Blog Trang 479

Aloe là gì và được sử dụng cho mục đích gì?

Aloe Vera – Tên chung và thông tin sử dụng

Tên chung: Aloe

Tên thương hiệu và các tên khác: Aloe vera, Aloe arborescens natalenis, Aloe barbadensis, Aloe ferox, Aloe vulgari

Nhóm thuốc: Thảo dược

Aloe là gì và có công dụng gì?

Aloe là một loại cây mọng nước được trồng ở những vùng khô nóng. Lá aloe đã được sử dụng ở nhiều nơi trên thế giới từ hàng nghìn năm qua vì các tính chất về sức khỏe, làm đẹp, y học và chăm sóc da. Aloe có thể được dùng bằng miệng như một chất bổ sung dinh dưỡng, bôi trực tiếp lên da để giữ ẩm và điều trị bỏng nhẹ, vết thương, herpes môi và ngứa, đồng thời được sử dụng làm thành phần trong nhiều sản phẩm mỹ phẩm. Aloe cũng được dùng như một loại thuốc nhuận tràng và để điều trị viêm da do bức xạ.

Có hơn 400 loài aloe, nhưng loài được sử dụng phổ biến nhất là Aloe barbadensis miller. Lá aloe có cấu trúc thịt và có ba lớp: lớp vỏ xanh bên ngoài, một lớp nhựa latex màu vàng bên dưới và một lớp gel trong suốt ở giữa. Chiết xuất toàn bộ lá được sản xuất bằng cách nghiền nát toàn bộ lá, trong khi phần gel và latex có thể được chiết xuất riêng và sử dụng.

Aloe vera chứa 75 thành phần có thể hoạt động, bao gồm vitamin, enzyme, khoáng chất, đường, lignin, saponin, axit salicylic và axit amin. Aloe được cho là có nhiều tính chất khác nhau bao gồm tác dụng diệt nấm, kháng virus, kháng khuẩn, chống viêm, kháng khuẩn, nhuận tràng, điều chỉnh miễn dịch và tác dụng chống ung thư.

Người ta dùng gel aloe bằng miệng cho nhiều tình trạng như tiểu đường, viêm gan, thoái hóa khớp, các bệnh viêm ruột, đau, sốt, ngứa, viêm và để tăng cường sức khỏe chung. Latex aloe được dùng bằng miệng để điều trị táo bón. Gel aloe được bôi lên da để giảm đau, ngứa và viêm do nhiều tình trạng da khác nhau và để thúc đẩy quá trình lành vết thương. Aloe cũng được sử dụng như một hương liệu trong thực phẩm.

Mặc dù aloe đã được sử dụng rộng rãi cho nhiều mục đích khác nhau, nhưng vẫn chưa có đủ nghiên cứu khoa học để chứng minh tính an toàn và hiệu quả của nó trong nhiều ứng dụng. Các nghiên cứu cho thấy rằng việc sử dụng aloe có thể hiệu quả trong các tình trạng sau:

  • Viêm da tiết bã
  • Psoriasis (vảy nến)
  • Mụn trứng cá
  • Lichen planus
  • Bỏng da
  • Lành vết thương
  • Loét do áp lực
  • Viêm da do bức xạ
  • Viêm màng nhầy (mucositis)
  • Bị lạnh
  • Lở miệng
  • Herpes sinh dục
  • Nhiễm virus suy giảm miễn dịch ở người (HIV)
  • Táo bón
  • Viêm đại tràng loét
  • Tiểu đường loại 2
  • Phòng ngừa ung thư

Cảnh báo

  • Không sử dụng aloe nếu bạn bị dị ứng với các cây thuộc họ Liliaceae, chẳng hạn như hành, tỏi và tulip.
  • Không bôi aloe lên các vết cắt sâu và bỏng.
  • Không uống aloe nếu bạn có các vấn đề về ruột, bệnh tim, trĩ, vấn đề về thận, tiểu đường hoặc mất cân bằng điện giải.
  • Không dùng aloe trong thời gian dài.

Tác dụng phụ của aloe

Tác dụng phụ thường gặp của aloe bao gồm:

Bôi ngoài da:

  • Đỏ da
  • Cảm giác bỏng
  • Ngứa
  • Viêm da
  • Phản ứng dị ứng

Uống:

  • Co thắt bụng
  • Tiêu chảy
  • Kích ứng đường tiêu hóa
  • Tình trạng táo bón nặng hơn hoặc phụ thuộc
  • Nước tiểu đỏ
  • Viêm gan
  • Mất cân bằng điện giải
  • Hạ đường huyết (hạ đường huyết)
  • Tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng với việc sử dụng kéo dài chiết xuất toàn bộ lá

Đây không phải là danh sách đầy đủ tất cả các tác dụng phụ hoặc phản ứng bất lợi có thể xảy ra từ việc sử dụng thuốc này.

Aloe Vera – Tên chung và thông tin sử dụng

Tên chung: Aloe

Tên thương hiệu và các tên khác: Aloe vera, Aloe arborescens natalenis, Aloe barbadensis, Aloe ferox, Aloe vulgari

Nhóm thuốc: Thảo dược

Aloe là gì và có công dụng gì?

Aloe là một loại cây mọng nước được trồng ở những vùng khô nóng. Lá aloe đã được sử dụng ở nhiều nơi trên thế giới từ hàng nghìn năm qua vì các tính chất về sức khỏe, làm đẹp, y học và chăm sóc da. Aloe có thể được dùng bằng miệng như một chất bổ sung dinh dưỡng, bôi trực tiếp lên da để giữ ẩm và điều trị bỏng nhẹ, vết thương, herpes môi và ngứa, đồng thời được sử dụng làm thành phần trong nhiều sản phẩm mỹ phẩm. Aloe cũng được dùng như một loại thuốc nhuận tràng và để điều trị viêm da do bức xạ.

Có hơn 400 loài aloe, nhưng loài được sử dụng phổ biến nhất là Aloe barbadensis miller. Lá aloe có cấu trúc thịt và có ba lớp: lớp vỏ xanh bên ngoài, một lớp nhựa latex màu vàng bên dưới và một lớp gel trong suốt ở giữa. Chiết xuất toàn bộ lá được sản xuất bằng cách nghiền nát toàn bộ lá, trong khi phần gel và latex có thể được chiết xuất riêng và sử dụng.

Aloe vera chứa 75 thành phần có thể hoạt động, bao gồm vitamin, enzyme, khoáng chất, đường, lignin, saponin, axit salicylic và axit amin. Aloe được cho là có nhiều tính chất khác nhau bao gồm tác dụng diệt nấm, kháng virus, kháng khuẩn, chống viêm, kháng khuẩn, nhuận tràng, điều chỉnh miễn dịch và tác dụng chống ung thư.

Người ta dùng gel aloe bằng miệng cho nhiều tình trạng như tiểu đường, viêm gan, thoái hóa khớp, các bệnh viêm ruột, đau, sốt, ngứa, viêm và để tăng cường sức khỏe chung. Latex aloe được dùng bằng miệng để điều trị táo bón. Gel aloe được bôi lên da để giảm đau, ngứa và viêm do nhiều tình trạng da khác nhau và để thúc đẩy quá trình lành vết thương. Aloe cũng được sử dụng như một hương liệu trong thực phẩm.

Mặc dù aloe đã được sử dụng rộng rãi cho nhiều mục đích khác nhau, nhưng vẫn chưa có đủ nghiên cứu khoa học để chứng minh tính an toàn và hiệu quả của nó trong nhiều ứng dụng. Các nghiên cứu cho thấy rằng việc sử dụng aloe có thể hiệu quả trong các tình trạng sau:

  • Viêm da tiết bã
  • Psoriasis (vảy nến)
  • Mụn trứng cá
  • Lichen planus
  • Bỏng da
  • Lành vết thương
  • Loét do áp lực
  • Viêm da do bức xạ
  • Viêm màng nhầy (mucositis)
  • Bị lạnh
  • Lở miệng
  • Herpes sinh dục
  • Nhiễm virus suy giảm miễn dịch ở người (HIV)
  • Táo bón
  • Viêm đại tràng loét
  • Tiểu đường loại 2
  • Phòng ngừa ung thư

Cảnh báo

  • Không sử dụng aloe nếu bạn bị dị ứng với các cây thuộc họ Liliaceae, chẳng hạn như hành, tỏi và tulip.
  • Không bôi aloe lên các vết cắt sâu và bỏng.
  • Không uống aloe nếu bạn có các vấn đề về ruột, bệnh tim, trĩ, vấn đề về thận, tiểu đường hoặc mất cân bằng điện giải.
  • Không dùng aloe trong thời gian dài.

Tác dụng phụ của aloe

Tác dụng phụ thường gặp của aloe bao gồm:

Bôi ngoài da:

  • Đỏ da
  • Cảm giác bỏng
  • Ngứa
  • Viêm da
  • Phản ứng dị ứng

Uống:

  • Co thắt bụng
  • Tiêu chảy
  • Kích ứng đường tiêu hóa
  • Tình trạng táo bón nặng hơn hoặc phụ thuộc
  • Nước tiểu đỏ
  • Viêm gan
  • Mất cân bằng điện giải
  • Hạ đường huyết (hạ đường huyết)
  • Tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng với việc sử dụng kéo dài chiết xuất toàn bộ lá

Đây không phải là danh sách đầy đủ tất cả các tác dụng phụ hoặc phản ứng bất lợi có thể xảy ra từ việc sử dụng thuốc này.

Liều lượng của Aloe

Hiện không có đủ thông tin đáng tin cậy để biết liều lượng thích hợp của aloe.

Liều lượng gợi ý:

  • Viên gel lá:
    50-200 mg/ngày uống.
  • Chất lỏng:
    30 ml uống ba lần mỗi ngày.
  • Tincture (thuốc sắc):
    15-60 giọt uống khi cần; tỷ lệ 1:10, 50% cồn.
  • Bôi ngoài da:
    Bôi 3-5 lần/ngày khi cần.

Quá liều

Trong trường hợp quá liều, hãy tìm sự trợ giúp y tế hoặc liên hệ với Trung tâm Kiểm soát Chất độc ngay lập tức.

Các loại thuốc tương tác với aloe

Hãy thông báo cho bác sĩ về tất cả các loại thuốc mà bạn đang sử dụng, để bác sĩ có thể tư vấn cho bạn về bất kỳ tương tác thuốc nào có thể xảy ra. Không bao giờ bắt đầu dùng, ngừng đột ngột hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ loại thuốc nào mà không có sự chỉ định của bác sĩ.

  • Các ứng dụng aloe trên da có thể tăng cường khả năng hấp thụ của các loại kem steroid như hydrocortisone.
  • Aloe có thể làm giảm hiệu quả và tăng cường các tác dụng phụ của digoxin và digitoxin do tác dụng hạ kali.
  • Aloe vera khi sử dụng cùng với furosemide có thể làm tăng nguy cơ thiếu hụt kali.
  • Aloe làm giảm mức đường huyết và do đó có thể tương tác với thuốc tiểu đường đường uống và insulin.

Danh sách các tương tác thuốc ở trên không phải là tất cả các tương tác hoặc tác dụng phụ có thể xảy ra. Để biết thêm thông tin về các tương tác thuốc, hãy truy cập vào Công cụ Kiểm tra Tương tác Thuốc của RxList.

Điều quan trọng là luôn thông báo cho bác sĩ, dược sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ y tế của bạn về tất cả các loại thuốc theo toa và không theo toa mà bạn đang sử dụng, cũng như liều lượng cho từng loại, và giữ danh sách thông tin này.

Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ y tế nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về loại thuốc này.

Mang thai và cho con bú

Hiện chưa có đủ thông tin về độ an toàn của việc sử dụng aloe trong thời kỳ mang thai và cho con bú; nên tránh sử dụng.

Những điều khác cần biết về aloe

  • Việc sử dụng gel aloe bôi ngoài da thường là an toàn.
  • Các sản phẩm tự nhiên không phải lúc nào cũng an toàn; hãy cẩn trọng khi sử dụng chúng.
  • Aloe được tiếp thị như một chất bổ sung dinh dưỡng.

Tóm tắt

Aloe có thể được dùng bằng miệng như một chất bổ sung dinh dưỡng, bôi ngoài da để giữ ẩm và điều trị bỏng nhẹ, vết thương, herpes môi và ngứa, và được sử dụng như một thành phần trong nhiều sản phẩm mỹ phẩm. Aloe cũng được dùng như một thuốc nhuận tràng và để điều trị viêm da do bức xạ. Các tác dụng phụ thường gặp của aloe bao gồm đỏ da, cảm giác bỏng, ngứa, viêm da, phản ứng dị ứng, co thắt bụng, tiêu chảy, kích ứng đường tiêu hóa, tình trạng táo bón nặng hơn hoặc phụ thuộc, nước tiểu đỏ, viêm gan, mất cân bằng điện giải, hạ đường huyết (hạ đường huyết), và tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng.

Liên Kiều

Liên Kiều
Liên Kiều

Tên khoa học:

Forsythia suspensa Vahl. Họ khoa học: Họ Nhài (Oleaceae).

Tên khác:

Dị Kiều (Nhĩ Nhã), Đại liên tử (Đường Bản Thảo), Tam Liêm Trúc Căn (Biệt Lục), Hạn Liên Tử (Dược Tính Luận), Tam Liên, Lan Hoa, Chiết Căn, Liên Kiều Tâm, Liên Thảo, Đới Tâm Liên Kiều, Hốt Đồ Liên Kiều, Tỉnh Liên Kiều, Châu Liên Kiều, Liên Kiều Xác, Tỳ Liên, Dịch Ách Tiền, Đại Kiều, Hoàng Thiều, Liên Dị, Giản Hoa (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển), Không Kiều, Không xác (Trung Dược Chí), Lạc kiều (Tân Hoa Bản Thảo Cương Yếu).

 

Mô Tả:

Cây cao 2-4m. Cành non hình gần như 4 cạnh, có nhiều đốt, giữa các đốt ruột rỗng, bì không rõ. Lá đơn, phiến lá hình trứng, dài 3-4cm, rộng 2-4cm, mép có răng cưa không đều. Cuống lá dài 1-2cm. Lá thường mọc đối. Hoa màu vàng tươi, tràng hình ống, trên xẻ thành 4 thùy, đài cũng hình ống, trên cũng xẻ thành 4 thùy, 2 nhị, nhị thấp hơn tràng. Một nhụy 2 đầu nhụy. Quả khô hình trứng, dẹt, dài 1,5-2cm, rộng 0,5-1cm, 2 bên có cạnh lồi, đầu nhọn. Khi chín mở ra như mỏ chim, phía dưới có cuống hoặc chỉ còn sẹo. Vỏ ngoài màu vàng nâu nhạt, trong quả có nhiều hạt nhưng phần lớn rơi vãi đi, chỉ còn sót lại 1 ít.  (rễ gọi là Liên thiều, khi dùng bỏ cùi, bỏ ruột)

Địa lý:

Đa số nhập của Trung Quốc.

Thu hái:

Quả xanh hái vào tháng 8-9 khi quả chưa chín, nhúng vào nước sôi rồi đem phơi khô. Quả gìa hái vào tháng 10 khi quả đã chín vàng, phơi khô.

Bộ phận dùng:

Quả khô.

Mô tả dược liệu:

Liên kiều hình trứng, dài 1,6-2,3cm, đường kính 0,6-1cm. Đầu đỉnh nhọn, đáy quả có cuống nhỏ hoặc đã rụng. Mặt ngoài có vân nhăn dọc không nhất định và có nhiều đốm nhỏ nổi lên. Hai mặt đều có 1 đường rãnh dọc rõ rệt (Dược Tài Học).

Bào chế:

Rửa sạch, bỏ tâm dùng vỏ hoặc chỉ dùng có tâm hoặc dùng Liên kiều kèm cả tâm và vỏ.

Bảo quản:

Tránh ẩm.

Khí vị:

Vị đắng cay, hòa bình, tính mát, không độc, khí vị đều bạc, nhẹ nổi mà đưa lên, là thuốc dương trong âm dược, vào kinh Thủ thiếu dương và Thủ dương minh, cũng vào cả Thủ thiếu âm Tâm kinh.

Chủ dụng:

Chủ tán khách nhiệt ở Tâm kinh, thanh thấp nhiệt ở Tỳ, Vị, tán các thứ hỏa uất, tiêu các thứ hỏa trệ, thanh hỏa ở 6 kinh, giải huyết kết mọi nơi, lợi kinh nguyệt, thông 5 chứng lâm, tiêu ung thư, tan thũng độc, khí tụ, huyết đông, mọi thứ ung nhọt trẻ em.

Kỵ dụng:

Chỉ mát mà không bổ, bệnh ung nhọt đã vỡ mủ thì chớ dùng, hỏa nhiệt thuộc hư cũng kiêng dùng, tính lại đắng hàn, uống nhiều thì sẽ kém ăn, và Tỳ, Vị yếu, ỉa phân sệt thì đừng dùng.

Nhận xét:

Liên kiều vị đắng, tính hàn, có khả năng tán uất hỏa ở 6 kinh, là chủ dược của Thiếu âm Tâm kinh. Tâm hỏa thanh được thì mọi hỏa cũng thanh được, phàm mọi chứng sang lở, đau ngứa đều thuộc Tâm hỏa, cho nên các bệnh sang lở, đau ngứa ngoài da đều lấy nó làm thuốc cốt yếu.

GIỚI THIỆU THAM KHẢO

“Ôn bệnh điều biện” Bài Ngân kiều tán

Kim ngân hoa 8-12g      Liên kiều 8-12g

Cát cánh     6-12g

Ngưu bàng tử 8-12g Trúc diệp 6-8g

Cam thảo 2-4g

Tất cả cùng tán nhỏ, mỗi lần uống 24g với nước sắc Vị căn (sắc thấy thuốc bốc mùi thơm là được, không sắc lâu mất chất).

Trị phong ôn ở kinh Thái âm, ôn nhiệt, ôn dịch, ôn đông, lúc món phát bệnh, nóng mà không khát, không mồ hôi hoặc mồ hôi khó ra, đau đầu, ho, đầu lưỡi đỏ, rêu trắns nhat hoăc hơi vàns, mạch phù sác.

“Ôn bệnh điều biện”

Bài Kiều hà thang

Bạc hà 6g Cát cánh 8g
Chi tử bì 6g Cam thảo 4g
Liên kiều 6g Lục đậu bì 8g

Sắc uống ngày 2 thang.

Trị táo khí hóa đờm, thanh khiếu không thông, biểu hiện ho khan, đờm khó khạc, đầu váng, mắt sưng đỏ đau, tai ù. (tai ù thêm Linh dương giác, Khổ đinh trà, mắt đỏ thêm Tiên Cúc diệp, Khổ đinh trà, Hạ khô thảo, họng đau thêm Ngưu bàng tử, Hoàng cầm)

Liên kiều thanh nhiệt giải độc, lợi niệu, dùng chữa thấp nhiệt, hoàng đản, tiểu tiện không lợi.

“Thương hàn luận”

Bài Ma hoàng liên kiều xích tiểu đậu thang

Ma hoàng 8g              Đại táo 3 quả

Liên kiều       8g         Tang bạch bì 15g

Hạnh nhân 40 hạt       Sinh Khương 8g

Xích tiểu đậu 50g       Trích cam thảo 8g

Trị thương hàn ứ nhiệt ở trong, tiểu tiện không lợi, mình mẩy vàng rực.

Cận đại dùng trong chứng nổi mề đay, thủy thũng thuộc thể thấp nhiệt.

“Hướng dẫn sử dụng các bài thuốc”

Bài Thanh thượng phòng phong thang

Xuyên khung 6g, Hoàng cầm 6g, Liên kiều 6g, Hoàng liên 3g, Bạch chỉ 6g, Cát cánh 6g, Phòng phong 6g, Kinh giới 3g, Bạc hà 3g, Chỉ thực 3g, Cam thảo 3g, Chi tử 5g.

Sắc, chia uống vài lần trong ngày. Có tác dụng thanh nhiệt, tiêu phong ở Thượng tiêu.

Chữa phong ở phần trên do xung huyết. Tuổi thanh niên khí lực mạnh, nổi mụn trứng cá trên mặt, các loại viêm da ở phần trên, xung huyết mắt, mũi đỏ, viêm Tai giữa, viêm lợi răng và nhiều loại rối loạn tố chức da mặt, da đầu đều có thể dùng bài này.

“Ôn nhiệt kinh vị”

Bài Thanh tâm lương cách tán

Có thể chuyển thành thuốc thang, sắc, chia uống 2 lần trong ngày.

Chữa dịch sởi mới phát, viêm họng thể nhiệt sau cảm cúm.

“Tâm đắc thần phương”-Hải Thượng Lãn Ông

Bài Tư âm giải thác phương

Thục địa, Kim ngân hoa, Liên kiều, Cam thảo, Tạo giác thích, Thiên trùng, Sơn dược (dùng sống có tác dụng tiêu độc), Thổ bối mẫu, Xuyên sơn giáp. ( Định lượng từng vị theo chứng trạng từng bệnh nhân cụ thể cho phù hợp.) sắc uống.

Chữa ung độc.

Trong bài này ngoài các vị tiêu độc, chỉ có vị Thục địa là tư âm, dùng cho người âm hư, khác bài Bài nùng thác lý trị khí huyết phương có kiêm bổ cả khí huyết, dùng cho người khí huyết đều hư. (xem vị Kim ngân).

Hội Chứng Korsakoff (bệnh tâm thần-viêm đa dây thần kinh do rượu)

Tên khác: loạn thần mất trí nhớ Korsakoff, bệnh tâm thần-viêm đa dây thần kinh do rượu.

Định nghĩa: hội chứng đặc hiệu bởi chứng quên cả về trước lẫn quên về sau, bởi chứng bịa chuyện, và nếu bệnh nhân nghiện rượu thì có thêm viêm đa dây thần kinh.

Căn nguyên: nghiện rượu mạn tính thiếu vitamin Bl (thiamin) trong thể kinh điển (xem: bệnh não Werrnicke). Chấn thương sọ não nặng, huyết khối hoặc nghẽn mạch ở động mạch não sau, chảy máu dưới màng nhện, u não. Dù do nguyên nhân nào, hội chứng mất trí nhố (quên) hình như đều do tổn thương cả hai bên của đường dẫn truyền thần kinh hồi hải mã-củ núm vú.

Triệu chứng: mất phương hướng thời gian-không gian, mất trí nhớ cố định hoặc quên cố định hoặc quên về sau (rối loạn trí nhớ về những sự kiện mới xảy ra). Bệnh nhân lấy một cuộc sống tưởng tượng thay thế cho một cuộc sống thực mà mình không thể nhổ lại được vì suy giảm trí nhớ về những sự kiện mới xảy ra (cho nên gọi là chứng bịa chuyện hoặc dựng chuyện). Mói đầu là chứng lo sợ và sau đó là lãnh đạm. Những chức năng khác của não còn được bảo tồn. Tâm thần không bị hư hại, nhưng những ký ức cũ giữ được ít hoặc nhiều. Trong thể do nghiện rượu có thêm những dấu hiệu viêm đa dây thần kinh.

Tiên lượng: khả quan đối với thể thứ phát sau một bệnh cấp tính nào đó. Dè dặt khi do thiếu vitamin hoặc do những bệnh khác đã gây ra tổn thương không hồi phục ở não.

Điều trị: điều trị nguyên nhân gây bệnh. Cho vitamin BI (thiamin) đối với thể do nghiện rượu mạn tính.

Các tương tác của kháng sinh cần chú ý khi sử dụng

Kháng sinh đôi khi có thể tương tác với các loại thuốc hoặc chất khác. Điều này có thể tạo ra hiệu quả khác với những gì bạn mong đợi.

Nếu bạn muốn kiểm tra xem thuốc của mình có an toàn khi dùng chung với kháng sinh hay không, hãy hỏi ý kiến bác sĩ hoặc dược sĩ địa phương.

Một số kháng sinh cần được uống kèm với thức ăn, trong khi những loại khác cần uống khi bụng đói. Hãy luôn đọc tờ hướng dẫn sử dụng thuốc đi kèm.

Rượu

Tránh uống rượu khi đang dùng thuốc hoặc cảm thấy không khỏe là một ý kiến hay.

Tuy nhiên, việc uống rượu ở mức vừa phải có thể không gây vấn đề nếu bạn đang dùng các loại kháng sinh phổ biến.

Rượu tương tác với kháng sinh
Rượu tương tác với kháng sinh

Tuy nhiên, một số kháng sinh có thể gây ra tác dụng phụ như buồn nôn hoặc chóng mặt, và uống rượu có thể làm cho các triệu chứng này trở nên nặng hơn.

Hãy hỏi bác sĩ hoặc dược sĩ nếu bạn không chắc liệu có thể uống rượu khi đang dùng kháng sinh hay không.

Metronidazole và tinidazole

Tốt nhất nên tránh hoàn toàn rượu khi đang dùng:

  • Metronidazole – một loại kháng sinh đôi khi được dùng để điều trị nhiễm trùng răng miệng hoặc âm đạo, nhiễm trùng da, loét chân bị nhiễm trùng và vết loét do áp lực.
  • Tinidazole – một loại kháng sinh đôi khi được dùng để điều trị nhiều loại nhiễm trùng giống như metronidazole, cũng như để giúp loại bỏ vi khuẩn Helicobacter pylori (H. pylori) khỏi dạ dày.

Tiếp tục tránh rượu trong 48 giờ sau khi bạn ngừng dùng metronidazole và 72 giờ sau khi ngừng dùng tinidazole.

Uống rượu khi đang dùng metronidazole hoặc tinidazole có thể gây ra các tác dụng phụ rất khó chịu, chẳng hạn như:

  • Buồn nôn và nôn mửa
  • Đau bụng
  • Nóng bừng
  • Tim đập nhanh hoặc không đều
  • Đau đầu
  • Chóng mặt
  • Buồn ngủ

Các loại kháng sinh khác

Bạn cũng có thể cần tránh uống rượu nếu đang dùng:

  • Linezolid – loại thuốc này có thể bị ảnh hưởng bởi các đồ uống có cồn chưa chưng cất (đồ uống lên men) như rượu vang, bia, sherry và lager.
  • Doxycycline – rượu có thể ảnh hưởng đến thuốc này, và nó cũng có thể kém hiệu quả ở những người có tiền sử uống rượu nhiều.

Thuốc tránh thai

Một số loại kháng sinh như rifampicin và rifabutin có thể làm giảm hiệu quả của thuốc tránh thai kết hợp.

Nếu bạn được kê rifampicin hoặc rifabutin, có thể cần sử dụng thêm biện pháp tránh thai, chẳng hạn như bao cao su, trong khi dùng kháng sinh. Hãy trao đổi với bác sĩ, y tá hoặc dược sĩ để được tư vấn.

Kết hợp các loại thuốc

Một số kháng sinh không kết hợp tốt với một số loại thuốc hoặc thực phẩm chức năng thảo dược.

Bạn có thể được kê một loại kháng sinh khác hoặc được yêu cầu ngừng sử dụng một số loại thuốc hoặc thực phẩm chức năng thảo dược.

Hãy luôn đọc tờ hướng dẫn sử dụng thuốc và thông báo cho bác sĩ nếu bạn đang dùng bất kỳ loại thuốc hoặc thảo dược nào.

Thuốc thảo dược Black cohosh

Tên chung: Black cohosh

Tên thương mại và tên khác: Actaea racemosa, baneberry, black snakeroot, bugbane, bugwort, Cimicifuga racemosa, macrotys, rattle root, rattlesnake root, rattletop, rattleweed, rheumatism weed, squawroot

Nhóm thuốc: Thảo dược

Black cohosh là gì và có tác dụng gì? Black cohosh là một loại cây hoa, Actaea racemosa, thuộc họ hoa bướm, có nguồn gốc từ các khu vực phía đông Bắc Mỹ.

Chiết xuất từ rễ và thân rễ của black cohosh đã được sử dụng truyền thống như một phương thuốc thảo dược để giảm triệu chứng mãn kinh, điều trị các rối loạn kinh nguyệt, kích thích chuyển dạ, và để điều trị các tình trạng khác như ho, sốt, viêm khớp dạng thấp và đau cơ xương khớp.

Các tác dụng điều trị của black cohosh có thể xuất phát từ một số chất hoạt tính sinh học có trong black cohosh, bao gồm các glycosid triterpene như actein và cimifugoside, các alkaloid, flavonoid và tannin. Cơ chế chính xác của black cohosh chưa rõ ràng và các nghiên cứu hiện có đã cho kết quả khác nhau. Nghiên cứu chỉ ra rằng black cohosh có thể hoạt động theo các cách sau:

  • Điều chỉnh hoạt động của estrogen, hormone sinh dục nữ
  • Điều chỉnh hoạt động của serotonin, hóa chất (neurotransmitter) liên quan đến việc điều tiết tâm trạng, nhịp sinh học và tiêu hóa
  • Tác dụng chống oxy hóa
  • Tác dụng chống viêm

Black cohosh có sẵn không cần đơn (OTC) dưới dạng rễ khô, nguyên hoặc bột, chiết xuất lỏng, thuốc nhỏ giọt, viên nén và viên nang. Nghiên cứu cho thấy black cohosh có thể có hiệu quả nhất định đối với một số rối loạn kinh nguyệt và triệu chứng mạch máu hậu mãn kinh như nóng bừng và đổ mồ hôi ban đêm, tuy nhiên, còn thiếu bằng chứng cho hầu hết các ứng dụng khác của nó. Các sử dụng được đề xuất của black cohosh bao gồm:

  • Triệu chứng mãn kinh như:
    • Cơn bốc hỏa
    • Đổ mồ hôi ban đêm
    • Khô âm đạo
    • Rối loạn giấc ngủ
    • Dễ cáu kỉnh
    • Thay đổi tâm trạng
    • Cơn bốc hỏa liên quan đến điều trị ung thư vú
  • Hội chứng tiền kinh nguyệt
  • Đau bụng kinh (dysmenorrhea) và chuột rút kinh nguyệt
  • Kích thích chuyển dạ
  • Căng thẳng thần kinh
  • Viêm xương khớp
  • Viêm khớp dạng thấp
  • Đau cơ xương khớp
  • Ngăn ngừa mất xương và loãng xương
  • Ho và đau họng
  • Chứng khó tiêu (dyspepsia)
  • Sốt

Cảnh báo

  • Không sử dụng black cohosh nếu bạn mẫn cảm với bất kỳ thành phần nào trong công thức.
  • Không sử dụng black cohosh trong các tình trạng sau:
    • Ung thư vú
    • Ung thư nội mạc tử cung
    • Lạc nội mạc tử cung
    • Ung thư buồng trứng
    • U xơ tử cung
    • Bất kỳ tình trạng nhạy cảm với estrogen nào
  • Không sử dụng black cohosh nếu bạn đang mang thai hoặc cho con bú.
  • Black cohosh có thể liên quan đến độc tính gan. Không sử dụng black cohosh nếu bạn có vấn đề về chức năng gan hoặc bất kỳ bệnh lý gan nào. Ngừng ngay lập tức và gặp bác sĩ nếu bạn phát triển bất kỳ triệu chứng nào của bệnh gan như đau bụng, nước tiểu sẫm màu hoặc vàng da.

Tác dụng phụ của black cohosh là gì? Các tác dụng phụ thường gặp của black cohosh bao gồm:

  • Buồn nôn
  • Nôn
  • Rối loạn tiêu hóa
  • Tăng cân
  • Cảm giác nặng nề
  • Đau bụng
  • Tiêu chảy
  • Khó thở
  • Nhịp tim chậm (bradycardia)
  • Rối loạn hệ thần kinh trung ương (CNS)
  • Đau đầu
  • Chóng mặt
  • Phát ban
  • Ra mồ hôi
  • Co thắt
  • Đau khớp
  • Run
  • Rối loạn thị giác

Gọi ngay cho bác sĩ nếu bạn gặp bất kỳ triệu chứng nào sau đây hoặc tác dụng phụ nghiêm trọng khi sử dụng thuốc này:

  • Triệu chứng tim nghiêm trọng bao gồm nhịp tim nhanh hoặc đập mạnh, cảm giác rối loạn ở ngực, khó thở và chóng mặt đột ngột;
  • Đau đầu dữ dội, nhầm lẫn, nói lắp, yếu sức nghiêm trọng, nôn mửa, mất phối hợp, cảm giác không vững;
  • Phản ứng hệ thần kinh nghiêm trọng với cơ bắp rất cứng, sốt cao, ra mồ hôi, nhầm lẫn, nhịp tim nhanh hoặc không đều, run và cảm giác như bạn có thể ngất xỉu;
  • Triệu chứng mắt nghiêm trọng bao gồm thị lực mờ, thị lực hầm hố, đau hoặc sưng mắt, hoặc nhìn thấy quầng sáng xung quanh ánh sáng.

Đây không phải là danh sách đầy đủ tất cả các tác dụng phụ hoặc phản ứng bất lợi có thể xảy ra từ việc sử dụng thuốc này. Gọi cho bác sĩ để được tư vấn y tế về các tác dụng phụ nghiêm trọng hoặc phản ứng bất lợi.

Liều lượng của black cohosh là gì? Hiện không có đủ thông tin đáng tin cậy về liều lượng thích hợp của black cohosh. Kiểm tra nhãn của nhà sản xuất.

Liều lượng đề xuất

  • Rễ khô: 300-2000 mg đường uống ba lần mỗi ngày
  • Chiết xuất: 0.3-2 mL uống một lần mỗi ngày; tỷ lệ 1:1, 90% cồn
  • Tincture: 2-4 mL uống một lần mỗi ngày; tỷ lệ 1:10, 60% cồn
  • Viên nén: 20-80 mg uống hai lần mỗi ngày; tiêu chuẩn hóa thành 1 mg glycosid triterpene/20 mg viên

Ngộ độc

Không có báo cáo về tác dụng phụ nghiêm trọng từ ngộ độc black cohosh. Các tác dụng ngộ độc thường gặp nhất là khó chịu nhẹ ở đường tiêu hóa và phát ban, thường sẽ tự hết khi ngừng sử dụng black cohosh. Liều rất cao có thể gây ra các triệu chứng bao gồm đau bụng, tiêu chảy, chóng mặt, nhịp tim chậm và run.

Có báo cáo về tổn thương gan từ việc sử dụng black cohosh lâu dài, tuy nhiên, bằng chứng về mối quan hệ nguyên nhân chưa được xác định.

Điều trị ngộ độc black cohosh có thể bao gồm chăm sóc hỗ trợ và điều trị triệu chứng.

Các thuốc tương tác với black cohosh là gì? Hãy thông báo cho bác sĩ của bạn về tất cả các loại thuốc mà bạn đang sử dụng, để bác sĩ có thể tư vấn cho bạn về bất kỳ tương tác thuốc nào có thể xảy ra. Không bao giờ bắt đầu dùng, đột ngột ngừng hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ loại thuốc nào mà không có sự khuyến nghị của bác sĩ.

Black cohosh không có tương tác nghiêm trọng nào đã biết với các loại thuốc khác. Các tương tác nghiêm trọng của black cohosh bao gồm:

  • Iobenguane I 131

Black cohosh không có tương tác vừa phải nào đã biết với các loại thuốc khác. Các tương tác nhẹ của black cohosh bao gồm:

  • Nevirapine
  • Tamoxifen
  • Tenofovir DF
  • Zidovudine

Các tương tác thuốc được liệt kê ở trên không phải là tất cả các tương tác hoặc tác dụng phụ có thể xảy ra. Để biết thêm thông tin về tương tác thuốc, hãy truy cập vào công cụ Kiểm tra Tương tác Thuốc của RxList.

Quan trọng là bạn luôn thông báo cho bác sĩ, dược sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn về tất cả các loại thuốc theo đơn và không cần đơn mà bạn sử dụng, cũng như liều lượng cho mỗi loại, và giữ một danh sách thông tin đó. Hãy hỏi bác sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về thuốc.

Mang thai và cho con bú Black cohosh có thể gây co thắt tử cung và dẫn đến sẩy thai hoặc sinh non. Một số chuyên gia về y học cổ truyền khuyên nên dùng black cohosh vào thời điểm gần sinh để kích thích chuyển dạ, nhưng độ an toàn của việc sử dụng black cohosh trong thai kỳ chưa được xác định. Tránh dùng black cohosh nếu bạn đang mang thai. Hiện không có thông tin đáng tin cậy về độ an toàn của việc sử dụng black cohosh ở các bà mẹ đang cho con bú, vì vậy hãy tránh sử dụng nếu bạn đang cho con bú. Không bao giờ dùng bất kỳ loại thực phẩm chức năng thảo dược nào, bao gồm cả black cohosh, nếu không hỏi ý kiến nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn trước nếu bạn đang mang thai hoặc cho con bú.

Còn điều gì khác tôi nên biết về black cohosh? Các thực phẩm chức năng black cohosh có thể an toàn cho hầu hết người lớn khi được dùng theo đường uống với liều lượng khuyến cáo trong một thời gian ngắn. Hãy dùng black cohosh đúng theo hướng dẫn trên nhãn. Đừng nhầm lẫn black cohosh với blue cohosh, đó là một loại thảo dược khác. Kiểm tra với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn trước khi dùng bất kỳ sản phẩm thảo dược nào, bao gồm cả các sản phẩm black cohosh. Các sản phẩm thảo dược thường chứa nhiều thành phần. Kiểm tra nhãn để biết các thành phần trong sản phẩm black cohosh mà bạn chọn. Black cohosh được tiếp thị như một thực phẩm chức năng thảo dược và không được FDA quản lý. Các sản phẩm có thể khác nhau về công thức và nồng độ, và nhãn có thể không luôn phản ánh nội dung; hãy thận trọng khi chọn sản phẩm của bạn. Lưu trữ black cohosh an toàn ngoài tầm với của trẻ em. Trong trường hợp ngộ độc, hãy tìm sự giúp đỡ y tế hoặc liên hệ với Trung tâm Chống ngộ độc.

Tóm tắt Black cohosh là một phương thuốc thảo dược được sử dụng để giảm triệu chứng mãn kinh, điều trị các rối loạn kinh nguyệt, kích thích chuyển dạ và điều trị các tình trạng khác bao gồm ho, sốt, viêm khớp dạng thấp và đau cơ xương khớp. Các tác dụng phụ thường gặp của black cohosh bao gồm buồn nôn, nôn, rối loạn tiêu hóa, tăng cân, cảm giác nặng nề, đau bụng, tiêu chảy, khó thở, nhịp tim chậm (bradycardia), rối loạn hệ thần kinh trung ương (CNS), đau đầu, chóng mặt, phát ban, ra mồ hôi, co thắt, đau khớp, run và rối loạn thị giác. Black cohosh có thể gây co thắt tử cung và dẫn đến sẩy thai hoặc sinh non. Không sử dụng nếu bạn đang mang thai hoặc cho con bú.

Siderfol viên nang

Siderfol viên nang
Siderfol viên nang

SIDERFOL viên nang

RAPTAKOS BRETT

Viên nang: chai 30 viên.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Fe fumarate 350 mg
Vitamine B12 15 mg
Acide folique 1,5 mg
Vitamine C 150 mg
Vitamine B6 1,5 mg
Cu sulfate 5 mg
(một viên cung cấp khoảng 120 mg nguyên tố sắt)

DƯỢC LỰC

  • Fumarate sắt: ngoài việc chất sắt là một thành phần của huyết sắt tố, có nhiều nghiên cứu ủng hộ giả thuyết cho rằng việc thiếu chất sắt có ảnh hưởng bất lợi đến khả năng học tập và khả năng giải quyết vấn đề của trẻ em tuổi còn đi họ Trẻ em thiếu máu được điều trị bằng chất sắt làm gia tăng tỷ lệ tăng cân và cải thiện kỹ năng tâm thần vận động (phản ứng nhanh, chính xác) hơn trẻ thiếu máu dùng placebo.
  • Sulfate đồng: đồng còn có vai trò hỗ trợ cho sự hấp thu sắt từ hệ tiêu hóa và sự sử dụng sắt để tổng hợp heme và huyết sắc tố. Thiếu đồng là một trong những nguyên nhân gây thiếu máu và giảm bạch cầu hạt, nhất là trong các trường hợp sau mổ bắc cầu ruột, bệnh nhân được nuôi dưỡng bằng đường tĩnh mạch, trẻ suy dinh dưỡng, đặc biệt là ở trẻ được nuôi dưỡng đơn thuần bằng sữa và ở người ăn quá nhiều kẽ Sự thiếu đồng có thể gây thiếu máu hồng cầu nhỏ nhược sắc do ruột giảm hấp thu chất sắt. Tình trạng thiếu đồng cũng dẫn đến sự suy giảm số lượng một số enzyme chứa đồng trong tế bào mô và có lẽ có liên quan đến sự suy giảm sản xuất ty lạp thể của heme. Đã quan sát thấy trên súc vật thí nghiệm việc thiếu đồng còn có ảnh hưởng trên hệ xương, tim mạch, thần kinh và lông tóc.

Trong trường hợp giảm bạch cầu và thiếu máu, nếu có tình trạng nồng độ đồng trong máu thấp và nghi ngờ là do thiếu nguyên tố đồng thì nên nghiên cứu điều trị bằng chất đồng với liều dùng hằng ngày có thể đến 0,1 mg sulfate đồng cho mỗi kg thể trọng bằng đường uống.

  • B12 phối hợp với acide folique đóng vai trò quan trọng trong sự tổng hợp ADN, đặc biệt là trong hệ thống tạo máu. Giúp sự sinh sản, tăng trưởng của các tế bào tạo máu. Thiếu chúng dẫn đến thiếu máu trầm trọng loại hồng cầu to.
  • B6 có vai trò trong sự tổng hợp huyết sắc tố và tích tụ sắt.
  • Acide ascorbique có tác dụng khử sắt III thành sắt II trong dạ dày và thúc đẩy sự hấp thụ sắt tại ruộ Liều 150-200 mg dùng kèm với sắt là liều tốt nhất để có thể làm gia tăng sự hấp thu sắt hơn 30% mà ít gây tác dụng phụ. Acide ascorbique kích thích trực tiếp sự tổng hợp collagène nhờ đó làm bền vững mô liên kết bao quanh mao mạch, làm bền vững mao mạch trước áp lực của dòng máu.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Hấp thu:

Bình thường sắt được hấp thu tại tá tràng và phần đầu của hỗng tràng khoảng 5-10% lượng uống vào bằng cơ chế vận chuyển tích cực. Tỷ lệ này có thể tăng đến 20-30% nếu dự trữ sắt bị thiếu hụt hoặc khi có tình trạng gia tăng sản xuất hồng cầu. Thức ăn, các phosphate, phytate có thể làm giảm hấp thu sắt. Các muối sắt II được hấp thu dễ hơn các loại muối sắt III gấp ba lần. Các muối sắt II thông thường có tỷ lệ hấp thu tương đương nhau nhưng khác nhau về hàm lượng sắt nguyên tố. Fumarate sắt là dạng có hàm lượng nguyên tố sắt cao nhất (33%) và cho tỷ lệ hấp thu sắt khoảng 10-20%.

Hàm lượng sắt nguyên tố của các dạng muối sắt II

Muối sắt % sắt nguyên tố Đặc điểm
Sulfate sắt II (FeSO4. 7H2O) 20 Không mùi, vị mặn chát
Sulfate sắt II khan nước 30 dễ bị oxy hóa
Gluconate sắt 11,6
Fumarate sắt 33 Không vị, bền, ít bị oxy hóa

Chuyển hóa:

Sắt được chuyển vận trong huyết tương dưới dạng transferrine đến dịch gian bào, các mô nhất là gan và trữ ở dạng ferritine. Sắt được đưa vào tủy đỏ xương để trở thành một thành phần của huyết sắc tố trong hồng cầu, vào cơ để thành một thành phần của myoglobine. Hai nơi dự trữ sắt lớn nhất là hồng cầu và hệ võng nội mô.

Thải trừ:

Sắt được thải trừ khoảng 1 mg/ngày ở nam khỏe mạnh, đa số qua đường tiêu hóa (mật, tế bào niêm mạc tróc), còn lại qua da và nước tiểu. Ở phụ nữ, sắt thải thêm qua đường kinh nguyệt có thể đến 2 mg/ngày. Chất đồng chủ yếu được thải trừ qua đường mật.

CHỈ ĐỊNH

  • Các loại thiếu máu.
  • Các trường hợp tăng nhu cầu tạo máu (phụ nữ mang thai, cho con bú, thiếu dinh dưỡng, sau khi mổ, giai đoạn hồi phục sau bệnh nặng..).

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

– Quá mẫn cảm với fumarate sắt.
– Bệnh gan nhiễm sắt.
– Thiếu máu huyết tán.
– Bệnh đa hồng cầu.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Người có lượng sắt trong máu bình thường tránh dùng thuốc k  o dài. Ngưng dùng thuốc nếu không dung nạp.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Antacide, trà, cà phê, trứng, sữa làm giảm hấp thu sắt nếu dùng cùng lúc. Bản thân thuốc cũng làm giảm hấp thu pénicillamine, tétracycline nếu dùng chung.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Đôi khi có rối loạn tiêu hóa (buồn nôn, đau bụng trên, táo bón, hoặc tiêu chảy). Phân có thể đen do thuốc. Có thể làm giảm thiểu tác dụng phụ bằng cách uống trong bữa ăn và tăng dần từ liều nhỏ.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Mỗi ngày uống một viên sau khi ăn hoặc theo chỉ định của Bác sĩ.

Thuốc nam chữa mất ngủ

ĐỊNH NGHĨA VÀ NGUYÊN NHÂN

Chứng mất ngủ có nhiều nguyên nhân phức tạp. Hoặc do tâm tỳ yếu gây thiếu huyết hoặc do thận âm suy kém hoặc do hoả của can đởm bốc, hoặc do vị khí không điều hoà, hoặc do sau khi ốm bị suy nhược không ngủ được.

THỂ BỆNH

Có 5 thể bệnh:

Tâm tỳ yếu

Triệu chứng:

Do lao động hoặc suy nghĩ quá sức, hoảng hốt, tim hồi hộp, hay quên, chân tay rũ mỏi, ăn uống kém, sắc mặt vàng úa.

Điều trị:

Thuốc
Hột trắc bá (Bá tử nhân) 20g Củ mài (sao vàng) 40g
Hạt sen (để tím sao) 40g Táo nhân (sao đen) 20g
Long nhãn 20g Lá dâu non 20g
Lá vông nem- 20g
Long nhãn giã nhuyễn, các vị khác tán bột trộn đều viên bằng hạt ngô, sấy khô, bỏ lọ nút kín dùng dần.

Người lớn uống 12g x 2 lần/ngày.

Châm cứu: Cách du, Tâm du, Tam âm giao và Thần môn.

Châm bổ 1 lần/ngày, tốt nhất là cứu được vài mồi ngải trước khi đi ngủ 1 giờ.

Thận âm suy kém

Triệu chứng:

Mất ngủ, buồn bực, ù tai, đau lưng, đàn ông kèm có di tinh, phụ nữ kèm theo bạch đới.

Điều trị:

Thuốc:

Đậu đen (sao chín)          40g                Vừng đen (sao đến khi hết nổ)              40g

Lá vông (non)                  40g                vỏ núc nác (sao rượu)                            12g

Lá dâu tằm (non)             40g                Lạc tiên (dây +lá)                                  20g

Thảo quyết minh (hạt muồng muồng) (sao)                                                         20g

Các vị sao chế xong đem đồ cho chín, giã nhuyễn, thêm ít đường trộn hồ viên bằng hạt ngô, sấy khô bỏ lọ, nút kín dùng dần.

Người lớn uống 20 g X 2 lần/ngày.

Châm cứu: Thận du, Thái khê (châm bổ hoặc cứu), Tâm du, Nội quan (tả nhẹ).

Hỏa của can đởm bốc

Triệu chứng:

Mất ngủ, thêm các chứng đầy tức ngực sườn, ợ hơi, cáu gắt, ngủ hay chiêm bao linh tinh.

Điều trị:

Thuốc:

Hạt sen                           40g

Táo nhân (sao đen)    40g

Thảo quyết minh (hạt muồng muồng) 40g

Tán nhỏ luyện với hồ, viên bằng hạt ngô, sấy khô, dùng 2 lần/ngày, 20g/lần.

Châm cứu: Can du, Đởm du, Thái xung, Thần môn (châm tả).

Vị khí không điều hòa

Triệu chứng:

Mất ngủ kèm theo đầy tức vùng vị quản, đầy bụng, ợ hơi.

Điều trị:

Trường hợp này chỉ tạm thời giảm bớt định suất ăn và ăn các thức dễ tiêu kết hợp châm cứu.

Châm cứu: Trung quản, Túc tam lý, Nội quan, Phong long (châm tả), Thần môn (châm bổ).

Sau khi khỏi bệnh còn suy yếu không ngủ được

Trường hợp này nên điều dưỡng tốt sau khi khỏi bệnh (ăn, uống thuốc bồi bổ cần thiết sau khi bệnh đã khỏi) thì dần dần sẽ ngủ được không thành một thể riêng.

PHÒNG BỆNH

Làm việc có điều độ, không thức đêm quá nhiều trong một thời gian lâu để thành thói quen rồi thành bệnh.

Gợi ý liên hệ

Liên hệ bệnh thần kinh suy nhược của y học hiện đại và khám các chuyên khoa xác định bệnh.

Biểu hiện và Điều trị Bệnh da ở người nhiễm HIV

ĐẠI CƯƠNG

Biểu hiện da là triệu chứng sớm rất thường gặp của HIV.

Sinh thiết rất quan trọng vì nhiều bệnh liên quan HIV giống với những bệnh khác ở da.

Nói chung, chẩn đoán bệnh da/HIV bao gồm những thương tổn hệ thống vì rất đa dạng như cục, áp-xe, sẩn, mụn mủ, mảng và loét sùi —> KỸ NĂNG CHAN đoán lâm SÀNG.

Giải phẫu bệnh có khi khác thường và không phù hợp với chẩn đoán —> THÔNG BÁO VỚI BÁC Sĩ GIẢI PHẪU BỆNH.

Hệ thống miễn dịch càng giảm (CD4 < 200) thì bệnh cảnh lâm sàng và diễn tiến càng bất thường.

BỆNH DA Ở NGƯỜI NHIỄM HIV

  • Chẩn đoán bệnh HIV

Hội chứng retrovirus cấp: HIV có triệu chứng nhưng chưa được chẩn đoán.

Nhận biết và điều trị biến chứng da: Các bệnh da thường gặp

  • Nhiễm trùng cơ hội.

Khối u ác tính cơ hội.

Những biểu hiện chỉ điểm nhiễm HIV tại da

Các triệu chứng biểu hiện ở da của hội chứng retrovirus cấp.

Viêm nang lông tăng bạch cầu ái toan.

Nhiễm nâm Penicillium marneffei.

U mềm lây.

Nâm chân móng (Proximal subungual onychomycosis – PSO).

Loét herpes mạn tính.

Bạch sản dạng lông ở miệng (Oral hairy leukoplakia – OHL).

U mạch trực khuẩn.

Kaposi’s Sarcoma.

Hội chứng nhiễm retrovirus cấp

Xảy đến sau 1-8 tuần bị nhiễm.

Khoảng 50% có triệu chứng và 50% không cố triệu chứng.

  • Triệu chứng

Thường gặp nhất: Hội chứng nhiễm siêu vi với phát ban đơn dạng hay đa dạng, đặc biệt xuất hiện nhiều ở thân mình.

ít gặp hơn: Hội chứng phát ban đơn dạng.

Hiếm: Viêm màng não vô trùng.

Tự biến mất trong 7-10 ngày.

Thay đổi huyết thanh trong 10-21 ngày.

  • Chẩn đoán

HIV bằng xét nghiệm PCR.

Đo lượng HIV p 24 Ag.

Thử phản ứng HIV mỗi 3 đến 6 tháng.

Viêm nang lông tăng bạch cầu ái toan: Thường biểu hiện số lượng CD4+ < 100 tế bào/ml.

  • Đặc điểm lâm sàng

Ngứa: Từ trung bình đến trầm trọng.

Sẩn nang lông xuất hiện trong mặt, cổ, phía trên thân và phía trên của chi trên.

Điều trị: Prednisone 70mg/ngày và giảm dần trong thời gian 4 tuần có thể có ích.

  • Viêm da bã nhờn

Sẩn đỏ, sau đó chuyển sang dát có vảy.

CD4 < 500.

Rãnh mũi, má, râu, đường chân tóc.

Nguyên nhân: Phản ứng của tuyến bã với nấm.

Điều trị:

+ Dầu gội (hắc ín chứa selen, kétoconazole).

+ Kem kétoconazole.

+ Kem hàm lượng steroid thấp.

+ Thuốc kháng HIV.

  • Kaposi’s Sarcoma

Đặc điểm chủ quan

Không có triệu chứng.

Gây biến dạng về mặt thẩm mỹ.

Gây thành kiến.

Có thể rất đau.

Đặc điểm khách quan

Các sẩn, nút (cục), u, mảng.

Các thương tổn có thể kết hợp với nhau.

Phù thứ phát do hạch lympho và hệ thống bạch huyết.

Tiến trình

Có tính tiến triển.

Đáp ứng với thuốc chống retrovirus.

Virus u mềm lây có thể gặp ở những người lớn khỏe mạnh.

Thương tổn ở mặt:

+ Mặt là vị trí phổ biến nhất.

+ Phổ biến ở mức độ bệnh vừa phải và mức độ nặng.

+ sẩn/nút cục từ ít đến nhiều.

+ Bị kỳ thị vì bị coi là nhiễm HIV.

Chẩn đoán phân biệt với nhiễm khuẩn, nấm Penicillium, Cryptococcus.

Thương tổn lõm ở giữa, nhỏ hơn. ít khi có vảy.

Ngoài thương tổn ở da, các biểu hiện khác bình thường.

Đáp ứng với điều trị retrovirus.

  • Penicillium marneffei

Gặp ở khu vực Đông Nam Á.

Trong giai đoạn muộn của AIDS.

Bệnh có tính chất lan tỏa: Thường gặp ở máu, da, phổi, gan và lách.

Bệnh nhân thường có triệu chứng sốt kéo dài, mệt mỏi, sụt cân, thương tổn ở da, ho, khó thở.

Có thể nhiễm ở thận, xương, khớp, ngoại tâm mạc.

Thương tổn có thể giống nhưu mềm lây với các sẩn lõm ở giữa hoặc áp-xe dưới da.

  • Cryptococcus neoformans

Đây là nguyên nhân hàng đầu gây viêm màng não do nấm ở bệnh nhân AIDS.

Thương tổn da thứ phát có thể gặp ỡ 15% bệnh nhân nhiễm Cryptococcus lan tỏa.

Thương tổn da có dạng nốt nhỏ hoặc sẩn sau đó loét hoặc áp-xe hóa, nốt đỏ hoặc tổ chức dưới da.

Một số bệnh lý da phổ biến trong nhiễm HIV

Bệnh lây truyền qua đường tình dục.

Giời leo (Herpes zoster).

Loét áp-tơ.

Ung thư biểu mô sừng ở hậu môn có liên quan đến HPV.

Các bệnh da khác như nhiễm nấm Candida và vi nấm sợi tơ, Ghẻ ngứa, vảy nến, Ngứa, Phát ban sẩn ngứa.

  • Giang mai: Bệnh cảnh lâm sàng giống nhau với người nhiễm HIV.

Có thể tái phát trở lại sau nhiều năm để qua thời kỳ 2 với bệnh cảnh lâm sàng đặc biệt.

Giang mai thần kinh rất thường gặp.

Có thể tái phát sau khi được “trị liệu đầy đủ”.

Biểu hiện da rất nghiêm trọng.

Có thể có nhiều săng.

Huyết thanh chẩn đoán không đáng tin cậy. Để chẩn đoán: Sinh thiết và nhuộm với Bạc.

  • Nấm Candida

Nguyên nhân: Candida albicans.

Dịch tễ học

40% bệnh nhân HIV có nhiễm Candida ở da và niêm mạc.

Dấu hiệu lâm sàng của tình trạng tiến triển của bệnh.

Triệu chứng

Nhiều mảng bám có màng giả trắng ở miệng có thể rướm máu.

Khó nuốt.

Viêm âm đạo, đầu dương vật và hậu môn.

Viêm khóe môi.

Có thể tiến triển hệ thống với viêm thực quản gây nuốt khó và ít khi gây tổn thương toàn bộ ống tiêu hóa

Loạn dưỡng móng.

Thương tổn lan tỏa ở da – dát cộm và sẩn lan tỏa màu đỏ và chảy máu.

Trị liệu

Tại chỗ: Nystatin, Miconazole.

Toàn thân: Ketoconazole, Fluconazole, Itraconazole.

  • Nhiễm vi nấm sợi tơ (Dermatophytosis)

Nguyên nhân: Thường gặp nhất là Trichophyton rubrum.

Dịch tễ học

40% bệnh nhân HIV.

Triệu chứng sớm của nhiễm HIV.

Triệu chứng: Theo thứ tự thường gặp

Hai bàn tay, bàn chân rất thường gặp.

Nấm móng – rất thường gặp ở phần xa dưới mông nhưng xảy đến phần gần thường hơn người bình thường.

Nấm thân và nấm bẹn.

“Vi nấm không dị ứng” (Anergic tinea) khiến nghĩ đến AIDS đang tiến triển: Mảng không viêm, có vảy khô không có lành ở trung tâm hay viền bờ nổi cộm khiến lầm với bệnh Chàm hoặc Vảy nến.

Chẩn đoán: Nhuộm KOH hoặc cấy.

Điều trị

Nấm móng: Itraconazole 200mg X 2 lần/ngày X 7 ngày/tháng X 4 tháng.

Nấm chân: Itraconazole 100mg X 2 lần/ngày cho đến khi sạch thương tổn sau đó duy trì bằng Ketoconazole —> kem.

  • Ghẻ ngứa: Hình ảnh lâm sàng tương tự như ở những người nhiễm HIV

Tỷ lệ: 2%

Có thể bội nhiễm vi khuẩn, đặc biệt ở thương tổn ghẻ có mài và nứt sâu.

Nhân viên y tế thường thắc mắc: “Có thể lây nhiễm HIV từ cái ghẻ của bệnh nhân AIDS?”. Cho tới nay, chưa có ca nào được báo cáo, và về mặt lý thuyết là không thể xảy ra.

CD4 > 150: Ghẻ điển hình.

CD4 < 150: Ghẻ đóng mài.

Điều trị: Lindane, Benzyl Benzoat.

  • Vảy nến

Nguyên nhân: Có thể tế bào Langerhans bị nhiễm nên kích thích tế bào sừng ỡ thượng bì, rối loạn hoạt động của những tế bào lympho CD8 hay những lympho kín không rõ.

Dịch tễ học

Từ 1-2% dân số.

1,3-5% người bị nhiễm HIV.

Xuất hiện bất thình lình của bệnh Vảy nến chưa chẩn đoán

Bệnh Vảy nến đang có bỗng nhiên trở nặng đột ngột, có thể nghĩ đến nhiễm HIV ở những người có yếu tố nguy cơ.

Triệu chứng đầu tiên của nhiễm HIV.

Triệu chứng chỉ thị tiên lượng xấu.

Thường không có bệnh sử về Vảy nến trong gia đình.

Thường xảy đến khoảng 5 năm sau khi nhiễm HIV.

Triệu chứng và diễn tiến

Thường nặng hơn bình thường.

Viêm khớp gia tăng (30% so với 5%).

Có thể có bệnh cảnh lâm sàng đặc biệt:

+ Giọt.

+ Viêm da lan tỏa.

+ Dày sừng lòng bàn tay, bàn chân.

+ Vảy nến nếp (háng, nách, da đầu…)

Thường bội nhiễm thứ phát tụ cầu khuẩn, liên cầu khuẩn hoặc nấm làm bệnh nặng thêm.

Thuốc có thể làm nặng bệnh Vảy nến/AIDS: Corticoid hệ thống, Lithium, ức chê bê-ta 4…

Điều trị

Cần điều trị bởi bác sĩ chuyên khoa Da Liễu.

Nhẹ: Thoa kem corticoid hay kem Calcipotriol.

Nặng: Etretinate lmg/kg/ngày; Methotrexate 2,5mg/tuần rồi tăng liều rất chậm.

  • Ngứa

Ngứa toàn thân là triệu chứng quan trọng và là một trong những biểu hiện của HIV.

Thường CD4 < 200.

Có thể đưa đến khô da thứ phát.

10% có nhiễm Ghẻ, Chí Rận hoặc Lang ben.

Cần loại bỏ lymphome.

Có thể tiến triển sang Viêm nang lông hoặc sẩn ngứa.

  • Phát ban sẩn ngứa

Không định nghĩa rõ.

Thường gặp ở châu Phi và Haiiti.

Triệu chứng khởi đầu của AIDS ở 79% người châu Phi.

Hơn phân nửa bệnh nhân này có nhiễm trùng cơ hội.

Sẩn và cục ngứa từ 2-5mm, ở đầu, cổ và tứ chi.

Bệnh nhân cào, gãi và tăng sắc tố da.

Ngứa rất dữ dội.

Có thể là một dạng của sẩn ngứa dạng cục.

TÓM TẮT BIỂU HIỆN BỆNH DA CỦA HIV

Chỉ định xét nghiệm huyết thanh học HIV.

Thường đáp ứng với điều trị kháng retrovirus.

Các triệu chứng da của hội chứng retrovirus cấp:

+ Viêm nang lông tăng bạch cầu ái toan.

+ Kaposi’s Sarcoma.

+ u mềm lây.

+ Nấm chân móng (PSO).

+ Loét Herpes mạn tính.

+ Bạch sản dạng lông ở miệng (OHL).

+ u mạch trực khuẩn.

+ Bệnh lây truyền qua đường tình dục.

+ Giời leo (VZV).

+ Nhiễm nấm Candida vùng hầu miệng (tưa, đẹn).

+ Loét áp-tơ.

+ Ung thư biểu mô sừng hậu môn có liên quan đến HPV. Các bệnh da khác:

+ Nhiễm nấm Candida và vi nấm sợi tơ.

+ Ghẻ ngứa.

+ Vảy nến.

+ Ngứa.

+ Phát ban sẩn ngứa…

Phác đồ cứu cánh trong điều trị HIV

Thuật ngữ “phác đồ cứu cánh” thực ra không được định nghĩa rõ ràng. Nó được dùng cho một số tình huống. Một số tác giả nói đến “cứu cánh” khi mọi nhóm thuốc đã thất bại, trong khi một số khác nói “cứu cánh” khi từ phác đồ bậc 2 trở đi. Chưa có định nghĩa nào được thống nhất. Ở đây chúng tôi định nghĩa “cứu cánh” là liệu pháp khi đã có ít nhất 1 phác đồ chứa PI thất bại. Ngày nay, nhiều bác sỹ nói đến “cứu cánh” khi có kháng thuốc với ít nhất 2 hoặc 3 nhóm thuốc. Virus với nhiều đột biến kháng thuốc được gọi là MDR (“đa kháng”).

Trong những năm vừa qua, đã có những tiến bộ đáng kể cho các bệnh nhân đó. T-20, tipranavir, darunavir, maraviroc, raltegravir and etravirine vẫn còn hiệu quả trong những trường hợp nhiều đột biến kháng thuốc (xem “HAART 2007/2008”). Chúng khiến ta tự tin hơn về tương lai. Ngoài ra, chúng còn thay đổi mục tiêu của điều trị. Ngày nay, kể cả với nghiên cứu bệnh nhân có tiền sử điều trị phức tạp, vẫn phải cố gắng ức chế virus xuống dưới ngưỡng phát hiện (Youle 2006).

Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều vấn đề. Các nghiên cứu về phác đồ cứu cánh ngày càng khó thực hiện do có ít bệnh nhân đa kháng (Lohse 2005). Rất hiếm có các quần thể bệnh nhân         đồng nhất do mỗi bệnh nhân đều có tiền sử điều trị riêng, có đặc điểm kháng thuốc riêng và do đó sẽ có nhiều điều kiện bắt buộc đối với phác đồ cứu cánh. Ở những trung tâm HIV lớn, thường có trên 50 loại phối hợp phác đồ được dùng. Điều này làm việc thử nghiệm các thuốc cứu cánh mới trong các thử nghiệm pha II/III trở nên khó khăn. Cũng khó để tạo được thiết  kế nghiên cứu đúng: do sử dụng chỉ một thuốc thực nghiệm trong một phác đồ thất bại là một câu hỏi về y đức, nên luôn phải tối ưu hóa ART (=OBT, phác đồ nền tối ưu). Nếu phác đồ  nền quá tốt, sẽ không thấy được hiệu quả của thuốc mới, do quá nhiều bệnh nhân đạt ức chế virus mà chỉ cần phác đồ nền (OBT). Nếu phác đồ nền quá kém, hiệu quả của thuốc mới chỉ nhất thời hoặc rất yếu.

Đại cương

Đầu tiên không nên quên rằng bệnh nhân có virus đa kháng, vốn có tiền sử điều trị kéo dài và luôn tự coi tình trạng của mình đang chênh vênh, rất cần động viên. Không được lấy đi hy vọng của họ. Mặc dù một số nghiên cứu cho thấy bệnh nhân có virus đa kháng tiên lượng nặng hơn so với bệnh nhân không kháng thuốc (Hogg 2005, Zaccarelli 2005), các dữ kiện đó không phải là không có sơ hở. Trong nghiên cứu GART, nguy cơ tiến triển nặng của bệnh nhân có hơn 6 đột biến kháng thuốc không hề tăng hơn so với bệnh nhân có ít hơn 2 đột biến (Lucas 2004). Nếu CD4 còn tốt thì cho dù có virus đa kháng, nguy cơ tiến triển thành AIDS cũng khá nhỏ (Ledergerber 2004). Virus đa kháng có khả năng nhân bản kém hơn và có lẽ  độc lực cũng kém hơn (Prado 2005). Hơn nữa, khoa học luôn tiến bộ. Các nhóm thuốc mới sẽ xuất hiện. Do đó với virus đa kháng, đơn giản là phải kiên nhẫn!

Cho tới nay, đối với nhiều bệnh nhân chúng ta phải chấp nhận từ bỏ mục tiêu ức chế virus xuống dưới ngưỡng phát hiện – đặc biệt nếu tuân thủ tốt, đáp ứng với phác đồ tăng cường đôi khi cũng chỉ là nhiều tác dụng phụ hơn. Nhiều lúc phải tạm nghỉ và chờ các thuốc mới. Nếu được, các bệnh nhân đó nên điều trị tại các trung tâm lớn, dễ có các thuốc mới, và nhiều kinh nghiệm với phác đồ cứu cánh. Không nên dùng thêm chỉ 1 thuốc mới – cần phối hợp càng nhiều thuốc còn tác dụng càng tốt.

Thường phải mất hàng năm mới có thể tiến triển từ thất bại về virus đến thất bại về miễn dịch và thất bại về lâm sàng (xem thêm “Nguyên tắc điều trị”).

Cần lưu ý rằng các bệnh nhân đa kháng phải được theo dõi và khám cẩn thận, thường xuyên (hàng tháng) – một việc đôi khi bị quên lãng khi mải thảo luận về kết quả xét nghiệm máu và kháng thuốc. Không được bỏ qua các triệu chứng như sụt cân, các triệu chứng B, nấm họng, bạch sản lông (OHL) và các suy giảm về nhận thức…

Dưới đây xin thảo luận một số chiến lược điều trị cứu cánh có hứa hẹn (dùng đơn độc hoặc phối hợp):

  • Cứu cánh bằng lopinavir/r, tipranavir/r, darunavir/r và T-20
  • Phác đồ PI kép
  • Mega-HAART, có hoặc không ngắt đoạn điều trị
  • NNRTI “tăng nhạy cảm”
  • Tái sử dụng thuốc cũ
  • Chờ đợi và thậm chí là giản lược ART
  • Các thuốc đang thực nghiệm

Cứu cánh bằng lopinavir/r, tipranavir/r, darunavir/r và T-20

Các boosted PI lopinavir/r (Kaletra™), tipranavir (Aptivus™) và darunavir (Prezista™) đã cải thiện đáng kể phác đồ cứu cánh. Hàng rào kháng thuốc của các thuốc đó rất cao do đó tỷ lệ đáp ứng khá tốt cho dù có nhiều đột biến kháng thuốc PI. Mặc dù rối loạn mỡ máu vẫn là một vấn đề, 3 thuốc đó vẫn có giá trị trong phác đồ cứu cánh và nên được dùng sau khi thất bại với PI thứ nhất.

Lopinavir/r: vào năm 2001 đã là thuốc cứu cánh quan trọng đầu tiên. Cần ít nhất 5-7 đột  biến PI mới có thể làm LPV/r thất bại (Kempf 2001, Masquelier 2002). Ở 70 bệnh nhân thất bại phác đồ có PI, VL giảm 1,4 log chỉ sau 2 tuần thay thế PI đó bằng LPV/r (Benson 2002). Tuy nhiên, 2 nghiên cứu ngẫu nhiên lớn cho thấy hiệu quả của LVP/r lên virus kháng PI cũng chỉ khá hơn chút ít so với các boosted PI như atazanavir/r và fosamprenavir/r – sự khác biệt về virus học chỉ khác nhau giữa các bệnh nhân có nhiều đột biến kháng PI (Elston 2004, Johnson 2006).

Bảng 9.1: Một ví dụ về thành công của phác đồ cứu cánh có LPV/r
Ngày (HA)ART CD4+ T-cells VL
Mar 1993 AZT (sau đó + ddC) 320 N/A
May 1996 AZT+3TC+SQV 97 N/A
Feb 1997 d4T+3TC+IDV 198 126,500
Aug 1997 d4T+3TC+NFV 165 39,500
Mar 1998 d4T+ddI+SQV/RTV+HU 262 166,000
Sep 1998 238 44,000
Jul 2000 AZT+3TC+NVP+LPV/r 210 186,000
Oct 2000 385 < 50
Oct 2004 569 < 50

Lưu ý đáp ứng không tốt với phác đồ mới sau khi PI đầu tiên thất bại; ức chế virus không hoàn toàn trong hơn 2 năm mà CD4 vẫn ổn định; và một đáp ứng bền vững với LPV/r – sau hơn 4 năm điều trị PI không tối ưu! Tăng nhạy cảm NNRTI cũng có thể gặp ở ca này (xem dưới). Khi chuyển sang LPV/r, bệnh nhân có kháng thuốc kiểu gen lẫn kiểu hình với nhiều nuke và PI.

Tipranavir/r: Trong các nghiên cứu RESIST, 1,483 bệnh nhân có tiền sử điều trị phức tạp   đã được uống OBT (phác đồ nền tối ưu) với hoặc tipranavir/r hoặc một boosted PI so sánh (Hicks 2006). Các bệnh nhân có VL ít nhất 1000 bản sao/ml và ít nhất 1 đột biến PI chính. Sau 48 tuần, nhánh TPV/r có đáp ứng về virus và miễn dịch vượt trội so với các nhánh PI so sánh. Tuy nhiên, sự khác biệt xảy ra cũng bởi một số bệnh nhân đã từng uống LPV/r. Đối với các bệnh nhân chưa từng uống LPV/r, không thấy có sự khác biệt giữa TPV/r và LPV/r. Nói cách khác, nếu LPV/r vẫn hiệu quả thì TPV/r không tốt hơn là bao, nhưng nếu đã dùng LPV/r thì TPV/r vẫn tốt.

Darunavir/r: 2 nghiên cứu pha IIb POWER-1 (Europe) và -2 (USA) đã dẫn tới cấp phép cho thuốc ở Mỹ. Có gần 600 bệnh nhân đã từng điều trị nhiều thuốc được nghiên cứu. Ở nhóm bệnh nhân điều trị 600/100 mg darunavir/r bid, 46% vẫn đạt VL dưới 50 bản sao/ml sau 48 tuần   – tốt hơn hẳn so với nhóm chứng PI (10%) và đây là một kết quả chưa từng gặp ở

nhóm bệnh nhân còn rất ít lựa chọn thuốc. Đã có 11 đột biến được mô tả, và nếu có trên 3 đột biến, hiệu quả của thuốc sẽ giảm đáng kể  (De Meyer 2006).

Với 3 PI đó, điều rõ ràng là thành công của phác đồ sẽ lớn hơn khi số thuốc có hiệu lực được dùng nhiều hơn. Trong nghiên cứu RESIST và POWER, tỷ lệ bệnh nhân đạt VL dưới ngưỡng phát hiện đã tăng lên khi T-20 được dùng phối hợp với tipranavir hoặc darunavir (Lazzarin 2006, Hicks 2006). Do đó, nếu định dùng tipranavir hoặc darunavir thì nên thêm T-20.

Phác đồ cứu cánh PI kép

Không chỉ LPV mà các PI khác cũng được tăng cường bằng liều thấp ritonavir. Sự xuất hiện của các thuốc mới khiến chiến lược PI kép đã mất một phần chỗ đứng. Tuy vậy, chiến lược này vẫn quan trọng trong những trường hợp etravirin, maraviroc or raltegravir chưa được phổ biến rộng rãi.

Lopinavir/r + saquinavir/r: dữ kiện in vitro cho thấy có tác dụng hợp đồng giữa các thuốc này (Molla 2002). Có vẻ không thấy tương tác bất lợi giữa SQV và lopinavir/r (Ribera 2004). Trong nghiên cứu LopSaq (Staszewski 2004), do nhiều lý do (kháng thuốc, độc tính), 128 bệnh nhân có tiền sử điều trị nhiều thuốc đã được dùng phác đồ không nuke gồm lopinavir/r (400/100 mg bid) + saquinavir (1,000 mg bid). Sau 48 tuần, 61% đạt VL dưới 40 bản sao/ml. Tuy nhiên đáp ứng của những bệnh nhân có nhiều đột biến PI và CD4 thấp đều tồi (Staszewski 2006).

Atazanavir/r + saquinavir/r: khi phối hợp 300 mg atazanavir, 100 mg ritonavir và 1,600 mg saquinavir, không chỉ nồng độ tối thiểu mà nồng độ nội bào của SQV được tăng đáng kể (Boffito 2004, Ford 2006). Trong nghiên cứu ATSAQ (Rottmann 2004), 40 bệnh nhân đã  từng điều trị nhiều thuốc đã được dùng một phác đồ không nuke gồm 300 mg atazanavir, 100 mg ritonavir và 2 x 1,000 mg saquinavir. Sau 32 tuần, 85% bệnh nhân đạt VL dưới 400 bản sao/ml.

Ba nghiên cứu khác đang được tiến hành. Mặc dù nồng độ SQV được tăng lên nhờ ATV, vẫn phải có ritonavir. Phối hợp không tăng cường cũng khá yếu (Haas 2003, Johnson 2005).

Saquinavir/r + fosamprenavir: là một trong những phối hợp PI đầu tiên (Eron 2001) và vẫn có ích do đặc điểm kháng thuốc của 2 thuốc trùng nhau 1 phần. Fosamprenavir làm giảm chút ít nồng độ saquinavir nhưng có thể được bù bằng tăng liều ritonavirlên 200 mg bid (Boffito 2004).

Lopinavir/r + indinavir: có tác dụng hợp đồng in vitro. Phối hợp này đã được thử nghiệm với nhiều liều indinavir (Staszewski 2003, Isaac 2004). Do tính dung nạp và do có nhiều phác đồ cứu cánh khác, indinavir ngày càng ít được dùng. Tuy nhiên dữ kiện không hoàn toàn rõ ràng và số ca ít. Có lẽ cần tăng thêm liều ritonavir và nên áp dụng TDM (theo dõi nồng độ thuốc vì mục đích điều trị). Indinavir và lopinavir không cần chỉnh liều.

Các phối hợp 2 PI khác: Các nghiên cứu thử nghiệm cho thấy có tương tác có lợi giữa atazanavir và fosamprenavir (Khanlou 2006, Zilly 2005). Điều này cũng áp dụng với lopinavir + atazanavir (Langmann 2005), phối hợp này đang được nghiên cứu LORAN đánh giá.

Một số phối hợp PI kép khác không tốt: phối hợp ATV và IDV cần tránh do cả 2 thuốc đều gây tăng bilirubin máu. Phối hợp LPV/r và NFV sẽ gây ỉa chảy nặng, và nồng độ LPV còn bị giảm (Klein 2003). Phối hợp indinavir and nelfinavir cũng tương đối yếu (Riddler 2003).

Tipranavir cũng có tương tác không thuận lợi với các PI khác. Nồng độ của lopinavir, saquinavir và amprenavir đều giảm rõ rệt (Walmsley 2004). Thậm chí phối hợp lopinavir/r + fosamprenavir, cho dù có đặc điểm kháng thuốc rất hứa hẹn, cũng có dữ liệu dược động học không thuận lợi, có thể nồng độ cả hai thuốc đều bị giảm do những tương tác phức tạp (Mauss 2002, Kashuba 2005). Tăng liều ritonavir cũng không đem lại thay đổi gì (Mauss 2004, Taburet 2004).

Phối hợp PI kép không phải dành cho điều trị thường quy. Phối hợp 2 PI chỉ nên dùng cho những bệnh nhân có tác dụng phụ của NRTI (độc tính ty thể) và cần được theo dõi bởi các bác sỹ có kinh nghiệm với khả năng tiếp cận TDM (theo dõi nồng độ thuốc vì mục đích điều trị) để có thể chỉnh liều nếu cần.

Bảng 9.2: Các phối hợp 2 PI có đủ dữ kiện ủng hộ
Phối hợp Liều hàng ngày/bình luận Nguồn
Thuận lợi hơn
Lopinavir/r + saquinavir 800/200/2,000 Staszewski 2006
Atazanavir/r + saquinavir 300/200/2,000 Boffito 2004 + 2006
Lopinavir/r + atazanavir 800/200/300 Langmann 2005
Saquinavir/r + fosamprenavir 2,000/200/1,400 bid Boffito 2004
Lopinavir/r + indinavir 800/200/1,600 bid Staszewski 2003
Kém thuận lợi hơn
Lopinavir/r + fosamprenavir Dược động học kém Kashuba 2005
Atazanavir + saquinavir Hiệu lực kém Johnson 2005
Tipranavir + LPV/APV/SQV Dược động học kém Walmsley 2004
Lopinavir/r + nelfinavir Dược động học kém, ỉa chảy Klein 2003
Atazanavir + indinavir Tăng bilirubin
Indinavir + nelfinavir Hiệu lực kém Riddler 2002

Mega-HAART hoặc không kèm theo ngắt đoạn điều trị

Các phối hợp tăng cường với hơn 5 thuốc – được gọi là “mega”- hoặc “giga”-HAART – có thể rất hiệu quả. Tuy nhiên, chỉ những bệnh nhân có động lực điều trị và được thông tin kỹ mới nên dùng phác đồ mega-HAART. Cần nhớ rằng tương tác thuốc là rất khó dự đoán ở những phác đồ như vậy. Mega-HAART có lẽ sẽ kém quan trọng hơn khi có các thuốc và nhóm thuốc mới.

Như vậy, liệu ngắt đoạn điều trị có đem lại lợi ích gì không? Trong nghiên cứu GIGHAART, 68 bệnh nhân có tiền sử điều trị phức tạp được chia ngẫu nhiên thành nhóm có ngắt đoạn điều trị 8 tuần hoặc không (Katlama 2004),. Tất cả 68 bệnh nhân đều được chuyển sang phác đồ 7- 8 thuốc: 3-4 NRTI, hydroxyurea, 1 NNRTI và 3 PIs. Ở nhóm có ngắt đoạn điều trị, hiệu quả sau 24 tuần có tốt hơn rõ rệt, và VL giảm 1.08 log so với 0.29 log. Số CD4 tăng cũng nhiều hơn. Các hiệu quả này vẫn tồn tại sau tuần 48 mặc dù không ấn tượng bằng.

Tuy nhiên kết quả của nghiên cứu GIGHAART vẫn còn nhiều câu hỏi chưa giải đáp và ngày nay càng có nhiều nghiên cứu cho thấy ngắt đoạn điều trị lại đem lại những hậu quả không có lợi . Trong nghiên cứu CPRC064, bệnh nhân được ngắt đoạn điều trị trong 4 tháng trước khi dùng phác đồ cứu cánh, và không thấy có sự khác biệt giữa bệnh nhân có ngắt đoạn điều trị  và bệnh nhân không ngắt đoạn điều trị (Lawrence 2003). Điều đáng nói là bệnh nhân ngắt đoạn điều trị không chỉ có CD4 tồi hơn mà còn có nhiều biểu hiện lâm sàng nặng hơn.

Các nghiên cứu ngẫu nhiên khác đã không thấy có bất cứ lợi ích nào về virus học của chiến lược ngắt đoạn điều trị trước khi bắt đầu phác đồ cứu cánh (Haubrich 2003, Ruiz 2003,

Beatty 2006, Benson 2006), do đó chiến lược này chưa thể được khuyến cáo trong thời điểm hiện tại (xem “Ngắt đoạn điều trị”).

Tăng nhạy cảm với NNRTI (hypersensitivity)

Các bệnh nhân đã dùng nhiều thuốc nhưng chưa từng dùng NNRTI thường đáp ứng rất tốt   với các phác đồ cứu cánh chứa NNRTI. Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên nhỏ tiến hành ở 56 bệnh nhân, tỷ lệ bệnh nhân có VL dưới 200 bản sao/ml sau 36 tuần đã tăng từ 22% lên 52% nếu NVP được dùng thêm vào phác đồ chứa 2 NRTI mới và nelfinavir (Jensen-Fangel 2001). Trong nghiên cứu ACTG 359, thêm delavirdine vào một phác đồ có PI mới làm tăng tỷ lệ đáp ứng virus từ 18% lên 40% (Gulick 2002). Hiện tượng “tăng nhạy cảm với NNRTI” có thể là căn nguyên của hiện tượng này. Các chủng virus được coi là tăng nhạy cảm nếu IC50 (50% nồng độ ức chế tối thiểu) của thuốc thấp hơn so với chủng hoang dại. Tăng nhạy cảm với NNRTI được mô tả lần đầu vào tháng 1/2000 (Whitcomb 2000) và bản chất sinh hóa của hiện tượng này vẫn còn đang được tranh cãi (Delgrado 2005), nó rất ít xảy ra với các NRTI nhưng rất thường gặp với các NNRTI, đặc biệt đối với các virus đã có đột biến kháng NRTI.

Một số nghiên cứu tiến cứu đã mô tả hiện tượng này kỹ hơn (Albrecht 2001, Haubrich 2002, Katzenstein 2002, Mellors 2002). Khi phân tích trên 17000 mẫu máu, tỷ lệ tăng nhạy cảm ở bệnh nhân chưa từng điều trị NRTI đối với efavirenz và nevirapine là 9% và 11%, nhưng ở bệnh nhân đã từng điều trị NRTI, tỷ lệ đó là 26% và 21% (Whitcomb 2002). Các đột biến ở các codon 215, 208 và 118 là có liên quan tới hiện tượng tăng nhạy cảm NNRTI (Shulman 2004).

Cũng có một số bằng chứng cho thấy bệnh nhân tăng nhạy cảm NNRTI có đáp ứng điều trị tốt hơn. Trong số 177 bệnh nhân đã từng điều trị nhiều thuốc (nhưng chưa bao giờ điều trị NNRTI), 29% có giảm IC50 với một hoặc vài NNRTI (Haubrich 2002). Trong số 109 bệnh nhân uống phác đồ chứa NNRTI, VL của những bệnh nhân có tăng nhạy cảm giảm thấp hơn rõ rệt sau 12 tháng và CD4 tăng cũng tốt hơn.

Khả năng nhân bản không quan trọng ở đây (Schulman 2006). Cho dù cơ chế phân tử của hiện tượng này còn chưa rõ, hiệu quả vẫn rõ: bệnh nhân có đột biến NRTI và không kháng với NNRTI cần được điều trị NNRTI trong phác đồ mới nếu được.

Tái sử dụng các thuốc cũ

Đôi khi có thể dùng lại các thuốc đã được dùng trong quá khứ, ví dụ như trong nghiên cứu Jaguar (Molina 2003). 168 bệnh nhân có VL trên 1000 bản sao/ml và trung bình 4 đột biến NRTI đang điều trị HAART ổn định được thêm ddI hoặc giả dược. VL giảm đi 0.6 log sau 4 tuần. 68% số bệnh nhân đã từng uống ddI trong quá khứ và ở những bệnh nhân đó, VL vẫn giảm tới 0.48 log.

Các phác đồ cứu cánh không chỉ cần càng nhiều thuốc mới càng tốt, mà cũng cần chứa những thuốc khiến virus giữ được những đột biến có khả năng ức chế virus nhân bản. Do đó, hoàn toàn có lý do để duy trì M184V bằng cách tiếp tục 3TC hoặc FTC (xem dưới và chương kháng thuốc).

“Đợi và theo dõi” hoặc thậm chí giản lược ART

Đôi khi ngay cả phác đồ cứu cánh mạnh nhất cũng không có hiệu quả. VL không thể bị ức chế xuống dưới ngưỡng phát hiện cho dù đã dùng cả T-20 và darunavir cũng như các thuốc khác. Với những bệnh nhân đó nên làm gì? Câu trả lời là: cứ tiếp tục chừng nào bệnh nhân còn dung nạp được phác đồ! Các virus đa kháng thường kém độc hơn chủng hoang dại, ít  nhất là trong một thời gian nhất định. Một thuốc như 3TC vẫn còn tác động có lợi lên VL cho dù có đột biến M184V. Trong một nghiên cứu nhỏ, 6 bệnh nhân mang virus đa kháng khi ngừng 3TC thì VL tăng 0.6 log (Campbell 2005).

Do vậy, không nên ngừng hoàn toàn HAART ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch nặng có nguy cơ mắc nhiễm trùng cơ hội. Trên thực thế, cần làm mọi thứ có thể để ít nhất là kiểm   soát virus phần nào. “Chờ đợi” với phác đồ kém tối ưu vẫn là một chiến lược có giá trị cho   tới khi có thuốc mới. Trong những trường hợp đó, HAART không tối ưu còn hơn là không điều trị gì, và ức chế một phần virus vẫn tốt hơn là không. Bệnh nhân vẫn hưởng lợi cho dù VL chỉ giảm một chút (Deeks 2000). Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, các bệnh nhân có   VL trên 2500 bản sao/ml được ngừng hoàn toàn HAART hoặc vẫn tiếp tục phác đồ hiện dùng trong 12 tuần. Kết quả cho thấy CD4 vẫn tốt hơn ở nhóm tiếp tục điều trị – CD4 chỉ giảm 15  tế bào ở nhóm này so với 128 tế bào ở nhóm ngừng điều trị (Deeks 2001). Trong một nghiên cứu thuần tập lớn, CD4 không giảm chừng nào VL vẫn dưới 10000 bản sao/ml hoặc ít nhất là 1.5 log dưới điểm nền của từng bệnh nhân (Lederberger 2004).

Một câu hỏi quan trọng là cần tiếp tục phác đồ manh đến mức nào trong thời gian chờ đợi. Một số thuốc hiển nhiên có thể ngừng. Các NNRTI như NVP hay EFV có thể ngừng nếu đã có đột biến kháng thuốc, do khả năng nhân bản không chịu tác động của các đột biến NNRTI (Piketty 2004) và ngừng NNRTI có thể tránh được thêm các đột biến NNRTI mới; các đột biến này có khả năng làm giảm hiệu quả của các NNRTI thế hệ hai như etravirine.

Sau khi có kết quả của một số nghiên cứu thử nghiệm, điều này cũng đúng khi loại bỏ các PI do đột biến. 18 bệnh nhân với VL vẫn cao cho dù đã điều trị hơn 6 tháng bằng HAART (tuân thủ tốt, hiệu lực thuốc tốt) đã được loại bỏ PI khỏi phác đồ trong khi vẫn tiếp tục các NRTI (Deeks 2005). Trong vòng 2 tuần đầu, không bệnh nhân nào có VL tăng quá 0,5 log, và thậm chí sau 16 tuần, không thấy VL tăng thêm ở đa số bệnh nhân (chỉ 5/18 bệnh nhân có VL tăng giữa 0,5 và 1 log; ở các bệnh nhân khác VL không tăng thêm, thậm chí còn giảm). Một số bệnh nhân có giảm CD4 nhưng cũng không nhiều. Lặp lại xét nghiệm kháng thuốc cho thấy đột biến PI tồn tại ở mọi bệnh nhân trong 12 tuần đầu cho dù không uống PI. Một nghiên cứu hồi cứu khác trên trẻ nhiễm HIV cũng ngừng PI nhưng tiếp tục NRTI và thấy rằng VL chỉ tăng trong sau thời gian dài (LeGrand 2005).

Kết quả của một bệnh nhân đạt thành công với cách làm này được mô tả trong bảng 9.3. Xét nghiệm kháng thuốc cho thấy không có sự thay đổi ở virus đa kháng. Cách “chờ đợi và theo dõi” với phác đồ nuke đơn giản trở nên khả thi ở một số bệnh nhân trong một khoảng thời gian nhất định. Lý do của hiện tượng này vẫn chưa được hiểu hết. Nếu chỉ dùng PI thì sẽ không có hiện tượng này – trong 5/5 bệnh nhân mà chỉ ngừng NRTI (giữ lại PI), VL tăng nhanh chóng (Deeks 2005).

Bảng 9.3: dụ về “theo dõi và chờ đợi” đã thành công trong hơn 3 năm
Ngày (HA)ART CD4+ T VL
Cho tới 1997 AZT, AZT+ddC, AZT+ddI 40 (nadir) 107.000
Mar 97 AZT+3TC+SQV-HGC 84 259.000
Oct 97 d4T+3TC+SQV+NFV 211 67.000
Jun 98 d4T+3TC+NVP+IDV/r 406 1.200
Jan 00 AZT+3TC+ABC+NVP+IDV/r 370 1.030
Mar 02 AZT+3TC+ABC+TDF+NVP+IDV/r 429 3.350
Sep 02 d4T+ddI+3TC+NVP+LPV/r 283 5.000
Nov 02* 348 7.600
Jan 03 315 16.400
Feb 03 AZT+3TC+ABC 379 6.640
May 03 241 2.400
Dec 04 AZT+3TC+ABC+TDF** 298 4.200
Jan 06 323 5.800

* xét nghiệm kháng thuốc cho thấy có 20 đột biến, kháng lại mọi thuốc được thử nghiệm. Bệnh nhân tuân thủ tốt và nồng độ huyết tương của thuốc luôn đủ.

** Thêm TDF do bệnh nhân có viêm gan mạn tính.

Một nghiên cứu ở Italia lại áp dụng một cách khác (Castagna 2004). Nghiên cứu này thu nạp 50 bệnh nhân với VL ít nhất 1000 bản sao/ml đang điều trị phác đồ chứa 3TC, có đột biến M184V và CD4 ít nhất 500 tế bào/µl. Các bệnh nhân được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: ngừng toàn bộ các thuốc hoặc tiếp tục 3TC. Lý do: đột biến M184V giảm khả năng nhân bản của HIV. Kết quả là bệnh nhân tiếp tục 3TC có lượng tăng VL thấp hơn (0.6 so với 1.2 logs) và lượng CD4 giảm đi ít hơn (73 so với 153/µl) sau 24 tuần. Đột biến M184V vẫn tồn tại ở mọi bệnh nhân tiếp tục 3TC và không có thêm đột biến mới. Ngược lại, các bệnh nhân ngừng hết thuốc đều có virus chuyển ngược lại chủng hoang dại. Hiệu quả của 3TC còn được duy trì tới 144 tuần (Castagna 2007).

Do số lượng bệnh nhân trong các nghiên cứu cho tới nay còn ít nên vẫn còn nhiều câu hỏi được đặt ra. Câu hỏi chính là chiến lược đó áp dụng cho những bệnh nhân nào và có thể

thành công trong bao lâu. Nên theo dõi CD4 thường xuyên hơn. Nếu chiến lược này được các nghiên cứu lớn hơn khẳng định thì đây sẽ là một chiến lược rất hấp dẫn. Ngoài việc dung nạp tốt hơn và liều dùng đơn giản hơn, chỉ sử dụng các nuke có thêm lợi điểm là không gây áp  lực chọn lọc tạo thêm các đột biến PI hay NNRTI, và do đó các thuốc mới sẽ không bị ảnh hưởng.

Các thuốc “cứu cánh” mới

Các thuốc ức chế integrase cũng như đối vận CCR5, ức chế gắn hoặc ức chế trưởng thành là các nhóm thuốc mới đã được chứng minh là có tác dụng làm giảm VL ở bệnh nhân HIV.

Ngoài ra các NRTI mới và NNRTI thế hệ 2 như SPD-754, etravirine hay rilpivirine cũng đã được phát triển khá sâu (xem “HAART 2007/2008”). Trong năm 2007, ba chương trình tiếp cận mở rộng đã được triển khai với etravirine (một NNRTI thế hệ hai), raltegravir (một thuốc ức chế integrase) và maraviroc (thuốc đối kháng R5). Các thuốc khác đang được thử nghiệm pha III.

Các bệnh nhân có virus đa kháng nên được tham gia các nghiên cứu đó. Tuy nhiên, vấn đề là bệnh nhân chỉ được tham gia hoặc nghiên cứu, hoặc chương trình tiếp cận mở rộng. Ngoại lệ là khi có phối hợp giữa các hãng thuốc, do các hãng chỉ thử nghiệm thuốc mới với các thuốc đã cấp phép. Lý tưởng nhất là có ít nhất hai thuốc mới còn tác dụng trong phác đồ cứu cánh.

Hướng dẫn thực hành điều trị virus đa kháng

1.         Câu hỏi đầu tiên: bệnh nhân đã dùng những phác đồ gì, mức độ thành công bao nhiêu và trong bao lâu?

2.         chọn càng nhiều thuốc còn hiệu lực càng tốt!

3.         Đừng đợi quá lâu để chuyển phác đồ để tránh tạo cho virus khả nặng hình thành đột biến mới – VL càng cao lúc chuyển phác đồ, khả năng thành công càng thấp.

4.         Dùng lopinavir/r, tipranavir/r hoặc darunavir/r! Cân nhắc dùng thêm T-20.

5.         Bệnh nhân đã bao giờ uống NNRTI? Nếu chưa, đây là thời gian hợp lý! Nếu đã uống và có đột biến kháng NNRTI: ngừng ngay NNRTI!

6.         Đừng đòi hỏi quá nhiều ở bệnh nhân! Không phải ai cũng dùng được mega-HAART.

7.         Không bao giờ dùng ngay lập tức một thuốc mới – nếu tình trạng bệnh nhân và CD4 cho phép, chờ thêm một thuốc mới nữa

8.         Cố gắng đưa bệnh nhân vào các chương trình tiếp cận mở rộng (maraviroc, etravirine, raltegravir) hoặc đưa bệnh nhân đến các trung tâm lớn

9.         Động viên bệnh nhân! Các phác đồ mới sẽ chóng xuất hiện. Có thể áp dụng “theo dõi và chờ đợi”.

10.     Không để virus quay ngược lại chủng hoang dại – thậm chí một phác đồ “thất bại” cũng nên được dùng tiếp nếu chưa có các lựa chọn khác.

Hạ đường huyết đối với bệnh nhân đái tháo đường

Các khuyến nghị

–  Những cá nhân có nguy cơ hạ đường huyết nên được hỏi về hạ đường huyết có triệu chứng và không triệu chứng mỗi khi thăm khám. C

–  Dùng lượng glucose (15 – 20 g) là thích hợp để xử lý tình huống hạ đường huyết, dù nhiều dạng carbohydrat chứa glucose khác cũng có thể được sử dụng. Mười lăm phút sau khi uống, nếu vẫn còn hạ đường huyết (TKTGM), thao tác điều trị trên nên được lặp lại. Cho đến khi TKTGM trở về bình thường, bệnh nhân nên ăn một bữa ăn chính hoặc một bữa ăn nhẹ để ngăn chặn hạ đường huyết tái phát. E

–  Các cá nhân có nguy cơ hạ đường huyết nghiêm trọng nên được chỉ định glucagon và người chăm sóc hoặc các thành viên trong gia đình nên được hướng dẫn về cách sử dụng. Việc dùng glucagon không bị giới hạn chỉ khi có các cán bộ y tế. E

–  Hạ đường huyết không có dấu hiệu hoặc một hoặc nhiều đợt hạ đường huyết nặng nên được đánh giá lại về phác đồ điều trị. E

–  Bệnh nhân đang điều trị bằng insulin có hạ đường huyết không dấu hiệu hoặc hạ đường huyết nghiêm trọng nên được tư vấn để nâng cao mức đường huyết mục tiêu để tránh hạ đường huyết trong ít nhất nhiều tuần liền để giảm hạ đường huyết không dấu hiệu và giảm nguy cơ trong tương lai. A

–  Bác sĩ cần gia tăng cảnh giác và theo dõi liên tục khả năng nhận thức của bệnh nhân và người chăm sóc nếu phát hiện khả năng nhận thức kém và/hoặc suy giảm nhận thức. B

Hạ đường huyết là yếu tố hạn chế hàng đầu trong việc kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân Đái tháo đường typ 1 và typ 2 đang điều trị bằng insulin. Hạ đường huyết nhẹ làm bệnh nhân thấy bất tiện hoặc sợ hãi về bệnh Đái tháo đường. Hạ đường huyết nghiêm trọng có thể gây tổn thương cấp tính cho bệnh nhân và những người khác, đặc biệt trong trường hợp ngã, tai nạn giao thông hoặc các trường hợp khác. Một nghiên cứu lớn trên bệnh nhân Đái tháo đường typ 2, ở người lớn tuổi, tiền sử hạ đường huyết nặng có liên quan đến mất trí nhớ. Ngược lại, trong nghiên cứu ACCORD, suy giảm nhận thức nền hoặc chức năng có liên quan đáng kể đến biến cố hạ đường huyết nặng. Nghiên cứu DCCT/EDIC trên thanh thiếu niên và thanh niên có Đái tháo đường typ1 không cho thấy bằng chứng chứng minh mối liên hệ giữa hạ đường huyết nặng và suy giảm nhận thức như đã bàn trong Mục 11 – Trẻ em và thanh thiếu niên.

Theo ACCORD, hạ đường huyết nặng có liên quan đến tỷ lệ tử vong ở những người tham gia ở nhóm đường huyết chuẩn và nhóm mục tiêu đường huyết nghiêm ngặt, nhưng mối quan hệ giữa hạ đường huyết, A1C đạt được và mức độ điều trị là không đơn giản. Sự liên quan của hạ đường huyết nghiêm trọng và tỷ lệ tử vong cũng được tìm thấy ở nghiên cứu ADVANCE. Tự báo cáo về hạ đường huyết nghiêm trọng và tử vong trong 5 năm đã có trong thực hành lâm sàng.

Năm 2013, ADA và Hội nội tiết công bố báo cáo đồng thuận “Hạ đường huyết và Đái tháo đường: Báo cáo hợp tác của ADA và Hội nội tiết” trên hiệu quả và điều trị hạ đường huyết ở bệnh nhân Đái tháo đường. Hạ đường huyết nghiêm trọng được định nghĩa là một biến cố đòi hỏi sự hỗ trợ từ người khác. Trẻ nhỏ và người lớn tuổi mắc Đái tháo đường cần được xem là đối tượng dễ bị tổn thương do hạn chế về khả năng nhận diện triệu chứng hạ đường huyết và khả năng giao tiếp. Cá thể hóa việc giáo dục bệnh nhân, can thiệp chế độ ăn uống (ví dụ như bữa ăn nhẹ để ngăn ngừa hạ đường huyết ban đêm), luyện tập thể dục, điều chỉnh thuốc, kiểm soát đường huyết và theo dõi lâm sàng thường xuyên giúp cải thiện kết quả ở bệnh nhân.

Điều trị hạ đường huyết

Điều trị hạ đường huyết cần sự tiêu hóa glucose hoặc carbohydrat từ thức ăn. Đường huyết tức thời phản ánh sự tương quan với glucose tốt hơn so với carbohydrat trong thực phẩm. Glucose tinh khiết là phương pháp điều trị ưu tiên, nhưng các dạng carbohydrat chứa glucose khác cũng làm tăng đường huyết. Việc thêm vào chất béo có thể làm chậm và kéo dài đáp ứng đường huyết tức thời. Hoạt tính insulin liên tục hoặc tiết insulin dẫn đến hạ đường huyết thường xuyên trừ khi nạp thêm thức ăn sau khi hồi phục.

Glucagon

Những người có tiếp xúc gần gũi, hoặc chăm sóc bệnh nhân Đái tháo đường bị hạ đường huyết (như các thành viên trong gia đình, bạn cùng nhà, nhân viên trường học, người chăm sóc trẻ, nhân viên cải huấn và đồng nghiệp) nên được hướng dẫn sử dụng bộ kit glucagon. Cá nhân không cần thiết phải trở thành nhân viên chăm sóc sức khỏe để sử dụng glucagon an toàn. Bộ kit glucagon cần kê đơn bởi bác sĩ và đảm bảo không hết hạn dùng.

Phòng ngừa hạ đường huyết

Phòng ngừa hạ đường huyết là một thành phần quan trọng của việc quản lý Đái tháo đường. TKTGM và kiểm tra glucose liên tục là những công cụ cần thiết để đánh giá điều trị và phát hiện hạ đường huyết tiềm tàng. Bệnh nhân nên biết về những tình huống làm gia tăng nguy cơ hạ đường huyết, chẳng hạn như việc nhịn ăn để xét nghiệm, trong và sau khi tập thể dục cường độ cao và trong khi ngủ. Hạ đường huyết gia tăng nguy cơ gây hại cho bản thân hoặc người khác như việc lái xe. Giáo dục bệnh nhân Đái tháo đường để cân bằng việc sử dụng insulin và lượng carbonhydrat nhập vào và luyện tập thể dục là cần thiết, nhưng vẫn không đủ để phòng ngừa.

Ở bệnh nhân Đái tháo đường typ 1 và typ 2 thiếu insulin nghiêm trọng, hạ đường huyết không dấu hiệu (hoặc hạ đường huyết do thất bại trong điều trị) có thể thỏa hiệp với kiểm soát Đái tháo đường nghiêm ngặt và chất lượng cuộc sống. Hội chứng này đặc trưng bởi sự thiếu phóng thích của các hormon, đặc biệt là ở người lớn tuổi, sự giảm các đáp ứng của cơ thể là những yếu tố nguy cơ và gây ra bởi hạ đường huyết. Kết quả của “vòng lẩn quẩn” này là việc tránh hạ đường huyết trong nhiều tuần đã được chứng minh cải thiện hormon và nhận thức đến một mức độ nào đó ở một số bệnh nhân

Do đó, bệnh nhân có một hoặc nhiều đợt hạ đường huyết nghiêm trọng có thể được hưởng lợi từ việc thay đổi mục tiêu đường huyết ít nghiêm ngặt hơn (cao hơn).

Bác sĩ có kinh nghiệm trong quản lý Đái tháo đường cần điều trị bệnh nhân như trong bệnh viện. Để biết thêm thông tin về quản lý nhiễm keto acid Đái tháo đường và tăng đường huyết tăng thẩm thấu, vui lòng tham khảo báo cáo của ADA “Khủng hoảng tăng đường huyết ở bệnh nhân trưởng thành” .

Thuốc Metronidazol – Flagyl

Metronidazol

Flagyl ® (Specia).

Metronidazol – tên thông dụng. Chỉ định và liều lượng

– Nhiễm trùng roi đường tiết niệu- sinh dục: 250 mg, 3 lần mỗi ngày trong 7-10 ngày: điều trị đồng thời cho bạn tình; đợt trị liệu có thể lặp lại sau khoảng 4-6 tuần. Trẻ em 15 mg/kg/ngày.

Điều trị tức thời nhiễm trùng roi ở người lớn: nên uống một liều duy nhất buổi tối 2 g (cả nam giới và phụ nữ), nhắc lại sau 15 ngày.

Nhiễm trùng roi ở phụ nữ: điều trị tại chỗ bằng 1 viên đặt âm đạo vào buổi tối trong 10-20 ngày.

Viêm âm đạo do Gardnerella vaginalis: uống một liều duy nhất 2 g.

Thận trọng

Phải ngừng điều trị ngay khi xuất hiện viêm dây thần kinh ngoại vi, mất điều hoà hay dấu hiệu khác của loạn chức năng hệ thần kinh trung ương. Các phản ứng này rất hiếm gặp nếu không dùng vượt liều khuyến cáo. Cũng vẫn phải theo dõi đặc biệt cẩn thận những bệnh nhân đang bị một bệnh đang tiến triển của hệ thần kinh trung ương.

Phải kiểm tra thường xuyên xét nghiệm máu cho những người có tiền sử rối loạn về máu và khi điều trị quá 10 ngày.

Nhắc người bệnh không uống rượu trong khi điều trị bởi vì có thể xảy ra những phản ứng kiểu cai nghiện.

Chống chỉ định

Rối loạn tạo huyết.

Động kinh, các bệnh thần kinh.

Đã bị mẫn cảm với nitro-imidazol.

Khi có thai và cho con bú.

Ký sinh trùng Thuốc thiết yếu Thuốc bổ trợ
Động vật nguyên sinh

Babesia microti (bệnh babesia)

Clindamycin + quinin  
Balantidium coli (bệnh do balantidum) Tetracyclin Metronidazol
Cryptosporidium (bệnh do Cryptosporidium) Spiramycin Paronomycin
Entamoeba histolitica    
-Lỵ amip đường ruột Metronidazol tiếp theo diiodohydroxyquinolein. là Tlnidazol
-Bệnh amip ngoài ruột (áp xe gan) Metronidazol tiếp theo Diiodohydroxyquinolein là Dehydroemetin tiếp theo là chloroquin
-Không triệu chứng Dliodohydroxyquinolein Paranomycin
Giardia lamblia (bệnh do giardia) Metronidazol Albendazol
Isospora belli (bệnh do coccidium) Co-trimoxazol – –
Leishmania donovanii (bệnh do leishmania ruột) Meglumin antimoniat Pentamidin
Leishmania tropica (bệnh do leishmania da) Meglumin antimoniat Pentamidin
Leishmania brasiliensis Meglumin antimoniat Amphoterecin B
Leishmania mexicana (bệnh do leishmania niêm mạc-da) Meglumin antimoniat Pentamidin
Plasmodium vivax, malariae và ovale    
-Điều trị cơn sốt rét. Chloroquin
-Chữa sốt rét cơ bản. Primaquin
-Hoá trị liệu dự phòng sốt rét. Chloroquin
Plasmodium falciparum (loại kháng thuốc)    
-Điều trị cơn sốt rét. Sulfadoxin+pyrimethamin Mefloquin
-Chữa sốt rét dạng nhẹ. Quinin truyền tĩnh mạch
-Hoá trị liệu dự phòng sốt rét. Mefloquin Doxycyclin
Pseumocystis carinii Co-trimoxazol Pentamidin
Toxoplasma gondii Pyrimethamin+sulfadiazin Spiramycin
Trichomonas vaginalis (trùng roi sinh dục) Metronidazol Tinidazol
Trypanosoma cruzi (bệnh Chagas) Nifurtimox Benzimidazol
Trypanosoma gambiense Suramin natri Pentamidin hay eflornltln
Trypanosoma rhodesiense (bệnh ngủ) -Giai đoạn máu-bạch huyết.

-Giai đoạn thẩn kinh-não.

Suramin natri Melarsoprol Pentamidin hay eflornitin T ryparsamid+suramin
Giun sán

Trématodes (lớp sán lá)

   
Clonorchis sinensis (sán lá gan bé) Praziquantel Mebendazol
Fasciola hepática (bệnh sán lá gan lớn) Bithionol Praziquantel
Fasciolopsls buski (sán lá ruột) Niclosamid Praziquantel
Paragonimus aừicanus Praziquantel Bithionol
Paragonimus szechuanensis Praziquantel Bithionol
Paragonimus westermani Praziquantel Bithionol
Schistosoma haematobium (sán máng nội tạng) Praziquantel Metrifonat
Schistosoma mansoni (sán máng ruột) Praziquantel Oxamniquin
Schitosoma japonicum (sán máng mạch máu) Praziquantel Niridazol
Schistosoma intercalatum Praziquantel  
Cestodes (lớp sán dây)    
Diphyllobothrium latum (sán dây cá) Praziquantel Niclosamid
Diphyllobothrium mansoni (bệnh sán nhái)
Dipylidium caninum (sán hạt dưa) Niclosamid Praziquantel
Echinococus granulosus (sán chó) Albendazol Mebendazol
Echinococus multilocuralis
Hymenolepsis nana (sán dây chuột) Praziquantel Niclosamid
Hymenolepsis diminuta Niclosamid Praziquantel
Taenia saginata (sán dây bò) Praziquantel Niclosamid
Taenia solium (sán dây lợn) Nematodes (lớp giun tròn) Praziquantel Niclosamid
Angiostrongylus cantonensis (bệnh giun anglostronglus) Tiabendazol Metronidazol
Ankylostoma duodenale (giun móc) Mebendazol Pyrantel
Ankylostoma braziliense (giun bò trong da) Tiabendazol Albendazol
Ascaris lumbrícoides (giun đũa) Pyrantel Piperazin
Brugia malayi (giun chi) Diethylcarbamazin  
Capillaria hepática (bệnh giun Capillaria gan)
Capillaria philipinensis (Bệnh giun capillaria ruột) Mebendazol Albendazol
Dracunculus medinensis (bệnh giun rồng) Metronldazol Tlabendazol
Enterobius vermicularis (giun kim) Pyrantel Mebendazol
Gnathostoma spinigerum (bệnh sán gnathostomia) Albendazol Mebendazol
Loa loa (bệnh giun chỉ loa loa) Dlethylcarbamazln  
Necator americanus (giun mỏ) Mebendazol Pyranthel
Onchocerca volvulus (giun chỉ Ivermectin Diethylcarbamazin tiếp
onchocerca)   đó bằng suramin
Stnongyloides stercoralls (bệnh giun luôn) Tlabendazol Ivermectin
Toxocara cam’s (bệnh giun bò nội tạng) Dlethylcarbamazin Tiabendazol
Trichinella spiralis (bệnh giun xoắn) Tlabendazol Mebendazol
Trichuris trichura (bệnh giun tóc) Mebendazol Tiabendazol
Wuchererria bancrotti (bệnh giun chỉ) Dlethylcarbamazin

Tác dụng phụ

Nói chung, điều trị bằng metroniđazol được dung nạp tốt nhưng hay thấy các triệu chứng nhẹ như nhức đầu, kích ứng dạ dày-ruột, khô miệng và có dư vị kim loại dai dẳng.

Đôi khi: nôn, ỉa chảy, buồn ngủ, mẩn da, nước tiểu sẫm màu, rát đường niệu quản.

Một số tác dụng phụ hiếm, nặng hơn xảy ra, nhất là khi điều trị kéo dài. Đó là những trường hợp viêm dạ dày và nấm candida, viêm tuy, giảm bạch cầu phục hồi được và bệnh lý dây thần kinh cảm giác ngoại vi (tê) nói chung nhẹ và phục hồi nhanh chóng. Những trường hợp mất điều hoà, chóng mặt và co giật kiểu động kinh đã thấy báo ở người dùng các liều cao rõ rệt so với liều khuyên dùng.

Tương tác: đã thấy báo những trường hợp tiềm tàng tăng tác dụng của thuốc uống chống đông máu. Dùng rượu khi điều trị có thể dẫn đến đau bụng, nôn, đỏ da và nhức đầu (tác dụng cai thuốc).

Biểu hiện của bệnh loãng xương

Loãng xương là bệnh thầm lặng, không có các biểu hiện lâm sàng nào để có thể nhận biết bệnh cho đến khi xuất hiện gãy xương. Trước đó tình trạng mất xương, khối lượng xương đỉnh thấp hoàn toàn không có liên quan đến các triệu chứng hoặc dấu hiệu nào.

Đo mật độ khoáng của xương (bone Mineral density BMD) là biện pháp quan trọng nhất để xác định tình trạng mất xương. Tuy nhiên một số biểu hiện lâm sàng sau đây có thể liên quan đến loãng xương:

-Xương dễ gãy hoặc gãy xương do chấn thương rất nhẹ.

-Đau.

-Giảm chiều cao.

-Giảm khả năng vận động.

Nhìn chung loãng xương thường không có nhiều triệu chứng đặc hiệu làm cho người bệnh và nhân viên y tế khó có thể nhận biết được nên không được phát hiện sớm. Khi đã có gãy xương do loãng xương thì bệnh đã ở giai đoạn muộn. Khi đó tùy vị trí gãy xương và các yếu tố liên quan có thể biểu hiện bằng các triệu chứng, dấu hiệu khác nhau.

Trong những trường hợp bị loãng xương nặng có thể có các triệu chứng về hô hấp, đau vùng bụng do gù và có sự gập cột sống quá mức, bờ dưới xương sườn chạm vào mào chậu làm các tạng trong ổ bụng bị đè ép gây cảm giác khó chịu cho bệnh nhân.

Gãy cổ xương đùi là biểu hiện thường gặp ở bệnh nhân loãng xương, bệnh nhân phải bất động nhất là ở người già dễ bị loét các điểm tỳ (mông, gót v.v…). Viêm phổi phế quản, ứ đọng đờm dãi do bệnh nhân phải bất động dài ngày làm tăng nguy cơ và tăng tỉ lệ tử vong.

Gãy xẹp cột sống lưng, thắt lưng gây gù, giảm chiều cao, có thể chèn ép các rễ thần kinh gây đau, rối loạn cảm giác, phản xạ, dễ mắc các bệnh do nhiễm trùng cơ hội.

Gãy đầu dưới xương quay, gãy xẹp cột sống là những biểu hiện hay gặp nhất của bệnh loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh, những bệnh nhân này thường có độ tuổi trẻ hơn so với những bệnh nhân bị gãy cổ xương đùi. Những bệnh nhân bị gãy cổ xương đùi do loãng xương thường xảy ra ở người cao tuổi và có nhiều bệnh phối hợp nên tỷ lệ tử vong liên quan đến gãy cổ xương đùi tăng cao hơn do gãy xương ở các vị trí khác.

Ở phụ nữ sau mãn kinh tuổi từ 40-65 bị loãng xương có tỷ lệ gãy đầu dưới xương quay một bên, hoặc hai bên do các chấn thương trong lao động hoặc sinh hoạt hàng ngày khá cao và các chấn thương nhẹ cũng có thể gây gãy xương. Gãy đầu dưới xương quay là tình trạng bệnh có thể nhìn thấy được của các biểu hiện lâm sàng của gãy xương do loãng xương. Nhưng nhiều thầy thuốc và bệnh nhân lại cho rằng đó là hậu quả của chấn thương do ngã mà không nghĩ đến gãy xương do loãng xương. Mặt khác nhiều bệnh nhân có biểu hiện đau vùng lưng hoặc vùng thắt lưng không có tiền sử chấn thương cũng là dấu hiệu gãy xẹp đốt sống do loãng xương. Khoảng 2/3 số bệnh nhân có gãy xẹp đốt sống nhưng không thấy hoặc không nhớ được trong tiền sử có chấn thương. Khoảng 1/3 số bệnh nhân gãy xẹp đốt sống có thể có liên quan đến chấn thương nhẹ, hoặc vừa.

-Gãy xẹp đốt sống kiểu hình đĩa. Mặt trên hoặc mặt dưới của thân đốt sống bị lõm và chiều cao chính giữa thân đốt sống <80%.

X quang Gãy xẹp đốt sống kiểu hình đĩa
X quang Gãy xẹp đốt sống kiểu hình đĩa

-Gãy hình chêm: Chiều cao phía trước thân đốt sống, lún xẹp < 80% so với chiều cao ở mặt sau thân đốt sống.

 Đốt sống cong gãy

Hầu hết các bệnh nhân gãy cổ xương đùi xảy ra ở tuổi trên 70 và thường có mật độ xương thấp, giảm chỉ số khối cơ thể (BMI) mất cân bằng, phản ứng chậm chạp và nhiều người được dùng nhiều loại thuốc khác nhau.

Đôi khi gãy cổ xương đùi là dấu hiệu đầu tiên của các bệnh lý ác tính ở xương, hoặc các cơ quan khác di căn đến xương nên cần phải chẩn đoán phân biệt hoặc loại trừ, trước khi xác định chẩn đoán gãy xương do loãng xương.

Gãy cổ xương đùi thường gặp 3 loại sau:

Sơ đồ vị trí gãy cổ xương đùi do loãng xương:

1: Gãy cổ xương đùi phần dưới chỏm

2: Gãy cổ xương đùi phần trên

3-4: Gãy liên mấu chuyển các kiểu khác nhau

Gãy cổ xương đùi
Gãy cổ xương đùi

Khoảng 90% số bệnh nhân gãy cổ xương đùi có liên quan đến ngã và kiểu gãy phụ thuộc một số yếu tố:

-Cơ chế chấn thương (góc khi ngã).

-Các kiểu ngã (khi đi bộ, trượt, xoắn vặn).

Các yếu tố có liên quan đến việc bảo vệ bởi lớp mỡ dưới da, và phản xạ thần kinh cơ của bệnh nhân với các kiểu chấn thương.

Gãy xương vùng cẳng tay (đầu dưới xương quay)

Gãy đầu dưới xương quay (colles) gặp ở phụ nữ cao gấp 10 lần so với ở nam giới và thường gặp ở phụ nữ độ tuổi từ 45-65, điển hình nhất là khi ngã về phía trước và chống tay xuống đất. Gãy đầu dưới xương quay do loãng xương bệnh nhân cần phải bó bột trong vòng 4-6 tuần để có thể liền xương. Nhiều bệnh nhân được điều trị ngoại trú, những bệnh nhân cao tuổi cần phải điều trị tại bệnh viện và cần có chế độ chăm sóc đặc biệt tránh nguy cơ xảy ra các biến chứng và các bệnh đi kèm có thể nguy hiểm đến tính mạng của bệnh nhân như bệnh tim mạch, tăng huyết áp, suy tim v.v… Nhiều bệnh nhân cảm thấy khó chịu kéo dài, giảm khả năng cử động ở các mức độ khác nhau, biến dạng có thể xuất hiện muộn là do hậu quả liền xương ở tư thế xấu.

Hình ảnh Xquang gãy đầu dưới xương quay do loãng xương
Hình ảnh Xquang gãy đầu dưới xương quay do loãng xương

Gãy xương ở các vị trí khác

Các gãy xương khác có liên quan đến loãng xương gồm gãy đầu trên xương đùi, xương cảnh chậu, đầu xa của xương chầy hoặc xương chầy/mác, xương sườn hoặc thân xương chầy. Tại các vị trí xương dễ gãy nêu trên chủ yếu do giảm các bè xương so với phần xương đặc. Điều này rất quan trọng vì khi tăng chu chuyển xương thì các vị trí có nhiều xương bè dễ bị mất xương và hậu quả dễ gãy xương do chấn thương nhẹ. Ở các vị trí có xương đặc chiếm ưu thế rất ít khi xảy ra gãy xương (như xương bàn chân, xương cổ tay).

 Hình ảnh Xquang: Gãy đầu trên xương cánh tay
Hình ảnh Xquang: Gãy đầu trên xương cánh tay

 

 Hình ảnh Xquang: Gãy đầu dưới xương cánh tay
Hình ảnh Xquang: Gãy đầu dưới xương cánh tay

 

Quả đậu đỏ nhỏ hạt ( xích tiểu đậu)

Tên khoa học:

Phaseolus angularisWight . Họ Đậu –Fabaceae(Papilionaceae).

Tên khác:

Hồng tiểu đậu, hồng đậu

Mô tả:

Cây đậu đỏ nhỏ hạt sống hàng năm, mọc đứng hay leo, được trồng ở nhiều vùng để lấy hạt. Chùm hoa thường có 6-12 hoa, mọc ở nách lá, màu vàng sáng. Quả hình trụ dài, có nhiều hạt màu đỏ. Quả đậu đỏ nhỏ hạt để ăn và làm thuốc chữa bệnh.

Nguồn gốc:

Đây là hạt đậu đỏ chín, khô, thuộc loài thực vật họ đậu. Sản xuất chủ yếu ở Quảng Đông, Quảng Tây, Giang Tây, Triết Giang v.v…

Phân biệt tính chất, đặc điểm:

Vị thuốc này có hình tròn, dài mà hơi bẹt. Bề mặt màu đỏ tía, không có ánh quang hoặc hơi có ánh quang, một bên có rốn hạt hình tuyến nổi gồ lên, lệch hẳn về 1 bên, màu trắng, dài khoảng 2/3 tổng chiều dài; giữa lõm xuống thành rãnh dọc. Bên kia có 1 đường sống không rõ lắm, chất cứng, không dễ phá nát. Không có mùi, vị hơi ngọt. Loại nào hạt to, mẩy là tốt.

Bảo quản:

Để nơi khô ráo, thoáng gió, chống mọt.

Thành phần hóa học:

Theo các nghiên cứu thời nay, xích tiểu đậu có hàm chứa  protid 19,9%, lipid 0,5%, glucid 64,4% xơ 7,8%, tro 4,3%.vitamin A1, B1, B2, calcium, phosphor, sắt vv…

Có tác dụng kháng khuẩn tiêu viêm, lợi tiêu, hạ thấp men gan trong máu và có tác dụng chống ung thư.

Tính vị – qui kinh:

Xích tiểu đậu Tính vị: vị ngọt, hơi chua, tính bình. Quy kinh: vào kinh tâm, tiểu trường.

Công năng:

Lợi niệu, hoạt huyết và giải độc trừ mủ.

Chủ trị:

Các bệnh phù nề trướng bụng, cước khí phù thũng, vàng da do gan mật, nước đái đỏ, phong thấp nhiệt tê liệt, các loại ung nhọt độc, đau bụng đường ruột có khối u v.v …

Chữa lỵ ra máu.

Giải độc tiêu mủ: chữa mụn nhọt, sưng đau (kết hợp uống và giã đắp nơi sưng đau)

Liều dùng:

Liều dùng 20-40g dùng cho thuốc sắc. Dùng ngoài giã nhỏ hòa giấm đắp vào chỗ đau.

Cấm kỵ khi dùng thuốc:

Người nào miệng khô họng khô, thân thể gầy mòn, thân nhiệt thấp, đổ mồ hôi trộm, không có thấp nhiệt, cấm dùng nhiều, dùng lâu dài.

Đậu đỏ nhỏ hạt tác dụng lợi thủ, tiêu thũng, giải độc bài mủ
Đậu đỏ nhỏ hạt tác dụng lợi thủy, tiêu thũng, giải độc bài mủ

Thuốc ứng dụng từ hạt đậu đỏ nhỏ

Bài 1. Thuốc chữa đái ra máu đau buốt

+ Đậu đỏ nhỏ hạt 30g

+ Hành tươi 3 củ

+ Rượu trắng 30ml

Hạt đậu sao thơm, tán bột mịn, hành nướng vàng vỏ giã nhỏ cho vào rượu ngâm. Rượu hành và thuốc chia 3 lần uống trong ngày với nước sôi để nguội, uống trước bữa ăn. cần uống liền 5-7 ngày.

Bài 2. Thuốc chữa trẻ chậm biết nói

+ Đậu đỏ nhỏ hạt 50g

+ Rượu trắng 30ml

Hạt đậu đỏ phơi khô tán bột mịn cho vào rượu ngâm, sau một tuần đem dùng. Hàng ngày dùng bông thấm rượu thuốc bôi vào dưới lưỡi trẻ, ngày bôi 5-7 lần.

Bài 3. Thuốc chữa lở ngứa, sưng chân do thấp nhiệt

+ Đậu đỏ nhỏ hạt 20g

+ Ngưu tất 15g

+ Đơn đỏ 12g

+ Bồ công anh 10g

+ Núc nác 12g

+ Kim ngân hoa 12g

Các vị thuốc rửa sạch, cho vào nồi cùng 500ml nước đun kỹ, chắt lấy 180ml nước đặc. Người bệnh uống ngày 3 lần trước bữa ăn. cần uống liền 5-7 ngày.

Bài 4. Thuốc chữa táo bón khát nước

+ Đậu đỏ nhỏ hạt 30g

+ Cỏ may 30g

+ Cà gai 30g

+ Dây bòng bong 20g

Các vị thuốc cắt nhỏ, sao thơm, cho vào nồi cùng 450ml nước, đun kỹ chắt lấy 180ml nước đặc. Người bệnh ngày uống một thang chia 3 lần trước khi ăn, mỗi lần 60ml nước thuốc. Cần uống liền 5 ngày.

Bài 5. Thuốc chữa mụn nhọt chưa có mủ

+ Đậu đỏ nhỏ hạt                  50g

+ Giấm ăn                             30ml

Đậu đỏ nhỏ hạt giã thật mịn trộn với giấm gói vào miếng gạc đắp vào chỗ đau, ngày thay thuốc một lần.

Bài 6. Thuốc chữa nhọt độc

+ Đậu đỏ nhỏ hạt 15g

+ Hoàng bá 10g

+ Thiên thảo 10g

+ Kim ngân hoa 10g

+ Bồ công anh 10g

+ Ngưu tất 10g

Các vị thuốc rửa sạch, cho vào nồi cùng 500ml nước đun sôi kỹ, chắt lấy 180ml nước đặc.

Người bệnh uống ngày 3 lần trước khi ăn, mỗi lần 60ml nước thuốc, cần uống liền 3-5 ngày liền.

Bài 7. Thuốc chữa trẻ em bị viêm thận cấp

+ Đậu đỏ nhỏ hạt 30g

+ Liên kiều 12g

+ Ma hoàng 3g

+ Vỏ gừng tươi 3g

Các vị thuốc cho vào nồi cùng 400ml nước đun kỹ, chắt lấy 90ml nước đặc. Trẻ uống ngày 3 lần trước bữa ăn, mỗi lần 30ml nước thuốc, cần uống 7 ngày một liệu trình, sau đó cho xét nghiệm albumin, tùy kết quả mà cho uống tiếp liệu trình mới.

Bài 8. Thuốc chữa đái dắt

+ Đậu đỏ nhỏ hạt 30g

+ Rễ cỏ tranh 30g

+ Rau diếp cá 30g

+ Trần bì 6g

+ Thảo quả 6g

+ Râu ngô 30g

Thuốc cho vào nồi, thêm 600ml nước đun nhỏ lửa cho thuốc nhừ. Khi còn 300ml nước thuốc chắt lấy nước bỏ bã. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày trước khi ăn. cần uống liền 5 ngày.

Bài 9. Thuốc chữa bệnh xơ gan cổ chướng

+ Đậu đỏ nhỏ hạt 30g

+ Thiên hoa phấn 20g

+ Trạch tả 20g

+ Đậu ván trắng 20g

+ Sinh địa 15g

Thuốc cho vào nồi, thêm 600ml nước đun nhỏ lửa cho thuốc nhừ. Khi còn 300ml nước thuốc, chắt lấy nước, bỏ bã. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày trước khi ăn. cần uống liền 21 ngày.

Bài 10. Thuốc chữa thiếu sữa sau khi sinh

+ Đậu đỏ nhỏ hạt 30g

+ Vừng vàng 30g

+ Hạt kê 30g

+ Gạo tẻ ngon 30g

+ Móng giò lợn 250g

+ Đường đỏ 10g

Các thứ làm sạch, cho vào nồi thêm nước vừa đủ ninh nhừ thành cháo, chia hai lần ăn trong ngày lúc đói, cần ăn liền 5 ngày.

Những bài thuốc bổ dưỡng từ Xích tiểu đậu:

Xích tiểu đậu chúc (cháo đậu đỏ)

Đậu đỏ 50g – Gạo lức 200g

Nấu cháo, cháo chín cho muối mì chính cho vừa. Ăn thường xuyên có thể chữa được phù thũng, cước khí, giảm béo.

Xích đậu hồng tảo hoa sinh thang (thang đậu đỏ, táo tầu, lạc nhân)

Đậu đỏ 30g – Lạc nhân 30g

Táo tầu 50g – Đường đỏ vừa phải,

Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần.

Dùng cho người viêm gan cấp tính, vàng da do gan mật.

Xích đậu trà (trà đậu đỏ)

Đậu đỏ 50 – 100g – Đường đỏ vừa phải.

Đậu đỏ nấu thang, cho đường vào uống thay trà.

Dùng cho người sinh nở xong ác lộ không dứt.

Xích tiểu đậu thang (thang thuốc đậu đỏ)

Đậu đỏ 100g, nấu cho thật nhừ. Uống thang ăn đậu, chia 2 lần sớm, tối.

Chữa phù thũng do mọi nguyên nhân, tiểu tiện bất lợi.

Xích đậu đông qua trà (trà đậu đỏ, bí đao)

Đậu đỏ 100g – Bí đao 500g

Nấu chung thành thang, uống thay trà tuỳ thích- Dùng cho người viêm thận, phù thũng do suy dinh dưỡng và cước khí.

Xích tiểu đậu sơn dược chúc (cháo đậu đỏ, sơn dược)

Đậu đỏ 30g – Sơn dược 30g

Đường trắng 1 ít

Sơn dược bỏ vỏ, rửa sạch, thái miếng; đậu đỏ vo sạch, nấu gần chín thì cho sơn dược thái miếng, sau khi chín cho đường cho vừa.

Dùng cho người tỳ hư hoặc tỳ thấp ỉa chảy, phù nề trướng bụng, đái són mà ít, mệt mỏi bải hoải v.v…

Xích tiểu đậu, đồn lí ngư (đậu đỏ hầm cá chép)

Đậu đỏ 90g – Cá chép 300 – 500g

Đậu đỏ rửa sạch, cá chép đánh vẩy, bỏ mang, lòng ruột,

rửa sạch. Cho cả hai vị vào nồi đất hầm nhừ ăn.

Dùng cho người chửa bị phù nề, đẻ xong thiếu sữa, trướng bụng trên, cước khí v.v…

Xích tiểu đậu bài cốt thang (thang đậu đỏ, xương vè)

Đậu đỏ 100g – Xương sườn lợn 500g

2 vị cho nước hầm chung, pha muối cho vừa mà ăn.

Dùng cho người bị bệnh đái đường ăn vào mùa đông.

Người nào có trọng lượng cơ thể vượt tiêu chuẩn phải kiêng không ăn.

Xích tiểu đậu đông qua đồn hắc ngư (đậu đỏ, bí đao hầm cá quả)

Cá quả 1 con (chừng 250g) – Đậu đỏ 60g

Bí đao (cả vỏ) 500g – Hành tựơi 3 cây

Cá quả đánh vẩy, bỏ mang, bỏ lòng ruột, rửa sạch; bí đao rửa sạch thái miếng, đậu đỏ vo sạch, hành tươi rửa sạch sắt khúc. Tất cả cho vào nồi, đổ nước vào hầm nhừ mang ra án, đừng cho muối.

Dùng cho người viêm thận mạn phù nề, phù thũng do rối loạn dinh dưỡng, phù nề khi có mang, xơ gan cổ trướng v.v…

Xích đậu mạch nha chúc (cháo đậu đỏ, mầm lúa mạch)

Đậu đỏ 30g – Đại mạch nha 60g

Nấu cháo, ăn 1 ngày 2 lần.

Chữa trẻ em phù nề do tỳ hư, thận hư sinh ra.

Xích tiểu đậu nội kim chúc (cháo đậu đỏ, vỏ mề gà)

Đậu đỏ 30g – Vỏ mề gà 10g

Vỏ mề gà sấy khô nghiền bột mịn, đậu đỏ rửa sạch cho vào nồi, đổ nước vào đun nhỏ lửa 10 phần chín 8 thì cho món vỏ mề gà vào quấy đều, tiếp tục ninh cho nhừ. Làm món ăn buổi sớm.

Dùng cho người ruột non thấp nhiệt, đái nhiều, đái gấp, đái đau, đầy trướng bụng dưới, ăn không tiêu v.v…

Chứng Tỳ Phế khí hư – Phân biệt và điều trị

Chứng Tỳ Phế khí hư là chỉ một loại chứng hậu phức hợp Tỳ khí hư, đồng thời kiêm cả Phế khí hư. Hoặc là Tỳ khí bị hư từ trước, Tỳ mắc bệnh liên lụy đến Phế tạo thành chứng Tỳ Phế khí hư; Hoặc là Phế khí bị hư từ trước, Phế mắc bệnh liên lụy đến Tỳ hình thành chứng Phế Tỳ khí hư.

Loại trên, lâm sàng lấy biểu hiện Tỳ khí hư làm chủ yếu; Loại dưới thì có chứng trạng của Phế khí bất túc khá rõ ràng. Biểu hiện chủ yếu của chứng Tỳ Phế khí hư là Tỳ mất sự kiện vận, Phế mất sự tuyên giáng, chất nước không phân bố được, đàm và thấp ngăn trở gây nên bệnh biến. Nhân v ì Tạng P hủ bất túc mà thành Hư chứng, cho nên phần nhiều do nội thương gây nên.

Chứng Tỳ Phế khí hư, biểu hiện lâm sàng có thể chia làm hai nhóm chứng trạng, một là Phế khí hư thì khái thấu kéo dài, Đờm trắng loãng, ngực khó chịu đoản hơi, tiếng thấp, tinh thần mệt mỏi, tự ra mồ hôi, dễ cảm mạo; Một là Tỳ khí bất túc thì kém ăn, bụng trướng, đại tiện nhão, chân tay nặng nề thậm chí mặt và tứ chi phù thũng, lưỡi nhạt rêu lưỡi trắng, mạch Tế Nhược.

Chứng Tỳ Phế khí hư thường gặp trong các bệnh Cảm mạo; Khái thấu Suyễn chứng.

Trên lâm sàng, ngoài chẩn đoán về chứng Tỳ Phế khí hư, cần chẩn đoán phân biệt với các chứng đơn thuần khác như Tỳ khí hư và chứng Phế khí hư; còn phải phân biệt chẩn đoán các chứng Đàm thấp ngăn trở Phế và chứng Phế Thận khí hư.

Phân tích

Phế chủ khí toàn thân, Tỳ lại là nguồn sinh hoá ra khí, cho nên chứng Tỳ Phế khí hư phần nhiều xuất hiện từ Tỳ nhất là trong bệnh biến của tạng Phế; Biểu hiện lâm sàng tuy nguyên nhân khác n hau mà có tật bệnh không giống nhau, nhưng về cơ chế bệnh về đại thể thì tương tự.

– Trong Cảm mạo mà có chứng Tỳ Phế khí hư, phần nhiều gặp ở người cao tuổi thể lực yếu, ốm nặng mới khỏi hoặc ốm lâu dằng dai hoặc phụ nữ sau khi đẻ chính khí chưa hồi phục. Tỳ khí bất túc thì nguồn sinh hoá bị thiếu hụt. Phế khí bất túc thì thiểu khí đoản hơi, biểu vệ không bền, cho nên rất dễ bị ngoại cảm phong hàn mà thành bệnh cảm mạo. Ngoài những chứng trạng phong hàn bó ở biểu phận như phát sốt, sợ lạnh, đau đầu đau mình, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Phù, còn biểu hiện cả chứng trạng Phế Tỳ khí hư như tự ra mồ hôi, đoản hơi, mệt mỏi, mạch Hư vô lực (chủ yếu là Phế khí bất túc). Nếu có kiêm đàm ẩm thì khái thấu ra đờm trắng; điều trị nên ích khí giải biểu, tuyên Phế hoá đàm, cho uống bài Sâm tổ ẩm (Hoà tễ cục phương). Nếu Vệ khí không bền, tự ra nhiều mồ hôi và hay bị cảm mạo, thì nên ích khí cố biểu đẩy tà khí ra ngoài, khu phong cầm mồ hôi, cho uống bài Ngọc bình phong tán (Đan Khê tâm pháp), Nếu khí hư nặng, cũng có thể uống Bổ trung ích thang(Tỳ Vị luận).

– Nếu Khái thấu xuất hiện trong chứng Tỳ Phế khí hư tất phải có các chứng khái thấu lâu ngày, Phế khí bị tổn hại mất chức năng thanh túc, Tỳ thấp tụ lại dễ sinh đờm, phát bệnh đầu tiên là ở Phế rồi sau mới lấy dần sang Tỳ, như khái thấu, đàm nhiều sắc trắng, kém ăn, đầy bụng, đại tiện nhão, chân tay mỏi, rêu lưỡi trắng, mạch Hoãn, thậm chí hụt hơi tự ra mồ hôi… Đều là những chứng trạng thuộc Tỳ Phế khí hư; Điều trị nên ích khí kiện Tỳ, hoá đàm chỉ khái, cho uống Bạch truật thang (Khiết cổ gia chân). Lục quân tử thang (Phụ nhân lương phương).

u bệnh Háo suyễn xuất hiện chứng Tỳ Phế khí hư, thì khái suyễn nhiều đờm dính, khạc khó ra đờm, mạch Hoạt; đó là do T ỳ khí bất túc, đờm thấp thịnh ở trong, đường thở bị nghẽn trở, Phế khí mất hoà giáng; Điều trị theo phép bổ Tỳ ích khí, khu đàm giáng khí bình suyễn, cho uống bài Tô tử giáng khí thang (Hoà tễ cục phương) hợp với Tam tử dưỡng thân thang (Hàn thị y thông) gia giảm. Mục Suyễn xúc sách Cảnh Nhạc toàn thư viết “Phế Tỳ khí hư, thượng tiêu hơi nóng hơi khát mà suyễn, nên cho uống Sinh mạch tán” (Nội ngoại thương biện hoặc luận).

Chứng Tỳ Phế khí hư phần nhiều xuất hiện ở người cao tuổi mắc bệnh khái suyễn mạn tính, cho nên phần nhiều từ Phế khí bị hư từ trước rồi dần dần mới đến tạng Tỳ làm cho Tỳ khí cũng hư; Tỳ đã hư thì nguồn sinh hoá của Khí và Phế khí lại càng bất túc; Nặng hơn thì khí của năm Tạng đều bất túc, tinh khí của Thận cũng ngày càng ít dần đi, có thể hình thành chứng cả ba tạng Tỳ Phế Thận đều hư.

Chẩn đoán phân biệt

– Chứng Phế khí hư với chứng Tỳ Phế khí hư: Cả hai đều là Hư chứng; Loại trên chỉ là Phế khí bất túc, mà loại dưới là chứng hậu phức hợp hai tạng Tỳ Phế đều hư.

Nếu do Phế khí hư từ trước rồi mới liên lụy đến Tỳ khí bất túc, thì chứng trạng loại trên nhẹ mà loại dưới nặng. Phế khí hư là giai đoạn bước đầu của Tỳ Phế khí hư. Tỳ Phế khí hư là do Phế khí hư phát triển thêm một bước tạo thành. Chứng trạng cộng đồng của hai loại là ho và suyễn, mửa ra đờm, ngực khó chịu, thiểu khí, mặt nhợt, tự ra mồ hôi, rêu trắng, mạch Nhược; Đất (?) là Phế khí bất túc, Phế mất sự tuyên giáng; mà chứng Tỳ Phế khí hư còn có biểu hiện kém ăn, trướng bụng, đại tiện nhão, chân tay rã rời, nhiều đờm sắc trắng do Tỳ mất sự kiện vận, đàm thấp ở trong gây nên; Chẩn đoán phân biệt hai chứng này không khó.

– Chứng Tỳ khí hư với chứng Tỳ Phế khí hư, hai chứng này cũng đều là Hư chứng, lâm sàng tuy đều có biểu hiện cộng đồng kém ăn, trướng bụng, chân tay rã rời, đại tiện nhão… nhưng chứng Tỳ Phế đều hư nên có cả chứng trạng Phế khí bất túc như ngực khó chịu, thiếu khí, mặt nhợt, tự ra mồ hôi hoặc khái suyễn; Đây là do Tỳ khí bị hư từ trước, nguồn sinh hoá của khí không đầy đủ, dẫn đến Phế khí cũng hư. Trên thực tế, lâm sàng chỉ chứng Khí hư, phần nhiều là nói chứng Tỳ Phế khí hư, vì vậy mục Tỳ vị hư thực truyền biến luận sách Tỳ vị luận của Lý Đông Viên viết: “Khí của Vị bị tổn thương, nguyên khí cũng không thể đầy đủ, mà các bệnh sẽ sinh ra từ đó”, lại nói: “Tỳ Vị hư thì Phế rất dễ bị bệnh, bởi thế vì Hư mà Bổ rất dễ thành công” là theo lý lẽ đó.

– Chứng Đàm thấp nghẽn Phế với chứng Tỳ Phế khí hư, biểu hiện lâm sàng của hai chứng này khác nhau rất ít; Trên thực tế, đàm thấp thịnh của Tỳ Phế khí hư rất giống với c hứng Đàm thấp nghẽn Phế. Chỗ bất đồng của hai chứng là chứng Đàm thấp nghẽn Phế có thể do ngoại cảm phong hàn thấp tà, khái suyễn lâu ngày đến nỗi không phân bố tân dịch mà tụ đàm thấp, úng tắc đường thở, cho nên đờm nhiều sắc trắng loãng.

Chứng Đàm thấp nghẽn Phế phần nhiều là Thực chứng hoặc là chứng Bản hư mà Tiêu thực. Chứng Tỳ Phế khí hư tuy cũng lấy một biểu hiện chủ yếu là Đàm nhiều trong loãng sắc trắng, nhưng các chứng trạng về Phế khí bất túc như thiếu khí, tự ra mồ hôi, và Tỳ khí bất túc như kém ăn, trướng bụng, đại tiểu tiện nhão, mệt mỏi đều rõ rệt. Chứng Phế khí hư là Hư chứng do tạng khí bất túc hình thành; về điều trị, Thực chứng thì nên trừ thực tà, táo thấp để trừ đàm; Hư chứng nên phù chính và trừ tà, kiện Tỳ để hoá thấp.

– Chứng Phế Thận khí hư với chứng Tỳ khí hư: Phế chủ về hô hấp, mà Thận chủ nạp khí, Phế chủ khí mà Thận là gốc của khí, cho nên chứng Phế Thận khí hư lấy Thận khí hư hoặc Thận dương bất túc làm chủ yếu, biểu hiện các chứng hư suyễn, đoản hơi, động làm thì bệnh tăng, hơi thở thấp nhỏ, tự ra mồ hôi, chân tay lạnh, nặng hơn thì són đái, lưỡi nhợt rêu lưỡi trắng, mạch Trầm Tế và Xích bộ nặng hơn, vì vậy chứng Phế Thận khí hư còn gọi là chứng Thận không nạp khí.

Còn chứng Tỳ Phế khí hư, bộ vị bệnh ở Thượng, Trung tiêu, ngoài các chứng trạng Phế khí bất túc như khái suyễn đoản hơi, tự ra mồ hôi, phải có chứng trạng Tỳ khí bất túc như kém ăn, trướng bụng, đại tiện nhão, mỏi mệt… phân biệt hai chứng này không mấy khó khăn. Chứng Tỳ Phế khí hư phát triển thêm một bước ảnh hưởng tới Thận, có thể hình thành chứng Phế Tỳ Thận khí hư, theo bệnh tình tiến triển mà bàn, chứng Tỳ Phế khí hư khá nhẹ mà chứng Phế Tỳ Thận khí hư thì khá nặng.

Trích dẫn y văn

Tỳ Vị bị hư, lười biếng hay nằm, chân tay không rắn chắc. Nếu gặp thời lệnh thu táo, thấp nhiệt lui chậm, thân thể nặng nề đau khớp xương, miệng đắng lưỡi khô, ăn không ngon, đại tiện không đều, tiểu tiện nhiều lần, không muốn ăn, ăn vào không tiêu; lại thấy cả bệnh của Phế, rờn rợn sợ rét, ủ rũ kém vui, sắc mặt cau có không bình thường, đó là do dương khí không thoải mái, điều trị nên Thăng Dương ích Vị (Phế chi Tỳ Vị Hư luận – Tỳ Vị luận).

Các yếu tố nguy cơ trong bệnh tăng huyết áp nguyên phát ?

Trong lúc đi tìm nguyên nhân gây bệnh tăng huyết áp, người ta thấy có một số yếu tố có liên quan rất mật thiết đến bệnh này, có thể làm bệnh dễ xuất hiện hơn và làm nặng thêm bệnh. Người ta gọi các yếu tố đó là các yếu tố nguy cơ hay các yếu tố đe doạ (facteur de risque)

Có nhiều yếu tố nguy cơ tăng huyết áp trong đó đáng chú ý

Tuổi: càng nhiều tuổi thì tỷ lệ mắc bệnh tăng huyết áp càng cao. Điều tra của Viện Tim mạch 1989-1992 cho thấy tỷ lệ đó là 6% ở lứa tuổi 16-39, đã tăng lên 21,5% ở lứa tuổi 50-59, 30,6% ở lứa tuổi 60-69 và 47,5% ở lứa tuổi 70 trở lên. Các điều tra d các nước cũng cho thấy tình hình tương tự.

Chế độ ăn: đáng lưu ý nhất là muối ăn, thực chất là natri vì muối ăn là natri chlorur. Trên thế giới, người ta đã thấy ở những vùng mà người dân ăn quá nhiều muối thì tần suất bệnh tăng huyết áp tăng cao rõ rệt so với các vùng khác, ở nước ta, nghiên cứu của Lê Viết Định (1992) ở tỉnh Khánh Hoà cho thấy tần suất bệnh tăng rõ ở vùng biển (11,7%) nơi mà người dân ăn nhiều muối hơn so với vùng đồng bằng và vùng núi (8,33%).

Thuốc lá: nicotin có trong thuốc lá kích thích hệ thần kinh giao cảm làm co mạch ngoại vi gây tăng huyết áp; hút một điếu thuốc lá, huyết áp tâm thu có thể tăng lên tới 11 mmHg, huyết áp tâm trương tăng lên tới 9 mmHg, kéo dài 20-30 phút, hút nhiều có thể có cơn tăng huyết áp kịch phát nguy hiểm ; nicotin còn làm nhịp tim đập nhanh hơn, cơ tim phải co bóp nhiều hơn. Oxyd carbon có trong khói thuốc lá làm máu giảm cung cấp oxy cho các tế hào và cùng với áp lực đã tăng sẵn của dòng máu khi bị tăng huyết áp càng gây tổn thương thêm các tế bào lớp nội mạc của các động mạch và tạo điều kiên cho bệnh xơ vữa dộng mạch phát triển.

Rượu: uống nhiều rượu làm tăng huyết áp, làm mất hoặc làm giảm tác dụng của thuốc chữa bệnh tăng huyết áp.

Tính chỉ số BMI để đánh giá mức độ béo phì của bạn
Tính chỉ số BMI để đánh giá mức độ béo phì của bạn

Thể trạng: có mối liên quan chặt chẽ giữa huyết áp và trọng lượng cơ thể, người béo dễ bị tăng huyết áp, người tăng cân nhiều theo tuổi cũng sẽ tăng nhanh huyết áp. Có một công thức đơn giản để tính trạng thái thừa cân, đó là tính “chỉ số khối lượng cơ thể” (body mass index):

Chỉ số khối lượng cơ thể = cân nặng (kg)/ [(chiều cao(m)]2

Được coi là thừa trọng lượng khi chỉ số đó 25.

Yếu tố di truyền: người ta đã thấy tính chất gia đình của bệnh tăng huyết áp, bố hoặc mẹ bị bệnh này thì trong số con cái cũng có nhiều người mắc bệnh.

Stress: khi bị căng thẳng tâm thần kinh, hệ thần kinh giao cảm tăng cường hoạt động giải phóng ra adrenalin và noradrenalin làm tim tăng co bóp, nhịp tim nhanh hơn, động mạch nhỏ co lại và làm huyết áp tăng. Stress có thường xuyên thì dễ gây nên bệnh tăng huyết áp, trên nền bệnh tăng huyết áp thì gây cơn tăng huyết áp kịch phát nguy hiểm. Môi trường có tiếng ồn cường độ lớn liên tục cũng gây stress và làm huyết áp tăng.

Bệnh vữa xơ động mạch: thể hẹp động mạch thận do vữa xơ động mạch gây tăng huyết áp. Trừ thể tăng huyết áp thứ phát này ra, bệnh vữa xơ động mạch và bệnh tăng huyết áp là hai bệnh khác nhau nhưng nếu cùng có trên một người bệnh (sự phối hợp này lại hay xảy ra) thì lại dễ thúc đẩy sự phát triển của nhau làm cả hai bệnh càng trở nên nặng hơn nhiều, dễ gây những biến chứng phức tạp, nhất là tai biến về mạch máu não dù là chảy máu não hay nhũn não, tai biến mạch vành như nhồi máu cơ tim, cơn đau thắt ngực, đột tử do bệnh mạch vành.

Bệnh đái tháo đường : bệnh này hay có cùng với bệnh tăng huyết áp. Người ta thấy 30-50% bệnh nhân đái tháo đường bị tăng huyết áp, những bệnh nhân này thường béo; ngược lại, xét nghiệm đường trong máu thấy tăng cao ở 1/3 số bệnh nhân tăng huyết áp.

Áp xe amidan

Định nghĩa: nhiễm khuẩn khu trú ở giữa amidan và cơ thắt trên của họng. Căn nguyên: Nhiễm khuẩn vùng xung quanh amidan thường do liên cầu dung huyết nhóm A, đôi khi do các vi khuẩn kỵ khí. Triệu chứng: hội chứng nhiễm khuẩn cấp tính, có sốt, khó nuốt, thường bị cứng hàm, đau tai, màn hầu mất đối xứng, cột trụ trước amidan bị sưng phồng, lưỡi gà bị phù. Điều trị

  • Nội khoa: penicillin 1 -2 triệu UI; 3 – 4 lần/ngày, có thể kết hợp với corticoid nếu có phản ứng viêm.
  • Ngoại khoa: rạch và dẫn lưu áp xe khu trú, dùng kháng sinh. Sau đó cắt amidan để tránh tái phát.

Điều trị nội tiết trong bệnh ung thư

Năm 1896 Beatson là người đầu tiên ghi nhận được trên một số bệnh nhân ung thư vú. bệnh thoái lui sau cắt buồng trứng. Từ đó người ta sử dụng nội tiết tố để điều trị một số ung thư được công nhận là có liên quan đến nội tiết. Cho đến nay, phương pháp điều trị nội tiết đã cho thấy nhiều đặc điểm ưu việt như: đơn giản, dễ thực hiện, giá thành không cao. tác dụng phụ thấp hoặc không đáng kể so với các phương pháp khác, về khả năng điều trị thì có tới 1/6 số trường hợp ung thư có thể điều trị bằng nội tiết. Với các tiến bộ về sinh học phân tử, các hiểu biết của chúng ta về cơ chế tác động của các nội tiết tố lên khối u ngày càng được mở rộng, để có thể tìm các biện pháp can thiệp ngày càng có hiệu quả hơn.

Cơ chế tác dụng của điều trị nội tiết trong ung thư

1. Các vị trí tổng hợp và điều hòa các hoóc-môn steroid

Dưới tác động của hoóc-môn kích thích hướng sinh dục từ lồi trung gian củ xám, thùy trước tuyến yên tổng hợp và tiết ra hoóc-môn hoàng thể hóa (LH) và hoóc-môn kích thích nang (FSH). Ngoài hoóc-môn kích thích hướng sinh dục, tuyến yên còn chịu tác động của một số hoóc-môn khác theo các đường hoàn ngược (feed back) dương và âm để điều hòa sự tiết LH và FSH. Inhibin là một polypeptid được tổng hợp bởi các tế bào ở vỏ trứng và các tế bào sertoli của tinh hoàn có tác dụng ức chế bài tiết FSH.

Ở buồng trứng, quá trình tổng hợp các steroid tạo estrogen và progesteron được kích thích bởi LH. Ở tinh hoàn, LH kiểm soát sự sản xuất testosterone của tố bào leydig. Sự tổng hợp các steroid ở tuyến thượng thận không do các hóc-môn LH và FSH tác động. Vùng dưới đồi tiết ra yếu tố phóng thích corticotropin (CRF). yếu tố này kích thích tuyến yên tiết ACTH. Sự tiết ACTH bị ức chế bởi con đường hoàn ngược âm. Cortisol lưu hành trong máu tác động lên cả vùng dưới đồi và tuyến yên để giảm tổng hợp và tiết ACTH. Tại thượng thận vỏ, ACTH điều khiển sự tổng hợp steroid từ cholesterol. Sau nhiều quá trình, thượng thận vỏ cho ra các sản phẩm là aldosterone, cortisol, androstenedione và estradiol. Các hoóc-môn này sẽ tác dụng lên các tổ chức đích khác nhau.

Sau mãn kinh, các nguồn hoóc-môn sinh dục chính bị giảm đi thì hệ thống men aromatase ngoại vi sẽ đóng vai trò chính trong việc sinh ra các steroid tạo estrogen. Hệ thống này nằm ó gan, cơ và mỡ sẽ tổng hợp ra androstenedion và chuyển chất này thành estrone và estrone sulphate. Ở nam giới, khi tuổi cao, việc sản xuất testosterone giảm dần dần, glogulin gắn hoóc-môn sinh dục tăng lên, vì vậy lượng testosterone tự do bị giảm.

2. Các thụ thể steroid và cơ chế tác dụng của steroid lên sự phân chia tế bào.

Thụ thể steroid là các protein có mặt ở các tế bào đích với nồng độ rất thấp (1.000-10.000 phân tử trong mỗi tế bào). Không giống với các protein vận chuyển steroid có khả năng gắn nhiều nhưng tính đặc hiệu thấp, các protein thụ thể có khả năng gắn thấp nhưng tính đặc hiệu cao với loại steroid.

Trước kia, người ta nghĩ rằng các thụ thể nội tiết nằm trong bào tương, sau khi gắn với steroid sẽ đưa hoóc-môn vào nhân tế bào để kích hoạt và tác động lên DNA. Đến nay nhờ sử dụng kháng thể đơn dòng người ta thấy gần như tất cả các thụ thể steroid nằm trong nhân tế bào và được coi như một trong những yếu tố điều hòa phiên mã qua lại. Sau khi gắn với hoóc-môn, phức hợp hoóc-môn thụ thể liên kết với các vùng đặc hiệu của các gien đích và mối liên kết này sẽ kích hoạt sự phiên mã.

Một số. loại tế bào ung thư, đặc biệt là các ung thư của giới tính phát triển dưới sự kích thích của các nội tiết tố theo cơ chế này.

Các nguyên lý điều trị nội tiết trong ung thư

Điều trị nội tiết trong ung thư thường được xem là phương pháp kìm tế bào. Cơ chế của đáp ứng với điều trị nội tiết của các ung thư vẫn chưa được giải thích đầy đủ. Nói chung, diều trị nội tiết hiện nay được tiến hành theo các cách sau:

Loại bỏ các hoóc-môn trực tiếp kích thích khối u phát triển.

Ngăn chặn sự sản xuất hoặc tiết ra các yếu tố dinh dưỡng có tác dụng kích thích trực tiếp khối u phát triển. Các yếu tố này có thể được tạo ra bởi: Chính tế bào u, các tế bào ở ngay xung quanh, các tuyến nội tiết ở xa.

Sau khi được điều trị nội tiết, khối u có thể thoái lui hoặc bệnh nhân thấy giảm triệu chứng trong một thời gian. Sự phát triển trở lại của khối u là không tránh khỏi. Mặc dù sau đó khối u vẫn có thể đáp ứng với các biện pháp điều trị nội tiết khác nhưng cuối cùng khối u trở nên trơ với mọi liệu pháp nội tiết. Với các hiểu biết có được hiện nay. chúng ta tạm lý giải hiện tượng này như sau:

Các tế bào đầu dòng và các thế hệ sau về căn bản đã không nhạy cảm với điều trị nội tiết.

Tồn tại từ trước một số quần thể tế bào không đáp ứng với các nội tiết tố.

Quá trình điều trị đã tạo ra các dòng không đáp ứng.

Các phương pháp hiện nay chưa đủ để ức chế các yếu tố kích thích khối u phát triển đã được biết và chưa biết.

Các bệnh ung thư được điều trị nội tiết hiện nay

1. Ung thư vú

Các phương pháp điều trị nội tiết cổ điển cho ung thư vú bao gồm cắt bỏ buồng trứng ớ các bệnh nhân chưa mãn kinh và dùng một dạng estrogen liều thấp (thường là DES) ở bệnh nhân đã mãn kinh. Các phương pháp này dẫn đến lui bệnh ở 30-40% bệnh nhân. Điều trị tái phát thường dùng các progestein, androgen hoặc gluco corticoid, thậm chí phẫu thuật cắt bò tuyến thượng thận và tuyến yên. Đáp ứng lần 2 được thấy ở 50% số bệnh nhân tái phát.

Gần đây, các thuốc kháng estrogen như tamoxiíen đã được sử dụng rộng rãi cho các bệnh nhân ung thư vú cả trước và sau mãn kinh. Tỉ lộ đáp ứng so với các phương pháp điều trị trước không tăng nhưng giảm thiểu được độc tính và tránh được các phẫu thuật lớn VỚI nhiều biến chứng. Mặc dù toàn bộ cơ chế tác dụng của tamoxifen chưa được biết đầy đủ nhưng tác dụng chính là tranh chấp với estradiol tại các thụ thể và gắn với các thụ thể này. Hiện tượng gắn này không gây được phản ứng như tác dụng của estrogen. Tế bào trở nên trơ với các tác dụng của estrogen thực sự. Các tế bào ung thư tồn tại phụ thuộc estrogen sẽ bị chết.

Ngoài phương pháp sử dụng thuốc tranh chấp với nội tiết tố tại các tế bào đích, các phương pháp khác hiện nay là cắt nguồn estrogen. Người ta có thể làm giảm sự sản xuất estrogen hoặc trực tiếp (cắt bỏ buồng trứng), hoặc loại bỏ các chất tiền thân tạo ra estrogen (cắt bó tuyến thượng thận), hoặc loại bỏ các hoóc- môn ở “tuyến trên” đế tạo ra estrogen như ACTH, FSH và LH bằng cách cắt tuyến yên. Các thủ thuật cắt bỏ buồng trứng, tuyến thượng thận hoặc tuyến yên hiện nay ít dùng bởi đã có những thuốc có tác dụng tương đương. Để ức chế tuyến yên tiết LH. người ta có thể sử dụng các chất đồng vận LHRH như goserelin. leuprolide. Đối với phụ nữ đã mãn kinh, buồng trứng ngừng tiết estrogen. Nguồn estrogen được tạo ra chủ yếu từ các chất tiền thân của estrogen qua xúc tác của men aromatase. Sử dụng các thuốc ức chế aromatase như anastrozole. letrozole sẽ ức chế được sản xuất estrogen.

Người ta thấy một số trường hợp khối u có thụ thể nội tiết tố dương tính nhưng không đáp ứng khi điều trị, có thể được giải thích như sau:

Phức hợp hoóc-môn – thụ thể đã không “trưởng thành” được.

Phức hợp hoóc-môn – thụ thể không gắn được với DNA .

Phức hợp hoóc-môn – thụ thể gắn được với DNA nhưng không thể khởi động các biến đổi bình thường liên quan với việc này.

Phức hợp hoóc-môn-thụ thể có thể hoạt động bình thường nhưng vẫn còn một chất chí điểm biệt hóa đồng thời liên quan với thứ khác mà chưa được biết, là phân tử có tác dụng thực sự.

Sự đáp ứng với điều trị nội tiết của các khối u thiếu thụ thể có thể do chủ quan như ít các tế bào biểu mô trong mẫu hoặc bảo quản và xử lý mẫu không thích hợp làm biến tính các thụ thể không bền với sức nóng.

Trong một khối u có sự khác nhau về thành phần thụ thể có lẽ do chọn lọc dòng tại chỗ. Sự khác nhau cũng xảy ra ở các dòng di căn từ cùng một khối u ban đầu. Xét nghiệm trên các lần sinh thiết khác nhau cho thấy khoảng 15-20% thành phần của cả thụ thể estrogen và progesteron sẽ chuyển từ âm tính thành dương tính và ngược lại. Vì vậy sẽ có một số bệnh nhân ban đầu có thụ thể nội tiết âm tính nhưng về sau lại đáp ứng với điều trị và cũng có một tỉ lệ tương đương các bệnh nhân lúc đầu có thụ thể nội tiết dương tính nhưng về sau không đáp ứng với điều trị nội tiết nữa.

2. Ung thư tuyến tiền liệt

Các androgen là các hoóc-môn cần thiết cho sự phát triển ung thư tuyến tiền liệt (tuyến tiền liệt). Các biện pháp điều trị nội tiết có mục đích là giảm nồng độ các androgen trong huyết thanh. Các kết quả điều trị cho thấy 80% bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến tiền liệt đã được cải thiện triệu chứng nhờ điều trị nội tiết. Điều trị nội tiết trong ung thư biểu mô tuyến tiền liệt bao gồm cắt bỏ tinh hoàn, tuyến thượng thận và tuyến yên cũng như dùng các estrogen hoặc các anti-androgen. Gần đây các chất đồng vận LHRH đã được sử dụng kết hợp hoặc không kết hợp đồng thời với các antiandrogen.

Phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn sẽ loại bỏ được 95% các androgen lưu hành trong cơ thể. Kế tiếp, cắt bỏ tuyến thượng thận sẽ lấy bỏ thêm 5% còn lại cũng như các androgen yếu hơn khác, dẫn đến đáp ứng thêm ở một số bệnh nhân.

Dùng estrogen cũng có tác dụng điều trị như cắt bỏ tinh hoàn. Cơ chế tác dụng của estrogen là ức chế LH do đó sẽ làm tinh hoàn giảm tiết dần các androgen nội sinh. Ngoài ra estrogen có thể có một số tác dụng trực tiếp lên khối u tuyến tiền liệt.

Hai thuốc antiandrogen là cyproterone acetate và Aung thuamide đã được sử dụng để điều trị bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt. Các thuốc này có nhiều tác dụng nhưng tác dụng cơ bản là ứcchế gắn testosterone hoặc dihydrotestosterone vào thụ thể androgen.

Điều trị bằng các chất đồng vận LHRH ban đầu làm tăng phóng thích LH và FSH dẫn đến tăng testosterọn. Tuy vậy, nếu dùng liên tục chất đồng vận LHRH nhiều tiến bộ. Với các kỹ thuật về di truyền học như tái tổ hợp DNA và lai ghép đã cho ra một số lượng lớn các thuốc. Bên cạnh một số thuốc đã được áp dụng rộng rãi hoặc đang trong các thử nghiệm lâm sàng, hiện nay còn nhiều thuốc đang được nghiên cứu và có nhiều khả năng được đưa ra trong những năm tới.

Các nhóm thuốc sinh học

1. Các cytokine

Đây là các protein có vai trò trong sự phát triển các tế bào hệ tạo máu và hệ lympho. Đôi khi có sự lầm lẫn về cách gọi tên các protein loại này. Cytokine là một loại protein được sản xuất và tiết ra ở tế bào. Lymphokine là cytokine do lympho bào sản xuất, về chức năng, ngoài tác dụng kích thích sự phát triển các tế bào có các thụ thể đặc hiệu trên bề mặt, các cytokine còn có vai trò trong chống tăng sinh, gây biệt hóa và các tác dụng hoạt hóa chức năng.

Các Interferon

  • lnterferon alpha (INF- a):

+ Một số Interferon đã tỏ ra hữu ích trong điều trị ung thư, trong đó Interferon alpha (INF-a) được nghiên cứu nhiều nhất.

+ Tác dụng điều biến miễn dịch của INF-a bao gồm hoạt hóa tế bào diệt tự nhiên (NK Cell), điều biến sự sản xuất kháng thể của lympho B và tạo trẽn bề mặt tế bào các kháng nguyên phức hợp, phù hợp tổ chức chính yếu (MHC) làm cho khối u nhạy cảm hơn với việc tiêu diệt qua miễn dịch trung gian. Tuy vậy, các tác dụng chống u chính của INF-oc có thể liên quan tới các tác dụng trực tiếp chống tăng sinh.

+ INF-a có tác dụng tốt trong bệnh bạch cầu tế bào tóc và trong giai đoạn sớm của bệnh bạch cầu tủy mãn. Thuốc cũng có hoạt tính cao ở u lympho ác tính không Hodgkin độ ác tính thấp, đa u tủy xương và u lympho tế bào T ớ da. Ngoài ung thư hắc tố và ung thư biểu mô tế bào thận, một số ung thư biểu mô tế bào vẩy và tế bào đáy của da cũng đáp ứng với INF-a. Các chí định khác của INF-a bao gồm nhiễm trùng mãn với viêm gan c. Condvlom mào gà và carcinomatosis thanh quản ớ tuổi thiếu niẽn.

  • Interferon gamma:

+ Interferon gamma (INF-y) làm tăng mức biểu hiện trên bề mặt của MHC và các kháng nguyên liên quan với khối u. INF-y hầu như không có tác dụng chống u khi sử dụng đơn thuần. Hiện tại INF-y mới được dùng trong bệnh dạng u hạt (grarulomatous disease) mãn tính do có tác dụng phòng ngừa làm giảm khả năng nhiễm trùng nặng.

Các lnterleukin

  • Interleukin-2 (IL-2):

+ IL-2 là một lymphokine, sản phẩm của các tế bào T được hoạt hóa, có khả năng gắn với các thụ thể bề mặt tế bào đặc hiệu nằm trên các limphô bào T. Ngoài ra, IL-2 còn có khả năng hoạt hóa các tế bào tiêu diệt tự nhiên (NK Cell). Với các tính chất kích thích miễn dịch, IL-2 đã được nghiên cứu về khả năng chống u.

+ Trên các thử nghiệm lâm sàng, IL-2 khi dùng đơn thuần có tác dụng chống ung thư biểu mô tế bào thận và ung thư hắc tố. Tác dụng chống u cao nhất được thấy khi điều trị IL-2 liều cao. IL-2 đơn thuần với liều 600.000 hoặc 720.000 IU cách nhau 8 giờ trong 5 ngày đã được nghiên cứu và áp dụng cho điều trị ung thư biểu mô tế bào thận di căn. Điều trị liều cao như vậy chỉ được dùng cho các bệnh nhân được chọn lọc kỹ lưỡng về tình trạng tim phổi và do các thầy thuốc có kinh nghiệm sử dụng IL-2 theo dõi. IL-2 cũng được nghiên cứu dùng kết hợp với các vắc xin chống ung thư.

Interleukin-1 (IL-1), Interleukin-4 (IL-4), Interleukin-6 (IL-6), Interleukin- 7 (IL-7) và Interleukin-12 (IL-12): cũng đang được nghiên cứu trong điều trị và hỗ trợ cho các phương pháp điều trị ung thư.

  • Yếu tố hoại tử u (TNF)

TNF-a và TNF-β là các sản phẩm của đại thực bào được hoạt hóa, có chung một loại thụ thể và có nhiều tác dụng sinh học. Các tác dụng điều hòa miễn dịch bao gồm thúc đẩy các kháng nguyên MHC bề mặt và tác động qua lại với các cytokine khác như IL-2. TNF có thể gây độc trực tiếp cho một số tế bào và đóng vai trò làm suy yếu khối u. Khi dùng đơn thuần, TNF không có hoạt tính chống ung thư, có lẽ do các độc tính, chủ yếu là hạ huyết áp, đã làm giới hạn liều. Gần đây TNF được sử dụng thành công hơn trong điều trị ung thư hắc tố ở da tái phát khi được truyền biệt lập chi cùng với melphalan.

2. Các yếu tố tăng trưởng hệ tạo máu

Erythropoietin

Erythropoietin thúc đẩy quá trình tăng sinh và biệt hóa của các tế bào tiền thân dòng hồng cầu. Yếu tố này có thể làm giảm được nhu cầu truyền máu và cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư có thiếu máu.

Yếu tố kích thích dòng bạch cầu hạt (G-CSF)

Đây là yếu tố có hoạt tính tăng sinh các tế bào tiền thân tủy xương sinh ra dòng bạch cầu hạt. Thuốc đã được sử dụng rộng rãi trong phòng và điều trị giảm bạch cầu hạt khi điều trị hoá chất hoặc xạ trị.

Yếu tố kích thích dòng hạch cầu hụt-dại thực hào (GM-CSF)

GM-CSF có tác dụng tăng sinh nổi trội trên các tế bào gốc đa năng. Tuy vậy protein này cũng ứcchế di chuyển bạch cầu hạt. kích thích các chức năng của bạch cầu hạt và đại thưc bào, dẫn đến sản sinh ra một loạt các cytokine từ các tế bào này khi kích hoạt. Thực tế, GM-CSF được sử dụng như các thuốc kích thích tăng sinh bạch cầu trong điều trị hoá chất, xạ trị.

lnterleukin-3 (IL-3)

IL-3 cũng được coi là “CSF đa năng” vì nó có khả năng kích thích các tế bào gốc đa năng của tủy xương khi còn rất sớm. Các tác dụng của IL-3 và GM-CSF trên các tế bào gốc “non” này có thể được tăng lên nhờ IL-1 và IL-6. Vì vậy trong tương lai có thể phối hợp các chất này để tăng hiệu quá điều trị.

Yếu tố kích thích dòng đại thực bào

Đấy là yếu tố tương đối đặc hiệu theo dòng có vai trò trong tăng sinh và kích hoạt các bạch cầu đơn nhân.

Thromhopoiclin (TPO)

Yếu tố này đã được phân lập và đưa vào các thử nghiệm lâm sàng để phòng và điều trị giảm tiểu cầu.

3. Các kháng thể đơn dòng

Từ những năm 80. kháng thể đơn dòng đã được đề xuất và nghiên cứu ứng dụng trong chẩn đoán và điều trị. Các kháng thể gắn với các kháng nguyên đặc hiệu trên bề mặt tế bào u có thể phá hủy tế bào u qua một số cơchế khác nhau. Ngoài những cơ chế chung, mỗi loại kháng thể đơn dòng còn có những cơ chế tác dụng riêng có khả năng tiêu diệt tế bào ác tính hoặc chặn đứng sự phân bào của các tế bào này. Bằng việc tác dụng đặc hiệu chỉ với một vài loại kháng nguyên mà những tế bào lành tránh được những tổn thương do điều trị (liệu pháp trúng đích – Targeted therapy).

Hơn nữa. các kháng thể đơn dòng có thể được sử dụng như những phương tiện chuyên chở các đồng vị phóng xạ, các chất độc. thuốc hoá chất hoặc các cytokine để tiêu diệt tế bào u. Với phương pháp này có thể làm tăng phân phối thuốc đến khối u trong khi giảm được tiếp xúc với toàn thân. Kỹ thuật kháng thể đơn dòng cho phép nghiên cứu các kháng nguyên liên quan với biệt hóa và các đặc điểm về kiểu hình của cả các khối u đặc và bệnh ác tính của hệ tạo máu. Các kháng nguyên có tính đặc hiệu trên bề mặt tế bào u đã được coi như các mục tiêu cho những ứng dụng của kháng thể vào việc điều trị.

Ngày càng có nhiều kháng thể đơn dòng được bào chế và ứng dụng điều trị các loại ung thư khác nhau.

Kháng thể đơn dòng không gắn với các chất khác (unconjugated monocional cmtibodies)

Cơ chế tác dụng của các kháng thể đơn dòng không gắn với các chất khác trong điều trị ung thư có thể đơn giản hoá là phản ứng kết hợp kháng thể với kháng nguyên đặc hiệu làm khởi phát một loạt các phản ứng. quá trình miễn dịch dẫn đến tiêu diệt kháng nguyên. Hai quá trình miễn dịch có vai trò quan trọng trong cơ chế tác dụng của kháng thể đơn dòng là: gàv độc tế bào qua trung gian tế bào phụ thuộc kháng thể (Antibody-dependent cellular cytotoxicity-ADCC) và gây độc tế bào phụ thuộc bổ thể (Complement-dependent cvtotoxicity- CDC). Các kháng thể đơn dòng đã được ứng dụng và nghiên cứu trên lâm sàng hiện nay gồm:

Trastuzumab (Herceptin): Her-2/neu (c-erbB-2) là một thành viên trong họ các thụ thể yếu tố phát triển biểu bì (EGFR). Có khoảng 25-30% bệnh nhân ung thư vú có thụ thể Her-2/neu dương tính. Các trường hợp ung thư vú có thụ thể này dương tính có tiên lượng xấu và mang nguy cơ tái phát, di căn cao hơn. Trastuzumab là kháng thể đơn dòng chống Her-2/neu chỉ có tác dụng đối với các trường hợp Her-2/neu dương tính. Kết quả bước đầu cho thấy tỷ lệ đáp ứng lâm sàng khi dùng trastuzumab đơn thuần cho các trường hợp ung thư vú di căn kháng với hoá chất có anthracycline là 21%. Khi trastuzumab phối hợp với hoá chất, tỷ lệ đáp ứng lên tới 62% so với 36.2% khi dùng hoá chất đơn thuần.

Rituximab (Mabthera, Rituxan): Đây là kháng thể đơn dòng chống kháng nguyên CD20 có trên các tế bào lympho B. được sử dụng trong điều trị u lympho ác tính không Hodgkin tế bào B. Kết quả bước đầu cho thấy tỷ lệ đáp ứng với thuốc này đạt từ 20-50%. Một số trung tâm cũng đang thử nghiệm thuốc này trên các bệnh nhân bệnh bạch cầu Iympho mạn.

Cetuximab (Erbitux): Là kháng thể đơn dòng chống thụ thể yếu tố phát triển biểu bì (EGFR). EGFR có trên bề mặt của một số loại tế bào u, thường bộc lộ quá mức ở các tế bào ung thư biểu mô đại trực tràng, phổi, đầu cổ. EGFR đóng vai trò điều hoà sự phát triển tế bào, tăng khả năng di căn và làm giảm thời gian sống của bệnh nhân. Khi kháng thể gắn với các thụ thể này sẽ làm ức chế tế bào phát triển và chết theo chương trình. Trên lâm sàng, cetuximab được sử dụng điều trị ung thư đại trực tràng di căn cho đáp ứng khoáng 10,8% khi dùng đơn độc và 22,9% khi phối hợp với irinotecan. Thuốc cũng được nghiên cứu điều trị ung thư phổi và ung thư đầu cổ.

Bevacizumab (Avastin): Là kháng thể đơn dòng nhằm vào một loại protein gọi là yếu tố phát triển nội mạc mạch máu (VEGF). VEGF có vai trò trong tăng sinh mạch. Thông qua tác dụng chống VEGF, bevacizumab làm ức chế sự hình thành và phát triển các mạch máu mới của khối u. Thuốc đã được chấp thuận sử dụng trong ung thư đại trực tràng di căn. Khi phối hợp với hoá chất phác đồ ILF cho các bệnh nhân ung thư đại trực tràng di căn, thời gian sống toàn bộ trung bình đạt 20,3 tháng so với 15.6 tháng khi chỉ điều trị hoá chất ILF.

Alemtuzumab (Campath): Đây là kháng thể đơn dòng gắn chọn lọc với CD52, có mặt trên các tế bào dòng B và T ác tính. Thuốc có tác dụng làm giảm số lượng tế bào ác tính lưu hành ở bệnh nhân bệnh bạch cầu lympho mạn tế bào B. Alemtuzumab đã được FDA chấp thuận sử dụng điều trị bệnh bạch cầu lympho mạn tế bào B đã kháng với các thuốc alkyl hoá và fludarabine.

Kháng thể đơn dòng gắn với đồng vị phóng xạ

Phương pháp sử dụng các kháng thể đặc hiệu gắn với các đồng vị phóng xạ còn có tên là miễn dịch phóng xạ. Các đồng vị phóng xạ khi được kháng thể mang tới đích sẽ phát huy tác dụng tiêu diệt tế bào u. Các đồng vị phóng xạ tạo các tia beta như I131, Y90 và Cu67 hay được dùng hơn cả vì khả năng tiêu diệt tế bào u lân cận cao. Việc tổng hợp phức hợp kháng thể – đồng vị phóng xạ đòi hỏi chuyên môn hoá sâu để đảm bảo cho các kháng thể vẫn giữ được các tính chất miễn dịch của nó, đặc biệt là gắn với kháng nguyên u.

Việc điều trị miễn dịch phóng xạ bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố. Sự có mặt của các kháng nguyên lưu hành trong máu đã kết hợp với kháng thể phức hợp kháng thể-đồng vị phóng xạ không tới đích. Việc gắn không đặc hiệu vào các thụ thể Fc trong tế bào gan hoặc các tế bào võng nội mô cũng làm giảm hiệu quả điều trị. Ngoài ra còn có một số yếu tố như phức hợp không thâm nhập được sâu vào trong u do kích thước u quá lớn. sự phức tạp của kháng nguyên u và không bộc lộ hết kháng nguyên của u, tế bào u điều chỉnh lại không sinh kháng nguyên nữa sau khi tiếp xúc kháng thể và cả hiện tượng cơ thể sinh kháng thể chống lại kháng thể ngoại lai.

Vào năm 2002, kháng thể đơn dòng có gắn đồng vị phóng xạ đầu tiên là ibritumomab tiuxetan chống CD20 gắn với I131 hoặc Y90 (Zevalin) được FDA chấp thuận trong điều trị u lympho ác tính không Hodgkin tế bào B đã kháng với điều trị thông thường. Kháng thể thứ hai, tositumomab cũng chống CD20 gắn với I131(Bexxar) cũng được FDA chấp thuận vào năm 2003 cho điều trị u lympho ác tính không Hodgkin kháng VỚI rituximab và thuốc hoá chất.

Kháng thể đơn dòng gắn với độc tố

Phương pháp còn được gọi là gây độc miễn dịch trong đó sử dụng các độc tố (chiết xuất từ cây cỏ hoặc vi khuẩn) gắn với kháng thể đơn dòng. Các độc tố miễn dịch đã cho thấy chúng có khả năng làm thu nhỏ khối u đặc biệt là các u lympho ác tính. Mặc dù đã có các thử nghiệm trên các loại độc tố miễn dịch khác nhau nhưng hiện mới chỉ có gemtuzumab ozogamicin (Mylotarg) được FDA chấp thuận trong điều trị. Phức hợp này bao gồm một độc tố có tên calicheamicin được gắn với kháng thể đơn dòng chống CD33, một kháng nguyên trên các tế bào non ở 80% trường hợp bệnh bạch cầu tuỷ cấp. Mylotarg được sử dụng để điều trị bệnh bạch cầu tuỷ cấp tái phát, có CD33 dương tính ở người trên 60 tuổi hoặc không thể điều trị hoá chất. Một độc tố miễn dịch khác là BL22 cũng đang được nghiên cứu và tỏ ra có triển vọng trong điều trị bệnh bạch cầu tế bào tóc.

4. Các chất ức chế tyrosine kinase

Gần đây, các nhà khoa học trên thế giới đi sâu vào nghiên cứu các chất ứcchế tyrosine kinase. Imatinib mesylate (Gleevec), một chất ức chế tyrosine kinase Bcr-Abl, sản phẩm lai ghép chủ yếu sinh ra từ nhiễm sắc thể Philadelphia trong bệnh bạch cầu tuỷ mạn. Bcr-Abl cũng bộc lộ quá mức ở các khối u đệm của đường tiêu hoá. Imatinib đã được thử nghiệm rất thành công trong điều trị bệnh bạch cầu tuỷ mạn. Thuốc không những gây lui bệnh về huyết học mà còn cho tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn về di truyền học tế bào rất cao.

Các tyrosine kinase có trên các thụ thể yếu tố phát triển biểu bì (EGFR) cũng đã được phát hiện và ứng dụng trong điều trị ug thư. Như phần kháng thể đơn dòng đã đề cập, EGFR có biểu .hiện ớ một số loại tế bào u và đóng vai trò quan trọng trong sự tăng sinh của các tế bào này. Hai thuốc hiện được nghiên cứu là gefinitib(Iressa), eiionitib (Tarceva) với tác dụng ức chế men tyrosine kinase làm ngăn chặn EGFR truyền tín hiệu đến nhân tế bào. Đối với ung thư phổi đã kháng với điều trị, tỷ lệ đáp ứng của gefinitib là 11% và erlonitib là 13%.

Một thuốc có khả năng ức chế tyrosine kinase của cả yếu tố phát triển nội mạc mạch máu (VEGF) và của EGFR là vandetanib (Zactima). Với khả năng ứcchế VEGF qua tyrosine kinase, thuốc có khả năng chống tăng sinh mạch máu tại khối u. làm khối u thoái triển. Với tác dụng trên EGFR, vandetanib cũng có thêm cơ chế tác dụng tương tự gefinitib và errlonitib.

Các độc tính của điều trị sinh học

Nói chung các độc tính của thuốc sinh học có thể biết trước liên quan với liều và liệu trình. Dùng interferon theo liệu trình hàng ngày có thể sẽ xuất hiện các triệu chứng toàn thân như sốt, mệt mỏi, đau cơ. Các thuốc chống viêm không phải steroid và acetaminophen có tác dụng làm giảm các triệu chứng này. Độc tính của IL-2 phụ thuộc liều điều trị. Cho dù bệnh nhân được chọn lọc kĩ để điều trị IL-2 liều cao. các biến chứng về tim mạch bao gồm hạ huyết áp và hội chứng rò mao mạch vẫn có thể xảy ra. Các biểu hiện lâm sàng bao gồm giảm albumin huyết thanh, tăng cân và xuất hiện phù ngoại vi khi truyền dịch để nâng huyết áp . Sự quá tải về dịch có thể làm hại đến phổi. Các biến chứng khác về tim của IL-2 liều cao bao gồm các loạn nhịp, chủ yếu tâm thất và nhồi máu cơ tim. Biến chứng sau phần lớn tránh được nếu sàng lọc các bệnh nhân vốn bị thiếu máu cơ tim.

Các bệnh nhân đang điều trị IL-2 xuất hiện ban đỏ đặc trưng sau có thể chuyển thành tróc vảy da. IL-2 cũng có thể làm nặng thêm bệnh vảy nến có từ trước và có liên quan nhưng hiểm với sự xuất hiện hội chứng giống Pem-phi-gút. Bệnh nhân đang điều trị IL-2 cũng bị giảm ngon miệng và có thể xuất hiện buồn nôn và thi thoảng có ỉa chảy. Suy giáp cũng được mô tả là liên quan với điều trị IL-2 và hiếm khi liên quan với interferon cần tạm ngừng điều trị IL-2 khi xuất hiện các thay đổi về thần kinh tâm thần như nhầm lẫn. Cũng như các tác dụng phụ khác của IL-2, rối loạn này có khả năng hồi phục nhưng sẽ vẫn còn kéo dài một thời gian sau khi ngừng thuốc.

Các corticosteroid ngăn ngừa hoặc giảm hầu hết các tác dụng phụ liên quan với 1L-2. có lẽ bởi ngăn chặn việc phóng thích các cytokine do IL-2 kích thích như TNF và IFN-y. Vì vậy corticosteroid có thể làm giảm tác dụng chống u của IL-2 và chỉ sử dụng trong các tình huống thật cần thiết.

Dùng kháng thể đơn dòng liên quan với hạ huyết áp và thở nông. Nguy cơ phản vệ lớn hơn khi dùng lặp lại nên đã dẫn đến việc thử test tĩnh mạch thận trọng với epinephrine, các steroid và các thuốc kháng histamine sẵn có trong tay.

Những ngộ độc gây tổn hại cho mắt (Không phải do dùng thuốc)

Ở đây chỉ nêu lên những trường hợp ngộ độc do những sản phẩm công, nông nghiệp, ngộ độc do thức ăn, đồ uống, do nghiện ma tuý.

Ngộ độc do các sản phẩm công, nông nghiệp

Trong những ngộ độc loại này, gây ra trên cơ quan thị giác thì các tổn hại của thị thần kinh là hay gặp nhất.

  • Ngộ độc do các loai rươu methylique: rượu methylique là một hoá chất được dùng như một dung môi cho các loại sơn, các loại vécni v.v…

Ngộ độc mạn tính do hít phải hơi độc biểu hiện bởi một viêm thị thần kinh trục (axiale) với ám điểm trung tâm và loạn sắc trục xanh ve – đỏ.

Ngộ độc do uống phải cồn methylique dẫn đến giảm thị lực rất nhiều , thậm chí dẫn đến mù loà.

Khám đáy mắt: gai thị bị cương tụ và phù nề.

Bệnh tiến triển nhanh chóng dẫn đến teo gai thị và đôi khi bị lõm gai kiểu như glôcôm.

  • Ngộ độc do oxyd de carbon:ngộ độc do oxyd de carbon thường là do hít phải khí độc, tai biến này thường gây ra những rối loạn của đồng tử; nặng hơn còn có thể gây ra chứng mù vỏ não và những tổn hại của dây thần kinh thị giác.
  • Ngộ độc do sulfure de carbon:đây là một dung môi được sử dụng rất nhiều trong công nghiệp. Sulfure de carbon gây rối loạn về điều tiết và những biểu hiện về mạch máu ở đáy mắt (co thắt mạch máu, tăng huyết áp của động mạch trung tâm võng mạc).
  • Ngộ độc do arsenic:chất arsenic được dùng trong công nghiệp nhuộm, công nghiệp làm đạn chì súng săn và một số chất diệt côn trùng.

Arsenic tiết ra theo cả đường nước mắt, do đó ngộ độc mạn • tính chất này có thể gây viêm kết mạc, đôi khi còn có thể gây viêm thị thần kinh trục.

  • Ngộ độc do thủy ngân: thủy ngân được sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp (hoá chất, phân bón v.v….).

Ngộ độc thủy ngân được nghiên cứu trong những năm gần đây dưới tên: bệnh Minamata. Khi thủy ngân gây ngộ độc thì nó cố định trên não, nhất là thùy chẩm; cho nên có nhiều dấu hiệu ở mắt: thị trường thu hẹp, viêm thị thần kinh trục v.v… đôi khi người ta còn thấy những lốp màu xám, nâu nhạt ở mặt trước của thế thủy tinh.

  • Ngộ độc do benzol:người ta dùng benzol như một dung môi trong công nghiệp. Benzol gây ra những rối loạn về máu rất quan trọng (giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu, giòn mao mạch). Về nhãn khoa, ta có thể thấy xuất huyết kết mạc và võng mạc, đôi khi có phù gai thị hay viêm dây thần kinh thị giác trục.
  • Ngộ độc do disulfat de carbon và SH2: (trong công nghiệp cao su, trong công nghiệp sợi nhân tạo). Ngộ độc mạn tính sẽ dẫn đến một teo thị thần kinh tiến triển với hội chứng Parkinson, người ta cũng nói đến một tổn hại võng mạc với những vi phình mạch, những đám tiết tố và xuất huyết.
  • Ngộ độc do bromur de methyl:đây là một sản phẩm sử dụng trong công nghiệp dược phẩm và trong những xưởng sản xuất bình chữa cháy. Bromur de methyl có thể gây ra viêm thị thần kinh.
  • Ngộ độc do trichlorethylen:đây là một chất hoà tan mạnh sử dụng trong công nghiệp hoá chất. Ngộ độc mạn tính của chất này thường gây ra thương tổn cho dây thần kinh thị giác, cho dây thần kinh sinh ba và đôi khi gây viêm giác mạc liệt thần kinh (neuro – paralytique).
  • Ngộ độc do chì:chì được dùng trong công nghiệp làm sơn, làm pin, làm chất bổ sung trong các loại xăng.

Ngộ độc mạn tính có thể gây ra những viêm thị thần kinh trục, những liệt vận nhãn, những mù vỏ não.

Những dấu hiệu ở mắt cùng tồn tại với những dấu hiệu toàn thân cho phép ta chẩn đoán ngộ độc chì (đau bụng chì, mép viền ở lợi của Burton).

Ngộ độc do các thức ăn và uống

  • Bệnh ngộ độc Clostridium butilium:dấu hiệu mắt là những triệu chứng hàng đầu. Sau một thời gian ủ bệnh chừng 24 giò, người ta thây xuất hiện đột ngột bằng một liệt điều tiết, thường kèm theo giãn đồng tử cả hai bên. Hai dấu hiệu cùng đến bất thần: liệt vận nhãn ngoại lai (extrinsèque) và viêm thị thần kinh.

Những chứng viêm nhiễm chất độc vi sinh vật do thức ăn khác (những chứng ngộ độc này ít gây ra các dấu hiệu ở mắt).

  • Các loại nấm

Nấm Amanite fausseorange: ngộ độc nấm này đôi khi gây ra những ảo giác thị giác và tình trạng giãn đồng tử.

Nấm có dây (Clitocybe) trắng: nấm này gây ra một hội chứng muscarin với tình trạng co đồng tử.

  • Ngộ độc do rượu:có hai biểu hiện

Ngộ độc cấp: biểu thị bằng một song thị hai mắt kèm theo lác ẩn ngoài và rối loạn về quy tụ (comvergence).

Ngộ độc mạn tính: biểu thị bằng một viêm thị thần kinh trục hai bên với loạn sắc trục xanh ve – đỏ và ám điểm trung tâm.

Ngộ độc do ma tuý

Ngộ độc cần sa: ngộ độc độc cần sa có thể gây nên những ảo giác thị giác và tình trạng giãn đồng tử. Thị thần kinh bị viêm và thường có ám điểm trung tâm.

Ngộ độc heroin: ở những người tiêm heroin vào tĩnh mạch, ta có thể thấy trên võng mạc có những vùng khu trú bị nhiễm nấm Candida albicans; cơ chế sinh bệnh của loại viêm nội nhãn này cho đến nay người ta cũng chưa rõ. Chích heroin dễ dẫn tới mắc AIDS.

Phòng ngộ độc

Phần lớn các chất độc vào cơ thể người qua đường hô hấp, tiêu hoá v.v…do đó tuỳ loại mà người ta tiến hành phòng ngộ độc bằng vệ sinh ăn uống, rửa tay sạch, dùng khẩu trang, dùng máy, bình hút các khí độc, khám phát hiện sớm các ngộ độc.

Điều trị

Phần lớn các ngộ độc đều gây tổn hại cho thị thần kinh (ngộ độc do rượu methylique, do oxyd de carbon, do sulfure de carbon V.. ) vì vậy đối với những loại ngộ độc này cần cho Divascol, Priscol, v.v… (Divascol 10mg/ông/ngày, tiêm sau nhãn cầu).

Dưới đây là phương pháp điều trị một số trường hợp ngộ độc thường gặp:

  • Ngộ độc chì:nước uống có lưu huỳnh: uống Sulfat de magnesie 10g/ngày, thuốc lợi tiểu; cho thuốc giãn mạch, D.T.A., 20mg/kg cân nặng, truyền tĩnh mạch ngày 2 lần. Chế độ ăn: sữa, cháo.
  • Ngô độc arsenic:dùng thuốc lợi niệu,thuốc giãn mạch BAL 2,5 mg/kg cân nặng, tiêm bắp: 2 ngày đầu 6 lần/ngày, 2 ngày sau 4 lần/ngày. 5 và 6 là 2 lần/ngày. Chế độ ăn:sữa, cháo.
  • Ngộ độc do đồ hộp hỏng:(Cl. Butilium): rửa dạ dày, cho than hoạt và nước bơm qua ống thông dạ dày, dùng 20g/lần/2 giờ cho đến 120 g/ngày. uống sulfat magnesie 10g/ngày. Uống vài lòng đỏ trứng gà (lecithin trong trứng hút và trung hoà độc tố). Uống chlorocid 1,5 – 2 g/ngày, chia làm 4 lần.