Blog Trang 590

Chẩn đoán bệnh gan do rượu

Bệnh gan do rượu (ARLD) thường được nghi ngờ đầu tiên khi các xét nghiệm cho các tình trạng y tế khác cho thấy gan bị tổn thương.

Điều này là do bệnh thường không có triệu chứng rõ ràng ở giai đoạn đầu.

Nếu bác sĩ nghi ngờ Bệnh gan do rượu, họ thường sẽ yêu cầu xét nghiệm máu để kiểm tra chức năng gan của bạn. Họ cũng có thể hỏi về mức độ tiêu thụ rượu của bạn.

Điều quan trọng là phải hoàn toàn trung thực về lượng rượu bạn uống và tần suất uống. Điều này giúp tránh các xét nghiệm không cần thiết, có thể làm trì hoãn việc điều trị cần thiết.

Tác hại của rượu
Tác hại của rượu với gan của bạn

Xét nghiệm máu

Xét nghiệm máu dùng để đánh giá chức năng gan được gọi là xét nghiệm chức năng gan.

Tuy nhiên, các xét nghiệm chức năng gan có thể bình thường ở nhiều giai đoạn của bệnh gan.

Xét nghiệm máu cũng có thể phát hiện nếu bạn có mức thấp một số chất nhất định, chẳng hạn như protein gọi là serum albumin, được gan tạo ra.

Mức serum albumin thấp cho thấy gan của bạn không hoạt động đúng cách.

Xét nghiệm máu cũng có thể kiểm tra các dấu hiệu rối loạn đông máu, điều này có thể chỉ ra tổn thương gan nghiêm trọng.

Tìm thêm thông tin về xét nghiệm máu gan trên trang web Lab Tests Online

Kiểm tra thêm

Nếu triệu chứng của bạn hoặc kết quả xét nghiệm chức năng gan cho thấy một dạng Bệnh gan do rượu tiến triển (viêm gan do rượu hoặc xơ gan), bạn có thể cần các xét nghiệm thêm.

Chẩn đoán hình ảnh

Các hình ảnh chi tiết của gan có thể cần thiết, bao gồm:

  • Siêu âm
  • Chụp CT
  • Chụp MRI

Một số chẩn đoán hình ảnh cũng có thể đo độ cứng của gan, đây là dấu hiệu tốt cho thấy gan bị xơ.

Sinh thiết gan

Trong quá trình sinh thiết gan, một kim nhỏ sẽ được chèn vào cơ thể (thường là giữa các xương sườn).

Mẫu nhỏ của tế bào gan sẽ được lấy và gửi đến phòng thí nghiệm để kiểm tra dưới kính hiển vi.

Sinh thiết thường được thực hiện dưới gây tê cục bộ, có thể là trong ngày hoặc qua đêm tại bệnh viện.

Mô gan sẽ được kiểm tra để xác định mức độ xơ hóa của gan và nguyên nhân gây tổn thương.

Nội soi

Nội soi là quá trình sử dụng một ống mỏng, dài, linh hoạt có gắn đèn và camera ở đầu.

Trong quá trình nội soi, dụng cụ này sẽ được đưa xuống thực quản (ống dẫn thức ăn từ cổ họng đến dạ dày) và vào dạ dày.

Hình ảnh của thực quản và dạ dày sẽ được truyền lên màn hình ngoài. Bác sĩ sẽ kiểm tra sự xuất hiện của các tĩnh mạch phồng to (giãn tĩnh mạch), dấu hiệu của xơ gan.

Suy gan và suy gan cấp tính

Suy gan

Tên khác: suy tế bào gan.

Căn nguyên: mọi bệnh về gan và đường mật, nhiễm độc, chuyển hoá, do virus, vi khuẩn, do tuần hoàn đều có thể dẫn đến suy gan. Các nguyên nhân chính là:

  • Tế bào gan bị phá huỷ trường diễn: rượu (xơ gan) và các bệnh mạn tính do virus (viêm gan mạn tính hoạt động) có vai trò quan trọng. Đôi khi do các u ác tính di căn vào gan.
  • Hoại tử rộng: viêm gan virus cấp, tối cấp và nhiễm độc (ví dụ, halothan) là các nguyên nhân hay gặp nhất.
  • Tổn thương chức năng tế bào gan, không có hoại tử: gan nhiêm mỡ cấp trong thời kỳ có thai, một số thuốc độc với gan (ví dụ, tetracyclin), hội chứng Reye, viêm gan cấp do rượu.

Sinh lý bệnh: gan tổng hợp tất cả các protein của huyết tương (trừ các globulin miễn dịch), các yếu tố đông máu, transferrin, alpha-1- chymotrypsin và các lipoprotein không phải từ thức ăn. Gan cũng có vai trò quan trọng trong chuyển hoá carbon hydrat. Dưới tác dụng của glucagon và adrenalin, glycogen được phân giải thành glucose và đi vào máu (quá trình đường phân). Dưới tác dụng của insulin, glucose được tổng hợp thành glycogen của gan (quá trình tạo thành glycogen). Gan biến đổi một phần acid béo thành các triglycerid. Gan là nơi xảy ra chuyển hoá bilirubin và là cơ quan chủ yếu chuyển hoá và khử độc nhiều chất nội sinh (ví dụ, các hormon) và ngoại sinh (thuốc, chất độc). Ammoniac do quá trình lên men protein bởi các vi khuẩn đường ruột được gan biến đổi thành urê. Trong suy gan nặng, có các rối loạn dưới đây do nhiều nguyên nhân:

  • Thời gian Quick kéo dài, có thể trở về bình thường sau khi tiêm vitamin K nếu bị vàng da do ứ mật.
  • Đông máu nội mạch rải rác, làm cho hoại tử gan thêm trầm trọng.
  • Giảm tiểu cầu: do cường lách hoặc do thiếu máu vô sản làm cho viêm gan virus cấp thêm nặng (hiếm gặp).

GHI CHÚ – một vài rối loạn nội tiết làm suy gan mạn tính thêm nặng và về lâm sàng chỉ giới hạn ở bộ máy sinh dục:

Nhược năng tuyến sinh dục ở nam giới: nồng độ testosteron, nhất là phần tự do bị giảm; estrogen và prolactin tăng. Giảm ham muốn, tinh trùng ít, bất lực, teo tinh hoàn. Nữ hoá: vú to (lúc đầu, có thể chỉ to một bên), ít lông, phân bố” lông mu kiểu nữ.

Nhược năng tuyến sinh dục ở nữ giới:bệnh sinh còn chưa rõ. Giảm ham muôn, rối loạn kinh nguyệt, vú và tử cung bị teo nhỏ.

SUY GAN CẤP TÍNH

Tên khác: teo gan vàng cấp tính, suy gan tối cấp.

Định nghĩa: gan bị hoại tử cấp và nhiều, tiến triển trong vòng 2 tháng ở người không có tiền sử gan.

Giải phẫu bệnh: hoại tử tan máu rộng ở gan.

Căn nguyên

  • Viêm gan virus, nhất là viêm gan B (+5) và c (xem viêm gan tối cấp).
  • Nhiễm khuẩn khác: sốt vàng, nhiễm xoắn khuẩn, herpes.
  • Viêm gan do thuốc và do chất độc: paracetamol, halothan, isoniazid, tetrachlorur carbon, phospho, amanit.
  • Nguyên nhân khác: nhiễm mỡ cấp tính trong thời kỳ mang thai, hội chứng Reye, hội chứng Budd-Chiari.

Triệu chứng

Toàn thân: sốt, đổ nhiều mồ hôi, huyết áp không ổn định, tim loạn nhịp nhanh.

Bệnh não do gan (xem bệnh này): cuồng sảng, rối loạn nhân cách, phù gai thị, duỗi cứng mất não, ngủ gà, tiến tới hôn mê.

Vàng da do suy tế bào gan (xem bệnh này).

Hội chứng xuất huyết (prothrombin huyết giảm).

Suy thận, hạ đường huyết, viêm tụy cấp.

Điều trị: nhập viện, nằm tại khoa hồi sức, hô hấp viện trợ nếu cần, theo dõi áp lực nội sọ. Có thể xem xét để ghép gan.

Tiến triển điều trị chứng huyết khối tĩnh mạch sâu như thế nào?

Mục tiêu chính của việc điều trị Huyết khối tĩnh mạch sâu là ngăn chặn cục máu đông bị vỡ ra và di chuyển đến phổi, tình trạng này gọi là thuyên tắc phổi (PE). Điều này có thể chặn dòng máu đến phổi và có thể gây tử vong trong một số trường hợp.

Bằng cách điều trị Huyết khối tĩnh mạch sâu của bạn, các bác sĩ hy vọng:

  • Giữ cho cục máu đông không lớn hơn
  • Ngăn chặn sự hình thành cục máu đông mới
  • Tránh các biến chứng lâu dài

Việc điều trị của bạn có thể thay đổi và tiến triển theo thời gian tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của Huyết khối tĩnh mạch sâu và các yếu tố nguy cơ của bạn đối với việc hình thành cục máu đông khác.

Điều trị đầu tiên cho Huyết khối tĩnh mạch sâu là gì?

Các bác sĩ gọi khoảng thời gian từ khi chẩn đoán đến những tuần đầu điều trị là giai đoạn cấp tính của Huyết khối tĩnh mạch sâu.

Phương pháp điều trị ban đầu phổ biến nhất là thuốc chống đông máu (thuốc kháng đông). Những loại thuốc này bao gồm:

  • Heparin trọng lượng phân tử thấp (LMWH)
  • Fondaparinux (Arixtra) – chất ức chế Xa gián tiếp
  • Các chất ức chế Factor Xa như rivaroxaban (Xarelto) hoặc apixaban (Eliquis)
  • Heparin không phân đoạn

Rivaroxaban và apixaban thường được chọn làm liệu pháp hàng đầu. Một liệu pháp ngoại trú phổ biến khác là LMWH, được tiêm dưới da. Sau đó, có thể dùng thuốc đối kháng vitamin K, chẳng hạn như warfarin (Coumadin). LMWH cũng có thể được tiếp theo bằng dabigatran (Pradaxa) hoặc edoxaban (Savaysa). Những loại thuốc này làm giảm khả năng đông máu của máu bạn.

Bác sĩ của bạn có thể quyết định nhập viện điều trị nếu Huyết khối tĩnh mạch sâu của bạn nghiêm trọng hoặc nguy cơ thuyên tắc phổi của bạn cao. Bạn cũng có khả năng cao phải nằm viện nếu bạn:

  • Có vấn đề về tim và phổi
  • DVT của bạn nằm ở vùng chậu
  • Bạn không thể sử dụng thuốc chống đông máu
  • Bạn có rối loạn đông máu hoặc xuất huyết
  • Bạn đang mang thai
  • Bạn bị béo phì
  • Bạn bị suy thận

DVT nghiêm trọng có thể cần điều trị bằng thrombolytics. Những loại thuốc này phân hủy cục máu đông nhưng có nguy cơ chảy máu cao.

Nếu bạn không thể sử dụng thuốc chống đông máu do một tình trạng y tế khác, bác sĩ của bạn có thể điều trị Huyết khối tĩnh mạch sâu của bạn trước bằng một bộ lọc tĩnh mạch chủ dưới (IVC filter). Bác sĩ sẽ đưa bộ lọc này trực tiếp vào tĩnh mạch của bạn. Nó hoạt động như một cái lưới để bắt cục máu đông nếu nó bị vỡ ra và ngăn cản nó đến phổi.

Bạn cũng có thể là ứng viên cho phương pháp lấy cục máu đông (thrombectomy). Đây là khi bác sĩ đưa một ống vào tĩnh mạch của bạn và loại bỏ cục máu đông một cách vật lý.

Điều trị chính

Khi bạn đã qua 5 đến 10 ngày đầu tiên sau khi chẩn đoán và điều trị ban đầu, bạn sẽ bước vào giai đoạn điều trị lâu dài của Huyết khối tĩnh mạch sâu. Thời gian này kéo dài khoảng 3 tháng để hoàn tất điều trị tích cực. Nếu đây là Huyết khối tĩnh mạch sâu đầu tiên của bạn, bác sĩ của bạn có thể khuyến nghị bạn tiếp tục sử dụng thuốc chống đông máu trong 3-6 tháng.

Phòng ngừa thứ cấp

Giai đoạn điều trị Huyết khối tĩnh mạch sâu này kéo dài một thời gian dài sau giai đoạn điều trị chính và có thể kéo dài vô thời hạn. Khi bạn đạt đến giai đoạn quản lý Huyết khối tĩnh mạch sâu này, bạn sẽ làm việc để ngăn ngừa Huyết khối tĩnh mạch sâu tái phát.

Nếu bạn đã sử dụng thuốc chống đông máu, đây là giai đoạn điều trị mà bạn và bác sĩ sẽ quyết định tiếp tục hay ngừng thuốc. Việc bạn có tiếp tục sử dụng hay không sẽ phụ thuộc vào một số yếu tố, bao gồm:

  • Nguy cơ hình thành Huyết khối tĩnh mạch sâu lần nữa của bạn
  • Nguy cơ chảy máu của bạn
  • Vị trí cục máu đông của bạn
  • Sở thích của bạn

Nếu bạn có nhiều yếu tố nguy cơ như tiền sử gia đình, rối loạn đông máu, hoặc một số bệnh lý nhất định, bác sĩ của bạn có thể khuyến nghị bạn tiếp tục sử dụng thuốc chống đông máu vô thời hạn. Nếu bạn có nguy cơ chảy máu cao, những nhược điểm của thuốc chống đông máu có thể lớn hơn những lợi ích.

Cùng với các phương pháp điều trị này, bác sĩ của bạn có thể khuyến nghị thay đổi lối sống giúp ngăn ngừa Huyết khối tĩnh mạch sâu tái phát:

  • Vận động cơ thể. Đừng ngồi lâu. Hãy đứng dậy thường xuyên. Đi bộ ngắn mỗi ngày để giữ cho cơ bắp co lại và máu lưu thông tốt. Nếu bạn không thể đứng hoặc đi, hãy thường xuyên siết và thả lỏng các cơ chân hoặc nâng và hạ chúng để giữ cho tuần hoàn tốt.
  • Uống đủ nước. Luôn quan trọng để uống đủ nước, nhưng đặc biệt cần thiết khi bạn sẽ ngồi lâu, chẳng hạn như trong chuyến bay dài.
  • Giữ cân nặng khỏe mạnh. Thừa cân gây áp lực lên tĩnh mạch của bạn và tăng nguy cơ Huyết khối tĩnh mạch sâu

Cách chữa bệnh trĩ tại nhà dễ áp dụng hiệu quả

Bệnh trĩ thường do viêm nhiễm cục bộ, thức ăn cay đắng kích thích làm cho máu ứ ở niêm mạc trực tràng hoặc máu trong tĩnh mạch trở về bị tắc làm cho một bộ phận tĩnh mạch phồng lên gấp khúc hoặc thành cục hình tròn. Nhiều người mắc bệnh này, tỷ lệ người lớn mắc bệnh chiếm 50% đến 70%, nam nhiều hơn nữ, tuổi càng cao thì bệnh càng nặng dần.

Lâm sàng chia làm 3 loại; nội trĩ, ngoại trĩ và trĩ hỗn hợp. Ngoại trĩ thường không có triệu chứng gì, nội trĩ thường đại tiện ra máu, màu máu đỏ tươi, cục trĩ lòi ra, hậu môn ngứa ngáy.

Nôi dung chữa bệnh trĩ.

  1. Ngoại trĩ đơn thuần không cần phải chữa bệnh.
  2. Ăn nhiều rau quả chữa bệnh táo bón.
  3. Giữ cho hậu môn sạch sẽ.

Phương pháp chữa bệnh trĩ tại nhà

Phương thuốc hiệu nghiệm

  1. Hoàng kỳ 20 gam. thăng ma 10 gam, cành ổi 60 gam, hoài sơn dược 15 gam. sắc uống, mỗi ngày 1 thang.
  2. Một ít cà trắng khô, đốt thành than nghiền nhỏ, ngày uống 3 lần, mỗi lần 3 gam.
  3. Rau sam, mãng lau, khổ sâm, mỗi thứ 15 gam, sắc uống, ngày một thang.
  4. Cây xương rồng bà, dâu đất, mỗi thứ 30 gam, hoa hoè 10 gam, táo tàu 5 gam, sắc uống, ngày 1 thang.

    Vị thuốc Hoàng kỳ điều trị bệnh trĩ
    Vị thuốc Hoàng kỳ điều trị bệnh trĩ

Phương pháp ăn uống.

  1. Thịt nạc 100 gam, một ít cây sung, sắc uống, ngày 1 lần.
  2. Rau kim châm, đường đỏ 120 gam. Đổ 2 lít nước vào rau kim châm sắc lấy 1 bát, cho đường đỏ vào uống, ngày 1 lần.
  3. Mộc nhĩ đen (khô) 30 gam dùng nước sôi ngâm cho mềm, sáng sớm ăn lúc đói bụng,
  4. Gạo nếp, vỏ mẫu đơn, mỗi loại 500 gam. nghiền thành bột, mỗi ngày lấy 100 gam hoà với nước đem rán ăn, 10 ngày là một liệu trình.

Điều trị bên ngoài.

  1. Xoa bóp.

Dùng ngón tay trỏ ấn và xoa huyệt trường cường (Cuối xương cùng) hoặc xung quanh hậu môn, ấn nhẹ và đều, mỗi lần 5 phút, ngày 2 lần.

2 Đắp thuốc:

  • Lấy ngũ bội tử (rễ) rửa sạch, giã nhỏ, cho 1 ít mỡ lợn quấy đều, nặn thành bánh đắp vào chỗ đau, mỗi ngày thay thuốc 2 lần, đắp liền 7 ngày.
  • Lấy lòng đỏ trứng gà chín nghiền nát, đun nhỏ lửa để chảy dầu, khi dùng lấy dầu trứng gà bôi vào cục trĩ, mỗi lần 1-2 giọt, ngày 2 lần vào buổi tối và buổi sáng.
  • Hoa mào gà, ngũ bội tử, mỗi thứ 3 gam, môt ít băng phiến cùng nghiền nhỏ, hoà với mật lợn bôi vào chỗ đau. ngày 2 lần.
  • Đâu ba ba 7 cái, băng phiến 0.6 gam, một ít dầu vừng. Đầu ba ba đốt thành than nghiền thành bột, trộn đều với băng phiến, hoà với dầu vừng bôi chỗ đau, ngày 2 lần.

Các phương pháp khác

  1. Phương pháp xông rửa.

Rễ xương hồ tươi 300 gam, cho nước đun sôi, xông và rửa chỗ đau, ngày 2 lần.

Rễ cây khổ sâm, cây diếp cá mỗi loại 250 gam, đun sôi cho thêm một ít băng phiến xông rửa chỗ đau, ngày 2 lần.

  1. Phương pháp chườm thuốc:

Một ít tỏi sống, rang chín, giã nhỏ, dùng vải màu sạch gói lại chườm vào chỗ đau.

  1. Phương pháp kéo hậu môn lên.

Co hậu môn lên lại thả ra, mỗi lần 5 phút, ngày 2 lần.

Bệnh trĩ cần lưu ý

  1. Chỉ chú trọng uống thuốc, coi thường việc bồi dưỡng và tập luyện cơ hậu môn sẽ không có lợi cho việc chữa bệnh.
  2. Không kịp thời chữa các bệnh xung quanh hậu môn như bệnh ký sinh trùng, khí hư của nữ quá nhiều sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến kết quả chữa bệnh này.
  3. Trong ngoài hậu môn kỳ cọ quá nhiều sẽ làm tổn thương niêm mạc gây nên viêm nhiễm.

Chẩn đoán và điều trị tăng áp động mạch phổi

  1. Định nghĩa

Tăng áp động mạch phổi là sự tăng bất thường áp lực động mạch phổi có thể là hậu quả của suy tim trái, tổn thương nhu mô phổi hoặc bệnh lý mạch máu, huyết khối tắc mạch hoặc sự kết hợp của các yếu tố trên. Bình thường áp lực động mạch phổi lúc nghỉ ngơi là 15 mmHg, mỗi năm tăng thêm 1 mmHg. Gọi là tăng áp động mạch phổi khi áp lực động mạch phổi trung bình ở người lớn > 25 mmHg (khi nghỉ ngơi).

  1. Chẩn đoán

Chẩn đoán xác định

  • Lâm sàng
    • Triệu chứng cơ năng: Khó thở gắng sức, mệt mỏi, đau ngực.
    • Khám thực thể: tĩnh mạch cổ nổi, bắt mạch cảnh yếu, nghe tim có T2 mạnh ở ổ van động mạch phổi, tiếng thổi tâm trương do hở van động mạch phổi, thổi tâm thu do phụt ngược dòng vì van ba lá bị hở, xanh tím ngoại vi và/hoặc phù, gan to, cổ trướng ở giai đoạn cuối của bệ
  • Cn lâm sàng
    • X-quang ngực  đường kính  nhánh  dưới động  mạch  phổi phải (chỉ  số WOOD) > 16 mm
    • Điện tim: trục phải, phì đại thất phải, nhĩ phải: P phế ở DII, DIII, aVF; sóng P 2/3 sóng R, R cao V1, S sâu ở V6, mỏm tim quay
    • Siêu âm tim doppler giúp ước tính áp lực động mạch phổi trung bình > 25 mmH
    • Thông tim: là thủ thuật cơ bản đánh giá chính xác áp lực động mạch phổ

Chẩn đoán nguyên nhân

Phân loại Tăng áp động mạch phổi theo lâm sàng (Dana Point, 2008).

  • Tăng áp động mạch phổi
    • Tự phát.
    • Có tính chất gia đình
    • Tăng áp động mạch phổi do thuốc (thuốc tránh thai, Rhumenol, Decolgen) và độc tố.
  • Tăng áp động mạch phổi có liên quan với:
  • Bệnh mô liên kết.
  • Nhiễm
  • Tăng áp hệ tĩnh mạch cửa.
  • Bệnh tim bẩm
  • Bệnh sán mán
  • Thiếu máu tan máu mạn tí
    • Tăng áp động mạch phổi kéo dài ở trẻ sơ
  • Tăng áp động mạch phổi do bnh tim trái
    • Suy tim tâm thu.
    • Suy tim tâm trương.
    • Bệnh van tim (hẹp van hai lá).
  • Tăng áp động mạch phổi liên quan đến bnh lý phổi và /hoặc giảm oxy máu
    • Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tí
    • Bệnh lý phổi kẽ.
    • Bệnh lý phổi khác gây rối loạn thông khí hỗn hợp (tắc nghẽn, hạn chế).
    • Rối loạn giảm thông khí phế nang.
    • Rối loạn thở khi ngủ (hội chứng ngừng thở khi ngủ).
    • Sống ở vùng ca
    • Một số bất thường bẩm sinh của phổi.
  • Tăng áp động mạch phổi do bnh huyết khối và/hoc tc mạch mạn tính
    • Huyết khối tắc động mạch phổi trung tâ
    • Huyết khối tắc động mạch phổi ngoại
    • Tắc mạch phổi không do huyết khối (u, ký sinh trùng, dị vật).
  • Tăng áp động mạch phổi không căn nguyên hoc do nhiều yếu tố
    • Rối loạn về máu: tăng sinh tủy xương, cắt lác
    • Bệnh lý hệ thống: bệnh sacoit, Histiocytosis X, Lymphangioleiomyomatosis, viêm mạch, xơ hóa thần kinh cơ.
    • Rối loạn chuyển hóa: bệnh tích glycogen, bệnh Gaucher, rối loạn tuyến giá
    • Nguyên nhân khác: tắc nghẽn do u chèn ép, viêm xơ hóa trung thất, suy thận mạn tính có lọc máu.
    • Chèn ép mạch máu phổi do hạch,
  1. Điều trị

Điều trị hỗ trợ

  • Tránh gắng sức
  • Thuốc chống đông đường uống: Nên chỉ định dùng chống đông cho tất cả các bệnh nhân bị TAĐM Liều warfarin khởi đầu 1 mg/ngày, cần điều chỉnh để INR đạt 2-3 lần so với chứng.
  • Thuốc lợi tiểu: Có thể dùng nhóm furosemide đơn thuần hoặc kết hợp với kháng aldosteron (Spironolacton 25-50 mg/ngày), furosemid + spironolactone 20/50 x 1-2 viên/ngày, indapamid 1,5 mg x 1-2 viên/ngày. Theo dõi chức năng thận và sinh hóa máu, tránh suy thận chức năn
  • Thở oxy liên tục khi áp lực riêng phần oxy máu động mạch (PaO2) < 60 mmHg hoặc SpO2< 90% để duy trì độ bão hòa oxy (SpO2) > 90%
  • Digoxin: làm tăng cung lượng tim mặc dù hiệu quả khi dùng kéo dài không rõ ràng.
  • Điều trị loạn nhịp tim nếu có.

Điều trị căn nguyên Tăng áp động mạch phổi: Điều trị bệnh lý gây Tăng áp động mạch phổi

Thuốc điều trị đặc hiệu

  • Thuốc chẹn kênh calci: thường chỉ định cho Tăng áp động mạch phổi nguyên phát. Các thuốc thường dùng là nifedipin 20mg 8 giờ 1 lần, liều tối đa 240 mg/ngày. Diltiazem 60 mg 8 giờ 1 lần, liều tối đa 720 mg/ngày, amlordipin 5 mg x 1 lần/ngày, liều tối đa 20 mg/ngày. Phải đo huyết áp trước khi dùng từ liều thứ 2 trở đi và nên tăng liều từ từ để đạt được liều tối ưu. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc tăng liều là hạ huyết áp và phù chi dưới. Bệnh nhân cần được theo dõi chặt chẽ về hiệu quả và tính an toàn của thuốc. Cần đánh giá lại sau 3 tháng.
  • ức chế enzym Phosphodiesterase – 5: Sildenafil chỉ định cho bệnh nhân Tăng áp động mạch phổi với mức khó thở NYHA II, Tác dụng cải thiện triệu chứng và khả năng gắng sức. Liều khuyến cáo ban đầu là 25 mg x 3 lần/ngày. Tác dụng phụ thường gặp nhất là đau đầu. Không chỉ định cho bệnh nhân đang dùng nitrat.
  • Kháng receptor nội mạch: Bosentan cải thiện triệu chứng và dung nạp gắng sức. Điều trị bắt đầu với 62,5 mg x 2 lần/ngày trong tháng đầu tiên và sau tăng lên 125 mg x 2 lần/ngày. Cần theo dõi chức năng g Chống chỉ định ở bệnh nhân điều trị đồng thời với cyclosporin hoặc glyburid.
  • Prostacyclins:
  • Iloprost, dùng đường hít được chỉ định cho bệnh nhân Tăng áp động mạch phổi với mức độ NYHA III,IV. Điều trị bắt đầu với 2,5 hoặc 5 mcg hít. Tác dụng phụ thường gặp nhất là ho và mẩn đỏ. Vì thời gian bán thải rất ngắn (30 phút) nên khuyến cáo sử dụng thường xuyên 2 giờ 1 lần.
  • Epoprostenol (prostacyclin tổng hợp): giúp cải thiện triệu chứng, khả năng gắng sức và huyết động, và là thuốc duy nhất cải thiện thời gian sống ở bệnh nhân Tăng áp động mạch phổi nguyên phát. Điều trị bắt đầu với liều 2-4 ng/kg/phút truyền tĩnh mạch trung tâm, tăng dần liều, liều tối ưu tùy từng bệnh nhân, thường từ 20-40 ng/kg/phút. Tác dụng phụ là nhiễm trùng tại chỗ, tắc catheter, mẩn đỏ, đau xương hàm, ỉa chảy.
  • Treprostinil, chất tương tự với epoprostenol nhưng có thời gian bán thải dài hơn (4 giờ), ổn định ở nhiệt độ phòng, có thể truyền tĩnh mạch hoặc tiêm dưới Khi tiêm dưới da gây đau tại chỗ. Tác dụng phụ tương tự với epoprostenol. Liều tối ưu từ 50-100 ng/kg/phút.
    • Ghép phổi

Cân nhắc ghép phổi cho bệnh nhân không đáp ứng với điều trị truyền Prostacyclin. Có thể ghép tim – phổi, ghép 1 hoặc 2 phổi.

Tài liệu tham khảo

  1. Foster (2010), “Pulmonary hypertension”, The Washington Manual of Medical Therapeutics, 33rded, Lippincott Williams & Wilkins; 303- 312.
  2. European Society  of  Cardiology  (ESC)  and   European Respiratory Society (ERS) (2009), “Guidelines for the diagnosis and treatment of pulmonary hypertension”, European Heart Journal, 30; 2493-2537.
  3. Rubin L.J. (2010), “Pulmonary vasculitis and primary pulmonary hypertension”, Murray and Nadels Textbook of Respiratory Medicine, 5th ed, Saunder, Elsevier.
  4. Rubin L.J. (2004), “Diagnosis and management of pulmonary arterial hypertension: ACCP evidence-based clinical practice guidelines”, Chest; 126 (1); pp.4-6.

Lịch sử và sự phát triển của trà thuốc

Trà vốn là một loại thực vật hoang dã thuộc loại sơn trà thường mọc thành bụi. Khoảng hơn 4000 năm trước vào thời đại Thần nông, những người lao động đã ngẫu nhiên phát hiện ra trà cũng như tác dụng giải độc của trà, từ đó trà đã trở thành thứ đồ uống giải độc. Trà thuốc là thành phần thuốc quan trọng trong y học của Trung Quốc, là kinh nghiệm được tổng kết lại trong một thời gian dài và trong quá trình chiến đấu với bệnh tật của người lao động Trung Quốc. Trà có tác dụng như một vị thuốc, nó đã tồn tại trong 2700 năm lịch sử của người Trung Quốc. Trong cuốn Bản thảo Thần Nông thời Đông Hán, cuốn Bản thảo bổ sung của Trần Tạng Khí đời Đường, cuốn Trà phổ của Cố Nguyên Khánh đời Minh đều ghi chép lại một cách rất cẩn thận công dụng như một vị thuốc của lá trà. Tương truyền Thần Nông Thị nếm phải bạch thảo, nhiễm phải 72 vị độc, nhờ có lá trà mới giải được độc. Những danh y lớn đời Hán là Trương Trung Cảnh, Hoa đều dùng trà để chữa các loại bệnh.

Vào thời Đường đã có khá nhiều cách luận giải về việc phòng bệnh và chữa bệnh khi dùng lá trà. Cuốn Bản thảo đời Đường có nói: “Lá trà cam thảo có vị mát lạnh mà không độc, tiêu đờm, trợ tiêu hóa, lợi tiểu tiện. Lại nói: “Hạ khí tiêu hóa thức ăn, khi uống cho thêm thủ di, hành và gừng vào. Lấy trà và các vị trà thuốc ứng dụng vào việc chữa đau đầu, đờm nóng, tiêu hóa thức ăn và tiêu nước, từ đó có tác dụng bổ thận chống mỏi lưng, thính tai sáng mắt, cơ bắp chắc khỏe.Tác dụng giống như vị thuốc của trà

Tác dụng giống như vị thuốc của trà:

Do trà uống rất thuận lợi nên người ta hay cho thêm vài vị thuốc vào trà, từ đó mà tạo nên trà thuốc. Theo sự tích lũy kinh nghiệm của những người chữa bệnh, cho rằng trà thuốc là chỉ một loại thuốc, vị tất phải cho thêm lá trà mới gọi chung là trà thuốc. Trong cuốn Thái bình thánh huệ vương của Vương Hoài Ân đời Tống đã kể ra hơn 10 phương trà thuốc như trà thông thị, trà bạc hà, trà lưu huỳnh. Trong cuốn n thiện chính yếu của Hốt Tư Tuệ đời Nguyên cũng ghi chép về các phương trà thuốc; cuốn Bản thảo cương mục của Lí Thời Trân đời Minh đã luận giải rất rõ ràng về các phương trà thuốc, trong đó có luận giải về trà chủ trị ho khan, tiêu đờm.

Trà thuốc khá thịnh hành vào thời Minh Thanh, là một thứ trà bổ dưỡng cho sức khỏe, những người nghiên cứu về trà ngày càng nhiều, thậm chí ứng dụng vào trà thuốc càng phong phú, vào thời đó thịnh hành nhất là đại trà ẩm, là một loại trà thuốc bảo vệ sức khỏe. Theo phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc, dùng trà dưỡng sinh kết hợp với thuốc trung thảo càng là một sự phát triển lớn, càng khiến cho công dụng của trà thuốc cũng như trà bổ dưỡng sức khỏe lớn hơn nữa, nó đã trở thành một viên ngọc sáng quý báu trong y học cổ truyền của người Trung Quốc. Ví dụ như trong cuốn Bản thảo cầu chân cũng nói tác dụng của trà là lọc phổi tiêu đờm, thanh nhiệt giải độc, điều tiết dịch nhầy, giải sạch độc. Phàm là các chứng thức ăn khó tiêu hóa, đầu mắt không sạch, đờm không tiêu, tiểu tiện khó khăn, cảm giác háo nước, cho đến nôn ra máu, tiểu tiện ra máu, hỏa thương mục, khi uống trà đều có tác dụng.

Trong hoàng cung thời nhà Thanh, uống trà thuốc để chữa bệnh, bồi dưỡng sức khỏe đã trở thành tục lệ phổ biến của các tầng lớp vương công quý tộc. Các danh y đời trước trong một thời gian dài đã từng bước tích lũy được những kinh nghiệm phong phú về cách chữa bệnh vào việc sử dụng những loại trà thuốc bồi bổ sức khỏe. Sau khi thống nhất đất nước, trong phần phụ lục cuốn Dược điển phần thứ nhất của Trung Quốc đã ghi chép yêu cầu và cách dùng để chữa trị của trà thuốc, sự phổ biến của trà bồi bổ sức khỏe đã từng bước có tác dụng. Trà thuốc qua các nhà dưỡng sinh và danh y thời trước đã không ngừng hoàn thiện, từ đó đã xuất hiện các phương trà thuốc nhiều tác dụng, đã trở thành một nét đặc sắc trong phương pháp dưỡng sinh bảo vệ sức khỏe, phòng bệnh và chữa bệnh của các danh y Trung Quốc.

Đông y chữa Các bệnh hệ thận tiết niệu

NGUYÊN NHÂN, CƠ CHẾ SINH BỆNH VÀ PHƯƠNG PHÁP CHỮA

Các bệnh về hệ sinh dục tiết niệu hay xẩy ra ở các tạng phế tỳ thận vì phế chủ về thông điều thủy đạo, tỳ chủ về vận hóa thủy thấp, thận chủ về ôn thông, khí hóa bàng quang và chủ về tàng tinh, phát dục.

Bệnh thuộc hệ sinh dục tiết niệu có hai loại thực chứng và hư chứng, thực chứng do phong hàn, thấp nhiệt, thủy thấp, can kinh uất nhiệt, các tạng tâm, can, thận quá mạnh. Hư chứng do tỳ dương hư, thận dương hư, tỳ thận dương hư, thận âm hư, phế khí hư, tâm tỳ hư.

Cơ chế sinh bệnh trên lâm sàng biểu hiện các rối loạn về khí (khí hư, khí trệ), huyết (huyết hư, huyết ứ, chảy máu), âm (âm hư), dương (dương hư), dương hư, âm thịnh (chứng u rê máu cao), tân dịch giảm, tân dịch ứ đọng…

Sau đây xin giới thiệu 1 số nguyên nhân, triệu chứng và cách chữa bệnh và hệ sinh dục tiết niệu.

THỰC CHỨNG

  • Phong hàn

Gây chứng phong thủy gặp ở bệnh viêm cầu thận dị ứng do lạnh.

Triệu chứng: phù 1/2 người trên, phù mặt, đái ít kèm thêm các triệu chứng về biểu hiện như sợ lạnh, đau họng, sốt nhẹ, ngạt mũi, mạch phù.

Phương pháp chữa: tuyên phế phát hãn lợi tiểu.

Bài thuốc: Việt tỳ thang gia bạch truật.

  • Thấp nhiệt

Nhiễm trùng đường tiết niệu sinh dục gặp ở bệnh viêm thận cấp và mạn, viêm bàng quang, đái ra dưỡng chấp, sỏi đường tiết niệu, di tinh…

Triệu chứng chung: hội chứng nhiễm trùng đường tiết niệu sinh dục với các triệu chứng toàn thân: sốt, đái ít, đái đỏ, đái ra máu, khát ít, miệng dính, rêu lưỡi vàng dầy dính, chất lưỡi đỏ.

Phương pháp chữa: thanh nhiệt lợi thấp.

Thuốc: Hoàng bá, hoàng Hên, bồ công anh, tỳ giải, mộc thông, sa tiền tử.

Bài thuốc: Đạo xích tán, Chỉ trọc cô bản gia nhị thang, Trư đỗ hoàn, Bát chính tán, Tỳ giải phân thanh ẩm.

  • Thủy thấp

Gặp ở bệnh viêm cầu thận.

Triệu chứng: phù toàn thân, tiểu tiện ít, sốt nhẹ, rêu lưỡi trắng, mạch trầm, đới sác.

Phương pháp chữa: thông dương lợi thấp (kiện tỳ trừ thấp, ôn thông hoà khí).

Thuốc: Bạch truật, hoài sơn, rễ cỏ tranh, phục linh, trư linh, trạch tả.

Bài thuốc: Ngũ linh tán.

  • Can kinh uất nhiệt

Gặp ở chứng đái dầm.

Triệu chứng: đái dầm, nước tiểu vàng, ngũ lâm phiền nhiệt, nghiến răng, môi đỏ, mạch hoạt sác.

Phương pháp chữa: sơ can thanh nhiệt lợi thấp.

Thuốc: Long đởm tả can thang gia giảm.

  • Tâm can thận thịnh (quân hoả, tướng hỏa mạnh)

Gặp ở chứng hoạt tinh.

Triệu chứng: hồi hộp, hoạt tinh, mạch huyền.

Phương pháp chữa: định tâm an thần, cố tinh.

Thuốc: long cốt, mẫu lệ, táo nhân, khiếm thực, liên nhục, kim anh.

Bài thuốc: An thần định chí thang.

HƯ CHỨNG

  • Tỳ dương hư

Gặp ở bệnh viêm cầu thận mạn tính.

Triệu chứng: phù ít, sắc mặt trắng xanh, mệt mỏi, ăn kém, chân tay lạnh, phân nát, chất lưỡi bệu.

Phương pháp chữa: ôn vận tỳ dương, lợi niệu.

Thuốc: bạch truật, đẳng sâm, hậu phác, thảo quả, đại phúc bì.

Bài thuốc. Thực tỳ ẩm, Vị linh thang.

  • Thận dương hư, Mệnh môn hỏa suy

Gặp ở bệnh viêm cầu thận mạn tính, liệt dương, di tinh, đái dầm…

Triệu chứng: đau mỏi lạnh lưng, lưng gối yếu, sợ lạnh, tay chân lạnh, di tinh liệt dương, đái dầm, mạch trầm nhược.

Phương pháp chữa: ôn bổ thận dương (bổ mệnh, môn hoả)

Thuốc: phụ tử chế, nhục quế, thỏ ty tử, phá cố chỉ.

Bài thuốc: Bát vị quế phụ,Hữu quy hoàn, Tế sinh thận khí hoàn,củng dê hoàn, Tang phiêu tiêu tán.

  • Tỳ thận dương hư

Gặp ở bệnh viêm cầu thận mạn

Triệu chứng: của tỳ dương hư và thận dương hư hợp lại.

Phương pháp chữa: ôn bổ tỳ thận.

Bài thuốc: Chân vũ thang

  • Thận âm hư

Gặp ở bệnh viêm cầu thận mạn có cao huyết áp, viêm bàng quang mạn tính, đái ra máu, di tinh, đái dầm.

Triệu chứng, phương pháp chữa, bài thuốc đã nêu ở chương II, III, IV.

  • Phế tỳ khí hư

Gặp ở bệnh đái dầm, đái ra máu kéo dài.

Triệu chứng, phương pháp chữa, bài thuốc đã nêu ở các chương trên.

  • Tâm tỳ hư

Gặp ở chứng liệt dương

Triệu chứng, phương pháp chữa, bài thuốc đã nêu ở các chương trên.

CÁCH CHỮA MỘT SỐ CƠ CHẾ SINH BỆNH THUỘC HỆ THẬN – TIẾT NIỆU

Phương pháp chữa bệnh, dùng thuốc và các bài thuốc đề chữa các chứng khí hư, khí trệ, huyết hư, huyết ứ, chảy máu, đã nêu ở các chương trước.

Chương này chỉ giới thiệu một số chứng.

  • ứ nước gây phù thũng

Được dùng các thuốc lợi niệu thẩm thấp, kết hợp với các thuốc chữa nguyên nhân tạo thành các bài thuốc theo phương pháp khác nhau.

Kiện tỳ, ích khí lợi niệu (khí hư)

Thanh nhiệt lợi thấp (thấp nhiệt)

Ôn dương lợi niệu (tỳ dương, thận dương hư)

Hoá thấp lợi niệu (thủy thấp ứ đọng)

Tư âm lợi niệu (âm hư, tân dịch giảm)

  • Dương hư âm nghịch

Do tỳ dương hư, thận dương hư, trọc âm nghịch lên, gây u rê huyết cao.

Phương pháp chữa: ôn dương giáng nghịch, dùng thuốc ôn thận tỳ dương, lợi thấp tả hạ để tạo thành bài thuốc (Phụ tử chế, Đại hoàng dùng liều cao)

Gastropulgite

Thuốc Gastropulgite
Thuốc Gastropulgite

GASTROPULGITE

BEAUFOUR IPSEN

Bột pha hỗn dịch uống: hộp 30 gói, hộp 60 gói.

THÀNH PHẦN

cho 1 gói
Attapulgite de Mormoiron hoạt hóa 2,5 g
Gel Aluminium hydroxyde và magnesium carbonate được sấy khô 0,5 g

DƯỢC LỰC

Với khả năng đệm trung hòa, Gastropulgite có tác dụng kháng acide không hồi ứng.

Nhờ khả năng bao phủ đồng đều, Gastropulgite tạo một màng bảo vệ và dễ liền sẹo trên niêm mạc thực quản và dạ dày.

Ngoài ra Gastropulgite còn có tác dụng cầm máu tại chỗ, chống loét và sinh chất nhầy. Tất cả tính chất này đóng góp vào việc bảo vệ và hồi phục niêm mạc dạ dày.

Gastropulgite không cản quang do đó khi tiến hành thăm dò bằng X-quang, không cần thiết phải gián đoạn điều trị.

Gastropulgite không nhuộm màu phân và không làm rối loạn nhu động ruột.

CHỈ ĐỊNH

Điều trị triệu chứng loét dạ dày-tá tràng, viêm dạ dày, thoát vị hoành, hồi lưu dạ dày-thực quản, di chứng cắt dạ dày, đau thượng vị, ợ nóng, dạ dày không dung nạp thuốc.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Không có chống chỉ định.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Thận trọng khi dùng cho bệnh nhân bị suy thận và ở bệnh nhân phải làm thẩm phân mãn tính vì nguy cơ bệnh lý não do đọng aluminum.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Thận trọng khi phối hợp :

– Thuốc kháng sinh (cycline ; fluoroquinolone) ; thuốc chống lao (ethambutol và isoniazide ; lincosanide) ; kháng histamine H2 ; atenolol, metoprolol, propranolol ; chloroquine ; diflunisal ; Thuốc Digoxine ; diphosphonate ; fluorure de sodium ; glucocorticoide (prednisolone và dexamethasone) ; indometacine ; kayexalate ; ketoconazole ; thuốc an thần kinh nhóm phenothiazine ; penicillamine ; muối sắt. Người ta nhận thấy sự hấp thu các thuốc này ở đường tiêu hóa giảm nếu dùng đồng thời bằng đường uống. Do thận trọng, nên uống thuốc cách nhau khoảng 2 giờ và cách 4 giờ đối với fluoroquinolone.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Sự hấp thu của aluminium, khi dùng lâu dài, có thể là nguồn gốc làm giảm phosphore, nhưng trong những thử nghiệm lâm sàng gần đây không thấy có sự gia tăng aluminium trong máu hay nước tiểu khi điều trị.

Lượng phosphore và calcium trong máu không thay đổi.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Người lớn: 2 đến 4 gói/ngày, pha trong nửa ly nước, uống trước hoặc sau các bữa ăn và khi có triệu chứng đau.

Trẻ em: 1/3 đến 1 gói, 3 lần một ngày tùy theo tuổi.

Viêm mũi dị ứng

Định nghĩa

Viêm niêm mạc mũi có căn nguyên dị ứng, chảy nước mũi, sưng niêm mạc mũi, ngứa mũi, thường có viêm kết mạc kèm theo (viêm mũi – kết mạc).

Căn nguyên

VIÊM MŨI DỊ ỨNG THEO MÙA do phấn hoa theo gió:

  1. Tháng 3 – 4: phấn hoa cây thân mộc (hạt dẻ, bu lô, liễu, bạch dương, tiêu huyền).
  2. Tháng 5, 6, 7: phấn hoa cây thân rỗng (cỏ lùng, rơm, ngũ cố …). Các loại này có tính kháng nguyên chéo. Trong cùng tháng, phấn hoa (cúc, tây), phấn hoa mã đề và các hợp chất (đặc biệt là cây ngải) có thể là các kháng nguyên gây viêm mũi dị ứng.
  3. Các nguyên nhân do phấn hoa khác: bào tử nấm, mốc. Các cơ quan khí tượng ở một số nước công bố hàng tuần bản đồ phấn hoa có tác dụng giúp cho bệnh nhân và thầy thuốc xác định nguyên nhân gây bệnh. Ở Bắc Mỹ, bụi phấn Anbrosia gây bệnh vào mùa thu.

VIÊM MŨI DỊ ỨNG KHÔNG THEO MÙA: do các loài nhện nhỏ tám chân, bụi nhà, lông và vảy da động vật, bào tử nấm.

Triệu chứng

Ngứa mũi, hắt hơi thành từng cơn, niêm mạch mũi sung huyết, đôi khi bị tắc ống và làm giảm thính lực, nhất là ở trẻ nhỏ.

Viêm mũi dị ứng thường kèm theo viêm kết mạc (viêm mũi-kết mạc dị ứng), đôi khi viêm họng, ho, hen. Viêm mũi dị ứng không theo mùa thường không có hen đi kèm. Có thể có biến chứng polyp mũi và viêm xoang.

Xét nghiệm bổ sung

Test bì dương tính với kháng nguyên gây dị ứng. Nếu các test này không rõ thì có thể tiến hành định lượng IgE đặc hiệu (test đắt tiền). Bạch cầu ưa acid không thay đổi trong máu nhưng có nhiều trong nước mũi.

Chẩn đoán phân biệt

Viêm mũi do vận mạch: niêm mạc mũi bị sung huyết tái phát, nước mũi trong, không theo giờ, căn nguyên không rõ (rối loạn cân bằng thần kinh thực vật; không khí khô có thể có vai trò).

Các triệu chứng xuất hiện vào lúc ngủ dậy, khi chân chạm vào nền nhà lạnh hoặc khi ra khỏi phòng tắm, khi bị gió lùa V.V..

  1. Viêm mũi do thuốc,lạm dụng các thuốc nhỏ mũi gây co mạch.
  2. Viêm mũi thứ phát sau một bệnh tai mũi họng:viêm xoang hoặc polyp mũi.
  3. Viêm mũi do hít ma tuý:nghiện cocain.

Điều trị

  1. Loại trừ dị nguyên:máy điều hoà không khí có tấm lọc phù hợp trong thời kỳ có bụi phấn hoa, không gần vật nuôi trong nhà, không dùng thảm mà dùng các tấm trải bằng chất dẻo. Gắng sức về thể lực làm giải phóng catecholamin và có thể là biện pháp đơn giản để làm giảm sung huyết niêm mạc mũi.
  2. Dùng thuốc:

+ Thuốc kháng histamin Hl ( xem thuốc này)

+ Corticoid: dạng sương mù bơm vào mũi • (thường dùng beclometason). Dùng corticoid uống với liều thường dùng chỉ dành cho các thể nặng và không được dùng quá 10-15 ngày (giảm dần liều).

+ Acid cromoglicic phun vào mũi.

+ Thuốc cường giao cảm: thuốc co mạch dùng tại chỗ hoặc theo đường toàn thân có thể làm hết ngạt mũi nhưng lại có nhiều tác dụng phụ, nhất là gây tăng huyết áp.

– Giải mẫn cảm: tìm dị nguyên (test da, nếu cần thì định lượng IgG toàn phần và RAST) và điều trị bằng giải mẫn cảm phải do thày thuốc chuyên khoa tiến hành. Chỉ định: viêm mũi dị ứng nặng, không theo mùa và không có tác dụng với các thuốc thông thường. Tinh chất phấn hoa được tiêm trong da với liều tăng dần, tuỳ theo sự chịu đựng của bệnh nhân.

Hiếm khi khỏi được bệnh hoàn toàn nhưng các triệu chứng thường nhẹ đi. Sốc phản vệ nặng có thể xảy ra trong quá trình giải mẫn cảm nên bao giờ cũng phải có phương tiện hồi sức ngay bên cạnh khi giải mẫn cảm (xem sốc phản vệ).

GHI CHÚ – viêm mủi không dị ứng có tăng bach cầu ưa acid

(NARES:   Non Allergic Rhinitis with Eosinophilia Syndrome) là bệnh chảy nước mũi có nhiều bạch cầu ưa acid còn các xét nghiệm phát hiện dị ứng lại âm tính. Các corticoid thường có tác dụng.

Dứa dại – Cách dùng và tác dụng chữa bệnh của dứa dại

DỨA DẠI

Tên khác:             Dứa gai, dứa gỗ, mạy lạ (Tày)

Tên khoa học: Pandanus tonkinensis Mart.

Họ Dứa dại (Pandanaceae)

MÔ TẢ

Cây nhỏ có thân hóa gỗ, phân nhánh, cao 1 – 2m, mang nhiều sẹo lá thành những ngấn ngang cách nhau. Rễ phụ mọc ở gốc thân lộ trên mặt đất. Lá mọc tập trung thành túm lớn ở ngọn thân, phiến hình dải, cứng, có bẹ to ở gốc và mũi nhọn sắc ở đầu, mép và gân giữa có gai, mặt trên sẫm bóng.

Cụm hoa mọc thành bông ở ngọn thân gồm hoa đực và hoa cái có mo dạng lá bao bọc, bao hoa thường tiêu giảm, hoa đực có nhiều nhị, hoa cái có một số lá noãn.

Quả to có cuống mập và cứng, hình trứng hay hình cầu do nhiều quả hạch hợp thành, có màu vàng khi chín.

Mùa hoa quả: tháng 2 – 5.

PHÂN BỐ, NƠI MỌC

Trên thế giới, dứa dại phân bố khắp các vùng nhiệt đới ở châu Á, châu Phi.

ở Việt Nam, cây mọc hoang ở rừng ẩm, dọc theo các bờ khe SUÔI ở các tỉnh miền núi và trung du, nhất là vùng ven biển. Vì cây có nhiều gai và tán lá sum sê, nên nhân dân ở nông thôn thường cắt lấy ngọn thân về trồng làm hàng rào.

BỘ PHẬN DÙNG, THU HÁI, CHẾ BIẾN

Rễ dứa dại, thu hái quanh năm, đọt non thu hái vào mùa xuân và quả thu hái vào mùa hè – thu. Dùng tươi hoặc phơi, sấy khô.

CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Theo kinh nghiệm dân gian, rễ dứa dại được dùng chữa phù thũng, gãy xương, đái buốt, đái rắt, phù thận.

Liều dùng hàng ngày: 10 – 15g dưới dạng thuốc sắc.

Đọt non chữa kinh phong trẻ em, sỏi thận. Liều dùng: 15 – 20g dạng thuốc sắc.

Quả dứa dại chữa xơ gan.

Dùng ngoài, đọt non dứa dại phối hợp với lá đinh hương, giã đắp chữa đinh râu.

BÀI THUỐC

  • Chữa gãy xương: Rễ dứa dại (loại rễ non chưa bén đất càng tốt), lá xoan non, dây tơ hồng, vỏ cây gạo, lá ngải cứu, củ nghệ vàng (mỗi thứ 30g). Tất cả rửa sạch, giã nát, trộn với lòng trắng trứng gà, đắp bó.
  • Chữa phù thận, đái nhắt, nước tiểu vàng đục. Rễ dứa dại (200g), râu ngô (150g), củ sả (50g), nõn tre (25g), cam thảo dây (25g), trấu gạo nếp (50g, sao thơm).

Tất cả nấu với hai lít nước cho sôi kỹ trong 30 phút. Lọc, thêm đường, uống ngày 2 – 3 lần. Người lớn: mỗi lần 200 – 300ml, trẻ em: 100 – 150ml.

Một đợt điều trị là 5 ngày. Nghỉ 3 ngày, tiếp tục đợt nữa cho khỏi hẳn.

(Kinh nghiệm của Bệnh viện Ba Vì, tỉnh Hà Tây).

  • Chữa phù thũng: Rễ dứa dại (8g, nướng), vỏ cây đại (8g, sao vàng), hương nhu (8g), tía tô (8g), hoắc hương (8g), hậu phác (12g), rễ si (8g), rễ cau non (4g).- Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400ml nước, còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày (Kinh nghiệm của nhân dân ở đồng bằng sông cửu Long).
  • Chữa kinh phong trẻ em: Đọt non dứa dại (12g), lá dâm hôi, lá nhọ nồi, lá chua me đất hoa vàng, lá xương sông, búp mít mật (mỗi thứ 8g), nhân hạt đào (5 cái). Tất cả giã nhỏ, hòa với một chén nước nước đun sôi để nguội, gạn lấy nước trong, thêm đường, cách hai giờ uống một lần. Cứ mỗi tuổi, uống một thìa cà phê. Nếu nóng nhiều, thêm đọt dứa và búp mít; có đờm khò khè, thêm chua me và xương sông; trường hợp đái ít, táo bón, thêm đào nhân; nếu co giật nhiều, thêm dâm hôi. Trẻ đang bị tiêu chảy không được dùng.

(Kinh nghiệm của tỉnh hội y học dân tộc Vinh Phúc).

  • Chữa đái nhắt, đái buốt có máu: Đọt non dứa dại (20g), mầm rễ cỏ gừng (20g), sắc uống ngày một thang.
  • Chữa sỏi thận: Đọt non dứa dại (20g), ngải cứu (20g), cỏ bợ (30g), phèn đen (10g), giã nhỏ, thêm nước, gạn uống làm một lần trong ngày.
  • Chữa xơ gan: Quả dứa dại (20g), thân cây ráy gai (20g), vỏ cây quao nước (10g), vỏ cây vọng cách (10g), lá cối xay (10g), lá trâm bầu (10g), rễ cỏ xước (10g), cỏ hàn the (10g), cỏ tranh (10g). sắc uống trong ngày.

(Kinh nghiệm của ông Nguyễn Minh Khâm, xã Lương Quới, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre).

 

Hội chứng dressler

Tên khác: hội chứng sau-nhồi máu cơ tim, hội chứng sau-cắt mép van tim (sau nong van tim).

Định nghĩa

Viêm ngoại tâm mạc (màng ngoài tim), đôi khi cả viêm màng phổi hoặc viêm phổi, xảy ra sau cơn nhồi máu cơ tim hoặc đôi khi xảy ra sau phẫu thuật cắt mép van tim.

Căn nguyên

Những tổn thương của biểu mô ngoại tâm mạc (màng ngoài tim) và của  cơ tim có thể khởi động một quá trình tự miễn trong cơ thể.

Triệu chứng

Sốt, đau ngực, và viêm ngoại tâm mạc đôi khi kèm theo tràn dịch màng ngoài tim và tràn dịch màng phổi, viêm màng phổi, và thâm nhiễm phổi, xuất hiện từ 2 đến 6 tuần sau cơn nhồi máu cơ tim cấp.

Người ta cũng thấy một hội chứng tương tự xảy ra khoảng một tuần sau phẫu thuật tim với tổn thương ngoại tâm mạc (gọi là hội chứng sau cắt ngoại tâm mạc, hoặc sau cắt mép van tim) hay tái phát nhiều lần.

Điện tâm đồ: có những dấu hiệu của viêm ngoại tâm mạc (xem bệnh này).

Chân đoán: trong bôi cảnh của cơ nhồi máu cơ tim, vẫn phải chẩn đoán phân biệt hội chứng Dressler với cơn nhồi máu cơn tim tái phát, và nhiều khi chẩn đoán phân biệt rất khó khăn (phải dựa trên điện tâm đồ không thấy sóng Q bất thường, và định lượng enzym creatinin-phosphatkinase thấy phân đoạn MB bình thường hoặc chỉ hơi cao).

Điều trị

Acid acetylsalicylic hoặc các thuốc chống viêm không steroid khác với liều thông dụng.

Chỉ được chỉ định corticoid trong những thể nặng có đau dai dẳng.

Thuốc 2-octyl cyanoacrylate

Tên thương hiệu: Dermabond
Nhóm thuốc: Chăm sóc vết thương

2-octyl cyanoacrylate là gì và được sử dụng như thế nào?

Cyanoacrylate thường được sử dụng như chất kết dính, và 2-octyl cyanoacrylate là một chất kết dính dạng lỏng dùng ngoài da được sử dụng để dán mô, nhằm sửa chữa các vết cắt và vết thương nhỏ. Sản phẩm 2-octyl cyanoacrylate là một monomer lỏng, khi được bôi lên vết thương, sẽ nhanh chóng chuyển sang dạng polymer linh hoạt, giữ các mép vết thương lại với nhau, cho phép mô bên dưới lành lại. Chất kết dính này có thể được sử dụng thay thế cho chỉ khâu hoặc kim bấm để bảo vệ vết thương khỏi độ ẩm và vi khuẩn, thường sẽ tự bong ra trong vòng 5 đến 10 ngày.

Cyanoacrylate phản ứng khi tiếp xúc với độ ẩm và nhiệt của da, tạo ra liên kết với mô, giúp giữ vết thương kín. Cyanoacrylate như 2-octyl cyanoacrylate có chuỗi bên dài hơn, tạo ra các liên kết yếu hơn và mất 30 giây để hình thành liên kết, cùng với 2,5 phút để đông kết hoàn toàn, không giống như các cyanoacrylate chuỗi ngắn hình thành liên kết nhanh chóng trong vòng 15 giây. Tuy nhiên, 2-octyl cyanoacrylate linh hoạt hơn và hiệu quả hơn trong việc ngăn ngừa việc mở lại các mép vết thương so với cyanoacrylate chuỗi ngắn, vốn dễ vỡ hơn.

Cyanoacrylate có thể phân hủy thành các sản phẩm phụ độc hại như cyanoacetate và formaldehyde, điều này có thể lý thuyết gây ra phản ứng viêm trong mô xung quanh vết thương và làm chậm quá trình lành vết thương. Tuy nhiên, tốc độ phân hủy rất chậm và 2-octyl cyanoacrylate thường bong ra trước khi các sản phẩm phụ độc hại tích tụ trong vết thương. Các nghiên cứu cho thấy cyanoacrylate cũng có khả năng kháng khuẩn tự nhiên đối với vi khuẩn gram dương.

Cảnh báo

Không sử dụng 2-octyl cyanoacrylate trong các trường hợp sau:

  • Bệnh nhân có mẫn cảm với cyanoacrylate hoặc formaldehyde.
  • Ở mắt, các bề mặt niêm mạc như khoang miệng, môi, da thường xuyên tiếp xúc với dịch cơ thể hoặc da có nhiều lông.
  • Trên vết thương có nhiễm trùng đang hoạt động, hoại tử, hoặc do áp lực như loét tỳ đè.
  • Không sử dụng trên vết thương ẩm. Chỉ áp dụng lên các vết thương đã được làm sạch và cắt lọc để ngăn ngừa nhiễm trùng.
  • Không thoa chất kết dính vào trong vết thương, vì nó có thể làm chậm quá trình lành vết thương. Chỉ thoa nhẹ lên các mép vết thương đã được giữ khép lại.
  • Không sử dụng 2-octyl cyanoacrylate trên các khu vực có độ căng cao như đầu gối, khuỷu tay hoặc khớp ngón tay trừ khi khớp đó đã được cố định.
  • Không thoa 2-octyl cyanoacrylate lên các khu vực tiếp xúc thường xuyên hoặc kéo dài với độ ẩm hoặc ma sát.
  • Không bôi kháng sinh dạng bôi hoặc các loại thuốc bôi khác sau khi đã khép vết thương bằng 2-octyl cyanoacrylate, vì điều này có thể làm yếu liên kết và gây mở lại vết thương.
  • Sau khi bôi 2-octyl cyanoacrylate, cần theo dõi vết thương để phát hiện các dấu hiệu nhiễm trùng và điều trị kịp thời nếu có nhiễm trùng.
  • Tính an toàn và hiệu quả của 2-octyl cyanoacrylate chưa được nghiên cứu trên các vết thương của bệnh nhân mắc bệnh mạch máu ngoại biên, rối loạn đông máu, tiểu đường phụ thuộc insulin, tiền sử cá nhân hoặc gia đình có hình thành sẹo lồi hoặc phì đại, hoặc các vết rách nổ hình sao.

Tác dụng phụ của 2-octyl cyanoacrylate là gì?

Các tác dụng phụ phổ biến của 2-octyl cyanoacrylate bao gồm:

  • Cảm giác nóng và khó chịu
  • Các dấu hiệu viêm như:
    • Đỏ da (ban đỏ)
    • Đau
    • Ấm da
    • Sưng (phù)
  • Nghi ngờ nhiễm trùng với các triệu chứng có thể bao gồm:
    • Ban đỏ lan rộng hơn 3-5 mm từ vết thương
    • Sưng
    • Chảy mủ
    • Ấm da
    • Đau
    • Sốt
    • Các mép vết thương tách ra (hở mép vết thương) cần điều trị lại

Gọi ngay cho bác sĩ nếu bạn gặp bất kỳ triệu chứng hoặc tác dụng phụ nghiêm trọng nào trong khi sử dụng thuốc này, bao gồm:

  • Triệu chứng tim nghiêm trọng như nhịp tim nhanh hoặc đập mạnh, cảm giác rung trong ngực, khó thở, và chóng mặt đột ngột.
  • Đau đầu dữ dội, nhầm lẫn, nói lắp, yếu cơ nghiêm trọng, nôn mửa, mất phối hợp, cảm giác không vững.
  • Phản ứng nghiêm trọng ở hệ thần kinh với cơ bắp rất cứng, sốt cao, đổ mồ hôi, nhầm lẫn, nhịp tim nhanh hoặc không đều, run rẩy và cảm giác như sắp ngất xỉu.
  • Triệu chứng mắt nghiêm trọng như mờ mắt, nhìn ống, đau hoặc sưng mắt, hoặc nhìn thấy quầng sáng quanh đèn.

Đây không phải là danh sách đầy đủ tất cả các tác dụng phụ hoặc phản ứng có thể xảy ra khi sử dụng thuốc này. Gọi cho bác sĩ của bạn để nhận tư vấn y tế về các tác dụng phụ hoặc phản ứng nghiêm trọng.

Liều lượng của 2-octyl cyanoacrylate là gì?

Dụng cụ bôi sẵn

  • Chất kết dính dạng lỏng dùng ngoài da có sẵn trong hộp 6 hoặc 12 chiếc

Dành cho người lớn và trẻ em:

  • Chất kết dính da dùng ngoài
    Được chỉ định để bôi ngoài da nhằm giữ các mép da vết thương khép lại dễ dàng.

    • Có thể được sử dụng cho các vết rạch phẫu thuật (bao gồm cả vết chọc từ phẫu thuật xâm lấn tối thiểu) và các vết rách do chấn thương, không căng, đã được làm sạch kỹ.
    • Có thể sử dụng kèm, nhưng không thay thế, chỉ khâu lớp sâu trong da.
    • Bôi thành nhiều lớp mỏng lên các mép vết thương đã được khép lại, vết thương cần nằm ở vị trí ngang.

Quá liều

Việc bôi 2-octyl cyanoacrylate lên vết thương không có khả năng gây quá liều vì cyanoacrylate đông kết nhanh chóng thành chất kết dính linh hoạt trên da và không được hấp thụ qua hệ thống. Việc nuốt phải có thể khiến sản phẩm dính vào lưỡi, họng, thực quản hoặc đường thở, và có thể cần được bác sĩ gỡ bỏ.

Thuốc nào tương tác với 2-octyl cyanoacrylate?

Hãy thông báo cho bác sĩ của bạn về tất cả các loại thuốc bạn đang sử dụng để họ có thể tư vấn về bất kỳ tương tác thuốc có thể xảy ra nào. Không bao giờ tự ý bắt đầu, ngưng hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ loại thuốc nào mà không có sự khuyến nghị từ bác sĩ.

Chất kết dính mô 2-octyl cyanoacrylate không có các tương tác nghiêm trọng, vừa, nhẹ hoặc nhẹ được liệt kê với các loại thuốc khác. Các tương tác thuốc liệt kê trên đây không phải là tất cả các tương tác hoặc tác dụng phụ có thể xảy ra. Để biết thêm thông tin về tương tác thuốc, hãy truy cập bộ kiểm tra tương tác thuốc của RxList.

Điều quan trọng là luôn thông báo cho bác sĩ, dược sĩ hoặc nhân viên y tế của bạn về tất cả các loại thuốc kê đơn và không kê đơn bạn đang sử dụng, cũng như liều lượng của từng loại, và giữ một danh sách thông tin này. Hãy kiểm tra với bác sĩ hoặc nhân viên y tế nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về thuốc.

Thai kỳ và cho con bú

Khi được sử dụng đúng cách, 2-octyl cyanoacrylate đông kết nhanh chóng và hoạt động như một chất kết dính trên vết thương. Sản phẩm không được hấp thụ qua hệ thống và không có khả năng gây hại nếu được sử dụng để chăm sóc vết thương cho phụ nữ mang thai hoặc cho con bú. Tuy nhiên, không có nghiên cứu nào về việc sử dụng 2-octyl cyanoacrylate ở phụ nữ mang thai hoặc cho con bú. Hãy kiểm tra với chuyên gia y tế của bạn trước khi sử dụng.

Những điều khác cần biết về 2-octyl cyanoacrylate?

  • Sử dụng 2-octyl cyanoacrylate đúng theo hướng dẫn.
  • Cyanoacrylate có thể dính vào hầu hết các mô cơ thể và nhiều vật liệu khác, và đông kết rất nhanh. Tránh tiếp xúc với các bề mặt không thể làm sạch bằng dung môi như acetone.
  • Tránh tiếp xúc với mắt. Trong trường hợp tiếp xúc ngẫu nhiên, rửa mắt bằng nhiều nước và liên hệ với bác sĩ chuyên khoa mắt nếu chất kết dính vẫn còn trong mắt.
  • Bảo quản 2-octyl cyanoacrylate ở nơi an toàn, tránh xa tầm tay trẻ em.
  • Trong trường hợp nuốt phải, tìm kiếm trợ giúp y tế hoặc liên hệ với trung tâm kiểm soát độc chất.

Đông y điều trị bệnh Đau dây thần kinh liên sườn

Đau dây thần kinh liên sườn là một chứng bệnh được miêu tả trong phạm vi chứng hiếp thống của y học cổ truyền.

Cần chẩn đoán nguyên nhân gây ra bệnh bằng các phương tiện của y học hiện đại để tìm những thương tổn thực thể của cột sống gây chèn ép dây thần kinh liên sườn như: lao, viêm khớp…

  1. ĐIỀU TRỊ THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN

Sau đây giới thiệu cách chữa chứng đau dây thần kinh liên sườn do nguyên nhân cơ năng lạnh, thần kinh bị kích thích do lao động, do ho quá nhiều….

Triệu chứng: đau liên sườn dọc theo đường đi của dây, đau nhất ở vùng rễ sau lưng, đường nách giữa, sụn, ức đòn ho thở đều đau, sợ lạnh, mạch phù.

Phương pháp chữa: thông kinh hoạt lạc.

Nếu do lạnh : khu phong tán hàn , hoạt lạc.

Nếu do thần kinh bị kích thích: hành khí hoạt huyết.

Vì mạng sườn là nơi mà kinh mạch hai kinh can và đởm đi qua, nên cho thêm vào các thuốc sơ can lý khí như thanh bì, hương phụ, uất kim.

Bài thuốc:

Bài 1: Chữa đau liên sườn do lạnh

Quế chi 8 gam Phòng phong 8 gam
Bạch chỉ 8 gam Khương hoạt 8 gam
Uất kim 8 gam Thanh bì 6 gam
Chỉ xác 8 gam Xuyên khung 8 gam
Đan sâm 12 gam
Uất kim trong điều trị đau thần kinh liên sườn
Uất kim trong điều trị đau thần kinh liên sườn

Bài 2. Tiêu dao tán gia giảm. Nếu có triệu chứng về tinh thần: suy nghĩ, thở dài, ngực sườn đầy tức.

Bạch linh                   8 gam                     Sài hồ                            8 gam

Bạch thược                8 gam                     Bạc hà                           6 gam

Bạch truật 8 gam Thanh bì 8 gam
Uất kim 8 gam Đan sâm 8 gam
Hương phụ 6 gam Gừng 4 gam
Cam thảo 6 gam

Châm cứu: châm các huyệt A thị, vùng rễ nơi thần kinh xuất phát, có thể châm huyệt Nội quan, Dương lăng tuyền.

Xoa bóp: miết dọc theo liên sườn, ấn day vùng rễ nơi thần kinh xuất phát.

Huyết sâm, Xích sâm hay đan sâm trong bài thuốc chữa dau thần kinh liên sườn
Huyết sâm, Xích sâm hay đan sâm trong bài thuốc chữa đau thần kinh liên sườn

Chú ý đau dây thần kinh liên sườn là dấu hiệu khá sớm của lao cột sống, cần chẩn đoán nguyên nhân, nếu là lao cột sống, phải kịp thời gửi chuyên khoa để chữa.

Theo báo cáo của Khoa nội II Viện Y học cổ truyền trung ương về kết quả nghiên cứu trên 32 bệnh nhân bằng phương pháp biện chứng luận trị thấy:

Loại tốt                       17 bệnh nhân

Loại khá                      8  bệnh  nhân

Loại trung bình 7 bệnh nhân

  1. ĐIỀU TRỊ THEO Y HỌC HIỆN ĐẠI

Điều trị nguyên nhân nếu có.

Nghỉ ngơi.

Trợ lực vitamin C

Giảm đau atropin, seda, Alaxan,

Chườm ngải cứu sao rượu.

Giá trị dinh dưỡng của thực phẩm và các nhóm thực phẩm

Cách phân loại thực phẩm và ý nghĩa

Có nhiều cách phân loại thực phẩm, tuy nhiên các nhà dinh dưỡng thường phân thức ăn thành các nhóm sau:

  • Thực phẩm giàu
  • Thực phẩm giàu
  • Thực phẩm giàu
  • Thực phẩm giàu vitamin và chất khoáng.

Để có được sức khoẻ và tình trạng dinh dưỡng tốt, cơ thể cần được cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết. Tuy nhiên, không có một loại thực phẩm nào có đầy đủ tất cả các chất dinh dưỡng theo nhu cầu, có loại chứa nhiều chất dinh dưỡng này trong khi lại ít chất khác. Chính vì vậy, cần phải phối hợp nhiều loại thực phẩm khác nhau để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể. Cách phân loại này giúp cho việc lựa chọn và sử dụng thực phẩm được cân đối, hợp lý và tiết kiệm.

Thực phẩm giàu protein

Nguồn gốc động vật

  • Thịt

Protein trong thịt chiếm từ 15 – 20% trọng lượng tươi. Lượng protein trong thực phẩm còn phụ thuộc nhiều vào tuổi, giới tính, chế độ nuôi dưỡng của con vật. Về chất lượng, protein của các loại thịt đều có đầy đủ các acid amin cần thiết theo một tỷ lệ cân đối và có dư thừa lysin để hỗ trợ tốt cho ngũ cốc (protid của ngũ cốc thiếu lysin). Tuy nhiên, lượng methionin trong thịt không cao.

Lượng chất béo dao động nhiều, phần lớn là các acid béo no hoặc các acid béo chưa no có 1 nối đôi. Lượng glucid trong thịt rất thấp. Thịt của tất cả các loài có lượng nước cao tới 60 – 75%.

Nước xương, nước thịt luộc chứa nhiều chất có nitơ, nhưng không phải là protein, làm cho nước có mùi thơm, vị ngon, kích thích cảm giác thèm ăn, nhưng thực tế lại có rất ít protein.

Đặc điểm vệ sinh: Thịt lợn và thịt bò có khả năng bị nhiễm sán dây, thịt lợn bị nhiễm giun xoắn. Các loại thịt ếch, nhái thường hay bị nhiễm giun sán. Chính vì vậy, các loại thịt đều cần được nấu chín, để riêng thực phẩm sống và chín. Riêng cóc, trong da và buồng trứng có chứa các chất độc gây chết người như bufotonin, bufotoxin. Khi ăn thịt cóc cần bỏ hoàn toàn da và phủ tạng.

Thịt bị hư hỏng có histamin là chất gây dị ứng và ptomain có thể gây ngộ độc chết người. Chất độc này không bị phá huỷ khi chế biến, ngay cả ở nhiệt độ cao.

  • Cá và chế phẩm từ cá

Cá và các chế phẩm từ cá là loại thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao. Hàm lượng protein trong cá cao từ 16 – 17%, có đủ các acid amin cần thiết, có dư lysin, hơi thiếu methionin. Lượng lipid khoảng từ 0,3 – 30,8%. Trong cá có nhiều các acid béo chưa no cần thiết. Lượng glucid ở cá chỉ chiếm khoảng 1%. Lượng nước dao động từ 55 – 83%. Cá có nhiều chất khoáng và vitamin hơn thịt, đặc biệt là các vitamin A, D và B12. Tổ chức liên kết của cá lỏng lẻo, nên dễ tiêu hoá và hấp thu hơn thịt.

Khả năng tiêu hoá và hấp thu các chất dinh dưỡng tùy thuộc vào loại cá và cách chế biến. Cá béo khó tiêu hoá và hấp thu hơn cá nạc, cá muối làm giảm mức đồng hoá.

Đặc điểm vệ sinh: Do tổ chức liên kết của cá lỏng lẻo, lượng nước cao, trên cá có màng nhầy thuận lợi cho sự phát triển của vi khuẩn, nên cá dễ bị ôi thiu. Khi cá bị ươn, sinh ra nhiều histamin gây dị ứng.

Cá có thể bị nhiễm ấu trùng sán lá gan, khi ăn cá nấu không chín hoặc ăn gỏi cá có thể bị nhiễm loại sán này.

  • Nhuyễn thể và tôm, cua, lươn

So với thịt và cá thì tôm, lươn, cua có chất lượng protein không kém, nhưng chất lượng của protein của nhuyễn thể (ốc, trai, sò…) thì lại không bằng. Tỷ lệ các acid amin cần thiết không cân đối, nhưng nhuyễn thể lại có nhiều chất khoáng hơn, nhất là calci, đồng, selen…

Nhuyễn thể bị chết dễ bị phân huỷ và sinh ra độc tố như mytilotoxin, hoặc nhuyễn thể có thể bị nhiễm chất độc từ môi trường sống, vì vậy khi ăn ốc, hến, sò, trai… phải chú ý loại bỏ những con đã chết và ngâm kỹ trước khi nấu nướng. Nhuyễn thể còn có thể có nhiều salmonella, E. coli… nên thể cần phải được ăn chín.

  • Trứng

Trứng là loại thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao. Trong trứng có đủ protein, lipid, glucid, vitamin, muối khoáng, các men và hormon. Thành phần của các chất này rất cân đối. Thành phần của trứng có lòng đỏ (chiếm khoảng 32 – 36% trọng lượng), lòng trắng (52 – 56% trọng lượng) và các lớp vỏ (chiếm 12% trọng lượng).

Trung bình, lòng đỏ có chứa 48,7% nước, 32,6% lipid, 16,6% glucid, 1% glucid và 1,1% các chất khoáng. Màu đỏ của lòng đỏ trứng là do sự có mặt của carotenoid, xantofin, cryptoxantin và lutein. Lòng trắng trứng chứa 87,9% nước, 10,6% protein, 0,9% glucid, 0,6% chất khoáng và 0,03% lipid. Thành phần của vỏ trứng phần lớn là các muối vô cơ.

Protein trong lòng đỏ là loại phosphorus protein, có thành phần acid amin tốt nhất và toàn diện nhất. Protein của lòng trắng trứng chủ yếu là albumin, nó có thành phần là các acid amin toàn diện như trong lòng đỏ. Protein của trứng là nguồn cung cấp rất tốt các acid amin cần thiết như tryptophan, methionin, cistein, arginin.

Trứng gà là nguồn cung cấp tốt các phosphorus lipid, sterin, cerebrosid, và lecithin. Glucid của trứng phần lớn là manose và galactose nằm trong các phức hợp với protein và lipid.

Các chất khoáng của trứng thường nằm trong các liên kết hữu cơ, trong đó phải kể đến calci, phosphorus, lưu huỳnh, sắt, kẽm, đồng, brôm, mangan, iod…

Trong trứng có cả những vitamin tan trong dầu như vitamin A, caroten, vitamin D, K và vitamin tan trong nước như tiamin, riboflavin, acid nicotinic, acid pantotenic, piridocin, cholin, biotin…

Lòng trắng trứng có men antitrypsin là men ảnh hưởng tới tiêu hoá và hấp thu protein; có chất avidin làm mất hoạt tính của biotin. Khi đun nóng ở 80oC thì men antitrypsin bị phân huỷ còn biotin bị giải phóng khỏi phức hợp avidin – biotin.

Đặc điểm vệ sinh: Trứng gia cầm dễ bị nhiễm vi khuẩn salmonella như S. pullorum, S. enteritidis, S. anatum, B. proteus vulgaris, B. coli communis, B. mesentericus… Nếu không được nấu chín sẽ có khả năng gây nhiễm trùng, nhiễm độc thực phẩm.

  • Sữa

Sữa là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao. Protein của sữa rất quý vì thành phần acid amin cân đối và độ đồng hoá cao, có nhiều lysin, methionin. Protein của sữa thuộc 3 loại: casein, lacto albumin và lacto globulin. Sữa động vật như sữa bò, trâu, dê có nhiều casein (trên 75%) nên còn được gọi là sữa casein. Sữa mẹ có nhiều albumin hơn nên gọi là sữa albumin. Tuy sữa mẹ có hàm lượng protein không bằng sữa động vật, nhưng khả năng tiêu hoá và hấp thu lại cao hơn.

Lipid của sữa có giá trị sinh học cao vì lipid tồn tại ở trạng thái nhũ tương hoá, có độ phân tán cao, có nhiều acid béo chưa no cần thiết, có nhiều lecithin, có độ tan chảy thấp.

Sữa có nhiều vitamin tan trong chất dầu, nhất là vitamin A. Sữa cũng có nhiều vitamin nhóm B nhất là riboflavin. Calci trong sữa ở dạng kết hợp với casein, tỷ lệ calci/phosphorus phù hợp nên dễ hấp thu.

Đặc điểm vệ sinh: Sữa là môi trường tốt cho vi sinh vật gây bệnh phát triển, chính vì vậy, nếu không có ý thức trong việc vắt sữa, chế biến, bảo quản và sử dụng sữa thì người sử dụng có thể mắc bệnh truyền nhiễm hoặc ngộ độc do sữa. Nếu bò bị mắc bệnh lao thì sữa cũng có thể bị nhiễm bệnh lao. Sữa các con vật mắc hay mới khỏi bệnh brucelose (sốt sảy thai) có thể truyền sang người gây bệnh sốt làn sóng. Sữa cũng rất dễ bị nhiễm vi khuẩn thương hàn, phó thương hàn, E.Coli… do điều kiện vắt, chế biến và bảo quản không hợp vệ sinh. Chính vì vậy, sữa cần được vắt và bảo quản đúng yêu cầu vệ sinh, sữa tươi cần được xử lý bằng biện pháp thanh trùng Pasteur, hoặc xử lý bằng tia cực tím sau đó bảo quản lạnh trước khi dùng. Đối với sữa bột hoặc sữa gói, cần xem kỹ hạn sử dụng.

nguồn gốc thực vật

  • Đậu đỗ

Đậu đỗ nói chung có hàm lượng protein cao từ 17 – 25%, đậu tương có tới 34%, chúng có chứa nhiều lysin hỗ trợ tốt cho ngũ cốc. Đậu đỗ nghèo các acid amin có lưu huỳnh như methionin và cistein, một số loại còn nghèo cả tryptophan và isoleucin. Trừ đậu tương, các loại đậu đỗ thường dùng có hàm lượng lipid thấp (1 – 3%). Đậu đỗ là nguồn vitamin PP, calci và sắt.

Trong đậu sống có thể có antitrypsin, soyin và glucosid sinh ra các acid cyanhydric làm giảm khả năng tiêu hoá và hấp thu một số chất dinh dưỡng. Do đó, đậu đỗ cần được ngâm nước, rang hoặc nấu chín để làm giảm tác hại của những chất chống dinh dưỡng kể trên. Các sản phẩm từ đậu tương được dùng phổ biến như sữa đậu nành, đậu phụ, bột đậu nành.

Đặc điểm vệ sinh: Đậu đỗ bị mốc dễ bị nhiễm nấm mốc aspergillus flavus chứa aflatoxin gây ung thư gan nguyên phát.

  • Lạc

Hàm lượng protein trong lạc cao (27,5%), nhưng chất lượng kém hơn đậu đỗ. Protein của lạc có ít methionin. Trong lạc còn có nhiều acid béo như oleic, linoleic và palmitic.

Đặc điểm vệ sinh: Lạc bảo quản không tốt dễ bị nhiễm nấm mốc aspergillus flavus chứa aflatoxin gây ung thư gan.

  • Vừng

Vừng có khoảng 20% protein và 46,4% lipid. Protein của vừng nghèo lysin nhưng lại có khá nhiều methionin. Lượng calci trong vừng cao, nhưng kém giá trị vì vừng có nhiều acid oxalic.

Thực phẩm giàu lipid

Thực phẩm giàu lipid chủ yếu là mỡ động vật, bơ, trứng, sữa, dầu thực vật và các loại hạt có dầu như vừng, lạc, đậu tương…

Mỡ

Thường dùng các loại mỡ lợn, bò, cừu, thành phần acid béo chính là acid oleic, palmitic và stearic. Hàm lượng các acid béo no chiếm hơn 50%. Các acid béo chưa no chính là acid oleic (35 – 50%) và có một lượng nhỏ acid linoleic (5 – 10%). Trong mỡ có chứa cholesterol (200mg%) và lexithin (30mg%).

  • Động vật

Bơ là chất béo của sữa, trong bơ chứa 80% lipid, 1% protein, 16 – 20% nước và có một lượng nhỏ glucid và chất khoáng. Acid béo nhiều nhất trong bơ là acid oleic (20 – 30%) và acid palmitic (5 – 28%). Các acid béo chưa no cần thiết đều thấp (5%) và chủ yếu là acid Bơ là nguồn cung cấp tốt vitamin A và D.

Bơ cần được bảo quản ở nơi lạnh, khô và tối.

  • thực vật

Các loại dầu thường được dùng là dầu lạc, vừng, ô liu, hướng dương và đậu nành.

Trong dầu có nhiều acid béo không no cần thiết như acid oleic, acid linolenic và acid arachidonic.

Đặc điểm vệ sinh: Nhìn chung, dầu mỡ cần được bảo quản ở nơi mát, kín, tránh ánh sáng mặt trời và có thể cần cho thêm chất chống oxy hoá (nếu bảo quản lâu). Nếu bảo quản không tốt, dầu mỡ có thể sẽ bị hoá chua, gây tiêu chảy, bị oxy hoá và phân huỷ thành các chất có hại cho cơ thể, ví dụ: peroxyd, oxyacid aldehid, xeton… Các biện pháp khử mùi như chưng hành tỏi cũng không làm loại trừ được chất độc. Mỡ đun ở nhiệt độ cao, kéo dài, nhiều lần sẽ bị phân huỷ thành những chất độc có khả năng gây ung thư.

Thực phẩm giàu glucid

Thực phẩm có nhiều glucid thường được dùng làm thức ăn cơ bản.

  • Ngũ cốc

Ngũ cốc bao gồm: gạo, ngô, lúa mì, kê, khoai. Thành phần của các hạt ngũ cốc rất đa dạng vì bên cạnh glucid, còn có các loại protein, chất khoáng và vitamin. Hạt ngũ cốc có 3 phần chính là lớp vỏ ngoài, hạt và mầm. Trong lớp vỏ có tên là aloron có nhiều protein, vitamin nhóm B và một số chất khoáng; phần mầm có chứa acid béo, lexithin, vitamin E và K. Tinh bột là phần chiếm trọng lượng chủ yếu của hạt ngũ cốc.

  • Gạo

Giá trị dinh dưỡng của gạo thay đổi tuỳ thuộc vào giống, điều kiện đất đai, khí hậu và điều kiện canh tác. Giá trị dinh dưỡng của gạo cũng thay đổi nhiều, tuỳ thuộc theo điều kiện bảo quản, chế biến và sử dụng.

Gạo có nhiều glucid, hàm lượng dao động từ 72 – 80%, gạo giã càng trắng thì tỷ lệ glucid càng cao. Lượng protein trong gạo thay đổi tùy thuộc vào độ xay xát, gạo xát càng trắng thì tỷ lệ protein càng thấp. Glutelin, albumin và globulin là thành phần chính trong protein của gạo. Lượng protein trong gạo thấp hơn trong lúa mì và ngô, tuy nhiên giá trị sinh học của gạo lại cao hơn. So với protein của trứng, protein của gạo nghèo lysin.

Gạo có ít calci và nhiều phosphorus. Trong gạo có khá nhiều vitamin nhóm B, tuy nhiên trong quá trình xay xát, lượng vitamin đã giảm đi đáng kể. Gạo vo quá kỹ hoặc nấu thừa nước cũng làm giảm chất dinh dưỡng có trong gạo.

Đặc điểm vệ sinh: Gạo bảo quản không tốt có thể bị mốc do vi nấm sinh độc tố aflatoxin, khi tích lũy trong cơ thể có thể gây ung thư gan.

  • Ngô

Phần lớn hạt ngô có protein và tinh bột. Lipit và chất khoáng tập trung ở mầm. Protein trong ngô chiếm từ 8,5 – 10%, thành phần protein có nhiều leucin, nghèo lysin và tryptophan.

Lipid của ngô chiếm từ 4 – 5%, phần lớn tập trung ở mầm. Trong các chất béo của ngô thì 50% là acid linoleic, 31% là acid oleic, 13% là acid palmitic và 3% là acid stearic. Dầu ngô có nhiều vitamin E. Ngô nghèo calci, nhiều phosphorus. Vitamin B1 tập trung ở mầm ngô.

Ở những vùng ăn nhiều ngô có thể bị mắc bệnh pelagra do thiếu vitamin PP, niaxin và tryptophan.

  • Các sản phẩm từ lúa mì

Bột mì: giá trị dinh dưỡng của bột mì cũng thay đổi tùy thuộc cách chế biến. Bột sản xuất từ hạt toàn phần có giá trị dinh dưỡng giống như hạt lúa mì, còn bột mì trắng lại bị mất lớp ngoài và mầm chứa nhiều chất dinh dưỡng.

Lượng glucid chiếm 70 – 75%, lipid chiếm 1,1 – 1,5% trong lúa mì. Protein trong bột mì bso gồm albumin, globulin, prolamin và glutelin. Bột mì có ít lysin.

Bánh mì: Chất lượng của bánh mì phụ thuộc rất nhiều vào nguyên liệu bột làm bánh. Bánh mì có thành phần acid amin lysin, methionin leuxin và valin thấp. Bánh mì là nguồn cung cấp sắt và kali tốt. Lượng phosphorus trong bánh mì cao, nhưng ở dưới dạng liên kết fitin, và nhờ có quá trình lên men nên cơ thể mới có khả năng hấp thu được.

  • Khoai củ

Khoai, sắn có hàm lượng glucid bằng 1/3 hàm lượng glucid trong ngũ cốc. Lượng protein thấp, tuy nhiên lại có nhiều chất xơ, vitamin và muối khoáng. Khoai, sắn khô và các loại bột lọc có tỷ lệ glucid tương đương ngũ cốc, nhưng có ít protein hơn.

Đặc điểm vệ sinh: Mầm và vỏ khoai tây đã mọc mầm có chất solanin, có khả năng gây liệt cơ và gây chết người. Chính vì vậy, không nên ăn khoai tây đã mọc mầm, hoặc nếu có thì cần phải gọt vỏ và khoét mầm thật kỹ.

Sắn tươi chứa glucosid sinh ra acid xyanhydric, gây ngộ độc và có thể dẫn tới tử vong. Độc tố này thường tập trung ở lớp vỏ mỏng, vỏ dày, hai đầu củ và lõi. Loại sắn đắng hoặc sắn trồng ở đồi cùng với cây xoan có nhiều độc chất này hơn. Để hạn chế chất độc này, cần gọt vỏ, ngâm nước, luộc chín, để nguội và ăn với đường.

Thực phẩm giàu vitamin và muối khoáng

  • Rau

Rau và quả có giá trị đặc biệt trong dinh dưỡng người. Lượng protein và lipid của rau và quả kém xa các loại thực phẩm có nguồn gốc động vật. Giá trị quan trọng của rau và hoa quả là những chất khoáng kiềm, vitamin, các chất pectin và acid hữu cơ. Rau và quả còn là nguồn cung cấp một số loại đường tan trong nước, tinh bột và chất xơ. Rau và quả còn kích thích cảm giác thèm ăn và ảnh hưởng tới chức phận tiêu hoá.

Rau là thức ăn cung cấp vitamin C. Vitamin C dễ hoà tan trong nước, dễ bị phân huỷ bởi oxy trong không khí và nhiệt độ cao. Trong rau còn có men ascobinase được giải phóng khi rau bị giập nát. Để tránh mất vitamin C, cần rửa rau khi còn cả lá to, khi nước sôi mới thái rau và cho vào nước, khi luộc không nên mở vung và ăn ngay sau khi rau chín. Trong rau, nhất là loại có lá màu xanh đậm hoặc màu vàng, đỏ, da cam có nhiều caroten là các tiền vitamin A. Rau họ đậu có nhiều các loại vitamin khác như riboflavin, acid nicotinic… Rau có nhiều chất khoáng kiềm như kali, calci, mangan, sắt…

Trong khi trồng trọt, có thể người ta đã sử dụng một số loại phân bón, thuốc trừ sâu… nên có nguy cơ bị ô nhiễm vi sinh vật và hoá chất bảo vệ thực vật dư thừa. Chính vì vậy, biện pháp tốt là rửa rau nhiều lần với nhiều nước. Cần thực hiện nghiêm chỉnh những quy tắc phun thuốc trừ sâu cho rau như: loại thuốc, liều lượng, thời gian từ khi phun tới khi thu hoạch.

  • Quả

Về thành phần dinh dưỡng, quả có nhiều glucid hơn, phần lớn là đường đơn hoặc đường kép như fructose, glucose, sacarose. Quả cũng là nguồn cung cấp vitamin C rất tốt, nhưng ưu việt hơn rau ở chỗ quả không có men ascobinase, đồng thời quả không cần qua chế biến nên lượng vitamin C vẫn được giữ nguyên vẹn. Những loại quả có màu vàng như đu đủ, gấc, cam, chanh còn là nguồn cung cấp caroten tốt. Quả cũng là nguồn cung cấp chất khoáng kiềm chủ yếu như kali, calci. Pectin và tanin trong quả cũng có tác dụng kích thích tiêu hoá.

Một số đồ uống thông dụng

  • Chè

Trong chè có tanin, cafein, tinh dầu, các vitamin, sắc tố, protein và chất khoáng. Tanin trong chè tạo cho chè có vị chát đặc hiệu. Tanin có tác dụng tốt đối với niêm mạc đường tiêu hoá, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các vi khuẩn có ích.

Cafein trong chè có tác dụng kích thích, gây hưng phấn đối với hệ thần kinh trung ương, hoạt động của hệ tim mạch và tiêu hoá. Trong chè xanh có nhiều protein, vitamin C, PP và glucid.

  • Cà phê

Trong cà phê có cafein, có tác dụng kích thích thần kinh trung ương. Ngoài ra, trong cà phê còn có một lượng đáng kể lipid, protein và chất khoáng.

  • Cacao

Giá trị dinh dưỡng của cacao cao hơn so với chè và cà phê, chủ yếu là về giá trị năng lượng.

Trong 100g bột cacao có 23,3g protein, 17g lipid và 39,6g glucid.

  • Rượu, bia

Đồ uống có cồn có khả năng cung cấp năng lượng. Mỗi 1g rượu nguyên chất cung cấp 7 kcal. Tuy nhiên, rượu có hại đối với cơ thể. Uống rượu thường xuyên sẽ ảnh hưởng xấu tới gan, thận, dạ dày và hệ thần kinh trung ương. Rượu còn là nguyên nhân gián tiếp gây giảm năng suất lao động, gây tai nạn lao động, tai nạn giao thông và tai nạn sinh hoạt… Người mẹ mang thai uống rượu còn làm ảnh hưởng tới sự phát triển bình thường của thai nhi.

  • Nước khoáng

Nước khoáng tự nhiên: được lấy từ các mạch nước ngầm sâu. Trong đó có muối clorat, sulfat, carbonat của calci, magie, natri, khí CO2 và H2S… Nước khoáng có thể dùng để chữa bệnh hoặc giải khát.

Nước khoáng nhân tạo: Được sản xuất bằng cách bão hoà nước bằng khí CO2 và một số loại muối carbonat và clorid của natri và magie.

  • Các loại nước quả tự nhiên và sirô

Nước quả tự nhiên là nước quả tươi, không cho thêm nước và đường. Đây là loại đồ uống có nhiều vitamin và chất khoáng. Sirô là nước quả tự nhiên bảo quản ở nồng độ đường dưới 60%. Khi sử dụng, có thể hoà loãng sirô với nước để sử dụng.

Phình mạch não: Nguyên nhân, triệu chứng và điều trị

Phình Mạch Não Là Gì?

Phình mạch não là một điểm yếu trong thành mạch máu bên trong não có thể vỡ và gây ra chảy máu dưới màng nhện. Hãy tưởng tượng một điểm yếu trong một quả bóng bay và cảm giác của nó khi bị kéo căng và mỏng. Phình mạch não cũng giống như vậy.

Khu vực đó của mạch máu bị hao mòn do dòng máu liên tục và phình ra, gần như giống như một quả bong bóng. Nó có thể lớn bằng một quả mọng nhỏ.

Mặc dù phình mạch não nghe có vẻ đáng lo ngại, nhưng hầu hết không gây ra triệu chứng hoặc vấn đề sức khỏe. Bạn có thể sống một cuộc đời dài mà không bao giờ nhận ra rằng mình có một cái. Nhưng trong những trường hợp hiếm hoi, phình mạch có thể lớn, rò rỉ hoặc vỡ. Chảy máu trong não, được gọi là đột quỵ xuất huyết, là rất nghiêm trọng, và bạn sẽ cần được chăm sóc y tế ngay lập tức.

Phình mạch so với đột quỵ

Phình mạch và đột quỵ là hai tình trạng y tế rất khác nhau. Đột quỵ xảy ra khi một mạch máu trong não bị vỡ (gọi là đột quỵ xuất huyết) hoặc bị chặn bởi một cục máu đông (gọi là đột quỵ thiếu máu cục bộ). Ngược lại, một phình mạch là một vùng phình ra xảy ra do thành động mạch yếu. Tuy nhiên, nếu một phình mạch vỡ và chảy máu, nó có thể được coi là một loại đột quỵ xuất huyết.

Đột quỵ thường xảy ra mà không có cảnh báo, trong khi phình mạch có thể hình thành trong một thời gian dài. Phương pháp điều trị cho mỗi tình trạng cũng khác nhau. Đối với đột quỵ, các bác sĩ sẽ cho thuốc tan cục máu đông hoặc thực hiện một thủ tục để loại bỏ cục máu đông. Nếu bạn có một phình mạch, bạn có thể cần phẫu thuật để sửa chữa mạch máu.

Các Loại Phình Mạch Não

Có nhiều loại phình mạch khác nhau, bao gồm:

  • Phình mạch hình túi là loại phình mạch não phổ biến nhất. Chúng phình ra theo hình dạng chóp. Chúng được kết nối với động mạch bằng một “cổ” hẹp. Một phình mạch hình túi cũng được gọi là “phình mạch giống quả mọng” vì nó trông giống như một quả mọng treo từ một nhánh.
  • Phình mạch hình fusiform không phổ biến như phình mạch hình túi. Chúng không phình ra theo hình chóp. Thay vào đó, chúng tạo ra một điểm rộng hơn trong mạch máu. Loại phình mạch này khiến tất cả các mặt của động mạch phình ra.
  • Phình mạch do nhiễm trùng được gây ra bởi nhiễm trùng vi khuẩn, nấm hoặc virus ảnh hưởng đến các động mạch trong não. Nhiễm trùng có thể làm yếu thành động mạch. Loại phình mạch này rất hiếm.

Kích Thước Phình Mạch

Phình mạch có kích thước khác nhau:

  • Phình mạch nhỏ có đường kính nhỏ hơn 11 mm, tương đương với kích thước của một cục tẩy bút chì.
  • Phình mạch lớn có đường kính từ 11-25 mm, tương đương với kích thước của một đồng xu.
  • Phình mạch khổng lồ có đường kính lớn hơn 25 mm, tức là lớn hơn chiều rộng của một đồng xu 25 cent.

Phình Mạch Não Phát Triển Nhanh Như Thế Nào?

Phình mạch phát triển với tốc độ khác nhau. Một số không bao giờ phát triển. Một số có thể mất nhiều năm để phát triển. Và một số phát triển rất nhanh, chỉ trong khoảng một tuần.

Triệu Chứng Phình Mạch Não

Loại triệu chứng bạn có từ phình mạch não phụ thuộc vào việc nó có vỡ hay không.

Triệu Chứng Phình Mạch Não Bị Vỡ

Bạn cần chăm sóc khẩn cấp nếu bạn đột ngột gặp phải một cơn đau đầu dữ dội, mất ý thức, hoặc có bất kỳ triệu chứng nào khác của việc phình mạch bị vỡ:

  • Đau đầu dữ dội đột ngột
  • Mất ý thức
  • Buồn nôn và nôn mửa
  • Ngủ gà
  • Mất thăng bằng trong các hoạt động như đi bộ và phối hợp bình thường
  • Cổ cứng
  • Đồng tử giãn
  • Nhạy cảm với ánh sáng
  • Thị lực mờ hoặc nhìn đôi đột ngột
  • Mí mắt sụp
  • Nhầm lẫn hoặc gặp khó khăn với nhận thức tinh thần
  • Ngừng tim (khi tim ngừng đập đột ngột)
  • Co giật

Mặc dù phình mạch não thường không biểu hiện triệu chứng, chúng có thể chèn lên não và dây thần kinh khi chúng lớn lên.

Triệu Chứng Phình Mạch Não Chưa Vỡ

Hãy gặp bác sĩ ngay lập tức nếu bạn gặp phải cơn đau đầu mới hoặc đau trên hoặc sau mắt. Gọi 911. Các triệu chứng khác của một phình mạch chưa vỡ bao gồm:

  • Đồng tử giãn
  • Thị lực mờ hoặc nhìn đôi
  • Mí mắt sụp
  • Khó nói
  • Yếu và tê ở một hoặc cả hai bên mặt
  • Liệt một bên mặt

Một cơn đau đầu đột ngột và dữ dội cũng có thể là dấu hiệu bạn có một phình mạch đang rò rỉ (chảy máu cảnh báo). Đây có thể là dấu hiệu cảnh báo rằng bạn sẽ sớm có một sự vỡ hoàn toàn.

Nguyên Nhân Phình Mạch Não

Có thể có vấn đề với mạch máu từ khi sinh ra dẫn đến phình mạch não.

Một số tình trạng di truyền liên quan đến phình mạch não bao gồm:

  • Bệnh thận đa nang di truyền tự chủ. Tình trạng này gây ra sự hình thành các nang chứa dịch nhỏ trên thận.
  • Bệnh neurofibromatosis loại 1. Nó gây ra sự thay đổi màu da và sự phát triển của khối u dọc theo các dây thần kinh trong da, não và các khu vực khác của cơ thể.
  • Hội chứng Marfan. Những người mắc chứng rối loạn này thường cao với các chi dài.
  • Bệnh u nội tiết đa hình loại 1. Nó gây ra sự phát triển của khối u trong các tuyến nội tiết, ruột non và dạ dày.
  • Bệnh pseudoxanthoma elasticum. Với chứng rối loạn này, canxi và các khoáng chất khác tích tụ trong các mô liên kết trong cơ thể.
  • Bệnh telangiectasia di truyền xuất huyết. Nó gây ra một đám rối mạch máu, được gọi là dị dạng động mạch và tĩnh mạch (AVMs), phát triển giữa các động mạch và tĩnh mạch.
  • Hội chứng Ehlers-Danlos loại II và IV. Những tình trạng này ảnh hưởng đến mô liên kết hỗ trợ da, xương, mạch máu và các cơ quan khác.

Phình mạch có xu hướng hình thành ở điểm chia nhánh của mạch máu, những nơi chúng phân nhánh, vì những khu vực đó thường yếu hơn. Chúng thường được tìm thấy ở đáy của não.

Nguyên Nhân Nào Khiến Phình Mạch Não Vỡ?

Nếu phình mạch não của bạn vỡ hoặc rò rỉ và gây ra một đột quỵ xuất huyết, bạn sẽ cần điều trị y tế ngay lập tức. Điều này hiếm khi xảy ra nhưng có thể đe dọa tính mạng.

Bác sĩ của bạn thường không biết lý do tại sao phình mạch não của bạn vỡ. Nhưng các chuyên gia biết một số lý do có thể làm tăng nguy cơ chảy máu của bạn:

  • Huyết áp cao. Đây là yếu tố phổ biến nhất dẫn đến phình mạch não bị vỡ.
  • Nâng vật nặng hoặc căng thẳng. Phình mạch có thể bị vỡ khi bạn đang nâng một vật nặng hoặc trải qua căng thẳng.
  • Tập thể dục. Tập thể dục cường độ cao, chẳng hạn như chạy, có thể dẫn đến một phình mạch bị vỡ.
  • Uống rượu. Uống nhiều rượu có thể làm tăng nguy cơ phình mạch não bị vỡ.

Chẩn Đoán Phình Mạch Não

Nếu bác sĩ của bạn nghi ngờ rằng bạn có phình mạch não, họ có thể yêu cầu các xét nghiệm sau:

  • CT Scan. Xét nghiệm hình ảnh này sử dụng tia X để tạo ra hình ảnh cắt ngang của não. Nó có thể cho thấy liệu có chảy máu trong não hay không.
  • MRI. Xét nghiệm này sử dụng từ trường và sóng radio để tạo ra hình ảnh chi tiết của não.
  • Chụp mạch máu não. Bác sĩ có thể tiêm thuốc nhuộm vào mạch máu và sau đó sử dụng CT hoặc MRI để tạo hình ảnh của các mạch máu trong não.

Điều Trị Phình Mạch Não

Không phải tất cả các phình mạch đều cần điều trị. Nếu phình mạch của bạn nhỏ, không có triệu chứng và không có nguy cơ vỡ, bác sĩ của bạn có thể đề nghị theo dõi.

Các Lựa Chọn Điều Trị

Nếu bác sĩ của bạn quyết định rằng phình mạch của bạn cần điều trị, bạn có thể được yêu cầu:

  • Phẫu thuật để cắt bỏ phình mạch (clip).
  • Thủ tục nội soi để giữ cho phình mạch không bị vỡ (coiling).

Dự Đoán

Phình mạch não nhỏ thường không gây ra bất kỳ vấn đề sức khỏe nào. Nhưng nếu bạn có một phình mạch lớn hoặc bị vỡ, điều này có thể nghiêm trọng hoặc thậm chí đe dọa tính mạng.

Liên hệ với bác sĩ của bạn nếu bạn có câu hỏi hoặc quan tâm về phình mạch não.

Cách Biết Vết Mổ Của Bạn Đang Làm Lành Đúng Cách Không?

Khi bạn đang nghỉ ngơi tại nhà sau ca phẫu thuật, bạn sẽ cần theo dõi vết thương mà bác sĩ phẫu thuật để lại. Nó sẽ trải qua một số thay đổi trong tháng tới, và có thể bạn sẽ tự hỏi: “Điều này có bình thường không, hay tôi đang bị nhiễm trùng?”

Hãy tìm hiểu một chút về cách vết mổ của bạn sẽ lành để giúp bạn xác định khi nào có thể yên tâm và khi nào cần gọi bác sĩ.

Giai đoạn Làm Lành vết thương của bạn sẽ trải qua ba giai đoạn.

Giai đoạn 1: Sưng Tấy. Những bước đầu tiên hướng tới việc lành lại bắt đầu ngay lập tức. Các mạch máu trong khu vực vết cắt bắt đầu hình thành cục máu đông để ngăn bạn mất quá nhiều máu.

Các tế bào bạch cầu trong cơ thể bạn di chuyển vào vết thương. Hãy coi chúng như những tác nhân kiểm soát nhiễm trùng. Nhiệm vụ của chúng là chống lại vi khuẩn.

Khi bạn ở giai đoạn này, có thể kéo dài lên đến 6 ngày sau phẫu thuật, bạn sẽ thấy một số đỏ và sưng là điều bình thường. Bác sĩ của bạn có thể cho bạn biết mức độ nào là chấp nhận được. Ngoài ra, vết thương của bạn có thể cảm thấy ấm và có thể đau xung quanh vị trí.

Cảnh giác với mủ chảy ra có mùi hôi. Nó có thể là dấu hiệu rằng một nhiễm trùng đang bắt đầu. Một dấu hiệu khác: Cơn đau, đỏ và sưng của bạn không biến mất hoặc đang trở nên tồi tệ hơn. Gọi bác sĩ của bạn nếu điều này xảy ra.

Giai đoạn 2: Xây Dựng Lại. Phần này của quá trình hồi phục kéo dài từ khoảng 4 ngày đến một tháng sau phẫu thuật. Một vết sẹo bắt đầu hình thành trên vết cắt. Các mép vết thương sẽ kéo lại với nhau, và bạn có thể thấy một số chỗ dày lên ở đó. Cũng bình thường khi thấy một số nốt đỏ mới bên trong vết thương đang thu hẹp của bạn.

Bạn có thể cảm thấy những cơn đau nhói, sắc nét trong khu vực vết thương. Điều này có thể là dấu hiệu rằng bạn đang cảm thấy lại cảm giác trong các dây thần kinh của mình. Cảm giác này sẽ giảm bớt theo thời gian và ít xảy ra hơn, nhưng hãy kiểm tra với bác sĩ nếu bạn lo lắng.

Giai đoạn 3: Tái Tạo. Bạn đang ở giai đoạn cuối: Vết thương của bạn đã đầy lại và một bề mặt mới đã hình thành.

Thời gian cuối cùng này có thể kéo dài từ 6 tháng đến 2 năm. Bạn sẽ thấy một số thay đổi trong vết sẹo của bạn. Nó sẽ chuyển từ nhìn dày, đỏ và nhô lên thành mỏng hơn, phẳng hơn và có màu giống như màu da bình thường của bạn.

Nhiễm Trùng
Chúng hiếm nhưng vẫn có thể xảy ra. Nếu bạn có khả năng bị nhiễm trùng, thường là trong tháng đầu tiên sau phẫu thuật.

Vết thương của bạn có thể bị nhiễm trùng nếu bạn có:

  • Sốt
  • Chậm hồi phục
  • Mủ, đỏ và đau tăng lên
  • Đau nhức, ấm và sưng quanh vết thương

Hầu hết thời gian, các nhiễm trùng ở khu vực vết thương có thể được điều trị bằng kháng sinh

Dấu hiệu bệnh tim ở người cao tuổi

Người cao tuổi hiện nay hay mắc bệnh tim, đặc biệt là những người hút thuốc lào, thuốc lá, người béo hoặc người bị tăng huyết áp. Những dấu hiệu sau đây chứng tỏ có liên quan đến bệnh tim:

Sau khi vận động, người bệnh có vẻ mặt lo lắng, thở khó giống như hen, khi nằm xuống lại càng khó thở hơn, điều này báo hiệu bệnh nhân bị cơn hen tim.

Mạch ở cổ tay nhanh, nhỏ, không đều.Dấu hiệu bệnh tim

Chân phù nhiều về buổi chiều.

Khi vận động người bệnh có cơn đau đột ngột ở ngực, vai trái hoặc cánh tay; nghỉ ngơi thì cơn đau giảm và hết đau. Bệnh nhân này có dấu hiệu bị cơn đau thắt tim.

Nếu bệnh nhân bị đau nhói như bị một khối nặng đè lên ngực, nghỉ ngơi cũng không hết đau, có thể là dấu hiệu của nhồi máu cơ tim.

Khi thấy có những dấu hiệu kể trên, nhất thiết người bệnh phải đi khám bệnh và điều trị.

Để dự phòng bệnh tim mạch: cần có một chế độ ăn uống, làm việc và nghỉ ngơi hợp lý. Không nên lao động quá mức dẫn đến căng thẳng, mệt mỏi. Không nên ăn các thức ăn có nhiều mỡ, nhất là mỡ động vật. Người có tuổi mà thấy khó thở, phù chân thì không được ăn mặn, không dùng thức ăn có nhiều muối như dưa, cà, muối vừng, muối lạc… Nếu có dấu hiệu đau thắt ngực hoặc nhồi máu cơ tim thì bệnh nhân cần phải nằm nghỉ tuyệt đối ở nơi yên tĩnh. Nếu nghỉ ngơi mà vẫn không hết đau hoặc có dấu hiệu sốc thì phải đưa bệnh nhân đi khám bệnh và điều trị tại cơ sở y tế có chuyên khoa về tim mạch. Khi vận chuyển bệnh nhân đến cơ sở y tế, cần vận chuyển nhẹ nhàng, không cho bệnh nhân vận động hoặc thay đổi tư thế nhiều.

 

Bệnh truyền nhiễm là gì, Đặc điểm, chẩn đoán bệnh truyền nhiễm

Bệnh truyền nhiễm là bệnh nhiễm khuẩn có khả năng lây truyền từ người bệnh sang các người xung quanh một cách trực tiếp hoặc gián tiếp (qua nước, thức ăn, vật dụng, côn trùng…).

Nhiễm khuẩn không nhất thiết là có bệnh, tuy vậy, những người lành mang mầm bệnh vẫn sẵn sàng lây truyền bệnh cho người khác khi gặp điều kiện thuận lợi.

ĐẶC ĐIỂM CỦA BỆNH TRUYỀN NHIỄM

Diễn biến lâm sàng

Các yếu tố mầm bệnh, cơ địa, môi trường có ảnh hưởng nhất định trên diễn biến lâm sàng của một bệnh truyền nhiễm. Nhìn chung bệnh truyền nhiễm đi qua các thời kỳ sau:

  • Thời kỳ ủ bệnh:

Tính từ lúc mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể cho đến lúc xuất hiện các triệu chứng đầu tiên. Đây là lúc mầm bệnh tăng số lượng để đạt được một ngưỡng nhâ”t định đủ để gây xáo trộn cho người bệnh.

  • Thời kỳ khởi phát:

Đặc trưng bởi dấu hiệu nhiễm khuẩn,nhiễm độc toàn thân, ức chế hoặc hưng phấn vỏ não và rối loạn thần kinh thực vật, nhưng chưa có tổn thương đặc hiệu cho từng loại bệnh.

  • Thời kỳ toàn phát:

Ngoài hội chứng nhiễm khuẩn, nhiễm độc nặng hơn còn có các triệu chứng đặc hiệu cho từng loại bệnh, (ví dụ: Màng giả trong bạch hầu, vàng da trong viêm gan virus v.v…).

Đây cũng là thời kỳ hay xảy ra các biến chứng mà ta cần theo dõi sát để có kế hoạch chăm sóc, xử trí thích hợp.

  • Thời kỳ lui bệnh:

Bệnh có thể lui từ từ hay đột ngột, sự phục hồi lâm sàng thường xuất hiện sốm hơn ở mô, có thể xảy ra bội nhiễm hoặc có thể bộc phát một bệnh tiềm ấn từ trưdc do sự suy kiệt của cơ thể.

  • Thời kỳ lại sức:

Có thể có các mức độ khác nhau:

  • Khỏi toàn thân về lâm sàng, sạch mầm bệnh và không còn tổn thương thực thể.
  • Khỏi toàn thân về lâm sàng, sạch mầm bệnh nhưng còn tổn thương thực thể (ví dụ: Trong lỵ trực khuẩn vẫn còn các vết loét ở niêm mạc trực tràng).
  • Khỏi về lâm sàng, không còn tổn thương thực thể, nhưng còn mang mầm bệnh. Ví dụ: Có người mang vi khuẩn thương hàn trong túi mật hàng năm sau khi lui bệnh.

Diễn biến dịch tễ

Bệnh truyền nhiễm thường dễ phát thành dịch với các đặc điểm:

  • Khả năng lan truyền và số người mắc bệnh cao.
  • Xảy ra cùng một lúc ở nhiều nơi.
  • Người ta thường phân chia:

+ Dịch tản phát, xảy ra lẻ tẻ (ví dụ: Bệnh bại liệt).

+ Dịch lưu hành địa phương (ví dụ: Bệnh sốt rét).

+ Dịch bùng nổ, đại dịch (ví dụ: Dịch tả, dịch hạch, sốt xuất huyết…).

Dây truyền nhiễm là sự nối tiếp 5 mắt xích, liên kết nhau thành một  chu trình khép kín.

  1. Khối cảm thụ:

Khả năng nhiễm bệnh tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu tố:

  • Sức miễn dịch của tập thể và cá nhân.
  • Tuổi, giới tính, địa phương.
  • Tình trạng sức khoẻ.
  • Các điều kiện sinh hoạt, nghề nghiệp thuận lợi cho việc mắc bệnh.
  • Dịch vụ y tế bảo vệ con người trong cộng đồng.
  • Điều kiện kinh tế xã hội của cộng đồng.
  1. Đường ra:

Mầm bệnh có thể ròi cơ thể bằng đường máu (sốt rét, dịch hạch, sốt xuất huyết…), phân (amip, thương hàn…). Dịch tiết âm đạo (các bệnh lây truyền qua đường sinh dục…) v.v…

  1. Nguồn nhiễm:

Mầm bệnh rời cơ thể bệnh nhân có thể nhiễm vào nước (dịch tả), rau (ký sinh trùng đường ruột…), côn trùng (bọ chét trong trường hợp dịch hạch, muỗi Aedes aegypti trong trường hợp sốt xuất huyết…), thực phẩm…

  1. Phương thức xâm nhập:

Người ta có thể nhiễm mầm bệnh do nuốt qua miệng (thương hàn, lỵ…), côn trùng đốt (sốt rét, dịch hạch…), giao hợp (các bệnh lây truyền qua đường sinh dục. ..) V.V..

  1. Đường vào:

Mầm bệnh có thế vào cơ thể người ta qua đường da ( sốt rét, sốt xuất huyết, sốt phát ban…), miệng (dịch tả, lỵ…), sinh dục (bệnh lây truyền qua đường sinh dục), nhau thai (giang mai, Toxoplasma gondu, AIDS…).

Theo đường truyền nhiễm, người ta chia các bệnh truyền nhiễm ra làm 4 nhóm:

  1. Nhóm bệnh truyền theo đường hô hấp:
  • Nếu mầm bệnh có khả năng lây nhiễm nặng thì số” bệnh nhân mắc bệnh thường cao nhưng giảm nhanh, tập trung ở một vùng tiếp xúc.
  • Do khó cắt đường truyền nhiễm nên những người tiếp xúc gần gũi dễ mắc bệnh hơn.
  • Thường xảy ra vào mùa lạnh khi sinh hoạt ngoài trời giảm, không khí ứ đọng và khả năng đề kháng của niêm mạc đường hô hấp kém.
  1. Nhóm bệnh truyền theo đường tiêu hoá:
  • Thường là những vụ dịch lốn, số người tăng rất nhanh.
  • Thường có chung một nguồn cung cấp nước hay thức ăn, trong một tập thể dân cư nhỏ và thường xảy ra vào mùa nắng, nước thiếu, ruồi phát triển, thức ăn dễ hư.
  • Sau cơn bùng phát, số người mắc bệnh giảm từ từ.
  1. Nhóm bệnh truyền theo đường máu:
  • Luôn tuỳ thuộc vào côn trùng trung gian truyền bệnh, theo chu kỳ phát triển và địa phương có côn trùng.
  • Thường gặp ở những người cùng điều kiện sống và làm việc như nhau.

Điều kiện thuận lợi cho côn trùng trung gian phát triển cũng là điều kiện cho bệnh phát triển.

  • Chỉ xảy ra ở từng địa phương.
  1. Nhóm bệnh truyền theo đường da -niêm:
  • Thường do tiếp xúc trực tiếp nên số người mắc bệnh lẻ tẻ.

Chỉ có người tiếp xúc mới mắc bệnh do đó chỉ có khả năng truyền bệnh trong những người này.

CHẨN ĐOÁN BỆNH TRUYỀN NHIỄM

Việc chẩn đoán thường dựa vào các yếu tố sau:

Dịch tễ

  • Nơi cư ngụ và làm việc
  • Tiền sử bệnh.
  • Thói quen sinh hoạt của bệnh nhân và gia đình…
  • Súc vật mà bệnh nhân thường tiếp xúc.

Lâm sàng

Hội chứng nhiễm khuẩn, nhiễm độc, các triệu chứng đặc trưng.

Xét nghiệm

  • Không đặc hiệu:

Công thức máu, tỷ lệ bạch cầu, urê máu…

  • Đặc hiệu:

Tìm mầm bệnh trong các bệnh phẩm.

Tìm kháng thể trong máu.

Điều trị thăm dò

Đáp ứng với thuốc đặc trị cũng là yếu tố quan trọng trong chẩn đoán.

ĐẶC ĐIỂM CHĂM SÓC BỆNH TRUYỀN NHIỄM

Đặc điểm của khoa truyền nhiễm

Khoa truyền nhiễm là nơi phát hiện, cách ly, và điều trị bệnh nhân truyền nhiễm cho đến lúc khỏi hoàn toàn.

Khoa truyền nhiễm là một Ổ vi khuẩn, virus rất nguy hiểm vì là nơi tập trung toàn bộ các vi khuẩn, virus.

Khi có dịch những trường hợp nghi ngờ vẫn phải cho nhập viện, theo dõi, xác định chẩn đoán và sau đó có thể cho xuất viện ngay vì bệnh truyền nhiễm phần lớn là cấp tính cần cấp cứu và khó tiên lượng trước.

Tổ chức biên chế và khối lượng công tác phức tạp hơn các khoa khác, không được tập trung sinh hoạt và không cho người nhà nuôi bệnh nhân trong khu điều trị.

Yêu cầu tổ chức và lề lối làm việc

Về mặt điều trị:

  • Có cơ sở tiếp nhận, cách ly và hồi sức cấp cứu.
  • Có điều kiện chẩn đoán, xét nghiệm vi sinh phối hợp với đội vệ sinh phòng dịch.

Kiểm tra bệnh nhân sạch khuẩn trước khi cho xuất viện.

Về mặt tổ chức:

  • Bố trí theo hệ thống một chiều, phân biệt rõ ràng vùng bị nhiễm và vùng sạch.

Có phương tiện ngăn cách các loại bệnh truyền nhiễm khác.

Khoa truyền nhiễm cần có:

+ Phòng tiếp đón: Đón bệnh nhân, thay quần áo bệnh viện, làm hồ sơ bệnh án.

+ Phòng khám: Khám chẩn đoán bệnh.

+ Phòng lưu: Còn nghi ngờ, chờ kết quả xét nghiệm – chẩn đoán.

+ Một số phòng bệnh.

+ Phòng cấp cứu.

+ Phòng chăm sóc ban đầu: Người lớn, trẻ em.

+ Một số phòng chuyên môn.

+ Phòng làm việc của bác sỹ, điều dưỡng.

+ Có hố tiêu, hố tiểu riêng tại khoa truyền nhiễm dành riêng cho bệnh nhân theo từng khu vực. Công nhân viên của khoa phải có chỗ thay quần áo, phòng làm việc, hố tiêu, hố tiểu riêng và có phòng tắm sạch và thay quần áo trước khi về.

Chế độ công tác tại khoa truyền nhiễm:

Phòng bệnh, phòng dịch:

  • Cách ly bệnh nhân.
  • Ngăn ngừa sự lây chéo trong khoa và trong bệnh viện.
  • Không cho bệnh nhân xuất viện “non” nghĩa là còn mang mầm bệnh.
  • Không được mặc quần áo làm việc ra khỏi bệnh viện và sang các khoa khác.
  • Không mang vật dụng cá nhân vào khoa truyền nhiễm.
  • Mặc đồng phục áo choàng, mũ, khẩu trang khi tiếp xúc với bệnh nhân.
  • Bệnh nhân ở tại khoa đến khi xuất viện.
  • Công nhân viên, bệnh nhân khám sức khoẻ định kỳ và tiêm chủng.

Chế độ báo dịch:

  • Kịp thời báo ngay khi có trường hợp nghi ngờ và đã có kết quả xét nghiệm.
  • Thủ tục báo từ Khoa truyền nhiễm – Y vụ – Trạm vệ sinh phòng dịch.
  • Có sổ báo dịch ghi rõ họ tên, nghề nghiệp và địa chỉ chính xác.

Chế độ khử trùng tẩy uế:

  • Đồ dùng sử dụng cho bệnh nhân phải được tiệt trùng bằng hoá chất, ánh sáng mặt trời từ 6 đến 12 giờ.
  • Chất bài tiết phải được xử lý trước khi đổ vào công rãnh. Phương tiện chuyên chở phải được tẩy uế. Rác, bông băng, mô chết được tập trung và đốt.
  • Sau khi khám bệnh, nhân viên y tế phải ngâm tay với dung dịch sát khuẩn sau đó rửa tay bằng bàn chải và xà bông.
  • Sàn nhà được lau chùi 2 lần/ ngày bằng dung dịch sát khuẩn.
  • Tường và tủ lau 1 lần/ một tuần.
  • Khử trùng phòng bằng tia cực tím hoặc xông hơi với formol từ 12 đến 24 giờ và để trông 12 đến 24 giờ mới tiếp nhận bệnh nhân.
  • Diệt ruồi muỗi, gián, bọ chét, chuột mỗi năm bằng cách phun DDT và quét vôi định kỳ.