Blog Trang 577

Trẻ bị đau ngứa hậu môn – Nguyên nhân, hướng xử lý

Những nguyên nhân gây khó chịu ở hậu môn đối với trẻ em bao gồm táo bón, vệ sinh kém, và giun kim. Cảm giác đau khi đi ngoài có thể dẫn tới táo bón và một chỗ nứt hậu môn – vết rách gây đau ở niêm mạc lót trong hậu môn, điều này thường dẫn tới táo bón thêm vì giữ phân lại bên trong và do đau (bé không dám đi cấu). Với nhiều trẻ, ngứa do giun kim, dữ dội nhất vào ban đêm, cũng khó chịu như táo bón hay nứt hậu môn. Gãi vào chỗ ngứa sẽ làm cho da bị kích ứng hơn nữa và tăng nguy cơ nhiễm trùng. Nhiễm viêm cẩu có thể gây viêm da với hiện tượng tấy đỏ và cảm giác khó chịu vô cùng quanh hậu môn.

Những nguyên nhân nghiêm trọng của đau hậu môn không phổ biến, bệnh trĩ cũng vậy. Dù phổ biến, bất tiện và ít nghiêm trọng hơn ở người lớn, bệnh trĩ có thể là triệu chứng của một căn bệnh nghiêm trọng hơn ở trẻ em.

Hãy nhớ để ý tới bất cứ hiện tượng bẩm dập nào quanh hậu môn. Hiện tượng này tăng khả năng là trẻ đã bị lạm dụng tình dục, nhất là nếu trẻ ngần ngại nói lý do bị bầm và khó chịu.

Kiểm soát giun kim

Giun kim được tìm thấy ở khắp nơi, ở mọi lứa tuổi và mức độ kinh tế. Đặc biệt phổ biến ở trẻ em, giun kim rất dễ truyền từ trẻ này sang trẻ khác ở trung tâm chăm sóc trẻ và ở trường. Nhiễm giun rất phiền toái nhưng vô hại, dù giun kim có thể mang vi khuẩn trong phân tới đường sinh dục nữ và gây viêm âm đạo.

Trẻ ăn phải trứng giun kim trong móng tay, trên quần áo hay chăn nệm, hoặc bụi trong nhà. Trứng nở trong dạ dày và ấu trùng xâm nhập vào ruột, ở đó, chúng phát triển thành những con giun màu trắng dài khoảng 1 cm. Về đêm, giun cái đẻ trứng gần hậu môn của trẻ. Trẻ gãi chỗ ngứa, điều này khiến móng tay bé dính nhiều trứng giun hơn – khi trẻ lại ăn phải chúng hoặc đưa chúng tới nơi chúng sẽ tìm được cách đến với vật chủ mới.

Nếu con bạn bị ngứa, thường xuyên ngọ ngoạy, hoặc khó ngủ, hãy ấn băng dính vào phần da quanh hậu môn vào buổi sáng, rồi bỏ nó ra. Đưa băng dính đó cho bác sĩ nhi; trứng và giun dính vào đó sẽ xác nhận chẩn đoán.

Giun kim có thể bị tiệu diệt bằng một thời gian dùng thuốc ngắn. Do hiện tượng tái nhiễm rất phổ biến, nên việc điều trị có thể cần phải được lặp lại đều đặn. Giặt chăn ga và quần áo bằng nước nóng để loại bỏ trứng và ngăn giun kim lan rộng.

Nói chuyện với bác sĩ nhi nếu con bạn bị:

  • Đau và chảy máu hậu môn
  • Táo bón nặng và khó chịu ở hậu môn
  • Trĩ
  • Ngứa, dữ dội hơn về đêm
  • Đau, mẩn đỏ ở hậu môn
  • Bầm dập gần hậu môn.

CẢNH BÁO!

Nứt hậu môn sẽ không tự lành trừ khi các biện pháp được áp dụng để làm mềm phân cứng do phân cứng làm rách hậu môn. Quá trình lành lại có thể mất hàng tuần. Có thể cần tới sự giúp đỡ của bác sĩ nhi để bé thôi nhịn đi ngoài và học cách phản ứng với cảm giác muốn đi đại tiện.

MỐI BẬN TÂM CỦA BẠN NGUYÊN NHÂN CÓ THỂ CÓ HÀNH ĐỘNG CẦN THỰC HIỆN
Con bạn bị đau mỗi khi đi đại tiện và kéo dài sau đó vài phút. Có máu tươi trong giấy vệ sinh, trên phân hoặc trong bồn cầu. Nứt hậu môn. Nói chuyện với bác sĩ nhi, họ có thể khám hậu môn. Phần lớn các trường hợp nứt hậu môn xuất hiện khi đang tống phân cứng ra ngoài. Cách điều trị có thể liên quan tới thuốc làm mềm phân để phá vòng luẩn quẩn phân bị cứng, rách, nhịn đại tiện, và dùng kem bôi tại chỗ để bảo vệ da.
Con bạn dùng khăn ướt sau khi đi vệ sinh và bị kích ứng ở vùng da quanh hậu môn. Lạm dụng khăn ướt. Ngay cả những loại khăn có đé nhãn “dành cho da nhạy cảm” cũng có thể gây kích ứng. Hãy giảm thiểu việc sử dụng khăn ướt và khuyến khích tắm bằng nước lã thường xuyên để củng cố độ ẩm và sự khỏe khoắn cho da.
Con bạn hay bồn chồn và gãi hậu môn. Cảm giác ngứa tăng lên về đêm. Có giun màu tráng, giống sợi chỉ, dài hơn 1 cm ngọ ngoạy trong phân của bé. Giun kim. Nói chuyện với bác sĩ nhi, họ sẽ khám cho bé để xác nhận chẩn đoán và đưa ra cách đléu trị phù hợp. Hỏi xem những thành viên khác trong gia đình có ai bị giun kim hay không để phòng ngừa việc nhiễm giun lan rộng.
Con bạn bị chảy máu không đau ở hậu môn. Ngoài ra, bé vẫn khỏe mạnh và hoạt bát. Polyp dạng viêm.

Túi thừa Meckel, một túi ở trong ruột non (ở phẩn ruột hổi).

Nói chuyện với bác sĩ nhi, họ sẽ khám cho bé để xác định liệu có phải chảy máu do polyp hay không và có nên chuyển sang một chuyên gia khác hay không.
Trực tràng của con bạn lồi ra ngoài qua hậu môn và vân ở ngoài sau khi đi đại tiện. Bé rặn mạnh đi vệ sinh. Trước đó bé đã được chẩn đoán một căn bệnh mãn tính, như xơ nang. Sa trực tràng (sa lối). Nếu bé không bị đau, hãy quấn giấy vệ sinh vào ngón tay và ấn trực tràng trở lại vị trí của nó. (Những mẩu giấy vệ sinh còn dính lại sẽ đi ra ngoài theo đường phân). Nếu con bạn thấy khó mà không rặn, hãy gợi ý bé đặt chân lên ghế khi ngồi trên bồn cầu.Thuốc làm mềm phân có thể hỗ trợ. Hãy nói chuyện với bác sĩ nhi nếu hiện tượng này xảy ra thường xuyên, hay nếu nó tấy hoặc chảy máu.
Con bạn đang tập đi hoặc ở tuổi mẫu giáo, bé bước đi cực kỳ khác lạ và cho thấy các triệu chứng đau hậu môn. Bé từ chối gợi ý sử dụng bô hay nhà tâm. Bạn thấy gì đó trong trực tràng. Vật lạ trong trực tràng (trí tò mò tự nhiên của bé). Gọi bác sĩ nhi, họ sẽ khám cho bé và xác định vật lạ. Đôi khi có thể để một vật nhỏ tự ra ngoài; nếu nó to, sắc hoặc nguy hiểm, bác sĩ nhi sẽ giới thiệu bạn tới một chuyên gia khác ngay lập tức.
Con bạn bị đau, sưng đỏ hoặc “mụn” gần hậu môn. Áp xe hoặc lô rò quanh hậu môn.

Bệnh Crohn.

Nói chuyện với bác sĩ nhi, họ sẽ khám cho bé để xác định có cần điều trị hay không.

Tôi có cần phẫu thuật cho bệnh phì đại tuyến tiền liệt lành tính không?

Thuốc có thể giúp hầu hết nam giới bị phì đại tuyến tiền liệt, nhưng đối với một số người, chúng có thể không đủ để làm giảm các triệu chứng như dòng nước tiểu yếu và rò rỉ.

Khi bạn là một trong những người đó, bạn có những lựa chọn phẫu thuật để điều trị bệnh phì đại tuyến tiền liệt lành tính, hay còn gọi là BPH.

5 câu hỏi cần hỏi trước khi phẫu thuật

Khi bạn suy nghĩ về các lựa chọn phẫu thuật, hãy hỏi bác sĩ những câu hỏi này:

  1. Liệu có khả năng tốt rằng tình trạng của tôi sẽ được cải thiện không?
  2. Nó sẽ cải thiện bao nhiêu?
  3. Những khả năng nào có thể xảy ra từ việc điều trị?
  4. Hiệu quả sẽ kéo dài bao lâu?
  5. Tôi có cần phải thực hiện lại liệu pháp này không?

Với các công nghệ mới, bác sĩ có thể thực hiện một số phương pháp can thiệp tối thiểu với các vết cắt nhỏ (vết rạch) hoặc sử dụng các dụng cụ kiểu ống mà họ chèn vào cơ thể bạn. Những quy trình này có thể không điều trị các triệu chứng hiệu quả như các lựa chọn phẫu thuật xâm lấn hơn, nhưng chúng có thời gian hồi phục nhanh hơn, ít đau đớn hơn và rủi ro thấp hơn.

Đôi khi, phẫu thuật truyền thống và xâm lấn hơn có thể là cần thiết. Tất cả phụ thuộc vào trường hợp của bạn và những gì bạn và bác sĩ quyết định là tốt nhất cho bạn.

Bác sĩ có thể chọn giữa các phương pháp can thiệp tối thiểu, nội soi hoặc phẫu thuật mở để điều trị các triệu chứng từ vừa đến nặng. Những quy trình này cũng được sử dụng nếu các xét nghiệm cho thấy khả năng đi tiểu của bạn bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Các phương pháp can thiệp tối thiểu

Với các công nghệ mới, bác sĩ có thể sử dụng các phương pháp can thiệp tối thiểu với các vết cắt nhỏ (vết rạch) hoặc sử dụng các dụng cụ kiểu ống mà họ chèn vào niệu đạo. Chúng giảm triệu chứng của BPH tốt hơn thuốc. Các lợi ích khác bao gồm thời gian hồi phục nhanh hơn và ít đau hơn so với phẫu thuật mở truyền thống, cũng như ít rủi ro hơn. Những quy trình này không bao gồm việc cắt bỏ hoặc cắt vào tuyến tiền liệt. Bác sĩ của bạn sẽ xem xét kích thước của tuyến tiền liệt và sức khỏe tổng thể của bạn để xác định liệu phẫu thuật can thiệp tối thiểu có phù hợp với bạn hay không.

Một số loại phẫu thuật can thiệp tối thiểu bao gồm:

  • Liệu pháp hơi nước Rezūm. Một thiết bị được chèn vào niệu đạo, ống nước tiểu của bạn, và một kim nhỏ cung cấp hơi nước hoặc hơi để điều trị mô tuyến tiền liệt dư thừa. Nó thường được thực hiện trong văn phòng của bác sĩ bạn.
  • Liệu pháp vi sóng qua niệu đạo (TUMT). Quy trình không xâm lấn này sử dụng một ăng-ten vi sóng gắn vào một ống linh hoạt mà bác sĩ của bạn chèn vào bàng quang. Nhiệt từ vi sóng tiêu diệt mô tuyến tiền liệt dư thừa.
  • Hệ thống UroLift. UroLift là một thiết bị được đặt vĩnh viễn để nâng và giữ mô tuyến tiền liệt phì đại ra khỏi đường đi, vì vậy nó không còn chặn niệu đạo nữa. Quy trình này không ảnh hưởng đến chức năng tình dục. Nó thường được thực hiện bằng gây tê tại chỗ hoặc gây mê toàn thân trong văn phòng của bác sĩ, trung tâm phẫu thuật ngoại trú hoặc phòng phẫu thuật. Bệnh nhân thường trở về nhà trong ngày mà không cần ống thông.

Các phẫu thuật can thiệp tối thiểu được thực hiện dưới gây mê toàn thân bao gồm:

  • Cắt bỏ tuyến tiền liệt qua niệu đạo (TURP). Đây là phẫu thuật phổ biến nhất để điều trị BPH. Bác sĩ của bạn sẽ loại bỏ các phần của tuyến tiền liệt đang ảnh hưởng đến dòng nước tiểu của bạn. Không có sự cắt rạch và không có sẹo bên ngoài vì một ống nội soi được chèn qua niệu đạo để loại bỏ mô dư thừa. Với TURP, một số nam giới có thể gặp tình trạng gọi là “xuất tinh ngược dòng,” (xuất tinh tinh dịch vào bàng quang thay vì qua niệu đạo).
  • Cắt niệu đạo tuyến tiền liệt (TUIP). Phẫu thuật này không liên quan đến việc loại bỏ mô tuyến tiền liệt. Một vài vết cắt nhỏ được thực hiện trên tuyến tiền liệt để giảm áp lực của tuyến lên niệu đạo, giúp việc tiểu tiện dễ dàng hơn. Quy trình này là một lựa chọn cho một số nam giới, chẳng hạn như những người có tuyến tiền liệt nhỏ hơn. Với TUIP, có ít rủi ro hơn về việc xuất tinh ngược dòng so với TURP. Tuy nhiên, nó thường mang lại cho bạn cảm giác giảm triệu chứng tương đương với TURP. Một nhược điểm có thể xảy ra: Một số nam giới cần thực hiện lại TUIP. Bác sĩ quyết định sử dụng phương pháp nào chủ yếu dựa trên kích thước của tuyến tiền liệt.
  • Phẫu thuật laser. Bác sĩ sử dụng năng lượng laser để tiêu diệt mô tuyến tiền liệt và thu nhỏ tuyến. Điều này có thể không hiệu quả bằng đối với tuyến tiền liệt lớn hơn. Các quy trình laser thường mang lại cho bạn cảm giác giảm triệu chứng và lưu thông nước tiểu tốt hơn tương tự như TURP. Tuy nhiên, một số liệu pháp laser tạo ra ít tác dụng phụ hơn những liệu pháp khác và cũng giảm nguy cơ chảy máu. Cần có các nghiên cứu dài hạn để xác định liệu các liệu pháp laser có hiệu quả như TURP hay không.

Phẫu thuật xâm lấn

Có thể cần phẫu thuật xâm lấn hơn. Bạn và bác sĩ của bạn sẽ quyết định cái nào là tốt hơn cho bạn. Bác sĩ thường coi phẫu thuật xâm lấn là giải pháp lâu dài tốt nhất để giảm nhẹ các triệu chứng tiểu tiện khó chịu. Hầu hết những phẫu thuật này liên quan đến việc cắt bỏ phần phì đại của tuyến tiền liệt. Phẫu thuật thường được khuyến nghị trong điều trị các triệu chứng BPH từ vừa đến nặng dưới những điều kiện sau:

  • Bạn không thể đi tiểu chút nào.
  • Thay đổi lối sống, thuốc men hoặc các phương pháp điều trị can thiệp tối thiểu không hiệu quả với bạn.
  • Bạn thấy máu trong nước tiểu mà không được cải thiện.
  • Bạn bị sỏi bàng quang.
  • Bạn thường xuyên bị nhiễm trùng đường tiết niệu.
  • Bạn có tổn thương thận.

Các loại phẫu thuật

Các loại phẫu thuật mà bạn có thể thảo luận với bác sĩ của mình có thể bao gồm:

  • Cắt bỏ tuyến tiền liệt mở (phẫu thuật mở). Bác sĩ thường thực hiện điều này khi tuyến tiền liệt bị phì đại nghiêm trọng, khi có các biến chứng, hoặc khi bàng quang bị tổn thương và cần phải sửa chữa. Trong phẫu thuật mở, bác sĩ phẫu thuật thực hiện một vết cắt và lấy bỏ mô phì đại từ tuyến tiền liệt.
  • Cắt bỏ tuyến tiền liệt bằng nội soi và Robot. Phẫu thuật nội soi hoặc robot khác với phẫu thuật mở truyền thống bằng cách tạo ra bốn vết cắt nhỏ thay vì một vết cắt lớn để thực hiện phẫu thuật lấy bỏ mô phì đại của tuyến tiền liệt.

Những điều khác cần xem xét

Trước khi bạn thực hiện một trong những quy trình này, hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn về việc bạn sẽ được cho một cái gì đó để làm tê khu vực đó (“gây tê tại chỗ”) hay bạn sẽ được cho một cái gì đó để không tỉnh táo (“gây mê toàn thân”) trong suốt quy trình. Những gì bạn nhận được và nơi bạn thực hiện điều đó phụ thuộc vào quy trình.

Bác sĩ của bạn sẽ cung cấp cho bạn hướng dẫn về cách chuẩn bị cho bất kỳ quy trình nào trong số đó.

Phẫu thuật có thể giảm nhẹ nhiều triệu chứng BPH, nhưng có thể không làm giảm tất cả. Nếu có một số biến chứng nhất định, chẳng hạn như bàng quang yếu, có thể vẫn có vấn đề về tiểu tiện sau phẫu thuật, mặc dù điều này rất hiếm.

Với bất kỳ phẫu thuật BPH nào, có thể có tác dụng phụ hoặc biến chứng như chảy máu, hẹp niệu đạo còn gọi là hẹp niệu đạo, tiểu không kiểm soát hoặc rò rỉ, rối loạn cương dương và xuất tinh ngược dòng.

Phương pháp điều trị tốt nhất cho bệnh phì đại tuyến tiền liệt không giống nhau đối với mọi người đàn ông. Hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn về những rủi ro và lợi ích của từng quy trình.

Thuốc Adderall

Tên thương hiệu: Adderall, Adderall XR
Tên chung: amphetamine và dextroamphetamine
Nhóm thuốc: Chất kích thích

Adderall là gì và nó được sử dụng để làm gì?

Adderall là thuốc kê đơn chứa các muối amphetamine (amphetamine và dextroamphetamine) và được sử dụng để điều trị rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) và chứng ngủ rũ.

Amphetamines kích thích não bằng cách tăng mức độ các chất dẫn truyền thần kinh, dopamine và norepinephrine, trong não.

(Các chất dẫn truyền thần kinh là các hóa chất được sản xuất bởi các dây thần kinh và được giải phóng để gắn vào các dây thần kinh lân cận khác nhằm mục đích giao tiếp giữa các dây thần kinh.)

Cơ chế chính xác của amphetamine trong điều trị ADHD vẫn chưa được biết rõ.

Adderall XR là dạng giải phóng kéo dài của Adderall.

Adderall được FDA phê duyệt vào năm 1996.

Các tác dụng phụ của Adderall là gì?

Tác dụng phụ của amphetamine bao gồm kích thích quá mức hệ thần kinh, gây ra:

  • Lo lắng,
  • Bồn chồn,
  • Kích động,
  • Chóng mặt,
  • Đau đầu,
  • Mất ngủ,
  • Sợ hãi,
  • Lo âu,
  • Run,
  • Ảo giác, và
  • Co giật.

Huyết áp và nhịp tim có thể tăng, và bệnh nhân có thể trải qua cảm giác đánh trống ngực.

Các tác dụng phụ quan trọng khác bao gồm:

  • Tử vong đột ngột,
  • Đột quỵ,
  • Nhồi máu cơ tim,
  • Trầm cảm,
  • Các giai đoạn hưng cảm,
  • Hành vi hung hăng hoặc thù địch,
  • Rối loạn tâm thần,
  • Ức chế tăng trưởng (khi sử dụng lâu dài),
  • Phụ thuộc và các triệu chứng cai nghiện.

Priapism, được định nghĩa là tình trạng cương cứng dương vật kéo dài hơn 4 giờ, đã được báo cáo ở trẻ em và người lớn được điều trị bằng chất kích thích.

Sự cương cứng thường tự hết khi ngừng thuốc, tuy nhiên cần có sự can thiệp y tế kịp thời nếu nghi ngờ có tình trạng priapism.

Liều dùng của Adderall là bao nhiêu?

Adderall thường được dùng một hoặc hai lần mỗi ngày.

Các liều nên được cách nhau ít nhất 4-6 giờ.

Liều khuyến nghị từ 2,5 đến 60 mg mỗi ngày, tùy thuộc vào tuổi của bệnh nhân và tình trạng cần điều trị.

Adderall XR được dùng một lần mỗi ngày.

Liều khuyến nghị là từ 5 đến 40 mg mỗi ngày, dùng vào buổi sáng.

Toàn bộ nội dung của viên nang Adderall XR có thể được rắc lên táo nghiền và ăn ngay lập tức.
Sử dụng amphetamine vào giờ thức giấc và tránh dùng vào buổi tối để tránh mất ngủ.

Những loại thuốc nào tương tác với Adderall?

Amphetamine không nên được dùng cùng với các thuốc ức chế monoamine oxidase (MAOI) bao gồm:

  • phenelzine (Nardil),
  • tranylcypromine (Parnate), và
  • Zyvox.
    Tránh sử dụng amphetamine trong vòng 14 ngày sau khi dùng các thuốc MAOI.
    Bệnh nhân đang dùng các thuốc hạ huyết áp có thể mất khả năng kiểm soát huyết áp khi dùng amphetamine.
    Các thuốc kháng axit có thể làm tăng sự hấp thụ của muối amphetamine và làm tăng hiệu quả và tác dụng phụ của chúng.

Adderall có an toàn khi mang thai hoặc cho con bú không?

Không sử dụng amphetamine trong thời kỳ mang thai. Trẻ sơ sinh được sinh ra từ các bà mẹ phụ thuộc vào amphetamine có thể gặp các triệu chứng cai nghiện và có nguy cơ nhẹ cân.

Các bà mẹ đang dùng amphetamine không nên cho con bú vì các loại thuốc này có thể tiết ra trong sữa mẹ và có thể gây ra tác dụng không mong muốn đối với trẻ.

Những điều khác cần biết về Adderall?

Các chế phẩm của amphetamine và dextroamphetamine có sẵn:

  • Viên nén Adderall: 5, 7,5, 10, 12,5, 15, 20 và 30 mg.
  • Viên nang Adderall XR: 5, 10, 15, 20, 25 và 30 mg.

Cách bảo quản amphetamine và dextroamphetamine:

Viên nén nên được bảo quản ở nhiệt độ phòng, từ 15°C đến 30°C (59°F đến 86°F).

Tóm tắt

Adderall là một loại thuốc được kê đơn để điều trị ADHD (rối loạn tăng động giảm chú ý) và chứng ngủ rũ. Tác dụng phụ của amphetamine bao gồm kích thích quá mức hệ thần kinh, dẫn đến lo lắng, bồn chồn, kích động, chóng mặt, đau đầu, mất ngủ, sợ hãi, lo âu, run, ảo giác và co giật. Không nên dùng Adderall nếu đang mang thai hoặc cho con bú.

Viêm gan virus – Điều trị và chăm sóc

Viêm gan virus là bệnh truyền nhiễm do nhiều loại virus gây ra với hai biểu hiện chính là hoại tử và viêm nhiễm ở gan. Hiện nay ngoài 2 loại virus cổ điển là virus viêm gan A (gây viêm gan nhiễm khuẩn), và virus viêm gan B (gây viêm gan huyết thanh) còn có các virus C, D và E; năm loại virus này có cấu tạo vi thể khác nhau nhưng lại gây bệnh cảnh lâm sàng tương tự nhau.

MẦM BỆNH

Virus A (HAV) là một ARN virus không có vỏ bọc.

Virus B (HBV) là một virus có vỏ bọc, có một phần ADN đôi.

Virus c (HCV) là virus có vỏ bọc và là một trong số virus không A, không B (NANB virus).

Virus viêm gan A dễ mất hoạt tính trong nước sôi và bị diệt bởi các chất sát khuẩn.

Virus viêm gan B có thể đề kháng ở 100% trong 10 phút. Cấu tạo hoàn chỉnh là các hạt dane, hình cầu gồm có 3 loại kháng nguyên.

  • Kháng nguyên bề mặt: HBsAg (còn gọi là kháng nguyên Australia).
  • Kháng nguyên lõi: HBcAg.
  • Kháng nguyên E: HBeAg.

HBsAg có trong máu, có sốm và trong suốt thời gian bị bệnh, biến mất trong giai đoạn hồi phục, HBsAb tồn tại suốt đời.

HBcAg kích thích cơ thể bệnh nhân sinh kháng thể kháng nó: HBcAb, kháng thể này có mặt rất sớm, tồn lưu suốt đòi.

HBeAg chứng tỏ bệnh còn đang phát triển dai dẳng. Khi bệnh ngừng phát triển HBeAg biến mất, chỉ còn kháng thể HBe (BHeAb).

DỊCH TỄ

  • Viêm gan A

Đường lây quan trọng là đường tiêu hoá, virus viêm gan A theo phân người bệnh ra ngoài nhiễm vào nước, thức ăn. Bệnh phát triển ở những nơi có điều kiện sống thấp kém, thiếu vệ sinh, nước bị ô nhiễm phân.

  • Viêm gan B

Nguồn bệnh là người bệnh và người mang virus B; HBsAg được tìm thấy trong máu và các dịch sinh học (nước bọt, nước mắt, tinh dịch, sữa mẹ, nước tiểu…). Bệnh lây truyền qua các đường sau.

  1. Máu: Truyền máu, các thủ thuật y khoa không đảm bảo vô khuẩn (châm cứu, nhổ răng, tiêm…).
  2. Qua đường tình dục.
  3. Sữa mẹ.

Bệnh phát triển ở các nhóm có nguy cơ và các nơi có điều kiện sống thấp kém, tập quán sống thiếu vệ sinh.

  • Viêm gan C

Gặp ở những người được truyền máu (viêm gan không A không B).

  • Viêm gan D

Virus viêm gan D cần virus viêm gan B để phát triển nền luôn luôn người ta thấy nó trong huyết thanh bệnh nhân có HBsAg.

Viêm gan D gặp ở những người chích ma tuý, truyền máu nhiều lần…

  • Viêm gan E

Xảy ra thành những vụ dịch viêm gan không A, không B có liên quan đến nguồn nước bị ô nhiễm. Bệnh phổ biến ở những nước đang phát triển .

BỆNH SINH

Đây là vấn đề y học còn đang tìm hiểu. Có lẽ virus tăng sinh ở ruột và chuyển lên gan qua đường máu. Virus có xâm nhập tế bào gan, nhưng cơ chế gây tổn thương thì chưa rõ. Hình ảnh viêm gan do các loại virus đều giống nhau. IgM xuất hiện sớm, 1-3 tuần sau khi có IgM và kháng thể này bảo vệ bệnh nhân suốt đời.

TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG

Ủ bệnh

  • Thay đổi tuỳ loại virus:

+ Viêm gan A: 15-45 ngày.

+ Viêm gan B: 30-180 ngày.

+ Viêm gan C: 15-150 ngày.

+ Viêm gan E: 15-60 ngày.                                                               ‘

+ Viêm gan D: Luôn luôn liên kết với viêm gan A nên thời gian ủ bệnh xem như tương tự.

Khởi phát: (Thời kỳ trước vàng da) 3-5 ngày.

Hội chứng nhiễm:

Sốt 38-38°5, khoảng 2-3 ngày.

Mệt mỏi, uể oải.

Hội chứng đau:

Đau nhức đầu, cổ, thái dương, có thể có dấu hiệu màng não, cổ cứng và biến đổi dịch não tuỷ.

Đau khớp: hết đau khi vàng da xuất hiện.

Hội chứng tiêu hoá:

Chán ăn: Là dấu hiệu quan trọng.

Nôn, đắng miệng, bụng chướng.

Đau hạ sườn phải, cảm giác căng, nước tiểu ít, nước tiểu sẫm màu.

ít gặp: Ngứa, có ban đỏ, sưng hạch.

Toàn phát: Thời kỳ vàng da từ 2-3 tuần.

Các triệu chứng cơ năng giảm đi.

Vàng da xuất hiện, chỉ trong một hai ngày, da và niêm mạc bị nhuộm vàng sẫm.

Ngứa không kéo dài.

Gan to: Đau tức tăng lên khi gõ, ấn vào; có thể gặp lách to.

Phân trắng hạt.

Nước tiểu sẫm màu, ít.

Hồi phục (sau vàng da 10 ngày).

  • Triệu chứng tiêu hoá giảm nhanh.
  • Triệu chứng vàng da giảm chậm hơn.

Sau 6 tháng hoàn toàn bình phục.

Diễn biến:

  • Đa số tốt, diễn biến sau 1 tháng, không di chứng.
  • Một số trường hợp đưa đến thể nặng.
  • Suy gan, rối loạn đông máu – xuất huyết.
  • Hôn mê gan do suy gan cấp.
  • Vàng da kéo dài – viêm gan mạn tính đưa đến tử vong.

CHẨN ĐOÁN

Dựa vào các yếu tố sau:

  • Dịch tế học (+).
  • Lâm sàng

Trước vàng da: mệt mỏi uể oải, chán ăn…

Vàng da, gan to.

  • Xét nghiệm

Chức năng gan:

Bilirubin huyết thanh tăng từ 2-> 2,5 mg%.

Transaminase tăng cao từ cuối thời kỳ ủ bệnh.

Phosphatase kiềm tăng ít.

Thời gian prothombin thường không thay đổi, kéo dài trong các thể nặng.

Stercobilinogen trong phân âm tính trong giai đoạn toàn phát, dương tính trong giai đoạn hồi phục.

Đặc hiệu:

Tìm virus trong phân.

Tìm kháng thể trong máu.

ĐIỀU TRỊ

Chưa có thuốc đặc trị, tất cả mọi biện pháp điều trị chỉ nhằm giải quyết triệu chứng, nâng cao thể trạng và tránh các biến chứng.

Nghỉ ngơi, dinh dướng đầy đủ (nhiều đạm, nhiều đường, ít mỡ).

Tránh những thuốc có hại cho gan.

Theo dõi các dấu hiệu suy gan.

DỰ PHÒNG

Kiểm tra kỹ khâu cho máu, tiệt trùng y cụ.

Cho bệnh nhân nằm phòng riêng, chú ý khi tiếp xúc với các dịch sinh học của họ.

Tiêm vaccin cho người có nguy cơ nhiễm cao.

Vệ sinh dinh dưỡng.

Vệ sinh thực phẩm.

Giáo dục sức khoẻ.

CHĂM SÓC BỆNH NHÂN BỊ VIÊM GAN VIRUS

Nhận định

  1. Tình trạng hô hấp:

Quan sát da, móng tay chân, đếm nhịp thở, kiểu thở, tình trạng tăng tiết.

Nếu bệnh nhân suy hô hấp cần tìm mọi biện pháp dẫn lưu hô hấp thông khí, cho thở oxy.

Trường hợp viêm gan nặng diễn tiến tối cấp gây suy hô hấp.

  1. Tình trạng tuần hoàn:
  • Mạch.
  • Huyết áp.
  • Cần theo dõi mạch, huyết áp 30phút/l lần, 1 giờ/ 1 lần, 3 giờ/ 1 lần.
  • Viêm gan nặng tối cấp gây suy tuần hoàn trong trưòng hợp xuất huyết tiêu hoá.
  • Theo dõi biến chứng cơ tim.
  1. Tình trạng vàng da:
  • Thời kỳ tiền vàng da.

+ Triệu chứng nhiễm trùng.

+ Triệu chứng tiêu hoá.

+ Triệu chứng suy nhược.

Tuỳ từng loại viêm gan:

  1. Viêm gan A.
  2. Viêm gan B.
  3. Viêm gan
  4. Viêm gan D.
  5. Viêm gan E.

Đánh giá mức độ vàng da và sự tổn thương của gan.

  • Thời kỳ vàng da:

+ Các triệu chứng trên giảm dần nhưng vàng da tăng lên.

+ Gan to.

+ Trẻ em gan to hơn và có thể có lách to.

  1. Tình trạng chung:
  • Nhiệt độ (sốt nhẹ).
  • Nước tiểu sẫm màu, lượng nước tiểu / 24 giờ.
  • Ý thức, vận động: Có biểu hiện tiền hôn mê gan không ?
  • Dấu hiệu xuất huyết da, niêm mạc.
  • Xét nghiệm.

Yêu cầu dinh dưỡng: Có thể cho bệnh nhân ăn bằng đường miệng không?

Có kế hoạch chăm sóc thích hợp để thực hiện kịp thời, chính xác, đầy đủ các xét nghiệm cơ bản.

Nếu bệnh nhân hôn mê phải cho ăn qua ông thông dạ dày.

Lập kế hoạch chăm sóc

Bảo đảm thông khí.

Theo dõi tuần hoàn

Theo dõi các biến chứng.

Thực hiện các y lệnh của bác sĩ.

Chăm sóc các hệ thống cơ quan.

Nuôi dưỡng.

Giáo dục sức khoẻ.

Thực hiện kế hoạch chăm sóc

Bảo đảm thông khí:

Đặt bệnh nhân nằm ngửa đầu nghiêng một bên.

Cho thở Oxy.

Theo dõi nhịp thỏ, tình trạng tăng tiết.

Đề phòng hít phải chất nôn, chất xuất tiết.

Tuỳ từng tình trạng bệnh nhân.

Theo dõi tuần hoàn:

Lấy mạch, huyết áp, nhiệt độ ngay khi tiếp nhận bệnh nhân.

Chuẩn bị dịch truyền, dụng cụ truyền dịch, thuốc nâng huyết áp (nếu cần để thực hiện y lệnh bác sĩ).

Theo dõi sát mạch, huyết áp 30phút/ 1 lần, 1 giò/ 1 lần, 3 giò/ 1 lần.

Theo dõi các biến chứng:

Viêm gan tối cấp.

Theo dõi màu sắc da, nốt xuất

Viêm gan mạn tính. huyết trên da.

Các biến chứng khác.

Theo dõi giấc ngủ.

Viêm cơ tim.

Viêm tuỵ.

Viêm tuỷ cắt ngang.

Liệt dây thần kinh ngoại biên.

Theo dõi mức độ vàng da, màu sắc phân, nước tiểu và lượng nước tiểu 24 giờ.

Thực hiện các y lệnh chính xác đầy đủ:

  • Thuốc: lợi gan, mật.
  • Các xét nghiệm máu:

+ Transaminase.

+ Bilirubin.

+ Thời gian prothrombin cho đến khi khỏi bệnh có HBsAg (+) kiểm tra định kỳ 1-2 tháng cho đến khi (-).

+ Xét nghiệm nước tiểu.

Chăm sóc các hệ thống cơ quan:

  • Chăm sóc bệnh nhân chán ăn, có nôn nhiều : Vệ sinh răng miệng.
  • Chăm sóc bệnh nhân có ngứa phải vệ sinh da: Tắm nước ấm, giữ cho da không loét.
  • Cho nằm phòng riêng, có phòng vệ sinh riêng. Dụng cụ tiêm chích nên dùng đồ nhựa và bỏ đi sau mỗi lần tiêm.
  • Tẩy uế các chất bài tiết: Nước tiểu, phân, dòm…
  • Nuôi dưỡng:

+ Hạn chế khẩu phần dinh dưỡng không cần thiết trong viêm gan virus cấp.

+ Giai đoạn có triệu chứng cho ăn nhiều lần, mỗi lần một ít.

+ Án nhiều đạm nhiều đường, . ít mỡ.

– Sáng cho ăn nhiều, chiều cho ăn ít.

+ Cần ăn trái cây tươi để cung cấp vitamin liều cao và đủ năng lượng như chuối.

+ Kiêng rượu 6 tháng.

– Vì gan bị tổn thương.

+ Viêm gan tối cấp có phù sử dụng thuốc lợi tiểu phải chú ý bổ sung kali, tốt nhất là sử dụng lợi tiểu giữ kali. Bệnh nhân nặng không ăn uống được phải nuôi dưỡng bằng dịch truyền ưu trương, đặc biệt các bệnh nhân bị nôn nhiều mất • nước hoặc bệnh nhân hôn mê phải cho ăn qua thông dạ dày.

– Vì rối loạn điện giải dễ đưa đến hôn mê gan.

Giáo dục sức khoẻ:

Ngay khi bệnh nhân mới vào, phải hướng dẫn nội quy khoa phòng cho bệnh nhân (nếu tỉnh) và thân nhân của bệnh nhân.

Thức ăn uống còn thừa phải đổ đi.

Các đồ dùng cá nhân phải được tiệt trùng trước khi dùng lại.

Thuốc có chuyển hoá ở gan không được sử dụng như: thuốc ngừa thai, erythromycin, tetracyclin, an thần.

Dặn thân nhân theo dõi bệnh nhân có dấu hiệu nặng: Phù nhanh, rối loạn nhịp độ giấc ngủ hoặc ngủ gà, lơ mơ tới mê, hơi thở bệnh nhân có mùi aceton, phải báo cáo bác sĩ ngay.

Xuất viện cho làm việc nhẹ đến khi xét nghiệm máu trở về bình thường.

– Giai đoạn tiền hôn mê gan còn có thể điều trị được, để bệnh nhân rơi vào hôn mê gan rất khó hy vọng.

Đánh giá

Ăn ngủ được nhưng mệt mỏi kéo dài.

Vàng da giảm dần.

Bệnh nhân không được điều trị tích cực và không khám lại theo lời dặn bác sỹ, các triệu chứng lâm sàng vẫn tồn tại, có rối loạn về sinh học sẽ dễ thành viêm gan mạn tính.

Đục thủy tinh thể và các phương pháp mổ điều trị

Bệnh  thủy tinh thể là bệnh mờ đục thủy tinh thể. Hiện nay chưa có thuốc nào chứng tỏ có thể ngăn chặn hoặc trì hoãn được tiến triển đục thủy tinh thể mà hậu quả đưa đến mù lòa.

HIỆN NAY :

  1. Lấy thủy tinh thể trong bao : Thủy tinh thể lệch, sa…
  2. Lấy thủy tinh thể ngoài bao không đặt thủy tinh thể nhân tạo do Glaucome đục thủy tinh thể
  3. Lấy thủy tinh thể ngoài bao có đặt thủy tinh thể nhân tạo trong các ca Glaucome đục thủy tinh thể.
  4. Phẫu thuật làm nhuyễn thuỷ tinh thể bằng máy

MỔ LẤY THỦY TINH THỂ TRONG BAO

MỤC ĐÍCH :

Loại bỏ  thủy tinh thể đục ra ngoài nhản cầu đó là giải phóng lỗ đồng tử, tạo điều kiện cho ánh sáng vào võng mạc.

Nếu tiến hành phẫu thuật thuận lợi, các điều kiện của mắt được mổ còn tốt thì thị lực sẽ tăng.

CHỈ ĐỊNH :

NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ MỔ :

Ở mắt :

Thị lực tối thiểu còn phải nhận được ánh sáng.

  • Hướng ánh sáng còn tốt.
  • Phản xạ ánh sáng trực tiếp (+) và nhạy.
  • Nếu nghi ngờ đục dịch kính hay có vấn đề võng mạc nên siêu âm.
  • Mắt không bị viêm nhiễm. Nếu có phải điều trị cho ổn định trước lúc mổ.
  • Nhãn áp trong mức sinh lý ≤ Nếu NA cao hoặc thấp phải theo dõi cân nhắc các bệnh lý mắt (nếu có) trước khi mổ.

Toàn thân

  • Huyết áp trong giới hạn bình thường ≤ 140/90mmHg. Nếu cao hơn phải theo dõi và điều trị, cân nhắc trước mổ.
  • Tâm thần kinh ổn định.
  • Không có viêm nhiễm cấp tính : Tim, Phổi, thận, dạ dày,.. hoặc các bệnh gây hắc hơi, nôn, rặn… cũng như cơn hen, dị ứng mũi, rối loạn tiêu hóa,…
  • Đường huyết dưới 6,1 mmlo/lít lúc đói và cân nhắc tổn thương võng mạc tiểu đường (nếu có).

MỔ LÚC NÀO

  • Tùy thuộc vào yêu cầu của người bệnh như nghề nghiệp, hoạt động thường ngày của họ và tùy thuộc vào khả năng của phẫu thuật viên tiên lượng về thị giác mắt sau mổ bao gồm các phương pháp mổ có đặt hay không đặt thủy tinh thể nhân tạo.
  • Ở mắt thủy tinh thể đục hoàn toàn, dây Zinn lỏng lẻo dễ thực hiện trong Nếu đục chưa hoàn toàn dây Zinn chắc phải thận trọng cân nhắc lực dây Zinn cao hơn lực của bao thể thủy tinh. Nếu đục quá chín, võ bao mỏng thận trọng vì dễ rách bao, nên chọn kỹ thuật thích hợp lấy trong hay ngoài bao để đảm bảo an toàn cho người bệnh.

CHUẨN BỊ CHO BỆNH NHÂN :

Trước mổ :

  • Khám tổng quát, các xét nghiệm thường quy: công thức máu, nước tiểu, glycemie, HbA1c (nếu có tiền sử đái tháo đường), ECG, siêu âm mắt A, đo javal kế, đo nhãn áp.
  • Khám mắt tổng quát cùng các phương tiện lâm sàng cần thiết.
  • Dùng kháng sinh nhỏ mắt.
  • Giải thích cho người bệnh và người nhà về mục đích, về tiêu lượng, về chăm sóc sau mổ.
  • Nếu bệnh nhân khó ngủ nên cho an thần đêm trước mổ.
  • Cắt lông mi, vệ sinh mặt, thân thể.

Trong mổ :

  • Trước 02 giờ uống hạ nhãn áp Acetazolamide 250mg/02 viên.
  • Thuốc Mydriacyl 01% nhỏ mắt.

KỸ THUẬT :

Gây tê :

  • Tại chỗ : Dicaine 01%.
  • Gây tê : Cạnh nhãn cầu hoặc hậu nhãn cầu hoặc O’Brien. Trường hợp mắt căng có thể ấn nhãn cầu bằng tay hoặc bằng cân.

Dụng cụ mổ :

Các thì phẫu thuật :

  • Đặt vành mi : tốt nhất là loại mềm.
  • Cố định cơ trực trên (nếu cần) bằng chỉ 5-0
  • Tạo đường hầm kết củng giác mạc ổ cực trên 120o – 180o . Nếu làm phía thái dương sẽ giảm bớt độ loạn thị là 01o sau mổ bằng dao Paker 15 hoặc
  • Đặt chỉ an toàn 8,0.
  • Cắt mống chu biên ở 12 giờ bằng
  • Lấy thủy tinh thể bằng :

+ Đông lạnh.

+ Giác hút, Silicagen.

+ Phương pháp lực đối lực.

  • Rửa tiền phòng nếu cần.
  • Bơm hơi sau khi đóng tiền phòng từ 02 – 04 mũi nốt bằng chỉ 9,0 hoặc 10,0.

MỔ LẤY THỦY TINH THỂ NGOÀI BAO

Đây là phẫu thuật hiện đại với các dụng cụ vi phẫu, kính hiển vi phẫu thuật. Có nhiều ưu điểm ít lay động nội nhãn hơn lấy trong bao.

CHỈ ĐỊNH LẤY THỦY TINH THỂ NGOÀI BAO :

  1. Đục thủy tinh thể trên mắt cận thị nặng.
  2. Đục thủy tinh thể trên mắt
  3. Đục thủy tinh thể kèm theo tổn thương giác mạc.
  4. Đục thủy tinh thể kèm theo bong võng mạc trên bệnh nhân tiểu đường.
  5. Đục thủy tinh thể các giai đoạn.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH :

  1. Đục và lệch thủy tinh thể: tương đối.
  2. Đục thủy tinh thể trên viêm màng bồ đào tiến triển.

KỸ THUẬT :

  1. Gây tê cạnh cầu, hậu cầu, O’Brien.
  2. Cố định cơ trực trên.
  3. Mở giác mạc cực trên hoặc thái dương : 120o – 180o đường hầm tùy thể tích thủy tinh thể.
  4. Phá bao trước thủy tinh thể : bằng kim hoặc kẹp phá
    • Phá bao hình tan, hay mở nắp hộp.
    • Phá bao hình vòng liên tục.
  5. Tách bao khỏi chất nhân bằng kim
  6. Mở rộng đường cắt giác mạc ở trên cho thủng tiền phòng hoàn toàn.
  7. Dùng kim Simcol tách nhân cho bán trật khớp ra tiền phòng.
  8. Lấy nhân bằng Anse Snellen và móc lát.
  9. Cắt mống mắt chu biên : tùy tác giả có thể cắt hoặc không.
  10. Dùng kim Simcol hút rửa chất Cortex còn xót lại.

CHỈ ĐỊNH ĐẶT  THỦY TINH THỂ NHÂN TẠO (IOL) :

  • Mổ ngoài bao và đặt hậu phòng.
  • Nếu rách bao sau phải đặt tiền phòng hoặc dùng loại IOL cố định củng mạc.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH (IOL) :

  1. Mắt độc nhất.
  2. Mắt cận thị nặng, mắt viêm màng bồ đào, Glaucome mạn tính bằng tương đối.
  3. Mắt trẻ
  4. Bong võng mạc, xuất huyết, tổn thương hoàng điểm.
  5. Tiền phòng có thể pha lê.
  6. Giác mạc thoái hóa,tế bào nội mô, 1000/2mm.
  7. Bệnh nhân không có điều kiện tái khám.
  8. Một số bệnh toàn thân : thấp khớp,…
  9. Đục thủy tinh thể một mắt, mắt còn lại thị lực
  10. Đục thủy tinh thể kèm Glaucome : tùy trường hợp.

XÁC ĐỊNH CÔNG SUẤT THỦY TINH THỂ :

1. Dựa vào các số liệu đã có : X ( Số độ mang):

IOL = 18+ (X x 1.25).

2. Siêu âm A :

  • Khúc xạ giác mạc.
  • Trục nhãn cầu.

3. SRK II : (Sanders, Reclaf, Hlart) :

 

P = A – 2,5L – 0,9L

A L K =

=

=

116.8

Chiều dài trục nhãn cầu ( 22 – 23) Khúc xạ giác mạc ( 43 – 44 )

Nếu L = 22.
K L =

=

44         P = ± 22

23 -> P            =± 20.5

PHẪU THUẬT LÀM NHUYỄN THUỶ TINH THỂ BẰNG MÁY PHACO

CHUẨN BỊ CHO BỆNH NHÂN :

Trước mổ :

  • Khám tổng quát, các xét nghiệm thường quy: công thức máu, nước tiểu, glycemie, HbA1c (nếu có tiền sử đái tháo đường), ECG, siêu âm mắt A, đo javal kế, đo nhãn áp, TCK
  • Khám mắt tổng quát cùng các phương tiện lâm sàng cần thiết.
  • Dùng kháng sinh nhỏ mắt.
  • Giải thích cho người bệnh và người nhà về mục đích, về tiêu lượng, về chăm sóc sau mổ.
  • Nếu bệnh nhân khó ngủ nên cho an thần đêm trước mổ.
  • Cắt lông mi, vệ sinh mặt, thân thể.

Trong mổ :

  • Trước 02 giờ uống hạ nhãn áp Acetazolamide 250mg/02 viên.
  • Thuốc Mydriacyl 01% nhỏ mắt.

Kỹ thuật:

Rạch giác mạc vùng rìa phía thái dương nhỏ 3mm, thủy tách nhân TTT, đưa đầu Phaco vào qua vết rạch, đầu này sẽ truyền sóng siêu âm phá vỡ TTT thành nhiều mãnh nhỏ rồi hút ra sạch hết, giữ bao sau lại để đặt kính, bơm chất nhày vào đặt kính mềm( thủy tinh thể nhân tạo) đóng giác mạc, bơm kháng sinh vào tiền phòng.

Các nguyên nhân Viêm màng não (Meningitis)

Một số phân loại thông thường:

Tuỳ theo mục đích, có rất nhiều cách phân loại viêm màng não (Viêm màng não) khác nhau. Dưới đây là một số cách phân loại thường sử dụng

Phân loại theo căn nguyên:

  • Viêm màng não do vi khuẩn (Viêm màng não mủ): nhiều loại vi khuẩn có thể gây Viêm màng não mủ. Các vi khuẩn thường gặp là: màng não cầu (Meningococci), phế cầu (Streptococcus pneumoniae), influenzae, tụ cầu (Staphylococci), E. coli, liên cầu nhóm B (Streptococcus nhóm B)…
  • Viêm màng não do lao
  • Viêm màng não do Virut: nhiều loại virut có thể gây Viêm màng não: virut quai bị, sởi, các virut Arbo, Coxackie, ECHO, Herpes, EBV, HIV…
  • Viêm màng não do ký sinh trùng: nhiều loại ký sinh trùng có thể gây Viêm màng não, song bệnh cảnh thường gặp là kết hợp viêm não – màng não. Các loại ký sinh trùng thường gặp là: các loại amip, Toxoplasma, Tripanosoma, ký sinh trùng sốt rét, giun xoắn…
  • Viêm màng não do nấm, như nấm Cryptococcus ..
  • Viêm màng não do Rickettsia.
  • Viêm màng não do các căn nguyên khác, như căn nguyên do thuốc (thuốc gây tê tuỷ sống, gây tê ngoài màng cứng, thuốc ..); các bệnh lý u não, xuất huyết dưới nhện, bệnh não do chì v.v… có biểu hiện giống Viêm màng não.

Trên thực tế lâm sàng, Viêm màng não mủ (do vi khuẩn) và Viêm màng não lao được chú ý nhất.

Phân loại theo màu sắc dịch não tuỷ:

  • Viêm màng não mủ.
  • Viêm màng não nước trong (Viêm màng não thanh dịch)…

Phân loại theo loại tế bào chiếm đa số trong dịch não tuỷ:

  • Viêm màng não tăng bạch cầu đa nhân (neutrophil – gặp trong Viêm màng não do vi khuẩn).
  • Viêm màng não tăng tế bào limpho (gặp trong Viêm màng não do lao, Viêm màng não do virut, Viêm màng não do vi khuẩn đã điều trị…).
  • Viêm màng não tăng tế bào ái toan (eosinophil).
  • Viêm màng não tiên phát.

Phân loại theo cơ chế bệnh sinh:

  • Viêm màng não thứ phát (sau nhiễm khuẩn tại chỗ, nhiễm khuẩn huyết…).

Bảng phân loại ứng dụng:

Trong thực tế lâm sàng, người ta thường phân loại các căn nguyên gây Viêm màng não theo các dạng hình thái của dịch não tuỷ. Bảng phân loại dưới đây thường được ứng dụng trong chẩn đoán lâm sàng.

Bảng phân loại căn nguyên Viêm màng não theo các dạng hình thái dịch não tuỷ:

DNT Bạch cầu (/ml) Glucoza (mmol/l) Protein (g/l) Căn nguyên thường gặp
Bình thường < 5(toàn là đơn nhân) 2,8 – 4,2 hay> 40%

glucoza máu

< 0,5
A 1000 -10000(90%

đa nhân)

thấp, rất thấp 1 – 5 –  Viêm màng não do vi khuẩn.-  áp xe não vỡ.

–  áp xe não – màng não do Amip.

B 25 – 500(đơn nhân, sớm có thể

đa nhân)

thấp hoặc bình thường 0,5 – 4 Viêm màng não dạng u hạt, do:-  Lao.

–  Nấm.

 

 

 

 

C

 

 

 

5 – 1000

(đơn nhân, sớm có thể

đa nhân)

 

 

 

Bình thường, hiếm khi thấp

 

 

 

 

< 1

–  Viêm màng não do virut (quai bị, Coxackie, ECHO, Arbo,…).-  Nhiễm khuẩn cạnh màng não (áp xe não, áp xe ngoài màng cứng của não hoặc tuỷ, nhiễm khuẩn huyết khối não, viêm tai, viêm xoang, viêm thành sau họng…)

–  Các nhiễm khuẩn khác (nhiễm Mycoplasma, Viêm màng não do Listeria, do giang mai, bệnh Lyme, Viêm màng não do Rickettsia, Bệnh Leptospira, SRAT thể não, giun xoắn, bệnh Toxoplasma, bệnh Tripanosoma…).

–  Bệnh não do nhiễm độc (bệnh não do chì, do thuốc…).

–  Viêm não sau tiêm vắcxin…

Tham khảo thêm:

Viêm màng não do lao (lao màng não)

Viêm màng não do vi khuẩn

Bệnh Viêm nhiễm vùng miệng – hàm mặt

  1. ĐẠI CƯƠNG

Ở Việt Nam, viêm nhiễm vùng miệng – hàm mặt là loại bệnh thường gặp ở bất cứ lứa tuổi nào. Bệnh cảnh lâm sàng có thể nhẹ, nên việc chẩn đoán và điều trị đơn giản, tuy nhiên cũng có nhiều trường hợp chẩn đoán khó và điều trị phức tạp, thậm chí có thể dẫn đến những biến chứng nặng, nguy hiểm đến tính mạng nếu không chẩn đoán đúng và xử trí kịp thời. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến viêm nhiễm vùng miệng – hàm mặt, nhưng ở bài này chúng ta chỉ kể đến nguyên nhân do răng, vì đây cũng là nguyên nhân hàng đầu gây nên viêm nhiễm ở vùng miệng – hàm mặt mà chúng ta thường gặp trong bệnh viện và ở cộng đồng.

Mặc dù trong những năm gần đây với đà phát triển của nền kinh tế – xã hội, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao về vật chất lẫn tinh thần, cùng với sự tiến bộ lớn về phòng bệnh và chữa bệnh răng miệng, song viêm nhiễm cấp và mãn tính do răng vẫn còn là vấn đề quan tâm lớn của các thầy thuốc chuyên khoa Răng – Hàm – Mặt và của toàn xã hội.

  1. NHẮC LẠI GIẢI PHẪU

Tổ chức tế bào là tổ chức liên kết lỏng lẻo, gồm những bó sợi keo, sợi chun, và những tế bào liên kết tự do, tất cả xen kẽ nhau. Những vùng tổ chức mỡ gồm có những tế bào mỡ rất lớn, hình cầu hay đa diện, làm thành những thùy hay đám, được ngăn cách bởi những vách tổ chức liên kết xơ. Những mạch máu nhỏ và hệ thống lâm ba trong vùng hợp thành tổ chức liên kết hoàn chỉnh. Hệ thống bám của cơ – cân vào mặt ngoài hay mặt trong xương hàm trên và hàm dưới, ngăn thành những vùng trong đó có tổ chức tế bào. Tổ chức tế bào này thông thương với nhau mặc dầu có những vách ngăn cân – cơ, do đó viêm nhiễm từ vùng này dễ lan rộng sang những vùng khác. Những vùng thường bị viêm nhiễm như: Vùng má, vùng sàn miệng, vùng cắn, vùng tuyến mang tai.

2.1. Vùng má ở trưóc bờ trước cơ cắn

Gồm những cơ bám da mặt, giữa các cơ là những khoang tổ chức liên kết lỏng lẻo, nơi hay hình thành áp xe má. Tổ chức tế bào mỡ của má thông với hố thái dương và cung tiếp.

2.2. Vùng sàn miệng

Hình thành bởi phần mềm đóng kín khoang miệng ở phía dưới gồm những vùng quan trọng nằm trên và dưới cơ hàm – móng như vùng dưới hàm (dưới hàm-móng), vùng dưới lưỡi (trên hàm-móng) và vùng dưới cằm.

2.3. Vùng cắn

Đi từ cung tiếp đến bờ dưới xương hàm dưới, ở phía trước là bờ trước cơ cắn, ở phía sau là bờ sau cành lên xương hàm dưới.

Phía sau vùng cắn thông với vùng mang tai, phía trong với khoang bên hầu, phía trên với hố thái dương nông và sâu. Về phương diện giải phẫu, hố chân bướm hàm và hố dưới thái dương được mô tả thành từng thể riêng, nhưng vì cùng nằm chung trong một vùng sau hàm, thường bị viêm nhiễm do răng, nên về bệnh lý được mô tả chung là áp xe hố chân bướm-hàm.

2.4. Vùng mang tai

– Thành sau là bờ trước cơ ức-đòn-chũm và xương chũm.

– Thành trước là bờ sau của cành lên xương hàm dưới.

– Thành trong: Giữa cân liên cơ chân bướm và dây chằng trâm – hàm có một khe làm thông vùng mang tai với khoang bên hầu, qua khe này tuyến mang tai kéo dài vào khoang bên hầu.

– Thành trên tương ứng với ống tai ngoài.

– Thành dưới là giải hàm đi từ cơ ức-đòn-chũm tới góc hàm, ngăn vùng mang tai và vùng dưới hàm.

– Các thành phần giải phẫu có trong vùng mang tai.

+ Tuyến mang tai, ống Sténon, cơ cắn, xương hàm dưới, cơ chân bướm trong, thành hầu vùng amiđan, cơ ức – đòn – chũm, cơ nhị thân, cơ trâm móng, dây chằng trâm móng, dây chằng trâm hàm, cơ trâm lưỡi, cơ trâm hầu.

+ Mạch máu và thần kinh mặt đi qua những thành phần nói trên.

  1. NGUYÊN NHÂN

3.1. Do răng

– Trước hết là những biến chứng do sâu răng, viêm tủy, tiếp theo là viêm tổ chức quanh chóp răng. U hạt và nang răng hình thành quanh chóp răng sớm hay muộn cũng bị viêm, và từ đó viêm lan rộng đến tổ chức tế bào và phần mềm.

– Sang chấn răng (gây rạn nứt, đụng giập, sai khớp, gãy) làm tủy răng bị chết sau đó bị nhiễm khuẩn.

– Tai nạn do mọc răng sữa, răng vĩnh viễn, nhất là răng khôn (mọc lệnh, mọc ngầm).

3.2. Viêm nha chu nhất là khi có túi mủ, vi khuẩn xâm nhập trực tiếp vào tổ chức tế bào

3.3. Do điều trị

– Điều trị tủy răng, đẩy tổ chức tủy nhiễm khuẩn qua chóp răng, hàn ống tủy răng chưa tốt.

– Lấy cao răng

– Nhổ răng: nhiễm khuẩn sau nhổ hoặc nhiễm khuẩn do sang chấn làm rách lợi, tổn thương xương ổ răng.

– Tai biến do làm răng hàm giả: mài răng làm tổn thương răng sống, tháo lắp hàm giả gây sang chấn.

– Tai nạn do chỉnh hình răng: lực kéo quá mạnh làm răng bị chết tuỷ.

– Phẫu thuật nha chu, phẫu thuật hàm mặt, phẫu thuật chỉnh hình.

3.4. Những nguyên nhân khác

– Viêm tủy xương hàm, vi khuẩn lan vào phần mềm.

– Gãy xương hàm, nhất là gãy hở thông với miệng hoặc đường gãy đi qua răng nhiễm khuẩn.

– Vết thương phần mềm hàm mặt làm rách nát tổ chức, vết thương chột, dị vật nằm trong tổ chức.

– Nhiễm khuẩn tuyến nước bọt: viêm tuyến nước bọt, sỏi tuyến, sỏi ống tiết nước bọt gây nhiễm khuẩn. Từ nhiễm khuẩn tuyến hay ống tiết nước bọt gây nhiễm khuẩn phần mềm tương ứng.

– Nhiễm khuẩn da và niêm mạc như viêm nang lông, viêm da, viêm miệng, nhọt ở mặt (nhiễm tụ cầu khuẩn nặng, đinh râu). Đinh râu có thể gây nhiễm khuẩn nặng.

– Nhiễm khuẩn amiđan có thể gây áp xe khoang bên hầu hay quanh amiđan.

– Viêm xoang hàm trên biến chứng gây viêm xương hàm và sau đó nhiễm khuẩn phần mềm. Tai nạn do kỹ thuật chọc xoang gây nhiễm khuẩn vào các vùng quanh hàm.

– Tai nạn do gây tê: thuốc tê, dụng cụ không vô khuẩn.

  1. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG

4.1. Thể cấp tính

Thường tiến triển qua hai giai đoạn

4.1.1. Viêm thanh dịch

Đây là giai đoạn đầu của viêm mô tế bào (thường kéo dài từ 1 đến 3 ngày).

– Về phương diện giải phẫu bệnh

+ Có sự co tiểu động mạch tại vùng viêm, sự co mạch này chỉ thoáng qua rất ngắn.

+ Tiếp theo là sự giãn mạch thứ phát, kéo dài làm tăng lưu lượng máu tại chỗ (huyết tương, bạch cầu xuyên mạch, thấm vào tổ chức liên kết xung quanh, tuần hoàn tại chỗ chậm lại, gây phù nề tại vùng viêm.

– Về phương diện lâm sàng

+ Tại chỗ

Đau tại răng nguyên nhân và lan ra xung quanh, bệnh nhân có cảm giác đau giật như mạch đập.

Lợi vùng răng đau: sưng đỏ, phù nề

Tổ chức vùng này sưng nề làm đầy các rãnh tự nhiên, xóa các gờ xương, giới hạn không rõ, da căng đỏ, mật độ chỗ sưng cứng chắc, nhiệt độ tăng, hạn chế cử động của các cơ bám da.

Có thể gây biến dạng khuôn mặt, co khít hàm tạm thời. Nếu ở sàn miệng thì làm cho lưỡi khó cử động.

+ Toàn thân: Sốt nhẹ khoảng 38 – 39 º C, mạch nhanh, người mệt mỏi, có thể có hạch dưới hàm bên sưng.

4.1.2. Viêm mủ (áp xe)

Đây là giai đoạn tiếp theo của viêm thanh dịch

– Về phương diện giải phẫu bệnh

Những ổ mủ được hình thành, mủ có màu vàng xanh, thối hoặc không, đặc, dính, lúc đầu các ổ mủ này rải rác sau gom tụ lại thành ổ mủ lớn, sự tụ mủ là do sự xung đột giữa vi khuẩn và hệ thống bảo vệ tế bào (trong ổ áp xe gồm có mảnh vụn tế bào, vi khuẩn, đại thực bào…).

– Về phương diện lâm sàng

+ Tại chỗ

Vùng răng nguyên nhân vẫn đau.

Lợi xung quanh vùng răng đau đỏ, phù nề, có mủ chảy ra khi ta ấn vào Vùng sưng đã khu trú rõ, da bề mặt căng bóng, có màu đỏ hay trắng,

Sờ vào chỗ sưng rất đau, không di động, dính vào bề mặt nông và sâu, khi ta ấn ngón tay vào thì để lại vết lõm, hoặc khi ta khám bằng hai ngón tay có dấu hiệu chuyển sóng (cảm giác có dịch bên dưới). Có thể vẫn còn co khít hàm tạm thời.

+ Toàn thân

Sốt nhẹ 38ºC, người mệt, có thể có hạch dưới hàm cùng bên.

4.2. Thể mạn tính

4.2.1. Nguyên nhân

Thường do vi khuẩn yếu, do điều trị không đúng hay dùng kháng sinh không hợp lý.

4.2.2. Lâm sàng

Đây là một ổ mủ nhỏ, xung quanh là tổ chức hạt, được bao bọc ngoài cùng là lớp vỏ xơ keo. Được biểu hiện:

– Nổi hòn (hay một cục tròn, bầu dục) trên da, mật độ chắc, da phủ trên bề mặt nhăn, màu sắc bình thường hoặc thâm tím, sờ không đau, dính vào da hoặc chỉ thấy một dải cứng nổi lên chạy dài từ ổ viêm đến răng nguyên nhân.

– Hoặc thấy một lỗ rò ra ngoài da, niêm mạc hay ngách lợi ở răng nguyên nhân thường xuyên chảy nước vàng hoặc mủ trắng không hôi.

  1. TIẾN TRIỂN

Mủ có thể vỡ và dò ra ở da, niêm mạc, ngách lợi, vòm miệng, sàn miệng. Các triệu chứng lâm sàng biến mất, bệnh nhân có cảm giác khỏi, nhưng sau một thời gian lại tái phát lại hay dẫn đến các biến chứng.

  1. BIẾN CHỨNG

Nếu viêm mô tế bào cấp không được điều trị có thể dẫn đến những biến chứng sau:

– Viêm tấy lan tỏa: Viêm lan tỏa cả một vùng tế bào rộng lớn.

– Viêm xương tủy hàm

– Viêm khớp, viêm màng tim, thận

– Viêm khớp thái dương hàm

– Viêm cơ nhai

– Nhiễm khuẩn máu

– Tử vong

  1. CÁC THỂ LÂM SÀNG THƯỜNG GẶP

7.1. Viêm mô tế bào khu trú nông

Nguyên nhân thường do răng và thương tổn tổ chức quanh răng, áp xe chỉ khu trú nông cạnh răng hay quanh xương hàm ở một vùng giải phẫu nhất định. Việc điều trị không phức tạp và chóng khỏi, tên gọi của thể viêm phụ thuộc vào tên gọi của vùng giải phẫu.

7.1.1. Áp xe quanh chóp (cuống) răng

Áp xe quanh chóp răng còn gọi là áp xe ổ răng, thường bắt đầu tại vùng quanh chóp răng, nguyên nhân do tuỷ chết hay tủy hoại tử. Áp xe có thể hình thành ngay sau khi tủy bị thương tổn, hay sau một thời gian bị sang chấn, áp xe tụ quanh chóp nhưng có thể tiến triển dưới màng xương, trên màng xương, vào phần mềm.

– Lâm sàng

Giai đoạn cấp tính có phản ứng toàn thân, sốt, sưng to quanh vùng chân răng đau.

Trước khi hình thành áp xe, chỉ sưng tổ chức quanh răng, sờ thấy một mảng cứng, bệnh nhân rất đau. Khi mủ đã hình thành, xuyên qua màng xương vào phần mềm, niêm mạc tiền đình, thì có dấu hiệu chuyển sóng hay ấn lõm.

– Xử trí

Trong giai đoạn mới sưng cứng nên súc miệng nước ấm, đắp gạc ấm, dùng kháng sinh. Khi áp xe đã hình thành, phải rạch dẫn lưu áp xe ở điểm thấp nhất. Nếu áp xe dưới màng xương, phải rạch qua màng xương, nếu áp xe đã qua màng xương vào phần mềm, tiền đình hoặc mặt trong xương hàm thì chọn chỗ rạch dẫn lưu ở điểm chuyển sóng, rạch nông (đứt niêm mạc) sau đó luồn kẹp cầm máu đầu tù mở rộng ổ mủ. Tránh làm thương tổn những thành phần giải phẫu quan trọng.

Đối với răng cần cân nhắc, nếu không bảo tồn được hoặc do không thể rạch được qua xương thì chỉ định nhổ chỉ có nhổ mới dẫn lưu được mủ khu trú trong ổ răng , ngay cả nhổ nóng dưới sự bảo vệ của kháng sinh. Nhổ răng chậm, nhiễm khuẩn sẽ lan rộng vào tổ chức và có thể gây nên nhiễm độc toàn thân hoặc gây viêm xương.

Trong một số trường hợp đặc biệt, mủ đáng lẽ tiến triển ra da, thì lại luồn vào dưới niêm mạc xơ của lợi gây nên áp xe dưới lợi và sau đó mủ sẽ rò ra mặt ngoài hay mặt trong của xương hàm.

7.1.2. Áp xe quanh thân răng

Áp xe quanh thân răng gặp ở bất cứ lứa tuổi nào, thông thường là ở tuổi thơ ấu, thanh thiếu niên, liên quan đến thời kỳ mọc răng. Răng khôn hàm dưới hay gây áp xe quanh thân răng. Triệu chứng điển hình là viêm hạch, co khít hàm, đau ở vùng răng số 8 dưới. Triệu chứng toàn thân: sốt, khó nuốt, sưng nề vùng dưới hàm và vùng amiđan, bên hầu. Sờ các vùng này bệnh nhân rất đau.

Khám tại chỗ, thường có lợi trùm che một phần hay toàn bộ mặt nhai. Thăm khám bằng thám trâm đầu tù có thể chạm vào mặt nhai dưới lợi. Sau khi đã qua triệu chứng viêm cấp, phải điều trị triệt để:

– Nếu răng khôn mọc ngầm hay mọc lệch, không thể mọc khỏi cung hàm thì chỉ định nhổ.

– Nếu răng khôn mọc thẳng hoặc cần dùng làm trụ cho cầu răng, hay nếu răng hàm lớn thứ 1, 2 bị sâu, viêm tủy, tiên lượng phải nhổ thì có thể chỉ cắt lợi trùm và giữ răng khôn. Phải cắt bỏ toàn bộ lợi phủ, bộc lộ hoàn toàn mặt nhai. Sau khi cắt lợi trùm nhét gạc tẩm iốt, hay loại băng phẫu thuật, trong 7 ngày để lợi cắt liền sẹo và không phủ trở lại thân răng.

Khi có chỉ định nhổ răng khôn thì không nên để kéo dài quá vì có thể gây viêm trở lại hoăc gây viêm xương. Nên nhổ ngay sau khi đã qua giai đoạn cấp tính.

Thông thường răng khôn trên ít gây biến chứng, nhưng nếu gây biến chứng thì cách xử trí cũng như răng khôn dưới.

7.1.3. Áp xe tổ chức quanh răng

Áp xe quanh răng cấp thường do viêm quanh răng mạn tính gây ra, có thể do răng chết tuỷ hoặc sang chấn khớp cắn. Nhiễm khuẩn bắt đầu từ lợi lan xuống một hoặc nhiều chân răng.

Thời kỳ cấp tính thường bất chợt, với triệu chứng đau dữ dội, niêm mạc và màng xương quanh chân răng bị viêm, lợi bị bong ra.

Xử trí: để giảm đau phải rạch dẫn lưu áp xe chỗ thấp nhất, hoặc chỗ có dấu hiệu chuyển sóng. Rạch qua tổ chức mềm, tới chân răng đã bị bộc lộ. Nếu chân răng đã bị bộc lộ quá 1/3 thì nên nhổ. Nếu răng còn chắc và xương ổ răng còn bình thường thì có thể bảo tồn. Chữa bảo tồn gồm có rạch dẫn lưu mủ, nạo sạch tổ chức hạt ở bề mặt chân răng.

7.1.4. Áp xe má

Lâm sàng: sưng ở thấp, dưới mép và không quá bờ nền xương hàm dưới. Rãnh mũi – má sưng đầy.

Răng nguyên nhân thường là răng hàm nhỏ, răng hàm lớn dưới và trên. Nếu là răng nanh thì sưng nề cả mi mắt dưới.

Khám trong miệng: vùng tiền đình dưới sưng thành hình chùy, đầu sau thon nhỏ dần tới lợi trùm răng khôn, còn đầu chùy phình to thì chạm răng hàm nhỏ. Dấu hiệu đặc trưng của bệnh: khi ấn vào chỗ má sưng thì mủ xuất hiện dưới lợi trùm răng khôn. Vì ổ mủ tụ ở xa răng nguyên nhân (răng khôn) nên áp xe má còn gọi là áp xe di cư tiền đình dưới hay áp xe cơ mút – hàm.

Tiến triển: từ răng (răng khôn) ổ nhiễm khuẩn có thể lan đến tiền đình miệng, qua chỗ bám sau của cơ mút vào vùng cơ cắn, qua mặt trong xương hàm vào vùng trên móng, qua bờ sau cơ hàm – móng vào vùng dưới hàm.

Xử trí: rạch dẫn lưu theo đường trong miệng hoặc ngoài miệng (ít dùng). Đường trong miệng: gây tê, rạch 1 – 2 cm vào chỗ phồng lớn nhất, qua niêm mạch, luồn kẹp cầm máu vào ổ mủ, mở rộng kẹp để mủ thoát ra, rồi dẫn lưu bằng lam cao su.

Đường ngoài miệng: gây tê dọc đường rạch. Rạch 1 – 2 cm, chỉ rạch qua lớp da để tránh thương tổn các nhánh của thần kinh mặt. Luồn kẹp để mở ổ mủ như trên.

7.1.5. Áp xe môi trên và môi dưới – cằm

– Hàm trên

Các răng cửa là răng bệnh lý. Áp xe tụ mủ ở nền mũi hay vách ngăn mũi.

– Hàm dưới

Mủ ở dưới cơ chỏm – cằm làm thành áp xe cằm. Mủ ở trên cơ chỏm-cằm làm sưng nề môi dưới. Khối răng cửa là răng bệnh lý.

Xử trí: rạch dẫn lưu đường tiền đình trong miệng, điều trị bảo tồn hoặc nhổ răng nguyên nhân.

7.1.6. Áp xe vòm miệng

Chân răng trong của răng hàm lớn và răng hàm nhỏ thường là răng nguyên nhân. Cũng có khi cả răng cửa bên. Vòm miệng không có tổ chức tế bào mà chỉ có niêm mạc xơ, cho nên áp xe tụ ở dưới màng xương, làm phồng niêm mạc lên như “mặt kính đồng hồ”. Ở bờ lợi – thân răng cũng có thể hình thành áp xe dưới màng xương, nhất là ở trẻ em. Đó cũng là thể áp xe dưới lợi – màng xương.

Xử trí: mở dẫn lưu. Trái với nguyên tắc cổ điển là mở dẫn lưu ở điểm phồng nhất, mà ở đây phải rạch song song với cổ răng, là nơi thấp nhất. Luồn kẹp, mở ổ mủ. Có thể dẫn lưu bằng mảnh gạc tẩm iốt vào đường rạch để tách 2 mép, làm thoát mủ. Rút gạc sau 48 giờ.

7.1.7. Áp xe vùng sàn miệng (viêm tấy sàn miệng Ludwig)

– Bệnh sinh

Thường do nhiễm khuẩn răng hàm lớn, nhất là răng khôn dưới, viêm xương, gãy xương hàm dưới, sỏi nước bọt, lan tràn áp xe từ các vùng kế cận như áp xe vùng dưới lưỡi, áp xe vùng mang tai, áp xe tuyến dưới hàm, áp xe hạch.

Vùng dưới hàm được xem như nơi gây nhiễm khuẩn quanh hàm, vì thông với các vùng xung quanh: dưới lưỡi, dưới cằm, hố thái dương, khoang bên hầu, vùng mang tai.

– Lâm sàng

Giai đoạn đầu: đau nhiều dưới góc hàm, mặt trong xương hàm dưới, nuốt đau, nước bọt chảy nhiều, có thể gây khít hàm.

Sưng sớm ở dưới góc hàm, sau lan ra cả vùng.

Giai đoạn toàn phát: dấu hiệu ngoài miệng: sưng to vùng dưới hàm, góc hàm, lan xuống xương móng, phía trên lan lên má (phần dưới), phía trước đến vùng dưới cằm, phía sau đến vùng bên cổ. Lồi bờ xương hàm dưới bị xóa.

Sưng nề thành một khối với xương hàm, mật độ chắc, sau đó mềm, lún. Da có màu đỏ sẫm hay trắng, căng bóng. Ấn vào vùng dưới hàm và góc hàm rất đau.

Dấu hiệu trong miệng: khám trong miệng thường khó, vì co khít hàm nhiều. Có thể thấy niêm mạc và rãnh bên lưỡi vùng răng hàm lớn sưng nề xung huyết, sưng đầy sàn miệng, đẩy lưỡi lên trên và ra sau. Sờ thấy mềm lún hoặc chuyển sóng ở niêm mạc phần sau của sàn miệng, mặt trong xương hàm. Trụ trước amiđan xung huyết. Niêm mạc phần trước sàn miệng bình thường.

Dấu hiệu chức năng: khít hàm, ăn nuốt khó, lưỡi cử động hạn chế. Đau tự phát vùng dưới hàm, lan ra sau, lên tai, đau khi nhai. Tình trạng toàn thân suy yếu, sốt cao, mạch nhanh, mất ngủ.

Quá trình làm mủ thường tiến triển vào vùng dưới lưỡi, dưới cằm. Xử trí: mở dẫn lưu theo đường ngoài da.

Dẫn lưu bằng ống cao su, cố định vào da. Phối hợp điều trị kháng sinh.

7.2. Viêm mô tế bào khu trú các vùng sâu

7.2.1. Áp xe vùng cơ cắn

– Bệnh sinh

Nhiễm khuẩn của hai răng hàm lớn dưới và nhất là răng khôn. Cũng có khi do răng hàm lớn trên.

Do kỹ thuật gây tê thần kinh răng dưới không vô khuẩn.

Do gãy xương hàm dưới, nhất là khi đường gãy đi qua răng khôn bị nhiễm khuẩn. Mủ có thể tụ sâu giữa cơ cắn và xương, hay nông giữa cơ cắn và da.

– Lâm sàng

Đặc điểm của áp xe vùng cắn là khít hàm nhiều, đau và sưng. Những dấu hiệu lâm sàng rõ ràng nhất từ 3 – 7 ngày sau khi khởi bệnh.

Sưng cả ngoài và có thể cả trong miệng.

Ngoài miệng: sưng từ góc hàm tới cung tiếp, cứng. Sưng lan xuống góc hàm tới vùng dưới hàm và đường giữa. Nếu áp xe nông giữa cơ cắn và da, thì sờ có dấu hiệu mềm lún hay chuyển sóng. Da căng, bóng, đỏ sẫm. Sưng có thể lan ra trước tới vùng má, lan ra sau tới vùng mang tai.

Trong miệng: khó khám vì khít hàm. Nếu mủ tụ sâu giữa cơ cắn và cành lên xương hàm dưới, thì niêm mạc bờ trước cành lên nề, xung huyết, ấn lõm. Niêm mạc thành bên hầu trước amiđan nề đỏ, còn sau amiđan thì vẫn bình thường (phân biệt với áp xe thành bên hầu: sưng nề toàn bộ niêm mạc).

Vùng dưới lưỡi cũng có thể bị sưng.

Đau: có thể đau dữ dội, lan lên tai. Có thể khó nuốt. Tình trạng nhiễm khuẩn toàn thân, sốt, mệt mỏi.

– Xử trí

Rạch dưới và song song với góc hàm khoảng 3 – 4cm. Vì sưng to vùng góc hàm nên khó xác đinh chính xác bờ xương và góc hàm, vì thế, khoảng cách đường rạch đối với xương nên lớn hơn bình thường một ít. Qua da, cơ bám da, luồn kẹp cầm máu lên trên, ra trước vào vùng cắn, nếu là mở ổ mủ sâu, thì luồn kẹp chạm xương, tách các thớ căn cắn, đi sát xương để mở ổ mủ. Banh rộng kẹp, dẫn lưu mủ bằng ống cao su.

Đường trong miệng: chỉ định khi áp xe tiến triển vào sâu, giữa cơ cắn và cành lên phồng niêm mạc bờ trước cành lên.

Gây tê dọc niêm mạc bờ trước cành lên.

Rạch niêm mạc bờ trước cành lên, dài khoảng 2cm, từ trên xuống dưới về phía xương. Luồn kẹp cầm máu vào giữa mặt ngoài xương và cơ cắn để vào ổ mủ. Không chọc kẹp vào sâu quá để không làm tổn thương màng xương và gây nhiễm khuẩn vào các vùng kế cận.

Dẫn lưu bằng ống cao su hay mảnh cao su (cố định vào niêm mạc)

Cần phải tránh làm thương tổn những thành phần quan trọng trên khi phẫu thuật dẫn lưu mủ.

7.2.2. Áp xe vùng mang tai

– Bệnh sinh

Do răng hàm dưới và có khi do răng hàm lớn trên. Do viêm mủ tuyến mang tai (thường gặp).

Do viêm hạch trong tuyến mang tai.

Do lan tràn nhiễm khuẩn từ các vùng kế cận đến (như vùng cắn, thái dương…), hay do sang chấn trực tiếp gãy cành lên xương hàm dưới.

– Lâm sàng

Triệu chứng khởi đầu ít rõ, sưng nề vùng mang tai, trước và dưới ống tai ngoài, sau đó sưng lan rộng cả bên mặt, làm cho nề mi và mắt bị khép lại.

Rãnh giữa bờ trước xương chũm và bờ sau cành lên bị sưng dày, ấn lõm và đau. Da vùng sưng căng, bóng, đỏ.

Khám trong miệng: khít hàm, xung huyết niêm mạc má, có khi sưng sau trụ thành bên hầu. Có dấu hiệu nhiễm khuẩn toàn thân.

– Chẩn đoán phân biệt

Viêm tuyến mang tai và áp xe tuyến: mủ chảy qua ống Stenon khi ấn vào vùng mang tai.

7.2.3. Viêm mô tế bào tỏa lan (cellulite diffuse) hay phlegmon tỏa lan (phlegmon diffuse)

Phlegmon tỏa lan là một thể viêm tổ chức tế bào cấp, có đặc điểm lan tỏa rất nhanh và hoại tử tổ chức không giới hạn, không gây áp xe tụ mủ rõ rệt, do độc tố mạnh của vi khuẩn tác động trên một cơ thể và tổ chức tại chỗ kém đề kháng

  1. CHẨN ĐOÁN

Viêm mô tế bào do răng thường không khó.

8.1. Hỏi tiền sử

Thường trước đó đã có đau răng, viêm nha chu hay mới mọc răng.

8.2. Khám lâm sàng

Thấy ở hàm răng tương ứng với vùng bị sưng có răng sâu lớn chết tủy, hay răng bị đổi màu do một lý do nào đó, răng có thể hơi lung lay, gõ dọc, ngang rất đau; hoặc răng khôn mới mọc, mà bị mọc lệch, hay bị lợi phủ lên trên.

8.3. Khám cận lâm sàng

Chụp X Quang: có thể thấy răng khôn dưới ngầm, lệch, hoặc dưới chân răng nguyên nhân có những u hạt hay nang; tiêu xương ổ răng của một hay nhiều răng.

  1. NGUYÊN TẮC ĐIỀU TRỊ

Khám tỉ mỉ lâm sàng, cận lâm sàng, chỉ định điều trị là những quá trình liên quan mật thiết với nhau.

9.1. Khám lâm sàng

Trong viêm mô tế bào do răng, khám lâm sàng có giá trị rất quan trọng để định bệnh đúng và chỉ định điều trị đúng. Tìm hiểu lịch sử bệnh, thường sẽ thấy bệnh liên quan đến một nguyên nhân cụ thể về răng, mô quanh răng.

Khám thực thể ngoài miệng, trong miệng, định khu vùng sưng, vùng thâm nhiễm, những rối loạn chức năng nhai, nói, nuốt, khít hàm… mức độ thương tổn giải phẫu bệnh để xác định chẩn đoán .

9.2. Cận lâm sàng

Cần làm những xét nghiệm chủ yếu

9.2.1. Cấy vi khuẩn

Phân lập các loại vi khuẩn gây bệnh là rất quan trọng, nhất là trong trường hợp vi khuẩn kháng lại các loại thuốc kháng sinh thông thường, có thể phân lập các vi khuẩn hiếu khí, kỵ khí, cả nấm nếu có điều kiện.

9.2.2. Làm kháng sinh đồ

Trong điều kiện có thể, ở các bệnh viện cùng với việc cấy vi khuẩn, cần làm kháng sinh đồ và xem đó như là một nguyên tắc thông thường trong quy tắc điều trị viêm nhiễm, vì mỗi loại vi khuẩn nhạy cảm với từng loại kháng sinh. Trong trường hợp không có điều kiện làm kháng sinh đồ thì nên dùng loại kháng sinh có phổ rộng và theo những nguyên tắc về sử dụng hợp lí thuốc kháng sinh.

– Việc sử dụng kháng sinh ngoài những nguyên tắc, cần phải dựa vào kinh nghiệm. Dùng kháng sinh kịp thời, đúng liều lượng là rất quan trọng để dập tắt quá trình viêm và ngăn ngừa các biến chứng.

– Về liều lượng, nguyên tắc chung là sử dụng liều mạnh, phối hợp, dựa vào kinh nghiệm và dấu hiệu tiến triển lâm sàng.

9.2.3. Cấy máu

Cần làm trong tất cả những trường hợp nhiễm khuẩn nặng, nhất là trường hợp nghi ngờ là nhiễm khuẩn máu, người bệnh có dấu hiệu nhiễm độc, hoặc khi mọi phương pháp điều trị trước tỏ ra ít hiệu quả. Phải cấy máu trước khi điều trị kháng sinh.

9.2.4. Chụp X quang

Cần thiết để xác định đúng răng nguyên nhân. Nếu bệnh nhân há được miệng phải chụp phim ngoài miệng như chụp hàm chếch đối với răng hàm dưới.

9.3. Điều trị chung

Trong trường hợp sốt cao hoặc trong trường hợp bệnh nhân đau không uống được nước, có thể đưa đến tình trạng mất nước, cần phải bù nước, vitamin, đường, theo đường tĩnh mạch.

Dùng kháng sinh phải duy trì cho đến khi hết dấu hiệu lâm sàng (nếu là nhiễm khuẩn máu phải tiếp tục dùng kháng sinh và theo dõi, khi nào cấy máu âm tính thì mới chấm dứt).

Dẫn lưu nên dùng ống cao su, mảnh cao su và nên băng lỏng để thoát dịch dễ dàng, thay băng khi dịch thấm bẩn băng, bơm rửa qua ống dẫn lưu hay đường rạch bằng các dung dịch: oxy già, nước muối sinh lý, dung dịch kháng sinh. Bơm rửa một hay nhiều lần trong ngày tùy theo mủ, dịch tiết nhiều hay ít cho đến khi hết dịch, mủ.

9.4. Vấn đề nhổ răng nguyên nhân

Có những ý kiến khác nhau, có tác giả chủ trương nên nhổ ngay răng nguyên nhân gây ra viêm vì vừa loại trừ nguyên nhân, vừa dẫn lưu qua ổ răng. Tuy nhiên có nguy cơ gây nhiễm khuẩn lan tràn, mặt khác việc dẫn lưu qua ổ răng chỉ dễ đối với những viêm nhiễm tại chỗ, còn khi viêm nhiễm lan rộng thì rất hạn chế. Hơn nữa khi viêm nhiễm do các răng hàm lớn thường gây ra khít hàm nên không thể nhổ răng được. Vì vậy, việc nhổ răng ngay chỉ áp dụng được trong một số trường hợp.

Để đề phòng nhiễm khuẩn lan tràn, nhiều khi rất nặng như nhiễm khuẩn huyết, viêm tắc tĩnh mạch… chỉ nên nhổ răng sau khi đã dùng kháng sinh 1- 2 ngày và sau khi đã rạch dẫn lưu mủ, một mặt làm giảm đau cho người bệnh, mặt khác người bệnh có thể há miệng được để nhổ răng.

9.5. Việc bảo tồn răng

Việc bảo tồn răng chỉ nên đặt ra với răng một chân như răng cửa, răng hàm nhỏ, trong điều kiện tổn thương chưa nặng lắm và có thể chữa tốt được, hoặc ở những cơ sở có điều kiện theo dõi và có phương tiện tốt. Còn nói chung với các răng hàm lớn, nhiều chân, răng gây ra biến chứng nghiêm trọng thì nên nhổ răng.

  1. ĐIỀU TRỊ

Tùy theo giai đoạn lâm sàng mà ta có phương pháp điều trị thích hợp.

10.1. Giai đoạn viêm thanh dịch

Điều trị nội khoa là chính, dùng khánh sinh, chống viêm, giảm đau; giữ vệ sinh răng miệng. Có thể khoan thủng buồng tủy để thoát mủ làm giảm áp lực tại vùng viêm.

Khi triệu chứng viêm đã thuyên giảm ta mới tiến hành nhổ răng nguyên nhân hoặc giữ răng lại điều trị tùy theo răng và khả năng của người thầy thuốc.

10.2. Giai đoạn làm mủ

Việc trước tiên là dẫn lưu mủ: có thể nhổ ngay răng nguyên nhân để dẫn lưu mủ hoặc xẻ dẫn lưu bằng đường trong miệng qua niêm mạc hay ngoài da tùy theo vị trí khu trú của ổ mủ.

Kháng sinh, giảm viêm, giảm đau Vệ sinh răng miệng

Giải quyết răng nguyên nhân: nhổ răng, chữa răng hoặc điều trị quanh răng.

10.3. Thể mãn tính

Dẫn lưu ổ mủ, nhổ hay chữa răng nguyên nhân, nạo sạch đường rò.

  1. DỰ PHÒNG VIÊM MÔ TẾ BÀO

– Tuyên truyền vệ sinh răng miệng cho cộng đồng

– Khám định kỳ để phát hiện những bệnh về răng miệng

– Điều trị các răng bị sâu, viêm lợi, viêm nha chu…

– Những răng khôn mọc lệch, ngầm đã gây biến chứng cần phải nhổ để đề phòng viêm mô tế bào

– Nếu phát hiện viêm mô tế bào cần được xử trí sớm để tránh những biến chứng nguy hiểm

Ngộ độc ma túy nhóm ôpi – triệu chứng, xử trí

1. ĐỊNH NGHĨA

Ma túy là một vấn đề nhức nhối của xã hội trong nhiều năm qua. Ma túy thường dùng là ôpi, trong đó phổ biến nhất là Heroin. Dùng những chất gây nghiện này phải tăng dần liều mới đạt được đáp ứng “khoái cảm” nên dễ ngộ độc và nhanh chóng dẫn đến tử vong. Do vậy ngộ độc cấp ôpi trong những năm gần đây cũng gia tăng ở mức báo động.

1.1. Các khái niệm cơ bản

  • Opiat: Các chất có nguồn gốc từ nhựa cây thuốc phiện (Opium poppy).

Thực tế thường dùng để chỉ các dẫn chất của morphin.

  • Opioid: Các hợp chất mà tất cả các tác dụng trực tiếp đều bị naloxon đối kháng.

Các opioid được phân loại thành dạng tự nhiên, bán tổng hợp, và tổng hợp.

1.2. Các receptor đặc hiệu của ôpi tại thần kinh trung ương dẫn đến hiệu quả khác biệt của các opioid. Có ít nhất 4 receptor khác nhau đã được xác định, một vài loại lại được chia ra thành các dưới nhóm: mu, kappa, sigma, và delta. Các receptor này tập trung ở các vùng của hệ thần kinh trung ương tham gia nhận cảm và dẫn truyền cảm giác đau. Hiệu quả sinh lý của các chất kích thích các receptor ôpi thuần túy chủ yếu trung gian qua receptor mu. Một vài chất đối kháng ôpi thuần túy (naloxon, naltrexon) tác dụng trên cả 4 receptor.

2. NGUYÊN NHÂN

Bệnh nhân NĐC ôpi đến viện có thể sau chích, hút, hít hoặc do đường qua da. Người nghiện ma túy thường bị quá liều do đổi dùng thuốc sang người bán khác vì vậy tính sai liều, hoặc lần đầu dùng lại sau một thời gian cai thuốc. Thực tế cũng thường gặp ngộ độc do tăng liều để đạt khoái cảm. Tuy nhiên cũng cần phải xét đến khả năng cố ý dùng quá liều để tự tử hoặc bị đầu độc. Trẻ em có thể bị tai nạn ngộ độc do uống viên ôpi hoặc dán hay uống các miếng dán ngoài da. Những người không nghiện ma túy có thể ngộ độc đường uống do cố tình (tự tử) hoặc do tai nạn điều trị.

3. CHẨN ĐOÁN

3.1. Lâm sàng

Ức chế thần kinh trung ương

Là một trong 3 tiêu chuẩn của ngộ độc opiat. Các dấu hiệu thay đổi từ lơ mơ, ngủ gà tới hôn mê. Các chất có tác dụng hỗn hợp kích thích – đối kháng như pentazocin và butorphanol gây phản ứng bồn chồn hay thậm chí loạn thần do tác dụng kích thích thụ thể sigma. Hiếm gặp co giật do quá liều opioid tinh chế ngoại trừ ở trẻ em hoặc ngộ độc propoxyphen và meperidin.

Đồng tử co nhỏ

Là dấu hiệu lâm sàng kinh điển thứ hai ở các nạn nhân ngộ độc opioid và thấy ở hầu hết các trường hợp. Co đồng tử do các tác động trên thần kinh phó giao cảm tới đồng tử (Nhân Edinger-Westphal).

Ức chế hô hấp có thể gây tử vong

Là đặc điểm thứ ba của ngộ độc ôpi. Đầu tiên giảm tần số thở, chưa giảm biên độ thở. Khi ngộ độc nặng hơn, thấy tím và thở rất chậm.

Thở nhanh nông có thể thấy ở bệnh nhân phù phổi cấp tổn thương. Các bệnh nhân này phân tích khí máu động mạch cho thấy giảm ôxy máu, tăng CO2 máu và toan hô hấp. Phù phổi cấp tổn thương không phải hiếm gặp ở các bệnh nhân ngộ độc heroin, có thể do uống hoặc chích, hút và được xem là 1 biến chứng nặng của bệnh nhân quá liều ma túy. Các bằng chứng trên phim X quang có thể xuất hiện chậm trong vòng 24 giờ. Nguyên nhân chưa rõ ràng, có thể do cơ chế thông qua các hoạt động thần kinh khởi phát từ sự thiếu ôxy thần kinh trung ương; do đó, các bệnh nhân không hôn mê và ngừng thở không có nguy cơ xuất hiện biến chứng này. Bệnh nhân trào nhiều bọt hồng, ran ẩm, ran nổ khắp 2 phế trường nhưng không thấy tĩnh mạch cổ nổi và ngựa phi. CVP bình thường hoặc thấp. X quang ngực thấy kích thước bóng tim bình thường, tổn thương phổi rất khác biệt từ hình mờ khu trú ở 1 phổi tới hình ảnh kinh điển thâm nhiễm khắp 2 bên, nhất là vùng rốn phổi và đáy phổi.

Do tác dụng ức chế thần kinh trung ương của ôpi, phải xét chẩn đoán viêm phổi do sặc khi thấy các biểu hiện trên lâm sàng và hình mờ trên phim X quang. Có thể khó xác định chẩn đoán này ban đầu, nhưng phải nghĩ tới nếu tổn thương trên X quang không hết sau 48 giờ điều trị.

Tác dụng trên hệ tim mạch

Ôpi có rất nhiều tác dụng trực tiếp trên hệ thống tim mạch. Tăng dung tích hệ tĩnh mạch (nhờ đó morphin có tác dụng điều trị phù phổi cấp huyết động) gây giảm cả HA tâm thu và tâm trương. Dấu hiệu này thường không thấy rõ khi bệnh nhân nằm. Không có tác dụng trên tính co bóp và tính dẫn truyền của cơ tim ngoại trừ propoxyphen, meperidin hoặc pentazocin. Các loạn nhịp tim cũng thường là do thiếu ôxy hơn là do bản thân ôpi (tuy nhiên cũng ngoại lệ với propoxyphen). Ngoại trừ quá liều propoxyphen, tụt HA đáng kể phải đi tìm các nguyên nhân khác như đồng thời cũng ngộ độc các chất khác, sốc giảm thể tích (chấn thương) sốc kiểu phản vệ.

Nghe tim có tiếng thổi ở bệnh nhân nghiện chích ma túy nhiều khả năng có viêm nội tâm mạc và biểu hiện tâm phế có thể do tăng áp lực mạch phổi do tiêm các chất bẩn hoặc do các chất phụ gia.

Các biến chứng tim mạch của heroin

Sốc, trụy tim mạch: bệnh nhân ngộ độc heroin do tiêm chích có thể vào viện trong tình trạng sốc. Sốc có thể là do suy tim toàn bộ cấp, hoặc do tiêm độc chất vào tuần hoàn (hội chứng sốc do độc tố – toxic shock syndrom).

Các biến chứng tim mạch khác là loạn nhịp chậm và loạn nhịp nhanh do quinin, rung nhĩ kịch phát, QT kéo dài, viêm nội tâm mạc, ngừng tim do tăng kali máu, tâm trương kéo dài, phình mạch dạng nấm.

Các tác dụng trên hệ tiêu hóa

Ôpi ban đầu gây kích thích vùng nhận cảm hóa học ở hành não dẫn đến buồn nôn và nôn; dùng các liều tiếp theo lại có tác dụng ức chế vùng này và sau đó rất khó gây nôn.

Nhu động ruột giảm trong khi trương lực các cơ thắt tăng (ví dụ, cơ vòng ở hậu môn, bóng Vater). Nghe tiếng nhu động giảm và bụng có thể chướng. Do tồn đọng lâu ở dạ dày có thể dẫn đến hấp thu thuốc rất chậm và làm cho thải trừ thuốc qua đường tiêu hóa có thể chậm tới 27 giờ sau khi uống.

Các biến chứng khác của NĐC ôpi bao gồm ứ đọng nước tiểu do tăng trương lực cơ thắt, suy thận cấp do tiêu cơ vân cấp, hạ đường máu và hạ thân nhiệt.

3.2. Cận lâm sàng

Khi bệnh nhân vào viện, lấy mẫu máu làm công thức máu, khí máu động mạch, glucose, urê, creatinin, GPT, GOT, CK, điện giải, barbiturat, các thuốc an thần khác, kháng nguyên và kháng thể của virus viêm gan.

Lấy nước tiểu để xét nghiệm opiat. Nồng độ heroin trong máu không có giá trị nhiều về lâm sàng nhưng có thể phát hiện được trong vòng 36 giờ.

Cấy máu hệ thống nếu có bằng chứng tắc mạch phổi nhiễm trùng hoặc viêm nội tâm mạc. Soi và cấy vi khuẩn đờm. Cấy vết loét da. Nếu có bằng chứng chấn thương sọ não, chụp X quang sọ, CT scan sọ não và làm điện não nếu có chỉ định.

3.3. Chẩn đoán xác định

Dựa vào lâm sàng: hoàn cảnh sau chích, hít heroin, tam chứng ức chế thần kinh trung ương, đồng tử co nhỏ, ức chế hô hấp và xét nghiệm opiat nước tiểu.

3.4. Chẩn đoán phân biệt

  • Xuất huyết thân não
  • Ngộ độc các thuốc an thần, gây ngủ, gây mê, rượu, chống trầm cảm (seduxen, phenobarbital, amitriptilin…)
  • Các chất gây co đồng tử: PHC, cacbamat …

4.   ĐIỀU TRỊ

4.1. Nguyên tắc điều trị

Hồi sức hô hấp và sử dụng thuốc giải độc đặc hiệu naloxon là các điều trị cơ bản.

4.2    Điều trị cụ thể

4.2.1.     Hồi sức

Hồi sức hô hấp: bóp bóng oxy, đặt NKQ thở máy.

Các bệnh nhân NĐC heroin cần theo dõi trong viện 24 đến 48 giờ.

Dùng vận mạch cho các bệnh nhân tụt HA. Theo dõi sát tăng gánh thể tích, chú ý đánh giá lượng dịch vào và ra. Sau khi bệnh nhân ổn định có thể chụp phim X quang ngực.

Điều trị phù phổi cấp

Đặt NKQ nếu có chỉ định. Naloxon TM 0,8-1,2mg, tiêm lại cách mỗi 5 phút cho tới khi bệnh nhân tỉnh, thở lại tốt. Tụt HA điều trị bằng vận mạch. Không truyền nhiều dịch ở bệnh nhân phù phổi. Nếu tình trạng bệnh nhân ổn định chụp X quang phổi và làm khí máu theo dõi. Theo dõi liên tục điện tim. Dùng ôxy và có thể phải thở PEEP. Digitalis và lợi tiểu không có nhiều tác dụng vì là phù phổi cấp tổn thương.

4.2.2.     Thuốc giải độc đặc hiệu: naloxon

Naloxon là chất giải độc đặc hiệu có tác dụng ức chế ở cả 4 loại receptor ôpi (mu, kappa, sigma, delta). Nhanh chóng dùng naloxon thường cứu được bệnh nhân ngộ độc ôpi.

Liều dùng

  • Liều thường có hiệu quả trong điều trị cấp cứu là 1 đến 5 ống (0,4-2mg) tĩnh mạch. Đánh giá điểm Glasgow, nhịp thở, tình trạng suy hô hấp. Nếu không có tác dụng, dùng thêm 1 liều 2mg tĩnh mạch (dùng cách 2-3 phút cho tới tổng liều 10mg). Nếu có đáp ứng 1 phần, tiêm TM cách 15 phút cho tới khi bệnh nhân tỉnh, thở được hoặc không có cải thiện thêm. Nếu có đáp ứng, bắt đầu truyền tĩnh mạch naloxon.
  • Phác đồ liều truyền tĩnh mạch liên tục để hồi phục tác dụng giảm đau gây ngủ đã được Goldfrank và cộng sự đề xuất. Truyền tĩnh mạch 4 mg naloxon/lít với tốc độ 400g/giờ (0,4mg/giờ). Ở người lớn, dùng 4 mg/1000ml Glucose 5% truyền 100 ml/giờ.

5. TIẾN TRIỂN VÀ BIẾN CHỨNG

  • Hồi phục hoàn toàn nếu không có biến chứng
  • Di chứng thiếu oxy
  • Biến chứng của tiêm chích bẩn

6. DỰ PHÒNG

Truyền thông giáo dục phòng chống ma túy.

Rối loạn chuyển hóa lipid máu

I.   ĐẠI CƯƠNG

Lipid là những phân tử kỵ nước khó tan trong nước. Lipid được tìm thấy trong màng tế bào, duy trì tính nguyên vẹn của tế bào và cho phép tế bào chất chia thành ngăn tạo nên những cơ quan riêng biệt.

Lipid là tiền thân của một số hormon và acid mật, là chất truyền tín hiệu ngoại bào và nội bào. Các lipoprotein vận chuyển các phức hợp lipid và cung cấp cho tế bào khắp cơ thể.

Lipid là nguồn cung cấp năng lượng chính cho cơ thể, tham gia cung cấp 25%- 30% năng lượng cơ thể. 1g lipid cung cấp đến 9,1 kcal. Lipid là nguồn năng lượng dự trữ lớn nhất trong cơ thể, dạng dự trữ là mỡ trung tính triglycerid tại mô mỡ. Bình thường khối lượng mỡ thay đổi theo tuổi, giới và chủng tộc.

Nhu cầu về lượng chưa được chính xác, vào khoảng 1g/kg thể trọng ngày, nên dùng lượng lipid với 2/3 dầu thực vật (acid béo không bão hòa) và 1/3 mỡ động vật (acid béo bão hòa) với lượng cholesterol dưới 300 mg/ngày.

  • Rối loạn lipid máu (RLLPM) là tình trạng bệnh lý khi có một hoặc nhiều thông số lipid bị rối loạn (tăng cholesterol hoặc tăng triglicerid, hoặc tăng LDL-c, hoặc giảm HDL-c…). Rối loạn lipid máu thường được phát hiện cùng lúc với mội số bệnh lý tim mạch-nội tiết-chuyển hóa. Đồng thời Rối loạn lipid máu cũng là yếu tố nguy cơ của bệnh lý này. Nguyên nhân của Rối loạn lipid máu có thể do nguyên phát như di truyền hoặc thứ phát do phong cách sống không hợp lý. Điều trị Rối loạn lipid máu thay đổi lối sống (tăng cường vận động thể lực, thay đổi chế độ ăn: hạn chế bia rượu, mỡ động vật…) hoặc dùng thuốc giảm lipid máu. Điều trị Rối loạn lipid máu góp phần vào điều trị bệnh nguyên của nhiều bệnh tim mạch, nội tiết, chuyển hóa.

Các loại lipid máu theo kích thước:

  • Chilomicron vi dưỡng chấp chứa triglycerid
  • VLDL (very low dencity lipoprotein)
  • LDL (low dencity lipoprotein)
  • HDL (high dencity lipoprotein)

II.   NGUYÊN NHÂN

  1. Rối loạn lipid máu tiên phát

RLLPM tiên phát do đột biến gen làm tăng tổng hợp quá mức cholesterol (TC), triglicerid (TG), LDL-c hoặc giảm thanh thải TC, TG, LDL-c hoặc giảm tổng hợp HDL- c hoặc tăng thanh thải HDL-L. Rối loạn lipid máu tiên phát thường xảy ra sớm ở trẻ em và người trẻ tuổi, ít khi kèm thể trạng béo phì, gồm các trường hợp sau:

  • Tăng triglycerid tiên phát: Là bệnh cảnh di truyền theo gen lặn, biểu hiện lâm sàng thường người bệnh không bị béo phì, có gan lách lớn, cường lách, thiếu máu giảm tiểu cầu, nhồi máu lách, viêm tụy cấp gây đau bụng.
  • Tăng lipid máu hỗn hợp: Là bệnh cảnh di truyền, trong gia đình có nhiều người cùng mắc bệnh. Tăng lipid máu hỗn hợp có thể do tăng tổng hợp hoặc giảm thoái biến các Lâm sàng thường béo phì, ban vàng, kháng insulin, đái đường típ 2, tăng acid uric máu.

2.  Rối loạn lipid máu thứ phát

Nguyên nhân của Rối loạn lipid máu thứ phát do lối sống tĩnh tại, dùng nhiều bia-rượu, thức ăn giàu chất béo bão hòa. Các nguyên nhân thứ phát khác của Rối loạn lipid máu như đái tháo đường, bệnh thận mạn tính, suy giáp, xơ gan, dùng thuốc thiazid, corticoides, estrogen, chẹn beta giao cảm.

Tăng triglycerid thứ phát:

  • Đái tháo đường: thường tăng triglycerid máu do hoạt tính enzyme lipoprotein lipase giảm. Nếu glucose máu được kiểm soát tốt thì triglycerid sẽ giảm sau vài tuần. Tăng TG máu là yếu tố nguy cơ xơ vữa động mạch ở người bệnh đái tháo đường
  • Cường cortisol (Hội chứng Cushing): có tình trạng giảm dị hóa các lipoprotein do giảm hoạt tính enzyme lipoprotein Tình trạng này càng rõ hơn trong trường hợp kèm kháng insulin và đái tháo đường.
  • Sử dụng estrogen: ở phụ nữ dùng estrogen thời gian dài, có sự gia tăng TG do tăng tổng hợp Trong thai kỳ, nồng độ estrogen tăng cũng làm gia tăng TG gấp 2-3 lần và sẽ trở lại mức bình thường sau sinh khoảng 6 tuần.
  • Nghiện rượu: làm rối loạn lipid máu, chủ yếu tăng Đặc biệt, rượu làm tăng đáng kể nồng độ triglycerid máu ở những người tăng sản TG nguyên phát hoặc thứ phát do các nguyên nhân khác. Hội chứng Zieve tăng TC máu, rượu chuyển thành acetat làm giảm sự oxyd hóa acid béo ở gan nên acid béo tham gia sản xuất TG gây gan nhiễm mỡ và tăng sản xuất VLDL, chức năng gan giảm dẫn đến giảm hoạt tính enzyme LCAT (Lecithin cholesterol acyltransferase: enzyme ester hóa cholesterol) nên cholesterol ứ đọng trong hồng cầu làm vỡ hồng cầu gây thiếu máu tán huyết.
  • Bệnh thận: trong hội chứng thận hư, tăng VLDL và LDL do gan tăng tổng hợp để bù và lượng protein máu giảm do thải qua nước tiểu. TG tăng do albumin máu giảm nên acid béo tự do gắn với albumin cũng giảm, acid béo tự do tăng gắn vào lipoprotein làm cho sự thủy phân TG của các lipoprotein này bị giảm.

III.   CHẨN ĐOÁN

  1. Lâm sàng

Rối loạn lipid máu là bệnh lý sinh học, xảy ra sau một thời gian dài mà không thể nhận biết được, vì Rối loạn lipid máu không có triệu chứng đặc trưng. Phần lớn triệu chứng lâm sàng của rối loạn lipid máu chỉ được phát hiện khi nồng độ các thành phần lipid máu cao kéo dài hoặc gây ra các biến chứng ở các cơ quan như xơ vữa động mạch, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch não, các ban vàng ở mi mắt, khuỷu tay, đầu gối, Rối loạn lipid máu có thể gây viêm tụy cấp. Rối loạn lipid máu thường được phát hiện muộn trong nhiều bệnh lý khác nhau của nhóm bệnh tim mạch – nội tiết – chuyển hóa.

  • Một số dấu chứng đặc hiệu ở ngoại biên của tăng lipid máu
    • Cung giác mạc (arc cornea): Màu trắng nhạt, hình vòng tròn hoặc không hoàn toàn, định vị quanh mống mắt, chỉ điểm tăng TC (typ 2a hoặc 2b), thường có giá trị đối với người dưới 50 tuổi.
    • Ban vàng (xanthelasma): Định vị ở mí mắt trên hoặc dưới, khu trú hoặc lan tỏa, gặp ở typ 2a hoặc 2b.
    • U vàng gân (tendon xanthomas): Định vị ở gân duỗi của các ngón và gân Achille và vị trí các khớp đốt bàn ngón tay, đặc hiệu của typ 2a.
    • U vàng dưới màng xương (periostea xanthomas): Tìm thấy ở củ chày trước, trên đầu xương của mỏm khuỷu, ít gặp hơn u vàng gân.
    • U vàng da hoặc củ (cutaneous or tuberous xanthomas): Định vị ở khuỷu và đầu gối.
    • Dạng ban vàng lòng bàn tay (palmar xanthomas): Định vị ở các nếp gấp ngón tay và lòng bàn tay.
  • Một số dấu chứng nội tạng của tăng lipid máu
    • Nhiễm lipid võng mạc (lipemia retinalis): Soi đáy mắt phát hiện nhiễm lipid võng mạc (lipemia retinalis) trong trường hợp Triglycerides máu cao.
    • Gan nhiễm mỡ (hepatic steatosis): Từng vùng hoặc toàn bộ gan, phát hiện qua siêu âm hoặc chụp cắt lớp, thường kèm tăng TG máu.
    • Viêm tụy cấp: Thường gặp khi TG trên 10 gam/L, dạng viêm cấp, bán cấp phù nề, amylase máu không hoặc tăng vừa phải.
    • Xơ vữa động mạch: Là biến chứng lâu dài của tăng lipoprotein, thường phối hợp với tăng lipoprotein không biết trước đó, có thể phối hợp với một số yếu tố nguy cơ khác như thuốc lá, đái tháo đường. Tổn thương động mạch có khẩu kính trung bình và lớn như tổn thương động mạch vành và tai biến mạch máu não thường liên quan nhiều hơn so với viêm tắc động mạch hai chi dưới (ưu tiên đến thuốc lá).

2.  Cận lâm sàng

  • Định lượng bilan lipid: Các thông số lipid tăng lên sau ăn, nên để chẩn đoán chính xác Rối loạn lipid máu, cần phải lấy máu vào buổi sáng khi chưa ăn (khi đói). Các thông số thường được khảo sát: Cholesterol (TC) máu, Triglycerid (TG), LDL-Cholesterol (LDL-c), HDL-Cholesterol (HDL-c).
  • Chẩn đoán Rối loạn lipid máu được gợi ý khi có một số dấu chứng của Rối loạn lipid máu trên lâm sàng như thể trạng béo phì, ban vàng, các biến chứng ở một số cơ quan như TBMMN, bệnh mạch vành… Chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm các thông số lipid khi có một hoặc nhiều rối loạn như sau:
  • Cholesterol máu > 5,2 mmol/L (200mg/dL)
  • Triglycerid > 1,7 mmol/L (150mg/dL)
  • LDL-cholesterol > 2,58mmol/L (100mg/dL)
  • HDL-cholesterol < 1,03mmol/L (40 mmol/L)

3.  Phân loại

Phân loại rối loạn lipid máu theo Fredrickdson (1956)
Phân loại rối loạn lipid máu theo Fredrickdson (1956)

(ADH, autosomal dominant hypercholesterolemia; Apo, apolipoprotein; ARH, autosomal recessive hypercholesterolemia; FCHL, familial combined hyperlipidemia; FCS, familial chylomicronemia syndrome; FDB, familial defective ApoB; FDBL, familial dysbetalipoproteinemia; FH, familial hypercholesterolemia; FHTG, familial hypertriglyceridemia; LPL, lipoprotein lipase; LDLRAP, LDL receptor associated protein; GPIHBP1, glycosylphosphatidylinositol-anchored high density lipoprotein binding protein1; N, normal).

IV. ĐIỀU TRỊ

  1. Nguyên tắc chung

Điều trị Rối loạn lipid máu phải kết hợp thay đổi lối sống và dùng thuốc. Thay đổi lối sống là chỉ định đầu tiên, bao gồm tăng cường tập luyện – vận động thể lực, nhất là những người làm công việc tĩnh tại, và điều chỉnh chế độ tiết thực hợp lý với thể trạng và tính chất công việc.

Để chọn lựa kế hoạch điều trị thích hợp, ngày nay người ta thường dựa trên báo cáo lần ba của Chương trình Giáo dục Quốc gia về Cholesterol tại Mỹ (NCEP-National Cholesterol Education program) và của Ủy ban điều trị tăng Cholesterol ở người trưởng thành (ATPIII-Adult Treatment Panel III). Hướng dẫn của NCEP dựa trên điểm cắt lâm sàng tại đó có sự gia tăng nguy cơ tương đối của bệnh lý mạch vành.

Đánh giá rối loạn lipid máu theo NCEP ATPIII (2001)

Thông số lipid Nồng độ Đánh giá nguy cơ
CT (mg/dL) < 200 Bình thường
200-239 Cao giới hạn
≥ 240 Cao
TG (mg/dL) < 150 Bình thường
150-199 Cao giới hạn
200-499 Cao
≥ 500 Rất cao
LDL-c (mg/dL) < 100 Tối ưu
100-129 Gần tối ưu
130-159 Cao giới hạn
160-189 Cao
≥ 190 Rất cao
HDL-c (mg/dL) < 40 Thấp
≥ 60 Cao

2.  Tập luyện – vận động thể lực

  • Giúp giảm cân, duy trì cân nặng lý tưởng.
  • Giảm TC, TG, LDL-c và Tăng HDL-c
  • Góp phần kiểm soát tốt đường huyết và huyết áp

Thời gian tập luyện – vận động thể lực khoảng 30 đến 45 phút mỗi ngày, 5 ngày mỗi tuần, cường độ và thời gian tập tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe nhất là những người có bệnh lý huyết áp, mạch vành, suy tim…

3.  Chế độ tiết thực

  • Hạn chế năng lượng nhất là những người béo phì.
  • Hạn chế mỡ chứa nhiều acid béo bão hòa như mỡ trong thịt heo, thịt bò, thịt cừu…, giảm cholesterol có trong lòng đỏ trứng, bơ, tôm… Tăng lượng acid béo không bão hòa có trong các loại thực vật như dầu đậu nành, dầu ô liu, dầu bắp, trong mỡ cá…
  • Khẩu phần ăn có sự cân đối giữa glucid, lipid và Tránh dùng nhiều glucid (năng lượng do glucid cung cấp khoảng 50% năng lượng của phần ăn, lipid khoảng 30% và protid khoảng 20%).
  • Hạn chế bia – rượu.
  • Bổ sung chất xơ, vitamin, yếu tố vi lượng từ các loại rau, củ và hoa quả.

4.  Thuốc giảm lipid máu

Thay đổi lối sống sau 2-3 tháng mà không đem lại hiệu quả như mong muốn thì chỉ định điều trị với các loại thuốc hạ lipid máu:

  • Nhóm statin (HMG-CoA reductase inhibitors)
    • Tác dụng: ức chế enzym Hydroxymethylglutaryl CoA Reductase là một enzym tổng hợp TC, làm giảm TC nội sinh, kích thích tăng tổng hợp thụ thể LDL-c nên tăng thu giữ LDL-c tại Kết quả sẽ giảm LDL-c, VLDL, TC, TG và tăng HDL-c. Ngoài ra nhóm statin còn giảm quá trình viêm của nội mạc mạch máu, giúp thoái triển mảng xơ vữa, tăng tổng hợp nitric oxide (ON) của tế bào nội mạc.
    • Liều lượng và tên thuốc:
  • Atorvastatin: 10-20mg/ngày, liều tối đa 80 mg/ngày.
  • Rosuvastatin: 10-20mg/ngày, liều tối đa 40 mg/ngày.
  • Simvastatin: 10-20 mg/ngày, liều tối đa 80 mg/ngày.
  • Lovastatin: 20-40 mg/ngày, liều tối đa 80 mg/ngày.
  • Fluvastatin: 20-40 mg/ngày, liều tối đa 80 mg/ngày.
  • Pravastatin: 20-40 mg/ngày, liều tối đa 80 mg/ngày.
    • Tác dụng không mong muốn có thể gặp: tăng men gan, tăng men cơ khi dùng liều cao, hoặc cơ địa người già, hoặc đang dùng nhiều loại thuốc như kháng sinh nhóm macrolide.
    • Thận trọng đối với người bệnh có bệnh lý gan.
    • Chỉ định: tăng LDL-c, tăng TC.
  • Nhóm fibrate
    • Tác dụng: làm giảm TG do kích thích PPAR alpha làm tăng oxy hóa acid béo, tăng tổng hợp enzym LPL, làm tăng thanh thải các lipoprotein giàu TG, ức chế tổng hợp apoC-III ở gan, tăng thanh thải Các fibrat cũng làm tăng HDL do thúc đẩy trình diện apoA-I và apoA-II.
    • Liều lượng và tên thuốc:
  • Gemfibrozil: liều thường áp dụng trên lâm sàng: 600 mg/ngày.
  • Clofibrat: 1000 mg/ngày.
  • Fenofibrat: 145 mg/ngày.
    • Tác dụng không mong muốn:
  • Các triệu chứng rối loạn tiêu hóa như đầy hơi, trướng bụng, buồn nôn, giảm nhẹ chức năng gan, tăng men gan, sỏi mật, tăng men cơ, phát ban. Tác dụng phụ thường xẩy ra khi dùng liều cao, hoặc cơ địa người già, hoặc có bệnh lý thận, gan trước.
  • Làm tăng tác dụng thuốc chống đông, nhất là nhóm kháng vitamin K.
    • Không dùng cho phụ nữ có thai hoặc cho con bú, người bệnh suy gan, suy thận.
    • Chỉ định điều trị: tăng TG.
  • Nhóm acid Nicotinic (Niacin, vitamin PP).
    • Thuốc có tác dụng giảm TG do ức chế phân hủy từ tổ chức mỡ và giảm tổng hợp TG ở gan, ức chế tổng hợp và ester hóa acid béo tại gan, tăng thoái biến apo B, giảm VLDL, giảm LDL, và tăng HDL (do giảm thanh thải apoA-I).
    • Liều lượng và các biệt dược (Niacor, Niaspan, Slo-niacin):
  • Loại phóng thích nhanh: 100 mg/dL, liều tối đa 1000 mg/ngày.
  • Loại phóng thích nhanh: 250 mg/dL, liều tối đa 1500 mg/ngày.
  • Loại phóng thích nhanh: 500 mg/dL, liều tối đa 2000 mg/ngày.
    • Tác dụng không mong muốn: đỏ phừng mặt, ngứa, các triệu chứng rối loạn tiêu hóa như đầy hơi, trướng bụng, buồn nôn, giảm nhẹ chức năng gan, tăng men gan, sỏi mật, tăng men cơ, phát ban, tăng đề kháng Tác dụng phụ thường xẩy ra khi dùng liều cao, hoặc cơ địa tuổi người già, hoặc có bệnh lý thận, gan trước.
    • Chỉ định: tăng LDL-C, giảm HDL-C, tăng TG.
  • Nhóm Resin (Bile acid sequestrants)
    • Resin trao đổi ion Cl-với acid mật, tăng tổng hợp acid mật từ cholesterol, làm tăng bài tiết mật và giảm cholesterol ở gan, kích thích tổng hợp thụ thể LDL-c, tăng thải LDL-c.
    • Liều lượng và tên thuốc:
  • Cholestyramin: 4 -8 g/ngày, liều tối đa 32 mg/ngày.
  • Colestipol liều: 5 -10 g/ngày, liều tối đa 40 mg/ngày.
  • Colesevelam: 3750 g/ngày, liều tối đa 4375 mg/ngày.
    • Chỉ định trong trường hợp tăng LDL-c.
    • Tác dụng không mong muốn: các triệu chứng rối loạn tiêu hóa như đầy hơi, trướng bụng, buồn nôn, táo bón.
  • Ezetimibe
    • Thuốc ức chế hấp thụ TC tại ruột, làm giảm LDL-c và tăng HDL-c.
    • Tác dụng phụ: thuốc rất ít tác dụng phụ, có thể gặp tăng men gan.
    • Liều lượng: 10mg/ngày.
    • Chỉ định: tăng LDL-c.
  • Omega 3 (Fish Oils)
    • Cơ chế tăng dị hóa TG ở gan.
    • Liều thường áp dụng trên lâm sàng: 3g/ngày, liều tối đa 6g/ngày.
    • Tác dụng không mong muốn: các triệu chứng rối loạn tiêu hóa như đầy hơi, trướng bụng, tiêu chảy.
    • Chỉ định trong trường hợp tăng

* Chú ý:

Các thuốc điều trị rối loạn lipid máu đều chuyển hóa qua gan. Do vậy trong thời gian sử dụng thuốc hạ lipid máu, cần cho các thuốc hỗ trợ và bảo vệ tế bào gan.

V.  TIẾN TRIỂN VÀ BIẾN CHỨNG

Rối loạn lipid máu không được điều trị có thể gây ra biến chứng ở các cơ quan:

  • Một số dấu chứng đặc hiệu ở ngoại biên của tăng lipid máu: cung giác mạc, các ban vàng ở mi mắt, u vàng ở gân khuỷu tay, đầu gối, bàn tay, gót chân, màng xương.
  • Một số dấu chứng nội tạng của tăng lipid máu: nhiễm lipid võng mạc (lipemia retinalis), gan nhiễm mỡ, có thể gây viêm tụy cấp.
  • Xơ vữa động mạch: tổn thương động mạch có khẩu kính trung bình và lớn như tổn thương động mạch vành gây nhồi máu cơ tim, tổn thương mạch máu não gây tai biến mạch não, tổn thương động mạch hai chi dưới gây viêm tắc thiếu máu hoại tử bàn chân.

VI.  DỰ PHÒNG

  • Chế độ tiết thực hợp lý.
  • Tăng cường vận động-tập luyện thể lực.
  • Xét nghiệm lipid máu định kỳ, nhất là đối với người có yếu tố nguy cơ như đái tháo đường, béo phì…
  • Khi đã phát hiện có rối loạn lipid máu nên điều trị sớm.

    Phác đồ điều trị rối loạn lipid máu
    Phác đồ điều trị rối loạn lipid máu

Ế cách Đông y và pháp, phương thuốc điều trị

Ế cách, phiên vị là những bệnh do vị không bình thường; và vị khí không giáng. Ế là khi ăn uống, khí đột nhiên bị tắc trở, thức ăn xuống rất khó khăn. Cách là thức ăn nuốt qua họng rồi, xong không xuống vị được phải nôn ra.

Thiên thông bình hư thực luận sách Nội kinh ghi: ở hoành cách bị bế tắc thì trên dưới không thông (cách tắc bế tuyệt, thượng hạ bất thông), về sự hình thành bệnh này, thiên dương minh biệt luận sách Tố vấn cho rằng “tam dương kết là bệnh ế cách”. Cái làm cho “tạm dương kết” là ưu tư làm khí kết và uống rượu quá nhiều. Ưu tư làm đờm khí giao trở. Còn uống rượu quá nhiều, ăn cay nóng quá độ sẽ gây nhiệt tích, nhiệt tích làm thương âm làm tân dịch khô, uất nhiệt ở lâu sẽ làm tắc thực quản, cả 2 đều gây nên ế cách.

Các chứng ung thư thực quản, ung thư dạ dày, co thắt tâm vị, rối loạn chức năng thực quản gần giống chứng ế cách.

Ế cách do ưu tư gây đờm khí giao trở.

Triệu chứng:

  • Nuốt thấy nghẹn, ngực hoành đầy tức, đau âm ỉ, phân sáp, mồm họng khô, người gầy dần, lưỡi đỏ, mạch huyền tế.

Phép điều trị: Khai uất, nhuận táo, hóa đờm.

Phương thuốc: Khải cách tán (Y học tâm ngộ).

Sa sâm 3 đồng cân Đan sâm 3 đồng cân
Bối mẫu 1,5 đồng cân Uất kim 0.5 đồng cân
Vỏ sa nhân 0.5 đồng cân Cuống sen 2 cái.
Cám gạo 0.5 đồng cân

Ý nghĩa: Uất kim, vỏ sa nhân để khai uất lợi khí, Sa sâm, Bối mẫu để nhuận táo .hóa đờm. Đan sâm để hoạt huyết hóa ứ. Nếu dịch mất nhiều, thêm Huyền Sâm, Mạch môn, Mật ong để tăng dịch nhuận táo.

Uất kim trong điều trị đau thần kinh liên sườn
Uất kim trong điều trị đau thần kinh liên sườn
  • Đờm dãi kết tụ hóa hỏa làm tổn thương âm. Phép điều trị: Thanh hỏa hóa đờm.

Phương thuốc: Mạch môn đông thang (Kim quỹ) gia vị.

Mạch môn 5 đồng cân Bán hạ 3 đồng cân
Nhân sâm 3 đồng cân Cam thảo 2 đồng cân
Gạo tẻ 2 đồng cân Đại táo 3quả.

Thêm Trúc lịch, Lô căn (nước cốt), gừng (nước cốt).

Ý nghĩa: Mạch môn để dưỡng âm thanh hư hoả, Bán hạ để giáng nghịch hóa đờm, Bán hạ đi với Mạch môn vừa giảm được tính táo, vừa giữ được giáng nghịch, Nhân sâm để bổ khí, kết hợp Mạch môn để sinh tân. Gạo Đại táo Cam thảo để bồi thổ sinh kim. Trúc lịch, Gừng để tăng tác dụng hóa đờm. Lô căn để giải nhiệt tăng dịch trừ nôn.

Phương thuốc: Tri cách tái tạo hoàn (Cố thị y kính).

Lai phục tử (sắc lấy nước)

Nước cốt hẹ

Nước cốt trắc bách diệp

Nước cốt lê

Trúc lịch

Đồng tiện mỗi thứ nửa bát con

Sữa người

Sữa bò mỗi thứ 1 bát to.

Hoàng liên 2 lạng

Ốc nhồi 50 con (Hai thứ sắc còn 1 bát con).

Cho tất cả cô lại thành 1 bát cao, mỗi lần dùng 1 thìa canh (Chén hạt mít) uống với nước trắng.

Hoặc chỉ dùng sữa người, sữa bò, nước cốt lô căn, nước cốt nhãn, nước cốt lê, nước cốt gừng, luyện vổi mật dùng.

  • Nếu phân kết đen-thành hòn là huyết có nhiệt.

Phép điều trị: Lương huyết nhuận táo.

Phương thuốc: Tứ vật thang gia Hoàng cầm, Chỉ xác Đào nhân Hồng hoa, Đại hoàng.

Ý nghĩa: Tứ vật để dưỡng huyết, Hoàng cầm để thanh nhiệt, Đào nhân Hồng hoa để hành huyết, Chỉ xác để trừ trệ, Đại hoàng để thông phủ khí.

Ế cách do huyết ứ kết ở trong.

Triệu chứng: Ngực hoành đau, ăn nuốt không xuống và nôn ra, nếu nặng thì nước cũng khó xuống dạ dày, phân khô như phân dê, chất nôn như chất đậu đỏ, người gầy, da khô, lưỡi đỏ ít tân dịch hoặc có tím, mạch tế sáp.

Phép điều trị: tư âm dưỡng huyết phá kết hành ứ.

Phương thuốc: Thông du thang (Lam thất bí tàng).

Sinh địa                 Thục địa          Đào nhân.

Hồng hoa              Đương quy Cam thảo.

Ý nghĩa: Đương quy, Thục địa, Sinh địa để tư âm dưỡng huyết, Đào nhân Hồng hoa để phá kết hành ứ. Có thể thêm:

Tam thất, Đan sâm, Xích thược để khứ ứ thông lạc, Hải tảo Cáp phấn, Bối mẫu, Qua lâu để nhuyễn kiên hóa đờm.

Ế cách do khí hư dương suy.

Triệu chứng: Thức ăn uống không xuống được, nôn trào nước dãi trong, mặt phù chân phù, lưỡi nhợt ít tân dịch, mạch tế nhược.

Phép điều trị: ích khí kiện tỳ sinh tân giáng nghịch.

Phương thuốc: Bổ khí vận tỳ thang (Thống chỉ phương)

Nhân sâm 2 đồng cân

Bạch truật 3 đồng cân

Phục linh 1,5 đồng cân

Cam thảo 0,4 đồng cân

Hoàng kỳ 1 đồng cân

Trần bì 1,5 đồng cân

Sa nhân 8 đồng cân

Bán hạ      1 đồng cân

Sinh khương       1 lát

Đại táo       1 quả

Ý nghĩa: Sâm Hoàng kỳ Bạch truật Bạch Linh để bổ khí kiện tì. Trần bì Bán hạ Phục linh Cam thảo Sa nhân để lý khí hóa đờm chỉ nôn. Sinh khương Đại táo để ôn trung dưỡng vị.

Nếu dương hư rõ thêm Can khương Phụ tử để ôn dương. Nếu âm hư rõ thêm Thạch hộc Mạch môn để tư dưỡng tân dịch.

Sai lầm: Mỡ là kẻ thù của sức khỏe và vẻ đẹp của các thiếu nữ

Các cô gái hiện đại ngày nay đều muốn có thân hình thon thả, thướt tha, mượt mà, óng ả, nhất là một số cô gái còn son trẻ, đang ở tuổi kén chồng. Các cô gái rất sợ mình béo nên không dám ăn các thực phẩm có chứa mỡ. Chỉ tiếc rằng mỡ sinh ra trong cơ thể con người cũng không thể một lúc làm cho hết đi ngay được. Trên thực tế, mỡ không những là chất cần thiết không thể nào thiếu được trong sự sinh trưởng, phát dục bình thường của cơ thể; hơn thế nữa, chính nó còn làm cho các cô gái càng thêm xinh thêm đẹp ra rất nhiều chứ không phải như một số người lầm tưởng.

Mỡ là bộ phận hợp thành quan trọng của cơ thể con người. Trong thể trọng của người nam giới ở tuổi trưởng thành, bình thường có khoảng 15% là mỡ. Trên cơ thể nữ giới, tỉ lệ này càng lớn hơn, chiếm khoảng trên dưới 20%, toàn bộ thể trọng. Mỡ ở trong cơ thể có tác dụng hết sức quan trọng trong việc cung cấp nhiệt lượng (với cùng một trọng lượng như nhau thì mỡ có thể cung cấp nhiệt lượng gấp hơn 2 lần so với đường và protein), bảo vệ các cơ quan và tổ chức của cơ thể, ngăn ngừa được sự mất nhiệt lượng trong cơ thể, cung cấp unsaturated fatty acid để duy trì sự thay đổi, chuyển hóa chất được bình thường, thúc đẩy việc hấp thu và sử dụng các loại vitamin có tính hòa tan trong mỡ, bảo vệ được chất protein v.v… Hơn nữa, mỡ ở trong cơ thể cũng là một trong bảy chất dinh dưỡng lớn không thể thiếu được của con người. Các nhà dinh dưỡng học cho rằng trong ăn uống hàng ngày, nhiệt lượng mà mỡ cung cấp phải chiếm từ 20% đến 30% tổng nhiệt lượng mà thức ăn đồ uống cung cấp cho cơ thể.Cách trị hôi nách tại nhà hiệu quả

Đối với các cô gái thì lượng mỡ vừa phải lại rất quan trọng. Y học hiện đại đã từng xác nhận: Lượng mỡ trong cơ thể các cô gái ở độ tuổi dậy thì ít nhất cũng phải chiếm tới trên 17% trọng lượng cơ thể mới có thể có kinh nguyệt lần đầu được. Còn các cô gái sau độ tuổi 16, lượng mỡ trong cơ thể cần phải chiếm tới 22% trọng lượng cơ thể mới có thể duy trì được chu kì kinh nguyệt bình thường. Chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ không chỉ bị chi phối bởi cả 3 bộ phận trong cơ thể (phần dưới khâu não, não thùy thể và buồng trứng cùng chế ước) mà còn bị ảnh hưởng của cả vỏ đại não, màng trong tử cung và lượng mỡ trong cơ thể có nữa. Mỡ có thể điều chỉnh cân bằng kích tố nữ trong cơ thể người con gái. Mỡ ở trong bầu vú, ở bụng, ở trong khoang bụng và trong tủy xương có thể chuyển hóa một chất có kết cấu giống y như kích tố nữ thành kích tố nữ. Mỡ cũng còn có thể tích trữ kích thích tố nữ và làm ảnh hưởng cả đến sự thay đổi chuyển hóa của kích thích tố nữ đó nữa. Ngoài ra, nếu thiếu chất mỡ trong khẩu phần ăn uống hàng ngày sẽ có thể ảnh hưởng đến sự hấp thu và sử dụng các chất vitamin hòa tan trong mỡ như vitamin A, D, E, K và chất carotin trong cơ thể. Nếu cứ thiếu mãi chất mỡ trong cơ thể một thời gian sẽ có thể sinh, ra suy dinh dưỡng nghiêm trọng, gây nên hiện tượng giảm bớt lượng kích tố nữ tiết ra trong cơ thể. Khi lượng kích thích tố tiết ra giảm đi như thế sẽ làm cho các cô gái chậm có kinh lần đầu hoặc bị các chứng bệnh về kinh nguyệt không điều hòa như đau kinh, bế kinh, ra máu có tính chất công năng ở tử cung.

Rất nhiều nữ vận động viên về các môn bóng, môn thể thao điền kinh V. V… và các diễn viên vũ đạo, do phải vận động nhiều và cần làm cho cơ thể mềm mại, nhanh nhẹn, uyển chuyển, linh hoạt, mà lượng lớn mỡ phải tiêu hao trong các hoạt động về vận động của mình lại không được bổ sung đầy đủ trong ăn uống, cho nên thường sẽ sinh ra hiện tượng kinh nguyệt của họ không điều hòa, thiếu ổn định.

Người ta vẫn thường nói “Các cháu gái ở tuổi dậy thì có 18 biến đổi, càng biến đổi càng đẹp ra”. Câu nói này thực tế đã phản ánh tác dụng đặc biệt của mỡ đối với việc làm cho người con gái ở tuổi dậy thì đẹp thêm ra nhiều. Trong thời gian này do cơ thể tiết ra lượng lớn kích thích tố nữ làm cho chất mỡ được tích tụ lại ở ngực, ở bụng, ở mông, ở đùi và ở chân, làm cho người con gái trông trắng trẻo, hồng hào, tươi trẻ, lanh lợi, uyển chuyển hẳn lên. Ngoài ra, mỡ tăng nhiều dưới da cũng làm cho da thịt người con gái trở nên phốp pháp, mịn màng, mềm mại, săn bóng, rất hấp dẫn. Tác dụng vừa làm đẹp cơ thể và làm săn da thắm thịt như thế của mỡ không những đối với các thiếu nữ ở tuổi dậy thì mà còn đối với phụ nữ ở mọi lứa tuổi khác nhau nữa. Mặt khác, mỡ cũng còn có tác dụng rất quan trọng làm cho da thịt chậm bị suy lão, rão rời, dàn deo. Thử tưởng tượng rằng nếu trong cơ thể người phụ nữ mà thiếu chất mỡ, người vêu ra, trông hốc hác, khô khẳng, ngực lép kẹp, mông teo đi, chân tay tóp lại, bụng lép kẹp lại, da dúm dó, nước da tái xám và nhăn nheo, thô cứng, như vậy thì còn có gì là vẻ đẹp phụ nữ nữa!

Sự biến đổi về mặt hình thể ở tuổi dậy thì của các thiếu nữ cũng hoàn toàn phù hợp với nhu cầu sinh lí của người con gái ở các giai đoạn sắp bước vào xây dựng gia đình, thai sản, cho con bú và nuôi con cho đến lúc con trưởng thành. Nếu cơ thể của họ không có sự chuẩn bị tích lũy từ trước, nhất là về mặt năng lượng trong cơ thể, thì đến khi trưởng thành cũng không thể nào gặp thuận lợi trong việc thai sản, nuôi dạy con và cũng không thể đảm nhiệm nổi nhiệm vụ làm mẹ trọn vẹn được. Vì thế, việc tăng cường chất mỡ đối với cơ thể người con gái ở tuổi dậy thì thực sự là sự chuẩn bị cần thiết về mặt sức khỏe để bước vào tuổi thành niên, tuổi làm mẹ sau này của họ.

Vì vậy, việc cung cấp lượng mỡ thích hợp cho cơ thể có thể coi là việc cấp thiết phải làm và mỡ chính là “người bạn cốt thiết của vẻ đẹp quyến rũ của các cô gái đang ở tuổi dậy thì”.

Làm thế nào để biết được trong cơ thể của mình thiếu mỡ hay quá thừa mỡ? Các chuyên gia y học đã mách bảo chúng ta rằng: Nếu thể trọng của bạn nhẹ từ 10% so với thể trọng tiêu chuẩn thì chứng tỏ là lượng mỡ trong cơ thể bị thiếu. Ngược lại, nếu thể trọng vượt quá 10% thể trọng tiêu chuẩn thì chứng tỏ là lượng mỡ trong cơ thể có phần thừa. Chỉ khi xét thấy quá thừa mỡ trong cơ thể thì mới cần hạn chế phần nào việc ăn thêm các loại thực phẩm như thịt mỡ, đường và tinh bột, kết hợp thêm với tăng cường những hoạt động thể thao thể dục cho giảm mỡ đi phần nào là vừa. Do đó, các cô gái muốn cho thân hình khỏe đẹp trắng trẻo, tinh nhanh, mượt mà, hấp dẫn đối với phái mày râu thì chớ có dại dột mà tự ý hạn chế ăn để giảm béo, cũng không được tùy tiện kiêng ăn các thực phẩm cung cấp nhiều mỡ cho cơ thể của mình.

Phải luôn bảo đảm ăn uống đủ chất dinh dưỡng hợp lí và cân đối trong các bữa ăn hàng ngày, kết hợp với tập luyện, vận động thường xuyên, đều đặn, vừa độ, có như vậy mới tạo cho mình có thân hình khỏe đẹp thực sự như mình mong muốn.

 

Khái thấu

Khái niệm

Khái thấu hoặc chỉ gọi là Khái. Khái luận – Tố vấn chuyên bàn về Khái thấu và còn nêu ra “năm tạng sáu phủ đều làm cho người ta Khái, chứ không riêng tạng Phế”. Hoặc gọi là Khái thấu thì thường gọi chung với thượng khí, như Ngũ tạng sinh thành thiên – Tố vấn gọi là “Khái thấu thượng khí”. Trong sách Kim quỹ yếu lược có chỗ gọi liền là “Đờm ẩm khái thấu” Các sách Kim quỹ yếu lược, Hán đại vỗ uy y giản lại gọi là “Khái nghịch”, “Khái nghịch thượng khí”. Có thể thấy từ đời Hán trở về trước các danh từ Khái, Khái thấu, hoặc Khái nghịch đồng nghĩa, vả lại hai thứ Khái thấu với thượng khí (suyễn) và Đờm ẩm liên hệ càng mật thiết, cho nên thường gọi liền nhau. Sách Chư bệnh nguyên hậu luận mới đem ba loại Khái thấu, Thượng khí và Đờm ẩm phân chia rõ ràng và đặt chuyên luận riêng, trong đó “Khái thấu bệnh chư hậu” gồm 15 chuyên luận nêu ra” “Khái thấu là Phế bị nhiễm lạnh, nhẹ thì thành khái thấu”. Nếu cảm nhiễm tà khí ôn nhiệt, thì lập riêng “Thời khí khái thấu hậu”, ”Ôn bệnh khái thâu hậu” để thảo luận. Nếu do nội thương gây nên, lại có “Hư lao khái thấu hậu”. Sách Tố vấn – Bệnh cơ khí nghi bảo mệnh tập viết: “Khái là không đờm mà phát tiếng, do Phế khí tổn thương nên không sạch. Thấu là không có tiếng mà có đờm, do Tỳ thấp bị khuấy động mà thành đờm. Khái thấu là nói vừa có đờm vừa có tiếng, bởi vì Phế khí bị tổn thương lại bị Tỳ thấp khuấy động nên vừa khái, vừa thấu”. Trên lâm sàng, khái, thấu, khái thấu, ba loại này thực ra không cần thiết phải phân biệt cho lắm, mà có thể gọi chung là Khái thấu. Khái thấu là biểu hiện tật bệnh ở bộ phận Phế trên lâm sàng do đờm gây nên; nếu là đờm ẩm khái thấu thì phần nhiều là bệnh chứng của hai tạng Phế Tỳ. Nếu khái thấu khí dồn lên, thì phần nhiều là bệnh chứng của hai tạng Phế Thận (Khí dồn lên với đờm ẩm có thể tham khảo các mục khí suyễn, Khái đờm).

Phân biệt

Chứng hậu thường gặp

Chứng Khái thấu do phong hàn bó ở biểu: Có các chứng trạng khái thấu, tắc mũi, chẩy nước mũi trong, họng ngứa nặng tiếng, đờm loãng sắc trắng, đau đầu phát sốt, ố hàn, hoặc ố phong, khớp xương đau mỏi, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Phù Khẩn hoặc Phù Hoãn.

Chứng Khái thấu do phong nhiệt xâm phạm Phế: Có các chứng khái thấu khó khăn, đờm vàng hoặc đờm trắng dính, khô miệng, đau họng, đau đầu, tắc mũi, mình nóng, Ô phong, tự ra mồ hôi hoặc hơi Ô phong hàn, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch Phù Sác.

Chứng Khái thấu do táo tà hại Phế: Có các chứng khái thấu, đờm ít keo dính khó ra, hoặc trong đờm có lẫn sợi huyết hoặc ho khan không có đờm, khi ho nhiều thì đau ngực, mũi ráo họng khô hoặc yết hầu đau ngứa, cơ thể lạnh mình nóng, đầu lưỡi đỏ rêu vàng, mạch Phù Sác hoặc Tế Sác..

Chứng Khái thấu do thử thấp: Có chứng đờm nhiều mà dính, ngực khó chịu mình nóng, ra nhiều mồ hôi mà bệnh không giải đầu trướng miệng khát không uống nhiều, Tâm phiền mặt đỏ, tiểu tiện sẻn vàng, rêu lưỡi vàng mỏng chất lưỡi đỏ, mạch Nhu Sác. Nếu thử nhiều hơn thấp thì tiếng ho vang rõ, mình nóng mặt đỏ, Tâm phiền, lưỡi hồng, mạch Sác.

Chứng Khái thấu do Phế nhiệt: Có chứng trạng ho mà thở suyễn, đờm vàng dính thậm chí trong đờm có lẫn huyết, mũi miệng phả hơi nóng, miệng đắng họng khô hoặc cảm thấy đau họng, hoặc ngực đau ngực khó chịu, rêu lưỡi vàng, mạch Huyền Sác.

Chứng Khái thấu do Phế táo: Có các chứng ho khan không có đờm, ho đau rút tới ngực, khàn tiếng, mũi ráo họng khô, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi mỏng mà khô, mạch tế hơi Sác.

Chứng Khái thấu do đờm thấp: Có các chứng đờm nhiều sắc trắng, đờm ra được thì hết ho; kiêm chứng ngực bụng trướng đầy, kém ăn uống; hoặc nôn mửa buồn nôn; hoặc nề mặt, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Nhu Hoạt.

Chứng Khái thấu do tỳ hư: Có các chứng khái thuấu, đờm nhiều sắc trắng dễ ho, mặt nhợt hơi nề, thiểu khí thân thể mỏi mệt, sợ lạnh, vùng bụng trướng đầy, kém ăn nhạt miệng, rêu trắng mỏng, mạch Tế.

Chứng Khái thấu do Phế khí hư: Có các chứng khái thấu đoản hơi,đờm trong loãng; sắc mặt trắng nhợt, động làm thì vã mồ hôi, dễ cảm nhiễm ngoại tà, chất lưỡi nhợt bệu, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Hư vô lực.

Chứng Khái thấu do Phế âm hư: Có các chứng ho kéo dài không dứt, đờm ít mà dính hoặc trong đờm có lẫn sợi huyết, íhể trạng gầy còm, miệng ráo họng khô, hoặc tiếng ho khàn khàn. Nếu là âm hư hỏa vượng có thể thấy triều nhiệt, mồ hôi trộm, hụt hơi, vùng ngực đau âm ỉ, chất lưỡi đỏ ít rêu , mạch Tế Sác.

Chứng Khái thấu do Thận dương ỉut: Có các chứng trạng khái thấu đơm trong loãng sàu bọt, ho nặng thì vãi đái, đoản hơi, mệt nhọc thì bệnh tăng, mặt nhợt hơi nề, hoặc mình mẩy chân tay phù thũng, rêu lưỡi trắng chất lưỡi nhợt, mạch Trầm Tế.

Chứng Khái thấu do Can hỏa phạm Phế: Có các chứng trạng khái thấu khí nghịch, đờm ra khó khăn hoặc như vướng mắc mai hạch, hoặc như nút họng khó ho, khi ho thì đỏ mặt và đau lan tới sườn, yết hầu khô ráo, phiền táo dễ cáu giận, ven lưỡi và đầu lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng mà khô, mạch Huyền Sác.

Phân tích

  • Chứng Khái thấu do phong hàn bó ở biểu với chứng khái thấu do phong nhiệt phạm Phế: cả hai chứng đều cảm nhiễm ngoại tà, cho nên đều xuất hiện biểu chứng.

Phong hàn khái thấu, vì tà khí phong hàn bó ở biểu phạm Phế, Phế khí không tuyên thông nên thấy khái thấu; Phế khí không lợi, tân dịch không phân bố được, cho nên đờm loãng sắc trắng, mũi chảy nước trong, Phong hàn bó ở ngoài, tâu lý vít tắc, cho nên đau đầu, phát sốt, ố phong hàn.

Khái thấu do phong nhiệt phạm Phế, do tà khí phong nhiệt phạm Phế, Phế mất đi sự thanh túc, nhiệt hun đốt tân dịch cho nên ho khó khăn, đờm vàng dính, lại thêm khát nước, đau họng. Phong nhiệt quây rối thanh không ở trên, khí huyết ở đầu nghịch loạn, cho nên đau đầu. Chính khí iranh giành với tà khí, công năng hưng phân làm cho thân nhiệt tăng cao mà phát nhiệt. Tà khí xâm phạm biểu, công năng bảo vệ bên ngoài mất bình thường nên ố phong, Tà khí phong nhiệt chủ về thăng phát, sơ tiết, làm cho tấu lý giãn mở mà ra hôi. Hai chứng này nên lấy đặc điểm ở khái thấu, tính chất của đờm và sự khác nhau về kiêm biểu chứng để làm yếu điểm chẩn đoán. Chứng khái thấu do phong hàn bó ở biểu điều trị nên sơ phong tán hàn, tuyên Phế chỉ khái, chọn dung phương Hạnh tô tán gia giảm. Chứng Khái thấu do phong nhiệt phạm Phế điều trị nên sơ phong giải nhiệt, tuyên Phế chỉ khái, chọn dùng phương Tang cúc ẩm gia giảm.

Chứng Khái thấu do phong hàn bó ở biểu có trường hợp biểu tà chưa giải, lý nhiệt đã thịnh hình thành chứng Hàn bao hỏa biểu có hàn, lý có nhiệt, xuất hiện chứng trạng khái thấu suyễn gấp, miệng khô đắng, đờm vàng, thậm chí khi ho đau cả vùng ngực, sắc đờm đỏ tôi, suyễn nặng hơn khái, điều trị nên giải biểu thanh nhiệt, dùng Ma hạnh thạch cam thang gia vị. Nếu biểu tà vào lý hóa nhiệt, chuyển thành Phế nhiệt khái thấu, lâm sàng cũng cần phân biệt. Mục Khái thấu – Chứng nhân mạch trị có trường hợp lấy mạch để phân biệt Thương hàn khái thấu có hóa nhiệt hay không, như “mạch của Thương hàn khái thấu, nếu thấy Phù Khẩn là lý chưa bị uất nhiệt. Nếu thấy mạch Phù Hồng là Phế có uất nhiệt. Khẩn mà đới Sác là hàn bao nhiệt”. Chứng Khái thấu do phong nhiệt phạm Phế cũng có trường hợp biểu giải hoặc chưa giải mà biến sinh Phế nhiệt đã quá thịnh.

– Chứng Khái thấu do táo tả thương Phế với chứng Khái thâu do thử thấp: cả hai cũng do cảm nhiễm ngoại tà gây nên, cho nên cũng gặp trong biểu chứng nhưng phát bệnh đều mang tính thời tiết. Vì tính chất cảm nhiễm tà khí khác nhau, biểu hiện lâm sàng cũng không giống nhau, có thể lấy hai loại hình phong hàn bó ở biểu với phong nhiệt xâm phạm Phế để phân biệt.

Chứng khái thấu do táo tà thương Phế (đây là nói theo Ôn táo. Lương táo là nói khí mát mùa Thu, sau khi gây bệnh điều trị theo loại khái thấu do phong hàn bó ở biểu) thường gặp vào khí hậu khô ráo của mùa Thu, hoặc ăn quá nhiều món cay nóng gây nên. Tà khí táo nhiệt hao thương tân dịch, Phế mất sự thanh nhuận, khí cơ không lợi nên xuất hiện chứng ho khan không có đờm, hoặc đờm ít vàng dính thậm chí đau vùng ngực, Tà khí táo nhiệt tổn thương phế lạc thì trong đờm có lẫn sợi huyết; táo nhiệt thương tân dịch có thể thấy các chứng trạng mũi ráo, họng khô đau, lưỡi khô ít tân dịch. Tà khí táo nhiệt ẩn náu ở cơ biểu, Vị khí không bền mà thấy cơ thể ớn lạnh, mình nóng .v.v… thuộc biểu chứng. Thử thấp thấu tất phải phát bệnh vào thời tiết Trưởng Hạ nóng gay gắt. Thử thấp phạm phế, úng tắc Phế khí mà sinh Thấu, Thấp tà thương Tỳ, Tỳ mất sự kiện vận mà sinh ra đờm, cho nên nhiều đờm; vì thử là dương tà, tính nó viêm nhiệt, nhiệt nặng mà đờm vàng dính, thử thấp tổn thương ở Biểu, có thể thấy thân thể nặng nề, nhiều mồ hôi mà mình nóng không giải, đầu trướng, họng đau… cũng thuộc biểu chứng. Nhiệt tổn thương tân dịch mà khát nước, nhưng thấp ấp ủ ở lý cho nên có lúc khát mà không uống nhiều.

Khái thấu do táo tà hại Phế, điều trị nên tuyên Phế nhuận táo chỉ khái, chọn dùng phương Tang hạnh thang gia giảm. Khái thấu do thử thấp, điều trị theo phép thanh thử tuyên Phế, hóa thấp hòa Tỳ, chọn dùng các phương Tam vật hương nhu ẩm hợp với Tiểu Bán hạ gia Phục Linh thang. Nếu tiếng ho vang rõ, không có đờm hoặc có ít đờm, chủ yếu do tổn thương thử tà, còn thấp tà nhẹ hơn, điều trị theo phép thanh giải thử nhiệt, chọn dùng phương Thanh lạc ẩm gia vị.

– Chứng Khái thấu do Phế nhiệt với chứng Khái thấu do Phế táo: Nhiệt là do hỏa dần dà, đã là hỏa chưa từng không có táo bao giờ, cho nên nguyên nhân bệnh của hai chứng Khái thấu này, tuy một là do nhiệt tà, một là do táo tà, nhưng chứng trạng có chỗ giống nhau, cho nên cần chú ý chuẩn đoán phân biệt.

Nếu Phế bị nhiệt tà thúc bách, Phế khí nghịch lên, thì khái phần nhiều kiêm suyễn, lại có cả những biểu hiện Phế nhiệt như đờm vàng dính, miệng đắng họng đau, khát nước, đại tiện khô, lưỡi đỏ rêu vàng, mạch Sác.

Nếu táo tà hại Phế, hun đốt tân dịch, đến nỗi tân dịch bị hao tổn, Phế mất sự tư dưỡng, khí đạo khô ráo thì ho khan không đờm, mũi ráo họng khô, khàn tiếng, ho đau cả vùng ngực.

Khái thấu do Phế nhiệt với Phế táo, đều do Khái làm cho ngực sườn đau nên căn cứ vào kiêm chứng khác nhau mà phân biệt, Phế nhiệt khái thấu điều trị nên thanh Phế hóa đờm, chọn dùng phương Tả bạch tán gia vị, Phế táo khái thấu điều trị riên thanh nhiệt nhuận táo, sinh tân chỉ khái, chọn dùng phương Thanh táo cứu Phế thang gia giảm.

– Chứng Đờm ẩm Khái thấu với chứng Tỳ hư khái thấu: Cả hai đều có những chứng trạng do đờm thấp gây bệnh, nhưng nguyên nhân và cơ chế bệnh lại khác nhau.

Đờm ẩm khái thấu là do đờm thấp úng thịnh, ho do đơm sinh ra cho nên có đặc điểm là đờm ra được thì hết ho. Là biểu hiện tổng hợp cả đờm thấp úng thịnh với Tỳ mất sự vận chuyển mạnh như các chứng trạng ăn uống kém, ngực bụng trướng đầy hoặc nôn ọe nề mặt.

Tỳ hư khái thấu chủ ỳếu do Tỳ khí hư yếu mất chức năng vận hóa, tụ thấp sinh đờm, đờm thấp ngăn trở Phê mà khái thâu, cho nên đờm nhiều sắc trắng dễ ho. Chứng này còn kiêm biểu hiện cả chứng Tỳ khí hư yếu như các chứng trạng thiểu khí, mặt nhợt hơi nề, kém ăn, đại tiện nhão.

Đờm ẩm khái thấu điều trị theo phép kiện Tỳ táo thấp, hóa đờm chỉ khái, chọn dùng các phương Nhị trần thang hợp với Bình Vị tán gia giảm. Tỳ hư khái thấu điều trị theo phép kiện Tỳ ích khí, táo thấp hớa đờm, chọn dùng phương Lục quân tử thang gia giảm.

Đờm ẩm khái thấu, nếu đờm thấp uất kết hóa nhiệt thì thấy đờm vàng dính, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Hoạt Sác, đấy là vì khái thấu do đờm nhiệt, điều trị nên thanh nhiệt hóa đờm, dùng Vi hành thang hợp với Tiểu hãm hung thang gia giảm. Nếu vốn có đờm ẩm hoặc thủy khí tích đọng ở trong lại kiêm cảm hàn tà, hình thành chứng hàn ẩm ứ đọng hoặc lại do ngoại tà chưa sạch mà khái thấu, xuất hiện các chứng khạc ra đờm trắng trong loãng, hung cách đầy tức thậm chí ẩu nghịch cơ thể lạnh, điều trị nên ôn Phế hóa ẩm, dùng phương Tiểu thanh long thang gia giảm.

– Chứng Khái thấu do Phế khí hư với chứng Khái thấu do Phế âm hư: Đều thuộc khái thấu Hư chứng. Phế khí hư khái thấu nhiều do cơ thể vốn dương khí bất túc,

Phế khí hư yếu hoặc hàn ẩm đọng ở trong tổn hại Phế khí, đến nỗi Phế mất công năng túc giáng tạo nên khái thấu. Còn Phế âm hư khái thấu phần nhiều do thể chất vốn âm hư hỏa vượng, hoặc đờm nhiệt nghẽn ở trong, hoặc sau khi bị nhiệt bệnh Phế âm hao thương, khí mất thanh túc mà khái thấu. Đặc điểm biện chứng là: Phế khí hư yếu tất phải biểu hiện công năng của Phế giảm sút, như các chứng tiếng nói nhỏ yếu, đoản hơi, sắc mặt trắng nhợt, Phế hợp với bì mao, khả năng tuyên phát vô lực thì khả năng bảo vệ bên ngoài không bền, cho nên tự ra mồ hôi, sợ gió và dễ cảm mạo, Phế âm hư khái thấu thì do Phế mất đi sự tư nhuận nên Phế khí nghịch lên, cho nên ho khan ít đờm, tiếng ho khàn đục, miệng ráo họng khô. Âm hư hỏa vượng thì kiêm chứng về buổi chiều triều nhiệt, mồ hôi trộm, ngũ Tâm phiền nhiệt v.v… vả lại dễ động đến âm huyết, Phế lạc bị tổn hại nên ho ra đơm có lẫn sợi huyết. Phế khí hư khái thấu, điều trị nên bổ Phế ích khí, chọn dùng phương Bổ Phế thang hợp với Ngọc bình phong tán, Phế âm hư khái thấu, điều trị nên dưỡng âm chỉ khái, chọn dùng phương Sa sâm mạch đông thang. Nếu âm hư hỏa vượng, trong đơm có lẫn sợi huyết, nên dưỡng âm thanh nhiệt, nhuận Phế chỉ khái, dùng phương Bách hợp cố kim thang.

– Chứng thận dương hư Khái thấu: Phần nhiều gặp ở người thể chất vốn dương hư hoặc người cao tuổi yếu sức, ho lâu ngày không dứt, bệnh liên lụy đến Thận gây nên, Thận chủ xương chứa tinh và nạp khí, Thận dương hư thì nạp vô lực cho nên ho thường kiêm suyễn hoặc thường suyễn trước rồi mới dẫn đến khái thâ^u, hô hấp khó khăn thậm chí cảm thấy luồng hơi từ dưới rốn xông ngược lên, sau khi mệt nhọc thì các chứng trạng nặng thêm. Thận thuộc thủy, Thận dương hư thì thủy thấp trào lên thành đờm nên đờm có vị mặn. Thận chủ về nhị tiện, Thận khí không bền cho nên ho nhiều thậm chí vãi đái. Điều trị phải ôn bổ Thận dương, chọn dùng phương Thận khí hoàn gia ngũ vị tử, Bổ cốt chi .v.v… Nếu Khái thấu nặng, đờm nhiều có vị mặn thì nên bể Thận hóa đơm, dùng phương Kim thủ Lục quân tiễn.

– Chứng Khái thấu do Can hỏa phạm Phế: Chứng này phần nhiều do cáu giận hại Can, Can không được sơ tiết, Can vượng vũ Phế, Phế khí nghịch lên gây nên. Đặc điểm chứng trạng là biểu hiện Can khí uất kết như: ngực sườn đau bức bối, tình chí bực dọc, phiền táo dễ giận và chứng trạng Phế khái nghịch lên như: khái thấu khí nghịch, hoặc ho mà suyễn dồn dập, đồng thời biểu hiện cả chứng trạng khí uất đờm kết ho khó ra đờm hoặc đờm như hạt mơ, như vữa… Điều trị nên thư Can giải uất, hành khí hóa đờm, chọn dùng phương Tiêu giao tán hợp với Bán hạ hậu phác thang gia giảm. Nếu uất mà hóa hỏa, miệng đắng đờm vàng, lưỡi hồng, mạch Huyền mà Sác, nên thanh Can tả hỏa, nhuận Phế hóa đờm, chọn dùng phương Thanh kim hóa đờm thang hợp với Đại cáp tán.

Chứng Khái thấu, trước tiên phải phân biệt là ngoại cảm khái thâu hay nội thương khái thấu. Nói chung ngoại cảm khái thâu phần nhiều có nguyên nhân gây bệnh rõ ràng, phát bệnh khá gấp, bệnh trình ngắn, mà đặc điểm là tất phải kiêm, biểu chứng, phần nhiều thuộc thực chứng. Nội thương khái thâu thường không có dụ nhân rõ ràng, phát bệnh từ tờ, bệnh trình khá dài, đặc biệt là khái thấu thuộc Phế âm hư và Khái thấu thuộc Thận dương hư, phần nhiều lâu không khỏi hoặc hay tái phát, loại này đa số là hư chứng.

Biện chứng Khái thâu phải nắm vững đặc điểm giữa Khái và Đờm. Nếu Khái thâu nặng về ban ngày là nhiệt, là táo, nặng về ban đêm là Thận hư, Tỳ hư hoặc, đờm thấp, về phương diện phân biệt đờm, đờm trong loãng thuộc hàn thuộc thấp, keo dính thuộc nhiệt thuộc táo, đờm sắc trắng thuộc phong – hàn – thấp, đờm sắc vàng thuộc nhiệt, đờm nhiều là thuộc đờm thấp. là Tỳ Thận hư, đờm ít phần nhiều là phong hàn bó ở biểu hoặc âm hư .v.v… Táo khái thì đờm ít mà khó ra, thậm chí không có đờm.

Trích dẫn y văn

Nửa ngày về sáng mà Thấu nhiều là trong Vị có hỏa, dùng Bối mẫu, Thạch cao để giáng Vị hỏa. về chiều mà Thấu nhiều, thuộc âm hư, phải dùng đến Tứ vật thang gia sao Hoàng bá, Tri mẫu để giáng hỏa. sẩm tối ( hoàng hôn) mà thấu là hỏa khí trôi nổi ở Phế, không nên dùng thuốc mát, mà nên dùng Ngũ vị tử, Ngũ bội tử để liễm mà giáng xuống. Thấu nhiều vào khoảng canh năm đó là trong VỊ có thực tích, lúc này hỏa khí trôi vào Phế, dùng Tri mẫu, Địa cốt bì để giáng hỏa ở Phế (Khái thấu – Đan Khê Tâm phát).

Khái thấu cứ đến mùa Thu Đông thì phát, đó là hàn bao nhiệt, chỉ cần giải bỏ hàn thì nhiệt sẽ tan, nên dùng ba phương Lục an tiễn, Nhị trần thang, Kim thủy Lục quân tiễn. Xét theo hư thực trẻ già mà tùy nghi chọn dùng; nếu như nội nhiệt nặng, chớ e ngại phải dùng kèm thêm Hoàng cầm, Tri mẫu (Khái thấu – Cảnh nhạc toàn thư).

Có tiếng không đờm gọi là Khái, không phải là không có đờm mà là đờm khó ra, bệnh ở Phế, Phế chủ tiếng, cho nên tiếng ra trước mà đờm ra sau. Có đờm không tiếng gọi là Thấu, không phải là không có tiếng mà là đờm theo thấu mà ra, thanh không vang lắm, bệnh ở Tỳ, Tỳ chứa đờm, cho nên đờm ra thì thấu ngừng (Khái thấu háo suyễn nguyên lưu – Tạp bệnh nguyên lưu tê chúc).

Điều trị loét dạ dày tá tràng

ĐẠI CƯƠNG

Điều trị loét dạ dày tá tràng trong vài thập kỉ gần đây có nhiều tiến bộ đáng kể và đã làm đảo lộn chiến lược điều trị cổ điển trước đây chủ yếu là: điều trị ngoại khoa bằng cắt dạ dày loại trừ ổ loét. Chiến lược điều trị hiện nay coi điều trị nội khoa là chính, nếu không khỏi mới phải phẫu thuật cắt dạ dày. Do đó mổ cắt dạ dày điều trị loét đã giảm khá nhiều, tới 80 – 90% so với trước đây, Sở dĩ có những tiến bộ lớn như vậy là nhờ:

  • Phát hiện vi khuẩn Helicobacter pyloricó vai trò quan trọng trong nguyên nhân gây loét.
  • Hiểu biết mới về cơ chế bài tiết
  • Tìm ra nhiều thuốc mới rất có hiệu quả để làm giảm bài tiết HCl cũng như làm tăng yếu tố bảo vệ niêm mạc dạ dày.

NGUYÊN TẮC CHUNG

  1. Điều trị nội khoa trước (dù ổ loét to, chảy máu…) một cách tích cực, đầy đủ và đúng cách, kiên trì. Nếu không có kết quả mới phải phẫu thuật.
  2. Nếu phải phẫu thuật, nên cắt dây thần kinh phế vị trước, cắt dạ dày sau.

CÁC THUỐC ĐIỀU TRỊ LOÉT

  1. Các thuốc tác dụng đến thân não

Metoclopramiđ: Primperan viên 10 mg, 3 – 4 v/ngày.

Sulpirid: Dogmatil, viên 50 mg, 3-4 v/ngày.

  1. Các thuốc ức chế bài tiết HCl

  • ức chế cơ quan thụ cảm muscarid

Pyrenzepin, Gastrozepin: Tác dụng mạnh hơn atropin nhưng cũng có những biến chứng như atropin..

Liều lượng, cách dùng: 100-150mg/ngày, chia nhiều lần trong ngày, phải dùng trước khi ăn 30 phút

  • Thuốc chống H2: ức chế cơ quan thụ cảm với histamin của tế bào thành. Thuốc thuộc nhóm này đến nay có tới 5 thế hệ:

Cimetidin, ranitidin, nizatidin, roxatidin và famotidin. Thuốc càng mới càng ít độc hơn mà tác dụng lại mạnh hơn, kéo dài hơn ít tái phát hơn.

  • Cimitidin, (Tagamet): lg/ngày.30 ngày, uống nhiều lần trong ngày, trong đó có 1 lần uống buổi tối trước khi đi ngủ. Thuốc có độc tính với gan và thận do đó phải theo dõi transaminase và Creatinin trong khi dùng. Tỉ lệ tái phát sau 1 năm là 90%-100%
  • Famotidin (Servipep, Pepdin…) viên 20 mg

Liều lượng cách dùng: 40mg/ngày. 4 tuần, uống 1 lần vào buổi tối trước khi đi ngủ. Tỉ lệ tái phát ít hơn nhiều so với cimetidin.

  • Thuốc ức chế bơm Proton: Ưc chế hoạt động của men ATPase do đó K+ không vào trong tế bào được, và H+ không ra ngoài tế bào để tạo nên HCl. Do đó HCl không được hình thành.

Lansoprazol: Lanzor, Ogast: viên 20 mg

Omeprazol: Mopral, Lomac, Losec, Prilosec… viên 20 mg.

Liều lượng, cách dùng:       20 mg/ngày.   4   –    8    tuần.

40 mg/ngày. 2-4 tuần

uống 1 lần vào buổi tối trước khi đi ngủ.

  • Prostaglandin El, E2: chúng có hai tác dụng:
  • Chống bài tiết HCl.
  • Tăng tiết nhầy và bicarbonat Liều lượng, cách dùng:

Misoprostol (Cytotec, Dimixen) 800 ịig/ngày. 4 tuần.

Enprotil: 70 ng/ngày

Tác dụng phụ: ỉa chảy, chóng mặt, đầy bụng. Phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ cần dùng thận trọng.

  1. Thuốc trung hoà acid

Trung hoà H+ của HCl, đưa dịch vị lên trên 3 làm cho HCl bị loại bỏ, không còn hoạt động. Các thuốc thuộc nhóm này đều là muối của nhôm và magie: carbonat, phosphat, trisilicat, hydroxyt. Các biệt dược có rất nhiều: Maalox, Gelox, Polysilanegel, Gastrogel, Gâsưopulgite, Phosphalugel…

Liều lượng cách dùng: liều lượng tuỳ theo từng biệt dược, cần uống nhiều lần trong ngày, uống sau khi ăn 30phút – 1 giờ để duy trì dịch vị luôn luôn trên 3 – 3,5.

Tác dụng phụ: ỉa chảy, sỏi thận, kiềm hoá máu.

  1. Thuốc tạo màng bọc

Gắn với protein hoặc chất nhầy của niêm mạc dạ dày tạo thành màng che chở niêm mạc dạ dày, nhất là che chở cho ổ loét. Có rất nhiều loại thuốc:

Kaolin, Smecta, Gelpolysilan

Actapulgit, Gastropulgit

Bismuth:     Subcitrat bismuth (Trymo)

Tripotasium dicitrat bismuth sucralíat

Liều ỉượng: 480 mg/ngày, chia nhiều lần, uống trước khi ăn.

Thuốc diệt Hélicobacterpylori: Ngoài các thuốc ức chế bơm proton, muối bismuth, có rất nhiều kháng sinh có tác dụng diệt HP, nhưng một số kháng sinh sau đây có tác dụng nhất: Tetracyclin, amoxicillin, claritromycin và metronidazol.

ÁP DỤNG THỰC TẾ

Cần được chẩn đoán ổ loét bằng nội soi hoặc ít nhất bằng X quang. Đánh giá kết quả cũng bằng nội soi hoặc X quang dạ dày.

  1. Điều trị khi ổ loét đang tiến triển

Có thể dùng một trong các loại thuốc chống bài tiết HC1, thuốc chống acid, thuốc tạo màng bọc trên đây với liều tấn công không nhất thiết phải phối hợp 2-3 loại thuốc, mà có thể dùng một loại riêng rẽ, cũng có kết quả. Không nhất thiết phải dùng các thuốc mới nhất, đắt tiền nhất mới có kết quả. Các thuốc chông bài tiết HC1, cũng như các thuốc chông acid thuốc tạo màng bọc có tác dụng liền sẹo gần tương tự nhau, nếu được dùng đúng cách, đầy đủ.

  • Thuốc phối hợp:

Dogmatil, Primperan

  • Thuốc diệt HP.
  • Chc’ độ ăn uống: Không uống rượu, thuốc lá, cà phê tránh các chất kích thích gia vị, hạt tiêu, ớt, dấm…
  1. Khi ổ loét đã lành sẹo

Có người cho rằng không cần điều trị duy trì, khi nào loét tái phát sẽ điều trị lại.

Có người chủ trương phải tiếp tục điều trị duy trì. Có thể đùng: thuốc ức chế thụ thể H2, ức chế bơm proton nhưng liều lượng và cách dùng giảm 1/3 hoặc 1/4 so với liều tấn công. Thuốc tạo màng bọc như,Gasưopulgit, Phosphalugel, Gel de polysilan… cũng với liều lượng giảm bằng 1/3 hoặc 1/4 so với liều tấn công.

Thời gian điều trị duy trì tuỳ theo từng người từ 6 tháng đến vài năm.

  1. Điều trị ổ loét chảy máu

Nên dùng các thuốc ức chế thụ thể H2 hoặc ức chế bơm proton loại tiêm, trong 2

  • 3 ngày đầu khi máu đang chảy, khi máu đã cầm thì dùng thuốc uống.

loet-da-day-dieu-tri loet-da-day-dieu-tri-2

Thuốc Daflon 500 mg

Thuốc Daflon 500 mg
Thuốc Daflon 500 mg
Điều trị các triệu chứng có liên quan đến suy tuần hoàn tĩnh mạch bạch huyết (nặng chân, đau, chân khó chịu vào buổi sáng sớm). Điều trị các dấu hiệu chức năng có liên quan đến cơn đau trĩ cấp.

DAFLON 500 mg

Viên bao 500 mg: hộp 30 viên.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Phân đoạn flavonoide tinh khiết, dưới dạng vi thể 500 mg
tương ứng: Diosmine 450 mg
tương ứng: Hespéridine 50 mg

DƯỢC LỰC

Thuốc trợ tĩnh mạch và bảo vệ mạch máu.

  • Về dược lý: Daflon 500 mg có tác động trên hệ thống mạch máu trở về tim :
  • ở tĩnh mạch, thuốc làm giảm tính căng giãn của tĩnh mạch và làm giảm ứ trệ ở tĩnh mạch ;
  • ở vi tuần hoàn, thuốc làm bình thường hóa tính thấm của mao mạch và tăng cường sức bền của mao mạch.
  • Về dược lý lâm sàng: các nghiên cứu mù đôi có kiểm soát trong đó sử dụng các phương pháp cho ph p quan sát và đánh giá hoạt tính của thuốc trên động lực máu ở tĩnh mạch đã xác nhận các đặc tính dược lý của Daflon 500 mg trên người.

Tương quan giữa liều dùng và hiệu lực :

Mối tương quan liều dùng/hiệu lực, có ý nghĩa đáng kể về phương diện thống kê, được thiết lập dựa trên các thông số của phương pháp ghi biến đổi thể tích của tĩnh mạch: dung kháng, tính căng giãn và thời gian tống máu. Các kết quả cho thấy rằng tương quan tốt nhất giữa liều dùng và hiệu lực thu được khi dùng 2 viên/ngày.

Tác động trợ tĩnh mạch :

Thuốc làm tăng trương lực của tĩnh mạch: dùng máy ghi biến đổi thể tích cho thấy có sự giảm thời gian tống máu ở tĩnh mạch.

Tác động trên vi tuần hoàn :

Các nghiên cứu mù đôi có kiểm soát cho thấy rằng có sự khác nhau đáng kể về mặt thống kê giữa thuốc và placebo. Ở bệnh nhân có các dấu hiệu mao mạch bị giòn, dễ vỡ, thuốc làm tăng cường sức bền của mao mạch được đo bằng phương pháp đo sức bền của mạch máu (angiosterrométrie).

  • Trên lâm sàng: các nghiên cứu mù đôi có kiểm soát cho thấy thuốc có tác động điều trị trong bệnh tĩnh mạch, trong điều trị suy tĩnh mạch mãn tính chi dưới, chức năng và thực thể.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Ở người, sau khi uống thuốc với diosmine được đánh dấu với carbone 14 :

  • bài tiết chủ yếu qua phân và bài tiết qua nước tiểu trung bình khoảng 14% so với liều dùng ;
  • thời gian bán thải là 11 giờ ;
  • thuốc được chuyển hóa mạnh, được ghi nhận qua sự hiện diện của nhiều acide phénol khác nhau trong nước tiểu.

CHỈ ĐỊNH

Điều trị các triệu chứng có liên quan đến suy tuần hoàn tĩnh mạch bạch huyết (nặng chân, đau, chân khó chịu vào buổi sáng sớm).

Điều trị các dấu hiệu chức năng có liên quan đến cơn đau trĩ cấp.

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG và THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Cơn đau trĩ cấp: cần phân biệt với các bệnh hậu môn vì thuốc không thể thay thế được các trị liệu chuyên biệt cho các bệnh hậu môn khác. Điều trị ngắn hạn. Nếu các dấu hiệu vẫn dai dẳng, phải khám nghiệm trực tràng và xem xét lại sự trị liệu.

LÚC CÓ THAI

Các nghiên cứu ở động vật cho thấy thuốc không có khả năng gây quái thai. Mặt khác, ở người, cho đến nay không có một tác dụng xấu nào được ghi nhận.

LÚC NUÔI CON BÚ

Do không có số liệu về khả năng thuốc có qua được sữa mẹ hay không, khuyên các bà mẹ không nên cho con bú trong thời gian điều trị.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Một số trường hợp gặp rối loạn tiêu hóa và rối loạn thần kinh thực vật nhẹ, không cần phải ngưng điều trị.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Suy tĩnh mạch (đau chân, nặng chân, phù chân, giãn tĩnh mạch, sau viêm tĩnh mạch, vọp bẻ (chuột rút)): 2 viên/ngày, chia làm 2 lần vào buổi trưa và buổi tối trong các bữa ăn.

Cơn đau trĩ cấp tính: 6 viên/ngày, trong 4 ngày đầu ; sau đó 4 viên/ngày, trong 3 ngày ; duy trì 2 viên/ngày.

Trĩ mạn tính: 2 viên/ngày.

Chứng chán ăn do tâm lý và điều trị

Tên khác: chán ăn do thần kinh.

Định nghĩa

Bệnh gặp chủ yếu ở nữ giới vị thành niên, biểu hiện bằng sợ (tới mức bệnh hoạn) bị béo phì, tự hạn chế ăn uống, bị gầy nhiều và vô kinh.

Căn nguyên

Không rõ. 95% số trường hợp xảy ra ở các thiếu nữ trước hoặc sau tuổi dậy thì. Phần lớn số trường hợp có rối loạn chức năng của vùng dưới đồi với các rối loạn điều hoà hormon hướng sinh dục (vô kinh), tiểu nhạt không hoàn toàn và rối loạn điều hoà thân nhiệt.

Triệu chứng

  • Thiếu nữ hoặc phụ nữ trẻ bị ám ảnh về thân hình của mình, sợ bị béo phì (ngay cả khi gầy) và sợ các vấn đề liên quan đến tính dục, đặc biệt là không chấp nhận giới tính của bộ máy sinh dục và không thể chấp nhận những biến đổi của thân thể khi dậy thì. Đôi khi bắt đầu bởi một biểu hiện sốc tâm lý. Rất hiếm khi bệnh nhân tự mình đi khám bệnh. Bệnh nhân bị sút cân nhiều nhưng thường không công nhận hoặc đánh giá thấp việc này.
  • Chán ăn là một thuật ngữ không phù hợp vì bệnh nhân không mất cảm giác thèm ăn mà là bệnh nhân chủ động chống lại cơn đói, dẫn tới một hành vi ăn uống khác. Bệnh nhân không coi đây là bệnh và thường đến khám vì một bệnh khác.
  • Chán ăn có thể xen kẽ với các cơn ăn vô độ (chán ăn-ăn vô độ) kèm theo nôn (tự phát hay do bi kích thích) hoặc tiêu chảy (lạm dụng thuốc tẩy).
  • Gầy sút: có thể mất tới 50% trọng lượng cơ thể; đôi khi mất cân nhiều hơn và nhanh hơn do dùng thuốc tẩy và / hoặc thuôc lợi tiểu khiến cho bị rối loạn cân bằng nước-điện giải nặng, đặc biệt là giảm kali huyết.
  • Huyết áp thấp, nhịp tim chậm, thân nhiệt giảm, hay gặp xanh tím ở đầu ngón tay, ngón chân.
  • Bao giờ cũng bị vô kinh. Vô kinh có trước khi bị sút cân trong 1/3 số trường hợp và sẽ có kinh lại khi lấy lại được cân nặng.
  • Không nên coi nhẹ nguy cơ bị tổn thương tim.
  • Chán ăn do tâm lý hiếm gặp ở con trai (10%) và thường tiến triển tối bệnh tâm thần phân liệt.
  • Bệnh nhân cần được nằm viện nếu bị rối loạn chuyển hoá nặng (kali huyết thấp < 2,5 mmol/l; urê >11 mmol/l), nhịp tim chậm <40 lần/phút, huyết áp tâm thu < 70 mmHg hoặc có nguy cơ tự sát.

Xét nghiệm cận lâm sàng: thiếu máu, giảm bạch cầu, kali huyết thấp, albumin huyết thấp, urê huyết tăng. Các xét nghiệm có thể cho thấy rối loạn chức năng vùng dưới đồi như giảm FSH và LH (xem thiểu năng tuyến yên).

Chẩn đoán

Thiếu nữ hoặc phụ nữ trẻ.

Xuất hiện trước 25 tuổi.

Mất < 25% cần nặng so với trước.

Tự hạn chế ăn uống.

Vô kinh, nhịp tim chậm, huyết áp thấp, lông tóc mọc nhiều, có các cơn ăn vô độ, nôn do bị kích thích, lạm dụng thuốc tẩy.

Chẩn đoán phân biệt:xem chứng ăn vô độ.

Tiên lượng

1/3 số trường hợp tự khỏi; 1/2 số trường hợp nặng thêm (trong đó 5% do nằm liệt giường hoặc tự sất); 1/3 sống khó khăn với các rối loạn tâm thần, nhất là bị trầm cảm, đôi khi bị chứng sợ hãi hoặc ám ảnh; các quan hệ tình cảm, xúc cảm và nghề nghiệp bị nghèo nàn dần.

Điều trị

Điều trị triệu chứng: nếu bị mất cân nhiều hoặc nhanh thì cần phải nằm viện để tăng cân lại. Điều trị tận gốc: lâu dài và khó khăn, bao gồm: tâm lý liệu pháp gia đình và cá nhân; có thể bằng tâm lý liệu pháp dựa trên phân tâm học. Ngoài ra còn có phương pháp cách ly và tăng cân bắt buộc; phương pháp bi kịch tâm lý (psychodrame) của Moreno đòi hỏi cả một ê kíp thực hiện.

DASH và chế độ tiết thực phòng bệnh tăng huyết áp

DASH (Dietary Approaches to Stop Hypertension) có nghĩa là cách tiếp cận bằng chế độ ăn để chặn đứng tăng huyết áp. Đây là chế độ ăn do Viện quốc gia Tim, phổi và máu của Mỹ đề xuất và đã được kết luận có kết quả tốt sau một thời gian thử nghiệm: Có tác dụng giảm huyết áp và có thể giúp ích trong việc phòng ngừa và kiểm soát bệnh Tăng huyết áp.

Chế độ ăn của người bị tăng huyết áp
Chế độ ăn của người bị tăng huyết áp

Đây là một chế độ ăn giàu trái cây, rau xanh và các chế phẩm từ sữa có hàm lượng chất béo thấp, có hàm lượng cholesterol thấp, cao về chất xơ và các khoáng chất kali, calci, magne, hàm lượng đạm cao vừa phải. Khẩu phần dinh dưỡng 2000 Kcal được cân đối theo tỷ lệ: Đạm – Bột đường – Mỡ là: 18- 55- 27

Bảng 2. Khẩu phần ăn DASH được “Việt hóa”

Nhóm thức ăn Số phần cho 2000 Kcal (P18: L27: G55 %)
Lương thực cơ bản
Bánh phở 138g; gạo 200g 9
Rau các loại: 430g 10
Hoa quả: 120g chuối + 127g đu đủ chín 2
Thức ăn giàu đạm
Sữa bột gầy 45g, cá thu 80g, đậu phụ 137g, thịt gà 48 g 12
Dầu mỡ (bổ sung) 40g
Đường (bổ sung) 4 thìa cà phê
Nước chấm măn (bổ sung) (# 1 thìa cà phê muối)

Năm 1997, Viện dinh dưỡng Việt Nam cũng đã khuyến cáo một thực đơn dành cho người bệnh Tăng huyết áp với các chỉ tiêu dinh dưỡng như sau:

  • Năng lượng cung cấp: 1800 – 1900 Kcalo
  • Cân đối khẩu phần dinh dưỡng:

+ Tỷ lệ Đạm – Bột đường – Mỡ là: 14 – 73 – 13

+ ít natri, giàu kali: Hạn chế muối và bột ngọt: dưới 2-4g/ngày.

+ Ăn nhiều rau xanh, hoa quả để bổ sung kali

+ Hạn chế các chất kích thích như rượu, cà phê.

Cà phê làm tăng nguy cơ biến chứng của tăng huyết áp
Cà phê làm tăng nguy cơ biến chứng của tăng huyết áp
  • Tăng sử dụng các thức ăn, đồ uống có tính chất an thần, hạ áp, thông tiểu: Ngó sen, lá vông, hoa hoè, nước râu ngô….

Theo Bác sĩ Nguyễn Lân Đính, so với chế độ ăn DASH, ưu điểm nổi bật của chế độ ăn này:

  • Chất bột đường vẫn là khẩu phần cơ bản. Chất béo và đạm có giảm so với chế độ tiết thực DASH để phù hợp với người Việt Nam.
  • Giảm muối và natri: Không quá 1 thìa cà phê muối hoặc 4 thìa nước mắm.

Hạn chế bột ngọt: 1g/ngày

  • Hạn chế rượu bia:

Rượu vang chát: nam giới ngày 2 cốc rượu, nữ giới 1 cốc (150ml)

Bia: nam giới ngày 2 lon, nữ giới ngày 1 lon

  • Người có thói quen ăn vặt, nên ăn các loại trái cây đóng hộp không đường hoặc muối như: Chuôi khô, nho khô, đào khô, hạt dẻ, sữa chua, ngô rang, lạc rang, khoai, sắn….

 

Tác dụng của Quả Kim Anh – Kim anh tử dùng trong Đông y

Cây kim anh nhỏ mọc leo thành bụi phân nhiều nhánh, dài tới 10m, thân cành có gai, lá kép. Hoa to màu trắng, mọc đơn ở đầu cành non. Đế hoa lớn lên thành quả giả, hình cái chén có gai, trong đó có nhiều quả bé nhỏ hình bầu dục không đều.

Cây kim anh mọc ở nhiều vùng của nước ta. Quả kim anh được dùng làm thuốc chữa bệnh.

Cây kim anh nhỏ mọc leo thành bụi phân nhiều nhánh
Cây kim anh nhỏ mọc leo thành bụi phân nhiều nhánh

Theo Đông y, quả kim anh có vị chua, ngọt, chát, tính bình. Tác dụng cố tinh thu liễm, chỉ tả, chữa di tinh, bạch đới, són đái, tiêu chảy, lỵ kéo dài, đổ mồ hôi, ho lâu ngày.

Thuốc ứng dụng từ kim anh tử:

Bài 1. Thuốc chữa bệnh di tinh

+ Quả kim anh 20g

+ Củ sung 14g

+ Cẩu tích 16g

Các vị thuốc cho vào nồi cùng 400ml nước đun kỹ, chắt lấy 180ml nước đặc. Người bệnh chia đều 3 lần uống hết trong ngày, trước bữa ăn. cần uống liền 3-4 ngày.

Kim anh tử
Kim anh tử

Bài 2. Thuốc chữa bệnh liệt dương

+ Quả kim anh 160g

+ Sa nhân 80g

+ Mật ong 50g

Quả kim anh bỏ gai, nhân, cùng sa nhân tán nhỏ luyện mật, viên bằng hạt ngô phơi khô. Người bệnh mỗi lần uống 20 viên với rượu hâm nóng, ngày 2 lần, trước bữa ăn. cần uống liền 15-20 ngày.

Bài 3. Thuốc chữa bệnh tiêu chảy

+ Quả kim anh 10g

+ vỏ quả lựu 8g

Cả hai thứ cho vào nồi cùng 400ml nước đun sôi kỹ, chắt lấy 180ml nước đặc. Người bệnh uống ngày 3 lần, trước khi ăn. Cần uống liền 5 ngày.

Xem thêm

Kim anh tử

 

Loãng xương: Nguyên nhân, điều trị và chế độ ăn

Loãng xương là gì?

Loãng xương, có nghĩa là “xương xốp,” là một tình trạng gây ra sự mỏng dần và yếu đi của xương, làm tăng nguy cơ gãy xương. Khoảng 2 triệu trường hợp gãy xương ở Hoa Kỳ mỗi năm là do loãng xương.

Mặc dù tất cả các loại xương có thể bị ảnh hưởng bởi bệnh này, nhưng xương ở cột sống, hông và cổ tay có nguy cơ gãy xương cao nhất. Nếu bạn lớn tuổi, gãy xương hông có thể đặc biệt nguy hiểm. Việc phải nằm bất động trong thời gian dài trong quá trình hồi phục có thể dẫn đến những biến chứng nghiêm trọng, chẳng hạn như huyết khối hoặc viêm phổi.

Trong số khoảng 10 triệu người Mỹ mắc loãng xương, ít nhất 80% là phụ nữ hoặc được xác định là nữ khi sinh ra. Các chuyên gia cho rằng điều này là do phụ nữ có xương nhẹ hơn, mật độ xương thấp hơn và trải qua những thay đổi hormone sau thời kỳ mãn kinh, điều này làm tăng tốc độ mất khối lượng xương.

Loãng xương thường ảnh hưởng đến cột sống của bạn. Theo thời gian, nó có thể dẫn đến tư thế gù lưng.

Loãng xương là bệnh lý xương khớp có tính chất toàn thân do chất lượng xương bị giảm
Loãng xương là bệnh lý xương khớp có tính chất toàn thân do chất lượng xương bị giảm

Loãng xương và tình trạng giảm mật độ xương

Loãng xương và tình trạng giảm mật độ xương có liên quan, nhưng chúng là hai chẩn đoán khác nhau. Bạn có thể nghĩ tình trạng giảm mật độ xương như là “tiền loãng xương.” Nếu bạn bị giảm mật độ xương, xương của bạn cũng đang mất khối lượng và có thể gãy dễ dàng hơn. Nếu bạn tiếp tục mất mật độ xương, tình trạng này trở thành loãng xương.

Khi bạn đi kiểm tra mật độ xương, mật độ của bạn sẽ được so sánh với người có cùng giới tính và chủng tộc, thường là người trong độ tuổi từ 25 đến 30 có khối lượng xương đạt đỉnh. Kết quả sẽ được gọi là T-score. Đây là ba T-score có thể:

  • Từ -1 đến +1: Bạn có mật độ xương bình thường
  • Từ -1 đến -2.5: Mật độ xương của bạn thấp hơn mức bình thường và bạn có tình trạng giảm mật độ xương
  • Từ -2.5 trở xuống: Mật độ xương của bạn quá thấp và bạn có loãng xương

Nếu bạn có tình trạng giảm mật độ xương, bạn có thể thực hiện các biện pháp để làm chậm quá trình mất mật độ xương. Một số người thậm chí có thể đảo ngược tình trạng này bằng điều trị.

Nguyên nhân gây ra loãng xương

Khi còn trẻ, xương trong cơ thể bạn liên tục được phân hủy và thay thế, một quá trình được gọi là tái cấu trúc xương. Khối lượng xương thường đạt đỉnh vào giữa đến cuối độ tuổi 20.

Mất xương — khi quá trình phân hủy xương xảy ra nhanh hơn quá trình xây dựng xương — thường bắt đầu vào giữa độ tuổi 30. Xương bắt đầu mất canxi, khoáng chất làm cho chúng cứng, nhanh hơn so với khả năng thay thế. Quá trình tái cấu trúc xương ít diễn ra hơn, và xương bắt đầu mỏng đi.

Nếu bạn là phụ nữ hoặc được xác định là nữ khi sinh ra, sự mất mật độ xương sẽ tăng tốc trong 5-7 năm đầu sau mãn kinh và sau đó lại chậm lại. Các nhà khoa học cho rằng điều này là do sự sụt giảm mạnh trong sản xuất hormone estrogen của cơ thể bạn, hormone này dường như giúp giữ canxi trong xương.

Mặc dù một số mất mật độ xương là phần tự nhiên của quá trình lão hóa, bạn có nguy cơ cao hơn để mắc phải tình trạng xương rất xốp và gãy xương liên quan đến loãng xương nếu bạn:

  • Có thân hình gầy hoặc khung xương nhỏ
  • Hút thuốc, uống nhiều hơn mức độ vừa phải, hoặc sống lối sống ít vận động
  • Có tiền sử gia đình về gãy xương hông
  • Đã phẫu thuật cắt bỏ buồng trứng, đặc biệt là trước tuổi 40
  • Là người da trắng hoặc người gốc Á

Một số tình trạng y tế làm tăng sự phân hủy xương, bao gồm bệnh thận, hội chứng Cushing và hoạt động quá mức của tuyến giáp hoặc tuyến cận giáp, cũng có thể dẫn đến loãng xương. Corticosteroid và thuốc chống co giật, cũng như sự bất động lâu dài do liệt hoặc bệnh tật, cũng có thể gây ra mất xương.

Loãng xương thấy rõ triệu chứng gù vẹo cột sống
Loãng xương thấy rõ triệu chứng gù vẹo cột sống

Các xét nghiệm và chẩn đoán loãng xương

Để chẩn đoán, bác sĩ của bạn thường sẽ lấy lịch sử y tế đầy đủ và yêu cầu thực hiện xét nghiệm mật độ xương và có thể là các xét nghiệm khác.

Trong một cuộc kiểm tra, bác sĩ sẽ:

  • Xem xét tuổi của bạn, xem liệu bạn đã trải qua mãn kinh chưa, liệu bạn có từng bị gãy xương khi trưởng thành, tiền sử gia đình của bạn, và các thói quen như uống rượu, ăn uống và tập thể dục.
  • Hỏi về các loại thuốc bạn đang dùng. Một số thuốc, chẳng hạn như corticosteroid, có thể làm yếu xương nếu được sử dụng lâu dài.
  • Đo chiều cao của bạn để xem liệu bạn có bị giảm chiều cao hay không. Bác sĩ sẽ kiểm tra cột sống của bạn. Nếu nó cong về phía trước bất thường, đó có thể là dấu hiệu cho thấy bạn đã bị gãy xương cột sống do loãng xương.

Xét nghiệm mật độ xương không xâm lấn. Nó giống như một phép chụp X-quang. Khi bạn nằm trên một bàn đặc biệt, một cánh tay robot sẽ di chuyển qua và đo nồng độ khoáng chất trong xương ở hông, cột sống và cổ tay của bạn. Một số xét nghiệm sẽ kiểm tra toàn bộ cơ thể bạn. Bác sĩ sẽ so sánh kết quả của bạn với mức bình thường và xác định xem bạn có mật độ xương bình thường, tình trạng giảm mật độ xương, hay loãng xương.

Điều trị loãng xương

Bác sĩ của bạn có thể khuyến nghị một số bước để giúp bạn ngăn chặn thêm mất xương và giảm nguy cơ gãy xương. Những bước này bao gồm việc ngừng hút thuốc nếu bạn hút thuốc, giảm tiêu thụ rượu, ăn một chế độ ăn uống lành mạnh và tập thể dục.

Nếu loãng xương của bạn là do một tình trạng y tế hoặc thuốc mà bạn đang dùng, bác sĩ của bạn sẽ giải quyết vấn đề này. Ví dụ, nếu một trong những tác dụng phụ của thuốc là mất xương, có thể có tùy chọn để chuyển sang thuốc khác. Tuy nhiên, điều này không phải lúc nào cũng khả thi. Trong trường hợp này, bác sĩ của bạn sẽ kiểm tra bạn thường xuyên để theo dõi sức khỏe xương của bạn.

Thuốc điều trị loãng xương

Các thuốc điều trị loãng xương có thể giúp hạn chế sự phân hủy xương và duy trì mật độ xương, giảm nguy cơ gãy xương do loãng xương. Hầu hết các loại thuốc này đã được chứng minh là giảm nguy cơ gãy xương ở hông và lưng của bạn.

Thuốc bisphosphonate thường là phương pháp điều trị tiêu chuẩn cho loãng xương. Ví dụ bao gồm:

  • Alendronate (Fosamax, Binosto)
  • Ibandronate (Boniva)
  • Risedronate (Actonel, Atelvia)
  • Acid zoledronic (Reclast, Zometa)

Các lựa chọn thuốc khác để bảo vệ chống lại mất xương bao gồm:

  • Abaloparatide (Tymlos) và teriparatide (Forteo): Một dạng hormone cận giáp tổng hợp cho những người mắc loãng xương được coi là có nguy cơ cao gãy xương. Những loại thuốc này giúp xây dựng mật độ xương.
  • Calcitonin: Một hormone tự nhiên giúp ngăn ngừa gãy xương và có thể giúp làm chậm mất xương.
  • Denosumab (Prolia, Xgeva): Một kháng thể ngăn chặn sự hình thành các tế bào phân hủy xương, dẫn đến việc giảm mất xương.
  • Raloxifene (Evista): Một loại thuốc giống estrogen giúp tăng mật độ xương và giảm nguy cơ gãy xương.
  • Romosozumab-aqqg (Evenity): Một kháng thể chống sclerostin giúp tăng cường hình thành xương và giảm mất xương.

Nếu bạn bắt đầu sử dụng thuốc duy trì xương, hãy chắc chắn rằng bác sĩ của bạn biết về tất cả các loại thuốc khác mà bạn đang dùng. Một số loại thuốc có thể ảnh hưởng đến xương, và bác sĩ của bạn có thể muốn chuyển bạn sang một loại thuốc khác hoặc điều chỉnh liều lượng.

Nếu bạn đang dùng bisphosphonate, bạn có thể được chuyển sang một loại thuốc khác sau 5 năm, vì có nguy cơ thấp bị gãy xương đùi liên quan đến việc sử dụng lâu dài các loại thuốc này.

Các loại thuốc loãng xương khác có thể bao gồm liệu pháp thay thế hormone (HRT) — hoặc estrogen đơn lẻ hoặc kết hợp estrogen và progestin — có thể ngăn ngừa và điều trị loãng xương.

Tuy nhiên, nghiên cứu đã chỉ ra rằng HRT có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú, bệnh tim và đột quỵ ở một số người. Do đó, HRT thường không được khuyến nghị như một phương pháp điều trị đầu tiên cho loãng xương, vì các rủi ro sức khỏe được cho là vượt quá lợi ích.

Chế độ ăn uống cho người mắc loãng xương

Cơ thể bạn cần canxi và vitamin D để nuôi dưỡng xương. Nếu bạn chưa bao gồm thực phẩm giàu canxi và vitamin D, việc thêm chúng vào chế độ ăn có thể giúp bạn làm chậm mất xương.

Dưới đây là một số thực phẩm giàu canxi:

  • Sản phẩm từ sữa ít béo
  • Rau lá xanh đậm, chẳng hạn như rau cải, rau chân vịt và cải bẹ xanh
  • Bông cải xanh
  • Cá mòi và cá hồi (có xương)

Một số thực phẩm được bổ sung canxi, điều này có thể giúp bạn đạt được lượng canxi khuyến nghị hàng ngày. Chúng bao gồm:

  • Sữa đậu nành
  • Đậu phụ
  • Nước cam
  • Ngũ cốc
  • Bánh mì

Bạn có thể nhận được một số vitamin D từ ánh nắng mặt trời, nhưng bạn cũng có thể nhận được từ một số thực phẩm nhất định, chẳng hạn như:

  • Cá béo
  • Dầu cá
  • Lòng đỏ trứng
  • Gan

Một số thực phẩm, chẳng hạn như sữa và ngũ cốc, được bổ sung vitamin D.

Lượng canxi và vitamin D mà bạn cần phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm sức khỏe của bạn và khả năng hấp thụ thực phẩm của bạn. Đây là các lượng trung bình được khuyến nghị:

  • Trẻ em từ 1-3 tuổi: 700 mg canxi, 600 IU vitamin D
  • Trẻ em từ 4-8 tuổi: 1000 mg canxi, 600 IU vitamin D
  • Trẻ em từ 9-18 tuổi: 1300 mg canxi, 600 IU vitamin D
  • Người lớn từ 19-50 tuổi: 1000 mg canxi, 600 IU vitamin D
  • Phụ nữ trên 50 tuổi và nam giới trên 70 tuổi: 1200 mg canxi, 800 IU vitamin D
  • Người lớn trên 50 tuổi: 1000 mg canxi, 800 IU vitamin D

Việc kết hợp thực phẩm giàu canxi và vitamin D vào chế độ ăn uống hàng ngày có thể giúp duy trì sức khỏe xương và giảm nguy cơ loãng xương.

Canxi

  • Phụ nữ và những người được xác định là nữ khi sinh ra (AFAB) dưới 50 tuổi: 1.000 miligam mỗi ngày
  • Phụ nữ và những người AFAB từ 50 tuổi trở lên: 1.200 miligam mỗi ngày
  • Nam giới và những người được xác định là nam khi sinh ra (AMAB) dưới 71 tuổi: 1.000 miligam mỗi ngày
  • Nam giới và những người AMAB từ 71 tuổi trở lên: 1.200 miligam mỗi ngày

Vitamin D

  • Tất cả người lớn dưới 55 tuổi: 400-800 đơn vị quốc tế (IU) mỗi ngày
  • Tất cả người lớn từ 55 tuổi trở lên: 800-1.000 IU mỗi ngày

Gãy xương do loãng xương

Gãy xương do loãng xương thường xảy ra ở hông, cổ tay và cột sống. Gãy xương hông thường cần phải phẫu thuật. Gãy xương cổ tay có thể cần bó bột hoặc phẫu thuật.

Gãy xương ở cột sống, cổ tay và hông là những loại gãy xương phổ biến nhất ở người cao tuổi. Xương yếu có thể dẫn đến gãy xương nén ở đốt sống, các xương tạo nên cột sống của bạn. Theo thời gian, gãy xương nén có thể làm thay đổi sức mạnh và hình dạng của cột sống. Bạn có thể mất chiều cao hoặc bị đau lưng mãn tính. Ở một số người, cơn đau có thể rất nghiêm trọng và dẫn đến các vấn đề sức khỏe khác.

Bài tập cho người bị loãng xương

Nếu bạn bị loãng xương, tập thể dục có thể giúp bạn làm chậm quá trình mất xương. Nó cũng có thể giúp bạn:

  • Tăng cường sức mạnh cơ bắp
  • Giữ cho cơ thể linh hoạt
  • Cải thiện hoặc duy trì sự cân bằng của bạn
  • Cải thiện tư thế
  • Giảm đau

Những điều này có thể giảm nguy cơ ngã, từ đó giảm nguy cơ gãy xương.

Hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn trước khi bắt đầu bất kỳ chương trình tập thể dục mới nào, đặc biệt nếu bạn có loãng xương nặng. Bác sĩ có thể giới thiệu bạn đến một nhà vật lý trị liệu hoặc một chương trình tập thể dục phù hợp với người bị loãng xương. Bạn cũng có thể xem liệu có các chương trình tập thể dục trong khu vực của bạn dành cho những người bị loãng xương hay không. Một số huấn luyện viên cá nhân cũng sẽ làm việc với những người bị loãng xương.

Bất kể loại bài tập nào bạn quyết định, hãy bắt đầu từ từ và đừng tin vào tư tưởng “không đau, không có gì đạt được”. Nếu bạn cảm thấy đau, hãy dừng lại.

Dưới đây là các loại bài tập khác nhau giúp ích cho những người bị loãng xương:

  • Tập sức mạnh: Nếu cơ bắp của bạn mạnh hơn, chúng có thể giúp bảo vệ xương của bạn và giảm nguy cơ ngã. Bạn có thể:
    • Sử dụng máy tập tạ.
    • Nâng tạ tự do.
    • Sử dụng dây kháng lực.
    • Nâng trọng lượng cơ thể của bạn.
  • Bài tập tác động (còn gọi là bài tập chống trọng lực): Những bài tập này khiến cơ thể bạn làm việc chống lại trọng lực và có thể giúp tăng cường xương. Bạn có thể thực hiện bài tập tác động thấp hoặc cao, tùy thuộc vào mức độ thể lực và sức khỏe của bạn. Ví dụ, đi bộ là bài tập tác động thấp, trong khi chạy là bài tập tác động cao. Các bài tập khác bao gồm:
    • Nhảy múa
    • Leo cầu thang
    • Chơi tennis
    • Aerobics
    • Một số hình thức yoga
  • Bài tập cân bằng: Cân bằng tốt giúp bạn giữ thẳng, không chỉ hỗ trợ đi bộ và thực hiện các công việc hàng ngày mà còn giúp bạn tránh ngã nếu bạn vấp ngã hoặc trượt. Các bài tập bao gồm:
    • Yoga
    • Tai chi
  • Bài tập linh hoạt: Giống như bài tập cân bằng, các bài tập linh hoạt có thể giúp bạn tránh ngã, nhưng chúng cũng có thể giúp cơ và khớp của bạn không bị cứng:
    • Yoga
    • Kéo dãn

Ngăn ngừa loãng xương

Bạn không thể ngăn chặn tất cả sự mất xương vì một số mất xương là điều tự nhiên khi lão hóa. Nhưng bạn có thể thực hiện một số bước nhất định để làm chậm quá trình mất xương, đặc biệt nếu bạn đã được chẩn đoán là bị loãng xương nhẹ (osteopenia). Càng trẻ khi bạn bắt đầu các bước ngăn ngừa này, bạn càng có nhiều khả năng giữ cho xương của mình khỏe mạnh nhất có thể.

  • Ăn một chế độ ăn uống lành mạnh, giàu canxi và vitamin D.
  • Tập thể dục: Sự kết hợp của các hoạt động chống trọng lực, tăng cường cơ bắp, bài tập cân bằng và bài tập linh hoạt là tốt nhất.
  • Không hút thuốc.
  • Hạn chế lượng rượu bạn uống.

Kiểm tra mật độ xương sẽ không ngăn ngừa loãng xương, nhưng nó có thể cho bạn biết liệu bạn có bị loãng xương nhẹ hay không và bạn có thể thực hiện các hành động để giảm khả năng phát triển thành loãng xương. Các chuyên gia khuyến nghị thực hiện xét nghiệm mật độ xương nếu bạn:

  • Là phụ nữ từ 65 tuổi trở lên
  • Là phụ nữ dưới 65 tuổi và có yếu tố nguy cơ loãng xương
  • Là nam giới trên 50 tuổi có yếu tố nguy cơ loãng xương
  • Trên 50 tuổi và đã mất 1,5 inch chiều cao hoặc nhiều hơn
  • Đang sử dụng thuốc gây mất xương hoặc cản trở quá trình tái tạo xương

Điểm chính

Một số mất xương khi bạn già đi là điều bình thường, nhưng nếu bạn mất quá nhiều, bạn có thể phát triển loãng xương, dẫn đến xương dễ gãy. Một xét nghiệm mật độ xương có thể cho bạn biết liệu bạn có bị loãng xương hoặc loãng xương nhẹ, có thể dẫn đến loãng xương. Nếu bạn bị loãng xương, bạn có thể làm chậm quá trình mất xương và giảm nguy cơ gãy xương bằng các loại bài tập nhất định.

Câu hỏi thường gặp về loãng xương

Nguyên nhân chính của loãng xương là gì?

Nguyên nhân chính của loãng xương là lão hóa. Khi bạn lớn tuổi, xương của bạn không tái tạo các tế bào xương nhanh như khi bạn còn trẻ. Điều này tồi tệ hơn ở phụ nữ khi họ bước vào thời kỳ mãn kinh.

Vitamin D có thể đảo ngược loãng xương không?

Bạn không thể đảo ngược loãng xương, nhưng vitamin D kết hợp với canxi có thể giúp làm chậm quá trình mất xương.

Điều tốt nhất cần làm cho loãng xương là gì?

Nếu bạn bị loãng xương, điều tốt nhất bạn có thể làm là thực hiện các bước để làm chậm quá trình mất xương thêm và bảo vệ bản thân khỏi gãy xương. Điều này có nghĩa là ăn một chế độ ăn uống lành mạnh và tập thể dục, điều này có thể giữ cho cơ bắp của bạn mạnh mẽ và giúp bạn giữ thăng bằng và linh hoạt.