Blog Trang 579

Viêm túi lệ – nguyên nhân, triệu chứng, điều trị bệnh

1. ĐỊNH NGHĨA

Viêm túi lệ là một bệnh lý thường gặp trong nhãn khoa, là tình trạng viêm mạn tính hoặc cấp tính tại túi lệ. Bệnh thường xảy ra thứ phát sau tắc ống lệ mũi bẩm sinh hoặc mắc phải.

2. NGUYÊN NHÂN

  • Là hậu quả của tắc ống lệ mũi bẩm sinh hoặc tắc ống lệ mũi mắc phải.
  • Tác nhân vi sinh vật thường gặp gây viêm túi lệ khá đa dạng. Các vi sinh vật có thể gây viêm túi lệ bao gồm vi khuẩn Gram dương như Staphylococus epidermidis, Staphylococus Aureus, Streptococus pneumoniae; vi khuẩn gram âm như : Pseudomonas aeruginosa, Hemophilus influenza, Proteus, kể cả vi khuẩn kị khí như Propionibacterium acnes.

3. CHẨN ĐOÁN

Lâm sàng:

Viêm túi lệ biểu hiện ở hình thái mạn tính hoặc có những đợt viêm cấp tính.

  • Viêm túi lệ mạn tính

Chảy nước mắt thường xuyên, có thể kèm chảy mủ nhầy.

Dính mi mắt do các chất tiết nhầy.

Vùng túi lệ có khối nề, căng, ấn vào có mủ nhầy trào ra ở góc trong mắt.

Viêm kết mạc góc

Bơm lệ đạo: nước trào qua lỗ lệ đối diện có nhầy mủ kèm

  • Viêm túi lệ cấp tính

Có tiền sử chảy nước mắt, hoặc chảy nước mắt kèm nhầy mủ.

Đau nhức vùng túi lệ, có thể đau tăng lên khi liếc mắt vì phản ứng viêm có thể tác động đến cơ chéo dưới. Đau có thể lan ra nửa đầu cùng bên, đau tai hoặc đau răng.

Vùng túi lệ sưng, nóng, đỏ.

Túi lệ giãn rộng, lan ra phía dưới ngoài hoặc một phần ở phía trên.

Nếu quá trình nhiễm trùng nặng hơn, gây áp xe túi lệ.

Giai đoạn muộn hơn, có thể gây dò mủ ra ngoài Mủ nhầy thoát từ túi lệ ra ngoài qua lỗ dò này.

Toàn thân: mệt mỏi, sốt, đặc biệt các triệu chứng toàn thân thể hiện rõ hơn ở người già. Có thể có hạch trước

Cận lâm sàng

  • Viêm túi lệ có thể được chẩn đoán dễ dàng dựa vào các triệu chứng lâm sàng mà không cần đến các xét nghiệm chẩn đoán khác. Tuy nhiên trong một số trường hợp, chụp phim cắt lớp vùng túi lệ và hốc mắt sẽ cho thấy rõ hình ảnh túi lệ bị viêm hay u túi lệ.
  • Xét nghiệm vi sinh vật: xác định loại vi sinh vật gây viêm túi lệ bằng xét nghiệm nhuộm soi, nuôi cấy mủ nhầy từ túi lệ.

Chẩn đoán xác định

Chẩn đoán xác định căn cứ vào các triệu chứng lâm sàng:

  • Viêm túi lệ mãn: chảy nước mắt tự nhiên liên tục, bớm lệ quản có nhầy mủ trào ra ở điểm lệ đối diện.
  • Viêm túi lệ cấp: trước đó thường xuyên chảy nước mắt. Vùng túi lệ sưng nóng đỏ, đau nhức, có thể có dò mủ túi lệ.

Chẩn đoán phân biệt:

  • Viêm kết mạc mạn tính: mắt đỏ, kết mạc cương tụ nhẹ. Bệnh nhân có thể chảy nước mắt. Bơm lệ đạo nước thoát tốt xuống miệng.
  • U túi lệ: bệnh nhân có khối u vùng góc trong mắt, có thể gây chảy nước mắt nếu u choán chỗ nhiều, gây tắc lệ đạo. U có mật độ chắc, ấn vài khối u không thay đổi và không có mủ nhầy trào ra ở lỗ lệ. Khi bơm lệ đạo nước thoát tốt hoặc nước trào ngược và không có nhầy mủ. Chụp cắt lớp sẽ phân biệt được rõ u và viêm túi lệ.
  • U vùng túi lệ: u ở vùng túi lệ có thể gây chèn ép vào túi lệ, gây chảy nước mắt. U có mật độ chắc, ấn vào khối u không thay đổi về kích thước. Bơm lệ đạo nước thoát xuống miệng hoặc trào ngược nhưng không có nhầy mủ.
  • Áp xe vùng túi lệ: bệnh nhân không có tiền sử chảy nước mắt. Bơm lệ đạo nước có thể thoát xuống miệng, không có tắc lệ đạo. Tuy nhiên rất khó phân biệt giữa viêm túi lệ cấp và áp xe vùng túi lệ ở giai đoạn viêm cấp tính. Chẩn phân biệt dựa vào bơm lệ đạo sau khi qua giai đoạn viêm cấp. Sau khi điều trị bằng kháng sinh, hết viêm cấp, bơm lệ đạo nước thoát, không có tắc lệ đạo và viêm túi lệ mãn tính.

4. ĐIỀU TRỊ

Nguyên tắc chung

  • Điều trị nội khoa được áp dụng cho các trường hợp viêm túi lệ cấp để giải quyết tình trạng nhiễm trùng cấp tính. Sau khi hết viêm cấp tính, bệnh nhân cần được điều trị phẫu thuật để loại trừ ổ viêm mãn tính tại túi lệ.
  • Viêm túi lệ cần được điều trị bằng phẫu thuật nối thông túi lệ mũi để giải phóng tình trạng tắc nghẽn và viêm mãn tính tại túi lệ. Nếu không mổ nối thông túi lệ mũi được, bệnh nhân cần được điều trị bằng phẫu thuật cắt túi lệ.

Điều trị cụ thể

Viêm túi lệ mạn tính

  • Thông lệ đạo: được chỉ định cho các trường hợp viêm túi lệ do tắc lệ đạo bẩm Thông lệ đạo làm giải phóng chỗ tắc ở ống lệ mũi, phục hồi lưu thông nước mắt. Nhờ vậy, không còn ứ đọng dịch viêm trong lòng túi lệ, hết viêm túi lệ.
  • Phẫu thuật nối thông túi lệ mũi: phẫu thuật nhằm tạo ra một đường thông mới từ túi lệ sang ngách mũi giữa. Có thể tạo đường thông này bằng phẫu thuật qua đường rạch da hoặc qua đường mũi, kết hợp với đặt ống silicon qua lệ quản xuống mũi.
  • Nếu không phẫu thuật nối thông túi lệ-mũi được, hoặc mổ nối thông túi lệ mũi thất bại, cần mổ cắt bỏ túi lệ để loại trừ ổ viêm và tránh các biến chứng như viêm túi lệ cấp hoặc nhiễm trùng tại bề mặt nhãn cầu.

Viêm túi lệ cấp tính

Điều trị viêm túi lệ cấp được chia làm 2 giai đoạn: điều trị viêm cấp tính và điều trị dự phòng tái phát, bao gồm cả việc điều trị nguyên nhân.

Điều trị viêm túi lệ cấp tính:

Dùng kháng sinh chống nhiễm trùng: dùng kháng sinh toàn thân đường tiêm hoặc uống tùy theo mức độ nặng nhẹ của viêm túi lệ. Nên dùng các kháng sinh có phổ rộng. Có thể phối hợp kháng Sau khi tìm được tác nhân gây bệnh, nên dùng kháng sinh theo kết quả kết quả kháng sinh đồ.

Kháng sinh toàn thân: có thể dùng các kháng sinh phổ rộng theo đường uống hoặc tiêm tĩnh mạch tùy theo mức độ viêm cấp.

Cefuroxime: liều 250 – 500mg/ngày x 2 lần/ngày x 5 – 7 ngày. Với trẻ em có thể dùng liều 10mg/kg x 2 lần/ngày x 5 – 7 ngày.

Kháng sinh nhóm quinolon: Ciprofloxacin: liều 250 – 500mg/ngày x 2 lần/ngày x 5 – 7 ngày. Không dùng thuốc nhóm này cho trẻ em dưới 12 tuổi.

Kháng sinh nhỏ mắt: có thể dùng

Levofloxacin: nhỏ mắt 4 – 6 lần/ngày x 1 -2 tuần.

Moxifloxacin: nhỏ mắt 4 – 6 lần/ngày x 1 – 2 tuần.

Giảm phù nề: dùng các thuốc giảm phù nề

Alphachymotrypsin: uống 4 – 8mg/ngày x 1 – 2 lần/ngày x 5 – 7 ngày.

  • Giảm đau: dùng thuốc giảm đau nếu có đau nhức nhiều. Paracetamol: uống 10mg/kg x 2 – 3 lần/ngày.
  • Chích rạch áp xe : tháo bớt mủ ở ổ áp xe giúp cho bệnh nhân đỡ đau và lấy bệnh phẩm để nuôi cấy tìm tác nhân gây bệnh và làm kháng sinh đồ. Có thể hút mủ qua đường lệ quản hoặc rạch trực tiếp vào túi lệ qua đường rạch ở

Điều trị dự phòng tái phát: điều trị nội khoa sẽ làm viêm túi lệ cấp ổn định rồi chuyển sang giai đoạn viêm túi lệ mãn tính trong vòng 1 -2 tuần. Để tránh viêm túi lệ cấp tái phát, bệnh nhân cần được tiếp tục điều trị bằng phẫu thuật nối thông túi lệ mũi hoặc cắt bỏ túi lệ.

5. TIẾN TRIỂN VÀ BIẾN CHỨNG

Nếu không được điều trị, viêm túi lệ mãn gây viêm kết mạc, viêm giác mạc. Viêm túi lệ mãn có các đợt viêm cấp, gây áp xe túi lệ thậm chí gây viêm tổ chức hốc mắt. Viêm túi lệ cấp có thể gây dò mủ ra ngoài da, viêm mi, hốc mắt.

Nhìn chung các trường hợp viêm túi lệ mạn đều có thể điều trị khỏi bằng phẫu thuật nối thông túi lệ mũi. Tỷ lệ khỏi bệnh sau phẫu thuật từ 85% – 95% tùy theo từng nghiên cứu. Các trường hợp điều trị bằng phẫu thuật nối thông túi lệ mũi thất bại, có thể điều trị khỏi hoàn toàn bằng phẫu thuật cắt túi lệ. Tuy nhiên, sau cắt túi lệ, bệnh nhân hết viêm túi lệ nhưng vẫn bị chảy nước mắt vì không phục hồi được chức năng lệ đạo.

6. PHÒNG BỆNH

Điều trị sớm các trường hợp tắc ống lệ mũi là biện pháp có hiệu quả để phòng viêm túi lệ mãn. Các trường hợp viêm túi lệ mãn được điều trị sớm thì sẽ tránh được biến chứng viêm túi lệ cấp.

Sắc mặt xanh – Phân biệt triệu chứng bệnh Đông y

Khái niệm

Ở mặt bệnh nhân bộc lộ màu xanh gọi là chứng sắc mặt xanh, phần nhiều do hàn ngưng khí trệ, mạch lạc bị uất nghẽn, khí huyết vận hành không lưu lợi gây nên. Tố vấn – Ngũ tạng sinh thành thiên viết: “Sắc và vị ứng với ngũ tạng thì màu xanh thuộc Can, vị chua”. Linh khu – Ngũ sắc thiên viêt: “Lấy ngũ sắc để mệnh danh cho tạng thì sắc xanh thuộc Can”. Chứng trị chuẩn thằng – Sát sắc yếu lược viết: “Sắc xanh thuộc mộc chủ phong, chủ hàn, chủ về đau, đó là sắc của Túc Quyết âm Can kinh”. Có nhiều nguyên nhân tạo nên hàn ngưng khí trệ và mạch lạc bị tắc nghẽn, vì vậy sắc mặt xanh còn phải phân biệt trắng xanh, xanh sạm và xanh tía khác nhau.

Phân biệt

Chứng hậu thường gặp

  • Sắc mặt xanh do hàn tà bó ở ngoài: Có chứng sắc mặt trắng xanh, sợ lạnh phát sốt, đau đầu đau mình, không mồ hôi, rêu lưỡi trắng mỏng mà nhuận, mạch Phù Khẩn.
  • Sắc mặt xanh do âm hàn kết ở trong: Có chứng sắc mặt trắng xanh đau bụng đột ngột dữ dội gặp ấm thì đỡ, gặp lạnh đau tăng, chân tay quyết lạnh, miệng nhợt không khát, tiểu tiện trong dài, đại tiện nhão, rêu lưỡi trắng, mạch Trầm Khẩn.
  • Sắc mặt xanh do Tâm Thận dương suy: Có chứng Sắc mặt xanh sạm, môi miệng tím tái, hồi hộp đoản hơi, vùng ngực bức bối, thân thể lạnh, chân tay lạnh, tiểu tiện ít, thân thể hơi phù, chất lưỡi tía tối, rêu lưỡi trắng trơn, mạch Vi Nhược hoặc Kết Đại.
  • Sắc mặt xanh do Phê Thận dương hư: Có chứng sắc mặt tía xanh, suyễn gấp đoản hơi thì thở ra nhiều, thở vào ít, hễ động làm càng thở mạnh, thanh âm bợt bạt, chân tay lạnh, tự ra mồ hôi, đái ít, đại tiện nhão, lưỡi tía nhợt, rêu trắng trơn, mạch Hư Phù vô căn.
  • Sắc mặt xanh do nhiệt động Can phong: Có chứng sốt cao, sắc mặt tía xanh, rõ nhất ở khoảng lông mày giao nhau, sống mũi và quanh môi, phiền khát, gáy cứng co giật, hai mắt lộn ngược, uốn ván, thần chí hôn mê, lưỡi đỏ rêu vàng, mạch Huyền Sác, chứng này hay gặp ở trẻ em.

Phân tích

  • Chứng Sắc mặt xanh do hàn tà bó ở ngoài với chứng Sắc mặt xanh do âm hàn nội kết: Loại trên là do ngoại cảm phong hàn, vệ dương tắc nghẽn gây nên cho nên khi sắc mặt trắng xanh thường kèm theo các chứng biểu hàn như phát sốt, không mồ hôi, mạch Phù Khẩn. Loại sau là do trực trúng hàn tà bên ngoài hoặc ăn quá độ các đồ sống lạnh, dương khí bị hao thương âm hàn thịnh ở trong, vì vậy khi hiện sắc mặt trắng xanh đồng thời kiêm các chứng trạng lý hàn như: đau bụng dữ dội, chân tay lạnh, miệng nhạt, tiểu tiện trong, đại tiện nhão, mạch Trầm Khẩn. Hai chứng này một là biểu hàn, một là lý hàn, chẩn đoán phân biệt không khó. Loại trên điều trị nên tân ôn giải biểu, chọn dùng phương Ma hoàng thang gia vị. Loại sau điều trị nên ôn trung tán hàn, chọn phương Lương phụ hoàn hợp Chính khí thiên hương tán.
  • Chứng Sắc mặt xanh do Tâm Thận dương suy: Chứng này là do Tâm Thận dương suy, năng lực vận chuyển huyết kém, khí hư huyết ứ mất chức năng sưởi ấm, thủy thấp không hóa được gây nên. Vì vậy đồng thời với sắc mặt xanh sạm còn kiêm các chứng trạng hồi hộp đoản hơi vùng ngực bức bôi, thân thể lạnh, chân tay lạnh, tiểu tiện ít, phù thũng, môi lưỡi tía xanh, mạch Vi Nhược hoặc Kết Đại. Điều trị nên ôn bổ Tâm Thận, chọn dùng phương Chân vũ thang hợp với Bảo nguyên thang.
  • Chứng Sắc mặt xanh do Phế Thận dương hư:

Chứng này đầu mối nguyên nhân là Phế khí hư và Thận dương hư; Phế thận dương hư thì mất chức năng sưởi ấm, khí huyết không vận chuyển, Thận mất khả năng nhiếp nạp, khí không về nguồn gây nên cho nên đồng thời với sắc mặt tía xanh xuất hiện các chứng trạng thở gấp đoản hơi, thì thở ra nhiều, thở vào ít, tiếng nói thấp khẽ, chân tay lạnh tự ra mồ hôi, tiểu tiện ít, đại tiện nhão, mạch Hư Phù vô căn. Điều trị nên bổ Thận nạn khí, chọn dùng phương Nhân sâm Hồ đào thang phối hợp với Hắc tích tán.

  • Chứng Sắc mặt xanh do nhiệt khuấy động Can phong: Chứng này do nhiệt tà quá thịnh hun đốt Can kinh hóa hỏa sinh phong gây nên, vì vậy đồng thời với sắc mặt tía xanh còn kiêm các chứng sốt cao, phiền khát, chân tay co giật, uốn ván thần chí không tỉnh táo, lưỡi đỏ rêu vàng, mạch Huyền Sác… chứng này hay gặp nhiều ở trẻ em. Khi trẻ em sốt cao sắc mặt tía xanh và bộc lộ rõ tía xanh ở khoảng lông mày giao nhau, sống mũi và quanh môi, đó là dấu hiệu báo trước động phong, điều trị nên thanh nhiệt lương Can dẹp phong chọn dùng phương Linh giác câu đằng thang phối hợp với An cung ngưu hoàng hoàn.

Sắc mặt xanh chủ về hàn, chủ về đau, chủ về ứ huyết và chủ về kinh phong. Để chẩn đoán sắc mặt xanh cần chú ý đến màu sắc bóng bẩy, màu xanh mà có hàm xúc tươi nhuận là tốt. Màu xanh mà bộc lộ khô khan là Vị khí bại hoại như Ngũ tạng sinh thành thiên – Sách Tố vấn nói: “Xanh như cỏ úa thì chết… xanh như lông chim trả thì sống”. Tố vấn – Mạch yếu tinh vi luận cũng viết: “Xanh cần mướt như rêu tường đừng như cỏ úa”.

Trích dẫn y văn

Can vượng về phương Đông thuộc mộc sắc xanh, phong hàn và đau là ba chứng chủ bệnh. Giận cũng có sắc xanh, về kinh hãi sắc cũng như thế. Xanh mà đen hoặc sắc xanh và kiêm hồng đó là điều tương sinh rất tốt. Xanh mà trắng khô đó là điều tương khắc rất xấu. Ví dụ như bệnh Tỳ mà thấy sắc xanh đó là mộc đến khắc thổ rất khó chữa (Tứ chẩn quyết vi – Vọng chẩn).

Uống sữa đậu nành cần chú ý những gì?

Khi uống sữa đậu nành, cần chú ý mấy điểm sau đây:

  1. Không cho trứng gà vào nấu với sữa đậu nành. Sữa đậu nành có chất trypsin rất dễ kết hợp với chất protein có tính niêm dịch ở trong trứng gà sinh ra chất ức chế, ảnh hưởng đến sự hấp thu và sử dụng chất trypsin của cơ thể. Nhưng nếu sữa đậu nành và trứng gà đều nấu chín riêng để ăn cùng thì lại không phát sinh ảnh hưởng nói trên.
  2. Không được dùng đường đỏ pha vào sữa đậu nành để uống: Trong đường đỏ có thành phần acid hữu cơ, có thể kết hợp với chất protein trong sữa đậu nành, sinh ra chất lắng đọng biến tính, ăn vào rất có hại đến sức khỏe, nhưng nếu pha bằng đường trắng thì lại không có hiện tượng đó.
  3. Sữa đậu nành cần phải nấu thật chín kĩ mới được uống: Nếu nấu không chín kĩ, sau khi uống dễ sinh các triệu chứng cồn cào buồn nôn, nôn mửa, đau bụng, tiêu chảy, vì trong sữa đậu nành có một chất xúc tác có hại, có thể làm tan máu. Vì vậy, sữa đậu nành cần phải nấu cho sôi tới 100°c trong mấy phút thì mới làm cho chất xúc tác có hại đó mất đi và khi đó dùng mới tốt được.Sử dụng sữa đậu nành giúp bạn chống loãng xương
  4. Không được đựng sữa đậu nành vào trong phích nước nóng: Chất xúc tác có hại có trong sữa đậu nành có thể trừ bỏ những cáu bẩn trong phích nước giữ nhiệt. Nếu để sữa đậu nành lâu trong phích nước nóng, nó sẽ hòa tan chất cáu bẩn đó vào trong nước sữa đậu nành, sinh ra không biết bao nhiêu vi khuẩn trong đó, làm cho sữa đậu nành biến chất, khi uống vào dễ sinh đau bụng, tiêu chảy.
  5. Không được uống sữa đậu nành quá nhiều một lúc để phòng tránh tiêu hóa không tốt, chất protein hấp thu quá nhiều, gây ra đau bụng, tiêu chảy.
  6. Không được uống sữa đậu nành khi đói: Tốt nhất nên uống sữa đậu nành sau bữa ăn sáng từ 1 đến 2 giờ, hoặc vừa ăn bánh mì, bánh bao, ăn quẩy v.v… với sữa đậu nành. Như vậy, sẽ có lợi cho sự hấp thu của cơ thể đối với các chất dinh dưỡng có trong sữa đậu nành.

Bị nổi ban xuất huyết nên ăn gì

Bề mặt da xuất hiện những chấm bầm hoặc ban bầm, niêm mạc hoặc khí quản chảy máu.

Bệnh này thường gặp nhiều ở lứa tuổi nhi đồng, thanh thiếu niên, con gái tương đối nhiều, triệu chứng toàn thân kiệt sức, tinh thần bất ổn.

Món 1: THỊT THÓ HẨM TẢO ĐÓ

Nguyên liệu:

  • Táo đỏ 10 – 15 quả
  • thịt thỏ 250 – 400gr

Cách chế biến:

Táo đỏ rửa sạch bụi, thịt thỏ xắt miếng, cùng cho vào nồi hầm cách thủy đến khi thịt đỏ chín mềm.

Cách ăn: Uống canh, ăn thịt thỏ.

Công hiệu: Bổ khí bổ máu.

Món 2: ĐƯƠNG QUY THỊT HOẴNG

Nguyên liệu:

  • Thịt hoẵng 1kg
  • a tuyết lý hồng 60gr
  • đương quy 10gr

    Vị thuốc Đương quy
    Vị thuốc Đương quy

Cách chế biến:

Thịt hoẵng bỏ da ngâm vào nước lạnh nửa giờ lấy ra, sau đó cho vào nồi nước lạnh nấu khử sạch máu và mùi tanh, vớt ra để ráo nước rồi xắt thành miếng; đương quy xử lý sạch, tuyết lý hồng dùng nước rửa sạch bỏ hết góc cắt thành từng đoạn. Đặt nồi lên bếp lửa cho vào 36gr mỡ heo. Sau khi mỡ heo nóng lên cho thịt hoẵng vào xào lên khoảng 1 phút, cho nước Đương quy vào; cho thêm một ít tương dầu vào cùng nấu. Sau khi nước sôi lên cho gừng, muối, đường cát vào cho lửa nhỏ lại. Thịt hoẵng nấu chín 7 phần, lấy một nồi khác cho lên bếp, cho 10gr mỡ đảo nóng, cho tuyết lý hồng vào xào vài lần. Sau đó đổ sang nồi thịt hoẵng tiếp tục nấu đến chín phần cho lửa keo để nước keo lại nửa giờ. Cho một ít bột năng vào.

Công hiệu: Ngon cơm. Bổ máu

Món 3: NÁCH HEO HẦM TÁO ĐỎ

Nguyên liệu:

  • Nách heo 1kg
  • đường nước 150gr
  • táo đỏ 100gr

Cách chế biến:

Nách heo theo thường lệ xử lý sạch, táo đỏ rửa sạch lấy 30gr đường nước thắng lại thành màu vàng đậm.

Cho vào nồi vài cục xương heo nấu lên, pha canh 1500gr. Cho nách heo vào nấu vớt bỏ bọt nổi ở phía trên đi, sau dó cho táo đỏ, đường đã thắng ra màu vàng và đường nước vào. Dùng lửa riu riu hầm cho đến khi nách heo chín nhừ là được.

Cách ăn: Ngon cơm.

Công hiệu:

  • Bổ âm, bổ máu.
  • Nên ăn nhiều thực vật có nhiều vitamin, chất sắt, đồng lòng trắng trứng gà. Lượng mỡ vừa đủ

Chứng dạ dày yếu và cách điều trị hiệu quả

Định nghĩa

Chứng dạ dày yếu là nói tính co dãn gân cơ của dạ dày giảm sút, sự co bóp của thành vách dạ dày giảm yếu, là dạ dày không có sức.

Nguyên nhân

  • Là một chứng trạng của thể chất không có sức, cho nên thường kiêm phát sinh với sa dạ dày.
  • Do thói quen ăn uống không có qui luật, do quá ăn quá uống khiến dạ dày quá mệt mỏi.
  • Tiếp tục phát do thiếu máu, lao phổi thương hàn. Đây là do cơ của dạ dày doanh dưõng chướng ngại, hoặc do độc tố xâm phạm thần kinh gây ra.
  • Ngoài ra áp suất bụng giảm ít, tinh thần đau khổ buồn bực cũng là nguyên nhân. Bệnh này phụ nữ mắc nhiều hơn nam giới.

Chứng trạng

  • Chứng trạng tự bệnh nhân thấy được là: Lúc đói bụng còn đỡ đau khổ, sau khi ăn vào thì thấy vùng dạ dày đầy trướng, có cảm giác đè nặng, lượng ăn giảm ít, thường ăn uống chưa đạt đến mức bình thường thì cảm thấy no đầy mà giữa chừng phải tạm ngừng ăn uống, luôn luôn có ợ hơi, nao nao buồn nôn mà không nôn được, hoặc nuốt chua tào tạp, nôn ra nội dung vật chất chua, ngoài ra dễ mệt, đầu nặng mơ hồ, xây xẩm v.v…
  • Chứng trạng người ngoài biết được như: Mặt thiếu sắc máu, mạch đập mềm yếu, vách bụng (bì bạc trì hoãn) nhẽo, nhăn nheo. Lúc đói bụng nếu uống 100 – 300cm3 nước ấm, hoặc sau lúc ăn, nhẹ nhàng sờ tay có thể thấy tiếng nước vẽ. Thời gian bài tiết ra các chất trong dạ dày tương đối kéo dài nhưng về sáng sớm dạ dày thường trống rỗng, nước tiểu tuy không biến hóa gì, đại tiện thường bí kết.

Cách chữa và phương thang

Bình vị tán

Vùng dạ dày có cảm giác đầy bè ra (đầy trướng) đình trệ thì dùng, nhưng phần nhiều dùng Hương sa bình vị tán hoặc Gia vị bình vy tán.

Dược:

Xương truật 16g

Sinh khương 8g

Đại táo       8g     

Hậu phác    12g

Trần bì        12g

 Cam thảo   4g

Hương sa bình vị tán.

Tức Bình vị tán gia thêm:

Hương phụ 16g

Hoắc hương 4g

Sa nhân 6g.

Vị thuốc Sa nhân trong điều trị viêm dạ dày mạn
Vị thuốc Sa nhân trong điều trị viêm dạ dày mạn

Gia vị bình vị tán.

Tức Bình vị tán gia thêm

Mạch nha 8g                            Thần  khúc 8g.

Thang Lục quân tử

So với lúc dùng Bình vị tán bệnh thế càng tiến hành, nét mặt thiếu sắc máu, mạch đập mềm yếu, vách bụng mỏng nhẽo, ăn xong mệt mỏi thích ngủ, đầu nặng xây xẩm dùng phương này phù hợp. Hoặc dùng Hương sa lục quân tử, thang Hóa thực dưỡng tỳ. Nếu vùng bụng có tiếng nước reo rõ rệt, miệng khát xây xẩm có thể dùng thang Linh quế truật cam, thang Phục linh trạch tả, Ngũ linh tán v.v…

Dược:

Nhân sâm 16g Bạch truật 16g
Trần bì 5g Đại táo 8g
Phục linh 16g Bán hạ 16g
Sinh khương 8g Cam thảo 4g

Thang Hương sa lục quân tử

Nhân sâm 12g Bạch truật 12g
Trần bì 8g Đại táo 6g
Phục linh 12g Bán hạ 12g
Sinh khương 6g Cam thảo 4g
Sa nhân 4g Hoắc hương 4g
Hương phụ 8g.

Thang Hóa thực dưỡng tỳ

Tức thang Lục quân tử thêm Sa nhân 6g Thần khúc, Mạch nha, Sơn tra đều 8g.

Vị thuốc Mạch nha
Vị thuốc Mạch nha

Thang Linh quế truật cam

Phục linh            24g           Quế chi               16g

Bạch truật           12g           Cam thảo            8g

Thang Phục linh trạch tả

 

Trạch tả 16g Sinh khương 12g
Cam thảo 6g Phục linh 16g
Bạch truật 12g Quế chi 8g

Ngũ linh tán

Trạch tả 20g Quế chi 8g
Trư linh 12g Bạch linh 12g
Bạch truật 12g

Nghiền nhỏ mỗi lần uống 4g, ngày 3 lần nước sôi điều uống.

Thang Tiểu kiến trung

Góc bụng trên nhỏ hẹp, da dẻ doanh dưỡng không tốt mà mỏng nhẽo, có thể sờ biết cơ thẳng bụng khẩn trương thì dùng thích hợp, nếu có tiếng nước reo rõ rệt thì thêm Bán hạ, Phục linh.

Dược:

Quế chi            16g             Sinh khương 16g

Cam thảo         8g               Đại táo                  16g

Thược dược 24g

Nấu được rồi bỏ bã, cho thêm Giao di 80g lại đun thêm 5 phút rồi uống ấm.

Phục linh ẩm

Huyệt Phúc Kết

Phúc Kết

Tên Huyệt Phúc Kết:

Huyệt là nơi khí của lục phủ kết tụ lại bên trong bụng, vì vậy gọi là Phúc Kết (Trung Y Cương Mục).

Tên Khác:

Dương Quật, Khúc Quật, Trường Kết, Trường Quật.

Xuất Xứ:

Giáp Ất Kinh.

Đặc Tính

Huyệt Phúc Kết

:

Huyệt thứ 14 của kinh Tỳ.

Huyệt Hội với Âm Duy Mạch.

Vị Trí

Huyệt Phúc Kết

:

Nơi gặp nhau của đường dọc qua núm vú và đường ngang qua rốn, dưới rốn 01 thốn.

Giải Phẫu:

Dưới da là cơ chéo to của bụng, mạc ngang, phúc mạc, đại trường lên hoặc xuống.

Thần kinh vận động cơ do 6 dây thần kinh gian sườn dưới và dây thần kinh bụng-sinh dục.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh D12.

Chủ Trị

Huyệt Phúc Kết

:

Trị quanh rốn đau, đau do thoát vị, tiêu chảy.

Phối Huyệt:

Phối Hành Gian (C.2) trị bụng đau nhói lên tim (Tư Sinh Kinh).

Cách châm Cứu:

Châm thẳng 1-1, 5 thốn. Cứu 3-5 tráng, Ôn cứu 5-10 phút.

Ghi Chú:

Có thai: không châm sâu.

Nhiễm khuẩn đường tiết niệu cấp tính và mãn tính

Định nghĩa: có các mầm bệnh trong nước tiểu ở các đường bài xuất. Nhiễm khuẩn đường niệu có thể cấp hoặc mạn tính. Có thể không có triệu chứng và chỉ có vi khuẩn trong nước tiểu.

Nhiễm khuẩn cc thể xẩy ra ở bất kỳ chỗ nào ở đường niệu thấp và/hoặc đường niệu cao:

  • Thận → xem viêm bể thận.
  • Bàng quang → xem viêm bàng quang.
  • Tuyến tiền liệt → xem viêm tuyến tiền liệt.
  • Niệu đạo → xem viêm niệu đạo.

NHIỄM KHUẨN CẤP TÍNH Ở ĐƯỜNG NIỆU THẤP

Căn nguyên: nhiễm khuẩn đường niệu do các vi khuẩn Gram âm gây ra, nhất là Escherichia coli (70%), Proteus mirabilis (10%), Staphylococcus saprophyticus (10%), Klebsiella Pseudomonas. Thường gặp các thể hỗn hợp. Một số liên cầu và vi khuẩn đường ruột phát triển ở bệnh nhân dùng kháng sinh đã từng bị tái phát nhiều lần. Một số vi khuẩn như tụ cầu trắng (không có coagulase), Citrobacter, Enterobacter, Serratia, Candida albicans có ở môi trường bệnh viện, nhất là sau khi đặt thông đường niệu, đặc biệt là ở bệnh nhân bị tiểu đường và bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch. Hiếm khi gặp vi khuẩn hiếu khí.

  • Theo đường ngược từ dưới lên: là đường nhiễm hay gặp nhất. Nhiễm khuẩn từ lỗ niệu đạo, âm đạo hay sau thăm khám nội soi hoặc đặt thông lan lên bàng quang. Tỷ lệ bị nhiễm khuẩn đường niệu ở phụ nữ tăng theo hoạt động tình dục.
  • Theo đường máu: chủ yếu gặp trong bệnh đường niệu có tắc nghẽn.
  • Trào ngược bàng quang-niệu quản: quan trọng ở trẻ. Đoạn niệu quản trong bàng quang bị ngắn bẩm sinh làm nước tiểu bị trào ngược lên tận bể thận trong lúc tiểu tiện và dẫn đến ứ nước tiểu mạn tính.

Yếu tố dễ bị mắc

  • Tuổi: trẻ trai bị mắc nhiều hơn trẻ gái. Ngược lại, đến tuổi đi học thì nữ bị mắc nhiều hơn nam. Đến tuổi trưởng thành thì phụ nữ bị nhiễm khuẩn đường niệu nhiều hơn nam giới và có liên quan với hoạt động sinh dục (giao hợp, mang thai). Tỷ lệ nam giới trên 50 tuổi bị mắc tăng lên do tuyến tiền liệt phì đại.
  • Điều kiện xã hội-kinh tế: nhiễm khuẩn đường niệu xảy ra nhiều hơn khi các điều kiện vệ sinh kém.
  • Tắc nghẽn đường niệu: mọi tắc nghẽn đường dẫn nước tiểu đều thuận lợi cho nhiễm khuẩn và là điều kiện cần thiết để từ đó tiến triển thành suy thận. Tất cả các bệnh thận, dù do căn nguyên nào, đều làm cho dễ bị nhiễm khuẩn đường niệu, nhất là tiểu đường cũng như lạm dụng thuốc giảm đau.

Triệu chứng: —> xem viêm bàng quang, viêm niệu đạo.

Xét nghiệm vi khuẩn trong nước tiểu

THU THẬP NƯỚC TIỂU: lấy bãi nước tiểu đầu tiên vào buổi sáng, hứng vào bình vô khuẩn. Phải tránh nhiễm bẩn từ môi trường:

  • Nam giới: rửa đầu dương vật, không dùng chất sát trùng, lấy nước tiểu giữa bãi để tránh nhiễm vi khuẩn từ niệu đạo và từ đường sinh dục.
  • Nữ giới: rửa lỗ niệu đạo, bỏ nước tiểu đầu bãi, hứng nước tiểu giữa bãi vào bình vô khuẩn.

Cần tránh lấy nước tiểu qua thông (thông bàng quang có nguy cơ gây bội nhiễm). Cấy máu ngay sau khi lấy nước tiểu 1 giờ, chậm nhất là sau 10-12 giờ nếu nước tiểu được bảo quản ở nhiệt độ + 4 °c

SOI DƯỚI KÍNH HIỂN VI: cho phép phát hiện:

  • Đái ra máu: (trên 5 hồng cầu trong một vi trường được phóng đại lớn).
  • Đái ra bạch cầu: (có hơn 10 bạch cầu trong một pl hay 10.000 bạch cầu/ml). Có bạch cầu niệu kéo dài mà cấy nước tiểu nhiều lần vẫn cho kết quả âm tính thì phải nghi bị mắc lao thận hoặc viêm thận kẽ do dùng thuốc.
  • Vi khuẩn trong nước tiểu: có vi khuẩn, đôi khi vi khuẩn di động. Nhuộm Gram cặn nước tiểu cho nhiều thông tin hữu ích. Có vi khuẩn trong nước tiểu nhưng không có mủ có thể là do nước tiểu bị nhiễm khi lấy mẫu để làm xét nghiệm.
  • Xét nghiệm tế bào học cặn ly tâm bằng phương pháp nhuộm Bình thường có các tế bào biểu mô đường niệu và tế bào Malpighi. Nếu có khối u biểu mô của đường niệu thì có thể thấy các tế bào này trong nước tiểu do bị bong ra.

CẤY NƯỚC TIỂU: đếm số khuẩn lạc mọc trên môi trường và tính số vi khuẩn có trong mỗi ml. Đếm mật độ vi khuẩn trong nước tiểu có phép phân biệt vi khuẩn gây bệnh và vi khuẩn do nước tiểu bị nhiễm khi lấy mẫu.

Người ta cho rằng có nhiễm khuẩn đường niệu có ý nghĩa khi số lượng vi khuẩn lớn hơn 100.000/ml. Càng chắc chắn có nhiễm khuẩn nếu xét nghiệm lần thứ hai cũng cho số lượng vi khuẩn như thế và phát hiện thấy cùng loài vi khuẩn, ngoài ra còn có các triệu chứng lâm sàng. Đếm vi khuẩn trong nước tiểu có tác dụng để theo dõi xem có bị mủ đường niệu mạn tính không và theo dõi kết quả điều trị. Kháng sinh đồ giúp cho việc định hướng dùng kháng sinh. Các giá trị dưới 100.000 vi khuẩn/ml cần được coi như là bị nhiễm bẩn mà thôi, nhất là nếu trong nước tiểu có nhiều loài vi khuẩn. Tuy vậy, không nên cứng nhắc với con số 100.000 vi khuẩn/ml vì các nhiễm khuẩn đường niệu nặng có thể tiến triển với số vi khuẩn dưới con số kinh điển trên.

1 đến 3% số trẻ gái và phụ nữ trẻ tuổi có vi khuẩn trong nước tiểu nhưng không, có triệu chứng, khó xác định chắc chắn nhưng rất hiếm khi dẫn đến bệnh thận tiến triển. Không có kỹ thuật vi khuẩn học đáng tin cậy để phân biệt nhiễm khuẩn đường niệu cao (viêm bể thận) và nhiễm khuẩn đường niệu thấp (viêm bàng quang, viêm niệu đạo).

MIỄN DỊCH HUỲNH QUANG TRỰC TIẾP: cho phép tìm các kháng thể gắn vào vi khuẩn trong ổ viêm ở mô (đường dẫn nước tiểu, niêm mạc bàng quang) rồi vào nước tiểu.

Điều trị -> xem viêm bàng quang, thuốc chống vi khuẩn đường niệu. Ưông nhiều nước, không nhịn tiểu tiện.

Phòng bệnh

– Dùng kháng sinh lúc đặt thông và vài ngày sau đó làm giảm nguy cơ bị nhiễm khuẩn đường niệu.

  • Với các bệnh nhân bị tái phát, có thể sử dụng trong nhiều tháng Cotrimoxazol,     penicillin, cephalosporin, quinolon; liều thấp (bằng 1/4 đến 1/2 liều thường dùng).
  • Quan hệ tình dục: phụ nữ có xu hướng bị nhiễm khuẩn đường niệu cấp tính sau giao hợp. Dùng Cotrimoxazol liều duy nhất sau giao hợp có tác dụng phòng ngừa.

NHIỄM KHUẨN MẠN TÍNH Ở ĐƯỜNG NIỆU THẤP

Triệu chứng: nhiễm khuẩn đường niệu mạn tính tiến triển trong nhiều năm mà không có triệu chứng rõ rệt trong khi số lượng vi khuẩn trong nước tiểu là có ý nghĩa. Trên nền mạn tính đó, có các đợt bị viêm bàng quang hoặc viêm bể thận cấp tính hay bán cấp. Bệnh dễ phát triển và kéo dài khi nước tiểu bị tắc hay bị ứ, tiểu đường, có ổ nhiễm khuẩn ở ngoài thận, dùng thuốc ức chế miễn dịch, mắc bệnh thận do bất kỳ nguyên nhân nào (ví dụ, do lạm dụng thuốc giảm đau). Đôi khi chỉ phát hiện được bệnh vào giai đoạn có suy thận kèm theo cao huyết áp và thiếu máu.

Cần xác định cơ địa thuận lợi cho nhiễm khuẩn đường niệu mạn tính (tiểu đường, lạm dụng thuốc giảm đau, nhiễm khuẩn ở đường sinh dục, ở túi mật, ở đại tràng, dùng thuốc ức chế miễn dịch).

Xét nghiệm nước tiểu xem ở trên, xét nghiệm tế bào, vi khuẩn trong nước tiểu.

Xét nghiệm bổ sung: cần thăm khám toàn bộ hệ tiết niệu để phát hiện các nguyên nhân làm dễ bị nhiễm khuẩn và làm nhiễm khuẩn kéo dài. Trong trường hợp bị viêm bể thận mạn tính có suy thận thì khi chụp đường niệu theo đường tĩnh mạch thấy hình ảnh điển hình là hai thận mất đối xứng. Chụp bàng quang-niệu quản có tác dụng đánh giá mức độ trào ngược bàng quang-niệu quản và phát hiện chít hẹp niệu quản.

Tiến triển và tiên lượng: rất khó điều trị triệt để nhiễm khuẩn đường niệu mạn tính. 5 đến 10% số trường hợp tiến triển thành suy thận mạn tính (về mặt hình thái, phần vỏ tủy bị teo, các đài thận bị giãn và biến dạng, vi thể cho thấy tổn thương chủ yếu ở ống thận và kẽ thận). Thận hư ứ mủ và viêm quanh thận là các biến chứng nặng.

Điều trị

ĐIỀU TRỊ NGUYÊN NHÂN TẠI CHỖ HAY TOAN THÂN làm kéo dài nhiễm khuẩn mạn tính, nhất là tắc nghẽn đường nước tiểu.

ĐIỀU TRỊ BẰNG KHÁNG SINH: dựa trên ít nhất là hai lần nuôi cấy và làm kháng sinh đồ cho kết quả giống nhau. Hay gặp các chủng kháng kháng sinh thông thường sau nhiều đợt điều trị hoặc điều trị kéo dài. Tuỳ theo kết quả xét nghiệm vi khuẩn, người ta dùng các kháng sinh sau: cotrimoxazol, amoxicillin, (có thể kết hợp với acid clavulanic), cephalosporin (ví dụ, ceftriaxon). Vi khuẩn gây mủ xanh, các proteus, các klebsiella và các vi khuẩn đường ruột cần được điều trị bằng cephalosporin, gentamycin hay các aminoglycosid dùng một mình hoặc kết hợp với carbenicillin. Có thể dùng fluoroquinolon. cần cấy nước tiểu hai tuần và hai tháng sau khi hết điều trị. Để tránh tái phát, cần điều trị trong nhiều tháng. Trong suốt thời gian điều trị, xét nghiệm nhiều lần cặn nước tiểu cho biết tác dụng của các thuốc đã dùng. Chi tiết thì xem các thuốc kháng khuẩn đường niệu.

NHIỄM KHUẨN ĐƯỜNG NIỆU MẠN TÍNH Ở NGƯỜI GIÀ, KHỔNG CÓ TỔN THƯƠNG THẬN VÀ CƠ THỂ CHỊU ĐỰNG ĐƯỢC: không cần điều trị nếu bệnh không có các đợt tiến triển. Điều trị bằng kháng sinh, nhất là điều trị nội trú chỉ làm tăng các chủng kháng thuốc.

ACID HOÁ NƯỚC TIỂU:    trong trường hợp bị nhiễm khuẩn mạn tính do coli, có thể hạn chế bệnh bằng cách acid hoá nước tiểu xuống pH dưới 6 bằng các thuốc acid hoá nước tiểu.

BIỆN PHÁP CHUNG: uống nhiều nước. Không phải hạn chế muối. Ngược lại, một số viêm bể thận gây mất nhiều muối nên cần phải bù lại. Điều trị triệu chứng suy thận mạn tính và cao huyết áp. Chỉ làm thủ thuật trên đường niệu trong trường hợp tôi cần thiết.

Thuốc Brimonidine (Alphagan)

Brimonidine là gì và cơ chế hoạt động của nó như thế nào?

Brimonidine là một dung dịch thuốc nhỏ mắt được sử dụng để điều trị một loại glaucoma, cụ thể là glaucoma góc mở. Trong loại glaucoma này, quá nhiều dịch (dung dịch nội nhãn) được sản xuất trong mắt, gây ra áp suất cao trong mắt. Áp suất này làm tổn thương các dây thần kinh trong mắt, chịu trách nhiệm cho thị lực, và cuối cùng gây mù. Brimonidine giúp giảm sự sản xuất dung dịch nội nhãn của cơ thể và tăng cường lưu thông dung dịch này ra khỏi mắt, dẫn đến giảm áp suất. Cơ chế hoạt động của nó là kích thích các thụ thể alpha loại 2 một cách chọn lọc trong mắt, với tác động ít hơn lên các thụ thể alpha loại 2 ở các bộ phận khác trong cơ thể. Đây là thuốc đầu tiên trong lớp thuốc này được sử dụng để điều trị glaucoma. Brimonidine đã được FDA phê duyệt vào năm 1996.

Các tên thương mại của brimonidine

  • Alphagan P

Brimonidine có sẵn dưới dạng thuốc generic không?

Tôi có cần đơn thuốc để mua brimonidine không?

Các tác dụng phụ của brimonidine là gì?

Các tác dụng phụ phổ biến bao gồm:

  • Khô mắt,
  • Mắt đỏ,
  • Kích ứng mắt,
  • Đau đầu,
  • Mờ mắt,
  • Cảm giác có vật lạ trong mắt,
  • Buồn ngủ.

Các tác dụng phụ quan trọng khác của brimonidine bao gồm:

  • Vết nhuộm giác mạc,
  • Tăng độ nhạy cảm với ánh sáng,
  • Đỏ mi mắt,
  • Đau mắt,
  • Chảy nước mắt,
  • Sưng mi mắt,
  • Hạ huyết áp.

Liều lượng của brimonidine là gì?

Liều thông thường là một giọt vào mỗi mắt bị ảnh hưởng ba lần mỗi ngày, với khoảng cách giữa các lần nhỏ thuốc là 8 giờ.

Brimonidine có an toàn khi sử dụng trong thai kỳ hoặc khi cho con bú không?

Chưa rõ liệu brimonidine có bài tiết vào sữa mẹ hay không.

Những điều cần lưu ý về brimonidine?

Các dạng bào chế có sẵn:

  • Dung dịch nhỏ mắt: 0.1%, 0.15%, và 0.2%.

Cách bảo quản brimonidine:

  • Brimonidine nên được bảo quản ở nhiệt độ phòng, từ 15°C đến 30°C (59°F đến 86°F) và tránh ánh sáng trực tiếp.

Tóm tắt:

Brimonidine (Alphagan) là một loại thuốc được kê đơn để điều trị glaucoma góc mở. Trước khi sử dụng thuốc này, bạn cần xem xét các tác dụng phụ, tương tác thuốc và thông tin về an toàn khi mang thai.

Thoát Vị Đĩa Đệm: Triệu Chứng và Chẩn Đoán

Tôi có thể bị thoát vị đĩa đệm không?

Đau lưng có thể bất ngờ ập đến khi bạn ít ngờ nhất. Một phút trước, bạn đang ngồi thoải mái trước TV, và ngay phút tiếp theo, khi bạn cố gắng đứng dậy, một cơn đau sắc nhói chạy dọc qua lưng dưới của bạn.

Bạn có thể bị thoát vị đĩa đệm hay không? Có thể lắm.

Thoát vị đĩa đệm xảy ra khi có một vết rách hoặc lỗ thủng trong một đĩa đệm của cột sống bạn. Bác sĩ có thể giúp chẩn đoán thoát vị đĩa đệm của bạn và đề xuất điều trị phù hợp.

Cột sống của người lớn được tạo thành từ 24 xương gọi là đốt sống. Giữa các đốt sống là các đĩa đệm, cho phép cột sống di chuyển và uốn cong. Bên trong mỗi đĩa đệm là một trung tâm mềm, giống như thạch gọi là nhân nhầy (nucleus pulposus). Lớp ngoài gọi là vòng xơ (annulus fibrosus). Trong trường hợp thoát vị đĩa đệm, vòng ngoài của đĩa đệm bị rách hoặc thủng, khiến nhân bên trong chảy ra vào ống sống.

Thoát vị đĩa đệm so với đĩa đệm phình

Thoát vị đĩa đệm thường có thể bị nhầm lẫn với đĩa đệm phình. Trong khi hai tình trạng này có một số triệu chứng tương tự, chúng cũng có sự khác biệt. Thoát vị đĩa đệm xảy ra khi lớp ngoài của đĩa đệm bị rách, thường do chấn thương cấp tính, đột ngột. Còn đĩa đệm phình có thể xảy ra do chấn thương, nhưng thường là do trung tâm mềm của mỗi đĩa bắt đầu bị mòn và xẹp dần theo thời gian khi bạn già đi. Nhiều đĩa đệm có thể bị ảnh hưởng cùng một lúc và gây ra các vấn đề liên quan đến cột sống khác.

Các triệu chứng chung của thoát vị và đĩa đệm phình, tùy thuộc vào vị trí của đĩa:

  • Đau ở lưng dưới, mông, chân (cột sống thắt lưng)
  • Đau ở cổ, vai, tay (cột sống cổ)
  • Tê, ngứa ran, yếu

Một số sự khác biệt giữa các tình trạng bao gồm:

Thoát vị đĩa đệm Đĩa đệm phình
Chấn thương cấp tính, đột ngột Tình trạng thoái hóa tiến triển
Vòng bao đĩa có lỗ hoặc vết rách Đĩa nén và đẩy ra ngoài
Có thể ảnh hưởng đến một đĩa đệm cùng một lúc Có thể xảy ra ở nhiều đĩa đệm cùng một lúc
Thường xảy ra ở người từ 30 đến 50 tuổi, phổ biến hơn ở nam giới Thường xảy ra ở độ tuổi 40 trở lên

Triệu Chứng Thoát Vị Đĩa Đệm

Nếu bạn có thoát vị đĩa đệm, bạn có thể không có bất kỳ triệu chứng nào. Triệu chứng thay đổi tùy theo mức độ nghiêm trọng của chấn thương và vị trí của đĩa đệm. Các triệu chứng bao gồm:

  • Tê hoặc ngứa ran
  • Đau nhói, bỏng rát, hoặc đau lan tỏa ở lưng dưới, mông, chân, bắp chân hoặc bàn chân (thoát vị đĩa đệm lưng dưới)
  • Đau nhói, bỏng rát, hoặc đau lan tỏa ở cánh tay hoặc vai (thoát vị đĩa đệm cổ)
  • Yếu cơ xung quanh vùng đau
  • Triệu chứng tập trung ở một bên cơ thể

Nếu bạn không có triệu chứng, thoát vị đĩa đệm của bạn có thể xuất hiện trong hình ảnh cột sống.

Thoát vị đĩa đệm cảm giác như thế nào?

Thoát vị đĩa đệm có thể xảy ra ở bất kỳ vùng nào của cột sống, nhưng thường gặp nhất ở lưng dưới (cột sống thắt lưng), ngay trên hông. Cơn đau có thể lan từ lưng xuống mông, đùi, và thậm chí đến bắp chân.

Thoát vị đĩa đệm ở cổ (cột sống cổ) có thể lan đến vai và cánh tay. Cơn đau ở cột sống thắt lưng hoặc cổ có thể cảm thấy sắc nhọn hoặc bỏng rát. Thường thì có cảm giác tê và ngứa ran ảnh hưởng đến khu vực đau và sau đó lan tỏa qua một chi gần đó. Bạn cũng có thể cảm thấy yếu cơ gần nguồn gốc của cơn đau.

Sự khó chịu từ thoát vị đĩa đệm thường trở nên tồi tệ hơn khi bạn hoạt động và giảm bớt khi bạn nghỉ ngơi. Ngay cả việc ho, hắt hơi, và ngồi cũng có thể làm trầm trọng thêm triệu chứng của bạn vì chúng tạo áp lực lên các dây thần kinh bị chèn ép.

Hình ảnh thoát vị đĩa đệm
Thoát Vị Đĩa Đệm

Triệu Chứng Khẩn Cấp của Thoát Vị Đĩa Đệm

Trong khi thoát vị đĩa đệm thường có thể được điều trị tại nhà, có những lúc bạn cần tìm kiếm chăm sóc y tế khẩn cấp. Nếu cơn đau trở nên nghiêm trọng đến mức bạn không thể thực hiện các hoạt động hàng ngày, đã đến lúc bạn nên gặp bác sĩ. Hãy tìm sự chăm sóc khẩn cấp ngay lập tức nếu bạn trải qua bất kỳ điều nào sau đây sau một chấn thương:

  • Yếu chân hoặc tay
  • Nhiễm trùng hoặc sốt
  • Mất cảm giác ở vùng hậu môn hoặc vùng sinh dục
  • Rối loạn chức năng bàng quang hoặc ruột

Nếu bạn có tiền sử ung thư di căn, cũng rất quan trọng để kiểm tra tình trạng của bạn với bác sĩ.

Chẩn Đoán Thoát Vị Đĩa Đệm

Cách tốt nhất để biết liệu bạn có bị thoát vị đĩa đệm hay không là gặp bác sĩ. Họ có thể sẽ tiến hành khám lâm sàng để tìm nguồn gốc cơn đau của bạn, mà thường là bài kiểm tra duy nhất bạn cần để xác nhận chẩn đoán. Bác sĩ sẽ kiểm tra lưng hoặc cổ của bạn để tìm các điểm đau hoặc nhạy cảm. Họ có thể yêu cầu bạn nằm ngửa và nâng hoặc di chuyển chân hoặc cổ của bạn theo các hướng khác nhau.

Họ cũng có thể kiểm tra:

  • Phản xạ của bạn ở đầu gối và mắt cá chân (đối với đau lưng dưới) hoặc cánh tay và vai (đối với đau cổ)
  • Sức mạnh của chân hoặc tay bạn, tùy thuộc vào khu vực đau
  • Cách bạn đi trên gót chân và đầu ngón chân
  • Liệu bạn có thể cảm thấy các tác động nhẹ hoặc rung động

Nếu bác sĩ của bạn muốn loại trừ các nguồn khác gây ra cơn đau của bạn hoặc xác định các dây thần kinh cụ thể bị kích thích, họ có thể thực hiện các xét nghiệm bổ sung, bao gồm:

  • X-quang. Trong khi một X-quang tiêu chuẩn không thể cho thấy bạn có bị thoát vị đĩa đệm hay không, nó có thể cho bác sĩ biết hình dạng của cột sống bạn và loại trừ liệu cơn đau của bạn có do một cái gì khác như gãy xương hoặc khối u hay không.
  • Chụp tủy. Bài kiểm tra này sử dụng thuốc nhuộm được tiêm vào dịch tủy sống của bạn và một X-quang để xác định áp lực trên tủy sống.
  • Chụp CT. Chụp cắt lớp vi tính (CT) lấy nhiều X-quang từ các góc độ khác nhau và kết hợp chúng để tạo ra hình ảnh của tủy sống và các cấu trúc xung quanh.
  • MRI. Chụp cộng hưởng từ (MRI) sử dụng sóng radio, một trường điện từ, và một máy tính để tạo ra hình ảnh 3D chi tiết của tủy sống và các vùng xung quanh. Hình ảnh MRI có thể xác định vị trí của thoát vị đĩa đệm, nhìn vào bên trong nó, và xác định dây thần kinh nào bị ảnh hưởng.
  • Điện cơ đồ (EMG). Bác sĩ của bạn có thể sử dụng các xét nghiệm này để xem liệu có dây thần kinh nào bị hư hỏng hoặc bị chèn ép. Bài kiểm tra EMG sử dụng một thiết bị để phát hiện một lượng điện nhỏ mà các tế bào cơ tạo ra khi được kích thích bởi các dây thần kinh kết nối với chúng. Một điện cực kim được đưa vào một cơ bắp để ghi lại hoạt động điện của nó và tìm kiếm bất kỳ điều gì không đúng.
  • Nghiên cứu dẫn truyền thần kinh (NCS). NCS thường được thực hiện đồng thời với EMG. Trong bài kiểm tra này, một điện cực kích thích dây thần kinh bằng các xung điện nhỏ tại một điểm trên cơ thể, trong khi các điện cực khác phát hiện các xung tại một điểm khác. Thời gian cần thiết để các xung điện di chuyển giữa các điện cực sẽ cho bác sĩ biết liệu có tổn thương dây thần kinh hay không.

Kết luận

Một chấn thương đột ngột có thể gây ra thoát vị đĩa đệm. Các triệu chứng bao gồm cơn đau sắc hoặc bỏng tại điểm bị thương, cảm giác tê, ngứa ran và yếu. Thoát vị đĩa đệm ở vùng lưng dưới có thể gây ra cơn đau lan xuống mông, hông và chân. Thoát vị đĩa đệm ở cổ có thể gây ra cơn đau ở vai và cánh tay. Bác sĩ của bạn có thể giúp chẩn đoán thoát vị đĩa đệm và có thể đề nghị các phương pháp điều trị bao gồm nghỉ ngơi, thuốc chống viêm và vật lý trị liệu. Hầu hết các trường hợp thoát vị đĩa đệm sẽ tự khỏi trong vài tuần hoặc vài tháng. Nếu cơn đau của bạn vẫn tiếp tục, hãy nói chuyện với bác sĩ về việc điều trị thêm.

Thoát vị đĩa đệm có tự khỏi không?

Thông thường, thoát vị đĩa đệm sẽ lành lại với việc nghỉ ngơi, thời gian và thỉnh thoảng sử dụng thuốc chống viêm không kê đơn. Điều quan trọng là tránh những bài tập và hoạt động gây kích thích trong quá trình hồi phục của bạn. Nếu cơn đau không giảm trong vòng 6 tháng, bác sĩ có thể kê đơn vật lý trị liệu. Phẫu thuật thường không được khuyến nghị trừ khi bác sĩ phát hiện ra tình trạng chèn ép cột sống hoặc nếu khả năng vận động hàng ngày của bạn bị hạn chế nghiêm trọng.

Cách nhanh nhất để chữa lành thoát vị đĩa đệm là gì?

Cách nhanh nhất để chữa lành thoát vị đĩa đệm là tránh các hoạt động gây kích thích, nghỉ ngơi và sử dụng thuốc chống viêm không kê đơn. Trong giai đoạn khởi phát ban đầu, hãy chườm đá để giúp giảm đau. Trong những ngày và tuần tiếp theo, việc sử dụng nhiệt có thể giúp thư giãn và làm dịu các cơ bị đau. Hãy cố gắng kết hợp các bài đi bộ ngắn, các động tác kéo giãn nhẹ nhàng và các bài tập ổn định, nhưng chỉ thực hiện nếu chúng giúp giảm đau, không làm đau thêm. Nếu các triệu chứng của bạn không cải thiện trong vài tuần, hãy nói chuyện với bác sĩ.

Làm thế nào để tôi biết mình có bị thoát vị đĩa đệm không?

Cách duy nhất để biết bạn có bị thoát vị đĩa đệm hay không là đến gặp bác sĩ để được kiểm tra và chẩn đoán. Trong buổi kiểm tra, bác sĩ sẽ hướng dẫn bạn thực hiện nhiều động tác khác nhau để đánh giá phạm vi chuyển động và sức mạnh của bạn.

Bác sĩ của bạn cũng có thể thực hiện các xét nghiệm chẩn đoán. Một điện cơ đồ (EMG) sẽ giúp tìm ra chính xác rễ thần kinh nào bị kích thích. Một myelogram có thể cho thấy kích thước và vị trí của đĩa đệm thoát vị. Một MRI hoặc CT scan có thể cho thấy vị trí mà đĩa đệm thoát vị đang gây áp lực lên cột sống. Một bài kiểm tra dẫn truyền thần kinh có thể phát hiện bất kỳ tổn thương thần kinh nào có thể xảy ra. Một X-quang cột sống có thể được sử dụng để xem liệu có các vấn đề thể chất khác liên quan đến thoát vị đĩa đệm hay không, mặc dù nó sẽ không cho thấy thoát vị đĩa đệm một mình.

Bạn có bị thoát vị đĩa đệm suốt đời không?

Hầu hết mọi người sẽ hồi phục khỏi thoát vị đĩa đệm trong vài tuần hoặc vài tháng. Nếu cơn đau kéo dài, bác sĩ của bạn có thể kê thuốc giảm đau và thuốc giãn cơ hoặc tiêm steroid cho bạn. Vật lý trị liệu có thể giúp giảm đau, xây dựng các cơ hỗ trợ xung quanh vùng bị thương, và dạy cách giữ tư thế và căn chỉnh đúng để giảm khả năng tái chấn thương đĩa đệm đó. Đối với những trường hợp nghiêm trọng nhất, phẫu thuật cũng là một lựa chọn.

Say tàu xe nên ăn gì?

Say tàu xe nên ăn gì?

Triệu chứng Say xe trong những chuyến đi gây nhiều phiền toái cho nhiều người, say xe nên ăn gì để hạn chế các triệu chứng say xe trong những chuyến đi xa, sau đây là các thức ăn bạn nên ăn trước những buổi đi xa để hạn chế say xe. Theo các chuyên gia, để phòng ngừa và trị các triệu chứng say tàu xe, bạn nên tiêu thụ các loại thức ăn dưới đây:

1. Gừng

Một trong các loại thực phẩm tốt nhất để trị chứng say tàu xe là gừng. Vì gừng có tác dụng giúp làm dịu các giác quan của bạn, đồng thời tạo cho bạn một tâm trạng thoải mái, bình tĩnh khi di chuyển trên các phương tiện giao thông.

ăn gừng để chống say xe

Ăn gừng để chống say tàu xe

2. Chanh

Uống nước cốt chanh hoặc mút một miếng chanh được chứng minh rất hiệu quả trong việc ngừa chứng say tàu xe.

3. Ngũ cốc nguyên hạt

Trước khi lên tàu xe, bạn nên ăn các loại thực phẩm làm từ ngũ cốc nguyên hạt. Chúng có tác dụng hỗ trợ cho quá trình tiêu hóa dễ dàng nên có thể giúp ngừa cảm giác say tàu xe.

4. Bánh mì sandwich

Bánh mì sandwich kẹp rau, hoặc kẹp thịt nạc có tác dụng làm nhẹ dạ dày, nhờ thế sẽ giúp giảm cảm giác say tàu xe.

5. Trái cây khô

Trong trường hợp bạn đang bị say tàu xe, ăn trái cây khô được chứng minh rất hiệu quả trọng việc làm dịu thần kinh cảm giác của bạn. Bên cạnh đó, trái cây khô còn chứa nhiều natri, có tác dụng giúp giảm nhẹ triệu chứng say tàu xe.

6. Cam, quýt

Cam, quýt là loại trái cây hữu ích để trị say tàu xe, vì có tác dụng giúp ngăn ngừa triệu chứng buồn nôn.

7. Sữa đậu nành

Trong trường hợp bạn cảm thấy khó chịu ở dạ dày do say tàu xe, hãy uống sữa đậu nành. Loại thực phẩm này có thể giúp thư giãn dạ dày và giảm cảm giác chóng mặt, hoa mắt.

8. Nước

Uống khoảng hai ly nước ấm trước khi đi tàu xe là liều thuốc tốt cho những người bị say tàu xe. Vì phương pháp này có tác dụng giúp kéo giảm cảm giác buồn nôn.

9. Bánh quy giòn

Các loại bánh quy giòn, đặc biệt là bánh quy mặn là loại thực phẩm có tác dụng hấp thu axít trong dạ dày nên có thể giúp ngăn ngừa hiệu quả các triệu chứng say tàu xe.

10. Quả ôliu

Quả ôliu có chứa tannin – một chất có tác dụng giúp kìm hãm sự sản xuất nước bọt. Vì thế, chỉ cần ăn một vài quả ôliu trước khi đi du lịch, bạn có thể tránh được cảm giác say tàu xe.

Ăn gì chống say xe

Các món ăn chống say tàu xe

Nước lõi cải trắng: Lõi cải trắng 1 chiếc, gừng tươi 3 lát, đường đỏ 60g. Lõi cải trắng thái mỏng, cho vào nồi nước nấu chín. Cho đường đỏ vào cùng nấu kỹ

Trà gừng, đường đỏ: Gừng tươi 1 củ, đường đỏ vừa đủ. Gừng tươi cạo vỏ, thái chỉ. Cho gừng vào cốc, bỏ đường đỏ vào, rót nước sôi hãm trong 15 phút.

Nhân hạt bí đao: Nhân hạt bí đao 400g đem phơi, sấy cho khô, nghiền thành bột. Mỗi lần uống 10g, ngày uống 2 lần.

Rễ mướp hầm thịt nạc: Rễ mướp 300g, thịt heo nạc 200g, muối vừa đủ. Rễ mướp rửa sạch, cắt khúc. Thịt heo rửa sạch, thái miếng mỏng. Cho rễ mướp vào nồi nước sôi nấu chín, cho tiếp thịt vào, nêm muối hầm kỹ là được.

Dưa chuột nấu trai: Dưa chuột 70g, thịt trai 60g, muối vừa đủ. Cho thịt trai vào nồi, đổ nước nấu chín. Dưa chuột rửa sạch, thái nhỏ, cho vào nấu cùng. Nêm muối vừa miệng là được.

Nước sinh tố nho, rau cần: Nho 60g, rau cần 60g. Rau cần rửa sạch, thái đoạn nhỏ. Nho rửa sạch, cho cùng rau cần vào máy xay sinh tố xay nhuyễn để uống.

Trà cà rốt, vỏ trứng: Cà rốt 200g, vỏ trứng gà 20g, đường phèn 15g. Cà rốt, vỏ trứng rửa sạch, thái vụn. Cho cả vào nồi, chế đủ nước, ninh kỹ, cuối cùng cho đường phèn vào.

Rau cần xào trứng gà: Rau cần 80g, trứng gà 1 quả. Rau cần rửa sạch, thái đoạn. Cho rau cần vào chảo xào, đập trứng trộn lẫn, đảo tiếp đến khi chín.

Một số lưu ý khác trong ăn uống khi lên xe

Trước khi đi tàu xe không nên ăn quá no hoặc để bụng quá đói, không uống nhiều nước, tránh uống rượu, hút thuốc và tránh những mùi dễ gây nôn như: mùi xăng dầu, khói xe, thức ăn nhiều dầu mỡ và những thức ăn mình không thích ăn.

Cũng có thể uống một số thuốc chống say trước khi đi tàu xe vài giờ để hòa hoãn và giải trừ triệu chứng buồn nôn chóng mặt.

Chọn vị trí ngồi ít chòng chành (tránh chỗ bánh sau của xe) để hạn chế chóng mặt, buồn nôn và không ngồi ở chỗ có gió mạnh thổi thẳng vào mặt; buộc một nhánh tỏi đã bóc vỏ vào cổ tay cũng có tác dụng chống say xe.

Mẹo chống say tàu xe cho trẻ hiệu quả
Say tàu xe uống thuốc gì tốt nhất, hiệu quả nhất
Chống say xe ô tô hiệu quả nhất không dùng thuốc

Bệnh động mạch di truyền trội nhiễm sắc thể kèm nhồi máu dưới vỏ và bệnh não chất trắng

Bệnh động mạch di truyền trội nhiễm sắc thể kèm nhồi máu dưới vỏ và bệnh não chất trắng (Cerebral Autosomal Dominant Arteriopathy with Subcortical Infarcts and Leukoencephalopathy: CADASIL)

CADASIL là loại bệnh lý của hệ động mạch mang tính chất di truyền ở người trẻ tuổi, do đột biến ở ổ gen thứ 3 nằm trong nhiễm sắc thể thứ 19.

Bệnh mới được phát hiện và thông báo lần đầu tiên vào năm 1993 tại các nước châu Âu, đặc biệt ở Pháp. Hiện nay bệnh đang được tiếp tục nghiên cứu tại các phả hệ của người Mỹ; Phi và á châu và có thể được phát hiện trên toàn thể giới và không chỉ giới hạn ở người da trắng.

Đến năm 1996, bệnh vẫn còn chưa được chẩn đoán một cách rộng rãi.

Lịch sử bệnh.

  • Van Bogaert (1955) đã thông báo 2 trường hợp là chị em gái thuộc gia đình người Bỉ mắc chứng bệnh não dưới vỏ của Binswanger tiến triển nhanh, khởi phát ở tuổi trẻ, biểu hiện lâm sàng là sa sút trí tuệ, rối loạn vận động, liệt giả hành tủy, co giật, và các thiếu hụt thần kinh khu trú, tử vong ở tuổi 36 và 43 sau thời gian sa sút trí tuệ tiến triển. Người cha của 2 chị em gái cũng bị tai biến mạch máu não ở tuổi 51 và chết vì nhồi máu cơ Giải phẫu bệnh phát hiện nhiều khu vực nhồi máu não lan tỏa ở chất trắng, kèm theo nhồi máu não nhỏ đa ổ chủ yếu ở chất trắng và nhân xám trung ương. Những tổn thương này có thể là thứ phát do vữa xơ tiểu động mạch mang tính chất gia đình tương tự như thông báo của Mutrux và CS vài năm trước đó.

Sourander và Walinder (1977) mô tả một bệnh gọi là “sa sút trí tuệ do nhồi máu đa ổ có tính di truyền” tìm thấy trong phả hệ của người Thụy Điển có đặc tính là sa sút trí tuệ kèm theo liệt giả hành tủy, xảy ra từ 10 – 15 năm sau giai đoạn giống như tai biến mạch máu não tái phát. Tuổi khởi phát từ 29 – 38, tử vong ở tuổi 30 – 53. Các tác giả cũng thông báo 3 trường hợp tổn thương não giống như của Van Bogaert đã từng báo cáo và cũng được gọi là bệnh của các mạch máu nhỏ. Năm 1993, nhiều gia đình có các biểu hiện giống như trên thì được gán cho nhiều tên gọi như “bệnh mạch máu não mang tính chất gia đình mạn tính”, “sa sút trí tuệ và bệnh não chất trắng”, “nhồi máu não dưới vỏ có yếu tố gia đình”, “sa sút trí tuệ có yếu tố gia đình tiến triển chậm kèm nhồi máu não tái phát và giảm tỉ trọng ở chất trắng”.

Bởi vì có nhiều tên gọi của bệnh như vậy, cho nên M.G.Bousser và CS (1993) đã phát hiện ra gen bệnh lý nằm trên nhiễm sắc thể thứ 19 và danh từ CADASIL đã được đặt tên cho bệnh này và nhấn mạnh đến các đặc điểm chính của nó. Việc tìm ra bản đồ gen là cơ sở quan trọng để xác định lịch sử tự nhiên của bệnh. Kể từ đó bệnh CADASIL đã được tìm thấy ở 120 gia đình ở các nước châu Âu, châu Mỹ và Bắc Phi.

M.G.Bousser và CS (1996) lại thông báo tìm thấy sự đột biến khác nhau ở ổ gen thứ 3 trong nhiễm sắc thể thứ 19 là nguyên nhân gây bệnh. Kết quả này là bước tiến lớn trong lịch sử phát hiện ra bệnh CADASIL.

Biểu hiện lâm sàng.

Bệnh CADASIL thường xảy ra ở tuổi trẻ, tuổi trung bình khi khởi phát là 45, có thể dao động từ 4 đến 68 tuổi. Các biểu hiện lâm sàng thường gặp là:

  • Nhức đầu Migraine:

Nhức đầu Migraine kèm có các cơn báo trước (aura), đây là triệu chứng lâm sàng thường gặp đầu tiên, không có sự khác nhau giữa nam và nữ, mặc dù bệnh Migraine thì ưu thế ở nữ nhiều hơn nam. Các cơn Migraine kèm có aura chiếm tỉ lệ 20 – 30%, xảy ra ở tuổi trung bình là 30, đôi khi xảy ra ở trước tuổi 20. Tần số cơn Migraine thay đổi từ 1 cơn trong cuộc đời đến vài cơn trong một tháng.

  • Tai biến mạch máu não (TBMMN):

TBMMN là biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất của bệnh chiếm khoảng 85% và xảy ra thường không kèm các yếu tố nguy cơ. Trong số 45 bệnh nhân thì M.G.Bousser và cộng sự chỉ phát hiện thấy có 3 bệnh nhân tăng huyết áp, 10 bệnh nhân có nghiện thuốc lá. Nhồi máu não (NMN) xảy ra ở tuổi trung bình là 49, dao động từ 27 – 65 tuổi. Có thể biểu hiện lâm sàng của các thiếu máu não thoáng qua (TIAs), thiếu máu não có thể hồi phục (RIND) và NMN dưới vỏ. Khoảng 60% có biểu hiện của các hội chứng khuyết não cổ điển bao gồm 5 hội chứng là liệt nửa người vận động thuần túy, rối loạn cảm giác nửa người thuần túy, liệt nửa người vận động và cảm giác phối hợp, liệt nhẹ nửa người thất điều, hội chứng loạn vận ngôn – bàn tay vụng về. 40% có biểu hiện thiếu máu não thoáng qua, 70% có biểu hiện NMN và 10% có cả NMN và thiếu máu não thoáng qua. Thiếu máu não thoáng qua thường xuất hiện từ 1 – 10 cơn, NMN thường xảy ra từ lần thứ 2 đến lần thứ 5.

  • Sa sút trí tuệ:

Đây là một biểu hiện lâm sàng thường gặp thứ 2 của bệnh CADASIL chiếm 30%, xảy ra ở tuổi trung bình là 60. Tuổi > 65 thì 80% bệnh nhân có biểu hiện của sa sút trí tuệ. Tuổi khởi phát của sa sút trí tuệ dao động từ 40 – 70. 90% suy giảm chức năng nhận thức xảy ra từ từ và liên quan với NMN tái phát thuộc loại dưới vỏ và rối loạn trí nhớ. Các triệu chứng khác như thất ngôn, thất dụng, thất tri thì hiếm xảy ra hoặc chỉ xảy ra trong giai đoạn cuối của bệnh. Sa sút trí tuệ có liên quan với các dấu hiệu tháp, liệt giả hành tủy, rối loạn cơ tròn. Nghiên cứu trên hình ảnh PET (positron emission tomography) cho thấy có sự giảm chuyển hóa ở vỏ não của bệnh nhân sa sút trí tuệ dưới vỏ. Đây có lẽ là đặc điểm của bệnh CADASIL.

  • Rối loạn cảm xúc:

Triệu chứng rối loạn cảm xúc chiếm gần 20%, hầu hết có biểu hiện trầm cảm nặng, rối loạn cảm xúc lưỡng cực (bipolar disorders). Nguyên nhân gây rối loạn cảm xúc trong bệnh CADASIL cho đến nay vẫn chưa được xác định rõ ràng. Các tổn thương do NMN ở vùng nhân xám trung ương và chất trắng dưới vỏ ở thùy trán đóng vai trò quan trọng gây rối loạn cảm xúc.

  • Các dấu hiệu thần kinh khác:

Như các cơn co giật cục bộ hoặc toàn thể xảy ra khoảng 6 – 7%, ngoài ra có thể điếc.

Các xét nghiệm cận lâm sàng.

Cộng hưởng từ (MRI):

  • Cộng hưởng từ rất cần thiết để chẩn đoán bệnh Thường có biểu hiện bất thường về tín hiệu thấy ngay ở tuổi 20. Sau tuổi 35, tất cả các bệnh nhân có biểu hiện của gen bệnh lý nổi lên thì đều có hình ảnh bất thường. Việc chú ý phân tích các hình ảnh bất thường trên MRI ở các bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng cho phép chúng ta để ý tới gen bệnh lý.
  • Hình ảnh MRI cho thấy có giảm tín hiệu từng chấm hoặc từng nốt trên ảnh T1 khu trú ở chất trắng dưới vỏ và hạch nền não. Trên hình ảnh T2 thấy tăng tín hiệu ở cùng vị trí với Các tổn thương này tăng dần theo tuổi bệnh nhân.

Dưới 40 tuổi, tăng tín hiệu trên T2 thường thấy là từng chấm hoặc nốt phân bố đối xứng, ưu thế quanh não thất và vùng trung tâm bầu dục. Trên 40 tuổi, tổn thương chất trắng lan tỏa kể cả các sợi hình chữ U dưới vỏ não các tổn thương thường gặp là ở vùng trán và vùng chẩm quanh não thất, 60% có tổn thương ở bao ngoài, 40% tổn thương thùy thái dương trước. Các tổn thương thân não chủ yếu là cầu não, còn cuống não và hành tủy ít khi bị tổn thương. Tổn thương vỏ não và tiểu não rất hiếm gặp.

  • Chụp cắt lớp vi tính (CT. scaner): scaner có thể thấy tổn thương chất trắng và hạch nền não, nhưng ít nhậy hơn so với phương pháp chụp cộng hưởng từ.
  • Chụp động mạch não:

Hình ảnh mạch máu não hầu hết là bình thường, một số ít trường hợp thấy hẹp các động mạch nhỏ trong não.

  • Doppler xuyên sọ (TCD):

Phần lớn hình ảnh TCD là bình thường, một số có giảm tốc độ tuần hoàn ở khu vực động mạch não giữa.

Phần lớn là bình thường.

  • Xét nghiệm dịch não tủy, điện cơ đồ:

Giải phẫu bệnh.

  •  Đại thể:

Hiện tượng phù nề và nhồi máu dưới vỏ, trừ các sợi hình chữ U. Các tổn thương ưu thế ở quanh não thất và vùng trung tâm bầu dục. Đây là những tổn thương nhồi máu dạng ổ khuyết ở chất trắng dưới vỏ và các nhân xám trung ương (đồi thị, nhân đậu, nhân đuôi). Tổn thương thân não chủ yếu là cầu não, vỏ não nhìn chung là bình thường.

  • Vi thể:

Thành của các tiểu động mạch não và màng não dày lên, lòng mạch hẹp lại, có hiện tượng thoái hóa kính và lắng động các tế bào sợi, phì đại lớp giữa. Làm hóa miễn dịch tế bào không thấy có globulin miễn dịch, ngược lại nội mô mạch máu vẫn còn. Dưới kính hiển vi điện tử thấy các tế bào cơ trơn phù nề và thoái hóa, một số tế bào có nhiều nhân, đôi khi được thay thế bằng các sợi collagen.

Một số trường hợp là nhồi máu vi ổ khuyết (microlacunar infarcts) đường kính ổ nhồi máu < 200 àm chủ yếu ở lớp vỏ não thứ 6 liên quan đến chất trắng.

Chẩn đoán

Chẩn đoán xác định

  • Lâm sàng:

Chẩn đoán bệnh CADASIL sẽ được đặt ra ở bệnh nhân có thiếu máu não thoáng qua, hoặc tai biến mạch máu não, có rối loạn cảm xúc nặng, các cơn nhức đầu Migraine cổ điển hoặc trạng thái sa sút trí tuệ.

  • MRI: Có bất thường về tín hiệu ở chất trắng dưới vỏ và các nhân xám ở nền não.
  • Xét nghiệm gen học: có sự bất thường ở ổ gen thứ 3 nằm trong nhiễm sắc thể

Chẩn đoán phân biệt:

  • Phân biệt với bệnh não dưới vỏ Binswanger:

Có 3 đặc điểm khác với bệnh CADASIL đó là:

  • Bệnh não Binswanger thường xảy ra ở người bị tăng huyết áp.
  • Không liên quan với nhức đầu Migraine.
  • Không có tính di truyền nhiễm sắc thể trội. Tuy nhiên, Van Bogaert trước kia có mô tả 2 bệnh nhân bị bệnh não Binswanger xảy ra ở 2 chị em gái, thì cho đến ngày nay, nhờ phân tích về gen học có thể đó là bệnh CADASIL chứ không phải là bệnh não Binswanger.
  • Bệnh động mạch dạng bột (cerebral amyloid angiopathy): Nguồn gốc di truyền có thể biểu hiện lâm sàng giống như tai biến mạch máu não và có bất thường về tín hiệu trên hình ảnh cộng hưởng từ. Nhưng có một đặc điểm cơ bản là chảy máu não thùy và hay tái phát, kèm theo có hiện tượng lắng đọng chất dạnh tinh bột trong thành các mạch máu não.
  • Bệnh cơ não ty lạp thể kèm tăng acid lactic và có giai đoạn giống như tai biến mạch máu não:

(The mitochondrial encephalomyopathy with lactic acidosis and stroke – like episodes: MELAS).

Bệnh thường xảy ra ở trẻ em hoặc người trẻ tuổi, biểu hiện bằng nhồi máu vỏ não và dưới vỏ não phân bố không đối xứng, đôi khi ở bên ngoài sự phân bố mạch máu, và mang tính chất di truyền từ mẹ truyền cho con.

  • Bệnh não chất trắng do vữa xơ động mạch (arteriosclerotic leukoen-cephalopathy):

Khởi phát ở người trẻ tuổi, có yếu tố gia đình được báo cáo ở phả hệ của người Nhật. Đây là bệnh di truyền lặn thể nhiễm sắc có liên quan với hiện tượng rụng lông, tóc (alopecia) và bất thường ở hệ thống xương, gây dày lớp áo trong của mạch máu nhỏ trong não thứ phát.

Lossos và CS, đã thông báo một loại bệnh não chất trắng di truyền có đặc điểm là tăng sinh chất collagen ở da dẫn tới sa sút trí tuệ tiến triển và kèm có u da giác mạc.

  • Bệnh xơ cứng từng đám (multiple sclerosis):

Nhưng khác với bệnh xơ cứng từng đám là bệnh CADASIL không có tổn thương dây thần kinh thị giác, không có tổn thương tủy sống.

Trên hình ảnh MRI, sự phân bố các tín hiệu bất thường của chất trắng một cách đối xứng, thường là những ổ nhồi máu nhỏ ở các nhân xám trung ương ngược với bệnh xơ cứng từng đám.

  • Bệnh loạn dưỡng chất trắng nguồn gc thượng thận (adreno leukodystrophy):

Đây là bệnh rối loạn chuyển hóa có liên quan tới nhiễm sắc sắc thể X, kèm lắng động các chuỗi acid béo rất dài, nhưng không có tổn thương ở nền não, thường xảy ra ở người lớn trưởng thành, có thể tổn thương cả tủy sống và mất myelin của các dây thần kinh ngoại biên.

Kết luận

CADASIL là bệnh mạch máu di truyền mới được phát hiện trong vài năm gần đây. Đến năm 1996 bệnh này vẫn chưa được chẩn đoán mặc dù đây không phải là bệnh hiếm gặp.

Đặc điểm của bệnh ngày càng được nghiên cứu rõ hơn và được phân loại nằm trong nhóm bệnh sa sút trí tuệ do nguyên nhân mạch máu.

Việc xác định sự đột biến gen ở vị trí số 3 trong nhiễm sắc thể 19, cho phép chúng ta hiểu biết ngày càng rõ hơn về cơ chế phân tử dẫn đến sự biến đổi mạch máu của bệnh CADASIL.

Những phát hiện mới về bệnh này là cơ sở để tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về cơ chế sinh bệnh học trước khi mở ra những triển vọng mới trong điều trị và dự phòng.

Huyệt tố liêu

TỐ LIÊU

Tên Huyệt:

Tố = sắc trắng; Liêu = khe huyệt. Huyệt ở chỗ không có khe huyệt gì cả, vì vậy gọi là Tố Liêu (Trung Y Cương Mục).

Tên Khác:

Chuẩn Đầu, Diện Chính, Diện Vương, Tỷ Chuẩn, Tỷ Tiêm, Tỵ Chuẩn, Tỵ Tiêm.

Xuất Xứ:

Giáp Ất Kinh.

Đặc Tính:

Huyệt thứ 25 của mạch Đốc.

Vị Trí:

Ở cuối (chỗ đầu nhọn) của sống mũi.

Giải Phẫu:

Dưới da là ngành ngang sụn cánh mũi, chỗ tiếp khớp của góc dưới-trước sụn lá mía và sụn cánh mũi.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh sọ não số V.

Tác Dụng:

Thăng dương, cứu nghịch, khai khiếu, thanh nhiệt.

Chủ Trị:

Trị mũi nghẹt, mũi chảy máu, mũi viêm, thịt dư ở mũi.

Phối Huyệt:

1. Phối Nội Quan (Tâm bào.6) + Túc Tam Lý (Vi.36) trị ngất (Châm Cứu Học Giản Biên).

2. Phối Dũng Tuyền (Th.1) + Nhân Trung (Đốc.26) + Nội Quan (Tâm bào.6) + Trung Xung (Tâm bào.9) + Túc Tam Lý (Vi.36) trị ngất (Châm Cứu Học Thượng Hải).

3. Phối Hợp Cốc (Đại trường.4) + Nghênh Hương (Đại trường.20) trị mũi đo? (T tra tư?u) (Châm Cứu Học Thượng Hải).

4. Phối Hợp Cốc (Đại trường.4) + Nghênh Hương (Đại trường.20) trị thịt dư ở mũi (Châm Cứu Học Thượng Hải).

5. Phối Hưng Phấn + Nội Quan (Tâm bào.6) trị nhịp tim chậm, huyết áp thấp (Châm Cứu Học Thượng Hải).

6. Phối Nghênh Hương (Đại trường.20) + Thượng Tinh (Đốc.23) trị mũi chảy máu (Châm Cứu Học Thượng Hải).

7. Phối Dũng Tuyền (Th.1) + Nội Quan (Tâm bào.6) để cấp cứu sau khi bị điện giật (Châm Cứu Học Thượng Hải).

Châm Cứu:

Châm thẳng sâu 0, 1 – 0, 2 thốn. Không cứu. Có thể châm xiên mũi kim từ chóp mũi chếch lên trên sâu 0, 5 – 1 thốn.

Ghi Chú: Châm đắc khí, có cảm giác tê đau hướng lên gốc mũi, vùng xoang mũi.

Quả Vả và bài thuốc sử dụng trong điều trị thực tế từ quả vả

Cây vả thân gỗ nhỏ cao 5-10m, có nhiều cành, phần non có lông cứng. Lá to, phiến hình trái xoan, có lông ở mặt dưới, mép lá khía răng không đều. Cụm hoa vả mọc ở gốc hay trên cành già phát triển thành quả to, hình cầu dẹt, khi chín có màu đỏ. Quả vả để ăn và được dùng làm thuốc chữa bệnh.

Trái vả được bán nhiều ở chợ chính nhờ những giá trị của nó trong dinh dưỡng. Cần phân biệt trái vả và trái sung (Ficus glomerata) hay được chưng trong ngày tết để mong cả năm được sung túc. Cả hai loại trái đều có vỏ xanh, thịt trắng, ruột hồng, tuy nhiên trái vả to hơn, ngọt hơn và bùi hơn, còn trái sung có vị chát. Ở Việt Nam, vả được dùng chế biến các món ăn như trộn gỏi với thịt heo và rau thơm hoặc hầm giò heo giúp sản phụ lợi sữa, làm dưa chua.

Cây vả thân gỗ nhỏ cao 5-10m
Cây vả thân gỗ nhỏ cao 5-10m

Các nghiên cứu thành phần hoạt chất cho thấy trái vả rất tốt cho những người ăn kiêng vì nhiều chất xơ (9,8 gam) và ít năng lượng (100 gam khô cho 250kcal).

Trong 100 gam trái vả sấy khô có chứa: protein 3,3 gam, chất béo 0,93 gam, đường 47,92 gam, các vitamin thuộc nhóm B như B1 0,085mg, B2 0,082mg, B3 0,619mg, B5 0,434mg, B6 0,106mg, B9 9µg, PP 0,3mg và C 1,2mg. Tổng lượng vitamin chiếm khoảng 37% trọng lượng trái khô. Một số lượng lớn các chất khoáng và vi lượng chiếm hơn 70%, cao nhất là calcium là 162mg (tỉ lệ 16%), magnesium 68mg (9%), còn lại như phosphor (16%), sodium (14%), sắt (8%), kẽm (6%), đồng, mangan… Ngoài ra trái vả còn cung cấp nhiều chất ở dạng hợp chất flavonoit và polyphenol, chất nhầy và pectin.

Theo Đông y, quả vả có vị ngọt, tính bình. Tác dụng làm sạch dạ dày, nhuận tràng, điều hòa nhu động của ruột, lợi tiểu, chữa kiết lỵ, lòi dom, táo bón, trị giun.

Quả vả có tác dụng làm sạch dạ dày, nhuận tràng
Quả vả có tác dụng làm sạch dạ dày, nhuận tràng

Bài thuốc hay có tác dụng chữa bệnh từ quả vả

Bài 1. Thuốc chữa bệnh táo bón

+ Quả vả chín 5 quả

+ Khoai lang 100g

+ Đường đỏ 30g

Các vị thuốc nấu nhừ cho đường vào quấy đều. Người bệnh chia làm 2 lần ăn ngày liền hết trong ngày vào lúc đói. cần ăn 3-4 ngày liền.

+ Quả vả chín 10 quả

+ Vừng đen 50g

+ Đường đỏ 30g

Vừng đen giã nhỏ, cùng quả vả, đường nấu thành chè, chia 2 lần cho bệnh nhân ăn trong ngày vào lúc đói. cần ăn liền 2-3 ngày.

Bài 2. Thuốc chữa kiết lỵ

+ Quả vả xanh

+ Lá mơ lông

+ Trứng gà

Quả vả, lá mơ lông rửa sạch giã nhỏ, đập trứng gà vào quấy đều, đem hấp cách thủy, khi chín người bệnh chia 2 lần ăn trong ngày lúc đói. cần ăn liền 3-5 ngày.

Chú ý khi dùng quả vả

Vì hàm lượng đường cao nên trái vả thường được chế biến dạng bánh ngọt, thạch, mứt, vì thế trẻ em dùng nhiều có thể gây sâu răng và bị tiêu chảy.

Múa giật

  1. Đại cương.

Lịch sử:

Thuật ngữ múa giật bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là múa trong đội. Đó là các động tác vận động không chủ động nhanh, đột ngột, uốn lượn của các cơ hoặc các nhóm cơ gây nên các động tác kỳ dị hầu như không nhịp nhàng ở các phần cơ thể.

Năm 1850, See đã mô tả lần đầu tiên sự liên quan giữa chorea và sốt do thấp ở trẻ em và thiếu niên. Sau này do sự phát triển của thuốc kháng sinh, chứng múa giật do thấp ngày càng hiếm hơn.

Năm 1872, Georg Huntington đã mô tả một dạng lâm sàng khác của múa giật. Dạng này sau được mang tên ông và gọi là múa giật Huntington. Tác giả đã nêu những đặc điểm cơ bản của bệnh là: bệnh phát triển tuần tiến và gồm các triệu chứng như múa giật, rối loạn tác phong và sa sút trí tuệ. Bệnh được di truyền trội qua nhiễm sắc thể thường.

Phân loại:

Múa giật được chia làm 2 loại:

  • Múa giật Sydenham (còn gọi là múa giật nhiễm khuẩn; múa giật do thấp) hay chorea
  • Múa giật Huntington

Dịch tễ:

Múa giật Sydenham thường chỉ gặp ở trẻ em 5 – 15 tuổi và nữ nhiều hơn nam.

Tỷ lệ nam/ nữ là 1/2-3.

Múa giật Huntington chỉ có khoảng 5 – 10% xảy ra ở tuổi trẻ, còn lại thuộc lứa tuổi 30 – 50. Tỷ lệ giới tính ở thể sớm và thể muộn là 1/1.

Theo thống kê mặt bệnh 10 năm của Hồ Hữu Lương và Nguyễn Văn Chương, múa giật chiếm 0,07% số bệnh nhân nằm điều trị nội trú tại khoa Thần kinh- Bệnh viện 103 từ năm 1980 đến năm 1989.

  1. Bệnh căn, bệnh

Múa giật Sydenham:

Bệnh có liên quan chặt chẽ với sốt do thấp. Nó thường xuất hiện sau giai đoạn sốt nhiễm liên cầu khuẩn cấp một vài tháng. Về cơ chế bệnh sinh của chorea do thấp, người ta cho rằng nó có liên quan đến quá trình tạo kháng thể. Các kháng thể này có phản ứng chéo giữa liên cầu khuẩn và các neuron ở thể vân (striatum). Các bệnh nhân có tiền sử sốt do thấp có thể bị chorea muộn khi gặp các yếu tố thuận lợi như dùng thuốc tránh thai, dùng phenytoin hoặc khởi phát bệnh muộn trong giai đoạn thai nghén.

Năm 1983, Nausieda và cộng sự, thấy tỷ lệ chorea minor muộn rất cao ở các bệnh nhân đã bị chorea trước đó hơn 10 năm.

Chorea Huntington:

Bệnh được di truyền trội theo nhiễm sắc thể thường, nên mọi cá thể mang gen bệnh đều có thể có biểu hiện lâm sàng vào một lúc nào đó trong cuộc đời nếu cái chết không xảy ra trước đó.

ở thể phát bệnh sớm thì khả năng nhận gen bệnh từ người cha cao gấp 4 lần nhận từ mẹ, còn ở thể muộn thì khả năng di truyền bệnh qua mẹ cao hơn qua cha. Có hiện tượng này là do tính di truyền của bệnh phụ thuộc vào số lần nhắc lại của cầu nối nucleotid CAG trong nhiễm sắc thể, mà trong quá trình sinh tinh trùng số lần nhắc lại của cầu nối này cao nhất.

  1. Lâm sàng.

Triệu chứng múa giật chung:

Chorea được đặc trưng bởi các động tác vận động không tự chủ, xuất hiện đột ngột, giật cục không có quy luật, không đối xứng và thường tập chung ở ngọn chi. Có khi nó chỉ biểu hiện như các động tác vụng về trong sinh hoạt hàng ngày, cũng có khi nó biểu hiện rất mạnh mẽ, vô hướng và rất nguy hiểm. Các động tác múa giật gây ảnh hưởng xấu đến các động tác bình thường của bệnh nhân, cản trở sinh hoạt và công việc hàng ngày, không để bệnh nhân yên. Có khi các động tác này giảm khi ngủ, trương lực cơ của bệnh nhân giảm, có thể có các động tác múa vờn kèm theo.

Chorea minor:

Bệnh thường xảy ra sau các đợt sốt nhiễm khuẩn. 2/3 số trường hợp xảy ra sau thấp khớp, viêm họng hoặc viêm nội tâm mạc vài tuần đến vài tháng.

Các triệu chứng xuất hiện trong vài ngày đến vài tuần. Đầu tiên là các triệu chứng chung toàn thân như mệt mỏi, tinh thần không ổn định, kích thích. Sau đó là các động tác múa giật xuất hiện, đầu tiên tựa hồ như các động tác vụng về trong sinh hoạt, sau đó các động tác xuất hiện nhiều hơn và lan toả toàn thân (cũng có khi khu trú ở 1/2 người). Các động tác này tiến triển nặng lên trong vòng 1 tuần sau đó tự thuyên giảm. Thường thường 1/5 số trẻ em có đợt tái phát trong 2 năm đầu tiên sau khi mắc bệnh.

Triệu chứng của bệnh chủ yếu gồm tăng động kiểu múa giật và mất trí tuần tiến dần dần. Các cử động bất thường phần đông đi trước là biến đổi tâm thần.

Cử động múa giật xuất hiện ở nhiều nhóm cơ, mất khi ngủ và tăng khi xúc động. Múa giật kiểu này biểu hiện chậm hơn và ít tản mạn hơn là kiểu múa giật do nhiễm khuẩn cấp tính.

Những cơn múa giật thường kèm theo giảm trương lực cơ nhưng không có liệt và bại cơ. Các phối hợp vận động không bị rối loạn, phản xạ gân xương vẫn còn, thậm chí có khi tăng.

Khác với múa giật ở trẻ em, bệnh nhân có thể ức chế tăng động từng thời gian, nếu họ phải thực hiện một động tác chủ ý nào đó. Do đó về lâu dài bệnh nhân vẫn còn có khả năng đi một mình và tự phục vụ bản thân mặc dù trong đó có kèm theo hàng loạt các động tác thừa không chủ ý.

Khi bệnh nhân vung chân vung tay, thỉnh thoảng trông như sự nhảy múa nhẹ nhàng, đu đưa thân mình một cách trào phúng, đầu gật, giật nhưng dù sao vẫn giữ được thăng bằng, lúc nói chuyện bệnh nhân nhăn nhó, làm một số điệu bộ nhăn nhở kỳ quặc, thở dài nhiều lần, khịt mũi, tắc lưỡi, chép miệng chùn chụt. Lời nói hết sức khó khăn nhưng dù sao vẫn còn hiểu được, tăng động dần lan toả toàn bộ cơ thể, trừ những cơ vận nhãn (những cơ này không bao giờ bị ảnh hưởng).

Cảm giác không bị rối loạn, cơ thắt, dinh dưỡng bình thường.

Biến đổi tâm thần muộn hơn sau một vài năm. Đầu tiên bao gồm tăng hưng phấn, tăng xúc cảm, xu hướng bàn luận hoang tưởng đối với xung quanh và về sau dần dần mất trí. Trong một số ca biến đổi tâm thần có thể đi trước tăng động.

Múa giật Huntington di truyền theo kiểu trội. Một trong hai người bố mẹ của bệnh nhân thường thấy có bệnh này. Trong đa số trường hợp theo dõi ở nhiều thế hệ có người bị bệnh cả nam và nữ đều có thể bị bệnh và di truyền bệnh. Hãn hữu mới có ca đơn phát.

Có người bị bệnh khởi phát không rõ ràng, tiến triển mạn tính, chậm chạp nhưng tuần tiến không ngừng, những triệu chứng đầu tiên phần đông gặp ở tuổi 30 – 40. Có những trường hợp duy nhất thấy từ khi còn bé (10 tuổi) và ở tuổi già (70 tuổi). Bệnh nhân chết vì những bệnh nhiễm khuẩn tình cờ, sau 10 – 15 năm. Tuy nhiên cũng có những trường hợp cấp tính nhiều hơn cũng như những trường hợp kéo dài 20 – 30 năm.

  1. Cận lâm sàng.

Chorea Sydenham:

Kết quả xét nghiệm:

  • Có dịch não tủy hầu như bình thường.
  • Các xét nghiệm cận lâm sàng xuất hiện ở giai đoạn múa giật, hiếm thấy những thay đổi bệnh lý.
  • Chẩn đoán hình ảnh bằng chụp cắt lớp vi tính sọ não (CT) và chụp cộng hưởng từ (MRI) có thể thấy teo nhân đuôi.
  • PET cho thấy giảm chuyển hoá đường ở striatum, ngay cả khi bệnh nhân mới có rất ít các triệu chứng lâm sàng. Tuy nhiên các thay đổi trên đều không đặc hiệu.
  • Chẩn đoán gen: gần đây người ta đã phân lập được gen múa giật Huntington ở tay ngắn nhiễm sắc thể thứ tư. Gen này chứa đựng sự tái lập quá mức của cầu trinucleotid Bình thường cầu này chỉ lập lại dưới 30 lần, nhưng ở bệnh nhân Huntington nó lập lại trên 40 lần. Tuổi khởi bệnh có liên quan rõ rệt với số lần tái lập của cầu này. ở nhóm bệnh nhân phát bệnh sớm, số lần tái lập là từ 50 trở lên. Từ phát hiện này người ta có thể chẩn đoán Huntington bằng xét nghiệm máu, xác định số lần tái lập của cầu CAG bằng phương pháp sử dụng kỹ thuật phản ứng dây truyền polymerase (polymerase chain reaction technique).
  • Giải phẫu bệnh: thấy có biểu hiện teo não, các rãnh cuộn não bị giãn, các lát cắt corona cho thấy striata đặc biệt là nhân đuôi bị teo nhỏ.
    1. Chẩn đoán.

Chorea Sydenham:

  • Có tiền sử thấp.
  • Tuổi trẻ
  • Chẩn đoán loại trừ múa giật do chấn thương não trong giai đoạn chu sinh.

Chorea Huntington:

+ Lâm sàng:

  • Yếu tố gia đình: các thế hệ trước trực hệ có người mắc bệnh.
  • Có triệu chứng múa giật.
  • Sa sút tiến triển từ từ nặng dần.
  • Các triệu chứng âm tính: rối loạn cảm giác, cơ thắt và dinh dưỡng.
  • Chẩn đoán loại trừ các bệnh: múa giật tuần tiến mạn tính tuổi già do xơ vữa động mạch não, tăng động của viêm não dịch tễ, múa giật cấp nhiễm khuẩn và tăng động do hysteria.

+ Cận lâm sàng:

  • PET có giảm chuyển hoá đường ở striatum
  • Kỹ thuật phản ứng dây truyền polymerase có tăng số lần tái lập cầu nối CAG ở tay ngắn NST số 4 (trên 40 lần).
  • CT và MRI sọ não có teo nhân đuôi.
  1. Điều trị và tiến triển.

Chorea Sydenham:

Dùng các thuốc nhóm salicilat, kháng histamin, penicilin, corticoid, pyridoxin, axit valproic và kháng dopamin. Cắt thuốc sau một giai đoạn điều trị ngắn nếu thấy bệnh không thuyên giảm thêm.

Bệnh thường thuyên giảm nhanh, tiên lượng tốt nhưng nguy cơ tái phát cao. 1/3 số bệnh nhân có để lại các di chứng (vụng về, tăng kích thích, sợ sệt và tics).

Chorea Huntington:

Các biện pháp điều trị nhằm làm giảm triệu chứng, có thể dùng các thuốc sau:

+ Các thuốc kháng dopamin:

  • Tiền xinap (tetrabenazine, reserpine).
  • Sau xinap (haloperidol).

Tuy nhiên vì tác dụng phụ của thuốc này nặng nề nên không dùng cho các trường hợp Huntington nặng.

+ Những bệnh nhân có thiểu động và tăng trương lực cơ có thể dùng các thuốc điều trị Parkinson.

+ Các bệnh nhân có trầm cảm nên dùng thuốc chống trầm cảm 3 vòng.

+ Bệnh nhân Huntington thường tử vong do nghẹn, sặc và thường sau 10 – 20 năm bị bệnh. Cũng có bệnh nhân tử vong do tự tử. Các bệnh nhân khởi phát sớm có tiên lượng xấu hơn, các bệnh nhân này thường có thêm các cơn co giật ở giai đoạn muộn và đời sống ngắn hơn rõ rệt so với các bệnh nhân phát bệnh muộn. ở các bệnh nhân phát bệnh muộn các triệu chứng cũng tiến triển chậm chạp hơn.

Bé gửi trong nhà trẻ cần chăm sóc như thế nào

Nhiều bậc bố mẹ phải đi làm hàng ngày nên thường gửi cho ở nhà trẻ. Vậy cuộc sống của các cháu trong nhà trẻ như thế nào ! Thế nào là một nhà trẻ tốt ? Sau đây là một vài nét đại cương về nhà trẻ.

Nhà trẻ tốt : với các trẻ sơ sinh

Các cháu sơ sinh cần ngủ nhiều, “Nhà trẻ tốt” đối với các cháu phải có : phòng yên tĩnh, các cô phụ trách biết trọng giờ giấc, thời gian ngủ các cháu để các cháu được ngủ đủ.

Khi thức, các cháu phải thấy ngay người quen và vật quen ở chung quanh mình (cô phụ trách và đồ chơi).

Khi ăn, các cháu cần được ăn các món thay đổi hoặc thích hợp với khẩu vị, với lứa tuổi của từng cháu.

Để phát triển khả năng về mọi mặt của các cháu, nhà trẻ phải có : đồ chơi phát ra tiếng nhạc, màu sắc sặc sỡ, dễ nhận thấy, dễ cầm, dễ kéo.

Những người phụ trách các cháu phải có tình yêu thương, có công tâm để thiết lập được tình cảm gắn bó giữa các cháu bé với mình.Tình trạng nói lắp ở trẻ nhỏ

Với các trẻ từ 1 tới 3 tuổi

Các cháu phải có các đồ chơi, phương tiện hướng dẫn các cháu tập đi, tập kết bạn cùng nhau, tập nói, tập vẽ, để sửa soạn vào lớp mẫu giáo. Giờ ngủ của các cháu ở nhà trẻ chủ yếu là giấc ngủ trưa.

Các cháu đã thấy sự thích thú trong bữa ãn. Nên có chỗ ăn riêng biệt cho mỗi cháu (bàn riêng, bát, chén, thìa… riêng), món ăn luôn thay đổi, có màu sắc thu hút sự chú ý.

Các cháu cần được tham gia các hoạt động để phát triển về tình cảm và lý trí như : hát múa tập thể, tập vẽ, tập dán, tập hóa trang, đóng kịch, đọc thơ, đi chơi vườn thú, ra đồng quê, tới các trại v.v… Đôi khi, nên mời cả các bố mẹ của các cháu cùng tham gia vào những hoạt động này (đi chơi vào những ngày nghỉ).

Nhà trẻ cần làm sao để ở đó, trẻ em không thấy sự khác biệt với gia đình và không gây ra những khó khăn trong tình cảm của các cháu trong đoạn thời gian tới và ở lại nhà trẻ cũng như khi về nhà.

Các cháu nhỏ cần cảm thấy rằng cô phụ trách ở nhà trẻ với bố, mẹ các cháu đều là những người trong một gia đình.

Mất Ngủ – Nguyên nhân và điều trị

Ngủ là một trạng thái có chu kỳ và đảo ngược được, trong đó ý thức bị mất tạm thời; tính nhậy cảm và cảm giác bị mất hoàn toàn hay một phần lớn và đa số các chức năng bị chậm lại. Các cá thể ngủ khác nhau: có người “ngủ ít” chỉ cần ngủ 3-4 giờ (không nên dùng thuốc chữa), có người “ngủ nhiều” tới 8-9 giờ mỗi ngày. Bệnh nhân có trạng thái hưng cảm chỉ ngủ 2-3 giờ còn ở bệnh nhân bị trầm cảm thì mất ngủ thường là triệu chứng đầu tiên của trầm cảm (rượu và các thuốc gây ngủ chỉ làm mất ngủ nặng thêm). Bệnh nhân bị trầm cảm ngủ nhanh thức dậy vào lúc 2-3 giờ sáng và không ngủ lại được nữa; còn người có lo âu thì khó ngủ nhưng lại ngủ được qua đêm.

Giấc ngủ có hai pha chính xen kẽ nhau đều hoặc không đều:

GIẤC NGỦ CHẬM KHÔNG CÓ CỬ ĐỘNG NHANH CỦA NHÃN CẦU: trên điện não đồ có các sóng chậm. Pha này xảy ra lúc bắt đầu ngủ rồi cứ 80-90 phút lại được thay thế bởi pha kia. Thời gian có giấc ngủ chậm chiếm 3/4 giấc ngủ. Trong pha này, trương lực cơ vẫn còn. Khó tỉnh (giấc ngủ sâu) và một khi tỉnh thì không nhớ là mình đã nằm mơ. Trong pha này có thể có những rối loạn “trong giấc ngủ” nhất là đái dầm ban đêm, ác mộng (cảm giác ngạt thở, kêu thét và hoảng sợ) hay mộng du (có những hành động phức tạp nhiều hay ít, đi lại ban đêm, thức tỉnh đột ngột và không hoàn toàn, mắt nhìn xa xăm và không nhớ gì về điều này).

GIẤC NGỦ TRÁI NGƯỢC CÓ CỬ ĐỘNG NHANH CỦA NHÃN CẦU: pha này thường xuất hiện 50-70 phút sau khi ngủ và cứ 80-90 phút lại xuất hiện một lần trong 20 phút (về sáng, các chu kỳ này dài hơn). Giấc ngủ trái ngược chiếm khoảng 1/4 giấc ngủ bình thường. Trong pha này, cơ không có trương lực (trừ các cơ vận nhãn). Bệnh nhân dễ tỉnh (giấc ngủ nông) và thường kể lại là vừa nằm mơ.

ĐIỆN NÃO ĐỔ: Khi bắt đầu ngủ, trên đồ thị lần lượt có những thay đổi sau đây:

  • Sóng alpha thưa rồi mất hẳn.
  • Các sóng chậm, điện thế cao, có hình móc (phức hợp K) xuất hiện. Tần số là 12-15/sec (thoi ngủ).
  • Xuất hiện các sóng delta có biên độ cao và chậm (1-2/sec).

Các sóng delta trở nên liên tục.

Chứng Mất Ngủ

Định nghĩa: mất ngủ là không thể ngủ được hoặc khó ngủ, gây cảm giác ngủ không đủ.

Phân loại

  • Mất ngủ đầu giấc: chậm ngủ được (trên một giờ) thường xảy ra khi có rối loạn về cảm xúc, nhất là lo âu.
  • Mất ngủ cuối giấc: bắt đầu ngủ bình thường nhưng thức dậy vào lúc 2- 4 giờ sáng. Hay gặp ở người già hay người bị trầm cảm. Thường dẫn đến buồn ngủ ban ngày.
  • Ngủ ít: thời gian ngủ giảm.
  • Đảo ngược chu kỳ ngủ: có thể do rối loạn nhịp ngày đêm sau khi đi máy bay lâu, do chấn thương sọ não trước đây, do suy hô hấp có tắc nghẽn (xem hội chứng ngừng thở lúc ngủ) hay dùng thuốc an thần không đúng dẫn đến kích động vật vã, đi lại ban đêm và buồn ngủ ban ngày.

Căn nguyên

  • Do vệ sinh kém: giường chiếu bẩn, rối loạn về giờ giấc sinh hoạt (do công việc hay do bản thân), nghiện thuốc lá, dùng quá nhiều cà phê, chè hay sô cô la. Do dùng các thuốc gây giảm ăn hoặc thuốc cường giao cảm.
  • Rối loạn tâm thần: lo âu, trầm cảm hoặc hưng cảm, cơn thiếu rượu hay thiếu thuốc (tất cả các thuốc ngủ đều dẫn đến quen thuốc và nghiện thuốc). Các nguyên nhân khác là các vấn đề về công việc, mâu thuẫn gia đình, lo lắng về sức khoẻ hay về tiền bạc.
  • Bệnh thể xác: đau đớn, suy tim hay suy hô hấp, bệnh hệ thần kinh trung ương.

Điều trị: cải thiện điều kiện vệ sinh. Thuốc ngủ (xem thuốc này) trong một thời gian ngắn và/hoặc tuỳ theo lý do mất ngủ, thuốc an thần hay thuốc chống trầm cảm.

GHI CHÚ VỀ MẤT NGỦ – ngủ kéo dài (hypersomnie) là giấc ngủ quá dài hoặc ngủ trong khi muốn tỉnh táo.

Vế chi tiết, xem các thuật ngữ sau:

Cơn buồn ngủ không rõ nguyên nhân (hội chứng Gélineau).

Ngủ kéo dài do trung tâm hay hội chứng cơn buồn ngủ có giấc ngủ chậm. Ngủ kéo dài và ăn vô độ (Hội chứng Kleine-Levin).

Hội chứng ngừng thở trong lúc ngủ.

Viêm đa dây thần kinh do thiếu vitamin B1

Năm 1882, Takaki (người Nhật) nhận thấy một số thuỷ thủ bị viêm đa dây thần kinh và tê phù do ăn gạo sát kỹ. Tác giả cho thay chế độ ăn, cho ăn lúa mạch và cho ăn thịt thì các thuỷ thủ đó đã khỏi bệnh.

Năm 1889, eifkman (người Hà Lan) nhận thấy rằng tù nhân ở trong trại tù bị viêm đa dây thần kinh được chữa khỏi bằng cách cho ăn cám gạo.

Năm 1910, Frager và Sheaton cho rằng bệnh tê phù là do rối loạn chuyển hoá gluxit, nguyên nhân do thiếu một chất nằm trong hạt gạo mà tác giả gọi là yếu tố cần thiết cho đời sống (vitalamin) – chất mà sau này gọi là vitamin.

Năm 1911, Funk đã khám phá ra vitamin B1 (thiamin), chất này phần lớn nằm ở vỏ hạt gạo. Vì vậy, bệnh tê phù hay phát triển thành dịch, thường gặp trong nhân dân vùng hay dùng gạo làm lương thực chính.

ở nước ta trong những năm chiến tranh, viêm đa dây thần kinh do thiếu hụt vitamin B1 là bệnh rất nghiêm trọng, thường xuất hiện thành những vụ dịch lớn ảnh hưởng đến sức lao động, sản xuất của nhân dân và sức chiến đấu của bộ đội. Năm 1966, ở chiến trường Tây Nguyên đã xuất hiện vụ dịch tê phù do thiếu vitamin B1. Chỉ tính riêng ở một bệnh viện dã chiến đã có 557 người bị bệnh. Năm 1985 (theo Vũ Trọng Hồng và cộng sự) dịch tê phù đã xảy ra ở 8 tỉnh thành miền Bắc Việt Nam. Tại xã Mễ Trì huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội có tới 157 người bị bệnh tê phù trên số dân là 8.684 người (tỷ lệ 1,8%), trong đó có 2 trường hợp bị tử vong do suy tim cấp. Huyện Yên Hưng – Quảng Ninh có 1.326 trường hợp mắc bệnh tê phù gồm 201 nam và 1.164 nữ, 174 trường hợp dưới 15 tuổi. Năm 1986, dịch tê phù đã xảy ra ở chiến trường biên giới phía Bắc (chỉ tính ở 3 sư đoàn bộ binh) đã có 1800 người bị mắc bệnh (chiếm 6,2% quân số).

* Nguyên nhân thiếu hụt vitamin B1.

Người lao động bình thường 1 ngày cần từ 1 – 2mg thiamin. Nguyên nhân của sự thiếu hụt thiamin là:

  • Do cung cấp thiếu: gạo ăn kém phẩm chất (mốc) hoặc xay sát hai lần.
  • Cung cấp đủ nhưng cơ thể chỉ hấp thu được ít vì bị bệnh đường ruột gây ỉa chảy kinh điển.
  • Do nhu cầu thiamin tăng cao hơn bình thường: khi phải tăng cường độ lao động và tăng thời gian lao động chân tay, đang có thai hoặc đang cho con bú.
  • Chế độ ăn thiếu các chất có nhiều vitamin như: đỗ xanh, đỗ tương, lạc, vừng, trứng và thịt…
  • Một số thói quen ăn cá sống, ăn nhiều tôm hoặc trai phát sinh thiaminaza phân huỷ Thiamin hấp thu vào cơ thể, nhất là tệ nạn uống rượu ít chịu ăn cơm làm cho cơ thể thiếu lượng thiamin cần thiết.

* Đặc điểm lâm sàng.

Bệnh tê phù thường xảy ra khi khẩu phần thức ăn bị thiếu vitamin B1 ít nhất là 80 – 90 ngày. Triệu chứng gồm 3 nhóm chính: phù, rối loạn tim mạch, viêm dây thần kinh ngoại vi. Bệnh có hai giai đoạn:

+ Giai đoạn khởi phát:

  • Bệnh thường bắt đầu bằng triệu chứng nhức đầu, mệt mỏi, chán ăn, táo bón, buồn nôn, cảm thấy căng ở hai bắp chân.
  • Giảm cảm giác nông ngoài da, phản xạ gân xương tăng nhẹ và tim đập nhanh.

+ Giai đoạn toàn phát.

Thể điển hình có hội chứng thần kinh ngoại vi và hội chứng tim mạch còn gọi là thể “ướt”.

+ Hội chứng thần kinh ngoại vi:

. Liệt đối xứng hai chi dưới, liệt từ ngọn chi đến gốc chi.

. Rối loạn cảm giác: tê bì, dị cảm ngoài da (cảm giác nóng bỏng ở ngón chân hoặc đau ở bàn chân).

. Rối loạn phản xạ: giảm hoặc mất phản xạ gân xương ở tứ chi, chủ yếu là hai chi dưới.

. Rối loạn vận động: cảm thấy như đeo đá vào chân, nặng hơn thì đi phải chống gậy hoặc nằm tại chỗ.

. Đôi khi có tổn thương các dây thần kinh sọ não: tổn thương dây II (giảm thị lực), dây III, dây IV (lác mắt), dây VIII (giảm thính lực), dây IX, dây X (giọng nói khàn, khó nuốt, ăn nghẹn, uống sặc).

  • Hội chứng tim mạch: gồm 3 triệu chứng chính:

. Trạng thái giãn mạch ngoại vi dẫn tới tăng lưu lượng tim.

. Tình trạng suy tim cả hai bên tâm thất.

. Tình trạng ứ đọng muối và nước làm cho phù tăng lên.

Triệu chứng lâm sàng: bệnh nhân cảm thấy khó chịu, hồi hộp, hơi khó thở, mệt mỏi, tim đập nhanh, mạch 90 lần/phút. Huyết áp tối đa bình thường nhưng tối thiểu tăng, da xanh hoặc tím tái do ứ trệ tuần hoàn ngoại vi, phù: lúc đầu ở hai mắt cá chân sau lan dần lên bụng và mặt, giai đoạn đầu phù cứng sau phù mềm, dấu hiệu Godet dương tính.

Các xét nghiệm bổ sung.

  • X quang tim-phổi: hình ảnh tim phải to, bệnh nhân có rối loạn tim mạch hoặc ở thế ướt.
  • Điện tâm đồ: một số trường hợp có rối loạn dẫn truyền trên thất và có sóng U từ V2 – V5 hoặc sóng T dẹt hoặc âm, nhịp xoang nhanh đều.
  • Có phản ứng thoái hóa điện.
  • Điện cơ trong viêm đa thần kinh: có nhiều điện thế đa pha hoặc dạng điện thế nhóm, hoặc các dao động mũi ngắn, đôi khi gặp các đơn vị vận động hình răng cưa.
  • Sinh thiết cơ: thoái hoá cơ vân ở các mức độ khác nhau, thể ướt có phù nề ở các tổ chức xen kẽ. Đặc biệt không thấy tế bào viêm.
  • Định lượng vitamin B1: bình thường nồng độ vitamin B1 là 3 – 10microgam trong 100ml máu và có trong nước tiểu từ 144 – 323 microgam/24 giờ, giảm trong bệnh Beriberi.
  • Nghiệm pháp axit pyruvic: trường hợp thiếu vitamin B1 thường axit pyruvic tăng quá mức bình thường (bình thường axit pyruvic trong máu là 0,8 ± 0,2mg/100ml).

Các thể lâm sàng viêm đa dây thần kinh do thiếu vitamin B1.

  • Thể ướt: (có hội chứng thần kinh ngoại vi và hội chứng tim mạch):

+ Khởi phát: phù hai chi dưới, tê bì và có cảm giác kiến bò ở ngọn chi, đau tức ở bắp chân, mệt mỏi, tức ngực, khó thở khi gắng sức, mạch nhanh. Có triệu chứng tiến triển nặng lên trong thời gian 7 – 10 ngày.

+ Toàn phát: phù nặng, có thể phù toàn thân, giảm cảm giác rõ ở hai chi dưới hoặc tứ chi theo kiểu “bít tất”, ở ngọn chi nặng hơn gốc chi. Sức cơ giảm, gây bại hoặc liệt ở hai chi dưới hoặc tứ chi đối xứng nhau, ở ngọn chi nặng hơn ở gốc chi. Phản xạ gân xương ở giai đoạn khởi phát chưa giảm, có thể lại tăng nhẹ, khi toàn phát thì giảm hoặc mất hết. Cơ bắt đầu teo, nhất là các cơ ở mô cái, mô út, cơ tứ đầu đùi và các cơ ở sau cẳng chân. Có thể có tổn thương các dây thần kinh sọ não. Đôi khi có sốt nhẹ; cần chú ý phân biệt với sốt rét kèm theo.

  • Thể khô (hay thể teo cơ): thể này tiếp theo sau thể ướt hay có thể teo cơ ngay từ khi khởi bệnh.
  • Thể tim mạch: là bệnh lý suy tim cấp do thiếu vitamin B1, thường là suy tim toàn bộ dẫn đến tử vong do truỵ tim mạch và phù phổi cấp.

+ Thể tim cấp: đau vùng tim, khó thở nặng, ứ máu ở tĩnh mạch ngoại vi, gan to, huyết áp tụt, mạch nhanh, nhỏ và có thể xuất hiện triệu chứng phù phổi cấp.

Những triệu chứng trên xuất hiện ở người trước đây không có bệnh tim, đang có tê phù hoặc ở đơn vị đang có người bị tê phù.

+ Thể tối cấp biểu hiện: ngừng tim đột ngột do tổn thương nhánh dây X chi phối hoạt động của tim. Xảy ra ở người không có bệnh tim đang bị tê phù, đột ngột bị đau ngực, khó thở và ngừng tim. Nếu không cấp cứu kịp thời dễ bị tử vong trong vòng vài giờ hoặc vài ngày.

  • Thể bệnh não của Wernicke – Korsakoff: thể bệnh này còn gọi là viêm não chất xám chảy máu, tỷ lệ tử vong ở giai đoạn cấp khoảng 17%.

+ Triệu chứng lâm sàng:

. Khởi đầu có nôn.

. Liệt liếc ngang, sau đó liệt liếc dọc và sau cùng có rung giật nhãn cầu.

. Đi đứng loạng choạng.

. Hạ thân nhiệt.

. Có thể có hội chứng Korsakoff: quên nghịch hành, giảm khả năng tiếp thu, nói chuyện nhiều, bịa chuyện.

. Một số bệnh nhân có hội chứng viêm đa dây thần kinh kèm theo.

. Dịch não tuỷ bình thường, huyết thanh chẩn đoán viêm não âm tính.

. Chẩn đoán dựa vào định lượng vitamin B1 trong máu và trong nước tiểu, nghiệm pháp axit pyruvic.

. Chẩn đoán phân biệt với sốt rét ác tính thể não.

+ Tiên lượng bệnh: nếu không được điều trị tốt, sớm có thể bị tử vong (tới 50% trường hợp). Ngược lại nếu phát hiện sớm, điều trị kịp thời, bệnh có thể khỏi hoàn toàn. Một số trường hợp hội chứng Kosrakoff vẫn còn tồn tại sau nhiều tháng.

Chẩn đoán.

  • Chẩn đoán sớm:

+ Dựa vào các đặc điểm lâm sàng.

+ Dựa vào các xét nghiệm:

. Định lượng vitamin B1 trong máu và nước tiểu.

. Nghiệm pháp axit pyruvic.

+ Chẩn đoán phân biệt:

  • Hội chứng thương tổn các rễ và dây thần kinh (hội chứng Guillain – Barré): có phân ly albumin – tế bào trong dịch não tuỷ.
  • Liệt các dây thần kinh ngoại vi và các dây thần kinh sọ não do biến chứng của bệnh bạch hầu.
  • Bệnh phong: gây liệt các dây thần kinh ngoại vi nhưng ở các bệnh nhân này có rối loạn dinh dưỡng nhiều gây loét bàn chân và cụt các đầu ngón tay, ngón chân.
  • Biến chứng của bệnh gây rối loạn chuyển hoá như đái tháo đường, ure huyết cao, thoái hoá tinh bột nguyên phát.

+ Nhiễm độc chì, asen, thuỷ ngân, bismuth, phân hoá học, hoá chất trừ sâu.

Điều trị:

+ Thể tê phù:

  • Nghỉ ngơi tuyệt đối
  • Chế độ ăn uống: giảm gluxit (giảm gạo), cho ăn đậu phụ, ngô, khoai, bánh mỳ, bánh cám, ăn thêm chất đạm: thịt, cá, gan, đậu phụ, đậu xanh, sữa đậu nành..
  • Thuốc dùng vitamin B1 liều cao.

Trường hợp nhẹ cho uống vitamin B1 (viên 0,01): trẻ em từ 1 – 4 viên trong ngày, người lớn từ 5 – 10 viên trong ngày.

Trường hợp nặng: tiêm bắp vitamin B1 (ống 0,025) từ 4 – 12 ống/ngày. Đối với người lớn có thể cho phối hợp các vitamin nhóm B khác.

Trường hợp có teo cơ: vì bệnh tiến triển từ lâu nên cho vitamin B đơn thuần không có hiệu quả, cần phối hợp vitamin nhóm B khác và strychnin nếu không có biến chứng tim. Cần kết hợp tập vận động xoa bóp vật lý trị liệu sớm. Đặc biệt dùng nivalin (galantamin) liều nhỏ tăng dần rồi lại giảm dần kết hợp với tập vận động thường có kết quả tốt (nivalin 0,0025/ngày đầu thường tiêm bắp 1/4 ống, những ngày sau mỗi ngày tiêm tăng 1/4 ống cho đến khi trở về liều ban đầu).

+ Cấp cứu thể tim cấp:

  • Trợ tim: spactein 0,05g x 1 ống tiêm bắp thịt. Nếu nặng dùng uabain 1/4 ống + huyết thanh ngọt 30% 20ml tiêm tĩnh mạch chậm. Vitamin B1 0,1g (loại tiêm được tĩnh mạch) tiêm tĩnh mạch chậm 1 ống. Vitamin B1 0,025 x 4 ống tiêm bắp thịt.

Ngày tiêm hai đợt như trên. Những ngày sau tiếp tục dùng vitamin B1 liều cao, chia nhiều lần trong ngày, cụ thể: vitamin B1 0,01g x 20 viên/ngày, chia làm 4 lần. Nếu tiêm thì tốt hơn (vitamin B1 0,025 8 ống/ngày tiêm bắp chia làm 4 lần).

  • Điều trị sớm các bệnh khác.

Nếu có phù: dùng hypothiazit viên 0,025 x 2 viên/ngày chia 2 lần trong 3 – 5 ngày. Nếu có hội chứng tim mạch: dùng digoxin viên 0,25 x 2 viên/ngày (sáng 1 viên, chiều 1 viên) trong 5 – 7 ngày hoặc tiêm bắp spactein 0,05g x ống/ngày.

Dùng kết hợp các thuốc khác như: vitamin B6, B12 hoặc polyvitamin.

Cho nghỉ ngơi tuyệt đối, ăn chế độ đủ protit, lipit, rau xanh, chế độ ăn nhạt.

Khi ở tuyến trước điều trị không có kết quả thì chuyển bệnh nhân sớm về tuyến sau.

Phòng bệnh:

Nhu cầu hàng ngày mỗi người là 1000 microgam vitamin B1 vì vậy cần chú ý:

  • Không nên say xát gạo hai lần. Nếu sát trắng quá thì sẽ mất các chất dinh dưỡng quí như chất béo, chất đạm, chất sắt, canxi (cần có để tránh bệnh còi xương ở trẻ em), vitamin B1 (tránh bệnh tê phù).
  • Gạo được bảo quản tốt, không để mối mọt hoặc có nhiều sạn thóc.
  • Nấu cơm nên để nước sôi mới đổ gạo vào để tránh vitamin B1 ở lớp vỏ gạo bị phá huỷ.
  • Trong bữa ăn cần ăn thêm thức ăn có nhiều vitamin B1 như rau, lạc, đậu, vừng, thịt, cá.
  • Sau bữa ăn nên có thêm hoa quả: chuối, táo…

Tìm hiểu về bệnh đái tháo đường

Định nghĩa bệnh đái tháo đường

Đái tháo đường (ĐTĐ) là một hội chứng có đặc tính biểu hiện bằng tăng glucose máu, do hậu quả của việc mất hoàn toàn insulin hoặc là có liên quan đến sự suy yếu trong bài tiết và/ hoặc giảm hoạt động của nội tiết tố insulin .

Sơ lược lịch sử của bệnh đái tháo đường

Các triệu chứng của bệnh Đái tháo đường đã được mô tả từ thời cổ Hy Lạp. Vào khoảng 600 năm trước công nguyên, hai người thầy thuốc Ấn Độ là Chakrata và Susruto mô tả bệnh cảnh và tính nguy hiểm của bệnh này, đồng thời chia bệnh này thành hai thể: bệnh ở người trẻ và bệnh ở người cao tuổi. Mãi đến năm 1675 Thomas William Cullen mới đặt tên cho bệnh cảnh lâm sàng có đi tiểu ra nước tiểu có vị ngọt là Diabetes .

Có thể Bouchardat (Pháp) là người đầu tiên đã đưa ra nhận xét và công bố về tính đa dạng của bệnh cảnh lâm sàng của bệnh này; trong bản chuyên luận xuất bản năm 1875 ông đã đưa ra danh từ “đái tháo đường gày” (diabetes maigre) và “đái tháo đường mập” (diabetes grat) để phân biệt hai thể bệnh chính của Đái tháo đường và coi Đái tháo đường như là một hội chứng hơn là một bệnh .

Vào đầu thế kỷ XX xuất hiện danh từ “đái tháo đường trẻ” và “đái tháo đường của người đứng tuổi”. Năm 1936, Himsworth phân biệt “đái tháo đường đề kháng insulin” và “đái tháo đường nhạy cảm với insulin”. Năm 1976, Gudworth chia bệnh Đái tháo đường thành “đái tháo đường týp 1” và “đái tháo đường týp 2”. Năm 1985, bảng phân loại của Tổ chức sức khỏe thế giới đưa ra danh từ “đái tháo đường phụ thuộc insulin” đồng nghĩa với “đái tháo đường týp 1” và “đái tháo đường không phụ thuộc insulin” đồng nghĩa với “đái tháo đường týp 2”. Năm 1997, Hiệp hội đái tháo đường Mỹ ADA (American Diabete Asociation) đề nghị dùng danh từ “đái tháo đường týp 1” và “đái tháo đường týp 2” để tránh sự hiểu lầm về việc lựa chọn thuốc điều trị .

Tình hình mắc bệnh Đái tháo đường trên thế giới

ĐTĐ là một trong các bệnh không lây phổ biến nhất hiện nay và là một trong các bệnh có tỉ lệ tăng nhanh nhất trên thế giới. Theo tài liệu của Viện nghiên cứu Đái tháo đường quốc tế, năm 1995 số bệnh nhân bị bệnh Đái tháo đường týp 2 trên thế giới vào khoảng 135 triệu người, năm 2000 là 151 triệu người, dự báo con số này sẽ tăng lên tới khoảng 221 triệu người vào năm 2010 và 330 triệu người vào năm 2025 (chiếm 5,4% dân số thế giới) .

Năm 1995, tỷ lệ mắc bệnh Đái tháo đường ở người lớn trên thế giới ước tính là 4%, nhưng tỉ lệ mắc bệnh này đã lên đến 5,4% vào năm 2005. Theo thống kê của Liên đoàn đái tháo đường quốc tế năm 1999, tỷ lệ mắc bệnh một số nước châu á như sau: Thái Lan 6,7%, Philipin 4,27%, Indonesia 1,3%, Đài Loan 2,1%, Hồng Kông 4,0%, Pakistan 3,0%, Hàn Quốc 4,0%, Argentina 8,2%…

Ở Trung Quốc, theo thông báo của Bộ Vệ sinh, tỷ lệ mắc bệnh Đái tháo đường là: 0,67% (1980) và 2,0% (1999), có ngĩa là tăng 3 lần trong 20 năm. Tại Singapore tỷ lệ Đái tháo đường týp 2 là: 2% (1974), 4,7% (1985) và 8,6% (1992).

Tình hình mắc bệnh Đái tháo đường ở Việt Nam

Tại Việt Nam, với sự phát triển của kinh tế xã hội, đời sống của cộng đồng được nâng lên, thói quen ăn uống, làm việc đã và đang tạo điều kiện cho bệnh béo phì và Đái tháo đường týp 2 ngày càng gia tăng, đặc biệt tại các thành phố lớn.

Năm 1990 tỷ lệ Đái tháo đường ở 3 thành phố lớn: Hà Nội: 1,2%, Huế: 0,95%, thành phố Hồ Chí Minh: 2,52%; năm 2001 tỷ lệ đái tháo đường 4 thành phố (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh) là: 4,0%, tỉ lệ rối loạn dung nạp glucose là: 5,1%. Đến năm 2002, tỉ lệ mắc bệnh Đái tháo đường tại các thành phố lớn là: 4,4%. Chỉ trong vòng 12 năm, tỉ lệ mắc bênh Đái tháo đường tại các thành phố lớn của nước ta đã tăng khoảng 2 lần. Một điều đặc biệt nữa khiến rất nhiều người lưu tâm, đó là theo điều tra dịch tễ bệnh Đái tháo đường của Việt Nam năm 2001 có tới trên sáu mươi phần trăm (64,9%) số người mắc bệnh Đái tháo đường ở Việt Nam không được phát hiện và không được hướng dẫn điều trị .

Phân loại bệnh Đái tháo đường

ĐTĐ được phân thành 2 thể là Đái tháo đường týp 1 và Đái tháo đường týp 2 .

ĐTĐ týp 1 (chiếm 5% – 10% tổng số bệnh nhân Đái tháo đường) là một bệnh tự miễn mạn tính, thường gặp ở người trẻ (< 30 tuổi), nguyên nhân do tế bào b Langerhans bị tổn thương nên khả năng sản xuất insulin bị suy giảm trầm trọng. Do thiếu hụt insulin, biểu hiện lâm sàng rầm rộ, nồng độ glucose trong máu rất cao, mất glucose qua nước tiểu làm người bệnh ăn nhiều, đồng thời thể trạng ngày càng gầy, sút cân .

ĐTĐ týp 2 (chiếm 90% – 95% tổng số bệnh nhân Đái tháo đường) thường xuất hiện ở người trên 30 tuổi, là hậu quả kết hợp của kháng insulin và đáp ứng chế tiết bù insulin không đủ. Bệnh diễn biến âm thầm nên Đái tháo đường týp 2 thường được chẩn đoán muộn, có khi phát hiện do tình cờ người bệnh đi khám hoặc thậm chí là phát hiện qua các biến chứng của bệnh như: tổn thương mạch máu lớn, tổn thương thần kinh, tổn thương vi mạch hoặc thậm chí ở trong tình trạng nhiễm khuẩn nặng, cao huyết áp hoặc hôn mê. Trước đây người ta chỉ thấy Đái tháo đường týp 2 ở lứa tuổi > 45, nhưng ngày nay theo công bố của WHO (1999) Đái tháo đường týp 2 gặp ở lứa tuổi sớm hơn, có thể từ 30 tuổi hoặc trẻ hơn đã có thể mắc bệnh .

Có thể phân biệt týp Đái tháo đường thông qua bảng sau đây:

Đặc điểm ĐTĐ týp 1 ĐTĐ týp 2
Khởi phát bệnh Rầm rộ Thầm lặng
Lâm sàng Thể trạng gày, sút cân rõ.Đái nhiều

Uống nhiều

Thường béoCó tiền sử gia đình

Đái, uống nhiều không rõ

Nhiễm toan cetone Hầu hết Thường không
Các bệnh tự miễn khác Thường có Không
C-peptide Thấp hoặc không có Bình thường hoặc tăng
Điều trị Bắt buộc dùng insulin qua đường tiêm. Có thể dùng thuốc uống

 

Cơ chế bệnh sinh đái tháo đường týp 2

ĐTĐ týp 2 là bệnh không đồng nhất, không phải là một bệnh duy nhất, mà là một tập hợp các hội chứng khác nhau. Bệnh có những bất thường quan trọng về quá trình bài tiết và tác dụng của insulin, một loại hormon của tuyến tụy. Dù cho nguyên nhân ban đầu là gì cũng đều dẫn đến hai tình trạng là giảm tiết insulin và kháng insulin; hai mặt này tương tác lẫn nhau trong quá trình phát triển của bệnh, cuối cùng sự suy giảm bài tiết insulin do suy kiệt tế bào bêta của tuyến tụy là điều tất yếu sẽ xảy ra. Thêm vào đó, khi đã tăng đường huyết, độc tính glucose sẽ gây ra thêm sự bất thường về tác động và bài tiết insulin .

Nhiều chuyên gia hàng đầu thế giới về bệnh Đái tháo đường đều thống nhất cơ chế hình thành Đái tháo đường týp 2 là quá trình tác động qua lại phức tạp của 2 nhóm nguyên nhân chính là yếu tố gen và yếu tố môi trường .

Ngày nay, khoa học đã chứng minh có khá nhiều gen có liên quan trực tiếp tới bệnh Đái tháo đường týp 2, đa số các trường hợp là thiếu sót đa gen nhưng có những trường hợp chỉ có khiếm khuyết ở một gen . Điều này giải thích bệnh Đái tháo đường týp 2 có tính chất gia đình và trên lâm sàng cùng biểu hiện một tình trạng bệnh nhưng khả năng kiểm soát bệnh lại rất khác nhau giữa các trường hợp cụ thể.

Một số nghiên cứu đã chứng minh rằng, không chỉ tình trạng béo phì trong giai đoạn bào thai mà cả tình trạng suy dinh dưỡng bào thai cũng làm tăng khả năng xuất hiện bệnh Đái tháo đường týp 2. Giả thuyết về gen tiết kiệm cho rằng con người có một chương trình về gen để tồn tại trong giai đoạn bị thiếu hụt năng lượng, ở người bình thường, hệ thống gen này không hoạt động. Khi cơ thể ở trong tình trạng thiếu hụt năng lượng kéo dài, hệ thống gen này được kích hoạt giúp cơ thể tiết kiệm năng lượng. Về sau, khi cơ thể có chế độ ăn đầy đủ hơn, các gen này vẫn hoạt động gây tích lũy nhiều năng lượng dự trữ, gây ra các rối loạn chuyển hóa; đó là một trong các nguy cơ xuất hiện bệnh Đái tháo đường .

Dưới sự tác động của các yếu tố môi trường như: chế độ ăn nhiều lipid, ít vận động thể lực, béo phì…có thể làm xuất hiện hoặc làm tăng sức đề kháng của các cơ quan đích (tế bào cơ vân, gan, mô mỡ) với insulin ở những người có yếu tố gen quyết định . Sự kháng insulin ở cơ quan đích (giảm dung nạp glucose) sẽ dẫn tới hậu quả là tăng đường máu và một loạt các rối loạn chuyển hóa khác. Ở giai đoạn sớm của sự đề kháng, tuyến tụy tăng sản xuất insulin để bù đắp lại tình trạng hoạt động kém hiệu quả của hormone này. Sự tăng đường máu liên tục cùng với rối loạn chuyển hóa lipid sẽ dẫn tới tình trạng bị ngộ độc của tế bào beta tụy, từ đó làm tổn thương và suy giảm chức năng của tế bào beta, lượng insulin được bài tiết ngày càng suy giảm trong khi tình trạng kháng insulin ở mô đích lại ngày càng tăng. Khi cơ thể không còn khả năng bù được tình trạng kháng insulin hoặc khi chức năng của tế bào beta không còn đáp ứng được nhu cầu về insulin của cơ thể thì bệnh Đái tháo đường týp 2 bắt đầu xuất hiện.

Những hiểu biết này cho thấy, bệnh Đái tháo đường sẽ không xuất hiện nếu như không có sự đề kháng insulin và/hoặc không có tổn thương dẫn tới suy giảm chức năng của tế bào beta tụy. Như vậy, nếu tác động sớm vào các yếu tố môi trường từ khi chưa hoặc mới xuất hiện tình tạng kháng insulin, suy giảm bài tiết insulin thì hoàn toàn có thể ngăn chặn sự xuất hiện hoặc làm chậm quá trình tiến triển thành bệnh Đái tháo đường týp 2.