Blog Trang 480

Chăm sóc người bệnh viêm khớp dạng thấp

Viêm khớp dạng thấp là bệnh tự miễn. Quá trình viêm thoái hoá tiến triển mạn tính ở nhiều khớp mà vị trí tổn thương đặc trưng là bao hoạt dịch của khớp. Hậu quả dẫn đến đau và mất vận động khớp. Bệnh không gây chết người, nhưng gây tàn phế, mất khả năng lao động. Nguyên nhân gây bệnh còn chưa rõ ràng, hay gặp ở nữ > 35 tuổi.

TRIỆU CHỨNG

Lâm sàng

Triệu chứng tại khớp

  • Vị trí khớp tổn thương: hay gặp ở khớp ngón tay, khớp cổ tay, khớp bàn chân, khớp cổ chân, khớp gối, khớp khuỷu, khớp vai, khớp háng.
  • Đặc điểm tổn thương khớp:

+ Chủ yếu sưng đau, ít nóng đỏ.

+ Đau có tính chất đối xứng.

+ Có dấu hiệu cứng khớp buổi sáng.

+ Đau tăng về đêm.

  • Giai đoạn muộn: các khớp tổn thương lâu ngày dẫn đến teo cơ, cứng khớp, biến dạng khớp, lệch trục. Hay gặp ở khớp bàn tay, khớp bàn chân làm cho ngón có hình thoi do các ngón gần sưng to phì đại, bàn tay lệch trục.

Triệu chứng ngoài khớp

  • Bệnh nhân mệt mỏi, sốt nhẹ, chán ăn, giảm cân, da xanh nhẹ.
  • Giai đoạn muộn xuất hiện hội chứng Sjogren đặc trưng bởi viêm khớp có giảm bài tiết nước bọt và nước mắt.
  • Có thể tìm thấy hạt dướị da (gọi là hạt thấp) ở 25% số bệnh nhân viêm khớp dạng thấp. Hạt dưới da xuất hiện ở gần khớp tổn thương.

Triệu chứng cận lâm sàng

  • Chụp khớp viêm:

+ Hình ảnh sụn khớp thoái hoá nham nhở, các khe khớp hẹp.

+ Giai đoạn muộn, các khớp dính thành một khối.

  • Xét nghiệm máu:

+ Số lượng hồng cầu giảm, bạch cầu có thể tăng hoặc giảm.

+ Tốc độ máu lắng tăng.

+ Axit uric tăng.

  • Xét nghiệm miễn dịch học: tìm yếu tố dạng thấp trong máu, trong dịch ổ khớp có yếu tố dạng thấp ( > 80% số bệnh nhân viêm khớp dạng thấp).
  • Soi khớp: thấy bao hoạt dịch, sụn khớp, sụn chêm, sụn chằng sẽ thấy tổ chức sụn khớp bị phá huỷ với những sẹo xơ.
  • Chọc dò ổ khớp:

+ Thấy dịch khớp đục màu sữa hoặc màu vàng thẫm.

+ Xét nghiệm dịch khớp: có nhiều bạch cầu, tế bào viêm, lượng mucin giảm.

ĐIỀU TRỊ

Điều trị nội khoa

  • Viêm khớp dạng thấp mức độ nhẹ

Chủ yếu áp dụng nhiệt trị liệu chườm nóng hoặc chườm lạnh.

Kết hợp với luyện tập trị liệu.

Nghỉ ngơi đúng mức.

Nếu đau nhiều dùng thuốc giảm đau chống viêm không có nguồn gốc steroid như: diclophenac, indomethaxin, voltaren…

  • Viêm khớp dạng thấp thể vừa:(có ăn mòn khớp trên X quang)

Chủ yếu dùng thuốc giảm đau, chống viêm không có nguồn gốc steroid như diclophenac, indomethaxin, ibuprophen. Có thể kết hợp với delagin.

Điều trị kết hợp: nhiệt trị liệu, châm cứu.

  • Viêm khớp dạng thấp thể nặng

Dùng corticoid: prenisolon, depersolon.

Thuốc giảm miễn dịch: methotrexat, cyclophosphamit, imuran.

Điều trị ngoại khoa

  • Cắt bỏ bao hoạt dịch.
  • Dẫn lưu ổ khớp.
  • Sửa khớp, khâu dây chằng, gân.

CHĂM SÓC

Nhận định chăm sóc

  • Hỏi chi tiết vị trí đau các khớp và tính chất đau:

+ Đau ở những khớp nào, thời gian đau.

+ Có dấu hiệu cứng khớp buổi sáng không?

+ Hạn chế vận động, mức độ hạn chế, có tự phục vụ được bản thân như đi lại, tắm rửa, mặc quần áo. hay không?

+ Có sốt, có chán ăn, giảm cân không?

  • Quan sát và khám thực thể:

+ Quan sát khớp viêm có đối xứng hai bên, xem khớp viêm có sưng không?

+ Quan sát các cơ vùng khớp viêm có teo cơ, loạn dưỡng, yếu cơ.

+ Sờ khớp viêm đánh giá nhiệt độ.

+ Xem có nề, tràn dịch khớp không?

Lập kế hoạch chăm sóc

  • Làm giảm đau và giảm khó chịu cho bệnh nhân.
  • Tăng khả năng vận động cho bệnh nhân.
  • Giảm lo lắng cho bệnh nhân.
  • Đảm bảo dinh dưỡng cho bệnh nhân.

Thực hiện chăm sóc

  • Làm giảm đau và giảm khó chịu cho bệnh nhân

Để bệnh nhân và các khớp viêm ở tư thế thích hợp giúp bệnh nhân đỡ đau, dễ chịu.

Bất động và nghỉ ngơi giúp giải phóng cho khớp khỏi sức nặng của cơ thể, có tác dụng giảm đau.

Áp dụng nhiệt trị liệu để giảm đau như chườm lạnh trong giai đoạn cấp có sưng nóng đỏ nhiều ở khớp, chườm ấm khớp ở giai đoạn không có nóng đỏ khớp nhất là khi thời tiết lạnh.

Cung cấp cho bệnh nhân một số phương pháp trợ giúp như nạng, thanh nẹp, dùng để chống đỡ và cố định khớp ở tư thế cơ năng.

Hướng dẫn bệnh nhân sử dụng thuốc giảm đau đúng cách khi có y lệnh. Theo dõi tác dụng phụ và tránh lạm dụng thuốc.

  • Tăng cường khả năng vận động của khớp và hoạt động của cơ thể

Điều dưỡng viên phải hướng dẫn bệnh nhân vận động sớm khi khớp đã giảm đau nhiều, phải luyện tập vận động khớp, xoa bóp sớm và thường xuyên để làm tăng sức mạnh của cơ, tránh teo cơ, cứng khớp.

Hướng dẫn và giúp đỡ bệnh nhân tự chăm sóc một cách độc lập.

Hướng dẫn bệnh nhân tự thực hiện một số công việc như chải đầu, tự xúc ăn, tắm rửa…

  • Tăng cường niềm lạc quan tinh thần cho bệnh nhân

Bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp hay lo sợ, buồn rầu bi quan, hoặc cáu kỉnh nên điều dưỡng cần kết hợp cùng gia đình bệnh nhân hiểu và thông cảm cho bệnh nhân, cổ vũ động viên niềm lạc quan tin tưởng, khuyên bệnh nhân chịu khó tập luyện để tránh tàn phế.

  • Đảm bảo dinh dưỡng cho bệnh nhân

Bệnh nhân viêm khớp dạng thấp thường chán ăn, mệt mỏi và thiếu máu nhẹ. nên giúp đỡ họ bằng biện pháp sau:

Hướng dẫn cho bệnh nhân biết cách lựa chọn thức ăn để cung cấp nhiều năng lượng như chọn thực phẩm nhiều protein, rau quả tươi, các vitamin, sắt để giúp phục hồi tổ chức.

Động viên bệnh nhân ăn nhiều nếu bệnh nhân không quá béo.

Khuyên bệnh nhân ăn làm nhiều bữa nhỏ, ăn những thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao như thịt nạc, trứng, sữa.

Đối với bệnh nhân quá béo, cần hướng dẫn ăn giảm năng lượng, giảm mỡ để giảm cân thừa nhằm giảm gánh nặng cho khớp, tránh làm tổn thương thêm cho khớp.

Đánh giá chăm sóc

Việc chăm sóc được coi là có kết quả khi người bệnh:

  • Hết đau các khớp, cải thiện vận động khớp.
  • Hiểu về bệnh và an tâm tin tưởng vào điều trị.
  • Biết cách luyện tập vận động để tránh tàn phế.

Thuốc Benzydamine (oral rinse)

TÊN CHUNG: BENZYDAMINE – DUNG DỊCH SÚC MIỆNG (ben-ZID-uh-meen)

Sử dụng | Cách dùng | Tác dụng phụ | Biện pháp phòng ngừa | Tương tác thuốc | Quá liều | Lưu ý | Liều đã quên | Bảo quản

SỬ DỤNG:

Thuốc này giúp giảm đau và viêm liên quan đến đau họng hoặc vết loét miệng do xạ trị gây ra.

CÁCH DÙNG:

Đây là dung dịch súc miệng và/hoặc súc họng, không được nuốt. Dùng thuốc theo chỉ dẫn. Nếu thuốc gây kích ứng hoặc bỏng rát, bạn có thể pha loãng với lượng nước tương đương trước khi súc miệng hoặc súc họng. Đối với vết loét miệng, đặt lượng thuốc được kê đơn vào miệng và cố gắng giữ dung dịch tiếp xúc với vết loét ít nhất 30 giây trước khi nhổ ra. Đối với đau họng, súc họng với lượng thuốc được kê đơn trong ít nhất 30 giây trước khi nhổ ra.

TÁC DỤNG PHỤ:

Thuốc này có thể gây bỏng rát, ngứa rát hoặc tê ở miệng hoặc họng. Cũng có thể gặp tình trạng kích ứng họng, ho, khô miệng kèm khát nước và đau đầu. Nếu các tác dụng này kéo dài hoặc trở nên phiền toái, hãy thông báo cho bác sĩ của bạn. Hãy báo ngay cho bác sĩ nếu bạn gặp: buồn ngủ, buồn nôn hoặc nôn mửa. Nếu bạn nhận thấy các tác dụng khác không được liệt kê ở trên, hãy liên hệ với bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn.

BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA:

Hãy cho bác sĩ biết nếu bạn có: vấn đề về thận, bất kỳ dị ứng nào. Thuốc này chỉ nên được sử dụng khi thực sự cần thiết trong thai kỳ. Hãy thảo luận về nguy cơ và lợi ích với bác sĩ của bạn. Vì thuốc này có thể xuất hiện trong sữa mẹ, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi cho con bú.

TƯƠNG TÁC THUỐC:

Hãy cho bác sĩ biết về bất kỳ loại thuốc không kê đơn hoặc kê đơn nào bạn đang dùng. Không bắt đầu hoặc ngừng bất kỳ loại thuốc nào mà không có sự chấp thuận của bác sĩ hoặc dược sĩ.

QUÁ LIỀU:

Nếu nghi ngờ quá liều, hãy liên hệ ngay với trung tâm kiểm soát độc địa phương hoặc phòng cấp cứu. Thuốc này có thể gây hại nếu nuốt phải.

LƯU Ý:

Không nên sử dụng thuốc này cho trẻ em dưới 5 tuổi vì trẻ có thể nuốt thuốc thay vì nhổ ra.

LIỀU ĐÃ QUÊN:

Nếu bạn quên một liều, hãy sử dụng ngay khi nhớ ra và sau đó tiếp tục lịch trình liều lượng như bình thường. Không dùng gấp đôi liều để bù cho liều đã quên.

BẢO QUẢN:

Bảo quản ở nhiệt độ phòng từ 59 đến 86 độ F (15 đến 30 độ C) theo chỉ dẫn. Để xa tầm tay trẻ em.

Flixotide

Thuốc Flixotide
Thuốc Flixotide

FLIXOTIDE

khí dung 25 mg/liều: ống xịt 60 liều và 120 liều. khí dung 50 mg/liều: ống xịt 60 liều và 120 liều. khí dung 125 mg/liều: ống xịt 60 liều và 120 liều. khí dung 250 mg/liều: ống xịt 60 liều và 120 liều.

THÀNH PHẦN

cho 1 liều
Fluticasone propionate 25 mg
cho 1 liều
Fluticasone propionate 50 mg
cho 1 liều
Fluticasone propionate 125 mg
cho 1 liều
Fluticasone propionate 250 mg

DƯỢC LỰC

Cơ chế tác dụng :

Fluticasone propionate dùng qua ống hít với liều khuyến cáo có tác động kháng viêm glucocorticoid mạnh tại phổi, làm giảm các triệu chứng và cơn hen phế quản, mà không có các tác dụng ngoại ý như khi dùng corticosteroid theo đường toàn thân.

Chức năng thượng thận :

Lượng hormone thượng thận tiết ra hàng ngày vẫn duy trì trong giới hạn bình thường trong quá trình điều trị dài hạn với fluticasone propionate hít ngay cả khi dùng với liều cao nhất được khuyến cáo cho trẻ em và người lớn. Sau khi chuyển từ các steroid hít khác sang fluticasone propionate hít, lượng hormone tiết hàng ngày dần dần được cải thiện mặc dù trước kia hay hiện tại có dùng gián đoạn các steroid đường uống, do đó chức năng thượng thận trở về hoạt động bình thường khi dùng fluticasone propionate hít. Dự trữ thượng thận vẫn duy trì bình thường trong quá trình điều trị dài hạn fluticasone propionate hít khi đo bằng sự tăng bình thường trong một test kích thích. Tuy nhiên, sự suy yếu dự trữ thượng thận tồn tại sau các điều trị trước đó có thể k o dài đáng kể và yếu tố này cũng cần được lưu ý (xem Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng).

Số liệu an toàn tiền lâm sàng :

Độc tính cho thấy chỉ là những loại ảnh hưởng tiêu biểu của các corticosteroid mạnh và chỉ xảy ra khi dùng với liều cao hơn rất nhiều so với liều được đề nghị cho điều trị. Không tìm thấy được ảnh hưởng nào mới qua các test về độc tính với liều lập lại, các nghiên cứu về sinh sản hay nghiên cứu về tính sinh quái thai. Fluticasone propionate không gây đột biến in vitro và in vivo và không cho thấy khả năng sinh khối u ở loài gặm nhấm. Thuốc không gây kích ứng và không gây nhạy cảm trên mẫu thú vật.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Sau khi dùng theo đường uống 87 – 100% liều dùng được đào thải qua phân với 75% hợp chất dưới dạng không được hấp thu ban đầu tùy theo liều dùng. Có một chất chuyển hóa chủ yếu không có hoạt tính. Sau khi tiêm tĩnh mạch có một sự thanh thải nhanh chóng trong huyết tương gợi ý cho sự đào thải mạnh ở gan. Thời gian bán hủy đào thải trong huyết tương vào khoảng 3 giờ. Thể tích phân bố khoảng 250 lít.

CHỈ ĐỊNH

Người lớn :

Điều trị dự phòng trong :

Hen phế quản nhẹ (giá trị PEF cao hơn 80% so với bình thường với thay đổi sáng chiều dưới 20%).

Bệnh nhân cần dùng thuốc giãn phế quản không đều đặn nay sử dụng nhiều hơn bình thường. Hen phế quản vừa (giá trị PEF 60-80% so với bình thường với thay đổi sáng chiều 20-30%).

Bệnh nhân cần dùng thuốc trị hen phế quản thường xuyên. Bệnh nhân bị hen phế quản không ổn định hay nặng hơn khi sử dụng thuốc dự phòng hiện có hay chỉ đơn thuần dùng một loại thuốc giãn phế quản.

Hen phế quản nặng (giá trị PEF dưới 60% so với bình thường với thay đổi sáng chiều 30%). Bệnh nhân bị hen phế quản nặng mãn tính. Khi dùng fluticasone propionate hít, nhiều bệnh nhân bị lệ thuộc corticosteroid đường toàn thân để kiểm soát đầy đủ các triệu chứng có thể được giảm đáng kể hay không còn cần phải dùng corticosteroid đường uống.

Trẻ em :

Bất kỳ trẻ em nào cần dùng thuốc hen phế quản dự phòng, bao gồm những bệnh nhi không được kiểm soát với các thuốc dự phòng hiện có.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Flixotide Inhaler và Accuhaler chống chỉ định ở bệnh nhân có tiền sử quá mẫn với bất cứ Thành phần nào của thuốc.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Việc kiểm soát hen phế quản nên theo chương trình điều trị bậc thang và đáp ứng của bệnh nhân nên được kiểm soát trên lâm sàng và bằng các xét nghiệm chức năng phổi. Hiện tượng gia tăng sử dụng các chất chủ vận b-2 tác động ngắn hạn dùng theo đường hít để kiểm soát các triệu chứng cho thấy có sự suy giảm kiểm soát hen phế quản. Trong những trường hợp này, nên đánh giá lại phác đồ điều trị. Giảm kiểm soát hen phế quản đột ngột và tăng dần có khả năng đe dọa đến tính mạng và nên cân nhắc đến việc tăng liều corticosteroid. Ở những bệnh nhân được xem là có nguy cơ, nên kiểm tra lưu lượng đỉnh ký hàng ngày.

Flixotide Inhaler và Accuhaler không dùng cho cơn hen phế quản cấp mà dùng để kiểm soát thường quy dài hạn. Bệnh nhân sẽ cần một thuốc giãn phế quản theo đường hít tác động nhanh và ngắn hạn để làm giảm triệu chứng hen phế quản cấp.

Nên kiểm tra kỹ thuật sử dụng ống hít của bệnh nhân để bảo đảm sự đồng bộ giữa nhát xịt với động tác hít vào để đưa thuốc vào phổi một cách tối ưu.

Chức năng thượng thận và dự trữ thượng thận thường ở trong khoảng giới hạn bình thường khi dùng fluticasone propionate hít. Tuy nhiên, một vài ảnh hưởng toàn thân có thể xuất hiện với một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân người lớn sau khi điều trị kéo dài với liều hàng ngày tối đa được khuyến cáo. Bệnh nhân chuyển từ các steroid khác dùng theo đường hít hay uống sang fluticasone propionate hít vẫn còn có nguy cơ suy giảm dự trữ thượng thận trong một thời gian đáng kể.

Bệnh nhân được cấp cứu nội khoa hay ngoại khoa mà trong quá khứ đã cần phải dùng liều cao các steroid hít khác và/hoặc được điều trị gián đoạn với các steroid uống vẫn còn có nguy cơ suy dự trữ thượng thận trong một thời gian đáng kể sau khi chuyển sang fluticasone propionate hít. Mức độ suy thượng thận có thể đỏi hỏi phải có ý kiến các chuyên gia trước khi lựa chọn biện pháp điều trị. Nên luôn luôn lưu ý đến khả năng suy giảm đáp ứng thượng thận còn tồn tại lại trong các trường hợp cấp cứu, và cần phải cân nhắc đến các trường hợp chọn lọc có khả năng gây stress và khi đó điều trị corticosteroid thích hợp cần được quan tâm.

Ở trẻ em dùng các liều khuyến cáo fluticasone propionate hít, chức năng thượng thận và dự trữ thượng thận thường vẫn trong giới hạn bình thường. Không quan sát được tác dụng không mong muốn toàn thân và đặc biệt là không làm chậm sự phát triển ở trẻ em được cho dùng fluticasone propionate hít. Tuy nhiên, không nên xem nhẹ các ảnh hưởng có thể có của các điều trị trước đó hoặc điều trị cách quãng với corticoid đường uống.. Tuy nhiên, dùng fluticasone propionate hít có thể sẽ làm giảm đến mức tối thiểu nhu cầu steroid uống.

Việc thiếu đáp ứng hay tăng nặng hơn tình trạng hen phế quản nên được điều trị bằng cách gia tăng liều fluticasone propionate hít và nếu cần thiết, cho dùng một steroid toàn thân và/hoặc kháng sinh nếu có nhiễm khuẩn.

Đối với việc chuyển bệnh nhân đang sử dụng corticosteroid uống sang Flixotide đường hít :

  • Việc chuyển bệnh nhân bị lệ thuộc steroid uống sang Flixotide Inhaler và Accuhaler và việc kiểm soát sau đó cần đặc biệt thận trọng, do việc hồi phục chức năng suy vỏ thượng thận do điều trị steroid toàn thân kéo dài có thể cần một thời gian đáng kể.
  • Những bệnh nhân đã được điều trị với steroid toàn thân trong một thời gian dài hay với liều cao có thể suy vỏ thượng thận. Nên kiểm tra đều đặn chức năng vỏ thượng thận ở những người này và thận trọng giảm dần liều dùng steroid toàn thân của họ.
  • Sau khoảng một tuần, bắt đầu giảm dần dần lượng steroid toàn thân. Nên giảm liều thích hợp với mức độ steroid toàn thân duy trì và giảm trong khoảng thời gian không dưới một tuần. Đối với liều duy trì prednisolone (hay thuốc tương đương) 10 mg hay ít hơn, nên giảm liều không quá 1 mg cho mỗi ngày và giảm trong khoảng thời gian không dưới một tuần. Đối với liều duy trì prednisolone cao hơn 10 mg, có thể giảm một cách thận trọng với mức giảm cao hơn với giảm cách quãng một tuần.
  • Một vài bệnh nhân cảm thấy khó chịu một cách không đặc hiệu trong quá trình ngưng giảm thuốc mặc dù đã có sự duy trì hay thậm chí cải thiện hô hấp. Họ nên được khuyến khích tiếp tục sử dụng fluticasone propionate hít và ngưng dần setroid toàn thân, trừ phi có những dấu hiệu khách quan của thiểu năng thượng thận.
  • Bệnh nhân đã bỏ không dùng steroid uống nhưng vẫn còn bị suy chức năng vỏ thượng thận nên mang theo trong người một thẻ lưu ý rằng họ có thể cần dùng thêm steroid toàn thân trong các giai đoạn stress như cơn hen phế quản kịch phát nặng lên, nhiễm trùng hô hấp, bệnh chính tái phát, phẫu thuật, chấn thương, vv.
  • Sự thay thế điều trị steroid toàn thân bằng điều trị theo đường hít đôi khi làm lộ ra các dị ứng như viêm mũi dị ứng hay eczema đã được kiểm soát trước đó bằng thuốc dùng toàn thân. Các dị ứng này nên được điều trị triệu chứng với các thuốc kháng histamine và/hoặc thuốc dùng tại chỗ, bao gồm các steroid dùng tại chỗ.

Không nên ngưng điều trị với Flixotide Inhaler và Accuhaler một cách đột ngột.

Cũng giống như các corticosteroid hít khác, cần đặc biệt thận trọng đối với bệnh nhân bị lao phổi tiến triển hay tiềm ẩn.

Ảnh hưởng đến khả năng lái xe và vận hành máy móc :

Fluticasone propionate hầu như không có ảnh hưởng nào đến khả năng lái xe và vận hành máy móc.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Bằng chứng về tính an toàn của fluticasone propionate trong thai kỳ ở người là chưa đầy đủ. Các nghiên cứu về sự sinh sản ở thú vật chỉ cho thấy các tác dụng đặc trưng cho các glucocorticoid khi tiếp xúc toàn thân với liều cao hơn rất nhiều so với liều điều trị theo đường hít được khuyến cáo. Các xét nghiệm về khả năng gây tổn hại lên sự di truyền đã cho thấy không có khả năng đột biến. Tuy nhiên, cũng giống như các thuốc khác, chỉ nên xem xét sử dụng fluticasone propionate trong thai kỳ nếu lợi ích mong đợi cho người mẹ cao hơn mọi nguy cơ có thể gây ra cho thai nhi.

Không biết được là fluticasone propionate có tiết ra trong sữa mẹ hay không cũng như không có số liệu nào từ các nghiên cứu trên thú vật. Tuy nhiên, xét về đặc tính dược động học, việc fluticasone propionate tiết vào sữa hầu như không thể xảy ra.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Chưa có nghiên cứu tương tác thuốc đặc hiệu nào đã được thực hiện. Tuy nhiên, do nồng độ đạt được trong huyết tương qua đường hít rất thấp, hầu như không có khả năng xảy ra tương tác thuốc.

Không có báo cáo về tương tác thuốc được nghi ngờ nào trong chương trình triển khai trên lâm sàng.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Bệnh candida miệng và họng (bệnh tưa miệng) xảy ra ở một vài bệnh nhân. Các bệnh nhân này có thể cần phải súc miệng bằng nước sau khi dùng ống hít. Bệnh candida triệu chứng có thể được điều trị với thuốc kháng nấm tại chỗ trong khi vẫn tiếp tục dùng Flixotide Inhaler và Accuhaler.

Ở một vài bệnh nhân fluticasone propionate hít có thể khàn giọng. Súc miệng bằng nước ngay sau khi hít thuốc có thể có ích.

Cũng giống như các trị liệu theo đường hít khác, co thắt phế quản kịch phát có thể xuất hiện cùng với gia tăng thở khò khè ngay sau khi dùng thuốc. Nên điều trị ngay lập tức với thuốc giãn phế quản đường hít tác dụng nhanh. Ngưng thuốc ngay lập tức và đánh giá tình trạng bệnh nhân, và nếu có thể, nên áp dụng điều trị thay thế.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Flixotide Inhaler và Accuhaler chỉ đường dùng theo đường hít.

Bệnh nhân nên được cho biết về bản chất dự phòng của điều trị với fluticasone propionate hít và nên dùng thuốc này đều đặn ngay cả khi không có biểu hiện triệu chứng. Tác dụng điều trị khởi phát trong vòng 4 đến 7 ngày.

Nên điều chỉnh liều lượng fluticasone propionate tùy theo đáp ứng của từng bệnh nhân.

Nếu bệnh nhân cảm thấy việc điều trị với thuốc giãn phế quản tác dụng ngắn hạn trở nên kém hiệu quả hay họ cần hít thuốc nhiều hơn bình thường, nên hỏi ý kiến của bác sĩ.

Thuốc được thiết kế sao cho mỗi liều kê toa tối thiểu là 2 lần hít.

Liều lượng :

Người lớn và trẻ em trên 16 tuổi: 100 đến 1000 mg hai lần mỗi ngày.

Nên dùng liều bắt đầu cho bệnh nhân tùy thuộc vào mức độ trầm trọng của bệnh: Hen phế quản nhẹ: 100 đến 250 mg hai lần mỗi ngày

Hen phế quản vừa: 250 đến 500 mg hai lần mỗi ngày Hen phế quản nặng: 500 đến 1000 mg hai lần mỗi ngày

Sau đó có thể điều chỉnh liều để đạt đến tình trạng kiểm soát hay giảm đến liều thấp nhất có hiệu quả tùy theo đáp ứng của từng người.

Một cách khác, liều fluticasone propionate bắt đầu có thể được xác định bằng nửa tổng liều hàng ngày beclomethasone dipropionate hay tương đương được dùng qua ống hít định liều.

Trẻ em trên 4 tuổi: 50 đến 100 mg hai lần mỗi ngày.

Nên dùng liều fluticasone propionate bắt đầu cho trẻ em tùy theo mức độ của bệnh, có thể là 50 hay 100 mg hai lần mỗi ngày.

Sau đó có thể điều chỉnh liều để đạt đến tình trạng kiểm soát hay giảm đến liều thấp nhất có hiệu quả tùy theo đáp ứng của từng người.

Các nhóm bệnh nhân đặc biệt :

Không cần điều chỉnh liều lượng cho bệnh nhân lớn tuổi hay những người bị suy gan hay suy thận.

QUÁ LIỀU

Cấp tính :

Việc hít phải thuốc với liều cao vượt quá liều khuyến cáo có thể dẫn đến suy chức năng thượng thận tạm thời. Trường hợp này không cần phải cấp cứu. Ở những bệnh nhân này có thể tiếp tục điều trị fluticasone propionate theo đường hít với liều vừa đủ để kiểm soát hen phế quản; chức năng thượng thận sẽ phục hồi vài ngày sau đó và có thể kiểm tra bằng cách đo lượng cortisol huyết tương. Mãn tính :

Sử dụng fluticasone propionate với liều hàng ngày cao quá 2 mg trong một thời gian dài có thể dẫn đến một mức độ suy thượng thận nào đó. Có thể chỉ định kiểm tra dự trữ thượng thận.

Nên tiếp tục điều trị với fluticasone propionate với liều vừa đủ để kiểm soát hen phế quản.

BẢO QUẢN

Flixotide Innhaler và Accuhaler nên được bảo quản trong điều kiện nhiệt độ từ 2 đến 30oC, tránh đông lạnh và ánh nắng trực tiếp.

Flixotide Inhaler: Cũng giống như hầu hết các thuốc hít trong ống xịt áp lực, tác dụng trị liệu của thuốc này có thể bị giảm bớt khi ống bị lạnh. Ống xịt không được đâm thủng, làm vỡ hay đốt ngay cả khi trống rỗng.

Chàm tiếp xúc do mỹ phẩm

Các định nghĩa về mỹ phẩm

Mỹ phẩm là tất cả các chất hay chế phẩm không phải là dược phẩm được sử dụng tiếp xúc với các bộ phận khác nhau của cơ thể, hoặc với răng và niêm mạc nhằm mục đích tẩy rửa, để bảo vệ hoặc để duy trì trạng thái khỏe đẹp, để thay đổi diện mạo bên ngoài, ướp mùi thơm hay điều chỉnh mùi cơ thể (luật về sức khỏe). Hiệu quả của mỹ phẩm là bề ngoài. Về mặt lý thuyết nó không được thấm qua lớp hydrolipid của da và lớp sừng, không có tác động có hại nào. Điều này trái ngược với định nghĩa về chàm.

Định nghĩa chàm do tiếp xúc với mỹ phẩm

Chàm cấp có đặc điểm bao gồm sự phối hợp ban đỏ, phù, bóng nước và ngứa dữ dội.

Chàm do tiếp xúc với mỹ phẩm là hậu quả tác hại, gây ra do mỹ phẩm. Việc thoa mỹ phẩm lên da gây nên một phản ứng miễn dịch chậm và liên quan đến tế bào lympho T.

Sinh bệnh học

Sinh bệnh học của chàm đã được biết rõ [1 . Giai đoạn đầu là sự mẫn cảm thầm lặng trên phương diện lâm sàng. Giai đoạn sau: các biểu hiện lâm sàng của dị ứng đã được bộc lộ, các tế bào (tế bào Langerhans, lympho T….) gây ra. Chúng tôi sẽ đề cập chi tiết những vấn đề liên quan đên mỹ phẩm như: các phương thức mẫn cảm khác nhau, tính phức tạp của mỹ phẩm và các nguồn gốc khác nhau của mỹ phẩm .

Các phương thức khác nhau trong sự mẫn cảm

Sự tăng mẫn cảm gây ra do tiếp xúc của mỹ phẩm với da; sự tiếp xúc này có thể

  • trực tiếp: sản phẩm được bôi trực tiếp lên da và da tăng cảm với sự tiếp xúc trực tiếp này (ví dụ chàm ở mí mắt do sử dụng phấn bôi vào mí mắt). Phần bị tác động có thể là tất cả các vùng được bôi mỹ phẩm, nhưng hay gặp nhất vẫn là chàm khu trú tại vùng được bôi mỹ phẩm lần đầu tiên. Nguyên do là nơi này đây dị nguyên tập trung cao nhất (ví dụ: chàm với chất khử mùi thường hay gặp ở nách)[2]
  • từ tay: sản phẩm được thoa lên tay và tay mang dị nguyên đến vùng da mỏng và nhaỵ cảm (ví dụ chàm ở mí mắt do thuốc sơn móng tay). Đó là trường hợp viêm da lạc chổ.[3]
  • từ không khí: sản phẩm lơ lửng trong không khí và lắng đọng ở vùng da mỏng thẳng đứng hay các nếp nhăn (ví dụ chàm ở mí mắt do hơi của nước hoa)
  • từ người khác: bệnh nhân không sử dụng sản phẩm này nhưng người kế cận sử dụng chúng và gây bệnh (ví dụ chàm mí mắt do nước hoa do nước hoa của người kế cận). Sự ủy nhiệm này có thể trực tiếp giữa người với người hay qua một vật thể bị nhiễm dị nguyên. Đây là viêm da lạc chổ từ người khác.[4]

Sự phức tạp của mỹ phẩm

Một mỹ chẩm là tổng tất cả các thành phần mà mỗi thành phần đều có chức năng quan trọng trong thuyết galénique* của sản phẩm và trong tác dụng của thuốc. Cùng một thành phần thường có mặt trong nhiều sản phẩm, hay gặp là các sản phẩm bôi mặt và/hoặc chức năng khác nhau. Khi bệnh nhân bị chàm do mỹ phẩm cần phải xác định thành phần nào trở thành dị nguyên (chất bảo quản, mùi thơm, tá dược, sữa, lọc nắng, chất chống oxy hóa…). Sự phản ứng lại nhằm để xác định dị nguyên, để loại trừ chúng như thế nào và tránh được các tái phát [5]

Những nguồn khác nhau trong sự tiếp xúc với mỹ phẩm

Nguồn tiếp xúc với mỹ phẩm là rõ ràng

  • Các mỹ phẩm có thể sử dụng cho cá nhân tại nhà; việc hỏi bệnh cho phép xếp chúng vào danh sách, do đó việc loại trừ tiếp xúc dị nguyên sẽ dễ dàng.
  • Các mỹ phẩm có thể được sử dụng trong môi trường công việc
  1. Chúng có thể được dùng cho việc giữ vệ sinh hay bảo vệ cho bệnh nhân : hầu hết sau một thời gian chúng có thể thay thế dể dàng. Hậu quả về xã hội công việc của chàm có thể gặp hạn chế với thời gian cần thiết giúp chẩn đoán và loại trừ dị nguyên.
  2. Nó có thể được sử dụng như một công cụ lao động (trường hợp với những người hớt tóc). Do đó hậu quả thường được xem như sự không đủ khả năng trong chuyên môn [6].

Nguồn tiếp xúc với các dị nguyên trong mỹ phẩm có thể là “ngoài mỹ phẩm”

  • Các dược phẩm có thể chứa cùng thành phần như trong mỹ phẩm: chất lanoline trong thuốc để đắp có thể gây dị ứng do tiếp xúc với mỹ phẩm có chứa chất trên [7].
  • Các dược phẩm có thể là nguyên nhân gây ra dị ứng chéo giữa các thành phần chính hoạt động của nó với vài loại mỹ phẩm: thí dụ dị ứng ánh sáng với kétoprofène và photoallergie và oxybenzone [8].
  • Các chất trong môi trường có thể chứa cùng dị nguyên như trong mỹ phẩm: ví dụ chất colophane có thể là một thành phần trong mỹ phẩm, nhưng chúng cũng có trong các sản phẩm sử dụng cho gia đình; công nghiệp [9 hay các dị nguyên gây ra các phản ứng chéo .[10]

Lâm sàng và các tiêu chuẩn chẩn đoán

Dạng lâm sàng điển hình nhất chính là chàm

Chàm cấp xảy ra trong những ngày có sự tiếp xúc với mỹ phẩm. Diễn tiến là tự lành trong một tuần sau khi ngừng tiếp xúc, với một giai đoạn khô ít hay nhiều vẩy trên các bóng nước, sau đó là sự bong vẩy.

Nếu việc tiếp xúc với dị nguyên liên tục, chàm trở nên mạn tính với sự dày da, các sang thương lan rộng ở vùng tiếp xúc.

Mô học giúp chẩn đoán chàm nhưng không cho biết do nguyên nhân gì.

Các dạng lâm sàng không điển hình

Các dạng khác nhau của chàm [2] [11] đã được mô tả. Tất cả các bệnh da viêm, không chẩn đoán được trên vùng da có tiếp xúc mỹ phẩm phải nghi ngờ một phản ứng dị ứng với mỹ phẩm.Trong trường hợp này cần áp dụng tiêu chuẩn chẩn đoán chàm do mỹ phẩm.

Tiêu chuẩn chẩn đoán

Hỏi bệnh

Việc hỏi bệnh cho biết sự tiếp xúc giữa da và mỹ phẩm. Nó giúp liệt kê danh sách các mỹ phẩm nghi ngờ. Trong trường hợp đơn giản nhất chỉ có một mỹ phẩm được sử dung tuy trường hợp này hiếm. Hay gặp nhất là qua hỏi bệnh liệt kê được danh sách tất cả mọi sự tiếp xúc với mỹ phẩm. Một mỹ phẩm sử dụng từ lâu có thể gây ra chàm, một phần do trong giai đoạn mẫn cảm và không có biểu hiện chàm, phần khác thành phần mỹ phẩm thay đổi tùy theo lô sản xuất. Bệnh nhân có thể bị phản ứng với lô mới.

Diễn tiến

Khi một sản phẩm duy nhất gây bệnh, sự hồi phục diễn ra khi bệnh nhân ngừng tiếp xúc và tái sử dụng sản phẩm làm bệnh diễn tiễn xấu hơn là đủ cho việc chẩn đoán chàm do mỹ phẩm cuối cùng bị lên án. Đó không phải là những lúc phản ứng da là cần thiết để qui cho một sản phẩm xác định gây ra phản ứng.

Các nghiệm pháp da (xem chương về nghiệm pháp trên da)

Chẩn đoán phân biệt

Cần áp dụng với

  • trường hợp không phải dị ứng: kích thích
  • dị ứng nhưng không thuốc dạng chậm, mề đai
  • dị ứng dạng chậm nhưng không phải do mỹ phẩm.

Kích thích

Nó có thể do chất lượng da của bệnh nhân thuộc dạng da « phản ứng » [15 , có thể do chất lượng của sản phẩm gây kích thích hay sử dụng hoặc do dùng không đúng.

Mề đay do tiếp xúc

Mề đay do tiếp xúc xuất hiện nhanh khi đang sử dụng sản phẩm đó. Chúng biến mất rất nhanh khi để lại da bình thường. Các nghiệm pháp chẩn đoán là các nghiệm pháp công khai và là các nghiệm pháp prick de prick đọc trong 15 đến 60 phút. Các nghiệm pháp có thể là không dị ứng hay dị ứng. Đôi khi chúng tiến triển thành phản ứng phản vệ khi có sự tiếp xúc đơn thuần hay ăn uống với thức ăn có chứa cùng dị nguyên trên [16-18]

Chàm do tiếp xúc không phải do mỹ phẩm

Nguyên nhân không phải do mỹ phẩm gây chàm sẽ được phát hiện khi thực hiện tổng kê về chàm. Ví dụ chàm ở trên mặt sau khi đi cắt tóc có thể không phải do các chất dùng khi hớt tóc mà do một chất khác dùng để trang trí cho phòng.

Điều trị

Điều trị triệu chứng là corticoid liệu pháp tại chổ.

Điều trị nguyên nhân chính là loại bỏ các sản phẩm gây bệnh và tránh tiếp xúc với dị nguyên. Điều này phải được thông báo cho bệnh nhân, họ cần phải đọc tấtt cả danh sách thành phẩn trên nhãn của các sản phẩm sử dụng nhằm tránh các dị nguyên của chúng, hay sử dụng các danh sách thông tin thiết thực [19].

Tóm lại

Chàm do mỹ phẩm thường hay gặp trong thực hành da liễu-dị ứng. Việc đưa ra những cảnh báo về mỹ phẩm [20 có thể sẽ được đánh giá cao trên tác động kinh tế xã hội.

Chi dưới đột ngột nổi gân xanh – Chẩn đoán bệnh Đông y

Khái niệm

Chi dưới nổi gân xanh đột ngột là chỉ chứng gân mạch nổi cuộn lên ở chi dưới, phần nhiều phát sinh ở bụng chân có màu xanh tía như vỏ cây, cành cây hoặc có hình dạng ngoằn ngoèo, khi đứng thẳng nổi lên rất rõ, thường kiêm cảm giác trướng nặng, dễ mệt mỏi.

Phân biệt

Chứng hậu thường gặp

Nổi gân xanh đột ngột ở chi dưới do thấp nhiệt ứ trệ: Có chứng chi dưới sưng đỏ, nóng rát và đau, gân xanh nổi đột ngột, hoặc thấy thấp chẩn loét ngứa, kiêm chứng đắng miệng, chân tay mỏi nhừ, tiểu tiện sẻn đỏ, đại tiện không đều, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Huyền Sác.

Nổi gân xanh đột ngột ở chi dưới do hàn thấp ứ trệ: Có chứng chi dưới sưng nặng, gân xanh nổi đột ngột, tê dại lạnh đau, đi đứng khó khăn, thời tiết âm u bệnh càng nặng, tiểu tiện trong, đại tiện nhão, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Nhu Hoãn.

Nổi gân xanh đột ngột ở chi dưới do khí hư huyết ứ: Có chứng chi dưới sưng trướng, gân xanh nổi đột ngột kiêm chứng mệt mỏi yếu sức, thiểu khí biếng nói, mặt nhợt không tươi, môi lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng mỏng mạch Hư vô lực.

Phân tích

  • Chứng Nổi gân xanh đột ngột ở chi dưới do thấp nhiệt ứ trệ với chứng Nổi gân xanh đột ngột ở chi dưới do hàn thấp ứ trệ: Loại trên là cảm nhiễm tà khí thấp nhiệt hoặc ăn quá nhiều đọ béo ngọt rượu chè nung nấu thành thấp nhiệt, thấp nhiệt dồn xuống dưới, kinh mạch bị ứ trệ gây nên. Ngoài triệu chứng nổi gân xanh đột ngột ở chi dưới thường kiêm chứng sưng đỏ nóng đau, phát sốt đắng miệng, chân tay thân thể đau mỏi tiểu tiện sẻn đỏ, đại tiện không đều, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Huyền Sác là những biểu hiện do thấp nung nấu ở Loại sau là do nằm ngồi nơi ẩm ướt, lội nước dầm mưa, tà khí hàn thấp ngâm vào gân mạch, khí huyết bị ứ nghẽn gây nên. Ngoài hiện tượng gân xanh đột ngột nổi lên ở chi dưới thường kiêm chứng sưng nặng tê dại hoặc cảm thấy đau nhức rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Nhu Hoãn là những biểu hiện do hàn thấp ngưng trệ. Hai chứng đều thuộc thấp tà nghẽn ở trong, nhưng một loại kiêm chứng chân tay thân mình sưng đỏ, phát sốt đắng miệng, tiểu tiện vàng là hiện tượng nhiệt. Điều trị nên thanh nhiệt lợi thấp, hoạt huyết thông lạc, dùng phương Tỳ giải hóa độc thang gia giảm. Một loại kiêm chứng chân tay thân mình tê dại mà đau, gặp lạnh đau tăng, tiểu tiện trong là hiện tượng hàn. Điều trị nên tuyên tán hàn thấp, lý khí thông lạc, dùng phương Kê minh tán.
  • Chứng nổi gân xanh đột ngột ở chi dưới do khí hư huyết ứ: Phần nhiều do thể trạng vốn yếu hoặc ốm lâu khí hư kiêm chứng mang nặng đứng lâu kéo dài huyết ở chi dưới không lưu thông gây nên. Ngoài chứng trạng gân xanh nổi đột ngột ở chi dưới, còn có những biểu hiện về khí hư như mệt mỏi yếu sức, thiểu khí biếng nói, mặt nhợt không tươi, môi lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Hư vô lực, Điều trị nên ích khí hoạt huyết, hòa doanh thông lạc, cho uống Bổ dương hoàn ngũ thang gia giảm.

Chứng nổi gân xanh đột ngột ở chi dưới phần nhiều phát sinh ở người đứng lâu mang nặng, nếu thể trạng vốn có thấp tà dồn xuống hoặc khí hư lại càng dễ phát bệnh. Biểu hiện lâm sàng nên dựa vàố hàn nhiệt hư thực mà chẩn đoán phân biệt.

Thiếu Máu Bất Sản (thiếu máu không tái tạo)

Tên khác: thiếu máu không tái tạo, thiếu máu giảm sản

Định nghĩa

Thiếu máu do quá trình tái tạo hồng cầu trong tủy xương không hoạt động, thường kết hợp với suy giảm tái tạo dòng bạch cầu hạt (giảm bạch cầu hạt trung tính) và dòng tế bào nhân khổng lồ (giảm tiểu cầu).

Căn nguyên

Suy tủy xương ít nhiều riêng của dòng hồng cầu. Theo thống kê, người ta thấy hàng năm có khoảng 4 trường hợp thiếu máu bất sản trong 1 triệu dân. Có một số chất là nguyên nhân gây ra thể thiếu máu này, trong đó có những thuốc, đặc biệt là chloramphenicol, phenylbutazon, các thuốc ức chế sinh sản tế bào, sulfamid, và những hoá chất (benzol, một số thuốc trừ sâu). Cũng phải kể đến bức xạ ion hoá (liệu pháp bức xạ), di căn ung thư vào tủy xương, bệnh bạch cầu, u lympho bào ác tính, V..V…Trong một nửa số trường hợp, tác nhân gây bệnh không xác định được. Bất sản chỉ giới hạn hoàn toàn trong dòng hồng cầu, trong khi các dòng bạch cầu và tiểu cầu đều bình thường thì tương đối hiếm, và dù sao cũng ít gặp hơn, so với thiếu máu bất sản kèm theo giảm bạch cầu hạt trung tính và giảm tiểu cầu ở mức độ nhất định.

Đối với những thể bẩm sinh: xem những từ sau đây: thiếu máu Blackfan-Diamon, thiếu máu Fanconi, giảm hồng cầu cấp tính, loạn hồng cầu tủy cấp.

Triệu chứng

Khởi phát thường âm ỉ, và những triệu chứng chỉ xuất hiện hàng tuần hoặc hàng tháng sau khi bệnh nhân bị tác động bồi chất độc. Thiếu máu tiến triển dần, da và niêm mạc ngày càng nhợt nhạt, nhịp tim nhanh, bệnh nhân cực kỳ mệt mỏi. Ngoài ra, xuất hiện những triệu chứng giảm bạch cầu hạt trung tính (hội chứng nhiễm khuẩn với sốt cao và viêm họng kiểu mất bạch cầu hạt), những triệu chứng giảm tiểu cầu (xuất huyết dưới da, dưới niêm mạc, ở đáy mắt).

Xét nghiệm cận lâm sàng

MÁU: số lượng hồng cầu giữa 1 và 2 triệu trong 1 pl. Thiếu máu đẳng sắc và đại hồng cầu ít hoặc nhiều, số lượng hồng cầu lưới thường giảm. Thường thấy giảm bạch cầu (số lượng bạch cầu thấp dưới 2.000/ pl, trong đó bạch cầu hạt giảm và lympho bào tăng tương đối) và giảm tiểu cầu (dưới 30.000 tiểu cầu trong 1 pl).

TỦY ĐỔ: trong những trường hợp nặng chọc tủy xương chỉ rút ra được dịch xám nhạt, mà khi soi dưới kính hiển vi thì chỉ thấy một vài lympho bào và tương bào. Trong những trường hợp này phải làm sinh thiết tủy xương, sẽ thấy tủy có cấu trúc đặc trưng của bất sản tủy xương. Trong những trường hợp nhẹ hơn, tủy đồ cho thấy dòng tạo hồng cầu bị hư hại trội hơn, so với các dòng tạo bạch cầu và dòng tế bào nhân khổng lồ.

NHỮNG XÉT NGHIỆM KHÁC: tìm hiểu quá trình cầm máu nếu bệnh nhân bị xuất huyết, cấy máu và làm kháng sinh đồ nếu có hội chứng nhiễm khuẩn.

Chẩn đoán

  • Da và niêm mạc nhợt nhạt, thiểu lực, dễ bị chảy máu
  • Thiếu máu đẳng sắe thường đi kèm với giảm bạch cầu và giảm tiểu cầu.
  • Chẩn đoán khẳng định bởi xét nghiệm tủy xương, thấy hình ảnh tủy xương bất sản.
  • Hỏi bệnh thấy có hoàn cảnh bị tác động bởi hoá chất hoặc bức xạ ion-hoá.

Chẩn đoán phân biệt

  • Bệnh bạch cầu không tăng bạch cầu:những thay đổi trong công thức máu thì giống với thiếu máu bất sản, nhưng tủy xương lại tăng sản (hội chứng tủy xương tăng sản), trội về phía các tế bào non (những tế bào này không thấy trong tủy đồ của bệnh thiếu máu bất sản). Ngoài ra, trong bệnh bạch cầu còn thấy lách to, sưng hạch bạch huyết toàn thân.
  • Giảm huyết cầu toàn bộ:do di căn ung thư vào tủy xương; chẩn đoán bằng tủy đồ.
  • Tủy xương xơ hoá: lách to, hồng cầu biến dạng, tiểu cầu khổng lồ. Tủy xương nhiều mô xơ. Có khả năng xuất hiện những ổ tạo huyết ngoài tủy xương ở trong gan và lách.
  • Thiếu máu dai dẳng.

Tiên lượng

Dè dặt. 50% bệnh nhân với suy tủy xương rõ rệt bị tử vong trong vòng vài tháng do xuất huyết hoặc nhiễm khuẩn. Một số bệnh nhân sống thêm nhiều năm nhờ truyền máu, một số khác khỏi tự nhiên.

Điều trị

Ngừng ngay và toàn bộ các thuốc đang sử dụng. Chủ yếu là tìm ra tác nhân gây độc, tuy nhiên chỉ tìm thấy tác nhân này trong khoảng một nửa số trường hợp.

GHÉP TỦY XƯƠNG: được chỉ định cho những bệnh nhân trẻ tuổi (<30 tuổi) bị thiếu máu bất sản nặng, nếu có một người cho tủy với hệ thống HLA phù hợp. Trở ngại chính của biện pháp này là hiện tượng loại mảnh ghép. Truyền máu có thể gây nguy cơ cho sự thành công của ghép tủy xương: tỷ lệ sống thêm là 90% ở những bệnh nhân được ghép nhưng không truyền máu, nhưng giảm xuống còn 50% ở những bệnh nhân được truyền máu.

CÁC ANDROGEN VÀ CORTICOID: người ta nghi ngò hiệu quả của các loại hormon này, nhưng vẫn sử dụng khi không thi ghép tủy xương. Có thể dùng enanthat testosteron với liều 200-400 mg hai lần một tuần lễ. Chỉ dùng corticoid cho những trường hợp giảm tiểu cầu nặng để thử ổn định độ bền mao mạch. Corticoid thường có hiệu quả ở trẻ em chỉ bị bất sản riêng dòng tạo hồng cầu.

TRUYỀN MÁU: chỉ thực hiện khi hàm lượng hemoglobin thấp dưới 6-7 g /dl. Truyền hồng cầu đã rửa sạch huyết tương, xét nghiệm nhóm máu cẩn thận, làm test phù hợp mô trực tiếp. Không được tìm cách để giữ hàm lượng hemoglobin ở mức bình thường, vì có nguy cơ nhiễm hemosiderin và ức chế tạo hồng cầu của phần mô tủy xương còn hoạt động.

CICLOSPORIN: đã cho một vài kết quả tốt.

THUỐC KHÁNG SINH: được chỉ định khi có hội chứng nhiễm khuẩn (xem: mất bạch cầu hạt), nhưng không nên sử dụng với mục đích dự phòng nhiễm khuan.

Thiếu máu tương tự như thiếu máu bất sản

BẤT SẢN RIÊNG DÒNG TẠO hồng cầu: có thể là bệnh bẩm sinh hoặc thứ phát do suy thận, do nhiễm khuẩn, hoặc rối loạn hệ miễn dịch. Bất sản riêng dòng tạo hồng cầu có thể xảy ra trong quá trình bị thiếu máu tan huyết, ví dụ trong bệnh hồng cầu hình cầu, bệnh hồng cầu hình liềm di truyền (cơn bất sản) hoặc trong bệnh Kwashiorkor.

THIẾU MÁU FANCONI (thiếu máu giả ác tính): là bệnh gia đình, thường xuất hiện ở con trai từ 5 đến 10 tuổi, với đặc điểm là thiếu máu giảm sản, kèm theo giảm bạch cầu và giảm tiểu cầu, dị dạng xương ở ngón tay cái hoặc các ngón tay khác, đầu bé, giảm năng sinh dục và tăng sắc tố da có màu nâu.

THIẾU MÁU GIẢM SẤN BAM sinh (hội chứng Blackfan-Diamond, thiếu máu bất sản trẻ em, tạo hồng cầu không hoàn hảo “erythrogenesis imperfecta”): thường nguy kịch và do kìm hãm sự biệt hoá của hồng cầu (bất sản nguyên hồng cầu). Bệnh đặc hiệu bởi thiếu máu nặng ngay từ những tháng đầu tiên sau khi sinh. Thường hay kết hợp với u tuyến ức.

Trong máu ngoại vi hoàn toàn không thấy có hồng cầu lưới, và trên tủy đồ thấy dòng tạo hồng cầu bị kìm hãm ở một giai đoạn biệt hoá nào đó. Những bạch cầu hạt và tiểu cầu đều bình thường.

Điều trị: xem thiếu máu bất sản.

Thiếu Máu Nguyên hồng cầu

Bằng thuật ngữ này, người ta gọi một nhóm những bệnh thiếu máu với đặc điểm là có một số lượng rất lớn những nguyên hồng cầu (hồng cầu có nhân) xuất hiện trong máu ngoại vi.

Trong những trường hợp thiếu máu này, thường thấy lách to, và không hiếm các trường hợp trong máu có các tủy bào với số lượng ít hoặc nhiều.

  • Hội chứng tan huyết: thiếu máu tan huyết, tăng nguyên hồng cầu phôi thai.
  • Di căn ung thư lan toả vào tủy xương: tủy đồ điển hình.
  • Loạn hồng cầu tủy cấp di Guglielmo: là thể bệnh của dòng tạo hồng cầu tương ứng với bệnh bạch cầu ở dòng tạo bạch cầu (xem: loạn hồng cầu tủy cấp tính).
  • Dị sản tủy xương ở lách.

Mesulid

Thuốc Mesulid
Thuốc Mesulid

MESULID

SCHERING-PLOUGH

Viên nén : hộp 10 viên, 100 viên.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Nimesulide 100 mg

DƯỢC LỰC

Mesulid là một thuốc kháng viêm không steroid, là một phân tử mới có các tính chất giảm đau, hạ sốt và kháng viêm. Nimesulide ức chế tổng hợp prostaglandine in vitro và tác dụng của nó có vẻ là bởi nhiều cơ chế khác nhau. Mesulid ức chế chọn lọc enzym cyclooxygenase-2, do đó làm giảm sự tổng hợp prostaglandine liên quan đến viêm. Mesulid ức chế việc tạo thành các gốc oxy tự do mà không ảnh hưởng đến hóa hướng động và sự thực bào. Nó cũng ức chế giải phóng enzym myeloperoxidase.

CHỈ ĐỊNH

Mesulid là một thuốc kháng viêm không steroid, được chỉ định trong nhiều bệnh cảnh khác nhau cần hạ sốt, giảm đau và kháng viêm, như bệnh viêm khớp xương mãn tính, bệnh thấp ngoài khớp, đau và viêm sau khi can thiệp phẫu thuật và sau chấn thương cấp, làm giảm sốt và đau liên quan với viêm đường hô hấp cấp tính và đau bụng kinh.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Mesulid không được dùng cho các bệnh nhân trước đây đã bị quá mẫn cảm với thuốc ; những bệnh nhân bị lo t đường tiêu hóa đang tiến triển, suy gan nặng hoặc trung bình, suy thận nặng (thanh thải creatinin < 30 ml/phút).

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Việc dùng thuốc phải được kiểm tra chặt chẽ ở những bệnh nhân quá mẫn cảm với các thuốc kháng viêm không steroid khác và với acid acetylsalicylic (aspirin). Có thể xảy ra mẫn cảm chéo với aspirin và các thuốc kháng viêm không steroid khác.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Như các thuốc kháng viêm không steroid khác, không nên dùng Mesulid trong thời kỳ mang thai. Không được dùng trong 3 tháng cuối của thai kỳ vì các thuốc kháng viêm không steroid được biết là gây đóng kín ống động mạch ở trẻ em và có thể có nguy cơ mất trương lực tử cung. Đến nay chưa có các thông tin về sự bài tiết của nimesulide qua sữa mẹ và vì vậy không được dùng cho phụ nữ cho con bú.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Nimesulide liên kết nhiều với protein và có thể sẽ thế chỗ các thuốc liên kết với protein khác.

Tuy nhiên, không có tương tác đáng kể về lâm sàng khi dùng đồng thời Mesulid với furosemid, warfarin, digoxin, theophyllin, glibenclamid, cimetidin và thuốc kháng acid.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Mesulid nói chung được dung nạp tốt. Ợ nóng, buồn nôn, đau dạ dày, ban da dị ứng, đau đầu, chóng mặt đôi khi được báo cáo với Mesulid (0,1-5%). Các tác dụng phụ này nói chung là nhẹ, thoáng qua và hiếm khi cần ngừng điều trị.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Liều khuyến cáo cho người lớn là mỗi lần 1 viên, ngày 2 lần. Nếu cần, có thể tăng lên mỗi lần 2 viên, ngày 2 lần. Phải nuốt cả viên với nước sau bữa ăn.

QUÁ LIỀU

Không có trường hợp dùng quá liều Mesulid nào được báo cáo. Không có thuốc giải độc đặc hiệu. Trong trường hợp dùng quá liều, phải ngay lập tức điều trị triệu chứng và điều trị nâng đỡ.

BẢO QUẢN

Bảo quản dưới 25oC.

Natrilix SR

Thuốc Natrilix SR
Thuốc Natrilix SR

NATRILIX SR

viên bao phim phóng thích chậm 1,5 mg: hộp 30 viên – Bảng B.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Indapamide hemihydrate 1,5 mg

DƯỢC LỰC

Thuốc lợi tiểu đoạn pha loãng ở vỏ thận.

Indapamide là một dẫn xuất sulfonamide có 1 vòng indole, liên quan về mặt dược lý học với các thuốc lợi tiểu thiazide, tác dụng bằng cách ức chế sự hấp thu natri ở đoạn pha loãng của vỏ thận.

Thuốc làm tăng bài tiết natri và chlor ra nước tiểu và tăng bài tiết kali và magne ở mức độ ít hơn, bằng cách đó gia tăng lợi tiểu và thực hiện một hoạt động chống cao huyết áp. Các nghiên cứu giai đoạn II và giai đoạn III trong đơn trị liệu đã chứng tỏ một hiệu quả chống cao huyết áp kéo dài 24 giờ. Hiệu quả này đạt được ở những liều lượng chỉ hơi gây ra lợi tiểu. Hoạt động chống cao huyết áp của nó liên quan đến sự cải thiện sức đàn hồi của động mạch và giảm kháng lực tiểu động mạch và kháng lực mạch máu ngoại biên toàn thể. Nó làm giảm phì đại thất trái. Tác dụng điều trị đạt đến một mức ổn định khi vượt quá một liều nào đó, trong khi các tác dụng ngoại ý gia tăng: không gia tăng liều khi không đạt hiệu quả điều trị.

Người ta cũng đã chứng tỏ ở bệnh nhân cao huyết áp, qua một thời gian ngắn, trung bình và dài, rằng:

  • indapamide không can thiệp vào chuyển hóa lipide: triglycerides, LDL và HDL
  • indapamide không can thiệp vào chuyển hóa carbonhydrate, ngay cả ở bệnh nhân tiểu đường cao huyết áp.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Natrilix SR được cung cấp ở dạng phóng thích kéo dài, bao gồm một hệ thống chất căn bản với sự phân bố bên trong một giá đỡ, điều này cho phép sự phóng thích kéo dài của indapamide.

  • Hấp thu: phần indapamide phóng thích được hấp thu nhanh chóng và hoàn toàn bởi đường tiêu hóa. Thức ăn làm tăng tốc độ hấp thu nhưng không ảnh hưởng đến lượng lượng thuốc được hấp Các nồng độ đỉnh trong huyết tương xảy ra khoảng 12 giờ sau liều duy nhất. Cho thuốc lặp lại hạn chế các biến đổi về những nồng độ huyết tương giữa 2 liều. Có sự thay đổi đáng kể ở từng người.
  • Phân bố: 79% thuốc gắn với protein huyết tương. Thời gian bán thải trong khoảng 14-24 giờ (trung bình 18 giờ). Tình trạng ổn định đạt đến sau 7 ngày.

Cho thuốc lặp lại không gây tích tụ thuốc.

  • Chuyển hóa: indapamide được thải trừ chủ yếu qua nước tiểu (70% liều lượng) và phân (22%) ở dạng các chất chuyển hóa không hoạt động
  • Dân số có nguy cơ: các thông số dược động học không bị thay đổi ở những bệnh nhân suy thận

CHỈ ĐỊNH

Cao huyết áp.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

  • Tăng cảm với các sulfonamide.
  • Suy thận nặng
  • Bệnh lý gan não hoặc suy thận nặng
  • Hạ kali máu.

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG và THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Chú ý đề phòng:

Thiazide và các thuốc lợi tiểu liên quan có thể gây ra bệnh lý gan não ở các bệnh nhân suy chức năng gan. Phải ngưng ngay điều trị bằng thuốc lợi tiểu trong trường hợp này.

Thận trọng lúc dùng:

Cân bằn g n ướ c và điệ n gi i:

  • Natri huyết thanh:

Natri huyết thanh phải được đánh giá trước khi bắt đầu điều trị, và sau đó ở các khoảng cách đều đặn. Tất cả các điều trị bằng thuốc lợi tiểu có thể gây ra hạ natri máu, đôi khi có các hậu quả nghiêm trọng. Vì hạ natri máu lúc đầu không có triệu chứng nên theo dõi đều đặn là điều thiết yếu và phải thực hiện thường xuyên hơn ở các dân số có nguy cơ cao, như ở bệnh nhân lớn tuổi và xơ gan (xem phần Tác dụng không mong muốn và Quá liều).

  • Kali huyết thanh:

Mất kali và hạ kali máu là nguy cơ chính của thiazide và các thuốc lợi tiểu liên quan. Nguy cơ phát triển hạ kali máu (< 3,4 mmol/l) phải được ngăn ngừa ở một số dân số nguy cơ cao, như các bệnh nhân lớn tuổi và/hoặc dinh dưỡng kém và/hoặc các bệnh nhân đang ở chế độ điều trị nhiều thuốc, bệnh nhân xơ gan có phù và cổ chướng, và các bệnh nhân có bệnh lý tim do mạch vành hoặc suy tim. Trong các tình huống này hạ kali máu làm tăng thêm độc tính trên tim của digitalis alkaloid và nguy cơ loạn nhịp. Các bệnh nhân có khoảng QT kéo dài do bẩm sinh hoặc do dùng thuốc cũng có nguy cơ bị hạ kali máu. Hạ kali máu (giống nhịp tim chậm) là một yếu tố dẫn đưa đến sự phát triển của loạn nhịp nặng, đặc biệt là xoắn đỉnh, có khả năng gây tử vong. Kali huyết thanh phải được theo dõi thường xuyên hơn trong mỗi trường hợp này. Đánh giá kali huyết thanh đầu tiên phải được thực hiện trong tuần lễ đầu điều trị. Khi phát hiện hạ kali thì phải điều chỉnh.

  • Calcium huyết thanh:

Các thuốc lợi tiểu thiazide có thể làm giảm sự bài tiết calcium qua nước tiểu và gây một sự gia tăng calcium máu nhẹ thoáng qua. Tăng calcium máu rõ rệt có thể liên quan với cường tuyến cận giáp không được chẩn đoán. Ngưng điều trị trước khi kiểm tra chức năng tuyến cận giáp.

 Đường máu:

Đường máu phải được theo dõi ở các bệnh nhân tiểu đường, đặc biệt khi có hạ kali máu.

Acid uric:

Nguy cơ các đợt thống phong bị tăng lên ở bệnh nhân tăng acid uric trong máu.

  • Chức năng thận và các thuốc lợi tiểu:

Thiazide và các thuốc lợi tiểu liên quan chỉ có tác dụng đầy đủ khi chức năng thận còn đầy đủ hoặc chỉ thay đổi nhẹ (creatinine huyết thanh < 25 mg/l, nghĩa là 220 mmol/L ở người lớn). Ở người lớn tuổi, mức creatinine huyết thanh phải được điều chỉnh theo tuổi, cân nặng và giới tính. Giảm thể tích máu, thứ phát sau mất nước và natri gây bởi thuốc lợi tiểu vào lúc bắt đầu điều trị, gây ra giảm tốc độ lọc cầu thận, có khả năng đưa đến tăng urea máu và creatinine huyết thanh. Suy thận chức năng thoáng qua không có hậu quả lâm sàng ở các bệnh nhân có chức năng thận bình thường, nhưng có thể làm nặng suy thận có sẵn.

  • Vận động viên:

Các vận động viên phải được thông báo cho biết rằng thuốc này có chứa một hoạt chất có thể gây ra phản ứng dương tính trên các xét nghiệm tầm soát thuốc doping.

Các tác dụng trên khả năng lái xe và sử dụng máy móc:

Natrilix SR không làm thay đổi sự tỉnh táo, nhưng vài phản ứng cá nhân, trong mối tương quan với sự giảm áp lực động mạch, có thể thay đổi, đặc biệt vào lúc bắt đầu điều trị hoặc khi kết hợp với một thuốc chống cao huyết áp khác. Do đó, khả năng lái xe hoặc sử dụng máy móc có thể bị giảm.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Lúc thai:

Như là một nguyên tắc, tránh kê toa thiazide và các thuốc lợi tiểu liên quan cho phụ nữ có thai và không bao giờ dùng để điều trị chứng phù sinh lý ở phụ nữ có thai, với nguy cơ thiểu dưỡng thai.

Lúc nuôi con bú:

Vì thuốc được khuếch tán vào trong sữa mẹ, khuyên không nên cho con bú trong lúc điều trị.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Không nên phối hợp:

  • Lithium: tăng mức lithium huyết thanh với các dấu hiệu quá liều, như với một chế độ ăn kiêng ít muối (bài tiết lithium qua nước tiểu giảm). Tuy nhiên, khi Natrilix có vẻ cần thiết, thì cần theo dõi sát lithium huyết thanh và liều lượng phải được điều chỉnh theo đó.
  • Các thuốc không chống loạn nhịp gây ra xoắn đỉnh (astemizole, bepridil, erythromycin (IV), halofantrine, pentamidine, sultopride, terfenadine, vincamine): xoắn đỉnh (hạ kali máu, chậm nhịp tim, và khoảng QT dài có sẵn là các yếu tố thuận lợi). Sử dụng các thuốc không gây xoắn đỉnh ở các bệnh nhân có hạ kali máu.

Thận trọng khi phối hợp:

  • Thuốc kháng viêm non-steroid (toàn thân), salicylates liều cao: có thể làm giảm tác dụng chống cao huyết áp của indapamide. Suy thận cấp ở bệnh nhân mất nước (giảm tốc độ lọc cầu thận). Bồi phụ nước cho bệnh nhân và theo dõi chức năng thận vào lúc bắt đầu điều trị.
  • Các chất hạ kali máu khác: amphotericin B (IV), glucocorticoids (toàn thân), mineralocorticoids, cosyntropin, các thuốc nhuận trường kích thích: gia tăng nguy cơ hạ kali máu (tác dụng phụ thêm). Theo dõi và nếu cần thiết thì điều chỉnh kali huyết thanh, thận trọng đặc biệt trong trường hợp điều trị Sử dụng các thuốc nhuận trường không kích thích.
  • Baclofen: làm mạnh thêm tác dụng hạ huyết áp.

Bồi phụ nước cho bệnh nhân, theo dõi chức năng thận lúc bắt đầu điều trị.

  • Digitalis alkaloids: hạ kali máu làm rõ thêm những tác dụng độc của digitalis alkaloids. Theo dõi kali huyết thanh và ECG và xem xét lại điều trị khi thích hợ

Cân nhắc khi phối hợp:

  • Các thuốc lợi tiểu giữ kali (amiloride, spironolactone, triamterene):

Sự kết hợp hợp lý này, hữu ích ở vài bệnh nhân, không loại trừ được khả năng hạ kali máu hoặc, đặc biệt ở các bệnh nhân suy thận và tiểu đường, là tăng kali máu. Theo dõi kali huyết thanh và ECG và xem xét lại điều trị khi thích hợp.

  • Các thuốc ức chế men chuyển: nguy cơ hạ huyết áp đột ngột và/hoặc suy thận cấp trong lúc đưa vào điều trị một thuốc ức chế men chuyển ở trường hợp đã có sẵn mất natri (đặc biệt ở những bệnh nhân bị hẹp động mạch thận).

Trong cao huyế t áp, khi điều trị lợi tiểu trước đó có thể đã gây ra mất natri:

  • thuốc lợi tiểu phải được ngưng 3 ngày trước khi bắt đầu điều trị bằng một thuốc ức chế men chuyển, và một thuốc lợi tiểu hạ kali máu nên được dùng trở lại khi cần thiết ;
  • hoặc bắt đầu với thuốc ức chế men chuyển liều lượng thấp, và gia tăng liều từ từ.

Trong suy tim ứ huyế t, bắt đầu bằng liều rất thấp thuốc ức chế men chuyển, sau khi giảm liều của thuốc lợi tiểu hạ kali máu kết hợp.

Trong mọi trường hợp, theo dõi chức năng thận (đo cr atinine huyết thanh) trong tuần lễ đầu điều trị bằng thuốc ức chế men chuyển.

  • Các thuốc chống loạn nhịp gây xoắn đỉnh: loại Ia (quinidine, hydroquinidine, disopyramide), amiodarone, bretylium, sotalol: xoắn đỉnh (hạ kali máu, chậm nhịp tim, và khoảng QT kéo dài có trước là các yếu tố thuận lợi).

Phòng ngừa và, nếu cần, điều chỉnh kali máu: theo dõi khoảng QT. Trong trường hợp xoắn đỉnh, không cho dùng thuốc chống loạn nhịp [máy tạo nhịp (pacemaker)].

  • Metformin: toan hóa acid lactic do metformin được khởi phát bởi suy thận chức năng liên quan đến các thuốc lợi tiểu, đặc biệt các thuốc lợi tiểu Không được sử dụng metformin khi creatinine huyết thanh vượt quá 1,5 mg/dL (135 mmol/L) ở nam giới và 1,2 mg/dL (110 mmol/L) ở nữ giới.
  • Các thuốc cản quang có iode: trong trường hợp mất nước do lợi tiểu, nguy cơ gia tăng suy thận cấp, đặc biệt sau khi dùng liều cao các thuốc cản quang có iode.

Bồi phụ nước trước khi dùng thuốc cản quang có iode.

  • Các thuốc chống trầm cảm imipramine (ba vòng), các neuroleptic: gia tăng hiệu quả chống cao huyết áp và gia tăng nguy cơ hạ huyết áp tư thế (tác dụng cộng thêm).
  • Muối calcium: nguy cơ tăng calcium máu do bởi giảm bài tiết calcium qua nước tiểu
  • Cyclosporine: nguy cơ tăng creatinine huyết thanh mà không có thay đổi mức cyclosporine lưu thông, ngay cả khi không có mất nước và muốn
  • Corticosteroids, cosyntropine (toàn thân): làm giảm tác dụng chống cao huyết áp (giữ nước và muối bởi corticosteroids).

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Đa số các tác dụng không mong muốn trên lâm sàng và thí nghiệm là phụ thuộc liều lượng. Thiazide và các thuốc lợi tiểu liên quan, bao gồm indapamide, có thể gây ra:

Về các thông số xét nghiệm:

  • Mất kali và hạ kali máu, có thể đặc biệt trầm trọng ở một số dân số nguy cơ cao (xem Thận trọng lúc dùng). Trong các thực nghiệm lâm sàng thực hiện với indapamide 1,5 mg, hạ kali huyết thanh đã được thấy trong vài trường hợp sau 4-6 tuần điều trị. Kali huyết thanh < 3,4 mmol/l trong khoảng 10% bệnh nhân và kali huyết thanh < 3,2 mmol/l trong 4% bệnh nhân. Sau 12 tuần điều trị, độ giảm trung bình của kali huyết thanh là 0,23 mmol/L.
  • Hạ natri máu với giảm thể tích máu, gây ra mất nước và hạ huyết áp tư thế. Sự mất đồng thời ion chlor có thể sau đó gây toan chuyển hóa bù, mặc dù tần suất xuất hiện và độ lớn của tác dụng này thấp.
  • Tăng acid uric huyết thanh và glucose máu trong lúc điều trị: sử dụng các thuốc lợi tiểu này phải được xem xét cẩn thận ở các bệnh nhân thống phong hoặc tiểu đường
  • Các rối loạn về huyết học (hiếm hơn nhiều): giảm tiểu cầu, giảm bạch cầu, mất bạch cầu hạt, giảm sản tủy xương, thiếu máu tán huyết
  • Tăng calcium máu rất hiế Về mặt lâm sàng:
  • Khả năng xảy ra bệnh lý gan não ở các bệnh nhân suy gan (xem Chống chỉ định và Chú ý đề phòng).
  • Các phản ứng tăng cảm, đặc biệt là da, ở các đối tượng dễ bị dị ứng và các biểu hiện suyễn
  • Hồng ban dát sẩn (maculopapular rashes), tử ban, khả năng suy thoái thêm lupus ban đỏ hệ thống có trước
  • Buồn nôn, bón, chóng mặt, suy nhược, dị cảm, nhức đầu và khô miệng, hiếm khi gặp và thường hồi phục sau khi giảm liều
  • Ngoại lệ: viêm tụy

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Đường uống: 1 viên/ngày, thường vào buổi sáng.

QUÁ LIỀU

Không có tác dụng độc nào được thấy khi dùng đến 40 mg indapamide, tương đương với 27 lần liều thuốc cần cho điều trị. Các dấu hiệu của quá liều chủ yếu bao gồm các rối loạn về nước và điện giải (hạ natri máu, hạ kali máu). Về lâm sàng, có thể buồn nôn, ói, hạ huyết áp, vọp bẻ, chóng mặt, buồn ngủ, lú lẫn, đa niệu hoặc thiểu niệu, hoặc trong trường hợp rất nặng: vô niệu (do hạ thể tích máu). Các phương pháp giúp đỡ ban đầu bao gồm nhanh chóng loại trừ thuốc (hoặc các thuốc) bằng rửa dạ dày và/hoặc dùng than hoạt tính, sau đó điều chỉnh lại cân bằng nước-điện giải trong bệnh viện chuyên khoa.

BẢO QUẢN

Thời gian lưu giữ: 2 năm.

Bảo quản nơi khô, ở nhiệt độ phòng (15oC-25oC).

Đặc điểm da của người già và cách chăm sóc

Da của người già có 3 đặc điểm nổi bật: Tiều tuỵ, mẫn cảm và tăng sinh.

Tiều tụy

Khi con người bước qua tuổi trung niên, da bắt đầu tiều tuỵ. Bước sang tuổi già, điều này càng thấy rõ. Biểu hiện của da tiều tuỵ có nhiều mặt: Da trở nên mềm mỏng, giảm trơn bóng, giảm tính đàn hồi, khô, có nếp nhăn. Do trực bì là nền chủ yếu của da, khi chất xơ của trực bì suy thoái làm cho nhiều tổ chức bên trong trực bì mất chỗ dựa, nên có ảnh hưởng rất lớn đến huyết quản trực bì. Huyết quản thiếu chỗ dựa, rất dễ vỡ, công năng co giãn của huyết quản cũng bị ảnh hưởng. Điều này giải thích vì sao da của người già hay xuất hiện những vết tím tái (điểm xuất huyết) và da người già thường lạnh. Tất nhiên, da bị lạnh còn có nguyên nhân rối loạn điều tiết nhiệt độ cơ thể và xơ hoá động mạch.

Mẫn cảm

Là cách gọi để chỉ hiện tượng phản ứng mãnh liệt khi da chịu tác động của nhân tố bên ngoài. Da người già đặc biệt dễ ngứa, ngoài nguyên nhân do khô da còn do sự mẫn cảm của da. Người già da không chỉ ngứa mà còn hay bị dị ứng. Mức độ đau do mụn nhọt của người già nặng hơn thanh niên rất nhiều, thời gian lại dài hơn, tỉ lệ phát sinh di chứng đau thần kinh sau khi bị mụn nhọt cũng cao hơn nhiều.

Da người già giảm tính đàn hồi, khô, có nếp nhăn
Da người già giảm tính đàn hồi, khô, có nếp nhăn

Tăng sinh

Là chỉ tổ chức ở bộ phận nào đó tăng sinh. Thí dụ: Trong khi biểu bì suy thoái thì da ở trán và mặt lại có hiện tượng dày lên, tuyến mỡ dưới da suy thoái, phân giải mỡ giảm nhưng các tuyến này lại hoạt động mạnh hơn ở trán, lưỡng quyền, mũi, do đó mức độ ra mồ hôi và dầu ở trán và người già lại nhiều hơn trẻ. Rất nhiều huyết quản các bộ phận bị xơ hoá, co hẹp lại, số lượng giảm đi, nhưng đồng thời những u huyết quản lại xuất hiện khắp nơi. Người già hay bị các loại ung thư, cũng là biến tướng của chứng tăng sinh.

Việc giữ gìn da của người già không thể tách khỏi 3 điều, bao gồm:

Phòng ngừa các loại tổn thương, phòng các thứ kích thích và phòng lở loét, biến thành ác tính.

Đề phòng tổn thương, nhất là tổn thương vật lý, người già phải chú ý giữ ấm, tránh gió, tránh nắng, dầm mưa. Phải đề phòng ngã, vì ngã không những làm tổn thương da thịt, khiến người già đau đớn, mà vết thương cũng lâu lành hơn.

Phòng các thứ kích thích, có nghĩa là việc lựa chọn các món ăn, thức uống… phải cẩn thận. Nên hết sức tránh hoặc ít dùng những thứ kích thích như rượu thuốc, trà đặc, cà phê, chất cay… Quần áo, nhất là quần áo trong nên dùng vải bông, vì bông ít kích thích da, cũng rất ít dị ứng. Áo quần phải đảm bảo đủ ấm về mùa lạnh, thoáng mát về mùa nóng, nhưng không nên quá chật, tránh trở ngại máu tuần hoàn.

Tắc lệ đạo ở trẻ em và điều trị

I. NGUYÊN NHÂN

* Do những khác biệt về sinh lý học, các bất thường bẩm sinh và mắc phải của hệ thống lệ đạo:

  • Sự ứ đọng nước ối sau sinh trong túi lệ bởi tắc ống lệ mũi
  • Viêm túi lệ cấp
  • Chảy nước mắt sống và viêm kết mạc mủ nhầy kinh niên.
  • Rò túi lệ bẩm sinh

II. LÂM SÀNG

Chảy nước mắt thường xuyên, đôi khi kèm nhầy mủ.

Đọng nước mắt trong khe mi, cảm giác mắt long lanh

Giả viêm kết mạc, ngưng thuốc nhỏ thấy tái phát, thường một mắt

80% tắc lệ đạo gặp ở trẻ em dưới 6 – 8 tháng tuổi

III. ĐIỀU TRỊ

  • Trước 4 tháng tuổi:

+ Kháng sinh tại chỗ: nhóm Chloraphenicol, tobbramycin: nhỏ mắt 1- 2giọt/lần x 04 – 06 lần/ngày.

+ Day ấn vùng túi lệ.

  • Sau 4 tháng tuổi:

+ Bơm rửa lệ đạo hoặc thông lệ đạo (có thể thông lệ đạo 2 – 3 lần, thời gian các lần cách nhau tùy theo từng bệnh nhân).

+ Kháng sinh tại chỗ nhóm chloramphenicol, tobramycin: nhỏ mắt 1 – 2 giọt/lần x 4 – 6 lần/ngày.

Xem thêm:

Đông y chữa bệnh Tắc lệ đạo

Lệ đạo bị hẹp hay tắc do đau mắt hột, bệnh ở mũi gây ra, Đông y cho rằng do phong kết hợp với can thận âm hư gây ra bệnh.

Cần chữa bằng phương pháp thông lệ đạo hoặc cắt bỏ tuyến lệ, sau đây xin giới thiệu phương pháp chữa bảo tồn bằng Đông y.

Phương pháp chữa: khu phong, bổ can thận.

Bài thuốc:

Bạch chỉ 8g Uy linh tiên 12g
Xuyên khung 8g Sinh địa 16g
Tế tân 6g Kỷ tử I6g
Ô tặc cốt 12g Bạch thược 12g
Châm cứu:

Dùng hào châm châm huyệt Tinh minh sâu chừng 1/2 thốn (tránh không châm vào nhãn cầu) lưu châm 15 phút, ngày châm một lần, 3 đến 5 lần một liệu trình.

Chứng Âm Dương đều hư trong Đông y

Khái niệm

Chứng Âm Dương đều hư là tên gọi chung toàn thân âm dương đều hư xuất hiện hàng loạt chứng trạng hư yếu, nguyên nhân phần nhiều do ốm lâu không hồi phục, âm dương đều hao tổn, hoặc bệnh Dương tổn hại liên luỵ đến Âm hoặc bệnh Âm tổn hại liên luỵ đến Dương gây nên. Chứng Âm Dương đều hư nói ở đây là nói âm dương đều hư ở chỉnh thể cơ thể; còn âm hư dương hư cùng xuất hiện, hoặc khí âm đều hư, khí huyết đều hư ở mỗi Tạng Phủ ở đây không nói đến.

Biểu hiện chủ yếu của chứng Âm dương đều hư là thể trạng gầy còm, tinh thần bạc nhược, hụt hơi biếng nói, mệt mỏi yếu sức, cơ thể lạnh sợ lạnh, hễ động làm thì phát sốt vã mồ hôi, hồi hộp hoa mắt, váng đầu ù tai, lưỡi nhạt mà ít tân dịch hoặc có vết răng hoặc tróc mảng, mạch Vi Tế mà Sác, uống thuốc ôn nhiệt vào thì chứng trạng âm hư nổi lên rõ rệt, uống thuốc đắng lạnh vào thì chứng trạng dương hư càng nặng thêm, chứng trạng phức tạp, dễ biến hóa, hơn nữa thường thấy chứng trạng âm hư, dương hư của Tạng Phủ.

Chứng này xuất hiện ở giai đoạn cuối của nhiều loại tật bệnh đồng thời lấy bệnh biến của Tạng Phủ làm cơ sở, cho nên chứng Âm Dương đều hư thường biểu hiện âm hư dương hư ở một Tạng Phủ nào đó. Chứng âm hư dương hư của Tạng Phủ gặp  loại tật bệnh nào, tham khảo ở chứng hậu các .

Phân tích

Chứng Âm Dương đều hư thường gặp ở người ốm lâu hư yếu. Người bệnh mắc chứng này âm dương ở Tạng Phủ đều hư; Khí hậu nóng lạnh đều không thích hợp, mùa Đông không chịu được rét, mùa Hạ không chịu được nóng, hơn nữa bệnh tình nặng thêm mỗi khi thay đổi thời tiết Xuân và Thu; Vì thể lực yếu, sức chống bệnh kém, càng dễ bị nhiều loại bệnh khác. Chứng Âm dương đều hư ở trẻ em thì làm cho phát dục chậm, ở người cao tuổi thì càng suy yếu mau già; Nếu lại gặp bệnh nào khác thì triền miên khó khỏi, hơn nữa bệnh tình nguy hiểm nặng nề, biện chứng luận trị cần thận trọng đặc biệt.

Chứng Âm Dương đều hư đa số phát sinh ở người ốm lâu, thường từ âm hư liên luỵ đến dương hoặc từ dương hư liên luỵ đến âm gây nên – Âm Dương đều hư phát triển thêm bước nữa thì Âm Dương đều kiệt, chứng trạng biểu hiện vừa có thủy thũng, thiểu khí suyễn nghịch, thanh âm thấp khẽ, mặt ngơ ngác, vừa có các chứng trạng nguy hiểm như triều nhiệt, trên lưỡi thoát dịch, khoang miệng mọc nấm, ách nghịch, mồ hôi ra như giọt dầu, chân tay quyết lạnh, mạch Vi Sác muốn tuyệt v.v.

Chẩn đoán phân biệt

– Chứng Khí huyết đều hư với chứng Âm Dương đều hư:Chứng khí huyết đều hư thuộc phạm vi chứng Âm Dương đều hư, chứng Khí huyết đều hư là do ốm lâu không khỏi, hoặc trước hết thấy chứng trạng Khí hư, vì không hóa huyết mà tiếp theo xuất hiện chứng huyết thiếu. Hoặc trước hết bị mất Huyết, khí theo huyết suy hao gây nên. Biểu hiện lâm sàng, vừa có các chứng trạng khí hư như sắc mặt không tươi, mệt mỏi yếu sức, thiểu hơi biếng nói, vừa có các chứng trạng huyết hư như hồi hộp mất ngủ, chóng mặt hoa mắt, chân tay tê dại v.v.

Chứng Âm Dương đều hư cũng xuất hiện khi bệnh ốm lâu không khỏi; Hư yếu lâu ngày không khỏi thì âm hao tổn kéo dài, Dương sẽ theo Âm mà rút đi, Dương hư kéo dài, âm cũng theo dương mà suy…đều có thể dẫn đến chứng Âm dương đều hư – Chứng Âm dương đều hư ngoài những biểu hiện đầy đủ chứng trạng của chứng Khí huyết đều hư, còn biểu hiện hai tình huống như dương hư sinh hàn, âm hư sinh nhiệt, như các chứng trạng sợ lạnh tay chân lạnh, triều nhiệt mồ hôi trộm v.v.

– Chứng Khí âm đều hư với chứng Âm Dương đều hư:Chứng Khí âm đều hư là do khí hư hóa sinh bất túc, hoặc thời kỳ cuối của Ôn bệnh khí âm bị hao thương gây nên, biểu hiện lâm sàng vừa có các chứng trạng của chứng Khí hư như mệt mỏi yếu sức, thiểu hơi biếng nói, vừa có chứng trạng của âm hư như gầy còm, miệng khô họng ráo, triều nhiệt mồ hôi trộm, ngũ tâm phiền nhiệt, về chiều gò má đỏ v.v. Điểm Chẩn đoán phân biệt chủ yếu của chứng Khí âm đều hư với chứng Âm Dương đều hư là loại trên không có hiện tượng Dương hư sinh hàn rõ rệt, còn loại dưới thì có biểu hiện hư hàn và hư nhiệt.

Trích dẫn y văn

Chứng hậu hư lao khách nhiệt: Người bị hư lao, huyết khí suy nhược, âm dương đều hư; Lao nhẹ thì sinh nhiệt, nhiệt nhân lao mà sinh ra, cho nên mới gọi là khách nhiệt (Hư lao bệnh chư hậu – Chư bệnh nguyên hậu luận).

– Chứng hậu hư lao phiền muộn: Đây là do âm dương đều hư, âm khí hao hụt chút ít, dương khí mạnh lên đột ngột, thì nhiệt lấn lên Tâm, cho nên phiền muộn (Hư lao bệnh chư hậu – Chư bệnh nguyên hậu luận).

– Chứng hậu hư lao âm lãnh: Âm Dương đều hư yếu cho nên như vậy. Thận chủ tinh tủy, khai khiếu ở phần âm. Bây giờ âm hư dương yếu, huyết khí không tươi tốt cho nhau; cho nên gây chứng Âm lãnh. Lâu ngày không khỏi sẽ thành âm nuy suy nhược (Hư lao bệnh chư hậu – Chư bệnh nguyên hậu luận).

Hypostamine

HYPOSTAMINE

PROMEDICA

viên nén: tube 20 viên.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Tritoqualine 100 mg
Tá dược: tinh bột bắp, lactose monohydraté, talc, gelatine, magnesium stéarate.

DƯỢC LỰC

Kháng histamine toàn thân: ức chế histidine d carboxylase trên cơ thể sống, làm ngưng sự hình thành histamine nội sinh từ histidine trong mô và làm giảm hàm lượng histamine trong huyết thanh và trong mô. Hypostamine không gây tác động trên các thụ thể H1, tác động chống dị ứng của thuốc như thế dựa trên một cơ chế khác với cơ chế tác động của các thuốc kháng histamine thông thường. Hypostamine không có tác dụng làm trầm dịu và gây phản ứng dạng atropine như thường gặp ở đa số các thuốc thuộc nhóm này. Do đó dùng thuốc sẽ không gây buồn ngủ và không có chống chỉ định ở những bệnh nhân bị glaucome hay bị bệnh ở tuyến tiền liệt.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Tritoqualine được hấp thu ở ruột sau khi đã được hòa tan trong dịch dạ dày ; nồng độ tối đa trong các cơ quan và trong huyết thanh đạt được từ 1 đến 2 giờ sau khi uống thuốc và chỉ còn khoảng 10% sau 7 đến 8 giờ.

CHỈ ĐỊNH

Điều trị triệu chứng các biểu hiện dị ứng khác nhau:

  • viêm mũi co thắt (có chu kỳ hoặc không theo chu kỳ),
  • mề đay.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

  • Trẻ em dưới 15 tuổi.
  • Chống chỉ định tương đối: phụ nữ có

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Không nên dùng.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

  • 2 đến 6 viên/ngày (1 đến 4 viên ở trẻ em), chia làm 2-3 lần.
  • Nếu biết trước được những thời điểm có thể bị dị ứng, uống Hypostamine để dự phòng: 1 đến 2 viên trước khoảng 15 đến 30 phút.

Sốt – sốt không rõ nguyên nhân và điều trị

ĐỊNH NGHĨA

• Thân nhiệt: Trung tâm điều hoà thân nhiệt vùng dưới đồi giữ cân bằng quá trình sinh nhiệt từ các hoạt động chuyển hoá của gan và cơ và quá trình thải nhiệt từ da và phổi để duy trì nhiệt độ bình thường của cơ thể là 36.8° ± 0.4°C (98.2° ± 0.7°F), dao động theo nhịp ngày đêm (thấp hơn vào ban ngày, cao hơn vào buổi đêm).

• Sốt: tăng thân nhiệt (>37.2°C/98.9°F vào buổi sáng và >37.7°C/99.9°F vào buổi tối) cùng với tăng điểm định nhiệt vùng dưới đồi.

• Sốt không rõ nguyên nhân (FUO): nhiệt độ cơ thể >38.3°C (>101°F) nhiều lần qua một thời gian xác định, qua thăm khám chưa phát hiện được nguyên nhân. FUO được chia thành nhiều loại:

– FUO cổ điển: sốt kéo dài >3 tuần mà điều trị ngoại trú 3 lần, điều trị nội viện 3 ngày, hoặc khám ngoại trú đầy đủ 1 tuần mà không giải thích được nguyên nhân

– FUO do nhiễm trùng BV: ít nhất 3 ngày thăm khám và 2 ngày cấy các dịch cơ thể mà không giải thích được nguyên nhân gây sốt ở BN không có dấu hiệu nhiễm trùng tại thời điểm nhập viện

– FUO ở BN giảm bạch cầu trung tính: ít nhất 3 ngày thăm khám và 2 ngày cấy các dịch cơ thể mà không giải thích được nguyên nhân gây sốt ở BN có số lượng bạch cầu trung tính <500/μL hoặc sẽ giảm xuống mức đó trong vòng 1-2 ngày

– FUO liên quan HIV: sốt ở BN nhiễm HIV, kéo dài >4 tuần ở BN ngoại trú hoặc >3 ngày ở BN điều tị nội trú, khi đã thăm khám đúng cách (gồm 2 ngày cấy các dịch cơ thể) mà không tìm được nguyên nhân

• Sốt cao nguy hiểm: nhiệt độ >41.5°C (>106.7°F) xảy ra khi nhiễm trùng nặng nhưng thường gặp hơn là do xuất huyết hệ TKTW

• Tăng thân nhiệt: tăng thân nhiệt không kiểm soát, vượt quá khả năng thải nhiệt của cơ thể mà không có sự thay đổi điểm định nhiệt vùng dưới đồi. Nguyên nhân tăng thân nhiệt không phải do chất gây sốt.

• Chất gây sốt: bất cứ chất nào có thể gây sốt, gồm chất gây sốt ngoại sinh (vd, độc tố vi khuẩn, lipopolysaccharide, siêu kháng nguyên) và các cytokine gây sốt (vd, IL-1, IL-6, TNF).

SỐT

• Sinh bệnh học: Điểm định nhiệt vùng dưới đồi tăng, gây co mạch ngoại biên (giữ nhiệt). BN cảm thấy lạnh do máu chuyển về cơ quan nội tạng. Cơ chế của sinh nhiệt (vd, rùng mình, tăng sinh nhiệt ở gan) giúp tăng nhiệt độ cơ thể đến điểm định nhiệt mới. Tăng prostaglandin E2 ở ngoại biên gây đau cơ và đau khớp không đặc hiệu, thường đi kèm với sốt. Khi điểm định nhiệt giảm xuống lại nhờ điều trị hạ sốt, quá trình thải nhiệt (vd, giãn mạch ngoại biên và đổ mồ hôi) bắt đầu.

• Nguyên nhân: Hầu hết sốt liên quan đến các nhiễm trùng tự giới hạn (thường do virus) và dễ xác định được nguyên nhân.

TIẾP CẬN BỆNH NHÂN Sốt

• Bệnh sử: Bệnh sử chi tiết rất cần thiết, chú ý đặc biệt đến trình tự triệu chứng theo thời gian (vd, khi phát ban: vị trí khởi phát, hướng lan và tốc độ lan; xem dưới đây) và mối liên quan giữa các triệu chứng với thuốc, tiếp xúc vật nuôi, người bệnh, bạn tình, đi du lịch, chấn thương, và các bộ phận giả lắp ráp trên cơ thể.

• Khám lâm sàng: Khám lâm sàng toàn diện. Lấy nhiệt độ ở nơi phù hợp. Chú ý mạch nhiệt phân ly (mạch chậm tương ứng), nếu có (ví dụ, sốt thương hàn, bệnh do Brucella, bệnh do Leptospira, sốt vờ). Chú ý kĩ các loại phát ban, xác định chính xác các đặc điểm nổi bật của nó.

1. Loại tổn thương (vd, dát, sẩn, nốt, mụn nước, mụn mủ, ban xuất huyết, loét; chi tiết xem Chương 65), hình dạng (vd, hình vòng hoặc hình bia), cách sắp xếp, phân bố (vd, trung tâm hay ngoại biên)

2. Phân loại phát ban

a. Ban dát, sẩn phân bố ở trung tâm (vd, ngoại ban do virus, phát ngoại ban do thuốc)
b. Phát ban ngoại biên (vd, sốt phát ban Rocky Mountain, giang mai thứ phát, viêm nội tâm mạc nhiễm trùng)
c. Hồng ban hợp bong vảy (vd, hội chứng sốc nhiễm độc)
d. Phát ban dạng mụn nước, bóng nước (vd, thuỷ đậu, nhiễm HSV nguyên phát, viêm da hoại thư)
e. Phát ban dạng mày đay: khi có sốt, thường do viêm mao mạch mày đay do bệnh huyết thanh, bệnh mô liên kết, nhiễm trùng (viêm gan virus B, enterovirus, hoặc nhiễm ký sinh trùng), hoặc bệnh ác tính (đặc biệt là u lympho)
f. Phát ban dạng nốt (vd, nhiễm nấm lan toả, hồng ban nút, hội chứng Sweet)
g. Phát ban xuất huyết (vd, nhiễm trùng huyết do não mô cầu, sốt xuất huyết do virus, nhiễm lậu cầu huyết lan toả)

h. Phát ban dạng loét hoặc vảy (vd, các bệnh nhiễm rickettsia, bệnh tularemia, bệnh than)

• Xét nghiệm: công thức máu, tốc độ máu lắng, và CRP; chỉ định các xét nghiệm khác dựa vào bệnh sử và khám lâm sàng

ĐIỀU TRỊ Sốt

• Không chống chỉ định sử dụng thuốc hạ sốt trong các trường hợp nhiễm trùng hoặc nhiễm virus thường gặp và có thể làm giảm triệu chứng mà không làm chậm quá trình điều trị nhiễm trùng. Tuy nhiên, việc không sử dụng thuốc hạ sốt có thể hữu ích trong việc đánh giá hiệu quả của kháng sinh hoặc trong chẩn đoán các trường hợp mạch-nhiệt phân ly hoặc sốt hồi quy (vd., nhiễm Plasmodium hoặc các loài Borrelia).

• Khuyến cáo điều trị hạ sốt cho BN có suy giảm chức năng tim, phổi, hoặc hệ TKTW trước đó để giảm nhu cầu oxy.

• Aspirin, NSAIDs, và glucocorticoids là những thuốc hạ sốt hiệu quả.

Acetaminophen được ưa thích hơn vì nó không che lấp tình trạng viêm, không làm suy chức năng tiểu cầu, và không gây ra hội chứng Reye.

• BN sốt cao ác tính nên dùng mền lạnh bên cạnh thuốc hạ sốt đường uống.

SỐT KHÔNG RÕ NGUYÊN NHÂN

Nguyên nhân:

Nguyên nhân khác nhau tuỳ theo loại Sốt không rõ nguyên nhân. – Sốt không rõ nguyên nhân cổ điển: gồm các nguyên nhân sau:

• Nhiễm trùng— vd, lao ngoài phổi; EBV, CMV, hoặc nhiễm HIV; abcès sâu; viêm nội tâm mạc; bệnh do nấm. Nhiễm trùng vẫn là nguyên nhân hàng đầu của Sốt không rõ nguyên nhân, chiếm ~25% trường hợp trong những nghiên cứu gần đây.

• U tân sinh— vd, ung thư đại tràng

• Các bệnh lý viêm khác không do nhiễm trùng—vd, các bệnh thấp hệ thống, viêm mạch máu, bệnh u hạt. Ở BN >50 tuổi, viêm động mạch tế bào khổng lồ chiếm 15–20% các trường hợp sốt không rõ nguyên nhân.

• Các bệnh tạp khác —vd, thuyên tắc phổi, hội chứng sốt di truyền, sốt do thuốc, sốt vờ

– Sốt không rõ nguyên nhân do nhiễm trùng BV: Trên 50% trường hợp do nhiễm trùng (vd, nhiễm trùng do vật ngoại lai hoặc catheter, viêm đại tràng do Clostridium difficile, viêm xoang). Các nguyên nhân không do nhiễm trùng (vd, sốt do thuốc, thuyên tắc phổi, viêm túi mật không do sỏi) chiếm ~25% trường hợp.

– Sốt không rõ nguyên nhân ở BN giảm bạch cầu trung tính: Trên 50–60% BN sốt giảm bạch cầu trung tính có nhiễm trùng, và 20% du khuẩn huyết. Nhiễm Candida và Aspergillus thường gặp.

– Sốt không rõ nguyên nhân liên quan HIV: Trên 80% BN nhiễm trùng, nguyên nhân cụ thể gây nhiễm trùng tuỳ vào mức độ suy giảm miễn dịch và vùng địa lý. Sốt do thuốc và u lympho có thể là nguyên nhân.

TIẾP CẬN BỆNH NHÂN Sốt không rõ nguyên nhân

Khi chẩn đoán phải nghĩ đến nước xuất xứ của BN, BN có đi du lịch gần đây hoặc đi đến vùng sâu, tiếp xúc với môi trường liên quan đến sở thích, vật nuôi. Cách tiếp cận chẩn đoán Sốt không rõ nguyên nhân được minh hoạ trong Hình 34-1.

Sốt không rõ nguyên nhân

a“Các dữ kiện chẩn đoán tiềm năng,” phác thảo bởi Kleijn và đồng sự (1997, Phần II), là những phát hiện chủ chốt trong bệnh sử, các dấu chứng khu trú, hoặc các triệu chứng then chốt. bSinh thiết gan bằng kim cũng như các mô khác cũng là “dữ kiện chẩn đoán tiềm năng”.” cCác xét nghiệm xâm lấn có thể cần đến nội soi ổ bụng. dĐiều trị theo kinh nghiệm là phương cách cuối cùng, tiên lượng tốt ở phần lớn BN Sốt không rõ nguyên nhân dai dẳng mà không rõ chẩn đoán.

HÌNH 34-1 Tiếp cận BN Sốt không rõ nguyên nhân cổ điển. ANA, kháng thể kháng nhân; CMV, cytomegalovirus; CRP, C-reactive protein; CT, chụp cắt lớp điện toán; EBV, Epstein-Barr virus; ESR, tốc độ máu lắng; FDG, fluorodeoxy-glucose F18; NSAIDs, thuốckháng viêm không steroid; PET, chụp phát xạ positron cắt lớp; PMN, bạch cầu đa nhân; PPD, purified protein derivative; RF, yếu tố thấp; SPEP, điện di protein huyết thanh; TIBC, khả năng gắn sắt toàn phần; VDRL, xét nghiệm tìm kháng thể giang mai.

ĐIỀU TRỊ Sốt không rõ nguyên nhân

Điều quan trọng khi điều trị BN Sốt không rõ nguyên nhân cổ điển là tiếp tục theo dõi và thăm khám, tránh điều trị bao vây theo kinh nghiệm.

• Sinh hiệu không ổn định, giảm bạch cầu trung tính, và các tình trạng ức chế miễn dịch cần thiết phải điều trị chống nhiễm trùng theo kinh nghiệm ngay lập tức.

• Nên tránh sử dụng glucocorticoids và NSAIDs trừ khi đã loại trừ được nhiễm trùng hoàn toàn và các bệnh lý viêm có thể có và đe doạ tính mạng.

Tiên lượng: Khi không xác định được nguyên nhân nền của Sốt không rõ nguyên nhân sau một thời gian dài theo dõi (>6 tháng), tiên lượng thường tốt.

Gạo lứt có những tác dụng tuyệt vời cho sức khỏe con người

Gạo lứt là một loại gạo mới chỉ xát vỏ trấu mà còn nguyên lớp vỏ cám bên trong. Chính lớp vỏ cám này chứa rất nhiều vitamin B1 cũng như nhiều chất dinh dưỡng và vi lượng khác. Người ăn gạo xát trắng lâu ngày còn có thể mắc bệnh tê phù do thiếu vitamin B1. Theo Đông y: Gạo lứt rất bổ và có tác dụng thanh nhiệt, an thần trấn kinh, trừ phiền, có khả năng ngăn sự xuất tiết của dạ dày và đại tràng nên có tác dụng tốt trong điều trị các bệnh đường ruột. Người xưa dùng cháo gạo lứt để phòng ngừa và trừ bệnh tả, lỵ, cầm mồ hôi…

Gạo lứt tác dụng tốt cho các bệnh đường ruột
Gạo lứt tác dụng tốt cho các bệnh đường ruột

Một trong những công trình nghiên cứu của Giáo sư Nhật Ohsawa khẳng định: gạo lứt “Là một thức ăn tuyệt vời mà tạo hoá dành cho con người”.

Báo American Jounal of Clinical Nutrition (Mỹ) tháng 8/1999 đưa tin: Các nhà khoa học Mỹ đưa ra kết luận của một nghiên cứu: Các loại thực phẩm chế biến từ ngũ cốc chưa xát như bánh mỳ đen và cơm nấu từ gạo lứt có thể làm giảm 30% nguy cơ mắc bệnh tim. Hiệp hội khoa học Mỹ cho rằng khám phá đó giúp cho mọi người lựa chọn lương thực cho mình. Các nhà khoa học đã theo dõi 75.000 phụ nữ trong 10 năm thấy nếu ăn 2 bát cơm rưỡi nấu bằng gạo lứt mỗi ngày thì sẽ giảm được 30% nguy cơ mắc bệnh tim mạch.

Các nhà nghiên cứu Mỹ cho rằng, nếu như những người phụ nữ đó không mắc bệnh béo phì, không hút thuốc lá thì chắc chắn kết quả sẽ còn cao hơn nhiều.

Nature Medicine 1/2001 cũng đưa tin: Kết quả một công trình nghiên cứu cho thấy những người ăn ngũ cốc thô cũng giảm được 40% nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường, một căn bệnh đang có xu hướng gia tăng hiện nay. Public Health 2000 cũng đưa tin: Một công trình nghiên cứu khác cho thấy ở 75.521 đối tượng tình nguyện ăn ngũ cốc thô giảm được tỷ lệ tai biến do các bệnh tim mạch 30 – 40% so với những người ăn ngũ cốc đã xay xát kỹ.

Lớp cùi của gạo lứt có tác dụng giảm hàm glucose trong máu
Lớp cùi của gạo lứt có tác dụng giảm hàm glucose trong máu

Lớp cùi của gạo lứt có trên 120 chất kháng ôxy hóa, có thể bảo vệ các tế bào của cơ thể khỏi bị xâm hại bởi các gốc tự do. Các chất kháng ôxy hóa được coi như là những người lính bảo vệ tế bào của cơ thể. Chúng “lấy đi viên đạn” khi tế bào cơ thể bị gốc tự do tấn công, do đó tế bào tránh được sự hư hại. Các chất kháng ôxy hóa mạnh ở trong lớp cùi của gạo lứt như CoQ10, acid alpha-lipoic, các proanthocyanidin oligomic, SOD, các tocopherol và tocotrienol, IP6, glutathione, carotenoid, selen, các phytosterol, gamma-oryzanol, lutein và lycopene đều đã giúp cho cơ thể phòng chống và giảm rủi ro đối với các bệnh nói trên.

Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định rằng gạo lứt có tác dụng kiểm soát, quản lý và làm giảm hàm lượng glucose trong máu của những người bị bệnh đái đường. Lớp cùi của gạo lứt có tác dụng làm giảm hàm lượng glucose trong máu, hàm lượng hemoglobin đã được glycosyl-hóa và cải thiện sự tổng hợp insulin ở các người bị bệnh đái đường type I và type II. Các vitamin nhóm B, gamma-oryzanol, protein, các phức hợp carbohydrate, crôm, polysaccharide, hemicellulose, chất béo, chất xơ, các tocopherol, các tocotrienol và các chất kháng oxy hóa ở trong gạo lứt đều đóng vai trò quan trọng và tích cực trong việc chuyển hóa glucose trong cơ thể, do đó có thể kiểm soát, quản lý và điều hòa hàm lượng glucose trong máu ở người bị bệnh đái đường.

Thuốc aducanumab là gì và được dùng làm gì?

Công dụng, cảnh báo, tác dụng phụ, liều dùng, tương tác thuốc, thai kỳ & cho con bú, những điều cần biết khác

Tên gốc: aducanumab
Tên thương hiệu và các tên khác: Aduhelm, aducanumab-avwa
Loại thuốc: Kháng thể đơn dòng, chống lại amyloid beta

Aducanumab là gì và được dùng để làm gì?

Aducanumab là một loại thuốc được sử dụng để điều trị bệnh Alzheimer, một căn bệnh não tiến triển phá hủy trí nhớ và các chức năng tâm thần khác, dẫn đến suy giảm nhận thức và mất trí nhớ.

Bệnh Alzheimer gây ra bởi các tổn thương dương tính trong não do sự tích tụ bất thường của protein, gọi là mảng amyloid beta, và các tổn thương âm tính do thoái hóa (teo) và mất tế bào thần kinh (neuron). Những tổn thương này ban đầu ảnh hưởng đến phần não liên quan đến trí nhớ và dần dần làm suy yếu các chức năng khác bao gồm ngôn ngữ, lý luận và hành vi xã hội. Aducanumab hoạt động bằng cách giảm sự tích tụ của các mảng amyloid beta, một trong hai đặc điểm chính của bệnh Alzheimer.

Aducanumab là một kháng thể đơn dòng loại immunoglobulin G1 (IgG1) có hoạt tính chống lại amyloid beta, được sản xuất trong phòng thí nghiệm bằng công nghệ tái tổ hợp DNA. Aducanumab có khả năng vượt qua hàng rào máu-não và liên kết chọn lọc với các dạng amyloid beta hòa tan và không hòa tan. Dữ liệu từ các thử nghiệm lâm sàng cho thấy sự giảm các mảng amyloid beta ở những bệnh nhân được điều trị bằng aducanumab.

Aducanumab đã được FDA phê duyệt để điều trị suy giảm nhận thức nhẹ hoặc giai đoạn nhẹ của bệnh Alzheimer. Hiện chưa có dữ liệu về an toàn hoặc hiệu quả khi bắt đầu điều trị aducanumab ở các giai đoạn bệnh sớm hơn hoặc muộn hơn so với giai đoạn được chỉ định. Aducanumab được cấp phép phê duyệt nhanh chóng dựa trên dữ liệu từ các nghiên cứu lâm sàng cho thấy sự giảm của các mảng amyloid beta. Việc tiếp tục phê duyệt cho chỉ định này có thể phụ thuộc vào việc xác minh lợi ích lâm sàng trong các thử nghiệm xác nhận.

Cảnh báo

Có các báo cáo về phản ứng quá mẫn bao gồm phát ban và phù mạch ở bệnh nhân được điều trị bằng aducanumab. Cần theo dõi bệnh nhân để phát hiện các phản ứng quá mẫn, ngừng truyền aducanumab ngay khi có dấu hiệu của bất kỳ phản ứng nào và tiến hành điều trị thích hợp.

Aducanumab có thể gây ra bất thường hình ảnh liên quan đến amyloid (ARIA), bao gồm:

  • ARIA với phù nề (ARIA-E): xuất hiện trên MRI dưới dạng phù não hoặc dịch trong các rãnh não (tràn dịch rãnh não)
  • ARIA với lắng đọng hemosiderin (ARIA-H): bao gồm vi xuất huyết và lắng đọng hemosiderin, phức hợp lưu trữ sắt, trên bề mặt não (siderosis nông) do sự rò rỉ máu nhẹ từ mạch máu.

ARIA-H có thể xảy ra tự phát ở bệnh nhân Alzheimer, nhưng ARIA-H cùng với ARIA-E thường xảy ra ở bệnh nhân được điều trị bằng aducanumab.

Các yếu tố nguy cơ bao gồm:

  • ARIA-E:
    • Người mang biến thể gen apolipoprotein E e4 (ApoE e4)
    • Liều cao và trong giai đoạn tăng liều
  • ARIA-H:
    • Người mang ApoE e4
    • Tuổi cao
    • Số lượng vi xuất huyết lớn hơn ở thời điểm ban đầu
    • Người lớn tuổi có các yếu tố nguy cơ tim mạch và/hoặc có bằng chứng về các sự kiện mạch máu não trước đây.

ARIA thường không gây ra triệu chứng, nhưng hiếm khi có thể gây ra các triệu chứng nghiêm trọng và đe dọa tính mạng như co giật và trạng thái động kinh, và hiếm khi có thể gây tử vong, mặc dù mối quan hệ nhân quả giữa ARIA và các kết cục tử vong chưa được xác định.

Các triệu chứng được báo cáo liên quan đến ARIA bao gồm sự nhầm lẫn, chóng mặt, đau đầu, thay đổi thị giác, buồn nôn, khó khăn khi đi lại và thiếu hụt thần kinh khu trú. Các triệu chứng này thường tự thuyên giảm theo thời gian.

ARIA có thể xảy ra bất cứ lúc nào, nhưng phần lớn các trường hợp ARIA được quan sát trong 8 liều đầu tiên. Cần theo dõi bệnh nhân chặt chẽ, đặc biệt trong quá trình tăng liều.

Nếu bệnh nhân phát triển các triệu chứng gợi ý ARIA, hãy đánh giá lâm sàng bệnh nhân, bao gồm cả MRI nếu cần thiết, và tiếp tục điều trị dựa trên các triệu chứng lâm sàng và mức độ nghiêm trọng của ARIA trên hình ảnh.

Kinh nghiệm điều trị ở những bệnh nhân tiếp tục dùng liều qua giai đoạn ARIA-E có triệu chứng hoặc ARIA-E trung bình hoặc nặng không có triệu chứng còn hạn chế. Dữ liệu về việc dùng liều cho bệnh nhân đã trải qua ARIA-E tái phát cũng còn hạn chế.

Các tác dụng phụ của aducanumab là gì?

Các tác dụng phụ thường gặp của aducanumab bao gồm:

  • Bất thường hình ảnh liên quan đến amyloid kèm phù nề (ARIA-E)
  • Xuất huyết vi thể ARIA-H
  • Lắng đọng hemosiderin bề mặt ARIA-H
  • Tràn dịch sulcal ARIA-E
  • Đau đầu
  • Ngã
  • Tiêu chảy
  • Nhầm lẫn
  • Mê sảng
  • Thay đổi trạng thái tinh thần
  • Mất định hướng

Hãy gọi ngay cho bác sĩ nếu bạn gặp phải bất kỳ triệu chứng hoặc tác dụng phụ nghiêm trọng nào sau đây khi sử dụng thuốc này:

  • Các triệu chứng tim nghiêm trọng bao gồm tim đập nhanh hoặc mạnh, cảm giác rung trong ngực, khó thở và chóng mặt đột ngột;
  • Đau đầu dữ dội, nhầm lẫn, nói líu lưỡi, yếu nặng, nôn mửa, mất khả năng phối hợp, cảm giác không vững;
  • Phản ứng nghiêm trọng của hệ thần kinh với các cơ cứng, sốt cao, đổ mồ hôi, nhầm lẫn, tim đập nhanh hoặc không đều, run rẩy và cảm giác như sắp ngất;
  • Các triệu chứng mắt nghiêm trọng bao gồm mờ mắt, nhìn hình ống, đau hoặc sưng mắt, hoặc nhìn thấy hào quang quanh các nguồn sáng.

Liều dùng của aducanumab là gì?

Dung dịch tiêm

  • 100 mg/mL (lọ đơn liều 1,7 mL, 3 mL)

Người lớn:

Bệnh Alzheimer

  • Chỉ định điều trị bệnh Alzheimer
  • Tiêm truyền tĩnh mạch (IV) mỗi 4 tuần, ít nhất cách nhau 21 ngày
  • Bắt đầu điều trị ở bệnh nhân bị suy giảm nhận thức nhẹ hoặc giai đoạn sa sút trí tuệ nhẹ, nhóm bệnh nhân được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng
  • Không có dữ liệu về an toàn hoặc hiệu quả khi bắt đầu điều trị ở các giai đoạn sớm hơn hoặc muộn hơn của bệnh so với các giai đoạn đã được nghiên cứu

Lịch trình tăng liều

  • Tiêm truyền 1-2: 1 mg/kg IV mỗi 4 tuần một lần
  • Tiêm truyền 3-4: 3 mg/kg IV mỗi 4 tuần một lần
  • Tiêm truyền 5-6: 6 mg/kg IV mỗi 4 tuần một lần
  • Tiêm truyền từ 7 trở đi: 10 mg/kg IV mỗi 4 tuần một lần

Điều chỉnh liều

Suy thận hoặc suy gan:

  • Chưa có nghiên cứu nào được thực hiện để đánh giá dược động học ở bệnh nhân suy thận hoặc suy gan
  • Không dự kiến đào thải qua thận hoặc chuyển hóa qua enzyme gan.

Cân nhắc về liều dùng

Chụp cộng hưởng từ (MRI)

  • Trước khi bắt đầu điều trị: Cần chụp MRI não gần đây (trong vòng ít nhất 1 năm).
  • Trước lần truyền thứ 7 (liều đầu tiên 10 mg/kg) và lần truyền thứ 12 (liều thứ 6 10 mg/kg).
  • Khuyến nghị tăng cường theo dõi lâm sàng nếu phát hiện ARIA-H nặng trên hình ảnh X-quang.
  • Nếu phát hiện 10 hoặc nhiều hơn các xuất huyết vi thể mới hoặc hơn 2 khu vực lắng đọng hemosiderin bề mặt (abnormalities liên quan đến amyloid nặng do lắng đọng hemosiderin [ARIA-H]), tiếp tục điều trị thận trọng chỉ sau khi đánh giá lâm sàng và có MRI theo dõi cho thấy sự ổn định hình ảnh (ví dụ: không tăng kích thước hoặc số lượng ARIA-H).

Trẻ em:

  • Chưa có nghiên cứu về an toàn và hiệu quả.

Thuốc nào tương tác với aducanumab?

Thông báo cho bác sĩ biết về tất cả các loại thuốc bạn đang sử dụng, người có thể tư vấn về các tương tác thuốc có thể xảy ra. Không bao giờ bắt đầu, ngừng đột ngột hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ loại thuốc nào mà không có sự khuyến cáo của bác sĩ.

Aducanumab không có tương tác nghiêm trọng với các loại thuốc khác.
Các tương tác trung bình của aducanumab bao gồm:

  • Efgartigimod alfa

Aducanumab không có tương tác nhẹ với các loại thuốc khác.

Danh sách tương tác thuốc trên không phải là tất cả các tương tác hoặc tác dụng phụ có thể xảy ra. Để biết thêm thông tin về tương tác thuốc, hãy truy cập Bộ Kiểm Tra Tương Tác Thuốc của RxList.

Điều quan trọng là luôn thông báo cho bác sĩ, dược sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe về tất cả các loại thuốc kê đơn và không kê đơn mà bạn đang sử dụng, cũng như liều lượng của từng loại, và giữ một danh sách các thông tin đó. Kiểm tra với bác sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về loại thuốc.

Mang thai và cho con bú

  • Hiện chưa có đủ thông tin về việc sử dụng aducanumab ở phụ nữ mang thai để xác định nguy cơ gây dị tật bẩm sinh lớn, sẩy thai hoặc tác động bất lợi đối với mẹ hoặc thai nhi.
  • Không có thông tin về sự hiện diện của aducanumab trong sữa mẹ, hoặc ảnh hưởng của nó đến quá trình sản xuất sữa và đứa trẻ đang bú. Dữ liệu từ các kháng thể đơn dòng khác cho thấy sự truyền qua sữa mẹ ở mức thấp và mức độ phơi nhiễm của trẻ bú mẹ là hạn chế.
  • Quyết định cho con bú nên dựa trên nhu cầu lâm sàng của người mẹ đối với aducanumab, lợi ích của việc cho con bú đối với trẻ và nguy cơ tiềm ẩn đối với trẻ từ việc phơi nhiễm với thuốc hoặc tình trạng bệnh của người mẹ.

Tôi cần biết thêm điều gì về aducanumab?

  • Hãy thông báo ngay cho bác sĩ nếu bạn gặp phải các triệu chứng quá mẫn như phát ban (mề đay) hoặc sưng mô dưới da hoặc màng nhầy (phù mạch).
  • Thông báo ngay cho bác sĩ nếu bạn gặp các triệu chứng như nhầm lẫn, chóng mặt, đau đầu, thay đổi thị giác, buồn nôn, khó khăn khi đi lại, co giật hoặc các triệu chứng thần kinh khác.

Tóm tắt

Aducanumab là một loại thuốc dùng để điều trị bệnh Alzheimer, một bệnh não tiến triển gây suy giảm trí nhớ và các chức năng tâm thần khác, dẫn đến suy giảm nhận thức và sa sút trí tuệ. Dữ liệu từ các thử nghiệm lâm sàng cho thấy sự giảm các mảng amyloid beta ở bệnh nhân được điều trị bằng aducanumab. Các tác dụng phụ thường gặp của aducanumab bao gồm bất thường hình ảnh liên quan đến amyloid kèm phù nề (ARIA-E), xuất huyết vi thể ARIA-H, lắng đọng hemosiderin bề mặt ARIA-H, tràn dịch sulcal ARIA-E, đau đầu, ngã, tiêu chảy, nhầm lẫn, mê sảng, thay đổi trạng thái tinh thần và mất định hướng.

Kỹ thuật nội soi dạ dày tá tràng

1. Lịch sử:

Có thể coi năm 1886 là một năm phát minh ra máy soi dạ dày: Kussmaul đã đưa vào dạ dày của một người làm xiếc thường biểu diễn tiết mục nuốt kiếm một ống soi kim loại có đường kính 13mm. Kussmaul đã chứng minh rằng người ta có thể quan sát được dạ dày bằng ống soi thẳng.

Nhưng người thực sự đầu tiên sáng lập ra soi dạ dày là Miculicz. Năm 1881 Mikulicz qua soi dạ dày đã mô tả được chi tiết niêm mạc của dạ dày. Từ đó về sau nhiều nhà nghiên cứu đã tìm cách hoàn thiện hơn nữa ống soi dạ dày nhưng không đạt kết quả mong muốn.

Năm 1923 Schildler xuất bản tài liệu soi dạ dày với những hình ảnh màu, góp phần làm cho kỹ thuật soi dạ dày phát triển hơn trước. Tuy vậy người ta vẫn dùng ống soi cứng. Cho nên kỹ thuật soi dạ dày luôn làm cho người bệnh lo ngại vì dễ thủng thực quản .

Tới năm 1932 với sự phát minh ra ống soi dạ dày nửa cứng nửa mềm của Wolf và Schindler soi dạ dày mới được sử dụng rộng rãi hơn trước.

Nhưng thực sự phải đến năm 1958 (90 năm sau) với việc phát minh ra các sợi thuỷ tinh mềm của Hirschowitz dẫn tới kỹ thuật truyền ánh sáng qua chùm sợi thuỷ tinh mềm, một loại máy nội soi sợi mềm dòng ánh sáng lạnh, trong đó có máy soi dạ dày. Nhật Bản là nước có công lao lớn hoàn thiện tối ưu máy soi dạ dày.

ở Việt Nam vào những thập kỷ 60 còn dùng loại máy nửa cứng nửa mềm. Nhưng vào thập kỷ 70 máy soi mềm ánh sáng lạnh của Nhật Bản được đưa vào Việt Nam: viện 108, 103, bệnh viện Bạch Mai, viện E, Việt Nam – Cu Ba. Cho tới nay hầu hết các bệnh viện lớn đã và đang sử dụng máy soi dạ dày ống mềm.

2.   Kỹ thuật:

2.1.   Chuẩn bị:

Chuẩn bị máy soi:

  • Kìm sinh thiết, kìm lấy dị vật, kìm cắt polip và một số dụng cụ khác, tuỳ theo mục đích của cuộc soi.
  • Máy ảnh, máy quay phim nếu có.
  • Máy có thị kính nhìn bên, hoặc nửa bên: quan sát dễ dàng hơn một vùng của dạ dày, làm được những kỹ thuật chụp mật – tụy ngược dòng qua nội soi nhưng lại hạn chế trong soi thực quản
  • Máy soi có thị kính nhìn thẳng: quan sát được thực quản, dạ dày tá tràng.

Chuẩn bị bệnh nhân:

  • Cần được khám kỹ về lâm sàng, X-quang, sinh hoá để có chỉ định soi đúng đắn.
  • Ba ngày trước khi soi, bệnh nhân không được dùng thứ thuốc gì có khả năng bám vào niêm mạc dạ dày như: baryt, bismuth
  • Chiều hôm trước khi soi ăn nhẹ, sáng hôm soi nhịn ăn, nhịn uống.
  • Nếu bệnh nhân có hẹp môn vị, sáng sớm hôm soi phải rửa và hút dịch dạ dày.
  • 15 phút trước khi soi, tiêm Atropin sulphat 1/2mg dưới da, gây tê họng bằng bơm Xylocain và Lidocain 10%.
  • Để bệnh nhân nằm nghiêng trái, đầu gối vừa phải, nới cúc áo, đai quần.
  • Động viên bệnh nhân kiên nhẫn làm theo yêu cầu của thầy thuốc.

2.2.   Tiến hành soi:

Có 2 thì chủ yếu:

  • Từ từ lút ống soi quan sát ngược lại TT – Đ -TQ (thì 2)
  • Chuyển vận máy soi quan sát thực quản, dạ dày, tá tràng (thì 1)

Thì 1:

  • Đặt đầu máy soi vào miệng, hầu họng đẩy nhẹ máy soi ngược xuống thực quản. Bảo bệnh nhân làm động tác nuốt để máy soi qua dễ dàng lỗ trên của thực quản. Vừa từ từ đẩy máy soi (bao giờ cũng dưới sự kiểm tra của mắt người soi) lần lượt quan sát bộ thực quản, tâm vị, dạ dày, môn vị và tá tràng.
  • Yêu cầu của lần soi này là:
  • Nếu cần ghi lại hình ảnh, quay phim thì ghi ngay trong thì 1 này vì những hình ảnh ghi được mang tính chất trung thực tự nhiên nhất.
  • Sơ bộ nắm được hình ảnh trung và các tổn thương chủ yếu của phần ống soi đi

Thì 2:

  • Yêu cầu của lần này là:
  • Quan sát kỹ hơn, mô tả chi tiết từng vùng, nhất là các tổn thương.
  • Chú ý những vùng khó soi và dễ bỏ sót thương tổn như vùng phình vị lớn…
  • Tiến hành sinh thiết hoặc cắt
  • Cụ thể là:

+ Tá tràng: niêm mạc thể nào, tổn thương mặt trước, mặt sau của HTT.

+ Lỗ môn vị:

  • Hình thể ngoài: tròn hay không?
  • Nhu động: đều đặn, khép kín, có hay không có phản hồi mật?
  • Màu sắc.

+ Vùng hang vị:

  • Màu sắc niêm mạc
  • Tình trạng các nếp niêm mạc

+ Thân dạ dày: cũng quan sát như vùng hang vị song bao giờ cũng phải xem kỹ hai mặt của dạ dày, bờ cong nhỏ, bờ cong lớn.

+ Lỗ tâm vị:

+ Cuối cùng là thực quản: niêm mạc tình trạng các mạch máu?

3.   Chỉ định và chống chỉ định:

3.1.   Chỉ định:

Một số bệnh của thực quản:

  • Viêm thực quản
  • Giãn tĩnh mạch thực quản
  • U ở thực quản
  • Bệnh to thực quản
  • Loét thực quản

Bệnh của tâm vị:

  • Hẹp tâm vị do loét hoặc do u tâm vị.
  • Hẹp tâm vị do co thắt cơ năng

Bệnh ở dạ dày:

  • Viêm dạ dày cấp.
  • Viêm dạ dày mạn thể teo đét, thể phì đại.
  • Loét dạ dày có thể ở nhiều vùng khác nhau: BCN, BCL thành trước hoặc thành sau dạ dày, tiền môn vị, phình vị lớn dạ dày.
  • Ung thư dạ dày kèm theo loét hoặc không.
  • Polip dạ dày.
  • Viêm loét miệng nối sau cắt đoạn dạ dày.
  1. Hẹp môn vị do các nguyên nhân
  2. Viêm loét hành tá tràng
  3. Soi dạ dày tá tràng cấp cứu:
  • Soi trong XHI’H để xác định vị trí, mức độ tổn thương để có thái độ điều trị thích hợp.

3.2.   Chống chỉ định:

  • Bệnh nhân có dấu hiệu thủng dạ dày, tá tràng.
  • Bệnh nhân đang có suy hô hấp, tim mạch nặng do các nguyên nhân khác nhau.
  • Bệnh nhân không chịu hợp tác: bệnh tâm thần.

4.   Các tai biến:

a.   Thủng thực quản:

  • Vị trí thủng: ở thực quản cổ ngực (nguy hiểm nhất) hoặc phần trên dạ dày
  • Nguyên nhân: khó xác định có thể:

+ Thao tác soi thô bạo, người soi thiếu kinh nghiệm.

+ Bệnh nhân giẫy giụa trong lúc soi.

+ Loại ống soi cứng, nửa cứng.

+ Tổn thương niêm mạc có từ trước khi soi.

  • Tiên lượng:

+ Nếu không phát hiện kịp thời mổ cấp cứu tổn thương thủng thực quản sẽ dẫn tới tử vong.

+ Biến chứng thủng thực quản không mổ là viêm mủ trung thất.

  • Chẩn đoán: nếu nghi ngờ có thủng thực quản khi:

+ Sau soi BN đau ở cổ, nuốt nghẹn ngày càng tăng.

+ Có tràn khí dưới da ở đáy cổ.

+ Cần chụp phổi để chẩn đoán.

b.   Thủng dạ dày, tá tràng:

Có thể xảy ra khi đẩy mạnh đầu ống soi đã bị các nếp niêm mạc gấp của dạ dày chùm lên, hoặc chỗ nối giữa tổ chức lành với tổ chức bệnh thủng ra khi bơm hơi vào dạ dày. Thủng dạ dày tá tràng gây viêm phúc mạc có thể tử vong nếu không phát hiện sớm và sử lý sớm.

c.   Chảy máu:

  • Chảy máu thực quản: do ống soi cọ sát làm giãn vỡ tĩnh mạch, do viêm. Tai biến này xảy ra thường nặng, khó xử lý.
  • Chảy máu ở dạ dày – tá tràng: do đầu ống soi chọc vào ổ loét sâu hoặc do làm sinh thiết.

d.   Tai biến ít gặp:

  • Tai biến hô hấp: khi soi dạ dày trong cấp cứu XHTH máu có thể trào ngược vào khí quản, gây suy hô hấp.
  • Tai biến tim mạch: có thể xảy ra nhồi máu cơ tim nếu BN cao tuổi đã có tai biến mạch vành.

Các tai biến kể trên ta có thể tránh được nếu tiến hành soi nhẹ nhàng, tuân thủ đúng kỹ thuật.

5.   Hình ảnh nội soi bình thường:

Thực quản: khi soi thấy thực quản là một ống thẳng ,hơi eo ở đoạn cổ và đoạn ngực. Sóng nhu động từ trên xuống dưới rất đều đặn, mềm mại. Niêm mạc thực quản màu hồng nhạt và nhẵn bóng.

Tâm vị: là một lỗ tròn, rộng, đóng kín và mở to rất đều đặn, mềm mại. Niêm mạc màu hồng, thường có màu đỏ hơn niêm mạc thực quản (dấu hiệu nhận biết là tâm vị).

Dạ dày:

  • Khi soi thấy dạ dày là một túi lớn mà phần đứng rộng hơn phần ngang. Quan sát thấy sóng nhu động chạy từ phần thân xuống phần hang vị một cách đều đặn, mềm mại.
  • Niêm mạc dạ dày màu hồng, nhẵn bóng. Khi bơm hơi, thường chỉ có thấy niêm mạc ở phần thân dạ dày. Phần hang vị, nếp niêm mạc mờ đi hoặc có khi chỉ là một mặt phẳng.
  • Giữa thân vị và hang vị được giới hạn bởi góc dạ dày (thuộc bờ cong nhỏ) là nơi hay xảy ra tổn thương loét nhất khi soi cần chú ý.

– Bờ cong nhỏ và bờ cong lớn: BCN có phần đứng và phần ngang, niêm mạc nhẵn, màu hồng nhạt. Trái tại BCL có nhiều nếp niêm mạc rõ rệt nhất là vùng thân vị.

Môn vị: là một lỗ tròn, đường kính khoảng l- l,5cm. Đóng mở đều đặn mềm mại.

Tá tràng:

Đoạn 1 tá tràng (thường gọi là HTT) là đoạn tá tràng phình to nhất, nối tiếp sau môn vị. Niêm mạc hồng nhẵn khi đã có bơm hơi thường không nhìn thấy nếp niêm mạc. Khi có nhu động thấy niêm mạc mỏng và mềm mại. Đoạn 2 tá tràng cũng màu hồng nhẵn thường có nếp niêm mạc chạy ngang. Nếu soi sâu hơn một chút ta sẽ thấy núm bóng Vanter.

6.   Hình ảnh bệnh lý:

Thực quản: Có thể thấy viêm loét, u, sùi. Thấy các vòng nổi tĩnh mạch giãn, ngoằn nghèo, vỡ chảy máu.

Hẹp tâm vị:

  • Hẹp tâm vị khi soi thấy rất dễ dàng: thường thấy lỗ tâm vị hẹp và không đóng mở, kèm theo giãn to thực quản đoạn trên.
  • Điều quan trọng mà nội soi phải xác định cho được là nguyên nhân gây hẹp. Thông thường thấy được:

+ Hình ảnh loét hoặc u ở tâm vị .

+ U ở thực quản hoặc u ở phình vị lớn thâm nhiễm đến làm hẹp tâm vị .

+ Chít hẹp tâm vị cơ năng: trong trường hợp này thấy vùng tâm vị không có, loét, niêm mạc vẫn bình thường.

Tổn thương tại dạ dày:

  • Viêm dạ dày thường gặp một số hình ảnh sau:
  • Viêm dạ dày nông (viêm dạ dày cấp):

+ Niêm mạc dạ dày xung huyết đỏ. Hình ảnh này có thể khu trú hoặc lan toả.

+ Có khi nhìn thấy những chấm xuất huyết mọc lấm tấm hoặc những vết xước hoặc trợt nông ở niêm mạc. Lác đác có đốm xuất huyết cũ có thể thành đám hoặc rải rác khắp niêm mạc dạ dày. Niêm mạc rất dễ chảy máu khi chạm đầu ống soi vào.

  • Viêm dạ dày mạn lành, phì đại:

+ Các niêm mạc bị cương máu to hơn bình thường không đều nhau, có hình giống như các hồi não. Các nếp niêm mạc này không mất đi khi bơm hơi vào dạ dày.

+ Hoặc các niêm mạc không có màu hồng mà chuyển thành màu da cam nâu nhạt, hoặc màu vàng nâu nhạt, hoặc màu đỏ xẫm.

  • Viêm teo dạ dày: niêm mạc dạ dày trở nên nhợt nhạt, các nếp niêm mạc mất đi. Ngoài ra còn có thể nhìn thấy lưới mạch máu nhỏ nổi lên rất rõ (ở niêm mạc dạ dày bình thường không thấy được).
  • Loét dạ dày:

Thường loét hay xảy ra ở vùng hang vị, bờ cong nhỏ, ổ loét có thể hình tròn hoặc hình bầu dục, đường kính ổ loét có thể to, nhỏ khác nhau. bờ ổ loét rõ rệt đều đặn, nhẵn, thành ổ loét có độ dốc thoai thoải. Đáy ổ loét thường sạch hoặc phủ một lớp nhầy trắng nhạt. Đáy của ổ loét không ngang hoặc vượt bờ của ổ loét, niêm mạc xung quanh ổ loét thường hơi phù nề, xung huyết, có thể có lớp niêm mạc qui tụ.Vùng có ổ loét sóng nhu động vẫn mềm mại. (Điểm nghi ngờ có ổ loét: qua ống soi bơm lên điểm có chất xanh metylen, nếu không có loét chất xanh metylen sẽ trôi tuột đi, nếu có ổ loét chất xanh metylen đọng lại. Nếu ổ loét có nhiều nhầy phủ, khó xác định bản chất, qua ống soi bơm nước cất vào rửa để thấy rõ bản chất hơn)., Nội soi phân biệt ổ loét lành tính hay ác tính dựa vào:

Lành tính-        Hình thể: tròn, bầu dục đều-        Đáy: sạch, có thể có ít fibrin

–        Bờ: đều, tròn, phẳng với niêm mạc

 

–        Không chảy máu, hoặc có ít ở đáy

–      Nếp niêm mạc đến sát bờ ổ loét

–        Nhu động còn mềm mại

ác tính- Hình méo mó, không đều- Đáy bẩn, có tổ chức hoại tử

– Bờ nham nhở, gờ cao hơn niêm mạc xung quanh không có gờ cao   xung quanh

– Thường chảy máu từ bờ ổ loét

– Nếp niêm mạc đến cách xa bờ ổ loét

– Nhu động đã kém hoặc mất hẳn

 

, Tiên lượng qua hình ảnh nội soi:

  • ổ loét tròn: thường gặp, điều trị có kết quả tốt (tuỳ kích thước độ nông sâu của ổ loét).
  • ổ loét méo mó, hình tam giác, hình sao thường có thêm niêm mạc dày qui tụ thường mạn tính điều trị chậm hơn .
  • ổ loét thẳng: (20% loét HTT) một vết loét dài 5 – 20mm đáy đóng fibrin và chất hoại tử, đây là thể mạn tính lâu nhất. Điều trị nội dai dẳng 2 tháng liên tục chỉ dưới 25% liền sẹo.
  • ổ loét Salami: là những vết loét nhỏ và nông hoặc những vết xước tập trung trên 1 nền viêm xung huyết thường thấy ở thời kỳ tái phát sau khi loét đã lành. Kết quả điều trị nhanh chóng. Sau 2 tháng điều trị 75% liền sẹo.
  • Ung thư dạ dày:
  • Thể loét: ổ loét không đều màu hồng trắng nhạt hoặc hồng nhạt, bờ gồ ghề có những đoạn không rõ rệt, gián đoạn hoặc mất đi. Thành thẳng đứng, có khi ổ loét như một hầm trú ẩn đáy bẩn trắng xám có mủ máu. Đáy ổ loét có chỗ ngang hoặc cao hơn bờ ổ loét, có thể có những cục nhỏ ở đáy ổ loét. Các nếp niêm mạc mất đi cách xa ổ loét. Nhu động của dạ dày ngừng lại trong vùng có ổ loét hoặc có hiện tượng tăng sinh phì đại thành những cục lớn, hiện tượng tăng tưới máu dữ dội.Vùng có ổ loét và vùng xung quanh cứng.
  • Thể sùi:

+ Lúc đầu khối u có thể nhỏ màu sắc ít thay đổi, trong trường hợp này dễ bị bỏ qua.

+ Chậm hơn ta thấy các khối u dạng polip cuồn cuộn nằm sát nhau, to nhỏ không đều. Trên mặt các khối u có thấy dịch tiết, chất bẩn hoặc xung huyết đỏ rực, do tăng tưới máu dữ dội.Thành dạ dày ở vùng có khối u thường cứng, cứng thành mảng (khi đặt đầu kìm sinh thiết và khẽ đẩy thấy cả màng thành dạ dày di động).

  • Thể thâm nhiễm: thâm nhiễm có thể toả lan hoặc khu trú. Nhiều khi hiện tượng xâm nhiễm xảy ra ở hang vị, làm cho hang vị trở thành một ống cứng. Nếu lan toả rất khó bơm hơi đầy đủ vào dạ dày, do đó không soi được dạ dày. Niêm mạc dạ dày trong ung thư thâm nhiễm, nhợt nhạt, mất bóng, dày lên, trông rất thô. Sóng nhu động hoàn toàn mất ở vùng có ung thư thâm nhiễm (việc chẩn đoán ung thư thể này thường dễ nhầm lẫn và bỏ sót, cần phải sinh thiết nhiều mảnh mới chẩn đoán được).

d.   Loét hành tá tràng:

Đại đa số loét HTT xảy ra ở thành trước, nhưng cũng có khi ở thành sau hoặc thành bên. Nếu là ổ loét mới hoặc ổ loét đang hoạt động, ta sẽ thấy ổ loét có nhầy trắng đục phủ xung quanh ổ loét, bao giờ cũng có hiện tượng xung huyết và phù nề mạnh biến dạng HTT. Nếu là ổ loét lâu năm ngoài những hình ảnh trên ta còn thấy hình ảnh nếp niêm mạc qui tụ xung quanh.

e.   Hẹp môn vị:

Môn vị có thể hẹp từng mức độ: có khi hẹp vừa, có khi hẹp khít không đút được ống soi qua bên HTT. Lỗ môn vị hẹp thường không đóng mở, do bị viêm xơ cứng. Nguyên nhân có thể do loét ở bên HTT, hoặc u tiền môn vị gây nên. Hình ảnh gián tiếp của hẹp môn vị là dạ dày giãn to.

Một số kỹ thuật thường được tiến hành kết hợp qua máy soi dạ dày – tá tràng:

  1. Chụp ảnh, quay phim, truyền hình qua nội soi.
  2. Sinh thiết niêm mạc, cắt polip trong dạ dày – tá tràng qua nội soi: phải có một máy cắt điện kèm theo máy nội soi.
  3. Lấy dị vật trong dạ dày – tá tràng: vẫn soi dạ dày như bình thường, khi phát hiện thấy dị vật dùng một kìm sinh thiết có hàm dài hoặc có thòng lọng ở đầu ngoạm chặt hoặc thít chặt lấy dị vật và kéo ra ngoài.
  4. Chụp mật, tụy ngược dòng:

Phải dùng máy soi tá tràng nhìn bên hoặc nửa bên. Khi soi đến tá tràng đoạn II tìm bóng Vater qua máy soi luồn một ống nhựa nhỏ qua bóng Vater, bơm thuốc cản quang vào ống tụy, sau đó đẩy ống nhựa lên đường mật, bơm thuốc cản quang, sau cùng đưa bệnh nhân chụp X.quang.

  1. Lấy sỏi trong ống mật chủ qua nội soi:

Cũng phải dùng máy nhìn bên. Khi tìm thấy bóng Vatet dùng kìm đặc biệt đầu cắt bóng Vater để mở rộng. Sau đó luồn qua máy soi một loại kìm đặc biệt, đầu có thòng lọng hình múi khế, đẩy qua bóng Vater vào ống mật chủ, nơi có viên sỏi. Tìm cách lựa để lồng viên sỏi mật vào trong đầu có thòng lọng hình múi khế nói trên, cố định viên sỏi ở đầu kìm, sau đó kéo viên sỏi ra cùng với máy soi.

  1. Dùng dây dẫn đưa năng lượng laser qua máy soi vào dạ dày hoặc tá tràng để điều trị ổ loét. Hiện nay nhiều nước trên thế giới đang phát triển kỹ thuật này, kết quả rất khả quan.

Ngày nay:

  • Đầu ống soi gắn đầu dò siêu âm
  • Soi dạ dày có bơm chất màu: Test đỏ Congo

Test xanh methylen

  • Phẫu thuật qua ống nội soi với dạ dày giai đoạn sớm.

Cơn Tăng huyết áp cấp cứu và khẩn cấp

Cơn Tăng huyết áp cấp cứu và khẩn cấp

Tăng huyết áp cấp cứu khi tăng huyết áp trầm trọng (> 180/120 mmHg) kèm theo dấu hiệu biến chứng rối loạn chức năng cơ quan đích sắp xảy ra hay đang tiến triển. Cần làm giảm huyết áp ngay (không nhất thiết phải đưa về mức bình thường) để phòng ngừa và hạn chế tổn thương cơ quan đích.

Một số ví dụ như bệnh não tăng huyết áp, xuất huyết trong não, nhồi máu cơ tim cấp tính, suy thất trái cấp tính kèm phù phổi, đau thắt ngực, phình động mạch chủ bóc tách hay sản giật.

Tăng huyết áp khẩn cấp là những tính huống lên quan với việc tăng huếyt áp trầm trọng không có rối loạn chức năng cơ quan đích tiến triển. Một số ví dụ như tăng huyết áp giai đoạn II kèm đau đầu trầm trọng, kho 1thở động kinh hay bứt rứt không yên.

Đa số các bệnh nhân này có điều trị tăng huyết áp nhưng không tuân thủ hoặc dùng liều không đủ, thương không có hoặc có rất ít dấu hiệu tổn thương cơ quan đích.

Các thuốc thường dùng đường tĩnh mạch hiện nay là Nicardipine, Nitroglycerine, Enalapril và Labetalol.

Bảng 22. Điều trị tăng huyết áp cấp cứu và khẩn cấp

Thuốc (đường tiêm)

Thuốc Liều Thời gian bắt đầu Thời gian kéo dài Ứng tác bất lợi Chỉ định đặc biệt
Dãn mạch Sodium ni‒
troprusside
0,25 ‒ 10mg/kg mỗi phút TTM
(liều tối đa chỉ phút)
Tức thì 1‒2 phút Buồn nôn, nôn, giật cơ, đổ mồ hôi, nhiễm độc thiocyanate và
cyanide
Hầu hết các Tăng huyết áp cấp cứu, cẩn thận khi áp lực nội sọ cao hoặc tăng ure máu.
Nicardipine 5‒1.5mg/giờ TM 5‒10 phút 1‒4 giờ Nhịp nhanh, nhức đầu, đỏ mặt viêm tĩnh mạch khu trú Hầu hết Tăng huyết áp cấp cứu trừ suy tim cấp; cần thận khi thiểu năng vành.
Fenoldopan mesylate
Nitroglycerin
0,1 ‒ 0,3 mg/kg mỗi phút 5100mg/phút
TTM (**)
< 5 phút
2‒5 phút
30 phút
3‒5 phút
Nhịp nhanh, nhức đầu, buồn nôn, đỏ mặt. Nhức đầu, ói mửa,
Methemoglobine máu, dung nạp
thuốc khi dùng lâu
Hầu hết Tăng huyết áp cấp cứu trừ tăng nhãn áp. Thiếu máu cơ
tim
Enalaprilat 1,25 ‒ 5mg mỗi giờ 6 TM 15 ‒ 30
phút
6 giờ Tụt huyết áp khi renin cao; đáp ứng thay
đổi
Suy thận trái cấp; tránh trong Nhồi máu cơ tim
cấp
Hydralazine 0 ‒ 20mg TM
10 ‒ 50mg TB
10 ‒ 20 phút
20‒30 phút
3‒8 giờ Nhịp nhanh, đỏ mặt, nhức đầu, ói mửa, làm nặng đau thắtt ngực. Buồn nôn đỏ mặt, nhịp nhanh đau ngực Co giật
Diazoxide 50 ‒ 100mg TM nhắc lại hoặc TTM 15‒30 phút 2 ‒ 4 phút 6 ‒ 12 giờ Hiện nay ít dùng do không có phương tiện theo dõi chặt chẽ
Ức chế giao
cảm Labetalol
20‒80mg TM
mỗi 10 phút 0,5‒
2mg/phút TTM
5 ‒ 10
phút
3 ‒ 6 giờ Ói mửa, ngứa da đầu, nóng cổ họng, chóng mặt, buồn nôn, bloc tim, tụt huyết áp tư thế Hầu hết Tăng huyết áp cấp
cứu trừ suy tim cấp
Esmolol 250‒500 mg/kg phút cho 1 phút sau đó 50‒100 mgkg/phút cho 4 phút, có thể
lặp lại
1‒2 phút 1‒2 phút Tụt HA, buồn nôn Bóc tách ĐM chủ sau phẫu thuật.
Phentolamine 5‒15 mg TM 1‒2 phút 3‒10 phút Nhịp nhanh, đỏ
mặt, nhức đầu
Thừa catecholamin

Trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam không phải lúc nào cũng có thể nhanh chóng giải quyết các cơn Tăng huyết áp tối cấp bằng thuốc tiêm, vì vậy có thể sử dụng các loại thuốc sau đây với điều kiện là cho liều lượng thích hợp và theo dõi huyết áp liên tục để hạ huyết áp trong 2 giờ đầu không quá 25% mức huyết áp ban đầu (HA trung bình) và 2‒6 giờ sau đạt mức huyết áp 160/100 mmHg. (1).

‒ Nitroglycerine: xịt hoặc ngậm dưới lưỡi: 0.4mg, 0.8mg, 0.12mg. (13, 17)

‒ Captopril ngậm dưới lưỡi: 6.5mg ‒ 50mg, tác dụng sau 15’. ‒ Clonidine: 0,2mg ‒ 0,8mg (tác dụng sau 80’)

‒ Labetalol: 100 ‒ 200mg (tác dụng sau 30’) (Kaplan 1998)

Riêng đối với Nifedipine viên nhộng 10mg, có thể dung dưới dạng nhỏ giọt (từ 1 đến 3 giọt), nhưng cần theo dõi chặt chẽ, có thể lập lại nếu cần. Không nên cho cắn ngậm nguyên cả viên 1 lần.

Tác dụng chữa bệnh của Quả cau và hạt cau

Cây cau thân hình trụ cao 10-15m, lá mọc chụm ở ngọn cây. Lá to xẻ lông chim, có bẹ to ôm lấy cây. Cụm hoa lớn phân nhánh, hoa đực có mùi thơm, ở trên, hoa cái ở dưới. Quả cau hình trứng khi non có màu xanh, lúc già có màu ngà, có chứa hạt tròn. Quả cau được dùng để ăn trầu và dùng làm thuốc chữa bệnh.

Theo Đông y, vỏ quả cau có vị ngọt, hơi the, tính ấm. Tác dụng thông khí hành thủy, chữa thủy thũng cước khí, bụng đầy chướng. Hạt quả cau có vị cay, đắng, chát, tính ấm, tác dụng tiêu tích hành thủy sát trùng, trừ giun sán, kích thích tiêu hóa, chữa viêm ruột, tiêu chảy, chốc đầu.

Vỏ quả cau có vị ngọt, hơi the, tính ấm. Tác dụng thông khí hành thủy
Vỏ quả cau có tác dụng thông khí hành thủy

Bài thuốc chữa bệnh từ hạt cau:

Bài 1. Thuốc chữa bệnh chốc đầu

+ Hạt cau                              30g

+ Mật lợn                              10ml

Hạt cau phơi khô tán bột, cho vào mật lợn, trộn đều; chỗ đau rửa sạch bằng nước chè tươi đặc, sau đó bôi thuốc lên trên. Ngày bôi một lần. cần bôi liền 11 ngày.

Bài 2. Thuốc chữa bệnh sốt rét

+ Hạt cau 20g
+ Thường sơn 6g
+ Thảo quả 1g
+ Cát căn 4g

Các vị thuốc rửa sạch cho vào nồi cùng 600ml nước sắc kỹ, khi còn 200ml chắt lấy nước đặc. Người bệnh chia 3 lần uống trong ngày trước khi ăn. cần uống liền 7-9 ngày.

Bài 3. Thuốc chữa bệnh đầy hơi chướng bụng

+ Hạt cau 5g

+ Sơn tra 10g

Cả hai thứ rửa sạch, cho vào nồi cùng 400ml nước đun sôi kỹ, chắt lấy 180ml nước đặc. Người bệnh uống ngày một thang chia 3 lần uống trước khi ăn mỗi lần 60ml nước thuốc, cần uống liền 9 ngày.

Bài 4. Thuốc chữa bệnh đau bụng

+ Hạt cau                              5g

+ Hắc sửu                            4g

+ Mộc hương                        4g

+ Nhân trần                          5g

+ Tạo giác                            ‘3g

Các vị thuốc sấy khô, tán bột mịn, luyện viên bằng nước cháo đặc, viên to như hạt ngô phơi khô, ngày uống 3 lần trước khi ăn, mỗi lần 10 viên với nước sôi để nguội, cần uống 5 ngày liền.

Bài 5. Thuốc tẩy giun đũa

+ Hạt cau                              15g

+ Vỏ lựu                                9g

+ Hạt bí đỏ                           9g

Các vị thuốc giã dập, cho vào nồi cùng 400ml nước sắc lấy 200ml nước đặc. Người bệnh chia 3 lần uống trong ngày, trước khi ăn. Cần uống 2-3 ngày.

Hạt cau trong dược liệu chữa bệnh
Hạt cau trong dược liệu chữa bệnh

Bài 6. Thuốc chữa chân đùi sưng đau

+ Hạt cau 12g
+ Mộc qua 9g
+ Trần bì 4,5g
+ Cát cánh 6g
+ Gừng 6g
+ Tía tô 3g

Các vị thuốc rửa sạch, cho vào nồi cùng 500ml nước, đun sôi kỹ, chắt lấy 180ml nước đặc. Người bệnh uống ngày một thang chia 3 lần trước khi ăn, mỗi lần 60ml nước thuốc, uống liền 5-7 ngày là một liệu trình, cần uống 2-3 liệu trình. Thời gian nghỉ giữa các liệu trình là 5 ngày.

Bài 7. Thuốc chữa bệnh đại tiện khó

+ Hạt cau 6g
+ Chỉ thực 7g
+ Ô dược 5g
+ Mộc hương 6g

Các vị thuốc rửa sạch, cho vào nồi cùng 400ml nước, đun sôi kỹ, chắt lấy 150ml nước đặc. Người bệnh uống ngày một thang chia 3 lần uống trước khi ăn. cần uống 5-7 ngày.

Bài 8. Thuốc chữa chứng thấp gày, tiêu hóa kém, khí trệ

+ Hạt cau 12g
+ Đại phúc bì 9g
+ Hạnh nhân 9g
+ Phục linh bì 12g
+ Nhân trần 12g
+ Thần khúc 9g

Các vị thuốc rửa sạch, cho vào nồi cùng 500ml nước đun sôi kỹ, chắt lấy 200ml nước đặc. Người bệnh uống ngày một thang chia 3 lần trước khi ăn. cần uống liền 11 ngày.

Bài 9. Thuốc chữa bệnh chân sưng phù

+ Hạt cau 9g
+ Đại phúc bì 9g
+ Mộc qua 9g
+ Hạt cải củ 9g
+ Tang bạch bì 9g
+ Trầm hương 1.5g
+ Hạt tía tô 6g
+ Hoa kinh giới 6g
+ Ô dược 6g
+ Trần bì 6g
+ Lá tía tô 6g
+ Chỉ xác 6g
+ Gừng tươi 6g

Các vị thuốc rửa sạch, cho vào nồi cùng 500ml nước, đun sôi kỹ, chắt lấy 200ml nước đặc. Người bệnh chia đều 3 lần uống trong ngày, trước bữa ăn. cần uống liền 11 ngày.

Bài 10. Thuốc chữa bệnh viêm túi mật

+ Quả cau 10g

+ Sài hồ 10g

+ Bạch thược 20g

+ Uất kim 10g

+ Đơn bì 10g

+ Hoàng cầm 10g

+ Đại hoàng 10g

+ Chỉ thực 20g

+ Bán hạ 10g

+ Can khương 6g

+ Hạt củ cải 10g

+ Trần bì 10g

Các vị thuốc cho vào nồi cùng 600ml nước, đun nhỏ lửa cho sôi kỹ. Khi còn 300ml chắt lấy nước bỏ bã. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày, trước khi ăn. Cần uống liền 5 ngày.

Bài 11. Thuốc chữa bệnh phù thũng

+ Vỏ quả cau già 15g

+ Vỏ quả bí đao 15g

+ Tiêm mao 15g

+ Củ cải trắng 30g

+ Củ mã thầy 50g

Các vị thuốc cho vào nồi cùng 600ml nước đun nhỏ lửa cho thuốc nhừ. Khi còn 300ml chắt lấy nước bỏ bã. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày, trước khi ăn. cần uống liền 9 ngày.

Bài 12. Thuốc chữa bệnh táo bón

+ Quả cau tươi 15g

+ Khoai lang 30g

+ Gạo tẻ 50g

Quả cau tươi cắt nhỏ cho vào nồi, thêm 1000ml nước, đun nhỏ lửa cho cau nhừ. Khi còn 800ml nước cau, chắt lấy nước để dùng. Khoai lang rửa sạch cắt nhỏ cùng gạo tẻ cho vào nồi, cho nước cau vào đun nhỏ lửa thành cháo nhừ. Người bệnh ngày ăn một lần vào buổi sáng lúc đói. cần ăn liền 5 ngày.

Bài 13. Thuốc chữa ho

+ Quả cau tươi 15g
+ Gừng tươi 12g
+ Củ cải trắng 20g
+ Trần bì 12g
+ Mật ong 20ml

Quả cau tươi cắt nhỏ, gừng tươi giã dập, củ cải trắng rửa sạch cắt nhỏ, cùng trần bì cho vào nồi, thêm 600ml nước đun nhỏ lửa cho thuốc nhừ. Khi còn 300ml chắt lấy nước, bỏ bã. Cho mật ong vào nước thuốc quấy đều, đun lại thuốc sôi là được. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày sau khi ăn. Cần ăn liền 5 ngày.

Bài 14. Thuốc chữa bệnh trẻ em đi ỉa phân xanh

+ Hạt quả cau 5g
+ Cà rốt 50g
+ Vỏ quả lựu 5g
+ Gạo nếp rang vàng 30g
+ Mật ong 20ml

Cho hạt quả cau, cà rốt, vỏ quả lựu, gạo nếp rang vàng vào nồi cùng 450ml nước đun kỹ lấy 150ml nước đặc. Cho mật ong vào quấy đều, đun lại cho thuốc sôi. Chia 3 lần cho trẻ uống hết trong ngày trước khi ăn. cần ăn liền 5 ngày.