ngực, khó thở và chóng mặt đột ngột;
  • Đau đầu nghiêm trọng, bối rối, nói ngọng, yếu nghiêm trọng, nôn mửa, mất phối hợp, cảm giác không ổn định;
  • Phản ứng nghiêm trọng của hệ thần kinh với cơ bắp cứng, sốt cao, đổ mồ hôi, bối rối, nhịp tim nhanh hoặc không đều, run rẩy, và cảm giác như có thể ngất xỉu; hoặc
  • Các triệu chứng nghiêm trọng về mắt bao gồm mờ mắt, tầm nhìn hầm hố, đau hoặc sưng mắt, hoặc thấy quầng sáng xung quanh đèn.

Đây không phải là danh sách đầy đủ tất cả các tác dụng phụ hoặc phản ứng bất lợi có thể xảy ra từ việc sử dụng thuốc này. Gọi cho bác sĩ để được tư vấn y tế về các tác dụng phụ nghiêm trọng hoặc phản ứng bất lợi.

Các liều dùng của axit azelaic

Kem

  • 20% (Azelex)

Gel

  • 15% (Finacea)

Bọt

  • 15% (Finacea)

Người lớn:

Điều trị rosacea

Điều trị các nốt mụn viêm và mụn mủ của rosacea nhẹ đến vừa phải:

  • Finacea: Xoa một lớp mỏng vào các khu vực bị ảnh hưởng trên mặt mỗi 12 giờ.

Người lớn và trẻ em:

Mụn trứng cá (Acne Vulgaris)

  • Trẻ em dưới 12 tuổi:
    • An toàn và hiệu quả chưa được thiết lập.
  • Người lớn và trẻ em trên 12 tuổi:
    • Azelex: Xoa một lớp mỏng vào các khu vực bị ảnh hưởng trên mặt mỗi 12 giờ.

Cách sử dụng:

  • Làm sạch khu vực bị ảnh hưởng bằng xà phòng nhẹ hoặc sữa rửa mặt không chứa xà phòng và lau khô trước khi bôi thuốc.
  • Đánh giá lại nếu không có sự cải thiện sau 12 tuần điều trị.

Quá liều:

  • Việc sử dụng axit azelaic một cách thái quá có thể gây kích ứng da.
  • Sử dụng axit azelaic qua đường miệng có thể gây độc. Điều trị quá liều bao gồm ngừng thuốc và chăm sóc triệu chứng cũng như hỗ trợ.

Các thuốc tương tác với axit azelaic

  • Hãy thông báo cho bác sĩ về tất cả các loại thuốc mà bạn đang sử dụng, để họ có thể tư vấn cho bạn về bất kỳ tương tác thuốc nào có thể xảy ra. Không bao giờ bắt đầu, ngừng đột ngột hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ loại thuốc nào mà không có sự chỉ định của bác sĩ.
  • Axit azelaic không có tương tác nghiêm trọng, nghiêm trọng, vừa phải hoặc nhẹ nào với các loại thuốc khác. Danh sách các tương tác thuốc ở trên không phải là tất cả các tương tác hoặc tác dụng phụ có thể xảy ra. Để biết thêm thông tin về tương tác thuốc, hãy truy cập trang kiểm tra tương tác thuốc RxList.
  • Điều quan trọng là luôn thông báo cho bác sĩ, dược sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn về tất cả các loại thuốc theo toa và không cần toa mà bạn sử dụng, cũng như liều lượng của từng loại, và giữ một danh sách thông tin đó. Kiểm tra với bác sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về thuốc.

Thai kỳ và cho con bú

Các nghiên cứu về sinh sản trên động vật không cho thấy bằng chứng về sự tổn hại thai nhi khi sử dụng axit azelaic, tuy nhiên, không có nghiên cứu đầy đủ và kiểm soát tốt trên phụ nữ mang thai. Việc sử dụng axit azelaic tại chỗ không có khả năng dẫn đến sự hấp thụ toàn thân đáng kể và có thể được sử dụng trong thai kỳ nếu lợi ích cho mẹ tiềm năng biện minh cho các rủi ro tiềm ẩn đối với thai nhi.

Axit azelaic có sẵn tự nhiên trong sữa mẹ. Việc hấp thụ toàn thân từ việc sử dụng axit azelaic tại chỗ thích hợp là tối thiểu và không có khả năng làm tăng mức axit azelaic cơ bản trong sữa mẹ. Tuy nhiên, axit azelaic nên được sử dụng cẩn thận ở các bà mẹ đang cho con bú, và quyết định cho con bú trong quá trình điều trị nên được đưa ra sau khi xem xét tầm quan trọng của việc điều trị đối với mẹ và rủi ro cho trẻ sơ sinh được cho bú.

Những điều khác bạn nên biết về axit azelaic

  • Sử dụng axit azelaic đúng theo chỉ định. Rửa tay thật kỹ sau khi áp dụng thuốc.
  • Không sử dụng băng vết thương hoặc băng che kín trên khu vực đã điều trị.
  • Tránh tiếp xúc với mắt và màng nhầy. Trong trường hợp vô tình tiếp xúc với mắt, hãy rửa sạch mắt bằng nước sạch và tham khảo ý kiến bác sĩ nếu tình trạng kích ứng vẫn tiếp diễn.
  • Tránh các loại thực phẩm và đồ uống gây đỏ bừng, như rượu, thực phẩm cay hoặc nóng, và đồ uống có ga.
  • Không tẩy lông vùng điều trị hoặc áp dụng các sản phẩm tại chỗ khác có thể gây kích ứng thêm cho da.
  • Ngừng sử dụng và thông báo cho bác sĩ nếu bạn:
    • Trải qua các phản ứng quá mẫn như sưng mặt, khó thở, phát ban, hoặc các phản ứng da khác.
    • Phát triển tình trạng kích ứng da kéo dài sau những tuần điều trị ban đầu.
    • Nhận thấy thay đổi về màu da.
    • Cảm thấy triệu chứng hen suyễn của mình trở nên tồi tệ hơn.
  • Bọt axit azelaic chứa các chất propellant dễ cháy. Giữ xa lửa và ngọn lửa.
  • Bảo quản axit azelaic ở nơi an toàn, xa tầm tay trẻ em.
  • Trong trường hợp nuốt phải hoặc quá liều, hãy tìm kiếm sự trợ giúp y tế hoặc liên hệ với Trung tâm kiểm soát chất độc.

Tóm tắt

Axit azelaic được sản xuất thương mại để điều trị các tình trạng da như mụn trứng cá, gây ra mụn, nốt, mụn mủ, u nang, và mụn đầu trắng hoặc đen (comedones), cũng như rosacea, một rối loạn gây đỏ bừng và nốt đỏ trên da. Các tác dụng phụ phổ biến của axit azelaic bao gồm cảm giác bỏng rát, ngứa ngáy, đau, khô da, đỏ, chặt chẽ, bong tróc, kích ứng, phát ban da, viêm da tiếp xúc, và mụn trứng cá. Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ nếu bạn đang mang thai hoặc cho con bú.

Ngộ độc Paraquat – Triệu chứng, xử trí cấp cứu

1. Đại cương

Paraquat, tên khoa học là1,1′-Dimethyl-4,4′ bipyridilium, thuộc nhóm chất diệt cỏ tác dụng nhanh và không chọn lọc, có tác dụng ăn mòn, nó xúc tác chuyển hóa, đơn electron, gây ra phản ứng oxy hóa, giáng hóa NADPH, peroxy hóa Kết quả là sinh ra các gốc tự do OH, superoxid,, H2O2gây hủy hoại tế bào: phổi, thận, gan, tim…. Hậu quả suy đa tạng xảy ra trong vài giờ đến vài ngày. Nồng độ đỉnh trong máu sau uống từ 2 đến 4 giờ. Tỉ lệ tử vong rất cao, nói chung 70-90%. Vì oxy và NADPH tham gia vào quá trình chuyển hóa gây độc, thở oxy đẩy nhanh quá trình xơ hóa tại phổi làm cho bệnh nặng lên.

2. NGUYÊN NHÂN

  • Tự tử là nguyên nhân hay gặp nhất, thường gặp ở đối tượng thanh thiếu niên. Đôi khi gặp một bệnh nhân uống nhầm do say rượu hay nhầm do bảo quản paraquat trong chai lọ đựng thông thường.
  • Có thể gặp ngộ độc ở trẻ em do nhâm lẫn với nước uống.

3. CHẨN ĐOÁN

Lâm sàng

Hỏi bệnh sử: BN khai uống hóa chất trừ cỏ màu xanh, lọ nhựa đựng dung dịch màu xanh, dung lượng 100ml, 500ml, 1000ml, hàm lượng 20% hoặc 5%. Tên hoạt chất là paraquat (1,1′-Dimethyl-4,4′ bipyridilium).

Lâm sàng:

+ Đến sớm: cảm giác đau rát miệng họng, dọc sau xương ức và thượng vị. Viêm, loét, trợt miệng, họng, thực quản xuất hiện sau nhiều giờ. Sau vài ngày loét miệng họng có giả mạc trắng dày, bẩn.

+ Khó thở: sớm do tổn thương phổi, tràn khí màng phổi, tràn khí trung thất, phù phổi cấp. Nếu bệnh nhân sống sót sau những ngày đầu xuất hiện khó thở tiến triển suy hô hấp do hiện tượng xơ hóa phế nang, tăng lắng đọng collagen.

+ Suy thận sớm trong ngày đầu tiên do tổn thương ống thận trực tiếp hoặc do rối loạn huyết động. Suy thận làm giảm độ thanh thải paraquat làm ngộ độc nặng hơn.

+  Hủy hoại tế bào gan có thể xuất hiện ở những ngày sau. Tổn thương gan có thể hồi phục được, chủ yếu bệnh nhân tử vong do tổn thương phổi không hồi phục.

+ Suy tuần hoàn: suy tim, tụt huyết áp: có thể do suy hô hấp cấp, tràn ,tràn khí màng phổi, trung thất, độc tính trực tiếp trêm tim. Ngừng tim trong ngày đầu tiên thường gặp ở những bệnh nhân ngộ độc với số lượng rất lớn (>50ml)

Chia 3 mức độ

  • Ngộ độc nặng: Uống > 40mg/kg (người 50kg uống > 2g, >10ml dd 20%)
  • Suy đa phủ tạng tiến triển nhanh chóng.
  • Sớm: bỏng, loét miệng, họng, thực quản, dạ dày, ruột gây viêm, chảy máu đường tiêu hóa.
  • Suy hô hấp: có thể xảy ra rất sứm hoặc muộn từ 2-14 ngày tùy theo mức độ nhiễm. Biểu hiện sớm như tràn khí màng phổi, tràn khí trung thất, viêm phổi sặc hoặc HC suy hô hấp cấp.
  • Hoại tử ống thận, suy thận rõ sau 24h, thiểu niệu, vô niệu, tiên lượng xấu (95% tử vong).
  • Viêm gan, suy gan, hoại tử vỏ thượng thận.
  • Nhanh xoang, LN thất, suy tim.
  • Hôn mê, phù não, co giật, XH vỏ não, thân não.
  • Tăng BC, DIC, sau đó ức chế tuỷ, giảm 3 dòng.
  • Tử vong do suy đa tạng trong thời gian tính bằng giờ, tối đa vài ngày.
  • Ngộ độc trung bình: Uống 20- 40mg/kg (người 50kg, uống 1- 2g, tương đương 5-10ml dd 20%)
  • Bệnh cảnh âm thầm hơn.
  • Triệu chứng tiêu hóa bỏng niêm mạc miệng, thực quản
  • Suy hô hấp dần dần, phổi bình thường vài ngày đầu sau đó thâm nhiễm, mờ hai phổi. Xơ phổi sau nhiều ngày đến nhiều tuần.
  • Tổn thương thận nặng dần, creatinin tăng nhanh khác thường, không tương xứng với tăng urê.
  • Hầu hết bệnh nhân tử vong trong vòng từ 1 đến 5 tuần.
  • Ngộ độc nhẹ: Uống < 20mg/kg (người 50kg, uống <1g, <5ml dd 20%)
  • Bệnh cảnh nhẹ, thường chỉ triệu chứng tiêu hoá. Có thể hồi phục hoàn toàn.

Cận lâm sàng

a. Xét nghiệm paraquat

  • Định tính: bệnh phẩm là dịch dạ dày (đến sớm trước 2 giờ), nước tiểu (dương tính sau 6 giờ và âm tính sau 24h, có thể dương tính sau 2-3 ngày nếu có suy thận).
  • Test dithionite: lấy 10 ml nước tiểu, cho 1 ml NH3 25% vào, sau đó cho 3 g natridithionide vào ngoáy đều, nếu nước tiểu có màu xanh lam là dương tính
  • Có thể bán định lượng trong nước tiểu bằng phương pháp so màu. Nồng độ nặng, nguy cơ tử vong nếu > 10 mg/L nước tiểu

+  Định lượng paraquat trong máu trong 4 giờ > 1mg/L, sau 8 giờ > 0,5 mg/L là mức độ rất nặng nguy cơ tử vong cao

b. Các xét nghiệm khác:

Công thức máu, chức năng gan thận, khí máu động mạch, XQ phổi, chụp cắt lớp vi tính phổi phát hiện tổn thương xơ phổi.

Chẩn đoán xác định

  • Chẩn đoán ngộ độc paraquat khi có hai trong ba tiêu chuẩn sau: bệnh sử uống paraquat, lâm sàng loét lưỡi, họng và xét nghiệm paraquat dương tính.

Chẩn đoán phân biệt

  • Ngộ độc các chất ăn mòn đường tiếu hóa khác : bỏng axít, kiềm
  • Ngộ độc các thuốc diệt cỏ lành tính khác : gây loét miệng họng và đường tiêu hóa nhưng không gây tổn thương tạng và gây tử vong: glyphosate
  • Ngộ độc nereistoxin: là hóa chất trừ sâu dạng bột màu xanh lam nhạt, có tính ăn mòn, các triệu chứng tiêu hóa xuất hiện nhanh, ồ ạt gây bệnh cảnh sốc, tử vong nhanh do suy đa tạng.

4. ĐIỀU TRỊ

  • Các biện pháp tẩy độc và tăng thải độc phải thực hiện đồng thời càng sớm càng tốt, không để biện pháp này ảnh hưởng đến biện pháp khác.

4.1. Hạn chế hấp thu độc chất

  • Gây nôn: trong vòng 1 giờ đầu nếu bệnh nhân tỉnh táo, hợp tác tốt.
  • Rửa dạ dày : trong vòng 2 giờ đầu, rửa tới khi dịch rửa hết màu
  • Các chất hấp phụ:
  • Than hoạt đơn liều : 1g/kg/lần, sorbitol liều gấp đôi liều than hoạt.
  • Fuller‟s earth : người lớn 100-150g, trẻ em 2g/kg, pha tỷ lệ 1 phần thuốc + 2 phần nước theo trọng lượng.
  • Đất sét, đất thịt hoặc đất thường chỉ khi ở xa bệnh viện: pha nước uống.

4.2. Tăng thải trừ chất độc

  • Bài niệu tích cực: Đặt catheter tĩnh mạch trung tâm truyền dịch, lợi tiểu đảm bảo 200ml/h. Tránh phù phổi cấp do quá tải dịch.
  • Lọc hấp phụ máu : khi paraquat còn dương tính. Ưu tiên càng sớm càng tốt, tốt nhất trước 8 giờ.

+  Các loại quả lọc hấp phụ: cột than hoạt hoặc cột resin tùy theo khả năng của từng cơ sở, đã giảm được tỷ lệ tử vong xuống dưới 50%.

  • Các biện pháp lọc máu khác: thận ngắt quãng, siêu lọc máu, thẩm tách máu liên tục, thay huyết tương không có hiệu quả thực sự trong đào thải paraquat máu.

4.3. Liệu pháp ức chế miễn dịch

  • Methylprednisolon: 15mg/kg/ngày (pha với 200ml glucose 5%, truyền TM 2 giờ). Trong 3 ngày và Cyclophophamide: 15mg/kg/ngày (pha với 200ml glucose 5%, truyền TM 2 giờ) trong 2 ngày.
  • Sau đó: Dexamathasone 8mg/lần x 3 lần/ngày, trong 14 ngày, tiêm TM, sau giảm dần liều và ngừng.
  • Nếu PaO2< 60mmHg: dùng lại ngay methylprednisolon như trên x 3 ngày, nhắc lại cyclophosphamide liều như trên trong 1 ngày (chỉ nhắc lại thuốc này nếu lần dùng trước cách xa trên 14 ngày và bạch cầu >3G/l).

4.4. Các thuốc chống ôxy hóa: tác dụng chưa rõ ràng

  • N-acetylcystein tĩnh mạch: là chất chống oxy hóa có tác dụng ngăn chặn quá trình xơ phổi gây ra do các gốc oxy tự do.
  • Vitamin E : 300mg x 2 lần/ngày, uống.
  • Deferioxamine (Desferan, dùng sau lần lọc máu đầu tiên): 100mg/kg, pha với 500ml glucose 5%, truyền TM 21ml/h, dùng 1 ngày.

4.5. Điều trị hỗ trợ

  • Cung cấp thêm oxy khi PaO2 <40mmHg hoặc SpO2 <80%.
  • Các thuốc bao bọc niêm mạc và giảm tiết dịch vị. Ưu tiên đường tĩnh mạch.
  • Giảm đau : bậc 2, bậc 3
  • Dinh dưỡng đường tĩnh mạch : dùng lipid 20% x 500 ml/ngày, truyền tĩnh mạch chậm liên tục 50 ml/giờ. Truyền nhanh có thể ây tụt huyết áp. Ngoài tác dụng dinh dưỡng còn có tác dụng giam giữ paraquat trong máu chờ lọc hấp phụ.
  • Giải thích cho gia đình bệnh nhân: cần giải thích để hợp tác khi có cơ hội điều trị và hiểu được tiên lượng của ngộ độc.

5. TIẾN TRIỂN & BIẾN CHỨNG

  • Tiên lượng nặng nguy cơ tử vong nếu uống paraquat số lượng > 20 mg/kg (5ml, bệnh nhân 50 kg), rửa dạ dày và than hoạt muộn hoặc không đúng kỹ thuât đặc biệt lọc máu hấp phụ muộn sau 8 giờ.
  • Các biến chứng có thể gặp: suy hô hấp, xơ phổi tiến triển, suy thận, viêm Tổn thương gan thận có thể hồi phục được. Tổn thương phổi không hồi phục thường là nguyên nhân khiến bệnh nhân tử vong. Nếu bệnh nhân sống sót qua những ngày đầu tiên phổi sẽ tiến triển xơ hóa và gây ra bệnh lý phổi hạn chế.

6. PHÒNG BỆNH

  • Bảo quản thuốc diệt cỏ ở nơi xa tầm tay của trẻ.
  • Không đựng paraquat trong các chai lọ thông thường hoặc chai lọ dán nhãn đồ ăn nước uống
  • Chỉ sử dụng dạng chế phẩm nồng độ thấp 5%. Tránh dùng các loại có nồng độ cao như 20% hay 50%.

Biovital

BIOVITAL

Hộp 30 gói

Giá thị trường : 110,000 vnđ (chúng tôi đưa thông tin để người đọc tham khảo, chúng tôi không phải là đơn vị buôn bán thuốc)

Biovital
Biovital

CÔNG THỨC

Lactobacillus acidophilus       >= 108 CFU /g

Bifidobacterium                    >= 108 CFU/g

Streptococcus thermophilus    >= 108 CFU/g

Amylase                              480 U

Neutral Protease                  120 U

Cellulase                             5 U

Lactase                                80 IU

L- Lysine                              50mg

Choline                                17mg

Taurine                                6mg

Vitamin A                             400 UI

Vitamin D3                           45 IU

Vitamin E                             1,2 UI

Vitamin K                             3mcg

Vitamin C                             12mg

Vitamin B1                            220 mcg

Vitamin B2                            220 mcg

Vitamin B5,                           240mg

B6, B12                                240mg; 0,3mcg.

Acid folic (B9)                        34mcg

Zn, Ca, Na                            1mg; 120mg; 42mg.

P,                                        85mg

Mg, Fe                                  12mcg; 1,2mcg.

I, Se                                    12mcg; 2mcg.

18 loại Acid amin có trong Cao men bia 0,3g

Unulin (prebiotic ) 1g

( Maltodextrine, hương sữa, Anhydrous Glucose) 3,5g.

Công dụng

BIOVITAL giúp bổ sung các men tiêu hóa và những vi khuẩn có ích, ức chế vi khuẩn gây hại, giúp tạo sự cân bằng hệ vi sinh đường ruột cho trẻ, bổ sung các acid amin, các vitamin, và nhiều khoáng chất thiết yếu.

ĐỐI  TƯỢNG SỬ DỤNG

Trẻ bị chướng bụng, đi phân sống, nôn trớ, tiêu chảy…do dùng thuốc kháng sinh, do loạn khuẩn đường ruột, do tiêu hóa kém,  trẻ gầy yếu, ăn uống không hợp vệ sinh,chậm lớn, biếng ăn hay không dung nạp lactose và sữa.

CÁCH SỬ DỤNG

– Trẻ tiêu hóa kém, đi phân sống, chướng bụng, tiêu chảy, loạn khuẩn đường ruột, khó dung nạp lactose hoặc sữa: dùng 3-4 gói/ ngày.- Trẻ gầy yếu, biếng ăn, lần 1 gói, dùng 2-3 gói/ngày, dùng sau bữa ăn.- Nên cho trẻ dùng từ 3-4 tuần/đợt  để đạt hiệu quả tối ưu. Có thể pha với nước, cháo, sữa, hoặc thức ăn của trẻ (không pha Biovital ở nhiệt độ quá cao >40o.

Nhà sản xuất: Thiên Nhiên VINACOM.

Bệnh Suy thượng thận cấp

I.   ĐẠI CƯƠNG

Suy thượng thận cấp (STTC) là một cấp cứu nội khoa do thiếu hụt corticoid cấp tính, ít nhiều đi kèm với thiếu corticoid khoáng. Chẩn đoán bệnh thường khó khăn do triệu chứng lâm sàng và sinh học không đặc hiệu. Đây là một trong những nguyên nhân gây đột tử, bệnh thường bị bỏ sót với chẩn đoán trụy tim mạch không rõ nguyên nhân. Do vậy cần được điều trị kịp thời, tại chỗ ngay khi chưa được chẩn đoán xác định, mới chỉ có vài triệu chứng nghi ngờ.

Suy thượng thận cấp thường gặp trong bối cảnh thứ phát của bệnh Addison không được chẩn đoán hoặc điều trị không đầy đủ. Bệnh cũng có thể gặp sau một đợt điều trị corticoid kéo dài.

II.   CHẨN ĐOÁN

  1. Lâm sàng
    • Rối loạn tiêu hóa: đau thượng vị, sau đó lan toàn bụng, nhưng khám bụng vẫn mềm, có khi kèm buồn nôn, nôn. Các biểu hiện trên có thể nhầm với một bệnh lý bụng ngoại khoa.
    • Rối loạn tâm thần với mệt lả đến hôn mê, hoặc ngược lại kích thích, nói sảng, lẫn lộn.
    • Trụy tim mạch, huyết áp hạ nhanh chóng, tay chân lạnh, mạch nhỏ,
    • Dấu hiệu mất nước ngoại bào biểu hiện với sút cân, đau cơ, có khi sốt dù không có dấu hiệu nhiễm trùng. Ngoài ra có thể phối hợp với các cơn đau lan rộng như đau cơ, đau khớp, đau đầu.

2.  Cận lâm sàng

Xét nghiệm sinh học giúp xác định chẩn đoán.

  • Rối loạn điện giải đồ máu: Natri giảm (80%), Clo giảm, Kali tăng (60%).
  • Kali máu tăng làm thay đổi sóng điện tim với T cao nhọn đối xứng, có khi đi kèm với QRS giãn rộng, bloc nhĩ thất.
  • Protid máu tăng, Hct tăng.
  • Hạ glucose huyết, đôi khi rất thấp gây nên các triệu chứng tâm thần
  • Ngoài ra có thể gặp: Tăng bạch cầu ái toan, tăng calci máu (6%), nhiễm toan máu, thiếu máu.

Trong bối cảnh suy thượng thận thứ phát, các biểu hiện thường gặp là:

  • Hạ đường máu (50%)
  • Hạ Natri máu (15%)
  • Tăng bạch cầu ái toan (20%)
  • Thiếu máu

III.   NGUYÊN NHÂN

Suy thượng thận cấp có thể xảy ra trong bối cảnh Suy thượng thận tiên phát hoặc thứ phát.

1.  Nguyên nhân do thượng thận

  • Trên tuyến thượng thận tổn thương

Suy thượng thận cấp có thể là biểu hiện khởi phát của một bệnh Suy thượng thận tiên phát dù bất kỳ nguyên nhân nào. Các yếu tố làm xuất hiện Suy thượng thận cấp như:

  • Nhiễm trùng, phẫu thuật, nôn mửa.
  • Dùng thuốc nhuận tràng, ỉa chảy hoặc lợi tiểu.
  • Đổ mồ hôi nhiều, ăn nhạt nhiều và kéo dài.
  • Bỏ điều trị hormon thay thế.
  • Xuất huyết tuyến thượng thận hai bên

Xuất huyết và u máu hai bên thượng thận là những thương tổn hiếm, diễn tiến nặng, bệnh thường được phát hiện khi giải phẫu tử thi. Xuất huyết thượng thận không do chấn thương thường do rối loạn đông máu. Có thể do đông máu rải rác trong lòng mạch hoặc các bệnh gây đông máu (ung thư, các bệnh máu), nhưng hay gặp nhất là do điều trị bằng thuốc chống đông.

Xuất huyết thượng thận hai bên cũng có thể xảy ra do điều trị kháng thượng thận bằng OP’DDD [2,2 bis-(2-chlorophenyl, 4-chlorophenyl)-1,1-dichloroethane].

Ở trẻ em trong hội chứng Waterhouse-Friderichsen, xuất huyết thượng thận hai bên chu sinh gây suy thượng thận cấp thường do trụy mạch liên tiếp do mất máu.

  • Rối loạn tổng hợp hormon thượng thận bẩm sinh

Rất hiếm, chỉ thấy ở nhi khoa, đó là bệnh cảnh của sự mất muối ở nhũ nhi có sự chẹn men 21-hydroxylase. Bệnh xuất hiện sau sinh vài ngày đến vài tuần với chán ăn, không tăng cân, nôn, mất nước và trụy tim mạch. Tử vong trong bệnh cảnh suy thượng thận cấp nếu không điều trị đúng và kịp thời. Trẻ tiểu nhiều Natri dù Natri máu giảm, kèm Clor máu giảm và Kali máu tăng. Ở trẻ nữ thường kèm bất thường cơ quan sinh dục ngoài.

Các loại men khác hiếm hơn nhiều, cũng gây hội chứng mất muối, ví dụ thiếu 11- hydroxylase, 3.(-ol-deshydrogenase hoặc hiếm hơn: 20-22 desmolase.

  • Các nguyên nhân khác
    • OP’ DDD không những ức chế tổng hợp Cortiosol mà còn có tác dụng chống phân bào làm teo tuyến thượng thận.
    • Aminoglutéthimide là một kháng thượng thận tổng hợp khác, ức chế tổng hợp Cortisol với nguy cơ gây suy thượng thận từ những ngày đầu điều trị.
    • Một số trường hợp suy thượng thận cấp do điều trị bằng Ketoconazol liều cao liên tục.
    • Rifampicin là một chất cảm ứng men gan, làm tăng oxy hóa cortisol thành 6-bhydroxycortisol.
  • Một số thuốc cảm ứng men khác như Gardenal, Dihydan (phenitoin).
  • Một số nguyên nhân khác hiếm hơn như tắc mạch do cholesterol, huyết khối một động mạch hoặc một tĩnh mạch thượng thận, nhiễm nấm (cryptococcose).
  • Phẫu thuật cắt thượng thận toàn phần, cần được điều trị hormon thay thế.

2.  Nguyên nhân dưới đồi-tuyến yên

  • Phẫu thuật u tuyến thùy trước tuyến yên.
  • Hội chứng Sheehan
  • Chấn thương.
  • Viêm màng não.
  • Vỡ phình mạch một động mạch cảnh trong
  • Tràn máu tuyến yên (xuất huyết u tuyến yên).
  • Test Métyrapone có thể dẫn đến Suy thượng thận cấp, nhất là vào lúc cuối của test.
  • Phẫu thuật cắt một tuyến thượng thận do u.
  • Xảy ra do ngừng điều trị đột ngột sau một liệu trình Corticoid kéo dài.

IV.  . ĐIỀU TRỊ

  • Truyền dịch để giữ ven, bắt đầu bằng nước muối sinh lý.
  • Tiêm Hydrocortison hemisuccinat (HCHS): 100mg bắp, 100mg tĩnh mạch.

Sau đó chuyển người bệnh đến chuyên khoa, điều trị theo ba hướng chính: điều chỉnh nước, điện giải, hormon thay thế. Theo dõi lâm sàng, cận lâm sàng đều đặn.

1.  Bù nước, điện giải

Mỗi 4-6 giờ truyền 1 lít dịch muối đẳng trương. Trung bình 4 lít/24 giờ. Nếu có trụy mạch: truyền dung dịch trọng lượng phân tử lớn hoặc máu toàn phần với sự kiểm soát áp lực tĩnh mạch trung ương.

2.  Hormon thay thế

  • Hydrocortison hemisuccinat tiêm bắp hoặc tĩnh mạch, 100mg mỗi 4-6 giờ đối với tiêm bắp. Trường hợp nặng: 100mg mỗi giờ.
  • Desoxycorticosteron acetat (DOCA, Syncortil) hàm lượng 10mg, bắt đầu tác dụng sau tiêm bắp 2 giờ, kéo dài 24 giờ. Cụ thể Syncortil 5mg lập lại sau 24 giờ đối với thể vừa. Trường hợp nặng, ngoài cung cấp 4 lít dịch/24giờ, cho Syncortil tiêm bắp mỗi 12 giờ, có khi 10mg/12 giờ.

3.  Theo dõi 24 giờ đầu

Tránh di chuyển người bệnh nhiều.

  • Về lâm sàng theo dõi mỗi giờ: tình trạng mất nước, mạch, nhiệt độ, lượng nước tiểu, tri giác.
  • Về cận lâm sàng, làm xét nghiệm mỗi 4-6 giờ: Điện giải đồ máu, niệu; đường huyết, creatinin máu, protid máu toàn phần, huyết đồ. Tùy tình hình, có thể làm thêm: cấy máu, X quang phổi, bụng tại giường. ECG nhiều lần. Đồng thời tìm và điều trị nguyên nhân khởi phát (kháng ..).

4.  Các ngày tiếp theo

Giảm dần liều Hydrocortioson hemisuccinat, tiêm liều nhỏ và cách quãng.

Sau 4-6 ngày Hydrocortison được chuyển thành loại uống, rồi trở lại liều duy trì khoảng 30mg/ngày.

5.  Truyền Hydrocortison hemisuccinat liên tục

Một số tác giả đề nghị cho tĩnh mạch liên tục, ban đầu 25mg tĩnh mạch sau đó truyền liên tục 50-100mg/ngày. Không cần điều trị Mineralocorticoid.

Hiệu quả lâm sàng thường nhanh, cho phép sau 24-48 giờ có thể chuyển thành uống. Diễn tiến thường tốt nếu điều trị kịp thời và đúng đắn.

6.  Điều trị các bệnh phối hợp, nếu có

  • Nâng cao thể trạng, bổ sung các vitamin thiết yếu.
  • Bổ sung thuốc hỗ trợ và bảo vệ tế bào gan.

Cách làm lẩu sườn thơm ngon tại nhà

Nguyên liệu món ăn

Sườn hớt: 500g

Lẩu sườn
Lẩu sườn

Dọc mùng: 200g

Chuối xanh: 100g

Đu đủ xanh: 100g

Cà chua:100g

Quả dọc (hoặc me): 50g

Mẻ: 50g

Nghệ: 20g

Hành hoa: 50g

Mùi tàu: 20g

Hành tây: 100g

Rau mùi: 30g

Bún: 500g

Tiêu, muối, nước mắm, mỳ chính, hành khô, giấm, ớt tươi.

Cách làm lẩu sườn thơm ngon tại nhà

Mẻ nghiền nhỏ lọc lấy nước, nghệ giã nhỏ vắt lấy nước.

Dọc mùng tước bỏ xơ, thái vát, bóp muối, rửa sạch, vắt khô.

Cà chua thái hình miếng cau.

Đu đủ gọt vỏ, rửa sạch bỏ ruột, cắt miếng con chì (bằng ngón tay).

Quả dọc nướng chín, bóc vỏ, nghiền nhỏ.

Me cạo vỏ, rửa sạch luộc chín, nghiền nát, lọc lấy nước chua.

Chuối xanh tước vỏ, thái miếng con chì, ngâm nước có giấm.

Sườn chặt miếng vuông hình quân cờ, ướp mắm, muối, mẻ, nghệ, hành khô, cho lên bếp đảo săn, đồ ngập nước, nấu sôi, hớt bọt đen, đun sôi nhỏ. Cho tiếp chuối xanh, đu đủ, đun tiếp tới khi mềm, nêm nước mắm, nước chua của quả dọc hoặc me và mỳ chính.

Hành tây thái mỏng. Hành hoa, mùi tàu, rau rửa sạch, vẩy khô, cắt khúc bày vào đĩa.

Bún chần qua nước sôi, vẩy khô, bày vào đĩa.

Lẩu sườn thơm ngon
Lẩu sườn thơm ngon

Khi ăn: Đổ canh sườn trên vào nồi lẩu, cho cà chua, dọc mùng vào. Bày lẩu trên bàn cùng với các đĩa bún, rau, hành. Người ăn lấy bún vào bát kèm theo rau, múc canh đang sôi trong lẩu chan vào bát. Ăn nóng.

Yêu cầu thành phẩm:

Canh sườn có màu vàng, sườn, đu đủ, chuối chín mềm, dọc mùng giòn. VỊ ngon, ngọt, chua dịu, mùi thơm dậy của hành mùi.

Lẩu sườn thơm ngon

Cơ Bản Về Thị Giác: Mắt Của Bạn Hoạt Động Như Thế Nào?

Tất cả đều bắt đầu từ ánh sáng. Ánh sáng phản chiếu từ một vật thể, và nếu vật thể đó nằm trong tầm nhìn của bạn, nó sẽ đi vào mắt bạn.

Điều đầu tiên ánh sáng chạm vào là một lớp nước mắt mỏng trên bề mặt của mắt. Đằng sau lớp nước mắt là cửa sổ phía trước của mắt bạn, giác mạc. Lớp trong suốt này giúp tập trung ánh sáng.

Ở phía bên kia là một chất lỏng gọi là dịch kính (aqueous humor). Nó tuần hoàn khắp phần trước của mắt và giữ cho áp suất bên trong ổn định.

Sau dịch kính, ánh sáng đi qua đồng tử. Đây là lỗ tròn trung tâm trong mống mắt, phần có màu của mắt bạn. Nó thay đổi kích thước để kiểm soát lượng ánh sáng đi vào sâu hơn.

Tiếp theo là thấu kính. Nó hoạt động giống như một chiếc máy ảnh để tập trung ánh sáng. Nó điều chỉnh hình dạng tùy thuộc vào việc ánh sáng phản chiếu từ một vật gần hay xa bạn.

Ánh sáng bây giờ đi vào trung tâm của nhãn cầu. Nó được ngâm trong độ ẩm từ một chất dạng thạch trong suốt gọi là dịch kính (vitreous).

Điểm đến cuối cùng của ánh sáng là võng mạc, lớp lót phía sau của mắt bạn. Nó giống như màn hình trong một rạp chiếu phim hoặc phim trong một chiếc máy ảnh. Ánh sáng được tập trung sẽ chiếu vào các tế bào gọi là tế bào nhạy sáng (photoreceptors).

Khác với một màn hình phim, võng mạc có nhiều phần:

  • Mạch máu cung cấp dinh dưỡng cho các tế bào thần kinh của bạn.
  • Vùng hoàng điểm (macula) là phần trung tâm của võng mạc. Trung tâm của nó được gọi là fovea. Bởi vì đây là điểm tiêu cự của mắt bạn, nó có nhiều đầu dây thần kinh nhạy sáng hơn bất kỳ phần nào khác.
  • Tế bào nhạy sáng có hai loại: quenón. Chúng là những đầu dây thần kinh đặc biệt chuyển đổi ánh sáng thành các tín hiệu điện hóa. Que hoạt động tốt hơn trong bóng tối và cho tầm nhìn bên. Nón hoạt động tốt hơn cho tầm nhìn trung tâm và màu sắc.
  • Biểu mô sắc tố võng mạc (RPE) là một lớp mô tối bên dưới các tế bào nhạy sáng. Những tế bào này hấp thụ ánh sáng dư thừa để các tế bào nhạy sáng có thể gửi tín hiệu rõ hơn. Chúng cũng di chuyển dinh dưỡng đến (và chất thải từ) các tế bào nhạy sáng đến lớp mạch máu bên dưới gọi là mạch mạc (choroid).

Mạch mạc nằm sau võng mạc và được tạo thành từ nhiều mạch máu nhỏ cung cấp dinh dưỡng cho võng mạc và RPE.

Củng mạc (sclera) là lớp ngoài cứng, trắng, và sợi của mắt bạn. Nó được kết nối với giác mạc trong suốt ở phía trước. Nó bảo vệ các cấu trúc tinh tế bên trong mắt.

Tín hiệu từ các tế bào nhạy sáng di chuyển dọc theo các sợi thần kinh đến dây thần kinh thị giác. Dây thần kinh này gửi tín hiệu đến trung tâm thị giác ở phía sau của não.

Và đó là cách bạn nhìn thấy: Ánh sáng, phản chiếu từ một vật thể, đi vào mắt, được tập trung, chuyển đổi thành các tín hiệu điện hóa, được gửi đến não và được giải thích, hay “thấy,” như một hình ảnh

Ngộ độc thuốc trừ sâu và cách phòng trị

Các loại thuốc trừ sâu chủ yếu

Với mục đích là bảo vệ thực vật hoặc diệt các loại côn trùng có hại, nhằm phòng trị các loại sinh vật có hại (bao gồm các loại chuột, thực vật, sâu bọ có hại, vi khuẩn và cỏ tạp gây ra bệnh hại cho thực vật, v.v…). Các loại thuốc làm giảm sự nguy hại của chúng đối với con người, hoặc các loại thuốc dùng để điều chỉnh sự sinh trưởng của thực vật, đều được gọi là thuốc trừ sâu. Chúng chủ yếu được dùng để thúc đẩy các cây công nghiệp đạt kết quả cao, phục vụ cho nhà nông (bao gồm hoa quả, rau, chè, thuốc lá, múa, …)

Dựa vào mục đích sử dụng cho nông nghiệp, thuốc trừ sâu đại thể được phân ra như sau:

  1. Thuốc diệt sâu bọ, dùng để chống lại các loại sâu bọ có hại, bao gồm các loại sâu có hại thông thường và các loại ve (loại nhện đỏ). Các loại sâu hại như sâu keo trên cây lúa nước, loại ve sầu đuôi đen, sâu cắn bông lúa, loại nhện đỏ trên cây bông, sâu quả bông, tố ngài trên cây táo, sâu cây chuối, sâu củ cải đường, sâu ở cam quýt, kiến trắng ở cây mía, sâu nho, sâu đào, sâu ở cây chè… Trên đây là các loại mà thuốc trừ sâu được sử dụng nhiều nhất, ở Trung Quốc sản lượng loại thuốc trừ sâu này chiếm trên 90%, các sản phẩm thường dùng cũng tương đối nhiều. Do độc tính của các loại thuốc này khá cao, dễ gây ngộ độc, trên 95% các ca ngộ độc đều do thuốc trừ sâu gây nên. Để tiện cho việc cấp cứu điều trị sau khi bị ngộ độc, chúng ta có thể xem chúng thuộc vào nhóm hóa chất nào, thành phần của nó, bởi vì điều trị cấp cứu các ca ngộ độc thuốc sâu có liên quan chặt chẽ với kết cấu hóa chất của thuốc trừ sâu. Các loại thuốc trừ sâu có cùng loại kết cấu hóa chất thì khi cấp cứu và điều trị các ca ngộ độc là giống nhau.
  • Loại Clo hữu cơ: Có 666 (ở Trung Quốc cấm sản xuất), DDT, thuốc sâu thơm, Trichloride diệt các loại ve; hỗn hợp của hai loại thuốc trừ sâu hữu cơ Clo và 889 có tác dụng diệt diệt sâu, hai loại thuốc trừ sâu clo hữu cơ hỗn hợp này đều là hỗn hợp của 666 và DDT tạo ra.
  • Loại Phospho hữu cơ: Độc tính tương đối cao, loại thường dùng cũng nhiều, có trộn lẫn cùng Phospho (3911), acid Sunfuric (1605), Phospho diệt sâu keo, thuốc trừ sâu, thuốc trừ sâu DDV…
  • Loại Nitơ hữu cơ: Có thuốc trừ sâu Amidin…
  • Loại Ethyl Carbamate: Có viêm Furfuran.
  • Các loại khác.

Các loại thuốc trừ sâu này trên thực tế là các chất độc thể khí, thường dùng để diệt các sâu hại cây lương thực. Do độc tính rất mạnh, nên người phun thuốc đeo mặt nạ để phòng độc, đồng thời cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc thao tác.

  1. Thuốc diệt khuẩn: Là thuốc dùng để phòng trị bệnh hại cho thực vật như bệnh đạo ôn ở cây lúa nước, bệnh khô vằn, bệnh khô lá, bệnh mục quả bông, bệnh ở cây lúa mạch… Cây cao lương, cây chè, cây thuốc lá, cây nho, cây táo, cà, cây đậu bôn mùa, các cây dưa, táo, lạc, đậu tương, mía, v.v…

Các loại thuốc trừ sâu này phát triển chậm hơn so với thuốc sát trùng, nhưng hiện nay cũng đã có rất nhiều loại, trước mắt cũng chiếm khoảng 5 đến 6% sản lượng thuốc trừ sâu. Độc tính thường không cao lắm như Benzene Hexachloride, thuốc đạo ôn, diệt ôn tán, thuốc kháng khuẩn 401, 402, … thuốc viên diệt khuẩn, thuốc diệt đạo ôn…

  1. Thuốc trừ cỏ: Dùng để diệt các loại cỏ tạp, các loại thuốc diệt cỏ như trước thời kỳ nảy mầm, thời kỳ nảy mầm, sau khi nảy mầm và thành cỏ, v.v… Thuốc diệt cỏ này được dùng rộng rãi để diệt cỏ và làm rụng lá… Độc tính thường là tương đối thấp.
  2. Thuốc diệt chuột: Chủ yếu dùng để diệt các loại chuột có hại ở cánh đồng, trên đồng cỏ, trong kho lương thực và trong gia đình. Các loại thuốc diệt chuột chủ yếu có thuốc diệt chuột có chứa Natri, và chứa Flo hữu cơ, Phosphat Kẽm và thuốc diệt chuột Inspetion.
  3. Thuốc diệt các loại động vật nhuyễn thể: Được dùng chủ yếu để tiêu diệt các loại ốc có hại.
  4. Thuốc điều tiết thực vật phát triển: Có khả năng điều tiết, thúc đẩy sự tăng trưởng và chuyển hóa của thực vật, thúc cho thực vật nhanh chóng phát triển, lên cây kết trái sớm. -Các loại thường dùng là chất làm cho cây um tùm không mọc vống lên chất Ethylene, chất 920 và viên thuốc điều tiết.

Có một số thuốc có thể kiêm vài loại tác dụng như Natripentachloride, vừa có tác dụng diệt cỏ dại, lại vừa có tác dụng diệt các loại ốc vặn hút máu truyền bệnh; thuốc điều tiết cho thực vật phát triển, vừa có tác dụng cho cây cao su không cao vóng lên, cho cây táo mọc nhiều cành, khống chế cho cây cam quýt phát triển vào mùa hè vừa phải. Ngoài ra cũng còn khống chế diệt trừ cỏ dại, vừa trừ được sâu bệnh còn có tác dụng kích thích cho cây bông phát triển, lại có tác dụng thúc đẩy cho cây hấp thụ chất dinh dưỡng, làm tăng sản lượng ở cây bông; thuốc diệt động vật nhuyễn thể vừa diệt được ốc vặn và diệt được cả Ốc sên, lại có tác dụng diệt được vi khuẩn.

Có loại thuốc nào cho cây nông nghiệp?

Loại thuốc sâu này do nhân công chế tạo gọi là nguyên dược. Đa số các loại nguyên dược này ít tan hoặc không tan trong nước, không phát tán thành các hạt nhỏ hoặc hạt dung dịch nho nhỏ. Nếu như không qua gia công, thì không thể sử dụng được cho các cây nông nghiệp. Mọi người không thể dùng lượng thuốc nhỏ, đi phun cho cả cánh đồng hoặc khu rừng cây với diện tích lớn, mà nồng độ thuốc phun lại quá cao, sẽ gây ra tác dụng có hại cho các cây nông nghiệp. Do vậy các loại thuốc cần phải gia công loãng thành các loại thuốc khác nhau, mới có thể sử dụng trong nông lâm nghiệp được. Người sử dụng phải căn cứ vào mục đích và điều kiện sử dụng để lựa chọn thuốc cho phù hợp. Hiện nay ở Trung Quốc có những loại thuốc dùng cho nông nghiệp như:

  1. Thuốc bột: là dùng nguyên dược bột đá và chất nhuyễn trộn lẫn với nhau nghiền nhỏ thành bột hỗn hợp Phospho hữu trương, 2,5% bột C4H8O4Cl3P, 1,5% hoặc 2% bột Rogor, 2% bột thuốc trừ sâu keo, 1,5% Methyl 1605, 5% bột Marathon, 20% thuốc trừ sâu bột Amidin, 1,5% hoặc 3% bột thuốc trừ đạo ôn, v.v… Các bột này thường không dễ tan trong nước, nên không thể pha nước vào để phun được. Bột thuốc này thường có nồng độ thấp, có thể phun bột trực tiếp (phương pháp này có độ bám dính kém, hiệu quả thuốc ngắn, nên hiệu quả kém). Nếu nồng độ thuốc bột có độc cao thì khi sử dụng phối hợp trộn với đất (tức là rắc thuốc xuống mặt đất, sau đó lại cày úp đất phủ lên, để thuốc sâu được phân tán trong đất đã cày úp xuống, tiêu diệt sâu bộ dưới mặt đất và thông qua đất nó các bệnh truyền nhiễm khác).
  2. Thuốc bột mịn: Đó là dùng nguyên dược, bột đá và bột mịn mài thành các hợp chất bột cực nhỏ, như 20% bột mịn Địch thảo long, 25% hoặc 50% bột mịn Lục mạch long, 10%, 25% hoặc 50% bột mịn Đa khuẩn linh, 30% bột mịn Đạo ôn, 60% bột mịn Rogor và 50% hoặc 80% C4H8O4Cl3P. Bột mịn ướt và các loại bột phổ biến khác nhau có thể dễ dàng tan trong nước, có thể phân tán và nổi lên trong nước, nên có thể phun và tưới được. Các cách dùng khác giống như thuốc bột, nhưng thường không dùng làm thuốc để phun.
  3. Loại thuốc bột có thể hòa tan được: Dùng thuốc sâu có thể hòa tan được trong nước hoặc có thể kết hợp với thuốc nguyên chất không tan trong nước được gia công giúp cho bột hỗn hợp này có thể tan trong nước, khi đã tan hết trong nước có thể đem ra phun được.
  4. Loại thuốc nước: Dùng thuốc có thể hòa tan trong nước pha với nước tạo thành: như 25% hoặc 50% thuốc nước Rogor, 25% thuốc trừ sâu nước… (thuốc sát trùng). Nếu gặp những thuốc khó tan trong nước cần pha thêm thuốc trợ tan rồi mới chế biến. Thuốc này dùng cho nông nghiệp, có thể dùng để phun, tưới, ngâm, trộn vào đất…
  5. Dầu (Lacticvil): Dùng cho thêm thuốc nhũ hóa và thuốc hòa tan để pha chế thuốc thành dịch thể dạng dầu như 20% dầu nổi Lactivil, 72% và 96% cho cây lúa to khỏe, 40% hoặc 50% Lactic làm sạch đạo ôn ở cây lúa; Lactic oil 2,5% diệt được hết, Lactic oil 20% viên thuốc sát trùng nhanh, 80% Lactic oil DDVP, 40% Lactic oil Rogor, 50% nhũ dầu diệt sâu keo. Lactic oil thường hay dùng nhất là để phun, tưới, trộn vào để trồng, ngâm để trồng, trộn với đất, quyện độc vào dây và bó lại. Loại thuốc này hiện nay đang được sản xuất rất nhiều.
  6. Thuốc dạng hạt: Dùng nguyên dược cho thêm đất vụn hoặc xỉ than để chế thành thuốc dạng hạt, như thuốc Furfuran dạng hạt 3%, 5%, 10%, thuốc Cin Sulfate Phospho dạng hạt 5%, thuốc Amin đinh thảo dạng hạt 5%, thuốc Sodium Pentachlorophenol 25% dạng hạt, thuốc dạng hạt có thể rải từ từ sẽ đem lại hiệu quả lâu dài, có thể rắc thuốc bỏ lỗ, nhét vào trong và rắc thuốc lên mặt lá. Trung Quốc đang phát triển rộng rãi loại thuốc này.
  7. Bột sữa và thuốc sữa thể rắn: Dùng nguyên dược của thuốc cho cây nông nghiệp pha với thuốc phân tán và thuốc nhũ hóa để chế thành chất thể rắn, sau khi cho nước vào khuấy lên cũng sẽ thành dung dịch trôi nổi giống như thuốc bột mịn ướt. Hiệu quả gần giống với loại nhũ dầu, như phấn nhũ diệt cỏ 25%, phấn nhũ thể rắn DDVP 25% và 50%.
  8. Thuốc hun khói: Dùng nông dược nguyên chất cho thêm chất đốt, thuốc ôxy hóa và thuốc bén lửa chế thành bột mịn hoặc vật hình thỏi, có một số loại giống như pháo, sau khi đốt có thể bốc cháy và có khói nhưng không có ngọn lửa. Dùng để diệt các loại sâu bọ trong phòng ở, kho tàng và rừng rú.

Ngoài ra còn có thuốc dầu, thuốc cao, thuốc viên, thuốc thể keo, thuốc thể hạt mịn, thuốc thể kén…, trong đó thuốc hạt nhỏ mịn, thuốc thể kén nhỏ có độ an toàn cao, có thể rắc rải chầm chậm trong đất đai đạt hiệu quả khá lâu. Có thể làm cho thuốc trừ sâu có độc tố cực cao trở thành thuốc có ít chất độc cho người và gia súc, ít bị ngộ độc. Đây chính là thuốc dùng cho cây nông nghiệp sau này cần được phát triển mạnh. Các loại thuốc sâu cũng có mối liên hệ nhất định với việc an toàn sử dụng thuốc. Nói chung thì thể rắn an toàn hơn thể lỏng, trong đó thuốc dạng hạt an toàn hơn, không dễ gây cho người sử dụng thuốc bị ngộ độc. Trong thuốc bột, hạt càng nhỏ thì khi phun càng dễ bay và lan bung ra theo gió, gây ô nhiễm, cũng dễ ô nhiễm không khí của người sử dụng thuốc qua đường hô hấp xâm nhập vào cơ thể; gây nguy hiểm cho sức khỏe. Thuốc dạng lỏng thường gây ngộ độc nhất là phun loại thuốc Lactic oil, thứ đến là loại thuốc nước diệt sâu bọ, chủ yếu là bị ngộ độc do hấp thu vào qua da, cho nên khi sử dụng loại thuốc này cần đặc biệt đề phòng và bảo vệ an toàn cho người. Thuốc hun khói dễ cháy và dễ nổ, khi vận chuyển cần chú ý đề phòng cháy và phòng nổ.

Tác dụng của thuốc trừ sâu đối với bảo vệ thực vật

Việc phát triển sản xuất thuốc trừ sâu hóa chất là nhằm đáp ứng yêu cầu-cho nông lâm nghiệp được bội thu. Trong lịch sử ngành nông lâm nghiệp đã từng gặp phải sự tấn công của sâu bệnh hại, gây ra nhiều tai hoạ cho nông lâm nghiệp. Ví dụ: năm 1917, do bệnh dịch từ nước Đức làm cho hầu như toàn bộ khoai tây trên cả nước bị hủy hoại. Thời kỳ năm 1930 đến 1958, tại Braxin có 7 triệu cây, Achentina có 10 triệu cây cam bị hủy hoại do sâu bệnh. Năm 1959 Hà Lan trồng thuốc lá, do cây gặp bệnh mốc lông tơ, nên một số vùng hầu như bị mất trắng, không có thu hoạch gì. Do vậy việc phòng trị sâu bệnh đã trở thành nhân tố hàng đầu nhằm kích thích sản xuất thuốc trừ sâu. Hiện nay tác dụng của thuốc trừ sâu nhằm bảo vệ thực vật là:

  1. Trừ sâu, trừ ve: Tác dụng hóa chất của loại thuốc này là diệt sâu diệt ve, có thể diệt từ trứng sâu, ấu trùng, và cả khi đã thành sâu to. Các phương thức chủ yếu là:
  • Diệt trực tiếp: Nghĩa là thuốc sâu tiếp xúc trực tiếp với trứng sâu hoặc da của sâu, thấm vào cơ thể sâu, làm cho côn trùng hoặc trứng sâu bị ngấm độc chết.
  • Làm cho chất độc vào trong ruột của sâu: Phun thuốc lên thực vật, côn trùng ăn vào, hệ tiêu hóa bị ngộ độc rồi chết.
  • Hấp thụ vào trong: Thuốc được rễ, cành, lá cây hấp thụ, sâu bọ ăn vào sẽ bị chết.
  • Bốc hơi: Thuốc bốc hơi trong không khí, thông qua hệ thống hô hấp xâm nhập vào cơ thể sâu, làm sâu ngộ độc mà chết.

Ngoài ra còn một số phương pháp khác như làm cho sâu nhảy nhót, không ăn (tức là sau khi sâu bọ dính thuốc sẽ né tránh, nhảy loạn xạ, không ăn nữa, cho tới chết đói), không cho sinh sản (khi sâu bị ngấm thuốc thì không sinh sản được nữa) và dính thuốc (thuốc dính vào, sâu không thể hoạt động được nữa).

Thuốc diệt sâu, diệt ve cũng thường làm hại những loại chim, sâu có ích cho con người. Khi dùng thuốc, cần theo đúng thời hạn, nồng độ, phương pháp, …. Chú ý bảo vệ các loại chim, sâu có ích. Các loại thuốc trừ sâu nặng thường có độc tính khá mạnh, rất dễ gây ra ngộ độc thuốc. Khi sử dụng cần đặc biệt chú ý công tác phòng hộ an toàn.

  1. Thuốc diệt khuẩn: Dùng để phòng trị các loại bệnh hại ở thực vật, có các tác dụng sau:
  • Tác dụng bảo vệ: Trước khi nguồn khuẩn xâm nhập vào, dùng nó để bảo vệ cho thực vật không nhiễm phải sâu bệnh. Thuốc có thể diệt được nguồn khuẩn bệnh có trên thân thực vật. Vào những năm 1950 Nhật Bản từng dùng thủy ngân hữu cơ (thủy ngân Axetat) để diệt khuẩn, tiến hành đề phòng bệnh đạo ôn ở cây lúa nước, đã đạt kết quả rất tốt (sau đó do thuốc gây ô nhiễm môi trường rất nhiều nên nay không được sử dụng nữa).
  • Chữa trị: Dùng để chữa trị sâu bệnh cho thực vật. Có thể diệt các khuẩn bệnh đã xâm nhập vào trong thân thực vật, làm cho thực vật không bị sâu bệnh nữa. Thông thường cần căn cứ vào loại vi khuẩn gây bệnh, để chọn loại thuốc nào điều trị sao cho đạt hiệu quả nhất. Ví dụ bệnh đạo ôn ở cây lúa nước thì chọn đúng thuốc về đạo ôn lúa nước. Còn bệnh khô lá phải chọn đúng thuốc về khô lá.

Độc tính của thuốc diệt khuẩn bị hấp thụ qua da, so với thuốc trừ sâu, trừ ve thì độc tính thấp hơn, nhưng cũng có thể gây ra ngộ độc, nên không thể sơ xuất được. Do độc tính của các loại thuốc ấy khá mạnh, nên việc điều trị và cấp cứu các ca bị ngộ độc này khá phức tạp.

  • Thuốc diệt chuột: Chuột là kẻ thù lớn ảnh hưởng đến mùa màng nông nghiệp, trong các hóa chất dùng để làm thuốc diệt chuột, người ta thường trộn thuốc với đồ ăn mà chuột thích, tạo thành bả chuột, hấp dẫn chuột đến ăn phải là chết.

Độc tính của thuốc diệt chuột khá mạnh, khi sử dụng cần đặc biệt chú ý an toàn. Nơi đặt bả không được để cho gia súc gia cầm đến gần, đồng thời cần chú ý đến mọi người xung quanh, đặc biệt cần giáo dục cho các cháu nhi đồng về công tác an toàn khi diệt chuột. Thuốc diệt chuột trên đồng cỏ có nồng độ Flo hữu cơ rất mạnh, cần hết sức chú ý công tác bảo hộ an toàn.

  • Thuốc diệt cỏ: Là loại thuốc đang được phát triển sản xuất mạnh mẽ cùng với quy mô hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp, làm giảm bớt được rất nhiều công lao động trong nông nghiệp, cũng là loại thuốc trừ sâu hiện nay đang được phát triển.

Thuốc diệt cỏ có hai loại là diệt toàn bộ cỏ và diệt có chọn lọc. Đối với loại thứ nhất cỏ dại và cỏ có hại cho nông nghiệp, chỉ cần nắm vững kỹ thuật sử dụng, mới có thể làm tốt công tác trừ cỏ mà không hại đến cây nông nghiệp Pentachlorphen Sodium là loại thuốc diệt cả ốc. Đối với loại thứ hai dùng thuốc đạt hiệu quả trong phạm vi lượng thuốc cho phép, thường là chỉ diệt cỏ dại mà không làm hại đến cây nông nghiệp.

Có thuốc diệt cỏ trước khi mọc mầm, diệt khi mọc mầm, thuốc diệt cỏ còn non và cỏ khi đã mọc đều. Ngoài ra còn có các loại thuốc rụng lá. Tác dụng của loại thuốc này cũng gồm hai loại là tiếp xúc trực tiếp và hấp thụ. Phương thức diệt cỏ qua việc tiếp xúc chỉ có thể diệt phần cỏ ở trên mặt đất, với phần ở dưới đất nó không có tác dụng lắm. Phương thức diệt cỏ qua con đường hấp thụ thuốc có thể hấp thu vào trong thân cỏ, cả xuống rễ, cọng, lá và toàn bộ cây cỏ, làm cỏ chết. Phương pháp này có thể diệt được loại cỏ một năm hay cỏ lâu năm.

Độc tính của thuốc diệt cỏ tương đôi thấp, nhưng nêu như ăn uống nhầm vào cơ thể, cũng có thể gây ngộ độc, cần hết sức lưu ý.

  • Thuốc điều tiết thực vật phát triển: Là thuốc để thúc đẩy hoặc điều tiết cho thảo mộc mọc và phát triển, là loại thuốc làm cho thực vật sớm chín hoặc phát triển. Như sau khi thực vật hấp thụ thuốc Ixilơ liền phát huy tác dụng kích thích thực vật, làm cây bông sớm chín, làm tăng và cải thiện được chất lượng sản phẩm, tăng sản lượng cao su và sản lượng của cây sơn, giúp cho táo, lê, dưa hấu chóng chín hơn. Loại 902 còn có tác dụng tăng sản lượng rõ rệt đối với bông, rau, lúa nước, v.v… Có thể nâng cao được tỷ lệ kết bông ở cây bông từ 10% đến 40%. Tăng sản lượng từ 30% đến 50%. Thuốc điều tiết có thể làm cho cây cao su không cao vọt, có thể giúp cho cây táo mọc thêm nhiều cành, khống chế cam quýt mọc cành vào mùa hè, đồng thời còn có thể diệt cỏ dại. Một số loại thuốc trừ sâu còn đồng thời là thuốc làm cho cây cối phát triển, có tác dụng nâng cao sản lượng. Như một số loại thuốc trừ sâu còn có thể giúp cây bông mau lớn, có tác dụng giúp số lượng hoa tăng lên, nâng sản lượng bông tăng 10 đến 25%, nó còn cho hiệu quả kích thích tiểu mạch, rau mọc nhanh và phát triển.

Loại thuốc điều tiết cho thực vật phát triển thường độc tính không cao, rất ít khi bị ngộ độc do hấp thụ qua da. Nhưng cũng không thể sơ suất trong đề phòng. Nếu như uống vào cơ thể, cũng có thể gây ra ngộ độc, tuy nhiên hậu quả có khi cũng khá nghiêm trọng, nên không thể xem thường.

Tác dụng của thuốc trừ sâu đối với con nguời

Thuốc trừ sâu là sản phẩm được phát triển theo sản xuất nông, lâm nghiệp, lợi ích mà nó phục vụ cho con người trước hết là có tác dụng bảo vệ, điều tiết cho thực vật, giúp cho nông lâm nghiệp tăng được sản lượng. Ví như Ga-na có thể tăng được sản lượng của ca cao. Trước năm 1954, do không có thuốc bảo vệ thực vật, ước tính sự tổn thất lên đến hơn 51% sản lượng. Năm 1957 bắt đầu tiến hành sản xuất thuốc bảo vệ thực vật, ngay năm đầu tiên bình quân sản lượng toàn quốc tăng 110%, năm thứ hai vượt hơn năm trước 50%.

Do sự phá hoại của sâu bệnh đã gây ra tổn thất về các cây trồng trên toàn thế giới đều thiệt hại khoảng 30% đến 35% tổng sản lượng. Theo sự tính toán của cơ quan chức năng, mỗi năm sản lượng lương thực trên thế giới có thể tăng 300 đến 350 triệu tấn do có sử dụng thuốc trừ sâu. nếu tính bình quân lương thực đầu người hàng năm là 250 kg, thì số lương thực trên có thể nuôi sống 1,2 đến 1,4 tỷ người.

Ngoài việc bảo vệ thực vật, thúc đẩy ruộng đồng tăng sản lượng, thuốc trừ sâu có thể giúp giảm bớt tiêu hao khi cất trữ lương thực, tức là giảm được các tổn thất do sâu hại, chuột phá hoại ở các kho lương thực.

Phương diện thứ hai mà thuốc trừ sâu phục vụ cho con người là khống chế các bệnh truyền nhiễm do côn trùng làm vật môi giới gây ra.

Lấy bệnh sốt rét làm ví dụ, nửa đầu của thế Kỷ XX, ước tính mỗi năm trên toàn thế giới có 300 triệu người mắc bệnh, trong đó có trên 3 triệu người chết vì bệnh này. Do sử dụng các thuốc chống muỗi như DDT, Sunfat Mara nên ngày nay căn bệnh sốt rét đã giảm di rõ rệt trên toàn thế giới, có 1/4 dân số ở các khu vực trên thế giới đã diệt được hoàn toàn căn bệnh sốt rét.

Do vậy có thể thấy, thuốc trừ sâu có lợi ích rất lớn với loài người, song thuốc trừ sâu rút cục lại là một chất có độc, và muốn phát huy tác dụng có ích, tránh mặt có hại, nghĩa là cần phải nắm vững kỹ thuật khi dùng thuốc trừ sâu, đồng thời hiểu rõ kỹ thuật cần thiết sử dụng thuốc trừ sâu, hiểu được an toàn bảo hộ, quyết không được lạm dụng việc sử dụng thuốc trừ sâu. Nếu không sẽ không những làm cho cây nông nghiệp bị hại, mà còn có thể gây ngộ độc cho người, gia súc.

Thuốc trừ sâu đưa lại cho loài người những vấn đề gì

Thuốc trừ sâu tuy đem lại những lợi ích rất lớn cho loài người, nhưng cũng xuất hiện nhiều vấn đề không tốt khi sử dụng lâu dài, mang lại cho con người nhiều phiền toái, bức thiết cần chúng ta xử lý và giải quyết.

  1. Ô nhiễm môi trường:

Theo thống kê, hiện nay trên toàn thế giới mỗi năm có khoảng 3 triệu rưởi đến 4 triệu tấn thuốc trừ sâu rải rác trên bề mặt của trái đất. Đa số lượng chất độc đổ ra môi trường sống của con người, chắc chắn làm ô nhiễm bầu khí quyển trong sạch, đất đai màu mỡ, các dòng sông cuồn cuộn, những đầm hồ và biển khơi mênh mông bát ngát. Thậm chí, nông dược chứa Flo hữu cơ, thủy ngân hữu cơ còn sót lại lâu dài, rất khó phân giải, thì mức độ ô nhiễm lại càng trầm trọng. Do tất cả các yếu tố để sự sống tồn tại như đất, nước, không khí… đều bị ô nhiễm, nông dược tự nhiên sẽ xâm nhập tồn tại trên cơ thể của hơn 2 triệu rưởi loài sinh vật ở hành tinh này của chúng ta, gây ảnh hưởng tiềm ẩn mặc nhiên, đương nhiên loài người cũng không ngoại lệ. Lương thực, rau, hoa quả mà mỗi ngày chúng ta ăn vào trong đó đều có các vi lượng nông dược sót lại. Do môi trường tự nhiên bị nông dược ô nhiễm rộng lớn, nên có thể phá hoại sự cân bằng sinh thái của giới tự nhiên nguyên sinh, như dùng nông dược có hóa chất nhiều lần với lượng lớn trong thời kỳ dài để diệt sâu hại, thì các loại thiên dịch của sâu hại cùng các sinh vật có ích cũng bị hại theo, làm mất đi khả năng khống chế sâu hại của tự nhiên. Đồng thời, sâu hại ngày càng kháng thuốc tăng lên, khiến cho sâu bọ có thể sinh sôi không bị hạn chế bắt buộc chúng ta phải dùng thuốc có độc tính mạnh hơn, nồng độ đậm hơn để đối phó với sâu bệnh, do đó sinh ra vòng tuần hoàn ác nghiệt, làm cho các sinh vật như chim, cá… cũng bị hại theo, thậm chí còn xuất hiện một số sinh vật kỳ dị. Cho nên vấn đề ô nhiễm môi trường do nông dược gây ra hiện nay đang là vấn đề cả thế giới quan tâm, trở thành một trong những nội dung chủ yếu trong bảo vệ môi trường.

  1. Ngộ độc mãn tính và ảnh hưởng mãn tính:

Với hàm lượng nông dược rất ít, không ngừng thâm nhập vào cơ thể trong nhiều năm tháng qua không khí, nước, thức ăn, cũng sẽ vô tình gây ra những ảnh hưởng không tốt đối với sức khỏe con người. Như những người tiếp xúc với nông dược Phospho hữu cơ trong thời gian dài, thì chức năng thần kinh sinh lý, thị lực, cơ năng điều tiết, hệ thống men trong cơ thể đều phải chịu những ảnh hưởng nhất định. Có một số nông dược, khi tiếp xúc với lượng ít thuốc trong thời gian dài sẽ gây ra 3 điều tác dụng xấu dị dạng, gây ung thư, và gây đột biến. Gây dị dạng chỉ sự dị dạng của thai nhi. Như thuốc Tikhushuang đem lại hiệu quả tốt trong việc ngăn ngừa bệnh khô lá của cây lúa, qua xét nghiệm ở động vật, đã xác định được có tác dụng này. Song ảnh hưởng của nó đối với con người như thế nào vẫn đang được nghiên cứu điều tra. Gây ra ung thư là chỉ loại nông dược có tác động thúc đẩy sinh ra khối u. Như xét nghiệm loại 666 trên động vật đã chứng minh là có thể gây ung thư, nhưng đối với con người có gây ung thư hay không thì còn đang tranh luận, vì còn thiếu những căn cứ đáng tin cậy. Gây ra đột biến là chỉ chất di truyền trong tế bào sinh vật có thay đổi bất ngờ, gây ảnh hưởng không tốt đối với sức khỏe con người, nó cũng có thể là cơ sở gây ra ung thư và dị dạng.

Ngộ độc mãn tính còn nặng hơn ảnh hưởng mãn tính, tức là chỉ tác dụng độc tố mãn tính của nông dược, bệnh lý trong cơ thể đã thay đổi, và cũng có những triệu chứng tương ứng. Những nông dược có độc tố cao còn sót lại cũng thường gặp rất nhiều vì khi các chất đó xâm nhập vào cơ thể, thì không dễ dàng gì phân giải và bài tiết, rồi tích tụ trong cơ thể trở thành cơ sở để gây ra các loại bệnh. Như khi sử dụng thuốc trừ sâu có chứa thủy ngân hữu cơ sẽ gây ra ngộ độc mãn tính thủy ngân

trung tính với biểu hiện chủ yếu là chức năng hệ thần kinh trở nên thất thường. Thuốc trừ sâu có Flo hữu có cũng gây ra ngộ độc mãn tính với biểu hiện là các biến chứng thần kinh trung ương và xung quanh. Các ca ngộ độc trên thường hay xảy ra với những công nhân ở xưởng nông dược hay phải tiếp xúc với chúng, cho nên xưởng nông dược cần chú ý làm thật tốt công tác phòng trị.

  1. Ngộ độc cấp tính

Là chỉ ca ngộ độc do tiếp xúc với quá nhiều thuốc sâu trong một lần gây ra nguy kịch. Ca này thường gặp nhất ở các loại thuốc trừ sâu Phospho hữu cơ có độc tính tương đối cao. Hơn nữa loại sản phẩm có độc tính càng cao thì càng dễ gây ngộ độc cấp tính. Ngoài Phospho hữu cơ ra, loại thuốc trừ sâu khác cũng gây ra ngộ độc cấp tính. Thuốc sâu với chất độc thấp cũng không ngoại lệ. Viên Furfuran, thuốc diệt bọ lá, thuốc diệt chuột, v.v… đều là những loại thuốc độc cấp tính thường gặp ở trong nông dược.

Làm thế nào để phân biệt được độc tố của thuốc trừ sâu

Độc tính của thuốc trừ sâu và khả năng (thường gọi là hoạt tính hay hiệu quả của thuốc) diệt sâu, trừ cỏ của nó không phải có cùng một tác dụng. Hoạt tính hoặc công hiệu của thuốc chủ yếu là khả năng diệt sâu, diệt cỏ, còn độc tính là nói đến ảnh hưởng của nó đối với con người và gia súc. Tuy nhiên hoạt tính và độc tính lại có liên quan đến nhau, nhưng khi nói đến chúng thì không thể giống nhau được. Có những loại thuốc sâu có hoạt tính cao, có sức tiêu diệt sâu, trừ cỏ rất mạnh, cũng rất có hại cho sức khỏe người và súc vật, như loai trôn Phospho (3911), loại lút phải Phospho (1059), v.v… Cũng có loại thuốc sâu tuy sức hoạt động rất mạnh, nhưng độc tính đối với người và súc vật lại rất thấp, như Sulfate mara, Rogor, v.v… Cho nên việc cho rằng loại thuốc trừ sâu có độc tính càng cao đối với người và gia súc thì hoạt tính nhất định cao, hoặc lại cho rằng loại thuốc sâu không giết chết sâu bọ, thì độc tính với người, súc vật lại thấp, đều là sai cả.

Muốn xác định được độ độc mạnh hay yếu của một loại thuốc trừ sâu, không phải là một việc dễ, là vì:

  1. Thuốc trừ sâu có thể thâm nhập vào cơ thể con người thông qua nhiều con đường khác nhau. Cùng là một loại thuốc trừ sâu, nhưng đi vào cơ thể qua các con đường khác nhau, thì đặc tính cũng sẽ biểu hiện không giống nhau. Ví dụ như Rogor thấm qua da thì độc tính tương đối yếu, nhưng nếu như lại thâm -nhập vào cơ thể qua mồm thì độc tính sẽ rất mạnh. Thông .thường thì độc tính đi qua mồm thường mạnh hơn độc tính xâm nhập qua niêm mạc da, độc tính thông qua việc hít qua đường hô hấp lại càng mạnh hơn.
  2. Xác định độ mạnh yếu về độc tính của thuốc sâu cần phải trải qua xét nghiệm. Nhưng các loại xét nghiệm này không thể tiến hành trên người giống như “Thần nông thưởng bách thảo” được, mà chỉ có thể dùng động vật để xét nghiệm. Do việc chuyển hóa và thay đổi nông dược trong cơ thể của người và động vật không hoàn toàn giống nhau, cho nên không thể hoàn toàn đem kết quả thu được khi xét nghiệm ở động vật mà ứng dụng vào người được.
  3. Phương pháp biểu thị của độc tính, cần có một đơn vị để tính, giống như khi chúng ta mua hàng phải dùng đến cân, lạng, thước, tấc, v.v… mới tiện cho so sánh lẫn nhau.

Hiện nay cần phân biệt rõ độc tính đi qua mồm và qua da, vì các ca ngộ độc hít phải qua đường hô hấp là rất ít gặp, cho nên không liệt nó vào nữa. Khi xét nghiệm động vật thường dùng loại chuột bạch to và nhỏ để tiện cho so sánh lẫn nhau. Đơn vị để tính của nông dược hiện nay đã thống nhất dùng nửa liều lượng gây tử vong (LD50) cái tên gọi ấy để làm đơn vị tính gọi là nửa liều lượng gây chết. Tức là sau khi xét nghiệm động vật đã nhiễm thuốc sâu trên da hoặc còn trong dạ dày. Một nửa liều lượng thuốc gây cho những động vật ấy chết. Liều lượng thuốc sâu dùng lúc này là tính xem bao nhiêu mg cho 1 kg thể trọng, cho nên lấy một nửa liều thuốc dẫn đến chết được biểu thị bằng mg/kg. Con số ấy càng nhỏ, tức là độc tính của thuốc sâu càng lớn. Ngược lại con số ấy càng lớn thì độc tính của thuốc nhỏ hơn. Căn cứ vào chỉ số này to hay nhỏ chúng ta có thể phân tích được độc tính của các loại thuốc trừ sâu, có thể phân cấp được độc tính. Bây giờ xin giới thiệu tiêu chuẩn phân cấp độc tính hoặc sự nguy hại về thuốc trừ sâu của Tổ chức Y tế thế giới và ngành nông lâm Trung Quốc.

BIỂU 6: TIÊU CHUẨN ĐỂ PHÂN LOẠI VỀ SỰ NGUY HIỂM CỦA THUỐC SÂU DO TỔ CHỨC Y TẾ THẾ GIỚI ĐỀ NGHỊ

LD50 CHUỘT LỚN ĂN PHẢI (MG/KG) LD50 CHUỘT LỚN TIẾP XÚC QUA DA (MG/KG)
THỂ RẮN THỂ LỎNG THỂ RẮN THỂ LỎNG
1. Loại rất nguy hiểm 5 hoặc <5 20 hoặc < 20 10 hoặc < 10 40 hoặc < 40
2. Loại nguy hiểm cao 5 ~ 50 20 ~ 200 10 ~ 100 40 ~ 400
3. Loại nguy hiểm vừa 50 ~ 500 200 ~ 2000 100 ~ 1000 400 ~ 4000
4. Loại nguy hiểm ít > 500 >2000 >1000 >4000

Cần chú ý phân biệt rõ các loại thuốc cực độc, rất độc, độc vừa, độc thấp hoặc cơ bản không độc, chỉ trong điều kiện đặc biệt, ta hay so sánh tương đối thôi, giữa chúng với nhau không có giới hạn tuyệt đối, chỉ dựa vào lượng đã xâm nhập vào cơ thể là bao nhiêu dẫn tới hậu quả giống nhau khi xét nghiệm động vật, để phân biệt một cách tương đối. Nếu như để một lượng lớn thuốc trừ sâu có độc tính thấp (đặc biệt là uống vào) cơ thể con người thì vẫn có thể làm chết người. Nếu như làm tốt công tác đề phòng an toàn các chất cực độc ở thuốc, lượng ô nhiễm nhỏ, thì không phải lo lắng gì. Cho nên không thể coi thường công tác an toàn ở các loại thuốc có độc tính thấp, khi sử dụng tuyệt đối không thể buông lỏng công tác bảo hộ an toàn.

Xu thế phát triển thuốc trừ sâu

Như trên đã nói, các loại thuốc trừ sâu hóa chất đem lại lợi ích rất lớn cho con người, nhưng cũng đem lại không ít điều phiền toái. Tuy nhiên từ những năm 70 lại đây, đã bắt đầu đề ra phương án phát triển thuốc trừ sâu thế hệ 3 của cái gọi là không có hại, nhưng từ nay về sau có thể dự kiến thời gian còn lâu nữa việc bảo vệ thực vật ngành nông lâm nghiệp vẫn phải sử dụng đến nông dược hóa chất. Do đó, ngoài việc quá độ phát triển thuốc trừ sâu thế hệ 3, cần có biện pháp để tăng lợi, giảm hại cho các loại nông dược hóa chất. Các loại thuốc có độc tính mạnh còn sót lại và không dễ phân hủy trong môi trường, sẽ từng bước đào thải, như thuốc có chứa thủy ngân hữu cơ đã bị đào thải, thuốc DDT 666 có chứa Chlor, v.v… đã bắt đầu đào thải. Thuốc diệt chuột có Flo hữu cơ, Phospho hữu cơ cực độc (như 1059, 1605, 3911, 203, v.v…) cũng sẽ được đào thải. Dựa vào báo cáo của các ngành hữu quan phân tích, trong các loại nông dược hóa chất thì loại nông dược Phospho hữu cơ, loại Ethyl Carbamate và loại Mezhe sẽ là 3 loại chính để phát triển sản xuất nông dược hóa chất về sau này, bởi vì các nông dược này có hiệu quả lớn, ít bị sót lại trong môi trường, phát triển thành các sản phẩm ưu việt cũng nhanh, nhưng những loại sản phẩm có độc tính cao cũng dẫn dần được thay thế bằng các sản phẩm mới có độc tính thấp. Do vậy việc triển khai công tác an toàn cho thuốc, thì 3 loại thuốc này sẽ là đối tượng chủ yếu từ nay về sau và cũng là trọng điểm để chúng ta nghiên cứu từ nay về sau. Mặt khác khi thay đổi cải tiến các loại thuốc, cũng sẽ phát triển sản xuất nhiều loại thuốc hình kén nhỏ, thuốc có liều lượng thấp và thuốc ở dạng hạt. Bởi vì các loại thuốc này không những kéo dài được hiệu quả của thuốc, giảm được số lần dùng thuốc, mà còn giảm thiểu được các loại thuốc có độc tố cao xuống thấp, về mặt kỹ thuật sử dụng thuốc cũng sẽ áp dụng kỹ thuật phun mới với dung lượng cực thấp, tức là dùng nguyên ‘chất nông dược phụ thêm dung dịch thích đáng để chế thành thuốc dầu có nồng độ cao. Khi sử dụng không phải pha thêm nước, dùng máy bay hoặc dụng cụ phun dung lượng thấp để phun, làm như vậy không những tiết kiệm được lượng thuốc, công hiệu cao, mà nó còn giảm thiểu được ô nhiễm. Đồng thời cần phải bảo vệ hoặc nuôi dưỡng các loài là kẻ thù của sâu hại (như chim sâu…), lấy vi khuẩn trị sâu, lấy sâu trị sâu. Các biện pháp phòng trị tổng hợp như việc hạn chế việc sử dụng thuốc trừ sâu có hóa chất sẽ được phát triển, chỉ có như vậy mới đạt được mục đích phòng trừ sâu, giảm thiểu được các trường hợp bị ngộ độc do ô nhiễm thuốc trừ sâu.

Tóm lại, cùng với sự tiến bộ của khoa học và sự coi trọng bảo vệ môi trường của con người, mặt có hại của nông dược hóa chất sẽ dần được con người khắc phục, đồng thời sẽ phát huy cao nhất lợi ích của nông dược, nhằm phòng trị mọi loại sâu bệnh, nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn cho sản xuất của loài người phát triển.

Ngộ độc thuốc trừ sâu nguy hiểm đến mức nào

Ngộ độc thuốc trừ sâu cấp tính là loại bệnh rất nguy hiểm, thậm chí nếu ngộ độc do uống thì tỷ lệ tử vong tương đối cao, gây nguy hiểm cho tính mạng và sức khỏe của con người. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của cơ quan y tế tại tỉnh X sử dụng thuốc trừ sâu nhiều nhất ở Trung Quốc bình quân mỗi năm xảy ra khoảng 20 ngàn lượt người bị ngộ độc thuốc trừ sâu, trong đó ngộ độc do tiếp xúc khi sản xuất chiếm 80%; tỷ lệ tử vong 0,26% đến 0,42%; ngộ độc không phải do sản xuất (ngộ độc do uống là chủ yếu) chiếm khoảng 20%, tỷ lệ tử vong từ 15% đến 20%. Do vậy đã kéo theo những tổn thất về kinh tế (chỉ tính những chi phí tổn trực tiếp chi phí cho bệnh viện và phải nghỉ việc), mỗi năm cũng hàng chục triệu đồng. Một số ca ngộ độc thuốc sâu do sản xuất còn thường phải ngừng sản xuất, như tại hai xưởng sản xuất thuốc trừ sâu ở hai thành phố của tỉnh X, do trong công nhân có người chết vì ngộ độc nông dược lân hữu cơ nên phải ngừng sản xuất, ngắn thì cũng phải mất 2 đến 3 ngày, dài phải trên một tuần. Khi phun thuốc sâu ở ngoài đồng ruộng cũng có khi do xảy ra ngộ độc tập thể mà bắt buộc phải dừng mọi công việc lại.

Đối với các ca ngộ độc mãn tính, thường rất khó phát hiện, bởi vì sự nguy hại của thuốc sâu đối với sức khỏe thường là vô tình, từ ngày này qua tháng khác, đến khi bệnh đã biểu hiện rõ rệt, thì nói chung rất khó điều trị được khỏi hoàn toàn, gây rất nhiều nguy hại cho sức khỏe con người.

Tóm lại, ngộ độc thuốc trừ sâu sẽ làm tổn hại đến sức khỏe, uy hiếp đến tính mạng, còn trực tiếp và gián tiếp gây ra nhiều thiệt hại to lớn về kinh tế và sản xuất. Do vậy, không thể xem nhẹ các ca ngộ độc thuốc trừ sâu, nhất định phải quán triệt phương châm đề phòng là chủ yếu, có các biện pháp cần thiết ngăn ngừa không để xảy ra.

Công tác an toàn khi vận chuyển và mang theo thuốc trừ sâu

Trong quá trình vận chuyển rất có thể xảy ra các sự cố về ngộ độc thuốc trừ sâu do bao bì bị rách, thuốc bột, thuốc nước, thuốc thể khí phát tán ra. Cho nên, khi vận chuyển nông dược cần căn cứ vào mức độ nguy hiểm của chất độc mà định ra quy trình thao tác an toàn. Trước khi thuốc được chuyển đi hoặc mang theo, người vận chuyển hoặc người mang theo phải nắm vững tên của thuốc, các tính chất cơ bản và độc tính của thuốc, các kiến thức về cấp cứu khi xảy ra ngộ độc, không thể vận chuyển thuốc sâu một cách mù quáng, đôi với việc vận chuyển thuốc trừ sâu nhất định không thể nói là không hiểu biết gì cả. Trước khi vận chuyển thuốc sâu phải kiểm tra xem đóng gói có gọn ghẽ không, có đúng cách chưa, đã hoàn chỉnh chưa, nếu bao bì bị rách thì không được vận chuyển.

Khi vận chuyển thuốc trừ sâu cần có xe chuyên dụng hoặc khoang toa xe chuyên dụng, không thể để phân hóa học lẫn với các đống hàng tiêu dùng khác, tuyệt đối.không được để chung với thực phẩm. Các bình, chai đựng thuốc không được dốc ngược. Trên đường vận chuyển, nếu như phát hiện thấy bao bì bị rách, cần lập tức có biện pháp khắc phục ngay, thay bao mới. Khi thuốc bột, thuốc nước bị chảy ra, sau khi rửa sạch còn phải lấy tro hoặc vôi bột rửa sạch những nơi chỗ bị ô nhiễm.

Đối với các loại thuốc có chứa chất độc là thể khí như Alumin Phosphide, Zine Chloropicrin, … có thể bốc bay hoặc sau khi bị ẩm ướt cũng bốc hơi lên. Khi xử lý bao bì bị vỡ, còn cần phải đeo mặt nạ phòng độc, khi mở cửa (kể cả cửa sổ) cần phải theo hướng dưới gió không có người, để khí độc tiêu tán hết trong không khí theo hướng gió.

Thuốc trừ sâu nhũ thường dùng là 3 loại dung dịch như: Renzen, Toluene và Dibenzyl. Ba loại thuốc này là hàng dễ cháy. Nông dược hun khói có chất oxy hóa và chất bén lửa, cho nên khi vận chuyển loại thuốc này cần chú ý đề phòng cháy và tránh lửa, ánh nắng ở nhiệt độ cao.

Trong quá trình vận chuyển nếu như gặp sự cố là thuốc trừ sâu làm ô nhiễm nguồn nước, cần kịp thời báo cáo cơ quan y tế của địa phương ngay, để tránh bị ngộ độc do dùng phải nguồn nước đo ở hạ lưu. Vào mùa hè khi bốc dỡ thuốc phải đeo, mặc mũ áo bảo hộ đầy đủ, không thể để tay trần mà bốc dỡ thuốc, nếu không sẽ dễ bị ngộ độc. Khi bốc dỡ thuốc, không được hút thuốc hoặc ăn, thời gian mỗi lần bốc dỡ không nên kéo quá dài, khi bốc dỡ xong cần cởi bỏ mũ áo phòng hộ ra, cần phải rửa tay, rửa mặt hoặc tắm. Sau khi cởi bỏ mũ áo phòng hộ ra phải giặt giữ hoặc xử lý sát trùng theo định kỳ, tiện cho việc sử dụng lần sau.

Cách làm lẩu thịt – dồi lợn thơm ngon tại nhà

Nguyên liệu món ăn

Thịt lợn mông sấn luộc, dồi tiết. Dạ dày và khẩu đuôi luộc, mỗi thứ 200g. Dưa chua, mỳ sợi, đậu phụ ướp lạnh mỗi thứ 250g. Thịt hàu, nước dùng, muối, mỳ chính, tôm nõn, hành hoa, gừng băm nhỏ, đậu phụ nhự, tương, rau hẹ, tỏi giã, xì dầu, tương vừng, tương, rau thơm, rau hẹ muối, mỗi thứ một ít.

Đậu phụ lạnh
Đậu phụ lạnh

Cách làm lẩu thịt – dồi lợn

Thịt mông sấn thái miếng mỏng. Dồi tiết xắt miếng dày 1,5 cm. Dạ dày luộc thái con chỉ. Khấu đuôi thái miếng. Đậu phụ ướp lạnh thái miếng hình chữ nhật. Dưa thái nhỏ. Mỳ sợi cắt ngắn chần qua. Thịt hàu rửa sạch. Sau khi làm xong những thứ trên, bày vào khay.

Khẩu đuôi thái miếng
Khẩu đuôi thái miếng

Sắp sẵn các loại gia vị vào đĩa nhỏ để chấm ăn.

Đổ nước dùng vào nồi lẩu đun sôi, nêm muối, mỳ chính, rồi cho tôm nõn, hành hoa, gừng băm nhỏ, dưa muối thái nhỏ, mỳ sợi vào nồi lẩu, khi sôi lại có thể ăn được tuỳ theo khẩu vị mà bày các loại gia vị kèm lên mâm, khi ăn nhúng thức ăn vào nồi lẩu, chấm gia vị.

Yêu cầu thành phẩm:

Thịt lợn mềm, dạ dày luộc trắng, giòn. Nước dùng trong sôi liên tục.

Lẩu dồi lợn
Lẩu dồi lợn

Bệnh viêm mạch nguyên phát và thứ phát

ĐỊNH NGHĨA VÀ BỆNH SINH

Một quá trình bệnh học lâm sàng được đặc trưng bởi tình trạng viêm và tổn thương của mạch máu, làm tổn thương lòng mạch, và dẫn đến thiếu máu cục bộ. Biểu hiện lâm sàng phụ thuộc vào vị trí và kích thước của mạch máu bị ảnh hưởng. Hầu hết các hội chứng viêm mạch xuất hiện qua trung gian cơ chế miễn dịch. Có thể nguyên phát hoặc là triệu chứng
duy nhất của một bệnh hoặc thứ phát sau tiến trình của bệnh khác. Hội chứng viêm mạch duy nhất có thể rất khác biệt với các đặc điểm lâm sàng, mức độ nghiêm trọng của bệnh, mô học và điều trị.

NHỮNG HỘI CHỨNG VIÊM MẠCH NGUYÊN PHÁT

Bệnh viêm u hạt đa mạch (bệnh u hạt Wegener)

Viêm mạch u hạt của đường hô hấp trên và dưới đều có kèm viêm cầu thận; tổn thương đường hô hấp trên ảnh hưởng tới mũi và xoang có thể gây chảy máu và mủ ở mũi, loét niêm mạc, thủng vách mũi, và phá hủy sụn (biến dạng gãy mũi). Bệnh ở phổi có thể không có triệu chứng hoặc gây ho, ho máu, khó thở; bệnh ở mắt có thể xảy ra; viêm cầu thận có thể tiến triển nhanh và không có triệu chứng và có thể dẫn đến suy thận.

Hội chứng Churg-Strauss

Viêm mạch u hạt của nhiều hệ thống cơ quan, đặc biệt là phổi; đặc trưng bởi hen, tăng bạch cầu ái toan ngoại vi, thâm nhiễm bạch cầu ở mô; viêm cầu thận có thể xảy ra.

Viêm đa động mạch nút (PAN)

Xảy ra ở các động mạch cơ trung bình; thường kết hợp với phình mạch máu trên x-quang; thường ảnh hưởng đến động mạch thận, gan, đường tiêu hóa, thần kinh ngoại biên, da, tim; có thể kết hợp với viêm gan B.

Viêm đa vi mạch

Viêm các mạch máu nhỏ có thể ảnh hưởng tới cầu thận và phổi; các mạch máu trung bình cũng có thể bị ảnh hưởng.

Viêm động mạch tế bào khổng lồ

Viêm của các động mạch cỡ trung bình và lớn; chủ yếu liên quan đến động mạch thái dương nhưng viêm ở các mạch lớn và toàn thân có thể xảy ra; các triệu chứng bao gồm đau đầu, đau hàm/lưỡi khi nhai, da đầu nhạy cảm, sốt, triệu chứng cơ xương (đau đa cơ do thấp khớp); mù đột ngột do bệnh xảy ra ở các mạch máu mắt như một biến chứng đáng sợ.

Bệnh viêm động mạch Takayasu

Viêm các động mạch lớn chủ yếu là cung động mạch chủ và các nhánh của nó; gặp nhiều nhất ở phụ nữ trẻ; biểu hiện với triệu chứng viêm và thiếu máu cục bộ ở tay và cổ, triệu chứng viêm toàn thân, trào ngược động mạch chủ.

Ban xuất huyết Schönlein-Henoch

Đặc trưng bởi sự tham gia của da, đường tiêu hóa và thận; gặp nhiều hơn ở trẻ em; có thể tái phát sau khi đã thuyên giảm.

Viêm mạch tăng cryoglobulin máu

Đa số các trường hợp liên quan đến bệnh viêm gan C khi phản ứng miễn dịch bất thường dẫn đến hình thành cryoglobulin; đặc trưng bởi viêm mạch ở da, viêm khớp, bệnh thần kinh ngoại biên và viêm cầu thận.

Viêm mạch ở da tự phát

Được định nghĩa là viêm các mạch máu của hạ bì; do các bệnh lý nền >70% các trường hợp (xem “Hội chứng viêm mạch thứ phát”, bên dưới) với 30 % xảy ra một cách tự phát.

Hội chứng viêm mạch hỗn hợp

Bệnh Kawasaki (hội chứng da niêm mạc và hạch lympho)

Viêm mạch khu trú của hệ thống thần kinh trung ương

Hội chứng Behçet

Hội chứng Cogan

Hội chứng viêm đa mạch chồng lấp

HỘI CHỨNG VIÊM MẠCH THỨ PHÁT

Viêm mạch do thuốc

Bệnh huyết thanh

Viêm mạch kết hợp với bệnh nhiễm trùng, bệnh ác tính, bệnh thấp

LƯỢNG GIÁ (XEM HÌNH 170-1)

Hỏi bệnh sử và thăm khám tỉ mỉ—đặc biệt là các biểu hiện thiếu máu cục bộ và dấu hiệu/triệu chứng của viêm hệ thống.

Xét nghiệm—quan trọng trong việc đánh giá các cơ quan: công thức máu toàn bộ, tốc độ máu lắng, kiểm tra chức năng thận, phân tích nước tiểu. Để loại trừ các bệnh khác: kháng thể kháng nhân, yếu tố thấp, kháng thể kháng màng đáy cầu thận, huyết thanh viêm gan B/C, HIV.

Tự kháng thể kháng bạch cầu đa nhân (ANCA)—kết hợp với bệnh viêm u hạt đa mạch (bệnh u hạt Wegener), viêm đa vi mạch, và một số bệnh nhân có hội chứng Churg-Strauss; sự có mặt của ANCA là bổ trợ và không nên được sử dụng thay thế cho sinh thiết để chẩn đoán hoặc hướng dẫn điều trị.

X-quang—nên làm x-quang ngực kể cả khi không có triệu chứng.

Chẩn đoán—thường chỉ có thể chẩn đoán bằng động mạch đồ hoặc sinh thiết các cơ quan bị ảnh hưởng.

CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT

Được gợi ý bởi các biểu hiện ở cơ quan. Trong nhiều trường hợp bao gồm nhiễm trùng và u, phải được loại trừ trước khi bắt đầu liệu pháp ức chế miễn dịch. Cần xem xét với các bệnh giống với viêm mạch (Bảng 170-1)

viêm mạch

HÌNH 170-1 Thuật toán cho việc tiếp cận với một bệnh nhân nghi ngờ chẩn đoán viêm mạch.

ĐIỀU TRỊ Bệnh viêm mạch

Điều trị dựa vào hội chứng viêm mạch cụ thể và mức độ nghiêm trọng của các biểu hiện của nó. Liệu pháp ức chế miễn dịch nên tránh dùng trong bệnh hiếm khi gây rối loạn chức năng hệ thống cơ quan không thể phục hồi hoặc không đáp ứng với các tác nhân như vậy (Viêm mạch ở da khu trú). Thuốc kháng virus đóng một vai trò quan trọng trong điều trị viêm mạch có kèm viêm gan B/C. Glucocorticoid đơn thuần có thể kiểm soát viêm động mạch tế bào khổng lồ và viêm động mạch Takayasu. Liệu pháp kết hợp Glucocorticoid với thuốc ức chế miễn
dịch khác là đặc biệt quan trọng trong các hội chứng với sự tham gia của hệ thống cơ quan đe dọa tính mạng, đặc biệt là viêm cầu thận hoạt động. Các thuốc thường được dùng là:

  • Prednison ban đầu 1 (mg/kg)/ngày, sau giảm dần.
  • Cyclophosphamid 2 (mg/kg)/ngày, chỉnh liều để tránh giảm nặng bạch cầu. Uống vào buổi sáng với nhiều nước là quan trọng để giảm thiểu độc tính với bàng quang. Cyclophosphamid tĩnh mạch (15 mg/kg 3 liều mỗi 2 tuần sau đó cho mỗi 3 tuần) cũng có thể làm thuyên giảm bệnh nhưng tỉ lệ tái phát lại cao hơn. Điều trị nên giới hạn từ 3–6 tháng
    sau đó chuyển sang điều trị bảo tồn với Methotrexat hoặc Azathioprin.
  • Rituximab 375 (mg/m2)/tuần trong 4 tuần. Hiệu quả như Cyclophosphamid để làm thuyên giảm bệnh viêm đa mạch u hạt (u hạt Wegener) hoặc viêm đa vi mạch. Tỉ lệ tái phát, an toàn lâu dài, tần số nhắc lại liều còn chưa rõ.
  • Methotrexat dùng hàng tuần với liều đến 25 mg/tuần có thể làm thuyên giảm bệnh viêm đa mạch u hạt (u hạt Wegener) hoặc viêm đa vi mạch ở bệnh nhân không có bệnh đe dọa tính mạng tức thì hoặc không thể dùng được Cyclophosphamid. Nó cũng có thể được dùng để duy trì sự thuyên giảm sau khi đáp ứng với Cyclo-phosphamid. Không thể dùng khi có suy thận hoặc bệnh gan mạn.
  • Azathioprin 2 (mg/kg)/ngày. Ít hiệu quả khi điều trị bệnh đang hoạt động nhứng hữu ích khi duy trì sự thuyên giảm sau khi đáp ứng với Cyclophosphamid.
  • Mycophenolat mofetil 1000 mg 2 lần/ngày. Ít tác dụng hơn Azathioprin để suy trì sự thuyên giảm nhưng có thể dùng cho bệnh nhân không thể dùng hoặc tái phát bệnh khi dùng Methotrexat và Azathioprin.
  • Tách huyết tương có thể có vai trò bổ trợ trong viêm cầu thận tiến triển nhanh.

BẢNG 170-1 NHỮNG BỆNH CẢNH GIỐNG VIÊM MẠCH

Các bệnh nhiễm trùng

Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn
Nhiễm khuẩn lậu lan tỏa
Sốt thung lũng
Giang mai
Bệnh lyme
Sốt phát ban vùng núi đá
Bệnh Whipple

Bệnh đông máu/huyết khối vi mạch

Hội chứng kháng thể kháng phospholipid

Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối

U

U nhầy tâm nhĩ
U lympho
Ung thư

Do độc tính của thuốc

Cocain
Amphetamin
Ergot alkalois
Methysergide
Arsen

Bệnh sarcoid

Bệnh xơ vữa tắc mạch

Bệnh kháng thể kháng màng đáy cầu thận (hội chứng Goodpasture)

Bệnh thoái hóa dạng bột

Migraine


Các loại trà chữa Stress hàng ngày hiệu quả cao

Stress hay thường gọi là chứng phiền muộn là do mật trong cơ thể tiết ra quá nhiều, sau khi vào não, nó là nguyên do gây ra vỡ sự hoạt động của chúng. Nó là một dạng bệnh do trở ngại về tâm lý, còn được gọi là trở ngại về tình cảm hoặc tinh thần, là một sự tổng hợp của những chứng bệnh về tinh thần phản ánh vào trong tâm trạng, thường có kèm theo sự thay đổi về tư duy và hành vi. Phiền muộn là chứng bệnh thần kinh thường gặp, tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh này chiếm khoảng 5% tỷ lệ dân số thế giới, trong đó tỷ lệ dẫn đến tự sát là 12-15 %, nó là đứng đầu tiên trong các chứng bệnh thần kinh, và còn được gọi là “sát thủ tâm lý hàng đầu”. Những bệnh nhân mắc chứng phiền muộn này thường phải mang theo những nỗi đau khổ trong nội tâm, và thường là những “người bi thương, tiêu cực nhất trên thế giới”.

Những điều cần ghi nhớ về dưỡng sinh

Nếu gan khí không tốt sẽ có thể dẫn đến những vấn đề về tinh thần như tâm trạng xuống dốc, phiền muộn v.v… cho nên cần phải biết điều chỉnh tâm lý, điều khí dưỡng gan. Hoa hợp hoan khô có màu hơi vàng hoặc vàng xanh, mùi thơm dịu nhẹ. Nó có vị ngọt, là một loại thuốc bổ cho hệ thống thần kinh, có tác dụng hoá giải căng thẳng, giảm mệt mỏi. Ngâm hãm hoa hợp hoan làm thành trà uống có tác dụng rất tốt trong điều trị chứng phiền muộn.

Hình ảnh mệt mỏi chán nản
Hình ảnh mệt mỏi chán nản

Các loại trà nên sử dụng

  • Trà hạt sen

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 30 gam hạt sen, 20 gam đường phèn, 5 gam lá trà. Lấy tâm sen ra rồi ngâm trong nước sôi khoảng vài giờ đồng hồ, thêm đường phèn và nước vào làm thành trà. Trà cho vào nước tâm sen ngâm hãm trong khoảng 5 phút, sau đó cho hạt sen vào nước trà đó là được. Mỗi ngày 1 thang, uống nhiều lần thay trà.

Chú ý: Loại trà trên thích hợp với chứng thiếu khí huyết, tâm trạng lo lắng, hoảng loạn. Hạt sen có thể giúp thanh tâm, tiêu phiền muộn; ngân nhĩ có thể bổ hư, phối hợp hai loại này lại, có thể trị chứng phiền muộn ở người già rất tốt.

  • Trà câu kỷ tử, dâm dương

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 12 gam câu kỷ tử, 9 gam dâm dương, 9 gam sa uyển tử, 6 gam ngũ vị tử, 9 gam củ mài. Tất cả những thứ này cho vào đun lên uống thay trà, mỗi ngày 1 thang.

Công dụng chữa trị: Từ bổ gan thận, trợ dương ích trí.

Chú ý: Loại trà trên thích hợp trị chứng phiền muộn thần kinh suy nhược, mất sức, trí nhớ giảm sút.Tác dụng của trà Kỷ tử hoa Cúc

  • Trà hợp hoan

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 10 gam hoa hợp hoan, 10 gam tố hinh hoa, 10 gam hoàn phúc hoa. Cho cả 3 vị trên vào đun trong 15 phút lấy nước uống nhiều lần.

Công dụng chữa trị: Mát gan điều khí.

Chú ý: Loại trà trên có tác dụng mát gan điều khí, làm cho con người ta thư thái. Đông y cho rằng, gan khí vượng vào mùa xuân, gan khí khai thông có nghĩa là thông thoáng, mở rộng.

Những điều cần ghi nhớ

Chứng phiền muộn về cơ bản có thể chia ra làm ba loại lớn: phiền muộn đơn phương, phiền muộn song phương, phiền muộn do các tật bệnh của cơ thể. Các loại phiền muộn này khác nhau, cho nên các phòng ngừa chúng cũng khác nhau. Cách phòng ngừa chứng phiền muộn, có thể theo những yêu cầu sau:

Những hỗ trợ thuộc nhân tố tâm lý xã hội. Phiền muộn đơn phương có mối quan hệ mật thiết đến cá tính của người bệnh, những người này đa số đều có tính cách yếu đuối, đa sầu đa cảm, quá quan tâm đến sức khỏe của bản thân mình, cho nên khi gặp phải những vấn đề xã hội không tốt ảnh hưởng đến tâm lý, ví dụ như áp lực công việc quá lớn, quan hệ xã hội căng thẳng, mâu thuẫn gia đình, cơ thể mắc một chứng bệnh nào đó v.v… thì tự dưng nảy sinh tâm lý lo lắng, sợ hãi, tiêu cực, không cách nào thoát khỏi cảm giác đó được, dẫn đến phiên muộn, đau khổ, bi quan. Đối với những bệnh nhân này, cần hướng dẫn cho người bệnh tìm ra được các nguyên nhân gây bệnh, những đau khổ trong lòng, đồng thời cùng với gia đình và bạn bè thân thiết cùng hỗ trợ tâm lý cho người bệnh, để tránh khỏi việc gặp phải những vấn đề rắc rối đó và nguy cơ gây bệnh.

Đối với bệnh nhân song phương phiền muộn, sự hỗ trợ từ phía gia đình và xã hội cũng có những tác dụng tích cực nhất định, nên kết hợp giữa gia đình và đơn vị công tác, cố gắng giải quyết những vấn đề khó khăn tồn tại trong công việc và trong cuộc sống thực tế của người bệnh, có gắng tạo ra một môi trường vui vẻ, nhẹ nhàng cho người bệnh, để xoá bỏ hoặc giảm nhẹ những gánh nặng tâm lý hoặc những thứ không thể đạt được, vì chứng phiền muộn là một chứng bệnh hoàn toàn có thể chữa khỏi được. Một khi bệnh tình có dấu hiệu tốt, những chuyện không hay trong công việc, học hành và cuộc sống hàng ngày có thể đem đến cho người bệnh những ảnh hưởng tiêu cực, dễ dẫn đến những cảm xúc bi quan, dẫn đến bệnh phiền muộn lại tiếp tục tái phát.

Trong cuộc sống hàng ngày, những người có xu hướng phiền muộn nên chú ý mấy điểm sau: Nên tạo cho mình một giấc ngủ ngon. Nếu mất ngủ lâu dài có thể dẫn đến chứng phiền muộn, nếu bị những lo lắng do việc mất ngủ gây ra, cần phải biết cách để loại trừ nó. Khi gặp phải khó khăn không nên quá tức giận. Nên học cách giảm bớt áp lực do việc nóng giận gây ra, bảo đảm sự cân bằng tâm lý. Bình thường, nên biết cách giải quyết những khó khăn của bản thân, nếu gặp phải những áp lực trong cuộc sống thì cần phải biết giải quyết chúng. Nên tham gia nhiều vào các hoạt động bên ngoài, chịu khó vận động cơ thể là một cách phòng ngừa chứng phiền muộn tốt nhất và tự nhiên nhất. Nên áp dụng những cách bảo vệ bản thân và tránh những kích thích bên ngoài, nếu bị quấy rầy, ví dụ như những nơi nào có thể khiến bạn bị tổn thương thì không nên đi, nên tránh xa những người có thể làm bạn tức giận, từ đó tránh bực tức xảy đến với mình. Đối với những kích thích lớn, nên tự nâng cao khả năng chịu đựng. Trong cuộc sống hàng ngày nên sắp xếp cho mình một số những hoạt động vui vẻ để làm.

Liên quan của bệnh nhiễm khuẩn với nguy cơ mắc bệnh tim mạch

Trong nhiều nghiên cứu khoa học, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy có mối liên quan chặt chẽ giữa bệnh nhiễm khuẩn và tim mạch. Đây là một vấn đề làm thay đổi cách nhìn nhận, phương pháp chẩn đoán, điều trị và dự phòng các bệnh tim mạch và các tai biến của nó.

Vài năm gần đây, các nhà khoa học nhận thấy rõ sự liên quan giữa các bệnh nhiễm khuẩn (nhiễm khuẩn răng miệng, cúm, viêm phổi, viêm loét dạ dày tá tràng…) với nguy cơ gây đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim. Thậm chí, nhiễm khuẩn còn có thể là nguyên nhân gây xơ vữa động mạch. Người ta nhận thấy rằng, xơ xữa động mạch có liên quan tới quá trình viêm. Theo một số nhà khoa học, nhiễm khuẩn là một trong những thủ phạm gây nên tình trạng viêm này.

Tình trạng nhiễm khuẩn kéo dài có thể tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của bệnh vữa xơ động mạch. Một nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí Tim mạch đã chỉ ra sự liên kết chặt chẽ giữa số lần bị nhiễm khuẩn và mức độ xơ vữa động mạch ở tim, cổ và chân, cũng như nguy cơ tử vong của người bệnh trong 3 năm sau đó.

Theo BBC: Nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Tổng hợp Johannes Gutenberg (Đức) tiến hành nghiên cứu trên 572 bệnh nhân tim mạch. Bệnh nhân được làm xét nghiệm máu để tìm kháng thể với một số loại vi khuẩn và virus như: Virus Herpes simlex 1 và 2, gây herpes ở môi và cơ quan sinh dục; Virus Epstein – Barr, gây bệnh tăng bạch cầu đơn nhân; Chlamydia, gây nhiễm khuẩn đường hô hấp, đường sinh dục; Virus cúm; Helicobacterlori gây bệnh loét dạ dày.

Kết quả dương tính chứng tỏ người bệnh đã từng tiếp xúc với vi trùng. Thống kê sau 3 năm cho thấy, tỷ lệ tử vong tỷ lệ thuận với số loại vi trùng bị nhiễm. Nguyên nhân của hiện tượng này còn chưa được làm rõ. Tuy nhiên, theo các tác giả, một số nguyên nhân nhiễm khuẩn gây viêm ở tổ chức. Tình trạng này có thể kéo dài cho tới khi hệ miễn dịch thanh toán được các tác nhân gây bệnh. Trước đây, đã có nghiên cứu chỉ ra rằng viêm lớp nội mạc của động mạch có thể dẫn tới xơ vữa động mạch. Rất có thể, tác dụng chống bệnh tim mạch của aspirin và thuốc giảm cholesterol một phần nhờ vào tính chất chống viêm của chúng.

Theo một nghiên cứu ban đầu ở Anh đã được trình bày tại cuộc họp thường niên của Hội Tim mạch châu Âu, việc cho bệnh nhân dùng kháng sinh ngay lập tức sau khi bị cơn đau tim hay đau ngực dữ dội có thể làm giảm 40% nguy cơ tái phát bệnh. Động mạch nuôi dưỡng cơ tim mà chúng ta gọi là động mạch vành nếu bị tắc nghẽn do xơ vữa là nguyên nhân chính dẫn tối cơn đau ngực hoặc đau tim.

Hai loại vi khuẩn bị nghi là có thể gây tắc động mạch là Chlamydia pneumoniae, gây bệnh phổi và Helicobacter pylori, gây loét dạ dày. Giáo sư Juan Carlos Kaski của Trường Đại học Y St. George, London cho rằng một nửa trong số chúng ta mắc các bệnh này khi còn trẻ con và sẽ mang vi khuẩn suốt cuộc đòi mà không hề biết.

Nghiên cứu được thực hiện trên 324 bệnh nhân nhập viện vì đau ngực nặng hay bị cơn đau tim đầu tiên. Thử nghiệm cho thấy chỉ khoảng 1/2 bệnh nhân bị nhiễm một trong 2 hoặc cả 2 vi khuẩn nói trên. Bệnh nhân được chia làm 3 nhóm. Ngoài các thuốc tim thông thường, họ còn được sử dụng thêm trong vòng 1 tuần: Nhóm 1: Kháng sinh azithromycin, có tác dụng chống Chlamydia. Nhóm 2: Kháng sinh amoxycillin, nhạy cảm với vi khuẩn Helicobacter pylori. Nhóm 3: Giả dược. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Sau 1 năm, số lần tái nhập viện vì đau tim, đau ngực ở nhóm dùng kháng sinh giảm 40% so với nhóm dùng giả dược, cả 2 kháng sinh đều tỏ ra hiệu quả như nhau. Điều đáng ngạc nhiên là các kháng sinh này có tác dụng với cả người mang vi khuẩn và người không mang vi khuẩn.

Theo các nhà khoa học, việc sử dụng kháng sinh liều cao phần nào lý giải được thực trạng là tỷ lệ bệnh tim mạch tại các nước Địa Trung Hải khá thấp. Có thể suy đoán rằng những kháng sinh này chống lại các vi khuẩn khác nhau, hoặc tác dụng trực tiếp lên thành động mạch vành, khiến chúng ít bị viêm và do đó ít bị tắc.Cần lưu ý những gì khi điều trị tăng huyết áp ?

Giáo sư Kaski nói: “Còn quá sớm để cho rằng kháng sinh là giải pháp của vấn đề, bởi nó có thể giết chết nhiều bệnh nhân kháng thuốc hơn số người được cứu sống”. Đây là công trình đầu tiên chỉ ra lợi ích của việc dùng kháng sinh với bệnh nhân đau tim. Các nhà khoa học dự định tiếp tục mồ rộng nghiên cứu này với số lượng người tham gia nghiên cứu cao hơn.

Tạp chí Journal of American Medical Association ngày 26 tháng 01 năm 2004 vừa qua cho biết: Một nghiên cứu do các nhà khoa học Đức vừa tiến hành cho biết: Các bác sĩ có thể đánh giá được nguy cơ gây tử vong hoặc nhồi máu cơ tim ở các bệnh nhân tim bằng việc định lượng nồng độ một protein nhân tố phát triển trong máu họ. Protein này là một trong các dấu ấn sinh học của quá trình viêm, nó có thể giúp dự báo nguy cơ mắc bệnh tim ở người nào đó bằng một xét nghiệm máu đơn giản. Dấu ấn mới nhận biết được đặt tên là protein nhân tố phát triển nhau thai (Viết tắt theo tiếng Anh là PIGF), có vai trò nhất định trong quá trình viêm ở động mạch, mà hậu quả là dẫn đến sự tạo thành các mảng mỡ ở động mạch những động vật thí nghiệm. Nghiên cứu này được tiến hành trên 1.173 bệnh nhân, hầu hết là nam giới bị những cơn đau ngực nặng hoặc nhồi máu cơ tim nhẹ. Qua xét nghiệm máu, đã phát hiện có hơn 300 bệnh nhân tăng PIGF trong máu. Theo dõi trong 30 ngày kể từ khi xuất hiện những triệu chứng đầu tiên, các tác giả nhận thấy: Tỷ lệ tử vong hoặc bị nhồi máu cơ tim ở những người này cao hơn hẳn số người có nồng độ PIGF thấp (khoảng 3 lần).

Theo các nhà nghiên cứu, việc xét nghiệm tìm PIGF có thể cho phép dự đoán nguy cơ bệnh tim chính xác hơn so với việc định lượng một số dấu ấn khác của quá trình viêm, trong đó có protein phản ứng C (CRP), do PIGF hình như chủ yếu được phóng thích từ các tế bào bên trong thành mạch, còn nồng độ CRP trong máu có thể gia tăng mỗi khi có viêm hoặc nhiễm khuẩn ở bất kỳ một nơi nào khác trong cơ thể. Theo tiến sĩ Robert Bonow – một chuyên gia tim học ở Trường Đại học Northwestern và là cựu Chủ tịch Hiệp hội tim Mỹ, kết quả nghiên cứu đã tạo ra một bước tiến quan trọng trong tương lai, đặt vấn đề là liệu PIGF có giúp ích cho việc đánh giá nguy cơ đối với những bệnh nhân tim ở cộng đồng hay không?

Theo American Academy: Các nhà khoa học Mỹ lại làm sửng sốt thế giới bởi một kết luận chết người: Bệnh sâu răng sẽ làm tăng cao nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường. Nguyên nhân được các nhà khoa học chỉ ra là do

vi khuẩn gây bệnh sâu răng có khả nàng thâm nhập vào hệ thống tuần hoàn và tạo nên các phản ứng tiêu cực cho hệ thống miễn dịch của con người. Để chống lại nó, cơ thể sản xuất ra một protein kháng khuẩn có tên là protein cytokines (PC). PC tuy có khả năng diệt khuẩn sâu răng nhưng cũng làm phương hại rất lớn đến tuyến tuy, cơ quan duy nhất sản xuất ra insulin, chất điều hoà hàm lượng glucose có trong máu.

Những người có lượng cholesterol hay lipid bình thường nhưng mắc bệnh sâu răng sẽ rơi vào tình trạng mắc bệnh đái tháo đường typ 2 theo chu kỳ do hàm lượng PC tăng cao đột ngột, huỷ hoại khả năng sản xuất của tuyến tụỵ.

Vấn đề cần rút ra từ những nghiên cứu này đối với chúng ta là:

Thứ nhất: Cần rèn luyện cơ thể để nâng cao sức đề kháng cho cơ thể, chống lại nguy cơ mắc các bệnh nhiễm khuẩn.

Thứ hai: Nên ăn đủ chất, tăng cường ăn rau xanh, hoa quả tươi… giàu các vitamin C, nhóm B, caroten, flavonoid… là các chất có tác dụng chống oxy hoá mạnh, có tác dụng nâng cao sức đề kháng của cơ thể, ngăn cản sự oxy hoá tế bào gây tổn thương các cơ quan trong cơ thể. Rau xanh còn có chứa nhiều chất xơ có tác dụng giảm sự hấp thu mỡ, chống táo bón… cũng là những vấn đề có lợi với người bệnh tim mạch.

Thứ ba: Khi mắc các bệnh nhiễm khuẩn, cần điều trị tích cực theo chỉ định của thầy thuốc. Tránh tự ý dùng thuốc kháng sinh có thể gây hiện tượng nhờn kháng sinh.

Điều trị bệnh ung thư dạ dày

Xem thêm: Bệnh Ung thư dạ dày

A.   Điều trị K biểu tuyến mô dạ dày:

1. Điều trị dự phòng:

  • Phát hiện sớm Ung thư dạ dày ở người trên 40 tuổi có những rối loạn tiêu hoá cần được soi, X-quang, sinh thiết nếu có K cắt bỏ dạ dày sớm.
  • Quản lý và điều trị kịp thời những người có bệnh lý tiền K hoặc có nhiều khả năng K (cắt polyp dạ dày, điều trị các bệnh nhân viêm niêm mạc dạ dày).

2.   Điều trị triệt để:

Điều trị triệt để chủ yếu phẫu thuật cắt dạ dày:

  • Cắt bán phần dạ dày rộng: phần dạ dày bị K, các mạc nối lớn, tất cả các hạch di căn và nghi ngờ di căn, có khi cắt cả lách, một phần tuỵ (cắt 2/3, 1/4, 4/5 dạ dày + hạch).
  • Trước đây do tỷ lệ tử vong trong 30 ngày đầu khá cao 21% (Leowy) do choáng hoặc bục miệng nối. Hiện nay từ 1959 chỉ còn 5,8% (Mouchet). Kết quả lâu dài có sự khác nhau tuỳ tác giả: sống sau 5 năm 8% (Leron), 18% (Mouchet), 14% (N.V.Vân).
  • Cắt toàn bộ dạ dày: khối u quá lớn hoặc lan rộng có nhiều di căn hạch, tỷ lệ tử vong Sau mổ 15 ngày có thể tiêm 5 FU với liều 10mg/1kg/24h pha 500ml HTN 5% truyền tĩnh mạch trong 4 ngày. Nếu bệnh nhân dung nạp thuốc có thể tiêm tiếp 4 liều như trên nhưng cách nhật.
  • Tử vong mổ khá cao: 23% (Mouchet), 25% (Sortal), 9,4% (Lahey), 17% (N.V.Vân, Đ.Hối).
  • Sống còn trên 5 năm: 17% (Mouchet), 12% (Lahey), 8% (N.V.Vân)

3.   Điều trị tạm thời:

Trong điều kiện không được điều trị triệt để: mở thông dạ dày nối thông dạ dày- ruột chay, nối thông hỗng tràng. Hoặc dùng hoá chất 5FU liều 15mg/kg/24h trong 2-3 ngày rồi hạ xuống 7,5mg/kg/24h cách nhật cho u nhỏ lại trong 5-6 tháng. Rất tiếc có bệnh nhân lại bị chết sớm hơn vì bị suy tuỷ xương.

HVQY có thuốc Phylamine có tác dụng hỗ trợ chống K: viên 0,10 x 6v/24h x 20 ngày, nghỉ 10 ngày, dùng trong 3 năm.

B.   Lympho dạ dày không phải Hodgkin:

Điều trị có kết quả phẫu thuật kết hợp với tia xạ và hoá chất. Phẫu thuật cắt rộng dạ dày nhưng không nạo hạch

Tiên lượng chung của Ung thư dạ dày:

Tiên lượng chung phụ thuộc vào các yếu tố sau:

  • Thể bệnh: K thể loét tiên lượng nhẹ hơn loại xâm nhiễm, sùi
  • Vị trí K ở trên 1/3 dạ dày nặng hơn K ở đoạn giữa và dưới dạ dày.
  • Xâm nhập theo chiều sâu: càng ăn sâu càng nặng. Nếu hạch không bị xâm nhiễm tỷ lệ sống còn 80%. Nếu thanh mạc bị thì tỷ lệ hạ xuống còn 40%, khi tổn thương qua lớp thanh mạc thì chỉ còn 18%.
  • Về mô bệnh học: tiên lượng càng kém nếu u kém biệt hoá. Nếu nhiều lympho xâm nhiễm mạnh tiên lượng tốt hơn.
  • Sự xâm nhập vào hạch là một yếu tố tiên lượng chủ yếu sau mổ.

+ Nếu mọi cái đều giống nhau mà không có tổn thương hạch thì tỷ lệ sống 45%. Nếu hạch bị xâm chiếm tỷ lệ sống 12%.

+ Nếu hạch xa bị tổn thương tiên lượng càng xấu. Hạch càng dễ bị tổn thương khi tế bào K ít biệt hoá.

+ Khi đại thể là ít thâm nhiễm, khi tổn thương K càng ăn sâu vào thành dạ dày (<10%

đối với K thuần tuý ở niêm mạc, >80% nếu thanh mạc đã bị K xâm nhiễm) hoặc khi K ở vị trí trên cao của dạ dày. K ở phần trên dạ dày hay có tổn thương vào hạch rất cao, đặc biệt 2/3 số ca đã có tổn thương ở các hạch tuỵ, lách và thường là tiềm tàng.

Phân loại ung thư dạ dày theo OMS 1977

1.   Ung thư biểu mô (Carcinome):

  • Ung thư biểu mô tuyến (Adenocarcinome):

+ Ung thư tuyến nhú: tế bào biểu mô của tuyến phát triển tạo thành nhú như hình ngón tay có trục liên kết.

+ Ung thư tuyến ống: tế bào u sắp xếp theo hình ống phân nhánh nằm trong mô liên kết.

+ Ung thư tuyến chế nhày: tế bào sắp xếp gợi hình tuyến nằm trong “bể” chất nhầy.

+ Ung thư tế bào nhẫn: tế bào chế nhày đẩy nhân lệch về một phía giống như nhẫn.

  • Ung thư biểu mô không biệt hoá (Un differenttated carcinome) tế bào phân tán không tạo thành tuyến (cấu trúc tuyến).
  • Một số loại ít gặp: ung thư tuyến biểu bì và ung thư dạng biểu bì.

2.   Ung thư không biểu mô:

Gồm các lipomas, các sarcome của cơ mạch và đặc biệt là u lympho ác tính.

Phân loại của Lauren 1965:

Ung thư loại ruột và ung thư lan toả:

  • Typ ruột: khối u phân biệt rõ, cấu trúc đặc, giới hạn ngoại biên rõ. Tổ chức học: cấu trúc ung thư tuyến hình ống hay nhú, chất đệm phản ứng rõ.
  • Typ lan toả: khối u ranh giới không rõ. Tổ chức học: u cấu tạo từ các tế bào độc lập bài tiết chất nhày, không có phản ứng chất đệm.
  • Typ hỗn hợp: bao gồm cả typ ruột và typ lan toả.

Trong phân loại này: typ ruột tương ứng với ung thư biểu mô tuyến. Typ lan toả tương ứng với loại không biệt hoá.

Các yếu tố gây ung thư dạ dày

1.   Yếu tố ăn uống và môi trường:

  • Muối ở trạng thái thô chứa một tỷ lệ cao nitrate và do đó có sự tiêu thụ nhiều sẽ phù hợp cao với viêm teo dạ dày. Nitrate có trong các thức ăn có muối, thức ăn hun khói, thức ăn rán, rau quả được bảo quản, ngũ cốc.
  • Nitrosamine có trong thức ăn và hình thành tại chỗ bởi sự Nitro hoá của các Nitride dưới tác dụng của vi khuẩn ưa khí được coi là có tác dụng sinh Ung thư dạ dày.

2.   Yếu tố di truyền:

Người ta chú ý nhiều đến nhóm máu A và có tính chất gia đình.

3.   Các bệnh thuận lợi dẫn tới Ung thư dạ dày:

  • Polyp dạ dày: các tổn thương sẽ xuất hiện tuỳ theo vào khoảng 5-25% các polyp dạ dày (Day.D.W 1987). Trong polyp dạng tuyến >2cm và trong polyp có lông có tỷ lệ ung thư hoá cao hơn trong polyp tăng sản.
  • Bệnh Menetrier: bệnh này được đặc trưng bởi sự dày một cách đáng kể lớp niêm mạc dạ dày. Nguy cơ Ung thư dạ dày của bệnh này khoảng 14,3% (Marchand P et al 1987).
  • Dạ dày đã mổ: ung thư khu trú gần miệng với mỏm cắt và thường phối hợp các tổn thương teo niêm mạc vùng đáy với dị sản vùng hang vị và các tổn thương polype chủ yếu là tăng
  • Loét dạ dày mạn: sự xuất hiện chủ yếu của Ung thư dạ dày trên tiến triển ở loét dạ dày mạn hiện đang còn tranh cãi. Có 2 khuynh hướng: một là các tác giả cho rằng loét dạ dày mạn tính là một thể riêng khác với Ung thư dạ dày, một số tác giả cho rằng có thể sự thoái hoá ác tính trên viêm dạ dày mạn. Tỷ lệ loét ung thư hoá ở người loét dạ dày thay đổi từ 1- 8% các trường hợp tuỳ theo báo cáo (Marchand P., Verwaer de J.C et al 1987).
  • Viêm dạ dày mạn xuất hiện như là một mẫu số chung của tất cả các tổn thương tiền ung thư, nó làm teo các tuyến và thường phối hợp với loạn sản và dị sản ruột. Đã có nhiều công trình nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa viêm dạ dày mạn và ung thư dạ dày, người ta nhận thấy nguy cơ ung thư cao hơn ở các bệnh nhân mắc bệnh viêm dạ dày mạn so với nhóm chứng. Tất nhiên tất cả chỉ là sự suy đoán, mức độ của nguy cơ Ung thư dạ dày với dị sản ruột và loạn sản còn chưa được xác định hoàn toàn.

4.   Các quan điểm khác nhau về liên quan giữa HP và Ung thư dạ dày:

  • HP có vai trò trong sự tăng ác tính của niêm mạc dạ dày và MALT (Muco sa Associated Lymphoid Tissue). Những điều kiện của cuộc sống bình thường có thể dẫn đến nhiễm HP sớm trong cuộc sống – viêm dạ dày mạn – Ung thư dạ dày.
  • Một nghiên cứu sau 12 năm về HP trong bệnh dạ dày cho thấy: ở những bệnh nhân có HP (+) gặp Ung thư dạ dày gấp 3 lần so với những người có HP (-). Talley Etal nghiên cứu sự phối hợp giữa HP và Ung thư dạ dày cũng nhận thấy nguy cơ ung thư hoá của những người nhiễm HP là 3,2 lần (ENC, Gastro 9021 E 1992).
  • Một nghiên cứu tại Anh cho thấy kháng huyết thể huyết thanh chống HP ở nhóm có dị sản ruột cao hơn nhóm niêm mạc dạ dày bình thường.

Có sự tương quan giữa tỷ lệ huyết thanh (+) với HP và Ung thư dạ dày ở dân chúng Heringa C.B.Acta Endoscop 1992, 21, 67, 72. Nghiên cứu của Italia và Colombia cũng đã chứng minh sự tương quan huyết thanh (+) và HP là Ung thư dạ dày.

Có 2 loại Ung thư dạ dày phối hợp với HP: Carcinome và Lymphoma của NALT.

Sơ đồ của Blasser (1990): Liên quan HP với Ung thư dạ dày

Sơ đồ của Blasser (1990): Liên quan HP với Ung thư dạ dày

Xem thêm:

Phác đồ điều trị ung thư dạ dày

Chữa bệnh viêm da thần kinh theo Đông y thuốc nam

Đông y gọi là chứng ngưu bì tiển, can tiển. Nguyên nhân do phong nhiệt làm ảnh hưởng đến da, sau đó gây huyết táo làm da không được nuôi dưỡng, ngứa và gãi làm da sần lên như da trâu.

Căn cứ vào các giai đoạn của bệnh người ta chia làm 2 thể:

THỂ PHONG NHIỆT:

Giai đoạn mới mắc bệnh

Triệu chứng: da mới bị viêm, màu hơi hồng, ngứa, da còn mỏng

Phương pháp chữa: khu phong thanh nhiệt

Bài thuốc:

Cỏ nhọ nồi              12g

Ké đầu ngựa            12g

Bài 1:

Kinh giới                   12g

Phòng phong             12g

Sinh địa 16g Ý dĩ 16g
Kê huyết đằng 12g Kim ngân 16g
Cây cứt lợn 12g    
Bài 2:      
Cúc hoa 12g Sinh địa 16g
Kim ngân hoa 12g Khổ sâm 12g
Ké đầu ngựa 12g Thổ phục linh 16g
Đan bì 8g    
Bài 3: Tiêu phong tán gia giảm:    
Kinh giới 12g Ngưu bàng tử 12g
Thuyền thoái 6g Đương quy Ỉ2g
Sinh địa 12g Tri mẫu 12g
Phòng phong Ỉ2g Địa phụ tử Ỉ2g
Thạch cao 20g    
Bài 4: Phong thanh nhiệt ẩm gia giảm:      
Kinh giới 16g Sinh địa 16g
Phòng phong 12g Kim ngân 12g
Thuyền thoái 6g Tạo giác thích 12g
Cúc hoa 12g Khổ sâm 12g
Bải 5: Thuốc bôi tại chỗ:      

Phèn chua phi (tán nhỏ) 5g, Lưu huỳnh 25g, Khinh phấn (calomel) 5ml, Cồn 70 độ 300ml

Tán nhỏ 3 thứ thuốc ngâm Cồn 70độ trong một tuần, Lắc kỹ trước khi bôi bớt 3-6 lần trong ngày.

Châm cứu:

  • Châm thâu kim xung quanh nơi viêm da
  • Dùng mai hoa châm gõ lên mặt da ngày một lần. Khi châm xong có

thể cứu bằng mồi ngải hay điếu ngải.

THỂ HUYẾT TÁO

Thể viêm da thần kinh mạn tính:

Triệu chứng; da dày, khô, ngứa nhiều về đêm, khi gãi chảy nước và thấm máu.

Phương pháp chữa: dưỡng huyết, nhuận táo, khu phong Bài thuốc:

Bài 1:

Kê huyết đằng            I2g                Sa sâm                                  12g

Đỗ đen sao                 12g               Kỷ tử                                    12g

Cây cứt lợn               16g                 Kinh giới                            16g

Cam thảo Nam        12                   Hà thủ ô                           6g

Sinh địa                     8               Đương quy       12

Huyền sâm             12               Cương tàm          6

Bài 2: Địa hoàng ẩm tử gia

Thuyền thoái         6g         Cương tàm             8g

Toàn yết               6               Kinh giới            12

Bạch tật lê        19

Bài 3: Thuốc bôi tại chỗ:

Phèn phi, Lưu huỳnh, Khinh phấn, Cồn 70độ: liều lượng và cách dùng như trên

Châm cứu:

Châm kim như trên:

  • Gõ kim mai hoa như trên
  • Cứu mồi ngải sau khi gõ kim mai hoa như trên
  • Cứu và xông khói điếu ngải gồm: Thương truật, Thiên niên kiện, tán thành bột cuốn thành điếu. Cứu ngày 2,3 lần mỗi lần 15-30 phút.

Thiếu máu : Triệu chứng và điều trị

Thiếu máu là gì?

Thiếu máu được định nghĩa là giảm lượng huyết sắc tố hoặc số lượng tế bào Hồng cầu thấp. Trong một xét nghiệm máu định kỳ, thiếu máu được báo cáo qua mức hemoglobin hoặc hematocrit thấp. Hemoglobin là protein chính trong tế bào máu đỏ của bạn. Nó mang oxy và chuyển nó đi khắp cơ thể. Nếu bạn bị thiếu máu, mức hemoglobin của bạn cũng sẽ thấp. Nếu nó đủ thấp, các mô hoặc cơ quan của bạn có thể không nhận đủ oxy. Các triệu chứng của thiếu máu—như mệt mỏi hoặc khó thở—xảy ra vì các cơ quan của bạn không nhận được những gì cần thiết để hoạt động như chúng nên có.

Thiếu máu là tình trạng máu phổ biến nhất ở Hoa Kỳ. Nó ảnh hưởng đến gần 6% dân số. Phụ nữ, trẻ nhỏ và những người mắc bệnh mãn tính có nhiều khả năng bị thiếu máu. Những điều quan trọng cần nhớ là:

  • Một số dạng thiếu máu được di truyền qua gen của bạn, và trẻ sơ sinh có thể mắc phải từ khi sinh ra.
  • Phụ nữ có nguy cơ bị thiếu máu do thiếu sắt do mất máu từ chu kỳ kinh nguyệt và nhu cầu cung cấp máu cao hơn trong thời kỳ mang thai.
  • Người cao tuổi có nguy cơ mắc thiếu máu cao hơn vì họ có nhiều khả năng bị bệnh thận hoặc các bệnh mãn tính khác.

Thiếu máu nghiêm trọng đến mức nào?

Có nhiều loại thiếu máu khác nhau. Tất cả đều có nguyên nhân và phương pháp điều trị khác nhau. Một số dạng—như thiếu máu nhẹ xảy ra trong thời kỳ mang thai—không phải là vấn đề lớn. Nhưng một số loại thiếu máu có thể phản ánh một tình trạng y tế nghiêm trọng.

Thiếu máu có thể chữa được không?

Có, thiếu máu có thể dễ dàng chữa khỏi. Thông thường, đó là một vấn đề ngắn hạn có thể được điều trị bằng cách thay đổi chế độ ăn uống hoặc uống bổ sung. Thật không phổ biến khi cần các can thiệp khác để điều trị thiếu máu, nhưng điều đó là có thể.

Triệu chứng của thiếu máu
Các dấu hiệu của thiếu máu có thể nhẹ đến mức bạn thậm chí không nhận thấy. Ở một thời điểm nhất định, khi các tế bào máu của bạn giảm, các triệu chứng thường phát triển. Tùy thuộc vào nguyên nhân của thiếu máu, các triệu chứng có thể bao gồm:

  • Chóng mặt, choáng váng, hoặc cảm giác như bạn sắp ngất
  • Nhịp tim nhanh hoặc bất thường
  • Đau đầu
  • Đau, bao gồm cả trong xương, ngực, bụng và khớp
  • Vấn đề tăng trưởng, đối với trẻ em và thanh thiếu niên
  • Khó thở
  • Da nhợt nhạt hoặc vàng
  • Tay và chân lạnh
  • Mệt mỏi hoặc yếu đuối

Nếu thiếu máu trở nên nghiêm trọng hơn, các triệu chứng có thể bao gồm:

  • Móng tay giòn
  • Loét miệng
  • Mất hứng thú tình dục
  • Đối với phụ nữ, tăng chảy máu kinh nguyệt
  • Lưỡi bị viêm hoặc đau
  • Khó thở khi nghỉ ngơi hoặc chỉ hoạt động nhẹ
  • Cảm thấy choáng váng khi đứng dậy
  • Màu da nhợt nhạt
  • Hội chứng Pica, hoặc khao khát ăn những thứ không phải thực phẩm như đá
  • Màu xanh ở phần trắng của mắt

Triệu chứng của việc chết vì thiếu máu

Chết vì thiếu máu rất hiếm. Một số tình trạng di truyền có thể góp phần vào điều này bao gồm bệnh hồng cầu hình lưỡi liềm và một số loại thiếu máu huyết tán được di truyền. Sau một chấn thương lớn, chảy máu nghiêm trọng có thể dẫn đến thiếu máu cấp tính, đe dọa đến tính mạng. Các bệnh ung thư và các bệnh khác cũng có thể là nguyên nhân tiềm ẩn của thiếu máu.

Mệt mỏi do thiếu máu
Mệt mỏi do thiếu máu

Các loại và nguyên nhân của thiếu máu

Có hơn 400 loại thiếu máu, và chúng được chia thành ba nhóm:

  1. Thiếu máu do mất máu
  2. Thiếu máu do sản xuất tế bào máu đỏ bị giảm hoặc bị lỗi
  3. Thiếu máu do sự phá hủy tế bào máu đỏ

Thiếu máu do mất máu

Bạn có thể mất tế bào máu đỏ qua việc chảy máu. Điều này có thể xảy ra từ từ trong một thời gian dài, và bạn có thể không nhận thấy. Nguyên nhân có thể bao gồm:

  • Các tình trạng đường tiêu hóa như loét, trĩ, viêm dạ dày (viêm dạ dày), và ung thư
  • Thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs) như aspirin hoặc ibuprofen, có thể gây loét và viêm dạ dày
  • Kỳ kinh của phụ nữ, đặc biệt nếu bạn có kinh nguyệt nhiều (hoặc kỳ kinh nặng). Điều này có thể liên quan đến u xơ.
  • Sau chấn thương hoặc phẫu thuật
  • Mất máu khi sinh và trong giai đoạn ngay sau sinh

Thiếu máu do sản xuất tế bào máu đỏ bị giảm hoặc bị lỗi

Với loại thiếu máu này, cơ thể bạn có thể không tạo ra đủ tế bào máu, hoặc chúng có thể không hoạt động như chúng nên có. Điều này có thể xảy ra vì có điều gì đó sai với tế bào máu đỏ của bạn hoặc vì bạn không có đủ khoáng chất và vitamin để tế bào máu đỏ hình thành bình thường. Các tình trạng liên quan đến những nguyên nhân này của thiếu máu bao gồm:

  • Các vấn đề về tủy xương và tế bào gốc
  • Thiếu máu do thiếu sắt, như tên gọi cho thấy, là khi cơ thể không sản xuất đủ sắt. Máu của bạn sẽ thiếu tế bào máu đỏ khỏe mạnh, những tế bào mang oxy đến các mô của cơ thể. Thiếu sắt đúng mức, cơ thể bạn không thể tạo ra đủ những gì tế bào máu đỏ cần để mang oxy. Điều này sẽ khiến bạn cảm thấy mệt mỏi và khó thở.
  • Thiếu máu hồng cầu hình lưỡi liềm. Khoảng 1 trong mỗi 100 người Latino và 1 trong mỗi 12 người Mỹ gốc Phi có đặc điểm hồng cầu hình lưỡi liềm, có nghĩa là các dân tộc này bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi thiếu máu hồng cầu hình lưỡi liềm so với các dân tộc khác. Căng thẳng có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe do mang gen hồng cầu hình lưỡi liềm.
  • Thiếu máu do thiếu vitamin, đặc biệt là B12 hoặc axit folic, xảy ra khi sự thiếu hụt vitamin này khiến cơ thể sản xuất tế bào máu đỏ quá lớn và không thể hoạt động đúng cách.

Vấn đề về tủy xương và tế bào gốc có thể khiến cơ thể bạn không sản xuất đủ hồng cầu. Một số tế bào gốc trong tủy nằm ở trung tâm xương của bạn sẽ phát triển thành hồng cầu. Nếu không có đủ tế bào gốc, nếu chúng không hoạt động đúng cách hoặc nếu chúng bị thay thế bởi các tế bào khác như tế bào ung thư, bạn có thể mắc chứng thiếu máu. Thiếu máu do các vấn đề về tủy xương hoặc tế bào gốc bao gồm:

Thiếu máu bất sản

Xảy ra khi bạn không có đủ tế bào gốc hoặc không có tế bào gốc nào. Bạn có thể mắc thiếu máu bất sản do di truyền hoặc do tủy xương bị tổn thương bởi thuốc, bức xạ, hóa trị liệu hoặc nhiễm trùng. Các tình trạng khác thường ảnh hưởng đến tủy xương bao gồm đa u tủy và bệnh bạch cầu. Đôi khi, không có nguyên nhân rõ ràng cho thiếu máu bất sản.

Ngộ độc chì.

Chì có độc đối với tủy xương của bạn, khiến bạn có ít hồng cầu hơn. Ngộ độc chì có thể xảy ra khi người lớn tiếp xúc với chì tại nơi làm việc, chẳng hạn, hoặc nếu trẻ em ăn phải mảnh sơn chì. Bạn cũng có thể bị ngộ độc chì nếu thực phẩm của bạn tiếp xúc với một số loại đồ gốm không được tráng men đúng cách.

Thalassemia

Xảy ra do có vấn đề trong quá trình hình thành hemoglobin (bốn chuỗi không được hình thành đúng cách). Bạn sẽ sản xuất ra những hồng cầu rất nhỏ, mặc dù có thể tạo ra đủ số lượng để không có triệu chứng, hoặc tình trạng này có thể nghiêm trọng. Nó được di truyền qua gen và thường ảnh hưởng đến người có nguồn gốc từ Địa Trung Hải, châu Phi, Trung Đông và Đông Nam Á. Tình trạng này có thể từ nhẹ đến nguy hiểm đến tính mạng; dạng nghiêm trọng nhất gọi là thiếu máu Cooley.

Thiếu máu do thiếu sắt

Xảy ra vì bạn không có đủ khoáng chất sắt trong cơ thể. Tủy xương của bạn cần sắt để sản xuất hemoglobin, phần của hồng cầu giúp vận chuyển oxy đến các cơ quan. Thiếu máu do thiếu sắt có thể được gây ra bởi:

  • Chế độ ăn thiếu sắt, đặc biệt ở trẻ sơ sinh, trẻ em, thanh thiếu niên, người ăn chay và người ăn chay trường.
  • Một số loại thuốc, thực phẩm và đồ uống có caffeine.
  • Các tình trạng tiêu hóa như bệnh Crohn, hoặc nếu bạn đã cắt bỏ một phần dạ dày hoặc ruột non.
  • Hiến máu thường xuyên.
  • Tập luyện sức bền.
  • Mang thai và cho con bú làm tiêu tốn sắt trong cơ thể bạn.
  • Kỳ kinh nguyệt.
  • Nguyên nhân phổ biến là chảy máu chậm mãn tính, thường từ hệ tiêu hóa của bạn.

Thiếu máu tế bào hình liềm

Hồng cầu của bạn, thường có hình tròn, trở thành hình lưỡi liềm do có vấn đề trong gen của bạn. Thiếu máu xảy ra khi hồng cầu phân hủy nhanh chóng, khiến oxy không đến được các cơ quan của bạn. Các hồng cầu hình lưỡi liềm cũng có thể bị kẹt trong các mạch máu nhỏ và gây ra cơn đau.

Thiếu máu do thiếu vitamin

Có thể xảy ra khi bạn không nhận đủ vitamin B12 và folate. Bạn cần hai vitamin này để sản xuất hồng cầu. Thiếu máu kiểu này có thể do:

  • Thiếu dinh dưỡng: Nếu bạn ăn ít hoặc không ăn thịt, bạn có thể không nhận đủ vitamin B12. Nếu bạn nấu chín rau quá lâu hoặc không ăn đủ rau, bạn có thể không nhận đủ folate.
  • Thiếu máu đại bạch cầu: Khi bạn không nhận đủ vitamin B12, folate hoặc cả hai.
  • Thiếu máu ác tính: Khi cơ thể bạn không hấp thụ đủ vitamin B12.
  • Các nguyên nhân khác gây thiếu vitamin bao gồm thuốc, lạm dụng rượu và các bệnh đường ruột như bệnh sprue nhiệt đới.

Thiếu máu liên quan đến các tình trạng mãn tính khác

Thường xảy ra trong bối cảnh viêm kéo dài. Các protein viêm làm chậm quá trình sản xuất hồng cầu trẻ của tủy xương theo nhiều cách khác nhau. Các tình trạng gây ra loại thiếu máu này bao gồm:

  • Bệnh thận tiến triển.
  • Suy giáp.
  • Lão hóa.
  • Các bệnh mãn tính lâu dài, như ung thư, nhiễm trùng, lupus, tiểu đường và…

Thiếu máu do sự phá hủy hồng cầu

Khi hồng cầu trở nên mỏng manh và không thể chịu đựng được áp lực khi di chuyển trong cơ thể bạn, chúng có thể bị vỡ, gây ra hiện tượng gọi là thiếu máu huyết tán. Bạn có thể mắc phải tình trạng này từ khi sinh ra hoặc nó có thể phát triển sau đó. Đôi khi, nguyên nhân của thiếu máu huyết tán không rõ ràng, nhưng chúng có thể bao gồm:

  • Sự tấn công của hệ miễn dịch, như trong bệnh lupus. Điều này có thể xảy ra với bất kỳ ai, ngay cả với một em bé còn trong bụng mẹ hoặc một trẻ sơ sinh. Tình trạng này được gọi là bệnh huyết tán ở trẻ sơ sinh.
  • Các tình trạng có thể di truyền qua gen, như thiếu máu hình liềm, thalassemia và bệnh purpura giảm tiểu cầu huyết khối (TTP).
  • Lách to. Trong một số trường hợp hiếm gặp, lách to có thể giữ lại hồng cầu và phá hủy chúng quá sớm.
  • Những yếu tố gây áp lực cho cơ thể bạn, chẳng hạn như nhiễm trùng, thuốc, nọc độc của rắn hoặc nhện, hoặc một số loại thực phẩm.
  • Chất độc từ bệnh gan hoặc thận tiến triển.
  • Ghép mạch máu, van tim giả, khối u, bỏng nặng, tiếp xúc với một số hóa chất, tăng huyết áp nặng và các rối loạn đông máu.

Chẩn đoán thiếu máu

Một xét nghiệm tổng phân tích máu (CBC) sẽ đo lường số lượng hồng cầu, hemoglobin và các thành phần khác của máu bạn. Bác sĩ của bạn sẽ hỏi về lịch sử gia đình và lịch sử bệnh của bạn sau khi làm xét nghiệm CBC. Họ có thể sẽ thực hiện một số xét nghiệm, bao gồm:

  • Xét nghiệm máu hoặc phân tích phân loại để đếm số lượng bạch cầu, kiểm tra hình dạng của hồng cầu và tìm kiếm các tế bào bất thường.
  • Đếm reticulocyte để kiểm tra số lượng hồng cầu chưa trưởng thành.

Điều trị thiếu máu

Phương pháp điều trị của bạn sẽ phụ thuộc vào loại thiếu máu mà bạn mắc phải.

  • Nếu bạn mắc thiếu máu bất sản, bạn có thể cần thuốc, truyền máu (trong đó bạn nhận máu từ người khác), hoặc ghép tủy xương (trong đó bạn nhận tế bào gốc từ người hiến).
  • Nếu bạn mắc thiếu máu huyết tán, bạn có thể cần thuốc để ức chế hệ miễn dịch của mình. Bác sĩ chăm sóc chính của bạn có thể giới thiệu bạn đến một bác sĩ chuyên về các vấn đề mạch máu.
  • Nếu thiếu máu do mất máu, bạn có thể cần phẫu thuật để tìm và khắc phục tình trạng chảy máu. Nếu bạn bị thiếu máu do thiếu sắt, bạn có thể cần uống bổ sung sắt và thay đổi chế độ ăn uống của mình.
  • Điều trị thiếu máu hình liềm bao gồm thuốc giảm đau, bổ sung axit folic, kháng sinh định kỳ hoặc liệu pháp oxy. Một loại thuốc gọi là hydroxyurea (Droxia, Hydrea, Siklos) thường được kê đơn để giảm thiểu các cơn đau do thiếu máu hình liềm (cơ chế phức tạp). Thuốc voxelotor (Oxbryta) có thể giúp hồng cầu giữ được hình dạng đúng. Crizanlizumab-tmca (Adakveo) có thể ngăn các tế bào máu dính lại với nhau và chặn mạch máu. Bột L-glutamine đường uống (Endari) có thể giảm số lần bạn phải đến bệnh viện vì đau và cũng bảo vệ bạn khỏi tình trạng gọi là hội chứng ngực cấp tính.
  • Nếu bạn bị thiếu vitamin B12 hoặc folate, bạn sẽ được kê đơn bổ sung.

    Trứng gà
    Trứng gà

Chế độ ăn cho người thiếu máu

Để điều trị thiếu máu, hãy ăn một chế độ ăn giàu sắt. Nếu bạn không ăn đủ sắt, cơ thể bạn có thể trở nên thiếu sắt. Một số thực phẩm chứa nhiều sắt bao gồm:

  • Thịt
  • Trứng
  • Rau lá xanh
  • Thực phẩm bổ sung sắt như ngũ cốc
  • Đậu
  • Hải sản
  • Đậu Hà Lan
  • Hạt và trái cây khô
  • Đậu lăng

Mẹo điều trị tại nhà cho thiếu máu

Ăn chế độ ăn giàu sắt là một cách để điều trị thiếu máu tại nhà.

Bổ sung cho thiếu máu. Bạn cũng có thể uống bổ sung, giúp tăng lượng sắt và hemoglobin trong cơ thể. Sulfate sắt có dạng lỏng và viên. Thông thường, liều dùng là 325 miligam. Hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn về việc uống bổ sung sắt cho thiếu máu và xem họ khuyên bạn nên dùng như thế nào. Nhưng thường thì, bạn sẽ muốn uống khi bụng đói. Không nên kết hợp bổ sung với sữa, caffeine hoặc các loại bổ sung canxi. Uống bổ sung với vitamin C, chẳng hạn như một cốc nước cam, có thể giúp tăng cường hấp thụ.

Biến chứng của thiếu máu

Thiếu máu có thể dẫn đến cảm giác mệt mỏi nghiêm trọng, khiến bạn rất khó khăn để vượt qua một ngày. Nó cũng có thể dẫn đến rối loạn nhịp tim, hoặc nhịp tim không đều. Do không có đủ oxy trong máu, tim phải bơm nhiều hơn, điều này có thể dẫn đến suy tim. Thiếu máu thậm chí có thể gây tử vong, đặc biệt nếu bạn mất quá nhiều máu quá nhanh.

Thiếu máu và thai kỳ

Khi bạn mang thai, cơ thể bạn trải qua nhiều thay đổi. Cơ thể bạn sản xuất nhiều hơn từ 20% đến 30% máu, điều này có nghĩa là bạn cần nhiều sắt và vitamin hơn.

Nhiều người không có đủ sắt cho tam cá nguyệt thứ hai và thứ ba, điều này có thể dẫn đến thiếu máu. Trong khi thiếu máu nhẹ là bình thường trong thai kỳ, thiếu máu nặng có thể đặt thai nhi của bạn vào nguy cơ bị thiếu máu.

Nếu bạn bị thiếu máu nặng trong hai tam cá nguyệt đầu tiên, bạn có nguy cơ cao hơn về việc sinh non hoặc sinh con có trọng lượng thấp.

Những người đang mang thai và bị thiếu máu cũng có nguy cơ cao hơn về mất máu trong khi sinh và có thể gặp khó khăn hơn trong việc chống lại nhiễm trùng.

Trong thời gian mang thai, bạn cần 27 miligam sắt mỗi ngày. Bạn có thể uống vitamin tổng hợp cho bà bầu có chứa sắt để giúp ngăn ngừa hoặc điều trị tình trạng thiếu sắt trong thai kỳ. Bác sĩ của bạn cũng có thể cho bạn một loại bổ sung sắt khác.

Bạn cũng có thể ăn nhiều thực phẩm giàu sắt hơn để giúp cải thiện tình trạng thiếu sắt của mình.

Nếu bạn đã làm những điều này mà vẫn bị thiếu máu, bác sĩ của bạn có thể đề xuất xét nghiệm để tìm ra các nguyên nhân tiềm ẩn khác. Nếu thiếu máu của bạn do thiếu sắt, họ sẽ yêu cầu bạn uống nhiều bổ sung sắt hơn. Nhưng nếu bạn có tiền sử phẫu thuật cắt dạ dày, phẫu thuật ruột non, hoặc bạn không thể uống bổ sung sắt, bác sĩ sẽ cung cấp cho bạn sắt qua kim tiêm tĩnh mạch (IV).

Trong ngày hè kỵ uống sữa bò ướp lạnh

Trong mùa hè viêm nhiệt, không ít người vừa muốn tiện lại vừa để ngon miệng, rất thích uống sữa bò ướp lạnh. Uống như vậy rất có hại đến sức khỏe. Vì sao vậy?

Thành phần dinh dưỡng trong sữa bò rất phong phú, chất protein trong đó có chứa chất casein là chính, sau đó đến chất lactoprotein và lactoglobulin. Do mùa hè, nhiệt độ cao, sữa bò là gốc nuôi dưỡng tốt các loại vi khuẩn, sữa bò sau khi đun sôi để lạnh mấy giờ liền, sẽ bị ô nhiễm rất nhiều các vi khuẩn và chúng sinh sôi nảy nở rất nhanh, sau khi uống dễ dẫn tới bệnh ở đường ruột. Do đó, vào mùa hè tối kỵ uống sữa bò lạnh mà chỉ nên uống sữa bò đun sôi là tốt, bởi vì sữa bò đun sôi không những diệt được khuẩn, mà chất protein trong đó có sự biến tính, càng có lợi cho sự tiêu hóa, hấp thu của cơ thể.

Sữa là thực phẩm hàng đầu giúp phòng tránh chứng loãng xương
Sữa là thực phẩm hàng đầu giúp phòng tránh chứng loãng xương

Trong khi uống sữa bò, có một chuyện đơn giản ít người để ý đến, đó là kỵ dùng đồ đựng bằng nhựa và các loại chất dẻo để đựng sữa. Nếu đựng sữa bằng các đồ nhựa sẽ phá hủy thành phần dinh dưỡng đi rất nhiều; bởi vì, trong đồ đựng bằng nhựa và chất dẻo, sữa bò sẽ phát sinh các mùi vị khác thường. Qua thực nghiệm, các nhà khoa học đã chứng minh: Sữa bò đựng trong đồ đựng bằng nhựa và chất dẻo, để ngoài ánh sáng trong 24 giờ, toàn bộ vitamin c có trong sữa bò bị phá hủy hết, vitamin B9 trong đó cũng bị giảm đi nhiều. Do đó, sữa không được đựng bằng đồ nhựa mà phải đựng bằng các dụng cụ phalê màu, tránh để sữa ngoài ánh sáng chiếu rọi.

Vì sao không để sữa bò tươi đông đặc lại?

Sau khi sữa bò tươi đông đặc lại, các chất dinh dưỡng như protein, chất béo và chất lactose ở trong sữa sẽ có sự thay đổi, xuất hiện hiện tượng kết đọng lại thành các tầng lớp không đều nhau rất rõ rệt. Thông thường trong sữa ở tầng lớp trên có những chất mềm xốp rất nhiều mỡ. Ở tầng giữa có những hạt nhân màu trắng của nhiều protein và latose, ở tầng lớp dưới là phần lớn protein và những chất nhũ kết đặc lại, còn xung quanh là các tinh thể kết chặt đông đặc và nhìn trong suốt. Loại sữa bò đông đặc này sau khi tan ra, có thể xuất hiện các chất lắng xuống đáy kết chặt lại, các viên mỡ nổi lên trên, đồng thời xuất hiện các mùi vị khác thường. Giá trị dinh dưỡng của nó cũng theo đó giảm đi rõ rệt. Do đó chỉ cần giữ nhiệt độ của sữa bò không thấp dưới từ 0°c đến 3°c là vừa.

 

Chữa nứt nẻ tay, chân bằng y học cổ truyền

CHỮA NỨT NẺ TAY, CHÂN BẰNG Y HỌC CỔ TRUYỀN

Bài 1: Xuyên tiêu 10-15g sắc nấu lấy nước để dùng ngâm chân tay ngày 2 lần. Chờ ráo nước nơi đau, lấy tủy não lợn hoặc não dê bôi lên vết nứt nẻ một lớp mỏng (có thể thay thế bằng mỡ lợn).

Bài 2: Đương quy, thược dược, quế chi, tế tận, ngô thù du, táo đỏ mỗi vị 9g; gừng tươi 250g; cam thảo, thông thảo mỗi vị 6g. Cho tất cả vào ấm sắc chung, lấy nước thuốc, bỏ bã thuốc, uống trước bữa cơm 3 lần một ngày. Bài thuốc này dùng chữa chứng huyết hư bị hàn có nứt da, thích hợp cho những người tay chân hay bị lạnh, sinh chứng nẻ da, đôi khi nửa người dưới có cảm giác lạnh, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng.

Bài 3: Dùng giấm rửa chân, sau đó lấy củ sen nghiền thành bột mịn đắp lên chỗ bị đau để chữa chứng nẻ chân, dùng bã rượu thêm nước rửa ngoài da, dùng giấm đun nóng ngâm, rửa ngoài da. Hoặc dùng nước sắc hoa tiêu ngâm chỗ bị đau để chữa chứng nứt nẻ da. Hiệu quả tốt khi mới mắc chứng nẻ da, chỉ mới có hiện tượng đỏ sưng ngứa.

Bài 4: Cam thảo, hoàng liên, hoàng bá, hoàng cầm lượng bằng nhau, một ít dầu ăn, trước tiên dùng nước sắc cam thảo, bỏ bã thuốc, chỉ lấy nước sắc cam thảo để riêng. Đem hoàng liên, hoàng bá, hoàng cầm tán thành bột mịn hỗn hợp, sau đó thêm vào một ít bột nghệ, trộn đều, rồi cho dầu ăn vào bột quấy đều. Dùng nước sắc cam thảo rửa chỗ bị đau, sau đó bôi thuốc lên. Bài thuốc này có tác dụng thanh nhiệt giảm sưng, giải độc giảm đau. Đối với chứng nẻ da máu ứ cục bộ và uất trệ quá lâu, hóa nhiệt lở loét và đau thì hiệu quả chữa trị rõ rệt.

Bài 5: Hoàng cầm 6g, khổ sâm 12g, can đại hoàng 24g, sắc 3 vị trên, bỏ bã lấy nước dùng uống trước bữa ăn, ngày 3 lần. Bài thuốc này dùng cho người, tay chân đau nhói, nóng bỏng do nứt nẻ, đau nhất là ban đêm đến nỗi không ngủ được, miệng khô, lưỡi ráo, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng dày.

Bài 6: Hoàng cầm 6g, khổ sâm 12g, can đại hoàng 24g. Cách bào chế và sử dụng: Sắc kỹ lấy nước uống trước bữa ăn, chia 3 lần uống trong ngày. Bài thuốc này thích hợp với những người có thể chất hơi khát, tay chân nứt nẻ đau nhói, nóng bỏng nhất là về đêm nên có khi không ngủ được, miệng khô, lưỡi ráo, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng dày.

Chứng Thủy thấp tràn lan trong Y học cổ truyền

Khái niệm

Chứng Thủy thấp tràn lan là tên gọi chung cho những chứng trạng do khí hóa không lợi dẫn đến thủy thấp ứ đọng, tràn lan ra cơ bắp làm cho đầu mặt, tay chân, ngực bạng, vai lưng và thân phù thũng. Chứng này phần nhiều do ngoại tà làm nghẽn trở dương khí, hoặc dương khí bất túc, khí không thúc đẩy thủy lưu thông, ứ đọng lại mà gây nên bệnh.

Biểu hiện lâm sàng chủ yếu của chứng Thủy thấp tràn lan là hố mắt hơi phù như mới ngủ dậy, hoặc tay chân phù thũng, lúc đầu thì ấn vào chỗ thũng nổi lên ngay, tiếp theo lõm sâu lút ngón tay, thậm chí xuất hiện Hung thủy, phúc thủy, tiểu tiện không lợi, mình nặng ngực khó chịu, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Hoạt hoặc Trầm Trì.

Chứng này thường gặp trong bệnh biến thủy thũng.

Cần chẩn đoán phân biệt chứng Thủy thấp tràn lan với các”chứng Thủy ẩm ứ đọng ở trong”, “chứng thấp ngăn trở Tỳ Vị”, “chứng thủy với nhiệt câu kết”, “chứng thủy uất Hoàng hãn” v

Phân tích

Vì nguyên nhân bệnh, cơ chế bệnh và vị trí phát bệnh tạo nên chứng thủy thấp tràn lan khác nhau, nên biểu hiện lâm sàng đều khác nhau.

– Ví dụ trong bệnh biến Thủy thũng, nếu do thủy thấp thấm vào mà gây nên chứng Thủy thấp tràn lan, phần nhiều do lội nước dầm mưa, thủy thấp thấm vào trong, hoặc do ăn uống không điều độ, Tỳ bị thấp làm khốn đốn, dương khí bị chèn ép không phát triển được đến nỗi Tỳ không chế được thủy, thủy thấp đọng lại có chứng trạng tay chân phù thũng, mình nặng, ngực khó chịu, ăn không thấy ngon, buồn nôn, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Trầm Nhu; điều trị nên kiện Tỳ hóa thấp, thông dương lợi thủy, cho uống bài Ngũ linh tán (Thương hàn luận) hợp với Ngũ bì ẩm (Tam nhân phương)gia giảm.

Nếu Tỳ dương hư dẫn đến thủy thấp tràn lan, phần nhiều do thể trạng vốn Tỳ hư, lại bị tổn thương do ăn uống mệt nhọc, làm cho Tỳ dương không mạnh, trung khí hư tổn, khí không hóa thủy, Tỳ không phân bố chất tinh vi mà thủy thấp đọng lại, có.chứng phù thũng toàn thân, thũng từ lưng trở xuống ấn vào lõm sâu, sắc mặt úa vàng, mỏi mệt yếu sức, biếng ăn đại tiện nhão, ngực khó chịu, bụng trướng đầy, tiểu tiện không lợi, rêu lưỡi trắng nhớt mà trơn, lưỡi nhạt bệu, mạch Tế Nhu; điều trị phải làm phấn chấn Tỳ dương, ôn hóa thủy thấp, chọn dùng bài Sâm linh bạch truật tán (Thái bình huệ dàn hòa tễ cục phương) hoặc Thực Tỳ ẩm (Tế sinh phương) gia giảm.

– Do Thận dương bất túc dẫn đến chứng Thủy thấp tràn lan, phần nhiều vì phòng thất quá độ, Thận khí suy tổn, Thận chủ thủy, Thận hư thì thủy không ổn định mà đi bừa, sự mở đóng của Bàng quang kém làm cho tiểu tiện ít, đến nỗi thủy tràn lan ứ đọng, có chứng trạng sắc mặt trắng nhợt, toàn thân phù thũng, từ lưng trở xuống thũng rõ hơn, ấn vào ngập ngón tay, cơ thể ớn lạnh, chân tay lạnh, hồi hộp, động làm thì thở gấp, lưng đau mỏi nặng nề, chất lưỡi nhạt bệu, rêu lưỡi trắng nhớt mạch Trầm Trì, điều trị cần ôn Thận lợi thủy, cho uống Chân vũ thang (Thương hàn luận) gia giảm.

Thủy là âm; Thấp lại là âm tà; Thủy thấp chọi nhau dằng dai không rút, âm tà tràn lan, dương khí bị chèn ép cho nên đặc điểm của chứng này là Âm thịnh Dương vi. Lâm sàng có thể gặp  người vốn thể trạng dương hư, dễ hình thành tình trạng dương hư không vận chuyển được, thủy thấp tràn lan.

Còn như ngoại thấp dẫn động nội thấp hoặc do ăn uống không điều độ, dùng bừa bãi thức sống lạnh, hoặc phòng thất quá độ, làm hao tổn nguyên dương dẫn đến Tỳ Thận dương hư, cũng thường phát sinh chứng này; Cần phải nhận rõ; Vị mặn tính lạnh đi vào Thận, ăn quá nhiều vị mặn tính lạnh thì tổn thương Thận khí, khí hóa bất lợi, ảnh hưởng tới sự mở đóng của Bàng Quang làm cho chứng này hay bị tái phát, đó là nhân tố trọng yếu của chứng này.

Công năng của ba Tạng Phế – Tỳ – Thận mất điều hòa, khí hóa Tam tiêu không lợi, mở đóng của Bàng quang kém đều là những bệnh cơ chủ yếu phát sinh chứng thủy thấp tràn lan, nói lên sự vận hành khí cơ của con người được thông thóang, thủy thấp mới không ứ đọng; Vì nguyên nhân tạo nên khí cơ không điều hòa có rất nhiều, cho nên chứng này có thể thấy kiêm chứng kết hợp với nhiều bệnh tà; như kiêm kết hợp với khí trệ, phần nhiều bị giao động về tình tự, khí cơ bị uất trệ; khí trệ thì thủy không lưu thông, khí không lưu thông thì có các chứng tiểu tiện sáp trệ, giỏ giọt, tiểu tiện không thông, điều trị phải dùng phương pháp khai thông khí cơ, hành khí hóa thủy.

– Lại như kiêm chứng huyết ứ, phần nhiều do khí hóa không lợi, huyết đi không thông lợi, sách Kim Quỹ yếu lược có câu nói “huyết không lợi thì là thủy”, có thể gặp trong bệnh cổ trướng do ứ huyết ở Can Tỳ, hoặc phụ nữ Can huyết không điều hòa gây nên chứng không thấy chu kỳ v.v. điều trị theo phép hành khí hóa thủy, hoạt huyết hóa ứ, chiếu cố cả đôi bên.

Dương hư thủy tràn lan là bệnh cơ chủ yếu của chứng này, phép điều trị thông thường là ôn vận lợi thủy; Nhưng loại thuốc ôn nhiệt, dễ hóa táo tổn tân dịch, nếu thấm lợi vô độ, công trục quá mạnh, thường tạo nên tình trạng nước rút mà tân dịch thiếu; Trong quá trình tật bệnh phát triển của chứng này, có thể từ dương khí hư suy diễn biến thành “K xuất hiện chứng trạng khắp mình phù thũng, tiểu tiện không lợi, miệng khô họng đau, tâm phiền chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi nhớt bẩn, mạch Tế, Hoạt Sác v.v. Vì vậy, phải nghiêm khắc với nguyên tắc “bệnh giảm quá nửa phải ngừng thuốc”, những loại công phạt mạnh tợn dùng phải cẩn thận. Chứng này kéo dài ngày, giai đoạn cuối có thể biểu hiện”Âm Dương đều hư” có các chứng trạng thũng trướng toàn thân, tinh thần uể oải, chóang đầu ù tai, lưng gối đau mỏi, cơ thể lạnh tay chân lạnh, lưỡi ít rêu tróc mảng, mạch Trầm Tế… Cuối cùng dẫn đến nước đục can thiệp, tà thịnh chính hư, xuất hiện tình trạng âm dương chia lìa…

Chẩn đoán phân biệt

– Chứng Thủy ẩm ứ đọng ở trong với chứng Thủy thấp tràn lan, cả hai đều là dương khí bất túc, phân bố thủy dịch thất thường gây nên bệnh biến, và cũng có các chứng trạng ngực khó khăn, nặng mình, rêu lưỡi trắng nhớt v.v…

Nhưng chứng Thủy ẩm ứ đọng ở trong chủ yếu là chỉ thủy ẩm ứ đọng ở ác bộ vị ngực bụng, Vị Trường và chân tay, khác với chứng Thủy thấp tràn lan, vì thủy thấp có thể tràn lan toàn thân. Loại trên lâm sàng có thể thấy chứng trạng trong dạ dày có tiếng nước, trong ruột sôi ùng ục, ho nhổ cũng đau, vùng lưng có mảng lạnh, diện tích bằng bàn tay: Còn loại sau thì biểu hiện chủ yếu là thủy thũng, tiểu tiện không lợi.

Chứng Thủy ẩm ứ đọng ở trong tuy cũng có lúc thấy phù thũng như chứng Dật ẩm chân tay nặng và thũng, nhưng nói chung phù thũng khá nhẹ, khác hẳn với chứng Thủy thấp tràn lan thũng trướng rất rõ ràng.

Chứng Thủy ẩm ứ đọng ở trong điều trị theo phép vận hóa thủy ẩm; Chứng Thủy thấp tràn lan thì điều trị theo phép Ôn dương lợi thủy; cần phân biệt hai loại ở điểm này.

– Chứng Thấp ngăn trở Tỳ Vị với chứng Thủy thấp tràn lan, cả hai đều có chứng trạng Tỳ dương không mạnh, thấp tà ngăn trở làm cho vùng ngực bụng khó chịu mình nặng, tiểu tiện sẻn ít. Nhưng chứng Thấp ngăn trở Tỳ Vị bộ vị bệnh biến chủ yếu là ở Trung tiêu, vì công năng vận hóa của Tỳ Vị không điều hòa mà xuất hiện các chứng trạng thấp tà bị ngăn trở ở trong như tinh thần mỏi mệt, chân tay buồn bã, ngực bụng trướng đầy, mình nặng, không thiết ăn uống, hoặc có chứng trạng sốt nhẹ, miệng nhớt, tiểu tiện sẻn ít, lưỡi nhớt, mạch Nhu; Bệnh phát về mùa Hạ còn gọi là “Chú Hạ”. Điểm chủ yếu để phân biệt với chứng Thủy thấp tràn lan là:

  1. Chứng Thấp ngăn trở Tỳ Vị bộ vị bệnh biến có giới hạn hoặc có đặc điểm phụ thuộc thời tiết theo mùa; Còn chứng Thủy thấp tràn lan mang tính chất thủy thấp toàn thân.
  2. Loại trên có chứng trạng chủ yếu là ngực bụng chướng đầy, không thiết ăn uống, mình nặng, tay chân buồn bã, về điều trị thì nên vận trung hóa thấp. Còn loại sau có chứng trạng chủ yếu là đầu mặt, tay chân phù thũng, tiểu tiện không lợi, về điểu trị thì nên ôn dương lợi thủy.

Thử thấp làm khốn Tỳ Vị ở trong cũng có lúc phù nhẹ ở vùng mặt hoặc chân tay có cảm giác căng trướng, đây là do đặc điểm của thời tiết thử thấp và thử tà rất dễ hao phí, tạo nên biểu hiện khí hư gây trướng, nhưng dứt khoát chỉ có phù nhẹ, hơn nữa là chứng trạng chỉ là thứ yếu: Cần phân biệt cho rõ hai loại này.

– Chứng Thủy nhiệt câu kết với chứng Thủy thấp tràn lan: Chứng Thủy nhiệt câu kết còn gọi là “chứng Kết Hung”, đây là do biểu chứng dùng thuốc Hạ nhầm, ngoại tà bị hãm vào trong, hóa nhiệt vào lý, cùng câu kết với thủy ở vùng ngực sườn, thậm chí từ dưới Tâm xuống đến bụng dưới rắn đau không chịu nổi, nhưng đầu hơi có mồi hôi, phiền táo đoản hơi, trong tâm cồn cào, miệng khô lưỡi ráo, đại tiện khô kết v.v… Điểm chẩn đoán phân biệt với chứng này là:

  1. Cả hai chứng tuy cùng là Thủy gây nên, nhưng loại trên là chỉ loại thủy nhiệt câu kết trong ngoại cảm nhiệt bệnh, bộ vị bệnh biến ở vùng bụng và ngực sườn; Loại sau là thủy thấp tràn lan trong tạp bệnh nội thương, bộ vị bệnh biến có tính chất toàn thân.
  2. Triệu chứng chủ yếu của loại trên là đau ngực sườn, cự án, nhưng đầu hơi có mồ hôi. Triệu chứng chủ yếu của loại sau là thũng trướng. Vì vậy chẩn đoán phân biệt hai loại bệnh không khó khăn.

– Chứng Thủy ứ câu kết với chứng Thủy thấp tràn lan: Chứng thủy ứ câu kết là chỉ chứng hậu “Can Tỳ huyết ứ” trong bệnh Cổ trướng. Vì Can Tỳ khí trệ lâu ngày làm cho lạc mạch bị ứ nghẽn, vận chuyển huyết bất lợi, Tỳ hư không vận chuyển mà Thủy thấp tụ ở trong Can huyết ngưng đọng ở trong nên huyết không thông lợi thủy, có chứng bụng to như cái chậu, ngực sườn trướng đau, nổi rõ gân xanh, ngực bụng đều có nước, sắc da đen sạm, khát không muốn uống, tiểu tiện không lợi, sắc lưỡi tía, có nốt ứ huyết, mạch Tế Hoạt hoặc Trầm Nhu. Điểm chủ yếu để phân biệt với chứng Thủy thấp tràn lan là:

  1. Cả hai loại đều biểu hiện thủy thấp tụ ở trong, tràn lan ra ngực bụng mà xuất hiện chứng trạng ngực bụng có nước, tiểu tiện không lợi. Nhưng loại trên bộ vị nước tràn lan chủ yếu ở vùng bụng; còn loại sau bộ vị nước tràn lan là toàn thân.Tạng Phủ chủ yếu gây bệnh biến chứng Thủy ứ câu kết là Can, Tỳ, Thận, còn ở chứng này là do công năng ba tạng Phế, Tỳ, Thận không điều hòa.
  2. Chứng Thủy ứ câu kết không chỉ có chứng trạng ngực, bụng có nước do thủy thấp tụ ở trong, mà còn biểu hiện có ứ huyết kết ở trong rất rõ ràng như bụng nổi gân xanh, đầu mặt, cổ gáy, vai lưng có dấu hiệu ứ huyết và sợi huyết mạng nhện, lòng bàn tay có vệt đỏ, chảy máu răng, lưỡi có nốt ứ huyết xanh tía. Dựa vào cơ sở đó mà chẩn đoán phân biệt.

– Chứng Thủy uất hoàng hãn với chứng thủy thấp tràn lan: chứng Thủy uất hoàng hãn còn gọi là”Hoàng hãn”; đây là do tà khí thủy thấp ngấm vào bì mao, thấp t chèn ép hóa nhiệt, thúc ép ra mồ hôi, có chứng trạng mình nóng ngực đầy chân tay đầu mặt phù thũng, thân thể đau nhức nặng nề, hai ống chân lạnh, ra mồ hôi sắc vàng, mạch Trầm Trì. Điểm chẩn đoán phân biệt với chứng Thủy thấp tràn lan là:

  1. Cả hai chứng tuy đều do tà khí thủy thấp làm nghẽn sự lưu thông của khí cơ nên xuất hiện chứng trạng chân tay đầu mặt phù thũng. Nhưng loại trên là thấp nhiệt chèn ép ẩn náu. Loại sau là dương khí bị uất át.

Bộ vị bệnh biến của loại trên là ở bì phu, trong bắp thịt.

Bộ vị bệnh biến của loại sau là ở ba tạng Phế Tỳ Thận.

Đặc điểm chủ yếu của chứng Thủy uất hoàng hãn là mồ hôi thấm ướt ra áo có sắc vàng hoàng bá. Còn điểm chủ yếu của chứng Thủy thấp tràn lan là phù thũng, tiểu tiện không lợi. Dựa vào các cơ sở đó mà phân biệt.

Trích dẫn y văn

– Bệnh Thủy lúc bắt đầu, mi mắt hơi sưng như mới ngủ dậy, động mạch ở cổ nổ rõ khi có cơn ho; bên trong vế cảm giác lạnh, ống chân phù, bụng cũng to… Đấy là đã hình thành bệnh Thủy (Thủy trướng – Linh Khu).

– Chứng Phong thủy, thủy do phong kích động, vì phong mà thành bệnh thủy vậy. Phong làm tổn thương bì mao mà thấp thấm vào khớp xương, cho nên mạch Phù ố phong mà khớp xương đau. Chứng Bì thủy, thủy trôi ở trong da, bên trong hợp với Phế khí cho nên mạch cũng Phù, không kiêm phong cho nên không có chứng sợ gió. Bụng to như cái trống, có ý nói bằng bẵng mà không cứng, là vì bệnh ở bì phu chứ không liên lụy đến Tạng, cho nên bên ngoài có vẻ trướng mà bên trong thì không suyễn đầy. Thủy ở bì (da) nên làm cho ra mồ hôi, cho nên mới nói nên phát hãn.

Chứng Chính thủy, là thứ nước ở tạng Thận vốn nhiều. Chứng Thạch thủy là nước tụ lại không lưu thông. Chính thủy nhân phần Dương bị hư mà xâm phạm Thượng tiêu, cho nên mạch Trầm Trì mà suyễn. Chứng Thạch thủy là do phần âm thịnh mà kết ở bụng dưới, cho nên mạch Trầm bụng đầy mà không suyễn.

Chứng Hoàng hãn, mồ hôi thấm áo có sắc vàng, bệnh do tà khí thấp và nhiệt câu kết mà thấp tà ở bên ngoài nhiệt tà, thịnh ở phần trên mà dương khí không lưu thông cho nên mình nóng, ngực đầy, chân tay đầu mặt thũng, bệnh để lâu thì xâm phạm vào lý mà sự vinh nhuận không thông, sẽ nghịch ở cơ bắp thịt mà thành ung nhọt (Thủy khí bệnh mạch chứng tính trị – Kim quỹ yếu lược tâm điển).

 Các loại bệnh do Thủy gây nên, về điều trị nên biến phương pháp phân tiêu biểu lý thượng hạ.

Thũng từ lưng trở lên là thủy ở bên ngoài, nên phát hãn thì khỏi, đó là chứng của các bài Việt Tỳ, Thanh long thang.

Thũng từ lưng trở xung, nên lợi tiểu tiện thì khỏi, đó là chứng của các bài Ngũ linh, Chư linh thang (Kim quỹ yếu lược chú- Y tông kim giám).