Blog Trang 570

Tại sao người ta bị bệnh tăng huyết áp ?

Cho tới nay, mặc dầu người ta đã nghiên cứu rất nhiều song vẫn chưa tìm được nguyên nhân gây bệnh tăng huyết áp. Những hiểu biết về sinh lý bệnh cho thấy huyết áp chịu ảnh hưởng của cung lượng tim (tức là lượng máu mà tim tống đi nuôi cơ thể trong mỗi phút) và sức cản của các tiểu động mạch ở các khu vực như ở các cơ, các phủ tạng (do co hay giãn mạch): cung lượng tim giảm như khi bị chảy máu dạ dày thì huyết áp thấp, có khi làm cho truy mạch, mất huyết áp, cung lượng tim tăng thì huyết áp tăng cao; sức cản của các tiểu động mạch giảm do có giãn mạch thì huyết áp hạ, sức cản đó tăng do co mạch ngoại vi nhiều thì tăng huyết áp.

Người ta cũng đã thấy có một số yếu tố tác động nhiều đến cung lượng tim và sức cản ngoại vi với hậu quả là làm tăng huyết áp:

Hệ thần kinh giao cảm: khi bị kích thích (như khi gắng sức thể lực, có căng thẳng thần kinh, ..), hệ này tiết ra adrenalin và noradrenalin là những chất làm tim tăng co bóp, nhịp tim nhanh hơn dẫn đến tăng cung lượng tim và làm co các tiểu động mạch dẫn đến tăng sức cản ngoại vi và kết quả là làm tăng huyết áp.

Ion natri: natri có trong muối ăn (natri chlorur), ăn mặn sẽ làm cơ thể giữ nước nhiều hơn và làm tăng thể tích máu lưu hành dẫn đến tăng cung lượng tim và làm cho tăng huyết áp. Ion natri ứ đọng nhiều trong các sợi cơ trơn ở thành các tiểu động mạch còn làm tăng độ thấm của calci qua các màng tế bào, dẫn đến tăng khả năng làm co các mạch máu đó và cũng làm tăng huyết áp. Ăn nhạt hay dùng các thuốc lợi tiểu làm tăng đào thải natri và nước sẽ làm giảm huyết áp.

Cơ chế tăng huyết áp
Cơ chế tăng huyết áp

Hệ renin-angiotensin: trong bệnh tăng huyết áp, renin ở thận vào trong huyết tương và renin có trong các tổ chức, đặc biệt là trong cơ tim và các mạch máu, được hoạt hoá tác động đến angiotensi- nogen là một chất có sẵn trong huyết tương để chuyển thành angiotensin I, chất này lại nhờ tác động của một men khác gọi là men chuyển để trở thành angiotensin Angiotensin II là một chất co mạch rất mạnh, làm tăng sức cản ngoại vi gây tăng huyết áp, đồng thời lại có tác dụng kích thích hệ thần kinh giao cảm tăng hoạt động, kích thích vùng dưới đồi-yên ở trong não tiết ra hormon chống lợi niệu lam CĨÌG cơ thể ứ thêm nước, kích thích lớp vỏ của tuyến thượng thận tiết ra aldosteron, chất này làm tăng tái hấp thu nước và natri, và như vậy cũng tham gia làm tăng cung lượng tim và làm tăng huyết áp.

Những năm gần đây, người ta còn quan tâm nghiên cứu đến sự mất cân bằng giữa những chất làm co mạch và các chất làm giãn mạch có bình thường ở lớp nội mạc của thành các tiểu động mạch, các công trình nghiên cứu cho thấy có hiện tượng giảm rõ rệt các chất làm giãn mạch như yếu tố làm giãn mạch từ nội mạc EDRF, prostacyclin… nên cân bằng bị phá vỡ, các tiểu động mạch bị co lại và là nguyên nhân gây nên tăng huyết áp.

Thuốc Dermovate – thuốc mỡ bôi da

THUỐC DERMOVATE

Thuốc Dermovate
Thuốc Dermovate

Thuốc Dermovate kem bôi da: ống 5 g, 15 g. Thuốc Dermovate thuốc mỡ bôi da: ống 5 g. Tenovate-G kem bôi da: ống 10 g.

Tenovate-M kem bôi da: ống 15 g.

THÀNH PHẦN

Thuốc Dermovate cream :

cho 100 g
Clobetasol propionate 0,05 g

Thuốc Dermovate ointment :

 

cho 100 g
Clobetasol propionate 0,05 g

Tenovate-G cream :

 

cho 100 g
Clobetasol propionate 0,05 g
Gentamicin (dạng gentamicin sulfate) 0,1 g

 

Tenovate-M cream :

 

cho 100 g
Clobetasol propionate 0,05 g
Miconazole nitrate 2,0 g

DƯỢC LỰC

Clobetasol propionate là một corticoid tác dụng rất mạnh.

Miconazole nitrate là thuốc kháng nấm và kháng khuẩn mạnh phổ rộng có hoạt tính cao đối với vi nấm ngoài da (dermatophyte) và nấm men gây bệnh (như Candida spp.) và nhiều vi khuẩn Gram dương kể cả hầu hết các chủng Staphyloccus spp. và Streptococcus spp.

Gentamicin là kháng sinh diệt khuẩn thuộc họ aminoglycoside hoạt tính trên vi khuẩn Gram dương và Gram âm.

CHỈ ĐỊNH

Thuốc Dermovate đặc biệt có giá trị trong điều trị ngắn ngày các bệnh da khó điều trị như :

Vẩy nến (ngoại trừ vẩy nến dạng mảng lan rộng) ; chàm dai dẳng khó chữa ; Liken phẳng ; Lupus ban đỏ hình dĩa, và một số bệnh da khác không đáp ứng thỏa đáng với các corticoid hoạt tính kém hơn.

Tenovate-G được chỉ định trong tất cả các bệnh da có chỉ định dùng Thuốc Dermovate, nhưng khi có, hoặc nghi ngờ là có, hoặc dễ xảy ra nhiễm khuẩn thứ phát.

Tenovate-M được chỉ định trong tất cả các bệnh da có chỉ định dùng Thuốc Dermovate, nhưng khi có, hoặc nghi ngờ là có, hoặc dễ xảy ra nhiễm thứ phát vi nấm và/hoặc nấm men Candida, như khi bôi thuốc có băng kín, ví dụ trong điều trị vẩy nến.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Mụn trứng cá đỏ, mụn trứng cá thường và viêm da quanh miệng. Chứng ngứa quanh hậu môn và ngứa vùng sinh dục.

Nhiễm virus da nguyên phát (ví dụ herpes simplex, thủy đậu). Quá mẫn với thuốc.

Các dạng Thuốc Dermovate dùng ngoài da không được chỉ định điều trị các sang thương da nhiễm trùng nguyên phát gây ra bởi nhiễm vi khuẩn hoặc vi nấm. Bệnh da ở trẻ em dưới 1 tuổi, kể cả viêm da và hăm đỏ da do tã lót.

Chế phẩm chứa gentamicin không nên dùng cho bệnh viêm tai ngoài nếu màng nhĩ bị thủng vì nguy cơ nhiễm độc tai.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Nên tránh điều trị liên tục dài ngày với Thuốc Dermovate nếu có thể tránh được, nhất là đối với nhũ nhi và trẻ em, vì có thể xảy ra tình trạng ức chế tuyến thượng thận, ngay cả khi không băng kín vùng được bôi thuốc.

Trong trường hợp cần sử dụng Thuốc Dermovate cho trẻ em, có khuyến cáo rằng toa điều trị cần phải được thầy thuốc kiểm tra lại hàng tuần.

Cần lưu ý rằng tã lót của trẻ nhũ nhi có tác dụng như khi băng kín vùng da được bôi thuốc. Vùng mặt dễ bị teo da hơn các vùng da khác trên cơ thể khi điều trị kéo dài bằng các corticoid tác dụng tại chỗ mạnh. Cần ghi nhớ điều này khi điều trị các bệnh da như vẩy nến, lupus ban đỏ dạng đĩa và chàm nặng. Khi bôi thuốc lên vùng da quanh mắt, cần phải thận trọng không để thuốc rơi vào mắt, vì có thể gây glaucoma.

Các corticoid tác dụng tại chỗ có thể có nguy cơ gây hại khi được dùng điều trị vẩy nến vì một số nguyên nhân, bao gồm tái phát nảy ngược, khả năng lờn thuốc, nguy cơ gây vẩy nến dạng mụn mủ toàn thân, và khả năng gây độc tại chỗ hoặc toàn thân do chức năng hàng rào bảo vệ của da đã bị hư hại. Khi dùng corticoid bôi da để điều trị vẩy nến, cần phải theo dõi cẩn thận tình trạng bệnh nhân.

Khi sang thương viêm có nhiễm trùng, nên điều trị kháng sinh thích hợp. Khi có dấu hiệu nhiễm trùng lan rộng, cần phải ngưng sử dụng corticoid ngoài da và cần phải điều trị kháng sinh đường toàn thân. Khi băng kín vùng da được bôi thuốc, da trở nên ấm và ẩm sẽ tạo điều kiện cho nhiễm khuẩn phát triển, vì vậy cần phải rửa sạch vùng da trước khi bôi thuốc và đặt băng sạch lên trên.

Sử dụng Tenovate-G trên diện rộng ở những bệnh nhân cao tuổi và bệnh nhân suy thận có thể có nguy cơ do nhiễm độc tai.

Sử dụng Tenovate-G trên diện rộng hoặc lặp đi lặp lại có thể tăng nguy cơ mẫn cảm da do tiếp xúc.

LÚC CÓ THAI

Các corticoid tác dụng tại chỗ khi được sử dụng trên các động vật có thai có thể gây ra các dị dạng trong quá trình phát triển thai. Sự liên quan giữa kết quả thực nghiệm trên động vật này và thực tế trên người chưa được xác lập ; tuy nhiên, không được sử dụng các corticoid bôi da trong thai kỳ một cách rộng rãi, có nghĩa là với một lượng lớn hoặc trong thời gian dài.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Cũng như các corticoid tác dụng tại chỗ khác, khi được sử dụng với một lượng lớn kéo dài, hoặc được điều trị trên một diện tích da rộng lớn, thuốc có thể được hấp thụ toàn thân với một lượng đủ để gây nên các biểu hiện của tình trạng cường vỏ thượng thận. Tác dụng này dễ xảy ra hơn ở trẻ nhũ nhi và trẻ em, và trong cách điều trị thuốc có băng kín. Ở trẻ nhũ nhi, tã lót có thể có tác dụng như khi băng kín vùng da được bôi thuốc.

Với liều lượng không được quá 50 g mỗi tuần lễ đối với người lớn, bất cứ biểu hiện nào của tình trạng ức chế trục hạ đồi-yên-thượng thận cũng thường thoáng qua và hồi phục nhanh sau khi ngưng liệu pháp điều trị ngắn ngày.

Điều trị kéo dài với liều cao corticoid tác dụng mạnh có thể gây teo da tại chỗ như các vết nứt da, mỏng da, dãn các mạch máu bề mặt, đặc biệt là khi điều trị thuốc có băng kín, hoặc trên vùng nếp gấp da.

Có những báo cáo ghi nhận sự thay đổi sắc tố da và rậm lông khi sử dụng các corticoid bôi da. Trong trường hợp hiếm gặp, điều trị (hoặc ngưng điều trị) bệnh vẩy nến bằng corticoid được cho là đã khởi phát dạng mụn mủ của bệnh.

Thông thường, Thuốc Dermovate được dung nạp tốt, nhưng nếu có dấu hiệu quá mẫn, nên ngưng dùng thuốc ngay.

Tình trạng nặng thêm các triệu chứng có thể xảy ra.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Bôi một lớp mỏng thuốc lên vùng da bệnh một lần hay hai lần mỗi ngày. Nên ngưng điều trị ngay sau khi đạt hiệu quả mong muốn.

Không nên điều trị liên tục quá bốn tuần mà không kiểm tra tình trạng bệnh nhân. Có thể lặp lại các đợt điều trị ngắn hạn bằng Thuốc Dermovate để kiểm soát các đợt bệnh trở lại trầm trọng. Nếu cần điều trị liên tục bằng corticoid, nên sử dụng dạng corticoid nhẹ hơn.

Đối với sang thương rất khó điều trị, đặc biệt ở vùng da dày sừng, hiệu quả kháng viêm của Thuốc Dermovate có thể được tăng cường, nếu xét thấy cần thiết, bằng cách băng kín vùng da được bôi thuốc bằng màng film polythene. Thường chỉ cần băng kín qua đêm là đủ mang lại đáp ứng mong muốn. Sau đó, bôi thuốc không cần phải băng kín, thông thường bệnh vẫn có thể tiếp tục được cải thiện.

QUÁ LIỀU

Tình trạng quá liều cấp tính rất ít khi xảy ra, tuy nhiên, trong trường hợp quá liều mãn tính hoặc sử dụng sai, các biểu hiện cường vỏ thượng thận có thể xảy ra và trong trường hợp này cần phải ngưng ngay thuốc corticoid bôi da.

Trẻ bị đau đầu – Nguyên nhân, hướng xử lý

Đau đầu là một trong ba triệu chứng đau tái đi tái lại mà các bác sĩ nhi thường gặp; đau dạ dày và đau tai là các triệu chứng còn lại. Đau đầu có thể được liệt vào dạng nguyên phát, nghĩa là nó không phải do một căn bệnh ẩn bên dưới gây ra (ví dụ, dạng đau đầu do căng thẳng và chứng đau nửa đầu), hoặc thứ phát, nghĩa là có một yếu tố kích thích ấn bên dưới (như, các nguyên nhân vô hại như ốm do virus và cai nghiện caffeine, cho tới những căn bệnh hiếm nhưng nghiêm trọng như u não). Trong hơn 90% các trường hợp, bác sĩ nhi có thể xếp loại hiện tượng đau đầu bằng một đợt khám thể chất và xem xét tiểu sử bệnh tật của bé. Hiếm khi cần đến các xét nghiệm thêm và chỉ trong rất ít các trường hợp, đau đầu mới là dấu hiệu của một căn bệnh nghiêm trọng. Hầu hết các trường hợp đau đầu sẽ khỏi khi được nghỉ ngơi, uống đủ nước, ăn nếu trẻ đói và khi hết ốm virus. Các loại thuốc không cần kê đơn như acetaminophen và ibuprofen thường giúp giảm đau đầu.rối loạn lo âu ảnh hưởng cả ở trẻ em và người lớn

Gọi bác sĩ nhi nếu con bạn bị đau đầu về bất cứ triệu chứng nào sau đây:

  • Uể oải và hay nhầm lẫn bất thường
  • Không chịu cúi đầu về phía trước
  • Liên tục đau đầu khi thức dậy mà không có dấu hiệu bệnh nào khác
  • Cáu kỉnh
  • Không chịu uống
  • Nhiệt độ cao hơn 39°c
  • Nôn nhưng không bị tiêu chảy
  • Yếu hoặc mất khả năng điều khiển cơ.

CẢNH BÁO!

Nếu con bạn bị đau đầu thường xuyên, bị đau đầu khi thức giấc, đột nhiên đau đầu trầm trọng, hoặc có kèm theo nôn, hãy đề nghị bác sĩ nhi chú ý tới việc đó. Hầu hết các cơn đau đầu lặp lại là vô hại; tuy nhiên, bác sĩ nhi có thể muốn loại trừ bất kỳ rối loạn tiềm tàng nào.

Con bạn có thể bị đau nửa đầu ảnh hưởng tới sức khỏe nếu bé bị đau đầu lặp lại kèm các triệu chứng liền nhau và có một số hoặc tất cả những triệu chứng sau: đau nhói đầu, thường là ở một bên đều; buồn nôn hoặc nôn, đau bụng; rối loạn về thị giác hoặc cảm giác, như mờ mắt hay mắt nổ đom đóm hoặc cảm giác tê ở tay và chân; giảm đau đầu sau khi ngủ; có tiền sử đau nửa đầu trong gia đình.

Hầu hết những cơn đau nửa đầu ở trẻ không nghiêm trọng và có thể xử lý tại nhà. Hãy nói chuyện với bác sĩ nhi về những biện pháp tốt nhất để tránh các yếu tố kích thích và điều trị đau nửa đầu. Các cơn có thể bị gây ra do sự thay đổi nội tiết tố, một số loại thức ăn nhất định, căng thẳng và các yếu tố khác. Nếu con bạn có những triệu chứng có thể gợi đến đau nửa đầu, bác sĩ nhi sẽ khuyến nghị một kế hoạch điều trị. Duy trì một cuốn sổ ghi chép về tình trạng đau nửa đầu có thể giúp bé xác định và tránh được các yếu tố gây ra đau nửa đầu. Một cuốn sổ theo dõi đau nửa đầu điển hình sẽ bao gồm những ghi chú về ngày, thời gian, thời lượng, địa điểm và mức độ trầm trọng của cơn đau đầu, cũng như các yếu tố môi trường như thực phẩm, các tình huống căng thẳng và các tác nhân khác có thể thúc đẩy. Khi có tín hiệu đầu tiên của một cơn đau đầu, bé nên nghỉ ngơi trong một căn phòng tối, yên tĩnh. Các loại thuốc không cần kê đơn như acetaminophen và ibuprofen thường có hiệu quả đối với đau nửa đầu nhẹ. Trong nhiều trường hợp, các cơn đau đầu của những các bé bị đau nửa đầu sẽ bớt trầm trọng và ít đi khi các bé được bác sĩ khám và đảm bảo rằng các bé không gặp vấn đề trầm trọng về sức khỏe.

MỐI BẬN TÂM CỦA BẠN NGUYÊN NHÂN CÓ THỂ CÓ HÀNH ĐỘNG CẦN THỰC HIỆN
Con bạn mới tập đi và bị va đập hoặc ngã nhưng không bất tỉnh. Chấn thương nhẹ (Chấn thương nặng rất hiếm khi xảy ra với những cú ngã và va chạm thường gặp ở trẻ tập đi.) Dỗ dành và khuyến khích bé chợp mắt; thử dùng một liều acetaminophen hoặc ibuprofen. Nếu giấc ngủ không làm dịu cơn đau và cảm giác bực bội, đau đầu kéo dài vài tiếng hoặc trầm trọng hơn, hãy gọi bác sĩ nhi.
Con bạn bị sốt nhẹ và không được khỏe. Bé bị viêm họng, sổ mũi hoặc các triệu chứng khác. Cảm lạnh thông thường.

Viêm họng do khuẩn cầu chuỗi (đau họng cấp).

Một dạng viêm đường hô hấp khác.

Đau đáu thường bổ sung thêm vào cảm giác không khỏe trong suốt thời gian ốm do lây nhiễm. Hãy nói chuyện với bác sĩ nhi, họ sẽ thực hiện các xét nghiệm chẩn đoán và chỉ định cách điều trị.
Con bạn cũng bị đau ở mặt và hàm. Bé bị sổ mũi và mệt mỏi, cáu kỉnh. Viêm xoang (chứng viêm ở xoang, khoảng không bên trong các xương mặt).

Vấn để vé răng.

Bạn có thể cần đưa bé tới nha sĩ nếu một chiếc răng gây đau cho bé. Bạn có thể cần gặp bác sĩ nhi, họ có thể sẽ chỉ định cách điều trị viêm xoang.
Con bạn phàn nàn về cảm giác đau đầu không rõ ràng, không nhói, có cảm giác như một dải băng quấn chặt quanh đầu. Đau đầu do căng thẳng, rất có thể liên quan tới căng thẳng về cảm xúc. Cho bé uống acetaminophen hoặc ibuprofen để trị những cơn đau đầu thi thoảng xuất hiện, nhưng nếu chúng xuất hiện thường xuyên, hãy nói chuyện với bác sĩ nhi. Hãy cố gắng tìm ra và loại bỏ nguồn gốc căng thẳng vé cảm xúc.
Con bạn phàn nàn vì đau đầu khi bé ăn kem, các đồ uống lạnh hoặc các thức ăn lạnh khác. Đau đầu do đồ ăn lạnh gây ra do thần kinh nhạy cảm.

Răng nhạy cảm.

Một số người bị đau đầu khi đồ ăn lạnh chạm vào vòm miệng mềm (phần phía sau vòm miệng) của họ. Vấn đề vé độ nhạy cảm này là vô hại và sẽ tự khỏi không cần điều trị. Nếu nó khiến con bạn khó chịu, hãy giúp bé tránh đồ ăn lạnh.
Con bạn bị đau đầu khi đọc hoặc làm những công việc nhìn gần. Bé chớp hoặc nheo mắt nhiều. Bé bị đau vai và cổ khi ngồi học ở bàn. Mỏi mắt, thay đổi ở thị lực, và có thể cần kính.

Cần điều chỉnh đồ dùng.

Vị trí đặt màn hình máy tính không tốt.

Nói chuyện với bác sĩ nhi, họ sẽ khám thị lực cho bé và khuyến nghị bạn tham vấn chuyên gia về mắt nếu cần. Những điều chỉnh đối với góc học tập hàng ngày của bé cũng có thể cần thiết.
Con bạn có nhiệt độ cao hơn 39°c. Bé buồn ngủ và cáu kinh. Cổ bé cứng và đau. Ánh sáng làm mát bé đau. Viêm màng não hoặc một dạng nhiễm trùng khác cần được điều trị gấp. Gọi ngay cho bác sĩ nhi. Ngày nay viêm màng não do vi khuẩn ít phổ biến hơn rất nhiều do vaccine chống Hib, chống não mô cầu và phế cầu nhưng không giống như vi khuẩn, virus và các dạng sinh vật khác cũng có thể gây viêm màng não. Bác sĩ nhi sẽ muốn khám cho bé.
Con bạn bị đau đầu trầm trọng và càng ngày càng thường xuyên. Các cơn trở nặng hơn khi bé nằm xuống hay mới thức dậy. Bé vụng về hoặc đi lại bất thường. Bé bị nôn. Cơn đau đầu làm bé thức giấc. u não. Gọi ngay cho bác sĩ nhi. Các xét nghiệm và giới thiệu tới một bác sĩ thần kinh nhi khoa hoặc bác sĩ phẫu thuật thần kinh có thể cần thiết để xác định nguyên nhân của hiện tượng đau đầu.
Con bạn ở tuổi thiếu niên và cảm giác uể oải, suy nhược, lờ đờ hoặc mệt mỏi. Bé trải qua cảm giác đau đầu vào cuối tuần. Cai caffeine. Một trẻ tuổi thiếu niên đột ngột dừng hay cắt giảm lượng dùng caffeine sau một thời gian sử dụng liên tục có thể bị đau đầu do cai caffeine. Cảm giác đau đầu này xuất hiện 1 hoặc 2 ngày sau khi cắt giảm. Một số bé có thể bị đau đầu vào cuối tuần nếu lượng caffeine tiếp nhận vào của các bé giảm đều đặn vào các dịp cuối tuần. Một khi thói quen dùng caffeine đã bị phá bỏ, những cơn đau đầu do cai caffeine sẽ biến mất trong 1 hoặc 2 tuần.

Lưỡi có màu xanh – Triệu chứng bệnh Đông y

Khái niệm

Lưỡi xuất hiện sắc xanh, sách Thiệt thai thống chí hình dung là “Giống như lưỡi trâu” phần nhiều do hàn hoặc bị ứ nghẽn gây nên.

Lưỡi xanh với lưỡi mầu chàm gần giống nhau. Sách Thần nghiệm y tông thiệt kính viết: “Năm sắc có mầu xanh không chàm, chàm nông mà xanh sẫm cho nên dễ nhận chàm là xanh”, sách Biện thiệt chỉ nam viết: “Mầu chàm là mầu lục với mầu xanh biếc kết hợp”. Nhưng lưỡi xanh phần nhiều chủ về hàn về ứ. Lưỡi mầu chàm phần nhiều chủ về thấp nhiệt, về Can phong vả lại rất ít gặp. Hai chứng này ý nghĩa trên lâm sàng khác nhau, Trong các sách vở cổ đại thường đem chứng lưỡi xanh với lưỡi tía thảo luận chung, nhưng căn cứ vào quan sát lâm sàng chủ bệnh của hai chứng này cũng khác nhau nhất định, cho nên đặt một chuyên mục riêng để thảo luận.

Phân biệt

Chứng hậu thường gặp

Lưỡi xanh do hàn ngưng dương uất: Chứng trạng biểu hiện lâm sàng chủ yếu là lưỡi có mầu xanh, trơn nhuận sự lạnh nằm co, tứ chi quyết nghịch, miệng không khát, thổ lợi đau bụng hoặc hạ lợi ra nguyên đồ ăn, móng tay chân và môi hiện sắc xanh, mạch Trầm Trì vô lực, thậm chí không có mạch.

Lưỡi xanh do ứ huyết uất nghẽn: Chứng trạng biểu hiện lâm sàng chủ yếu là lưỡi xanh khô rít, miệng ráo nhưng ngậm nước không muốn uống, sắc mặt đen sạm, miệng môi tím tái, ngực đầy da dẻ tróc vẩy, xuất huyết đen tía, mạch Trì Tế sắc. Cục bộ có thể xuất hiện ban khối xanh tía, khối sưng trưng tích thũng trướng nhói đau.

Phân tích

Chứng Lưỡi xanh do hàn ngưng dương uất: Phần nhiều do hàn tà trúng thẳng vào lý. Sách Thiệt thai thống chí viết: “ Lưỡi sắc xanh… là dấu hiệu hàn tà trúng thẳng vào Can Thận không có nguyên nhân nào là lưỡi thuộc nhiệt” Hàn là âm-tà, âm hàn thịnh ở trong, dương khí uất không tuyên thông khí huyết ngưng trệ cho nên lưỡi có sắc xanh. Bệnh ngoại cảm thấy tình huống này thường là dấu hiệu hàn tà trúng thẳng vào Thiếu âm, Quyết âm hoặc do bệnh mạn tính trải qua hãn hạ dương khí bị tàn phá, Can Thận hư suy, hàn từ trong sinh ra xuất hiện luỡi xanh nói lên nguy cơ dương khí sắp cáo chung. Sách Thần nghiệm y tông thiệt kính viết: “Nếu như tạp bệnh gặp chứng này… đó là dấu hiệu chân dương suy tuyệt, chỗ có hy vọng chữa được là còn kèm chút ít mẫu chàm, hoặc là có những vết chàm… nói lên khí chưa tuyệt”. Yếu điểm biện chứng là chất lưỡi xanh, bề mặt lưỡi hơi trơn nhuận, đồng thời có những chứng trạng tạng phủ hư hàn như sợ lạnh, chân tay lạnh, môi và móng tay chân mầu xanh, mạch Trì. Điều trị nên dùng thang thuốc ôn dương khư hàn liều cao, dùng các phương Tứ nghịch thang, Phụ tử lý trung thang, Ngô thù du thang… Sạch Biện thiệt chỉ nam viết: “Rêu lưỡi xanh trơn là hiện tượng âm hàn phải dùng ngay các loại Tứ nghịch, Ngô du làm cho ấm, Ngoại chứng nếu thấy mặt xanh môi tía âm nang rụt quyết nghịch, gân co, trực thị,,, đó là bại chứng của Quyết âm không chữa được”, Có thế thấy lưỡi xuất hiện sắc xanh, cần quan tâm hết sức.

Chứng lưỡi xanh do ứ huyết uất nghẽn: Chủ yếu có ba nguyên nhân, Một là hàn tà xâm phạm vào tạng phủ huyết gặp hàn thì ngưng. Hai là khí hư hoặc khí trệ không thúc đẩy sự vận chuyển của huyết đọng lại mà thành ứ. Ba là ngoại thương hoặc sau khi bị xuất huyết do nguyên nhân nào khác huyết ly kinh ứ đọng ở trong cơ thể. Có trường hợp ứ huyết mà thấy lưỡi xanh, loại này là loại thể biểu do vấp ngã mà xanh tím là cùng một đạo lý, Yếu điểm biện chứng là chất lưỡi xanh, bề mặt lưỡi khô rít hoặc kiêm có rêu mầu tro lại thấy cả các chứng ứ huyết nghẽn ở trong (hoặc như ngoài da có nốt ứ huyết, móng chân tay tróc vẩy, trong bụng có khối sưng…) sách Biện thiệt chỉ nam viết: “Lưỡi xanh miệng ráo chỉ ngậm nước không muốn nuốt, môi dúm dó, ngực đầy không có hàn nhiệt, mạch Vi Đại đến Trì, bụng không đầy, người bệnh tự nói là đầy là bên trong có ứ huyết có thể dựa vào đó để chúng ta chẩn đoán phân biệt, về điều trị ngoài phép hoạt huyết hóa ứ còn phải căn cứ vào nguyên nhân gây nên ứ để mà chữa cả tiêu và bản.

Trích dẫn y văn

  • Trong lưỡi nổi ban xanh tía là Can uất quá độ điều trị nên sơ tiết và cần phải thoải mái dễ chịu thì bệnh yên, màu xanh tía se rút đi (Biện thiệt nghiệm chứng ca quát).
  • Người có thai mà lưỡi xanh chắc chắn là con chết trong bụng, nên dùng Bình Vị tán gia Mang tiêu mà hạ bỏ đi (Thiệt thai thống chỉ).
  • Trường hợp lưỡi sắc xanh mà thấy già dặn là tà khí thịnh ở hai kinh Can Đởm cho uống Tả hỏa thanh Can ẩm (Sài hồ, Hoàng cầm, Sơn chi, Đương quy, Sinh địa, Sinh cảm thảo).
  • Trường hợp lưỡi xanh mà phù nề non nớt là tinh khí ở hai kinh Can Đởm bị hư cho uống Tư thuỷ thanh Can ẩm ( Thục địa, Sơn dược, Du nhục, Đan bì, Phục linh, Trạch tả, Ngũ vị tử, Quy thân, Sài hồ, Cam thảo, Bạch truật).
  • Trường hợp lưỡi sắc xanh mà khô ráo là thuộc Can Đởm huyết hư hỏa vượng cho uống Tiêu dao tán gia Đan bì, Sơn chi.
  • Lưỡi sắc xanh mà trơn nhuận là Can tạng khí hư cho uống Đương quy kiến trung thang bỏ Giao, Di (Lâm chứng nghiệm thiệt pháp).

Hình thành Bạch Cầu hoặc sự tạo Bạch Cầu

DÒNG BẠCH CẦU TUỶ XƯƠNG HOẶC BẠCH CẦU HẠT: những tế bào thuộc dòng này được hình thành trong tuỷ xương và trên tuỷ đồ (phiến đồ tuỷ xương nhuộm bằng phương pháp Grunwald-Giemsa) có thể thấy được những giai đoạn sau đây:

  • Nguyên tuỷ bào: là những tế bào tương đối to, đường kính khoảng 20pm, có nhân hình bầu dục với nhiều hạt nhân (trung bình 2-5) và chomatin (chất nhiễm sắc) có cấu trúc hạt rất nhỏ. Nhân tế bào được bao quanh bởi một vùng bào tương sáng hơn. Bào tương màu lục sáng và chứa một số hạt ưa xanh (lam) anilin khu trú.
  • Tiền tuỷ bào: trong nhân, chất nhiễm sắc bắt đầu đông đặc hơn và những hạt nhân biến mất. Bào tương bắt màu base nhạt và thường có một vùng ở cạnh nhân sáng hơn (trung thể), còn các hạt trong bào tương thì tiến triển theo 3 kiểu:
  • Hạt trung tính: là những hạt tròn, nhỏ, xuất hiện ở vùng trung thể rồi sau đó di chuyển ra ngoại vi tế bào. Những hạt này nhiều và bắt màu nâu nhạt hoặc mầu nâu hồng (màu be).
  • Hạt ưa acid: thô hơn hạt mô tả ở trên, mới đầu bắt màu tím, rồi màu lục, và chuyển sang màu tím sẫm.
  • Hạt ưa base: bắt màu ngả dần về tím sẫm và còn thô hơn cả các hạt ưa acid. Hình thể của chúng thường không đều đặn.
  • Tuỷ bào: đường kính khoảng 15 µ, nhân hình tròn hoặc bầu dục, cấu trúc chromatin khá thuần nhất. Nhân hay bị che lấp bởi những hạt trong bào tương. Những hạt này tiếp tục tiến triển theo 3 kiểu hạt đặc hiệu đã mô tả ở trên. Khi trong bào tương còn chứa những hạt ưa xanh (lam) anilin, thì chúng còn ở giai đoạn tiền tuỷ bào, còn những tuỷ bào đã chín thì chỉ chứa những hạt hoàn toàn biệt hoá, hoặc trung tính, hoặc ưa acid hoặc ưa base. Bào tương của chúng cũng trở thành ưa acid.
  • Hậu tuỷ bào: giống với tuỷ bào, nhưng riêng nhân tế bào thì khác với tuỷ bào vì có một vết lõm làm cho nhân giống hình của thận.
  • Bạch cầu hạt: là những tế bào kích thước từ 12-13p, với đặc điểm là nhân tách thành nhiều múi, và bào tương chứa những hạt đặc hiệu (trung tính, ưa acid, ưa base)

DÒNG BẠCH CẦU ĐƠN NHÂN: xuất phát từ những tế bào lưới của cơ quan tạo huyết và những mô lưới ở trong nhiều cơ quan khác nhau.

  • Nguyên bào đơn nhân: là những tế bào lón, thường có kích thước quá 15 p với một nhân hình bầu dục chứa từ 1 đến 2 hạt nhân, thường nằm lệch về một bên và thẳng góc so với trục của tế bào, hạt chromatin rất nhỏ. Nhân tế bào bắt màu hồng nhạt, bào tương màu lục, rải rác có những hạt ưa xanh (lam) anilin. Rất khó phân biệt các tế bào này với nguyên tuỷ bào.
  • Bạch cầu đơn nhân: là các tế bào lớn, nhân tế bào thường có chỗ lõm và nằm lệch về một bên, hay dính với bò bào tương. Các hạt chromatin (chất nhiễm sắc) rất nhỏ xếp liên tiếp nhau thành dạng sợi và bắt màu nhạt. Bào tương màu lục nhạt với bờ viền không đều đặn và chứa những hạt ưa xanh (lam) anilin rất nhỏ cùng những không bào.

DÒNG LYMPHO BÀO HOẶC TẾ BÀO LYMPHO: những tế bào thuộc dòng này được tạo thành ở mô lympho lưới (hạch bạch huyết, lách): có những giai đoạn sau:

  • Nguyên bào lympho: là các tế bào nhỏ (12-14 p), nhân tròn, lưới chromatin còn thô sơ, và có một hoặc hai hạt nhân rõ rệt. Bào tương bắt màu lục sẫm.
  • Tiền lympho bào: nhân có một hoặc hai hạt nhân kém rõ rệt.
  • Lympho bào to: đường kính 10-12 p, với một nhân tròn, cấu trúc chromatin tụ thành đám, bao quanh bởi bào tương ưa base, bào tương có thể chứa một số hiếm những hạt khá thô, ưa xanh (lam) anilin.
  • Lympho bào nhỏ: đường kính 8-9 n, nhân hình bầu dục, với chromatin đậm đặc làm cho nhân tế bào như một khối sẫm màu. Bào tương thu nhỏ lại chỉ còn như một diềm mỏng màu lục.

DÒNG TƯƠNG BÀO: Những tế bào thuộc dòng này xuất xứ từ hệ thống lympho lưới. Dạng trưởng thành của tương bào hầu như không có trong máu ngoại vi ở người lớn bình thường, nhưng chúng nằm trong những mô kẽ của nhiều cơ quan.

  • Nguyên tương bào: là những tế bào nhỏ có nhân hình tròn, với mầm thô sơ của 3-6 hạt nhân, bào tương chỉ là một giải mỏng bao quanh nhân tế bào.
  • Tiền tương bào: kích thước lớn hơn nguyên tương bào, nhân chứa các hạt nhân khá rõ rệt. Bào tương bắt màu lục sẫm, chứa một thành phần bắt màu đỏ không rõ rệt, và một vùng sáng bao quanh nhân tế bào.
  • Tương bào: là những tế bào hình hơi dài (14-20 p) với một nhân nhỏ cũng hơi dài, chứa chromatin rất đậm đặc, xếp thành các giải hình nan hoa bánh xe. Không thấy hạt nhân. Bào tương ưa base mạnh, nên bắt màu lục sẫm, đôi khi để lộ ra một thành phần màu đỏ. Trong bào tương không có các hạt.

Chấn thương hệ thần kinh vận nhãn

Khám vận nhãn ở bệnh nhân chấn thương.

Khai thác bệnh sử cần xác định kiểu tác động của chấn thương. Ví dụ, ở bệnh nhân có liệt dây số IV, tác động hat vào vùng trán đối diện.-cần xác định có vỡ xương không, đặc biệt là vùng trong hốc mắt hay trong nền sọ. Chú ý đến choáng, hôn mê hay nguyên nhân thiếu máu khác, đã dùng những loại thuốc gì. Quan trọng là xác định xem có những vấn đề về thị giác, thần kinh vận nhãn trước khi bị chấn thương hay không.

Khi thăm khám cần lưu ý đến những điểm sau:

– Vận nhãn (có chính xác và hợp lý không, có vận động đầu bất thường hay không).
– Định thị (hai mắt có đứng yên hay không, đầu có ở tư thế thẳng đằng trước hay không).
– Chức năng mi mắt (sụp mi, co rút mi mắt).
– Hai mắt có thẳng trục hay không (có lác ẩn hay lác hiện hay không).
– Quy tụ.
– Vận nhãn một mắt.
– Rung giật nhãn cầu sinh lý (tốc độ và mức độ chính xác).
– Vận nhãn đuổi theo vật (có bình thường và thay đổi theo tốc độ di chuyển của vật).
– Các phản xạ mắt tiền đình (xoay đầu, ghế quay, ức chế).
– Phản ứng với nhắm mi mắt cưỡng bức (hiện tượng Bell).
– Quang động.
– Test nhiệt.
– Thử nghiệm vận nhãn cưỡng bức.

biến chứng thần kinh vận nhãn

Hình 22.54. Giải phẫu hệ thần kinh vận nhãn, những vị trí chấn thương thường gặp và những biến chứng thần kinh vận nhãn đi kèm.

Chấn thương hốc mắt gây rối loạn vận nhãn.

Đôi khi các cơ vận nhãn, đặc biệt là các cơ trực dưới có thể bị rách khi chấn thương xuyên vào hốc mắt. Chấn thương vào các cơ vận nhãn gây những hạn chê vận nhãn không giống như trong liệt dây thần kinh sọ não. Chẳng hạn, liệt cơ đưa mắt lên trên có thể là do kẹt cơ trực dưới vào chỗ vỡ sàn hốc mắt. Chấn thương thành trong hốc mắt có thể gây nên hội chứng co rút Duane.

Các cơ vận nhãn bị đụng giập có thể hồi phục lại chức năng sau vài ngày. Thử nghiệm vận nhãn cưỡng bức (dùng panh kẹp hay đầu bông để di lệch nhãn cầu) có thể phân biệt giữa cơ vận nhãn bị hạn chế vận động hay bị liệt. Điều trị hạn chế vận động cơ thường khó. Nếu mức độ rối loạn chức năng không chuyển biến sau nhiều tháng, có thể làm phẫu thuật lùi cơ bị hạn chế vận động.

Chấn thương thần kinh vận nhãn

Dây thần kinh vận nhãn hay bị ảnh hưởng nhất sau chấn thương dây số VI. nguyên nhân thường gặp nhất của liệt dây VI là chấn thương sọ não (có thể là nhỏ). Liệt dây số III thường xảy ra sau chấn thương nặng hay có một nguyên nhân nào khác đi kèm. Chân thương gây liệt phối hợp nhiều dây thần kinh thường hiếm gặp.

Liệt dây thần kinh ròng rọc (hay dây số IV).

Dây thần kinh số IV có thể bị ảnh hưởng trong chấn thương sọ não kín vừa và nhẹ hoặc trong trường hợp không có tác động trực tiếp vào đầu.

Chấn thương trực tiếp vào gân cơ chéo lớn có thể xảy ra sau chấn thương xuyên. Cân cơ bị hạn chế vận động, dẫn đến song thị đứng khi nhìn lên (hội chứng Brown). Hiếm khi ròng rọc bị rời rakhỏi chỗ bám ở các bệnh nhân này.

Hầu hết các liệt dây thần kinh số IV là do dây thần kinh bị đụng giập từ mặt sau của não giữa hay chấn thương lên lều tiểu não. Chấn thương sọ từ phía bên có thể gây sóng phản hồi tác động lên não giữa bên đối diện và tổn thương dây IV. Chụp cắt lớp CT thấy có xuất huyết ở vùng này. Có một số trường hợp có liệt dây IV hai bên, cơ chế cũng tương tự như liệt dây IV một bên.

Các triệu chứng liệt dây IV bao gồm song thị đứng và chéo, tăng lên khi nhìn xuống và về hướng nhìn đối diện với cơ chéo lớn bị ảnh hưởng. Một số bệnh nhân có khó đọc, hay nghiêng đầu để tránh song thị.

Chẩn đoán rối loạn chức năng cơ chéo lớn dựa trên thử nghiệm ba bước do Parks đề ra. Dùng hai đũa Moddox lắp vào gọng kính thử để xác định là bảo bệnh nhan nhìn vào một cạnh thẳng. Người bị liệt dây IV hai hình chập nhau để tạo thành đầu mũi tên hướng về phía dây IV bị ảnh hưởng. Liệt dây IV hai bên sẽ thấy cạnh thẳng có hình chữ X, với điểm giao nhau nằm gần về phía bên có liệt dây IV nặng hơn (H.22.55).

rối loạn chức năng cơ chéo lớn

Hình 22.55. Thử nghiệm ba bước để chẩn đoán rối loạn chức năng cơ chéo lớn mắt trái. A. Lác lên trên khi nhìn thẳng đằng trước. B. Mắt trái lác lên trên tăng lên khi liếc sang phải. C. Khi nghiêng đầu sang bên vai trái, lác đứng bên mắt trái tăng lên.

Theo một số nghiên cứu, 65% liệt dây IV một bên và 25% liệt dây IV hai bên là tự khỏi không cần phải điều trị. Do vậy, nên chờ đợi 6 tháng để xác định là tình trạng không cải thiện. Trong giai đoạn này có thể bịt một bên mắt để tránh song thị. Có thể cho đeo lăng kính (trục đứng) ở một số trường hợp. Nhưng vì bản chất song thị hay thay đổi, mắt lác xoáy ra ngoài nên việc dùng lăng kính ở hầu hết các bệnh nhân bị trở ngại.

Có nhiều phương pháp phẫu thuật để điều trị liệt dây IV. Cắt cơ chéo bé là phương pháp đơn giản, có thể làm giảm độ lác đứng tới 15 điôp lăng kính, cắt (hay lùi) cơ chéo bé cùng bên cộng với cắt cơ trực trên cùng bên cũng có tác dụng. Làm yếu cơ trực dưới bên mắt kia kèm với cắt cơ chéo bé cũng có thể có tác dụng, nếu độ lác cao hơn khi nhìn xuống dưới. Liệt dây thần kinh IV hai bên dẫn đến lác đứng lên trên ở mắt phải khi nhìn sang trái và lác đứng lên trên ở mắt trái khi liếc sang mắt phải. Liệt dây IV hai bên thường xảy ra sau chấn thương sọ não nặng và đôi khi chỉ trở nên rõ rệt sau khi can thiệp phẫu thuật để điều chỉnh liệt dây thần kinh một bên.

Liệt dây thần kinh số VI

Liệt dây VI thường xảy ra sau chấn thương sọ não nặng hơn so với liệt dây IV (thường đa số các bệnh nhân có hôn mê sau chấn thương). Cơ chế là do lực tác động lên dây thần kinh VI ở trong ống Dorello, khe hốc mắt trên hay chỗ dây thần kinh bắt chéo qua động mạch tiểu não trước. Tuy nhiên, các biên bản bệnh lý giải phẫu các bệnh nhân tử vong do chấn thương sọ não nặng cho thấy tổn thương thường ở điểm dây thần kinh VI đi ra khỏi thân não. Chấn thương sọ não kín dễ gây tổn thương dây VI ở mỏm xương đá, đặc biệt nếu có đồng thời tổn thương dây tam thoa. Căng giãn các đốt sông cô cũng có thể gây liệt dây VI, do các nhánh của động mạch thân nền ép lên dây thần kinh, tương tự như trong tăng áp lực nội sọ.
Liệt dây VI gây ra song thị ngang, nặng lên khi nhìn xa và liếc về phía vận động của cơ yếu. Trẻ em chịu đựng song thị tốt hơn, người lớn dễ bị song thị làm ảnh huởng, thậm chí khi rối loạn vận động cơ rất kín đáo (phát hiện bằng test bịt mắt – bỏ bịt mắt hay dùng đũa Maddox).

Như với liệt dây IV, cần chờ đợi 6 tháng trước khi quyết định phẫu thuật. Trong trường hợp nhẹ, rút cơ trực ngoài bị tổn thương kết hợp với lùi cơ trực trong có thể hồi phục được thị giác hai mắt. Tuy nhiên, đa số các trước hợp có quá hoạt cơ trực trong bên kia, nên cần phải làm phẫu thuật đi thực cơ. Hiện nay, phương pháp tiêm độc tố vi khuẩn botulinum vào cơ trực trong cùng bên tỏ ra có tác dụng tốt.

Chấn thương dây thần kinh vận nhãn chung

Chấn thương dây thần kinh số III có thể trực tiếp hay gián tiếp do thoát vị qua vùng lều. Mức độ gây chấn thương nặng hơn liệt dây IV hay VI. Nếu liệt dây III xuất hiện sau chấn thương nhẹ, cần chú ý xem có khối u chèn ép phối hợp hay không.

– Chấn thương trực tiếp dây thần kinh III.

Chấn thương kèm theo có liệt dây III thường là chấn thương mạnh vào vùng trán. Đa số các bệnh nhân có mất tri giác. Chụp X quang thường có thể thấy vỡ xương sọ. Dây III có thể bị tổn thương ở các nhánh phân phối cho hốc mắt, ở khe hốc mắt trên hay chỗ dây thần kinh đi vào trong xoang hang, lực kéo từ não giữa hay đụng giập các rễ thần kinh. Các triệu chứng của liệt dây III gồm có song thị (đặc điểm là song thị chéo và thay đổi theo các hương liếc mắt). Thường có sụp mi. Khi thị thần kinh bị tổn hại, bệnh nhân lo lắng về sụp mi và lác ngoài nhiều hơn là dấu hiệu song thị. Ó một số người, đồng tử có thể không bị tổn hại, có thể có rối loạn về điều tiết.

Các bệnh nhân liệt dây III do chấn thương thường có các dấu hiệu về thần kinh khác đi kèm vì chấn thương thường rất nặng. Tổn hại thị thần kinh, giao thoa và dải thị giác có dây III có thể xảy ra ở hai bên. Có thể có liệt nửa người.

Tiên lượng khả năng hồi phục rất hạn chế. Liệt vận nhãn phức tạp gây trở ngại cho điều trị bằng lăng kính hay phẫu thuật. Một vấn đề chính trong liệt dây III là hiện tượng dây thần kinh mọc nhầm chỗ. Chẳng hạn, mi trên nâng lên cao khi nhìn xuống dưới hay vào trong. Khi mổ sụp mi cũng cần cẩn thận, vì nguy cơ dễ gây hở lộ giác mạc. Nên chò đợi 1 năm rồi mối quyết định phẫu thuật.

– Liệt dây III do chấn thương gián tiếp

Thoát vị hạnh nhân tiểu não có thể xảy ra sau chấn thương nặng, khi có xuất huyết ngoài màng cứng, xuất huyết não hay phù não. Thoát vị não là một biến chứng của máu tụ dưới màng cứng, xuất huyết não hay phù não. Thoát vị não là một biến chứng của máu tụ dưới màng cứng (có thể xảy ra sau chấn thương sọ não nhẹ). Khi tiểu não bị khối u, phù nề hay máu tụ ép xuống, hạnh nhân của hồi hải mã có thể chèn ép lên vùng lều, gây éo dây III cùng bên.

Liệt dây III cùng bên với khối máu tụ dưới màng cứng là một trong số những dấu hiệu thần kinh điển. Dấu hiệu này được áp dụng rộng rãi trước khi chụp cắt lớp CT ra đời. Đôi khi đồng tử không bị tổn thương, liệt dây III có thể ở bên đối diện với khối gây chèn ép. Máu tụ ngoài màng cứng có thể gây liệt dây III, thậm chí khi bệnh nhân tri giác còn tốt, Vì các dâu hiệu về đồng tử là những mốc chẩn đoán quan trọng (nhất là với thoát vị não), cho nên bác sỹ mắt nên hạn chế tra thuốc co đồng tử, trừ phi được các bác sĩ chuyên khoa thần kinh đồng ý. cần lưu ý đến tổn hại cơ co đồng tử để tránh nhầm với rối loạn chức năng dây III. ở bệnh nhân hôn mê có thể các định chức năng cơ nâng mi bằng cách nâng bệnh nhân dậy, bình thường mi sẽ nâng lên trừ phi có rối loạn chức năng cơ nâng mi. Liệt dây III do thoát vị lều tiểu não thường hồi phục chậm, liệt dây III có thể kèm theo các rối loạn vận nhãn khác như rung giật nhãn cầu, lác chéo, liệt vận nhãn theo chiều thẳng đứng, do chấn thương bên trong thân não.

Các liệt vận nhãn sau chấn thương sọ não nhẹ

Liệt dây vận nhãn chung và dây VI sau chấn thương sọ não nhẹ không có vỡ xương sọ hay mất tri giác thường hiếm gặp, cho nên phải tìm những tổn thương như khối u nền sọ. Các khối u gây căng giãn và ép vào dây thần kinh, nên chỉ chấn thương cơ giới nhẹ cũng làm liệt vận nhãn xuất hiện, cần lưu ý đến điều này khi tổn thương không tương quan với mức độ chấn thương.

– Liệt phối hợp dây III, IV và VI sau chấn thương

Nhìn chung, khi có nhiều hơn một dây thần kinh vận nhãn bị ảnh hưởng sau chấn thương, chấn thương thường nặng. Chấn thương các dây thần kinh phối hợp hiếm gặp hơn là chấn thương một dây thần kinh riêng lẻ. Chấn thương Phối hợp các dây thần kinh có thể do vết thương xuyên gây ảnh hưởng hốc mắt và khe hốc mắt trên.

Rò động mạch xoang hang là một nguyên nhân của liệt phối hợp nhiều dây thần kinh vận nhãn hay do ứ máu ở các cơ vận nhãn. Các triệu chứng làm bệnh nhân đi khám bao gồm xuất hiện tiếng ù, đau đầu, lồi mắt và cương tụ kết mạc. Mất thị lực do hở mi, bệnh võng mạc do chấn thương trực tiếp lúc xảy ra tai nạn, glôcôm do tăng áp lực tĩnh mạch thượng củng mạc, thiếu máu thị thần kinh hay xoang hang và tĩnh mạch hốc mắt trên giãn to gây chèn ép. Thường có liệt dây VI, liệt dây III hiếm gặp hơn. Điều trị hiện nay là dùng bóng ép, áp dụng với những lỗ rò động mạch cảnh xoang hang mạn tính hay có đe doạ thị lực. Tiên lượng về liệt vận nhãn thường tốt. Nhưng rối loạn vận nhãn có thể là biến chứng của phẫu thuật đặt bóng ép. Có khi Cần nhiều bóng mới đóng được lỗ rò.

Các rối loạn đồng tử sau chấn thương

Giãn đồng tử do chấn thương.

Rối loạn chức năng đồng tử trong chấn thương mắt thường phản ánh chấn thương trực tiếp vào cơ co đồng tử. Sau khi đụng giập lên nhãn cầu, đồng tử co lại, kéo dài trong nhiều giờ và tiếp theo là liệt mống mắt nhẹ. Co thắt đồng tử thường kèm theo co thắt điều tiết. Giãn đồng tử và thiểu năng điều tiết có thể gây trở ngại cho bệnh nhân, đặc biệt là khi nhìn gần.
Điểm quan trọng là mô tả cẩn thận các tổn thương ở mống mắt để tránh nhầm với rối loạn chức năng dây III (có thể là biểu hiện của thoát vị lều tiểu não). Nên khám các bệnh nhân này bằng đèn khe. Nếu thấy có dấu hiệu Tyndall tức là có thể có chấn thương cơ mống mắt, có thể thấy rõ các chỗ rách cơ cơ ở bờ đồng tử. Một dấu hiệu của chấn thương mống mắt là đồng tử không co tốt với ánh sáng và còn không giãn tốt khi vào bóng tối. Hơn nữa, đồng tử đáp ứng kém với pilocarpin. Để thấy rõ vết rách cơ co, có thể chiếu xuyên qua đồng tử. Đồng tử biến dạng có hình chữ D là có thể có đứt chân mống mắt.

Giãn đồng tử có thể xảy ra trong nhiễm độc kim loại do còn dị vật nội nhãn chưa lấy.

– Co đồng tử do chấn thương

Chấn thương là một nguyên nhân gây nên hội chứng Horner. Nếu không có các dấu hiệu khác, có thể chân thương vào đám rối giao cảm cô ở động mạch cảnh. Chuỗi giao cảm có thể bị ảnh hưởng trong chấn thương ngực. Chấn thương tủy sống vùng cổ có thể gây liệt giao cảm nhẹ. Co đồng tử còn gặp trong hội chứng tủy bên Wallenberg bao gồm rung giật nhãn cầu, khó nuốt, liệt nhẹ nửa người, mất cảm giác luân chuyển.

Chấn thương dây thần kinh tam thoa

Trong vỡ sàn hốc mắt, dây thần kinh dưới hốc mắt thường bị chấn thương. Chấn thương xuyên như bị đạn bắn có thể gây mất cảm giác vùng mắt và mặt. Thông thường, nếu hạch Gasser bị ảnh hưởng thì có thể có kèm theo liệt dây III, IV hay VI.

Mặc dù hiếm khi xảy ra, nhưng nếu có thì dấu hiệu chủ yếu là mất cảm giác giác mạc, tổn hại biểu mô và loét nhu mô nhanh chóng xuất hiện. Điều này rất quan trọng, nhất là khi mi mắt nhắm không được tốt, đặc biệt sau chấn thương dây VII. Cần băng mắt hay khâu cò mi để tránh các biến chứng ở giác mạc.

Chấn thương dây thần kinh số VII

Liệt mặt là một biến chứng thường gặp trong chấn thương sọ não. Liệt có nguồn gốc trung ương thường hay đi kèm liệt dây VI và liệt nửa người. Liệt mặt ngoại vi có tiên lượng hồi phục tốt, thường là do vỡ xương đá (thuộc xương thái dương).

Điều trị hở mi ở những bệnh nhân bị chấn thương sọ não là rất quan trọng. Nhắm mi không kín trong lúc hôn mê hay rối loạn chức năng dây VII đòi hỏi phải tra thuốc làm trơn giác mạc. Có thể chỉ định khâu cò mi, phẫu thuật này đơn giản và có thể tháo cò mi khi thấy không cần thiết.

Các rối loạn vận nhãn sau chấn thương

Các dấu hiệu về vận nhãn ở bệnh nhân hôn mê

Các dấu hiệu về mắt là những dấu hiệu thăm khám quan trọng khi bệnh nhân hôn mê . Bác sĩ nhãn khoa có thể giúp các đồng nghiệp thuộc chuyên khoa nội thần kinh hay ngoại thần kinh cắt nghĩa chức năng vận nhãn ở những bệnh nhân bị chấn thương nặng. Trong hôn mê, mi mắt có xu hướng nhắm lại khi chức năng cầu não dưới vẫn bình thường. Dần dần, mi mắt đóng chậm sau khi vành mắt, đó là dấu hiệu điển hình của hôn mê và mất tri giác. Dấu hiệu này không thể quá rõ rệt như trong trường hợp bệnh nhân bị hysteri. Có một phương pháp xác định chức năng cơ nâng mi là dựng bệnh nhân ngồi dậy. Ngay cả trong hôn mê, mi trên sẽ mở ra theo phản xạ trong một khoảng thời gian. Nhưng lại không làm được điều này khi bệnh nhân bị đặt ống nội khí quản hay phải gắn vào một dụng cụ điều trị nào đó.

Hai mắt liếc xuống dưới hay liếc lên trên hoặc đảo qua lại là những dấu hiệu thường gặp trong hôn mê. Các dấu hiệu này chỉ có ý nghĩa nếu tồn tại dai dẳng. Hai mắt luôn nhìn xuống dưới xảy ra trong các tổn thương vùng đồi thị và dưới đồi thị, đặc biệt trong xuất huyết nhồi máu. Mắt liếc lên trên là dấu hiệu thường gặp trong tình trạng thiếu oxy. Các bệnh nhân hôn mê thường không có những vận nhãn nhanh và vì vậy không có các pha nhanh của rung giật nhãn cầu.

Nếu một bệnh nhân rõ ràng bị hôn mê mà có đáp ứng với thử nghiệm kích thích nhiệt, cần xem xét khả năng bị hội chứng “khoá” (locked in). Trong trường hợp này bệnh nhân vẫn tỉnh, có vẻ mất tri giác là do chấn thương cuống não gây trở ngại việc giao tiếp.

Mắt không cân đối có thể là do lác ẩn bị mất bù trừ. Có thể lác ngang hay lác theo chiều đứng. Lác đứng có thể biểu thị của lác chéo hay liệt dây III hoặc dây IV.
vẫn còn vận nhãn liên hợp hai mắt khi xoay đầu hay khi kích thích nhiệt vào một bên tai, chứng tỏ không có tổn thương cuống não ở tai hay bên dưới nhân dây III. Chấn thương não dẫn đến bốn loại biểu hiện ở mắt cơ bản: 1) Không có vận nhãn chứng tỏ có tổn thương cuống não; 2) Hai mắt không liếc được về một bên chứng tỏ có tổn thương một bên ở trung tâm vận động hai mắt ở thân não; 3) Một mắt không vào trong được chứng tỏ có liệt dây III hay liệt vận nhãn gian nhân; 4) Một mắt không liếc ra ngoài được chứng tỏ có liệt dây VI. Thử nghiệm kích thích nhiệt tỏ ra có tác dụng hơn là xoay đầu. Rung giật nhãn cầu do kích thích bằng nước lạnh bao gồm pha chậm hướng về phía tai bị kích thích, tiếp theo là pha nhanh về phía đối diện. Nếu dùng nước ấm thì phản ứng xảy ra ngược lại. Nếu mê đạo một bên bị bất thường sẽ gây phản ứng giả.

Chấn thương trung tâm khu trú gây tổn hại vận nhãn

– Vận nhãn theo chiều đứng

Rối loạn vận nhãn theo chiều đứng là biểu thị của tổn hại não giữa hay tổn hại đồi thị hai bên. Tổn hại cuống não xảy ra trong quá trình thoát vị đường giữa có thể tạo những vùng thiếu máu khu trú ở vùng lều hay chất xám quanh ống dẫn dịch não tủy ở não giữa. Loại tổn thương này có thể gây ảnh hưởng vận nhãn lên trên hay xuống dưới. Trong một số trường hợp có xảy ra hội chứng Parinaud điển hình. Hội chứng này bao gồm liệt nhìn lên trên, liệt quy tụ, đồng tử giãn vừa phải đáp ứng với nhiệt, không đáp ứng với ánh sáng và quy tụ khi cố nhìn lên trên. Hai mắt đi lệch xuống dưới thường xảy ra trong chấn thương vùng đồi thị.

– Vận nhãn theo chiều ngang

Hai mắt cùng liếc sang ngang về bên đối diện với bên có liệt nửa người, vận nhãn khi xoay đầu hay kích thích nhiệt vẫn còn chứng tỏ có tổn thương đồi thị mộ bên hay tổn thương bán cầu vùng trán cùng bên.

Xuất huyết cuống não phía dưới có thể xảy ra khi các nhánh nhỏ gần đường giữa của động mạc thân nền bị tổn thương. Hiện tượng này xảy ra khi não hai bên phù nề ép vào động mạch. Khi đó hai mắt cùng đảo không có chủ ý, hiện tượng này không bị ảnh hưởng khi xoay đầu. Nếu tổn thương cuống não nặng hơn, xoay đầu kích thích nhiệt không gây vận nhãn.

– Liệt vận nhãn gian nhân

Hiện tượng một mắt liếc ra ngoài chậm hay hạn chế và mắt kia rung giật nhãn cầu khi liếc ra ngoài có thể xảy ra sau chấn thương. Có thể bị nhầm với liệt dây III từng phần. Liệt vận nhãn gian nhân sau chân thương là do lực tác động ở chỗ nôi chất xám và chất trắng ở bó dọc giữa khi phần sau của cuống não di lệch xa hơn phần trước. Liệt vận nhãn giai nhân hay xảy ra ở hai bên hơn là ở một bên và có thể kèm theo lác chéo. Tiên lượng hồi phục tốt.

Rung giật nhãn cầu

Rung giật nhãn cầu theo chiều ngang có thể có tần số thấp và biên độ rộng nếu nhân liếc mắt ở cuông não gần đường giữa bị tổn thương. Rung giật nhãn cầu tần số cao, biên độ nhỏ là dấu hiệu của chấn thương nhân tiền đình, cả hai loại Rung giật nhãn cầu có thể xảy ra cùng nhau, với pha nhanh xảy ra cùng bên tổn thương nếu là Rung giật nhãn cầu có liệt liếc mắt và pha nhanh hướng về bên đối diện tổn thương nếu là Rung giật nhãn cầu tiền đình. Chấn thương tiểu não có thể gây rung giật mắt, các hình thái Rung giật nhãn cầu như bật lò xo, không cân xứng. Vận nhãn nhìn theo vật có thể có dạng cử động giật. Có thể có dấu hiệu không ức chế được các phản xạ mắt tiền đình hay xoay đầu để định thị.

Dấu hiệu gật đầu do mắt hay vận nhãn xuống dưới hoặc lên trên xảy ra từng lúc là những dấu hiệu quan trọng ở các bệnh nhân bị hôn mê. Nói chung, đó là biểu hiện của chấn thương cuống não dưới, đặc biệt là tổn hại trung tâm liếc mắt sang ngang ở cuống não. Gật đầu do mắt xảy ra ngay sau chấn thương sọ não có thể có những ý nghĩa quan trọng. ở một số bệnh nhân có chấn thương cuống não, gật đầu do mắt xuất hiện muộn.

Rung giật nhãn cầu dạng quả lắc đồng hồ có thể xảy ra khi có chấn thương các cấu trúc vùng dưới đồi ở một bên. Có thể thấy trong các hội chứng giao thoa do chân thương, sau chân thương sọ gây căng giãn làm tổn hại chỗ nối cuống não và tủy sống.

Khi bệnh nhân liếc về bất kỳ một phía nào đó, có những cử động giật nhanh gọi là giật mắt (opsoclonus). Dấu hiệu này hiếm khi xảy ra sau chấn thương sọ não nặng có kèm theo hôn mê ở người trưởng thành.

Sau chấn thương sọ não, một số bệnh nhân có chóng mặt mặc dù thăm khám lâm sàng thấy bình thường. Trong nhiều trường hợp như vậy, điện Rung giật nhãn cầu thây có những đáp ứng bất thường. Một nguyên nhân khác của các dấu hiệu tiền đình kéo dài, đặc biệt là chóng mặt khi thay đổi tư thế là lỗ rò bạch mạch. Cần thăm khám tai mũi họng vì bệnh này có thể chữa được.

Rung giật nhãn cầu ẩn có thể trở thành hiện sau chấn thương vào một bên mắt. Khi đó gây rối loạn chức năng thị giác ở mắt còn lại, thậm chí khi mắt này bình thường.

Tác động của thiếu oxy lên hệ thống vận nhãn

Chấn thương gây thiếu oxy có xu hướng gây tổn hại hệ thần kinh trung ương rộng hơn là chấn thương trực tiếp. Một số vùng ở não như vùng tiếp giáp giữa các động mạch não giữa trước và các động mạch não giữa sau có xu hướng dễ bị ảnh hưởng của thiếu oxy hơn. Nhìn chung, có rối loạn chức năng não khi tim ngừng đập quá 5 phút. Huyết áp thấp và mất thể tích tuần hoàn cũng gây nên tình trạng này. Thị lực thường bị ảnh hưởng, thiếu oxy nặng là một nguyên nhân của mù vỏ não. ở trẻ em có thể dẫn đến lác.

Liệt vận nhãn theo chiều đứng có xu hướng dễ xuất hiện hơn sau chấn thương gây thiếu oxy. Tổn thương thùy trán và trán đỉnh hai bên cấp tính có thể gây hội chứng Balint. Khi đó vận nhãn có chủ ý có thể không chính xác. Bệnh nhân hướng mắt về một điểm nằm ngoài điểm cần nhìn, bắt đầu những vận nhãn tìm kiếm. Bệnh nhân không chú ý đến những kích thích thị giác, thậm chí những kích thích này gây nguy hại cho thị giác.

Vận nhãn phản xạ không bị ảnh hưởng. Hội chứng này có thể do nhiều nguyên nhân như bệnh xơ cứng não, đột quỵ, chấn thương xuyên và thiếu máu não.

Điều trị mắt rất khó khăn do bệnh nhân không nói được hay tri giác kém. Thăm khám đòi hỏi sự kiên nhẫn. Có thể chỉ dùng kính đọc sách hỗ trợ hay bịt một bên mắt để giảm bớt tàn phế ở những bệnh nhân này.

Thực phẩm trị bệnh – Thực trị

THỰC TRỊ (Thực phẩm trị bệnh) có hai cách:

  1. Trị bệnh bằng thức ăn

Nhiều nhà nghiên cứu dưỡng sinh trước và nay đều thống nhất dùng cốc loài làm thức ăn chính. thức ăn là rau, củ, đậu, trái cây, thịt cá với một số lượng vừa phải, tùy theo thể trạng từng người, từng bệnh, từng môi trường sống, từng dân tộc, tập quán. Thí dụ: chữa bệnh về tim mạch:

– Viện sĩ y khoa A.Prokovski (Liên Xô) khuyên dùng bánh mỳ đen (lúa mỳ Lứt) 150g, bánh mỳ trắng 100g, thịt 55g, cá 120g, trứng 50g, rau quả 100g, cà phê 15g, đường 35g, bánh ngọt 50g cho một ngày.

– Bác sĩ Harley Walker và bác sĩ Howard Posner (Mỹ) dùng thức ăn chính là bột 45%, đường 15% (tối đa), đạm 12% (1/2 là thực vật), dầu 18%, mỡ 10%, nhưng còn kèm theo Vitamin E và Vitamin nhóm B.

– Bác sĩ Morishita Keichi dùng cơm gạo Lứt trộn tạp cốc (gạo Lứt 60%, kiều mạnh 10%, đậu đỏ 10%, đậu đen 10%, kê 10%) kèm theo thức ăn rau củ: rau câu, nấm, mộc nhĩ, cải bắp, hành, cà chua, ớt khoai sọ, xà lách, cá nhỏ, ốc hến. Xào nấu bằng dầu thực vật. Ngoài ra, còn uống dầu lòng đỏ trứng gà.

– G.Ohsawa khuyên dùng chủ yếu là cơm Lứt, muối vừng, nhai thật kỹ và uống nước. Uống thêm dầu lòng đỏ trứng gà để giúp cho tim khỏe lên. Không riêng biệt về tim mạch mà với mọi bệnh, ông điều trị bằng cơm Lứt với muối vừng.

– Bác sĩ Nacagaoa khuyên dùng thức ăn chính cũng là cơm Lứt hoặc bánh mỳ đen kèm với muối vừng. Thức ăn phụ… tùy theo tình trạng, mức độ diễn biến của từng bệnh nhân mà vận dụng theo tỷ lệ 06 phần rau,03 phần thức ăn động vật (cá nhỏ, chim nhỏ), một phần hải thảo (rau câu); gia vị: chút ít đường đỏ hoặc đen; dầu thực vật, không dùng đạm chế biến bằng chất hóa học. Vì huyết dịch, thể dịch của họ có toan tính cao, cân bằng thức ăn có tính kiềm để trung hòa.

Câu lạc bộ THỰC DƯỠNG thành phố Hồ Chí Minh ứng dụng có chọn lọc những kinh nghiệm về dinh dưỡng cổ truyền và hiện đại và căn cứ vào những kết quả điều trị nhiều loại bệnh, đã hình thành toa căn bản gồm 3 loại Thực đơn (I, II, III) dùng trong 03 giai đoạn: Điều trị, Điều dưỡng và An dưỡng; dựa trên nguyên lý điều hòa cơ thể, cân bằng Âm Dương với 03 quy định sau đây:

  1. Dùng cốc loại tại địa phương làm thức ăn chính.
  2. Đảm bảo thực phẩm tốt, giữ được tính thiên nhiên trong nuôi trồng và chế biến, chú ý điều hòa Âm Dương trong thực đơn.
  3. Đáp ứng đủ các chất dinh dưỡng thiết yếu ở tỷ lệ cân đối, thích hợp với từng người bệnh.

THỰC ĐƠN CĂN BẢN:

Thành phần: Gồm 03 thực phẩm chủ yếu (còn gọi là thức ăn chính):

GẠO LỨT – MUỐI – VỪNG

Công dụng:

GẠO LỨT: Gạo Lứt là hạt thóc không còn vỏ ngoài bọc gồm có cám bao xung quanh, mầm ở đầu hạt và lõi trong là bột gạo có thành phần chủ yếu là tinh bột. Tinh bột gồm 02 phân tử Amiloza và Amilopectin. Càng có nhiều Amiloza cơm càng nở và khi để nguội chóng khô, đó là gạo tẻ (Oryzasanta), (Đông y gọi là Nghạch mễ). Còn gạo nếp (Oryzasativa var Glutino Samats) hầu như chỉ có Amilopectin nên đồ xôi không nở, để nguội vẫn dẻo, (Đông y gọi là Nhu mễ). Gạo Lứt theo Đông y: khí ôn, vị ngọt, điều hòa 05 tạng, bổ tỳ vị, bổ phế khí, mạnh tâm trí, cứng gân xương, thân thế cường tráng.

VỪNG (Sesamum Indicum D.C) có nơi gọi là mè, chi ma. Có loại vừng đen (Semen Sesami), mè đen, hắc chi ma. Dùng loại nào cũng được nhưng phải để nguyên vỏ không xát trắng.

Vừng là một thực phẩm quý. Đông y liệt vừng vào loại thuốc bổ. Vừng có vị ngọt tính bình, không độc, vào bốn kinh: phế, tỳ, can, thận có tác dụng ích gan, bổ thận, nhuận tràng, lợi sữa, nuôi huyết, tư dưỡng cường tráng, chủ trị thương phong, hư nhược, ích khí lực, bổ Ngũ tạng, dưỡng não tủy, bền gân cốt, sáng tai, mắt, chống đói sống lâu.

MUỐI (Natrium Chloridum Crudum) còn gọi là thực diêm (muối ăn). Như người ta nói “sinh mạng sinh ra từ biển” (sinh mạng trong đó còn có con người). Triết tự của người xưa thể hiện cũng khá rõ ý đó: chữ hải là biển gồm chữ thủy là nước, chữ nhân  là người và chữ mẫu  là mẹ. cấu tạo thành phần muối trong máu người giống nước biển. Như vậy, có thể nói nguồn gốc của máu là nước biển. thành phần chính trong nước biển gồm Natri, Kali, Canxi, Clo, Magiê, Clorua… trong muối ăn chủ yếu cũng có Natri, Clorua, Kali Clorua, Magie, muối, Canxi, sắt, Sunfat… Tây y đã xác định vai trò quan trọng của muối trong cơ thể và hay dùng muối dưới dạng tinh khiết để chế huyết thanh đẳng trương và ưu trương tiêm hoặc rửa vết thương.

 Gạo Lứt, muối và vừng trong lĩnh vực chữa bệnh thì thuở xa xưa Danh y Tuệ Tĩnh tiếp đến Hải Thượng Lãn Ông và nhiều lương y sau này trong thực đơn của những phương thuốc đã sử dụng khá phổ biến. Y học phương Tây cũng đã xác nhận thức ăn và gạo Lứt dễ tiêu hóa, rất tốt cho người đau dạ dày, những người ăn khó tiêu, những người ốm mới khỏi, nhất là những người bị viêm ruột, tiêu chảy thường dùng dưới dạng cháo hồ. Theo bác sĩ Sallet (ở Pháp) thì gạo Lứt (Rizcomplet) bổ và mát giải nhiệt, giải khát, giảm đau thần kinh và làm dịu mọi phiền não, lo âu. Ông còn thấy gạo tẻ Lứt có tác dụng ngăn sự xuất tiết của dạ dày và ruột cho nên có hiệu quả tốt trong các bệnh tả lỵ. Gạo nếp Lứt bổ lách và phổi, giúp cho dạ dày tiêu hóa vật thực khó tiêu, bài tiết những chất độc đưa vào cơ thể, dùng rất tốt cho những trường hợp động thai bất thường. Gạo nếp Lứt rang vàng dùng chữa bệnh chảy máu cam và rang vàng dùng để bổ dương. Ngày nay, ở Hoa Kỳ, người ta dùng gạo với rau quả trong phép tiết thực để chữa bệnh tim, bệnh thận, huyết áp cao. Ở Liên Xô cho biết trong gạo Lứt cũng như trong lúa mỳ Lứt có nhiều chất bổ dưỡng trong đó có chất Xelen có tác dụng hạn chế tế bào ung thư phát triển đã được thể nghiệm trên súc vật và trên người. Họ nghiệm thấy rằng những bệnh nhân ung thư có rất ít chất Xelen trong người. Theo hai nhà khoa học tại bang Ilinoi ở Mỹ, chất Xelen có thể ngăn không cho các khối u ở vú phát triển (Báo Khoa học kỹ thuật Kinh tế thế giới số 05 trong bài “Vai trò của các nguyên tố kim loại trong cơ thể”).

Như vậy, về nguyên lý cũng như về kinh nghiệm sử dụng với kết quả thực tế về tác dụng dược lý, gạo Lứt, muối và vừng được chọn làm thức ăn chính để thành thức ăn cơ bản hoặc gọi là thực đơn cơ bản để trị bệnh có đầy đủ tính khoa học và đại chúng.

LIỀU DÙNG

THỰC ĐƠN I: Dùng trong giai đoạn “điều trị”, được coi là Thực đơn căn bản.

Thức ăn chính: gạo tẻ Lứt 100%. Số lượng tùy mức ăn của từng người, với người Việt Nam không quá 400g mỗi ngày. Nấu cháo, cơm hoặc làm bánh… tùy khẩu vị, tuyệt đối không pha hóa chất và dầu mỡ.

– Muối và vừng: chế biến thành món muối vừng. Tỷ lệ muối và vừng tùy trạng thái của từng người bệnh, dựa theo phân lỏng hay bón mà điều chỉnh. Tỷ lệ giữa muối và vừng:

Phân bón: 01g muối trộn với 10-12g vừng.

Phân lỏng: 01g muối trộn với 05g vừng.

Phân bình thường: 01g muối trộn với 06-07g vừng.

Mỗi ngày không dùng quá 50g muối vừng.

Thức uống: gạo Lứt rang sẫm đun sôi khoảng 30-60 phút, ủ vào giỏ nước để uống ấm.

Thời gian ăn theo Thực đơn 1: cho đến khi bệnh bắt đầu ổn định.

THỰC ĐƠN II: dùng trong giai đoạn “Điều dưỡng”, là Thực đơn I có gia thêm những thức ăn đặc hiệu đối với từng loại bệnh, nhằm tăng thêm hiệu lực chữa bệnh.

Thức ăn chính: gạo tẻ Lứt 60% trộn tạp cốc (đậu đỏ, đậu đen, đậu nành, kê, ngô… mỗi thứ từ 05-10%).

– Muối vừng: liều lượng và cách sử dụng như Thực đơn I.

Thức ăn phụ: các loại rau (rau câu, cà rốt, bí đỏ, củ cải, khoai sọ, cải bắp, cải soong, hành, tỏi, nấm, mộc nhĩ…); các loại cá nhỏ, ốc, sò, hến, tạng phủ (tim, gan, phổi, thận…) một số gia cầm.

Xào nấu bằng dầu thực vật, mỗi ngày từ 50-200g thức ăn phụ, với chỉ định thích hợp với từng bệnh (xem phần II “Thực trị một số bệnh thường gặp “).

Thức uống: như Thực đơn I hoặc một số thức uống chế biến dưới dạng trà.

Thời gian ăn theo Thực đơn II: Đến khi bệnh hoàn toàn ổn định.

THỰC ĐƠN III: Dùng trong giai đoạn “An dưỡng”, để chuyển từ chế độ ăn “Thực trị” sang chế độ “Thực dưỡng” nhằm củng cố và tăng cường sức khỏe. Người bệnh tự chăm sóc, nuôi dưỡng mình bằng cách lựa chọn thức ăn hằng ngày và tự theo dõi phân, nước tiểu. từ đó mà điều chỉnh thức ăn, thức uống cho hợp lý và chế biến cho đúng cách.

Thức ăn chính, thức ăn phụ và thức uống: giống như Thực đơn II, có mở rộng thêm một số món ăn cho hợp khẩu vị. số lượng tùy theo nhu cầu của cơ thể từng người, với điều kiện thức ăn không vượt quá 1/3 thức ăn chính (người Việt Nam gọi “bữa cơm” có nghĩa là ăn cơm là chính) và chỉ ăn vừa đủ, không bao giờ ăn quá no.

Thời gian ăn Thực đơn III: Là thực đơn mở rộng nhằm đáp ứng với khẩu vị, nên thời gian không quy định. Nhưng nếu có hiện tượng khác thường, người cảm thấy uể oải, ăn uống kém ngon thì ngừng lại, tùy theo mức độ nặng nhẹ mà chuyển sang Thực đơn I hoặc Thực đơn II

Tác dụng chữa bệnh của Hạt cải củ (củ cải)

Cây cải củ thuộc loại thân thảo, sống hàng năm, trồng bằng hạt, rễ củ màu trắng, to. Hoa trắng hay đỏ. Quả hình trụ có mỏ dài, hơi thắt giữa các hạt, hạt hình tròn dẹt. Hạt cải củ được dùng làm thuốc chữa bệnh.

Theo Đông y, hạt cải củ có vị ngọt, cay, mùi thơm có tác dụng tiêu đờm trừ hen suyễn, lợi tiểu, nhuận tràng. Chữa chứng phong đờm, thở suyễn, lỵ, mụn nhọt, đại tiện không thông, phá được trệ khí.

Hạt cải củ
Hạt cải củ

Tác dụng chữa bệnh của Hạt cải củ

Bài 1. Thuốc chữa mụn nhọt

+ Hạt cải củ                          30g

+ Giấm trắng                        20g

Hạt cải củ giã nhỏ, trộn đều với giấm đắp lên chỗ đau, ngày thay thuốc 1 lần.

Bài 2. Thuốc chữa suyễn khó thở

+ Hạt cải củ 10g
+ Hạt tía tô 10g
+ Hạt cải xanh 5g

Các vị thuốc sao vàng, giã nhỏ, cho vào túi vải buộc kín miệng, đun với 600ml nước, khi còn 200ml nước thuốc, chia 3 lần uống trong ngày sau khi ăn. cần uống liền 5-7 ngày.

Cắt cơn hen suyễn:

Bài 1: hạt cải củ sao 12g, hạt tía tô 12g. Sắc uống. Chữa người già bị viêm phế quản mạn tính.

Bài 2: Tam tử dưỡng thân thang: hạt cải củ sao 12g, hạt tía tô sao 12g, bạch giới tử sao 12g. Tán bột thô, cho vào túi vải, sắc với 400ml lấy 200ml, chia uống 3 lần trong ngày. Chữa viêm phế quản mạn tính, hen suyễn hơi đi ngược.

Bài 3: hạt cải củ sao 12g, hạnh nhân 12g, cam thảo sống 8g. Sắc uống. Chữa viêm phế quản mạn tính, ho nhiều đờm.

Bài 4: hạt củ cải sao, hạt bồ kết đốt tồn tính; liều lượng bằng nhau. Tán bột mịn, luyện với mật ong làm viên. Mỗi lần uống 4g, ngày uống 2 – 3 lần. Trị đờm suyễn, ngực căng thở gấp.

Chữa các chứng bệnh tiêu hóa kém, ăn uống bị đầy, hơi không lưu thông, tức ngực, trướng bụng:

Bài 1: hạt cải củ sao 12g, chỉ xác 8g, thần khúc sao 16g. Sắc uống. Chữa tiêu hóa kém, mồm hôi, bụng trướng, đại tiện khô.

Bài 2: hạt cải củ 12g, tỏi 1 củ. Hạt cải củ nghiền thành bột, tỏi củ giã nát thêm nước lọc lấy nước. Uống bột thuốc và nước tỏi, với nước đun sôi còn nóng. Chữa lỵ mót rặn đại tiện.

Có thể kết hợp hạt cải củ cải với tiểu hồi hương, đại hoàng để chữa bí đại tiện đơn thuần.

Ngoài ra, la bặc tử dùng trong bệnh sởi, ngạt khí than:

Hạt củ cải chiêu nước hồ: hạt củ cải tươi nghiền nát, mỗi lần uống 6g, uống cùng với nước hồ hoặc nước cơm. Ngày 3 lần. Dùng cho các trường hợp ban sởi mọc chậm không đều, hoặc sau khi ban sởi mọc có viêm khí phế quản ho nhiều đờm.

Nước cải củ tươi: củ cải hay cả cây cải tươi giã nát vắt lấy nước cho uống. Trị ngạt do khói than.

Kiêng kỵ: hạt cải củ có thể hao tổn khí (sức lực) nên người sức yếu (khí hư) không bị đầy tích, đờm trệ không uống.

CHẨN ĐOÁN VÀ XỬ TRÍ VẾT THƯƠNG VÙNG CỔ 

Vết thương vùng cổ là những tổn thương hở ở vùng cổ gây thông thương giữa vùng tổn thương với môi trường bên ngoài.

Do vùng cổ là nơi chứa đựng các bộ phận quan trọng như các mạch máu lớn, đường thở nên tổn thương ở vùng này có thể gây tử vong nhanh chóng nếu không được xử trí kịp thời. Thanh quản và khí quản là cơ quan nhô ra phía trước nhiều nhất nên dễ bị thương tổn nhất.

Nguyên nhân: cắt cổ tự tử, dao đâm, trâu húc, tai nạn giao thông, hoả khí…

Tổn thương giải phẫu bệnh

  • Cắt cổ tự tử bằng dao: vết rạch ngang, hơi chếch về một bên. Màng giáp móng và sụn giáp thường bị cắt đứt. Đôi khi sụn nhẫn, sụn phễu, thực quản cũng bị thương tổn. Động mạch cảnh ít khi bị chạm đến.
  • Nếu trâu húc: lỗ thủng rộng, tổ chức xung quanh dập nát.
  • Đạn bắn từ xa, có lỗ vào lỗ ra, ít dập nát, lỗ ra to hơn lỗ vào. Vết thương chột: dừng lại trong thanh quản hoặc ở thành thanh quản.
  • Đạn bắn gần: một phần thanh quản bị vạt đi.
  • Lựu đạn, bom: nhiều vết thương ở cùng một vùng, thường nặng, dễ viêm nhiễm.
  • Do tai nạn: vết thương bẩn, có thể giập nát, mất chất, có thể tổn thương các lớp khác nhau.

CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán vết thương vùng cổ thường không khó, quan trọng là phải đánh giá được mức độ tổn thương.

Triệu chứng lâm sàng

Trường hợp nặng: Bệnh nhân ngất đi trong thời gian ngắn, sau đó tỉnh dậy, trong tình trạng choáng: mặt tái xanh, mạch nhanh yếu, huyết áp hạ…

  • Vết thương phần mềm

Gồm nhiều mức độ khác nhau: từ xây xước, rách da, mất chất da, cơ. Vết thương có thể bẩn, có dị vật như đất đá, tre nứa.

Vết thương có thể đang chảy máu hoặc đã nhiễm trùng.

  • Chấn thương hở thanh quản

Chảy máu: nhiều hoặc ít, nếu nhiều có thể gây sốc, tràn vào đường thở gây ngạt thở. Ho: ít hoặc nhiều, liên tục, có khi yếu dần đến “lụt khí phế quản” bởi máu và nước bọt.

 

Khó thở: do máu tràn vào đường thở, di lệch các sụn, hoặc xuất hiện muộn do phù nề hoặc tràn khí dưới da.

Phì phò khí máu: khi hít thở, ho thấy bọt lẫn máu qua vết thương. Nếu thấy nhiều nước bọt qua vết thương gợi ý tổn thương phối hợp hạ họng, thực quản.

Rối loạn tiếng nói: khàn đến mất tiếng.

Bệnh nhân nuốt đau. Rối loạn về nuốt khi tổn thương nếp thanh thiệt, hạ họng.

Nhìn: cổ sưng to do tràn máu, tràn khí. Tràn khí có thể lan rộng đến mặt, ngực hoặc trung thất. Tràn khí gây chèn ép mạch máu, thần kinh, đưa viêm nhiễm vào trung thất.

Sờ: tìm điểm đau, tính toàn vẹn của khung sụn.

  • Chấn thương hở khí quản

Giống chấn thương hở thanh quản nhưng có thể không thay đổi giọng nói nếu tổn thương nhỏ.

Tuyến giáp có thể đứt gây chảy máu kéo dài.

  • Vết thương mạch máu

Chảy máu nhiều qua vết thương hoặc tạo thành khối máu tụ.

Với những thương tổn mạch máu lớn, máu thường chảy ồ ạt qua vết thương hoặc tràn vào đường thở khi có tổn thương đường thở kèm theo.

  • Vết thương thực quản

Ít gặp do được che chắn phía trước bởi khí quản.

Triệu chứng cơ năng không điển hình, dễ lẫn với những biểu hiện tổn thương khác. Nếu bệnh nhân vẫn nuốt được có thể thấy nước bọt, dịch thức ăn tràn qua vết thương. Thường được phát hiện qua việc thăm dò vết thương và qua xét nghiệm cận lâm sàng.

Cận lâm sàng

Soi thanh quản trực tiếp (tốt nhất là ống mềm): nếu tình trạng bệnh nhân cho phép hoặc khi đã kiểm soát được đường thở, đánh giá hạ họng, thanh quản: di động dây thanh, máu tụ, khe thanh môn, hạ thanh môn.

Soi thực quản: nếu nghi ngờ tổn thương thực quản.

Chụp Xquang cổ thẳng nghiêng: cho thấy hình ảnh dị vật cản quang, tổn thương cột sống nếu có, ngoài ra có thể đánh giá được phần nào sự thông thoáng của thanh khí quản.

Trường hợp nghi ngờ tổn thương họng, thực quản có thể sử dụng chất cản quang tan trong nước.

CT vùng cổ: là một xét nghiệm an toàn, không xâm lấn, cho phép đánh giá tổn thương thanh khí quản với độ chính xác cao.

Siêu âm vùng cổ: thường sử dụng khi nghi ngờ khối máu tụ. Siêu âm doppler để đánh giá thương tổn mạch.

ĐIỀU TRỊ

  1. Cấp cứu

Chống ngạt thở

Nếu thanh quản hoặc khí quản bị rách, dập, bệnh nhân ngạt thở phải lập tức đút một ống cao su vào thanh quản qua chỗ vết thương cho bệnh nhân thở.

Mở khí quản cấp cứu trong các trường hợp: khó thở, rách niêm mạc rộng, chấn thương di lệch nhiều trên CT, tràn khí dưới da nhiều.

Nên rạch da rộng để cầm máu. Thở oxy.

Chống choáng

Chống nhiễm trùng

  1. Điều trị nội khoa và theo dõi
  • Chỉ định: những tổn thương nhỏ có thể tự khỏi và không để lại di chứng như phù nề, tụ máu nhỏ, rách nhỏ ở dây thanh.
  • Điều trị:

+ Chế độ sinh hoạt: nghỉ ngơi tại giường, đầu cao, hạn chế nói, khí dung.

+ Corticoid đường toàn thân: sử dụng trong những ngày đầu sau chấn thương nhằm chống viêm, giảm phù nề, hạn chế sự hình thành sẹo hẹp và u hạt.

+ Kháng sinh: không thực sự cần thiết trong các tổn thương nhỏ tuy nhiên lại cần trong các tổn thương niêm mạc lớn, bộc lộ sụn.

+ Chống trào ngược: tác dụng chống sẹo hẹp và tạo u hạt.

  1. Phẫu thuật

Phải đảm bảo che kín sụn đề phòng nhiễm trùng.

Đường vào có thể sử dụng ngay miệng vết thương, có thể rạch rộng thêm hoặc đường rạch đứng giữa.

Vết thương ngoằn ngoèo, nham nhở, nhiều lỗ: rạch cổ rộng để thăm dò, cầm máu, gắp dị vật, khâu lại theo đúng bình diện giải phẫu. Trong khi tìm dị vật, phải dựa vào phim và phẫu thuật trên bàn Xquang.

Tổn thương đường thở phức tạp đặt dụng cụ đỡ như: ngón tay găng, ống nong Aboulker, Montgomery, ống chữ T. Ống nong đặt từ sụn phễu, qua sụn nhẫn, đến các vòng sụn khí quản đầu tiên. Thời gian lưu ống 2 tuần.

Tách rời sụn nhẫn và khí quản: có nguy cơ tổn thương dây hồi quy, sẹo hẹp hạ thanh môn.

Vỡ sụn nhẫn không di lệch: khâu đơn thuần hai bình diện xuyên sụn ngoài niêm mạc và màng sụn.

Vỡ sập cung trước: khâu phục hồi, ghép phủ nếu mất niêm mạc, đặt stent.

Nếu vỡ sụn khí quản: Khâu ngay bằng chỉ không gây xơ catgut, chromic, mũi rời bên ngoài. Trương hợp tổn thương đứt rời có thể khâu nối tận tận.

Nếu không đặt ống nong nên rút canule càng sớm càng tốt.

Mở thông dạ dày để đảm bảo dinh dưỡng trong trường hợp tổn thương thủng thực quản.

DIỄN BIẾN VÀ TIÊN LƯỢNG

Vết thương nhỏ, đi ngang thường lành nhanh chóng.

Vết thương rộng, mất chất, hoặc dập nát kèm thương tổn bộ phận kế cận thường gây nhiều nguy hiểm.

Bệnh nhân có thể chết vì chảy máu thứ phát do vỡ mạch, sốc, nhiễm khuẩn, tràn khí gây ngạt thở.

Ảnh hưởng đến chức năng nói do rách thanh đai, liệt cơ, cứng khớp nhẫn phễu. Bệnh nhân khó thở thanh quản do sẹo hẹp.

Vai trò của dinh dưỡng lên mật độ xương

Cân bằng dinh dưỡng (đặc biệt khẩu phần canxi- vitamin D) là yếu tố quan trọng để phát triển và duy trì sức mạnh của xương cũng như sức khỏe nói chung. Một chế độ dinh dưỡng cân bằng tốt cho xương có nhiều yếu tố cần thiết như: viatmin D và canxi, các yếu tố vi lượng như magiê, vitamin K và protein. Trong đó, việc cung cấp đủ canxi và vitamin D là rất cần thiết cho chuyển hóa của xương, tác động trực tiếp tới chu chuyển xương và là yếu tố không thể thiếu cho tất cả các biện pháp điều trị loãng xương.

Vai trò của canxi

canxi là yếu tố nhiên liệu thiết yếu trong chu chuyển xương. Không cung cấp đủ canxi và phospho cho cơ thể sẽ dẫn đến tình trạng còi xương ở trẻ em, không đạt mật độ xương đỉnh chắc khỏe ở người trưởng thành và loãng xương ở người lớn tuổi. Nhu cầu về canxi luôn gắn liền với nhu cầu vitamin D. Để cân bằng nồng độ canxi trong máu cần chú ý tới lượng canxi cung cấp cho cơ thể. Nếu cung cấp canxi cho cơ thể thấp và trong thời gian kéo dài thì cân bằng canxi sẽ âm, dẫn đến phản ứng huy động lượng canxi dự trữ trong xương từ đó gây ra loãng xương và tăng nguy cơ gãy xương. Để duy trì cân bằng này luôn ở trạng thái dương cần bổ sung lượng canxi hàng ngày trung bình là 1.200 – 2.000 mg/ngày (cả chế độ ăn (500 – 1.000mg) và dược phẩm bổ sung (600 – 1.200mg). Tuy nhiên, nhu cầu canxi còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố nhân chủng học. Tại Mỹ, theo số liệu thống kê của Viện Dinh dưỡng Quốc gia Hoa Kỳ (1999-2000) ở nhóm phụ nữ tuổi 40-59 và nhóm tuổi > 60 có khẩu phần canxi trung bình hàng ngày đạt được là 744mg/ngày và 660mg/ ngày; tại Canada khẩu phần canxi trung bình hàng ngày ở nhóm 50-70 tuổi là 740mg/ngày. Theo khuyến cáo của Hội Loãng xương quốc gia Hoa Kỳ thì lượng canxi cần cung cấp cần thiết cho nhóm phụ nữ trên 50 tuổi là 1.200mg/ngày, vì vậy lượng canxi cần bổ xung thêm bằng thực phẩm chức năng trung bình là 600 – 900mg/ngày.

Tại Việt Nam, theo số liệu của Viện Dinh dưỡng Quốc gia công bố năm 2007 thì nhu cầu về canxi hàng ngày ở người trên 50 tuổi trung bình là 1.000mg/ngày, và thực tế chỉ đạt được 525mg canxi trung bình/ngày. Thậm chí, theo nghiên cứu năm 2013 của Laillou nghiên cứu trên 579 phụ nữ độ tuổi sinh đẻ ở nông thôn Việt Nam khẩu phần canxi trung bình đạt được qua bữa ăn là 396.85 mg canxi/ngày.

Nguồn thực phẩm cung cấp canxi rất phong phú (hàm lượng canxi/100g). Thực phẩm tương tự nhiên nguồn gốc từ động vật: cua đồng 5.040mg, tôm nhỏ 910mg, cá dầu 827mg, sữa tươi 120mg, sữa chua 65-150mg, thịt nạc 50mg; thực vật bao gồm sữa đậu nành 165mg, rau đậu 60mg, rau xanh 50-135mg, nước cam 60mg. Canxi tổng hợp (vô cơ, hữu cơ) dưới dạng thực phẩm chức năng có hàm lượng canxi dao động từ 400mg đến 1.500mg.

Duy trì lượng canxi đầy đủ qua ăn uống là một biện pháp hữu hiệu, rất cần thiết cho việc ngăn ngừa tình trạng canxi bị di chuyển khỏi xương, nơi mà 99% lượng canxi được lưu trữ của cơ thể. Nhu cầu bổ sung canxi tùy thuộc vào độ tuổi, tình trạng mãn kinh, lượng canxi hấp thụ hàng ngày, và lượng vitamin D cần thiết. Tăng lượng canxi qua nguồn thực phẩm là cần thiết trong thời kì tăng trưởng để đạt được mật độ xương cao nhất. Ở phụ nữ sau mãn kinh cần bổ sung lượng canxi cao hơn các đối tượng khác vì những lý do như: Ở phụ nữ mãn kinh lượng estrogen suy giảm, khi thiếu hụt estrogen dẫn đến tăng đào thải canxi qua nước tiểu; thứ hai là tuổi càng cao thì khả năng hấp thụ canxi càng giảm và thứ ba là khi thiếu vitamin D sẽ làm giảm khả năng hấp thụ canxi ở ruột.

Tuy nhiên, nếu chỉ bổ sung canxi đơn thuần thì không có hiệu quả hay ít có hiệu quả đối với việc phòng chống mất xương ở những phụ nữ sau mãn kinh. Một phân tích tổng hợp các nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên gần đây cho thấy ở phụ nữ mãn kinh, canxi có khả năng làm giảm tỉ lệ mất xương khoảng 2% mỗi năm. Viện Y khoa của Hoa Kỳ đề nghị lượng canxi cần thiết hàng ngày như sau:

Độ tuổi Lượng canxi cần thiết mỗi ngày (mg)
9-18 tuổi 1.300
19-50 tuổi 1.000
Trên 50 tuổi 1.200
Lượng canxi tối đa an toàn: 2.500 mg hàng ngày

Vitamin D có vai trò rất quan trọng trong việc bình ổn nội môi của canxi/phospho máu và chuyển hóa của xương. 1,25(OH)2 vitamin D làm tăng hấp thu canxi ở ruột non do 1,25(OH)2 vitamin D tác động lên các receptor của vitamin D dẫn đến tăng sự hoạt động của kênh canxi ở lớp biểu mô ruột, đồng thời 1,25(OH)2 vitamin D tác động lên receptor của 1,25(OH)2 vitamin D ở các tạo cốt bào tăng khoáng hóa và tạo xương mới. 1,25(OH)2 vitamin D cũng hoạt hóa thụ cảm thể RANK. RANK hoạt hóa hủy cốt bào hoạt động để huy động canxi và phospho từ xương vào máu và duy trì nồng độ canxi- phospho hằng định trong máu. Nồng độ canxi-phospho trong máu thúc đẩy sự khoáng hóa của xương. Vai trò bình ổn hằng định nội môi canxi/phospho máu của vitamin D được điều hòa bởi hormone cận giáp PTH và chính nồng độ canxi/phospho. Khi canxi máu giảm, cơ chế phản hồi sẽ làm tăng tiết hormone PTH, từ đó tăng hủy xương để huy động canxi trong xương ra máu,đồng thời tăng kích thích alpha 1 hydroxylase ở thận để tăng tổng hợp vitamin D (1,25(OH)2 vitamin D). Vitamin D này sẽ quay lại làm tăng hấp thu canxi/phospho ở ruột vào máu. Ngoài ra, estrogen và prolactin cũng có vai trò điều hòa chuyển hóa vitamin D ở phụ nữ có thai, cho con bú và phụ nữ.

Nguồn cung cấp vitamin D: Vitamin D là một vitamin hòa tan trong mỡ có cấu trúc phân tử steroid. Vitamin D không phải là một vitamin đơn thuần vì nguồn cung cấp vitamin D cho cơ thể không chỉ qua thức ăn mà cơ thể còn có khả năng tự tổng hợp vitamin D. Khi da tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời hoặc tia cực tím, tiền vitamin D sẽ được chuyển thành vitamin D3 (cholecalciferol), sau đó chúng được vận chuyển vào máu đến cơ quan đích nhờ protein gắn vitamin D (DBP). Ngoài vitamin D tổng hợp ở da, vitamin D được hấp thu ở ruột cũng là một nguồn chính thông qua thức ăn, đồ uống có chứa vitamin D. Tiền vitamin D có trong thức ăn

CÓ nguồn gốc từ động vật như: dầu cá, trứng, bơ, gan, cá hồi, cá thu, cá trích; nguồn gốc từ thực vật như: nấm mốc, nấm men, rau xanh đậm.

Trên thị trường có rất nhiều thực phẩm được bổ sung tăng cường vitamin D như các sản phẩm sữa (sữa bột, sữa tươi, sữa chua, sữa đậu nành), nước sinh tố, bánh, kẹo, hay thực phẩm chức năng chứa vitamin D đơn thuần hoặc kết hợp canxi. Có nhiều công thức pha chế (vitamin D2 hoặc vitamin D3) và nhiều hàm lượng khác nhau trên mỗi sản phẩm. Mỗi sản phẩm sẽ phù hợp với từng đối tượng thuộc nhóm tuổi, thói quen ăn uống, điều kiện kinh tế… Đặc biệt, trong công nghệ thực phẩm các nhà khoa học đã tách chiết hoạt chất ergosterol từ nấm men (Saccharomyces cerevisiae). Ergosterol là tiền chất của vitamin D2, có thể chuyển hóa thành vitamin D2 dưới tác dụng của tia cực tím. Đây là nguồn cung cấp vitamin D2 rất phong phú, có thể sản xuất vitamin D2 trên quy mô lớn để cung cấp cho cộng đồng với hiệu quả kinh tế cao, có giá thành phù hợp với người tiêu dùng Việt Nam, đáp ứng được phần lớn nhu cầu vitamin D2 hàng ngày góp phần quan trọng đối với việc hấp thụ canxi và photphat của cơ thể con người cũng như ngăn ngừa loãng xương. Đây là giải pháp tiếp cận tự nhiên và bền vững để dự phòng loãng xương ở cộng đồng.

Hiện nay, để đánh giá tình trạng thiếu vitmin D dựa trên định lượng 25 – OHD huyết thanh bằng phương pháp miễn dịch điện hóa phát quang. Có nhiều cách phân loại thiếu vitamin D, theo phân loại của Holick (2007) giới hạn thiếu vitamin D như sau:

Tình trạng thiếu vitaminD Nồng độ 25 (OH)D
Thiếu nặng < 50 nmol/L
Thiếu vừa 50 – 75 nmol/L
Tối ưu > 75 nmol/L
Ngộ độc > 375 nmol/L

Tình trạng thiếu vitamin D tương đối phổ biến ở người cao tuổi. Nguyên nhân thường xuất phát từ chế độ ăn uống, rối loạn hấp thu, thiếu ánh sáng mặt trời, và khả năng tạo vitamin D của da bị suy giảm. Những yếu tố vừa kể cũng có thể dẫn đến tình trạng suy giảm vitamin D trong cơ thể và cường tuyến cận giáp thứ phát. Đối tượng thiếu vitamin D nhẹ thường không biểu hiện triệu chứng, nhưng tình trạng này có thể dẫn đến mật độ xương thấp và mất xương. Thiếu vitamin D trầm trọng có thể gây ra nhuyễn xương (osteomalasia). Nhu cầu tối thiểu vitamin D là 200 Ul/ngày (5 μg/ngày). Tuy nhiên, có đến 50% phụ nữ trên 50 tuổi ở cộng đồng đạt được dưới 137 UI vitamin D/ngày, 25% là dưới 65UI/ngày. Theo nghiên cứu của Thomas và cộng sự ở Boston – Mỹ năm 1998 trên 290 bệnh nhân nhập viện nội trú có 164 bệnh nhân (57%) thiếu hụt vitamin D, trong đó, 65 bệnh nhân (22%) có nồng độ vitamin D rất thấp < 8ng/ml (20nmol/l). Tỉ lệ thiếu vitamin D nói chung dao động khoảng từ 40-60%. Tại Mỹ, ở phụ nữ da trắng tỉ lệ này là 54%, phụ nữ da đen tỉ lệ thiếu là 42%. Tại Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Hương năm 2010 ở khu vực miền Bắc, tỉ lệ thiếu vitamin D ở phụ nữ là 30% (25 OHD <50 nmol/L) và thiếu > 80% nếu 25 OHD < 75 nmol/L.

Hậu quả thiếu vitamin D lên chuyển hóa xương và một số bệnh lý khác đã được chứng minh qua rất nhiều nghiên cứu. Một nghiên cứu ở phụ nữ bị gãy cổ xương đùi cho thấy 57% thiếu vitamin D với nồng độ 25-hydroxy (OH)-vitamin D thấp hơn 50 nmol/1. Một nghiên cứu quan sát khác phân tích mối liên hệ giữa nguy cơ gãy cổ xương đùi với canxi, vitamin D và sữa cho thấy ở những phụ nữ hấp thu (qua thực phẩm) 140 IU/ngày (vitamin D) có nguy cơ gãy xương cổ đùi tăng 59% so với phụ nữ hấp thu 500 IU vitamin D/ngày. Một nghiên cứu đối chứng theo thời gian (placebo con-trolled prospective study) ở các đối tượng trong các nhà dưỡng lão với nồng độ vitamin D thấp cho thấy sau 18 tháng được điều trị bằng canxi 1.200 mg/ngày và vitamin D 800 IU/ngày, nguy cơ gãy xương giảm khoảng 43%. Một nghiên cứu can thiệp khác cho thấy calcium (500 mg/ngày) và vitamin D (700 IU/ngày) có thể làm giảm tình trạng mất xương và giảm tỉ lệ gãy xương khoảng 50%. Năm 2002, các nhà nghiên cứu tiến hành một phân tích tổng hợp về ảnh hưởng của vitamin D đến xương cho thấy vitamin D có thể giảm nguy cơ gãy xương cột sống và xương ngoài cột sống (như xương đùi, xương tay, v.v. Vai trò của vitamin D còn ảnh hưởng lên cơ bắp và té ngã, vì vitamin D làm tăng khả năng vận động cơ bắp và qua đó giảm nguy cơ té ngã. Tuy nhiên, theo số liệu từ công trình nghiên cứu “Women’s Health Initiative” (WHI) – một công trình nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên về tác dụng của canxi và vitamin D đến gãy xương, mật độ xương cho thấy cả canxi – vitamin D đều chưa thấy rõ hiệu quả cao.

Để phòng ngừa tình trạng thiếu vitamin D, phần lớn các phương án điều trị cần phải đảm bảo đầy đủ lượng vitamin D cho bệnh nhân (thường ở mức độ 400- 800 IU mỗi ngày), mặc dù một số nghiên cứu mới đây cho thấy mức độ cần thiết có thể lên đến 1.000 IU/ ngày hay thậm chí cao hơn. Các sản phẩm vitamin D trên thị trường thông thường chứa khoảng 400 IU vitamin D, và một số sản phẩm canxi trên thị trường cũng có chứa vitamin D.

Ngoài tác dụng bình ổn nội môi canxi/phospho và chuyển hóa xương, tác dụng dự phòng và điều trị còi xương, loãng xương từ đó giảm được nguy cơ gãy xương, vitamin D còn có vai trò điều hòa hoạt động của các tế bào sinh máu, tăng chuyển hóa tế bào cơ, giảm nguy cơ ung thư đại tràng, giảm nguy cơ biến cố tim mạch và điều hòa miễn dịch thông qua cơ chế miễn dịch phân tử. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra vai trò tích cực của vitamin D trong điều hòa miễn dịch trong cơ chế bệnh sinh của bệnh viêm khớp dạng thấp, lupus ban đỏ hệ thống.

Qua nghiên cứu cho thấy nếu chỉ sử dụng canxi hoặc vitamin D đơn thuần thì hiệu quả cải thiện mật độ xương còn tranh cãi, tuy nhiên nếu kết hợp cả vitamin D và canxi theo liều khuyến cáo thì mang lại hiệu quả đáng kể cải thiện mật độ xương. Một phân tích gộp từ số liệu của 12 thử nghiệm lâm sàng sử dụng vitamin D 400-800 Ul/ngày cùng với 1000mg canxi/ngày cho phụ nữ mãn kinh cho thấy giảm đáng kể nguy cơ gãy cổ xương đùi, gãy xương đốt sống, cải thiện mật độ xương 1% ở cổ xương đùi. Tương tự như theo dõi trên mật độ xương, khi theo dõi hiệu quả sử dụng canxi và vitmamin D trên chu chuyển xương các tác giả cũng nhận thấy khi dùng canxi hoặc vitamin đơn thuần thì không có sự khác biệt về nồng độ dấu ấn chu chuyển xương, khi dùng phối hợp làm giảm nồng độ các dấu ấn chu chuyển xương có ý nghĩa thống kê. Theo nghiên cứu của John F năm 2013 trên 159 phụ nữ mãn kinh sử dụng canxi 1.200mg/ ngày với vitamin D cho thấy, ở nhóm chỉ dùng vitamin D 4.000 UI đơn thuần không làm giảm nồng độ CTX, P1NP, PTH, trong khi ở nhóm phối hợp canxi và vitamin D nồng độ các dấu ấn này giảm có ý nghĩa thống kê sau 6 tháng.

Vai trò của sữa đậu nành lên mật độ xương ở phụ nữ sau mãn kinh

Phụ nữ sau thời kỳ mãn kinh, lượng estrogen suy giảm dẫn đến tình trạng mất chất xương. Tỉ lệ bị mất chất xương trung bình khoảng 1% /năm ở người trưởng thành. Trong thời kỳ mãn kinh, tỉ lệ này có thể cao đến 3-5%/ năm. Giảm chất khoáng xương dẫn đến tăng tính gãy xương. Liệu pháp hormone thay thế là nhóm thuốc có khả năng làm giảm tỉ lệ mất chất xương và phòng chống gãy xương ở phụ nữ sau thời kỳ mãn kinh. Tuy nhiên, vì dùng HRT lâu năm có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư vú, bệnh tim mạch như trên đã trình bày. Từ đó, một trong những hướng nghiên cứu mới là tìm một phương cách điều trị khác an toàn hơn, vừa giảm nguy cơ gãy xương lại vừa không làm tăng nguy cơ ung thư vú hay các phản ứng phụ.

Sữa đậu nành là một sản phẩm thực vật tự nhiên. Thành phần của sữa đậu nành rất phong phú và có giá trị dinh dưỡng cao như: protein, lipid béo không no, chất khoáng… Trong thành phần protein của sữa đậu nành có chứa hàm lượng cao phytoestrogen (isoflavones – một estrogen thực vật) có cấu trúc và tính năng như 17b – estradiol có thể ngăn ngừa tình trạng mất chất xương trong các phụ nữ sau thời kỳ mãn kinh. Nhiều nghiên cứu gần đây đã chứng minh được vai trò của isoflavones sữa đậu nành cải thiện rõ rệt mật độ xương. Theo nghiên cứu của Morabito năm 2002 tại Italia đã tiến hành một thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên, với 90 phụ nữ tuổi từ 47 – 57, khỏe mạnh. Những phụ nữ này được chia làm 3 nhóm: 30 người dùng giả dược, 30 người được điều trị bằng HRT 1 mg/ngày; và 30 người được điều trị bằng phytoestrogen (isoflavones) 54 mg/ngày. Sau 12 tháng điều trị kết quả cho thấy mật độ xương đùi trong nhóm được điều trị bằng phytoestrogen (isoflavones) tăng 3.6%; trong khi đó, nhóm được điều trị bằng HRT tỉ lệ tăng là 2.4%; và nhóm chứng dùng giả dược mật độ xương giảm 0.7%.

Cơ chế tác động của isoflavones lên mật độ xương: isoflavones đậu nành bao gồm 3 thành phần là genistein, daidzein và glycitein. Geinistein có tác dụng kích thích tạo cốt bào tăng sản xuất osteoprotogerin (OPG) là một chất ức chế yếu tố RANK, từ đó ức chế hoạt hóa hủy cốt bào, làm giảm quá trình hủy xương. Geinnistein còn ức chế hoạt động của yếu tố hoại tử u kB (NF-kB), ức chế engym tyrosine kinases, từ đó ức chế sản xuất interleukin – 6 (IL -6, là một cytokine gây viêm và kích hoạt hủy cốt bào) do đó làm giảm quá trình hủy xương. Chất daidzein được chứng minh làm tăng hoạt động tạo cốt bào, tăng tạo protein, chất collagen, phosphatase kiềm, từ đó tăng quá trình tạo xương.

Ngoài tác dụng tích cực trên mật độ xương ở phụ nữ sau mãn kinh, sữa đậu nành còn có vai trò làm giảm các triệu chứng tiền mãn kinh như: cơn bốc hỏa, tình trạng khô âm đạo, rối loạn kinh nguyệt… làm giảm nguy cơ ung thư vú, ung thư tử cung, các biến cố bệnh tim mạch. Tuy nhiên, cho đến nay kết quả nghiên cứu về vai trò của sữa đậu nành còn nhiều tranh cãi do các thiết kế nghiên cứu còn khác nhau và chưa theo dõi được tác dụng lâu dài, cần có những nghiên cứu thử nghiệm mù đôi có đối chứng trên quy mô lớn để kết luận khách quan hơn.

Chẩn đoán và xử trí trạng thái động kinh

  1. ĐẠI CƯƠNG

  • Là trạng thái trong đó các cơn động kinh xuất hiện liên tiếp liền nhau mà trong giai đoạn giữa các cơn vẫn tồn tại các triệu chứng thần kinh và/hoặc rối loạn ý thức; hoặc một cơn động kinh kéo dài quá lâu gây nên một bệnh cảnh lâm sàng nặng nề.
  • về thời gian kéo dài một hoạt động động kinh từ 30 phút trở lên với các triệu chứng khác nhau do các quá trình giải phẫu, sinh lý bệnh và nguyên nhân rất đa dạng.
  • Một số tác giả đưa ra định nghĩa phù hợp cho lâm sàng hơn:

+ Cơn co giật kéo dài trên 5 phút, hoặc

+ Có trên hoặc bằng 2 cơn co giật mà giữa các cơn không có sự phục hồi hoàn toàn ý thức.

  1. NGUYÊN NHÂN

Tổn thương thần kinh trung ương cấp tính:

  • Viêm não hoặc viêm màng não.

+ Do vi khuẩn: não mô cầu, liên cầu, cúm, tụ cầu,.

+ Do vi-rút: vi-rút herpes, vi-rút adeno,…

+ Do nấm: Cryptococcus, aspergillus,..

+ Do vi khuẩn lao.

+ Do kí sinh trùng: ấu trùng giun lươn, sán não,.

  • Huyết khối tĩnh mạch não:do nhiễm khuẩn, do rối loạn đông máu,.
  • Bệnh lí mạch máu não:

+ Nhồi máu não.

+ Xuất huyết não.

+ Xuất huyết dưới nhện.

  • Tổn thương não do chấn thương.
  • Bệnh não do tăng huyết áp.
  • Tổn thương não do giảm oxy và thiếu máu:

+ Sau ngừng tuần hoàn.

+ Ngừng thở.

  • Tổn thương thần kinh trung ương mạn tính
  • Tiền sử tai biến mạch máu não.
  • U não.

Rối loạn chuyển hóa hoặc ngộ độc

  • Quá liều thuốc: amphetamine,.
  • Hội chứng cai thuốc (benzodiazepine, rượu)
  • Do các thuốc điều trị: betalactam, theophylline,
  • Tăng hoặc hạ đường máu.
  • Rối loạn điện giải: hạ natri máu hoặc hạ canxi máu
  • Sốt cao ở trẻ em.

Động kinh

  • Ngừng đột ngột hoặc thay đổi liều thuốc chống động kinh.
  • Động kinh tâm thần.
  1. TRIỆU CHỨNG

Triệu chứng lâm sàng

Tình trạng động kinh toàn thể co giật — tăng trương lực (tonico – clonique)

  • Các cơn động kinh toàn thể nối tiếp nhau, không phục hồi ý thức giữa các cơn.
  • Đôi khi cơn động kinh chỉ biểu hiện kín đáo trên lâm sàng bằng co giật nhẹ ở mặt.
  • Có thể chỉ biểu hiện bằng hôn mê.

Cơn vắng ý thức kéo dài hoặc liên tiếp

  • Thường biểu hiện bằng tình trạng lẫn lộn.
  • Có thể có co giật kín đáo mi mắt.
  • Nguy cơ di chứng trí tuệ vĩnh viễn nếu cơn kéo dài.

Tình trạng động kinh một phần

  • Nhiều hình thái.
  • Cơn co giật nối tiếp nhau với thiếu sót vận động giữa các cơn:

+ Rối loạn lời nói kéo dài.

+ Tình trạng lẫn lộn.

  • Nguy cơ có các tổn thương não không hồi phục.

Điện não đồ: xác định chẩn đoán trạng thái động kinh và phân loại tổn thương trên hệ thống thần kinh trung ương..2. Triệu chứng cận lâm sàng

  • Các chẩn đoán hình ảnh và xét nghiệm khác: đánh giá nguyên nhân và biến chứng của trạng thái động kinh
  1. CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán xác định

  • Lâm sàng: co giật kéo dài trên 30 phút hoặc co giật kéo dài trên 5 phút mà không có hồi phục thần kinh giữa các cơn
  • Cận lâm sàng: Điện não xác định các sóng động kinh kéo dài.

Chẩn đoán nguyên nhân

  • Chọc dịch não tủy: Phát hiện các tình trạng viêm màng não do vi khuẩn, virus, nấm, lao, kí sinh trùng.
  • Chụp cộng hưởng từ sọ não: xác định huyết khối tĩnh mạch, tổn thương não do thiếu oxy, do hạ đường máu.
  • Chụp CTsọ não: xác định tổn thương nhồi máu não, xuất huyết não, xuất huyết dưới nhện, các chấn thương sọ não, các tổn thương u não.
  • Điện não: Rất có giá trị chẩn đoán trạng thái động kinh mà biểu hiện lâm sàng không rõ ràng.
  • Các xét nghiệm chẩn đoán nguyên nhân
  • Tìm amphetamin, rượu, thuốc ngủ,.. .xét nghiệm máu và/hoặc nước tiểu.
  • Các rối loạn điện giải máu: hạ natri máu, hạ canxi máu.
  1. XỬ TRÍ

Nguyên tắc xử trí

  • Đảm bảo chức năng sống cơ bản: hô hấp, huyết động, toan chuyển hóa, thân nhiệt, sơ cứu các chấn thương.
  • Cắt ngay các cơn co giật bằng mọi thuốc có sẵn, càng nhanh càng tốt.

Các thuốc cắt cơn co giật

  • Benzodiazepines:thuốc cắt cơn co giật đầu tay vì tác dụng cắt cơn co giật nhanh
Thời gian tác dụng sau tiêm Thời gian duy trì tác dụng Ưu điểm Nhược điểm
Diazepam(Valium) 10-20s < 20 phút Ổn định ở nhiệt độ phòng Phân bố vào mô mỡ
Lorazepam(Temesta) 2 phút 4-6h
Midazolam(Hypnovel) < 1 phút Ngắn Có thể truyền liên tục trong đtrị trạng thái động kinh trơÍt ảnh hưởng tim mạch
Clonazepam(Rivotril) Nhanh 2-4h

Phenytoin (hoặc fosphenytoin) (Dyhydan, Dilantin)

+ Hiệu quả (60 -80%) đặc biệt với cơn động kinh cục bộ và dự phòng tái phát cơn co giật trong thời gian dài.

+ Liều tối đa: phenytoin đến 50mg/phút, fosfenyltoin đến 150mg/phút.

+ Tác dụng phụ: ức chế tuần hoàn và cần tiêm chậm.

+ Chống chỉ định: bệnh tim mất bù, rối loạn dẫn truyền. Không nên dùng ở người già, bệnh mạch vành.

  • Barbiturat: Tác động thông qua GABA Hai thuốc trong nhóm này hay được dùng nhất là Phenobarbital & Pentobarbital.

+ Phenobarbital:

  • Rất hiệu quả, tiêm tĩnh mạch tác dụng sau 5 phút và tác dụng kéo dài.
  • Nguy cơ: ức chế thần kinh (tăng lên khi phối hợp với benzodiazepam + Thiopental:
  • Tác dụng nhanh, hiệu quả; được dùng nhiều tại các khoa HSCC.
  • Nguy cơ: ức chế TK, ngừng thở, truỵ mạch, tổn thương gan.
  • Liều dùng: tấn công 3-5mg/kg sau đó 50mg/phút, duy trì 1-5mg/kg/giờ.
  • Propofol:

+ Thường dùng khi điều trị trạng thái động kinh trơ.

+ Tác dụng nhanh, thời gian tác dụng ngắn. Có thể gây tụt huyết áp hoặc ức chế hô hấp, hiếm gặp nhưng nguy hiểm là hội chứng bao gồm nhiễm toan chuyển hóa, tiêu cơ vân, suy thận và rối loạn chức năng tim.

  • Một số thuốc khác:

+ Valproate (depakine): ít kinh nghiệm dùng đường tĩnh mạch.

+ MgSO4: chủ yếu dùng trong sản giật, liều 2-4g/5 phút tĩnh mạch sau đó truyền 1g/giờ trong 24 giờ.

+ Lidocain tĩnh mạch: ít dùng (hiệu quả thoáng qua, tác dụng phụ nhiều).

+ Thuốc giãn cơ: không phải là thuốc chống động kinh chủ yếu dùng để khống chế các hậu quả của cơn giật.

  • Các biện pháp hồi sức chung

Đảm bảo hô hấp

  • Đặt nội khí quản (bảo vệ đường thở, hút đờm).
  • Thở máy chế độ kiểm soát.thể tích nếu hôn mê.
  • Theo dõi SpO2 ( > 95% ) và khí máu động mạch.

Đảm bảo huyết động

  • Theo dõi nhịp tim và huyết áp.
  • Nên đặt catheter tĩnh mạch trung tâm: đảm bảo truyền dịch, truyền thuốc + đo áp lực tĩnh mạch trung tâm.
  • Nếu tụt huyết áp: bồi phụ thể tích, thuốc vận mạch, đảm bảo thông khí, điều chỉnh rối loạn toan chuyển hoá nặng.

Toan chuyển hoá

  • Theo dõi khí máu động mạch.
  • Đa số toan chuyển hoá sẽ tự điều chỉnh sau khi đã kiểm soát được co giật.
  • NaHCO3 khi toan rất nặng pH < 7,15.
  • Có thể kết hợp toan hô hấp, chú ý điều chỉnh lại lưu lượng thong khí/phút.

Tăng thân nhiệt

  • Thường gặp do bản thân co giật gây ra, nguy cơ gây nặng hơn tổn thương thần kinh trung ương.
  • Cần nhanh chóng hạ thân nhiệt < 390C: chườm lạnh, thoáng gió, paracetamol
  • 5g/ mỗi 4 giờ.

Phù não

  • Nằm đầu cao 45 độ.
  • Manitol truyền tĩnh mạch nhanh trong 30 phút 0,5- 1 g/kg cân nặng mỗi 4 – 6 giờ
  • Methylprednisolon 40mg tiêm tĩnh mạch /6 -8 giờ. Hoặc Dexamethasone trong viêm màng não.
  • Khống chế cơn giật.

Phòng và điều trị tiêu cơ vân

Truyền dịch và cho đi tiểu nhiều (100 ml/giờ) và thuốc lợi tiểu tĩnh mạch nếu thấy cần thiết.

  • Chú ý sơ cứu các chấn thương kèm theo, chấn thương sọ não, chấn thương hàm mặt, gãy xương…
  1. TIÊN LƯỢNG VÀ BIẾN CHỨNG

Tiên lượng

  • Tỉ lệ tử vong ở bệnh nhân lần đầu xuất hiện trạng thái động kinh khoảng 20%, thay đổi tùy theo nguyên nhân khởi phát.
  • Nguyên nhân tử vong liên quan chủ yếu đến những rối loạn do tình trạng co giật cơ kéo dài như: tiêu cơ vân, toan lactic, viêm phổi do hít, suy hô hấp.
  • Nguy cơ tái phát co giật gặp ở 1/3 số bệnh nhân theo một nghiên cứu theo dõi dọc 10 năm, và 10% bệnh nhân có những di chứng thần kinh.

Biến chứng

  • Khi có cơn co giật kéo dài trên 30-45 phút có thể gây ra các tổn thương não (nhất là cấu trúc limbic như hồi hải mã): não, di chứng thần kinh, trí tuệ vĩnh viễn.
  • Ngoài ra, tình trạng động kinh có thể gây ra nhiều hậu quả khác:

+ Chấn thương: chấn thương sọ não, trật khớp vai, gãy xương, đụng dập tạng.

+ Rối loạn hô hấp: ứ đọng, viêm phổi do sặc, toan hô hấp.

+ Rối loạn huyết động.

+ Toan chuyển hoá.

+ Rối loạn thân nhiệt, mất nước, tiêu cơ vân.

  1. PHÒNG BỆNH

  • Sử dụng thuốc đúng liều lượng và không ngừng thuốc đột ngột.
  • Tránh các điều kiện thuận lợi gây cơn co giật, bố trí công việc và nghề nghiệp hợp lý để phòng tránh các tai nạn thứ phát xảy ra khi co giật.

Thuốc Axumin Injection – Cách sử dụng, tác dụng phụ và liều dùng

Tên Thương Mại: Axumin tiêm

Tên Thương Mại: fluciclovine F 18

Lớp Thuốc: Đại diện Hình ảnh Chẩn đoán

Axumin là gì, và được sử dụng để làm gì?

Axumin được chỉ định cho chụp cắt lớp phát xạ positron (PET) ở nam giới có nghi ngờ tái phát ung thư tuyến tiền liệt dựa trên nồng độ kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA) trong máu tăng cao sau khi điều trị trước đó.

Các tác dụng phụ của Axumin là gì?

Vì các thử nghiệm lâm sàng được tiến hành dưới các điều kiện rất khác nhau, tỷ lệ phản ứng bất lợi quan sát được trong các thử nghiệm lâm sàng của một loại thuốc không thể so sánh trực tiếp với tỷ lệ trong các thử nghiệm lâm sàng của một loại thuốc khác và có thể không phản ánh tỷ lệ quan sát được trong thực tế.

Các phản ứng bất lợi được báo cáo ở <1% số đối tượng trong các nghiên cứu lâm sàng với Axumin.

Các phản ứng bất lợi phổ biến nhất là:

  • Đau tại chỗ tiêm,
  • Đỏ tại chỗ tiêm, và
  • Rối loạn vị giác.

Liều dùng của Axumin là gì?

An toàn Bức xạ – Xử lý Thuốc

Axumin là một loại thuốc phóng xạ và nên được xử lý với các biện pháp an toàn thích hợp để giảm thiểu phơi nhiễm bức xạ trong quá trình tiêm. Sử dụng găng tay không thấm nước và bảo vệ hiệu quả, bao gồm cả khiên ống tiêm, khi xử lý và tiêm Axumin.

Liều và Hướng dẫn Sử dụng Đề xuất

Liều được khuyến nghị là 370 MBq (10 mCi) được tiêm tĩnh mạch dưới dạng tiêm bolus.

  • Kiểm tra Axumin một cách trực quan để phát hiện hạt lạ và sự đổi màu trước khi tiêm. Không sử dụng thuốc nếu dung dịch có chứa hạt lạ hoặc bị đổi màu.
  • Sử dụng kỹ thuật vô trùng và bảo vệ bức xạ khi rút và tiêm Axumin.
  • Tính toán thể tích cần thiết để tiêm dựa trên thời gian và ngày hiệu chuẩn, sử dụng thiết bị được hiệu chuẩn thích hợp. Thể tích tối đa được khuyến nghị khi tiêm Axumin không pha loãng là 5mL.
  • Axumin có thể được pha loãng với Dung dịch Natri Clorid 0,9%.
  • Sau khi tiêm Axumin, tiêm một lượng Dung dịch Natri Clorid 0,9% tĩnh mạch để đảm bảo truyền đủ liều.
  • Thải bỏ bất kỳ thuốc nào không sử dụng một cách an toàn theo quy định hiện hành.

Chuẩn bị Bệnh Nhân Trước khi Chụp PET

  • Khuyên bệnh nhân tránh bất kỳ bài tập thể lực đáng kể nào ít nhất một ngày trước khi chụp PET.
  • Khuyên bệnh nhân không nên ăn hoặc uống ít nhất 4 giờ (ngoại trừ một lượng nhỏ nước để uống thuốc) trước khi tiêm Axumin.

Hướng dẫn Thu thập Hình ảnh

  • Đặt bệnh nhân nằm ngửa với tay đặt trên đầu. Bắt đầu quét PET 3 đến 5 phút sau khi hoàn thành tiêm Axumin.
  • Được khuyến nghị rằng việc thu thập hình ảnh nên bắt đầu từ giữa đùi và tiến tới đáy hộp sọ. Thời gian quét tổng thể điển hình là từ 20 đến 30 phút.

Hiển thị và Giải thích Hình ảnh

  • Việc xác định vị trí tái phát ung thư tuyến tiền liệt tại các vị trí điển hình cho tái phát ung thư tuyến tiền liệt dựa trên sự hấp thu fluciclovine F 18 so với nền mô.
  • Đối với các tổn thương nhỏ (dưới 1 cm đường kính), sự hấp thu tập trung lớn hơn so với khối máu nên được xem là nghi ngờ cho tái phát ung thư tuyến tiền liệt.
  • Đối với các tổn thương lớn hơn, sự hấp thu bằng hoặc lớn hơn tủy xương được coi là nghi ngờ cho tái phát ung thư tuyến tiền liệt.

Liều lượng Bức xạ

  • Các liều lượng bức xạ hấp thụ ước tính cho bệnh nhân trưởng thành sau khi tiêm tĩnh mạch Axumin được trình bày trong Bảng 1.
  • Các giá trị được tính toán từ dữ liệu phân bố sinh học của con người bằng cách sử dụng phần mềm OLINDA/EXM (Đánh giá Liều Nội bộ Cấp Tổ chức/Mô hình Hằng số).
  • Liều hiệu quả (bức xạ hấp thụ) kết quả từ việc tiêm hoạt động được khuyến nghị là 370 MBq Axumin là 8 mSv.
  • Đối với hoạt động được tiêm là 370 MBq (10 mCi), các liều bức xạ có cường độ cao nhất được cung cấp cho tụy, thành tim và thành tử cung lần lượt là: 38 mGy, 19 mGy và 17 mGy.
  • Nếu một xét nghiệm CT được thực hiện đồng thời như một phần của quy trình PET, sự phơi nhiễm bức xạ ion hóa sẽ tăng lên trong một lượng phụ thuộc vào các cài đặt được sử dụng trong việc thu thập CT.

Bảng 1: Các Liều Lượng Bức Xạ Hấp Thụ Ước Tính Ở Các Cơ Quan / Mô Khác Nhau Ở Người Lớn Nhận Axumin

Cơ quan/Mô Liều Hấp Thụ Trung Bình trên Mỗi Đơn Vị Hoạt Động Được Tiêm (microGy/MBq)
Tuyến thượng thận 16
Não 9
Ngực 14
Thành túi mật 17
Thành đại tràng dưới 12
Thành ruột non 13
Thành dạ dày 14
Thành đại tràng trên 13
Thành tim 52
Thận 14
Gan 33
Phổi 34
11
Buồng trứng 13
Tụy 102
Tủy xương đỏ 25
Tế bào tạo xương 23
Da 8
Lách 24
Tinh hoàn 17
Tuyến ức 12
Tuyến giáp 10
Thành bàng quang niệu 25
Tử cung 45
Cơ thể tổng cộng 13
Liều hiệu quả 22 (microSv/MBq

 

Các Thuốc Tương Tác Với Axumin

Không có tương tác thuốc nào được biết đến với thuốc tiêm Axumin.

Axumin Có An Toàn Để Sử Dụng Khi Mang Thai Hoặc Cho Con Bú Không?

Axumin không được chỉ định sử dụng cho phụ nữ và không có thông tin về nguy cơ xảy ra các kết quả phát triển bất lợi ở phụ nữ mang thai hoặc động vật khi sử dụng fluciclovine F 18. Axumin không được chỉ định sử dụng cho phụ nữ và không có thông tin về sự hiện diện của fluciclovine F 18 trong sữa mẹ.

Tóm Tắt

Thuốc tiêm Axumin (fluciclovine F 18) được chỉ định cho chụp cắt lớp phát xạ positron (PET) ở nam giới nghi ngờ tái phát ung thư tuyến tiền liệt dựa trên mức kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA) trong máu cao sau điều trị trước đó. Các tác dụng phụ phổ biến nhất của Axumin bao gồm đau tại chỗ tiêm, ban đỏ tại chỗ tiêm và rối loạn vị giác.

Ung thư tuyến giáp trạng

Tuyến giáp là một tuyến nội tiết, nằm ớ phần khí quản cổ, có 2 thuỳ phải và trái, nối với nhau bởi một eo tuyến giáp, có một phần tuyến giáp hình tam giác kéo từ eo tuyến giáp lên trên gọi là thuỳ tháp.

Động mạch có 2 động mạch chính nuôi tuyến giáp:

+ Động mạch giáp trên: Xuất phát từ động mạch cảnh ngoài.

Đông mạch giáp dưới: xuất phát từ động mạch thân giáp cổ.

Ngoài ra có thể có đồng mạch giáp giữa từ thân động mạch tay đầu hay cung động mạch chủ đi lên phía trước khí quản vào eo tuyến giáp.

Tĩnh mạch tuyến giáp tạo nên đám rối ớ mật trước ngoài mỗi thùy. Từ đó xuất phát các tĩnh mạch giáp trên và tĩnh mạch giáp giữa đổ vào tĩnh mạch cánh trong.

Bạch huyết: Các mạch bạch huyết đổ vào cổ ngang nhóm gai. nhóm cảnh (trên. giữa. dưới ). Nhóm cạnh khí quản và trước khí quản.

BỆNH HỌC UNG THƯ TUYẾN GIÁP

Dịch tễ học và nguyên nhân

Theo Hiệp hội quốc tế phòng chống ung thư (UICC), Ung thư tuyến giáp trạng chiếm khoảng 1% các loại ung thư. Tỷ lệ này tăng cao hơn ở các nước có bệnh bướu cổ lưu hành địa phương. Tỷ lệ mắc chuẩn ở nam giới là 3/100.000 dân/năm. Ớ nữ cao hơn khoảng 2-3 lần. Tỷ lệ này ít có sai biệt giữa các vùng khác nhau trên thế giới. Nhưng qua số liệu mổ tử thi cho thấy tỉ lệ nam/nữ là 1/1.

Ở Việt Nam, theo ghi nhận của ung thư Hà Nội. giai đoạn 2001-2004 tỷ lệ mắc Ung thư tuyến giáp trạng chuẩn theo tuổi ở nam là 1.8/100.000 dân và ớ nữ là 5.6/100.000 dân (đứng thứ 6). Tỷ lệ nam/nữ là 1/3.

Ung thư tuyến giáp có ở mọi lứa tuổi nhưng có 2 đỉnh cao. Một ở 7-20 tuổi, hai là 40-65 tuổi.

Ở hầu hết các trường hợp Ung thư tuyến giáp trạng không tìm được nguyên nhân bệnh sinh. Tuy nhiên người ta thấy có một số yếu tố sau liên quan đến Ung thư tuyến giáp trạng gồm:

Bệnh nhân đã được điều trị bằng tia xạ lúc bé. khi có u đơn nhân giáp trạng.

Sau vụ thả bom nguyên tử của Mỹ ở Hiroshima và Nagasaki (Nhật Bản) và sau vụ nố nhà máy điện nguyên tử Chernobyl người ta thấy tỷ lệ mắc Ung thư tuyến giáp trạng tăng lên nhanh ở các vùng này.

Bệnh nhân sống gần biển, nơi có đủ iode trong thực phấm, khi có u đơn nhân giáp trạng dễ bị ung thư hơn so với những nơi thiếu iode.

Gặp nhiều hơn ớ bệnh nhân có u đơn nhân hoặc đa nhân tuyến giáp (25- 30% các u đơn nhân giáp trạng ớ tré em là ung thư).

Chẩn đoán

1. Lâm sàng:

Ung thư tuyến giáp trạng thường tiến triển âm thầm. Đặc biệt qua mổ tử thi, càng quan sát kỹ tuyến giáp, càng tìm thấy ố ung thư âm thầm, chưa biết. Ớ nhiều nước Ung thư tuyến giáp trạng phát hiện qua mổ tử thi là từ 5-10%. ớ Nhật và Hawaii thì đến 30%. Phần lớn là thể nhú và ít có biểu hiện lâm sàng.

Ung thư tuyến giáp trạng tý lệ cao đối với bệnh u giáp thể nhân (đơn nhân hay đa nhân), ở Mỹ có 4-8% người lớn có u giáp thể nhân và gần 10% bướu thể nhân là ung thư. Trên lâm sàng ta thường gặp tuyến giáp to, có biểu hiện một hoặc nhiều nhân, u cứng, bờ rõ, bề mặt nhẵn hay ghồ ghề, di động theo nhịp nuốt. Có thể 1 hoặc 2 bên thuỳ hoặc ở vùng eo giáp trạng ngay giữa trước cổ. Khi u lớn có biểu hiện:

Khối u cứng, cố định trước cổ.

Khàn tiếng, có thể khó thở.

Khó nuốt do chèn ép.

Đo da, sùi loét, cháy máu.

Hạch: Đa số hạch cùng bên, vùng cảnh thấp, thượng đòn có khi có hạch góc hàm. cố dõi bên. Một số ít có hạch trước khi tìm thấy u nguyên phát. Mật độ rắn, di động, to chậm, không đau.

Tuy nhiên nếu các triệu chứng trên đây xuất hiện là giai đoạn khá muộn. Do vậy ta phải để ý những bệnh nhân có những yếu tố có liên quan nhiều đến ung thư trên bệnh nhân có u tuyến giáp gồm:

Bệnh nhân nam giới.

Bệnh nhân sống gần biển, nơi có đủ lode trong thực phẩm (đặc biệt là bướu giáp thế nhân).

Có khoảng 30% u giáp thể nhân là ung thư ớ trẻ em.

Bệnh nhân được xạ trị vùng đầu cổ lúc còn bé, có khi có u giáp đơn nhân càng nghi ngờ ung thư hơn.

2. Cận lâm sàng

Tế bào học

Thường áp dụng kỹ thuật chọc hút bằng kim nhỏ tại u và hạch, sau đó phết lên phiến kính sạch, được cô định và nhuộm Giemsa, có thể làm nhiều lần khi nghi ngờ. Nếu tìm thấy tế bào giáp trạng ở hạch thì chắc chắn là Ung thư tuyến giáp trạng.

Sinh thiết

Sinh thiết bằng kim: Là xét nghiệm rất có ích cho chẩn đoán với kỹ thuật hoàn hao và nhà tế bào học có kinh nghiệm chẩn đoán chính xác được khoảng 90c/( cho kết quá lành, nghi ngờ hay ác tính. Khoảng 5% bệnh nhân chọc sinh thiết bàng kim cho kết quả ám tính giả. Đặc biệt là dạng ung thư thể nhú chọc hút sinh thiết bàng kim dễ dàng hơn sinh thiết lạnh.

Sinh thiết lạnh: Hầu hết các nước tiên tiến đều áp dụng phương pháp này với các khối u tuyến giáp có chi đmh phẫu thuật. Ngoài lợi ích khôi u được loại trừ ra khỏi tuyến giáp, còn cho kết quả rất chính xác mà các phương pháp khác không thể có dược, ngay cả đôi với ung thư dạng nang và tế bào Hurthle bới vì trong các trường hợp này chẩn đoán ác tính dựa vào sự xâm lấn mạch máu hay vỏ bao của khối u. chứ không dựa vào đặc tính của tế bào.

Chẩn đoán hình ảnh

X.Quang: chụp tư thế cổ thẳng và nghiêng thông thường có uống Baryte xem khối u có chèn ép vào khí quản, thực quản. Chụp phát hiện di căn xương, phát hiện dấu hiệu nhiễm vôi của tuyến giáp.

Xạ hình tuyến giáp: Phần lớn Ung thư tuyến giáp trạng không bắt iode phóng xạ 131 và biểu hiện bằng hình ảnh “nhân lạnh”. Tuy nhiên phần lớn nhân lạnh là u lành nang tuyến. vì thế xét nghiệm này ít giá trị, và hay bỏ sót những u nhỏ.

Chụp nhấp nháy

Chụp bằng chất đồng vị phóng xạ thường dùng I131 toàn bộ cơ thể sẽ phát hiện di căn xa, đặc biệt là xương.

Siêu âm tuyến giáp

Giúp phân biệt u đặc hay u nang. Tuy nhiên chỉ có 5% khối u có nang hoàn toàn.

Chẩn đoán sinh hoá

Đmh lượng Calcitonin (do tế bào c hay tế bào cận nang) tiết ra, chỉ xuất hiện trong ung thư biểu mô thể tụy.

Định lượng FT3, FT4 và TSH để chẩn đoán phân biệt Basedow.

Chụp cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ

Có thể đánh giá chính xác hơn vị trí u nguyên phát cũng như mức độ xâm lấn của u, nhưng không có khả năng phân biệt được giữa u lành và ung thư (phương pháp này ít dùna vì ít có giá trị và tốn kém).

Chẩn đoán giải phẫu bệnh học

Ung thư tuyến giáp trạng có nhiều loại cấu trúc mô bệnh, ở mỗi loại cấu trúc mô bệnh học có sự phát triển khác nhau. Có thể chia ra các loại như sau:

Ung thư tuyến giáp trạng thể biệt hoá: là loại giải phẫu bệnh phổ biến chiếm khoảng 80%. Ung thư tuyến giáp bao gồm các thế:

+ Ung thư tuyến giáp thể nhú: Là loại hay gặp nhất (40-50%) bệnh tiến triển chậm chạp qua nhiều năm, tiên lượng tốt thường bệnh nhân có 1 u nhỏ ở tuyến giáp, không được để ý, đến khi di căn ra hạch cổ mới được phát hiện bệnh. Ngay cả ớ giai đoạn này bệnh vẫn có thể chữa trị khỏi bằng phẫu thuật. Nhưng nếu u lớn trên 4-5cm xâm lấn ra xung quanh hoặc di cân xa thì tiên lượng sẽ xấu.

+ Ung thư tuyến giáp thể nang: ít gặp hơn (20-25%), bệnh thường xảy ra ở vùng thiếu iôt và có bướu cổ lưu hành. Bệnh tiến triển chậm như thể nhú, thường có một u nhỏ ở một thuỳ tuyến giáp, lớn dần lên, hay dính ra vỏ tuyến và ra ngoài da vùng trước cổ. Giai đoạn cuối hay di cân theo đường máu. ít di căn hạch. Tiên lương của thể này kém hơn loại thể nhú.

Loại kết hợp nhú và nang: Chiếm 20%, tiến triển chậm, tiên lượng như loại thể nhú.

Ung thư tuyến giáp thể không biệt hoá hoặc bất thục sán (anaplastic or undiíTerentiated carcinoma): Chiếm khoảng 15% các loại Ung thư tuyến giáp trạng, hay gặp ở những bệnh nhân lớn tuổi. Loại này tiên lượng xấu, tiến triển nhanh và hay di căn xa, ít bệnh nhân sống trẽn 5 năm.

Loại ung thư thể tuy (Medulary carcinoma): ít gặp chiếm khoảng 1-5% xuất phát từ tế bào c (tế bào tiết Calcitonin) và CEA hay gặp ở lứa tuổi 50-60. Một số ít có tính di truyền. Dạng di truyền được ghi nhận ở loại đa ung thư tuyến nội tiết (MEN-2a) có liên hệ với u tế bào sắc tố thượng thận và cường tuyến cận giáp trạng gia đình. Dạng di truyền thường thấy u cả 2 thuỳ tuyên giáp, u chắc và cứng, thường ở chỗ phân chia 1/3 trên và 1/3 giữa của thùy tuyến giáp trạng (nơi có nhiều tế bào C). Loại ung thu này di căn theo cả 2 đường hạch bạch huyết và đường máu. Bệnh tuy tiến triển chậm nhưng tiên lượng kém loại thể nhú và nang. 50% bệnh nhân sống sau 10 năm, những yếu tố làm cho tiên lượng của bệnh trở nên xấu là: tuổi cao, u to, di căn xa.

Loại không biệt hoá: Chiếm khoảng 10%. Trong các loại Ung thư tuyến giáp trạng, loại này có tiên lượng xấu, do tính lan tràn dữ dội, các bệnh nhân này được coi là giai đoạn IV, bất chấp mức độ xâm lấn bề ngoài. Hiếm có bệnh nhân sống trên 5 năm. Hay gặp ớ bệnh nhân lớn tuổi và vùng có u tuyến giáp ở vùng dịch tễ.

Loại ung thư tế hào Hurthe (Hurtle cell, carcinoma): ít gặp có khoảng 2- 5% Ung thư tuyến giáp trạng. Có thể xuất phát từ tế bào dạng nang, đôi khi tiết nhày và sản xuất Thyroglobulin. Tiên lượng và tiến triển cũng giống như ung thư dạng nang. Giai doạn cuối cùng xâm lấn vỏ bao và di căn theo đường máu.

Các loại khác: Loại Sarcone nguyên phát, u lympho ác tính, hay di căn của noi khác tới tuyến giáp chiếm < 1%. Tiến triển và tiên lượng phụ thuộc vào nguồn gốc cùa loai bệnh chính.

3. Đánh giá mức độ tiến triển

3.1. Xếp loại theo TNM (UICC-2002)

Tất cả ung thư không biệt hoá đều xếp vào giai đoạn 4. Không xếp loại theo TNM. u nguyên phát

+ Tx: Không đánh giá được u nguyên phát

To: Không có u nguyên phát

+ T1: u < 1cm, còn giới hạn ớ tuyến giáp

+ T2: 1 < u < 4cm. Còn giới hạn trong tuyến giáp.

+ T3: u có đường kính > 4cm. giới hạn trong tuyến giáp.

+ T4: u có kích thước bất kỳ nhưng xâm lấn vỏ bao tuyến giáp

Chú Ý: Từ TI đến T4 có thể phân chia ra (a: u đơn độc, b: u đa ổ) (lấy u có đường kính lớn nhất để đánh giá T).

Hạch vùng (N): Bao gồm hạch cổ và hạch trung thất trên.

+ Nx: Không xác định được hạch vùng

+ No: Không di căn tới hạch vùng

+ N1: Di căn hạch vùng

+ N1a: Di căn hạch cổ cùng bên

+ N1b: Di căn hạch cổ 2 bên hoặc cổ ở đường giữa hoặc hạch cổ đối bên hoặc hạch trung thất trên.

Di căn xa (M)

Mx: Không xác định được di căn xa

Mo: Không có di căn xa

MI: Di căn xa

3.2. Theo giai đoạn bệnh: Theo Hiệp hội ung thư Hoa Kỳ 2002.

Thể nhú và nang

+ Giai đoạn I: T1.No Mo.

+ Giai đoạn II: T2,3, No, Mo.

+ Giai đoạn III: T4, No, Mo bất kỳ N, N, Mo

+ Giai đoạn IV: Bất kỳ T, bất kỳ N, M1.

Thể tuỷ:

 

+ Giai đoạn I: T1, No Mo

+ Giai đoạn II: T2,3 ,4, No Mo.

+ Giai đoạn III: Bất kỳ T, N, Mo.

+ Giai đoạn IV: Bất kỳ T, bất kỳ N, MI.

Thể không biệt hoá (Tất cả những trường hợp đều ở giai đoạn IV).

Điều trị:

Điều trị Ung thư tuyến giáp trạng nên dựa vào từng thể loại mô bệnh học cụ thể.

1. Thể giải phẫu bệnh loại biệt hoá

Phẫu thuật: Phẫu thuật đóng vai trò quyết định trong điều trị Ung thư tuyến giáp trạng thể biệt hoá, có nhiều phưong pháp phẫu thuật khác nhau được áp dụng tuỳ theo kích thước, vị trí, tuổi và tình trạng di căn. Phẫu thuật có thể là: cắt thuỳ giáp trạng, cắt tuyến giáp toàn phần, cắt tuyến giáp gần toàn phần. Đối với hạch cổ khi đã có di căn thì vét hạch làm giảm tái phát tại chỗ nhưng không cải thiện được thời gian sống thêm của bệnh nhân.

Điều trị nội tiết: Có nhiều bằng chứng cho thấy Ung thư tuyến giáp trạng thể biệt hoá đáp ứng tốt với điều trị hormon. TSH là một loại hormon của tuyến yên có tác dụng ức chế sự phát triển của tế bào lành và ác tính của tuyến giáp do đó nó giảm được tỷ lệ tái phát tại chỗ và di căn xa. Tác dụng này có thể đạt được bằng hormon tuyến giáp ngoại sinh. Thông thường dùng liều hàng ngày từ 200 – 250 pg Levothyroxin (T4) là có thể ứcchế được tuyến yên tiết TRH (Thyrotropin – releasing hormone). Tuy nhiên liều đáp ứng tối đa phụ thuộc vào từng cá thể. Ngoài Levothyroxin (T4) có thể dùng T3 thay thế (Liothyroxin).

Điều trị tia xạ: Thường điều trị bằng I131 (RAI – Radioactive – iodine). Cho các trường hợp Ung thư tuyến giáp trạng biệt hoá còn sót bệnh sau mổ, bệnh đã di căn xa và các trường hợp ung thư đã xâm lấn tại chỗ. Trước khi điều trị bằng RAI, bệnh nhân phải được phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ tuyến giáp, bệnh nhân không được điều trị nội tiết sau mổ để đảm bảo Iot có thể tập trung được vào tế bào u cùng với TSH nội sinh đạt được nồng độ cao nhất.

Liều RAI thường dùng từ 50-150 mCi tuỳ theo kích thước và mức độ xâm lấn của u.

Điều trị tia xạ ngoài trong Ung thư tuyến giáp trạng biệt hoá còn hạn chế được chỉ định xạ trị tiền phẫu hoặc cho các trường hợp độ tập trung I131 là không có hoặc rất ít, khi chụp Scintigraphie.

2. Ung thư tuyến giáp trạng thể tuỷ

Các trường họp Ung thư tuyến giáp trạng thể tuỷ có tính chất gia đình, bệnh thường ở 2 bên. Thường có di căn hạch vùng từ giai đoạn rất sớm. Do vậy nên cắt bỏ tuyến giáp toàn phần và vét hạch cổ giữa. Tỷ lệ sống 10 năm sau phẫu thuật dao động khoảng 40- 60%, cần theo dõi tái phát bằng định lượng calcitonin và CEA. Điều trị bằng RAI, hoá chất, nội tiết ít được dùng đối với thể tuỷ. Điều trị tia xạ tại chỗ được chỉ định sau phẫu thuật và trong 1 số trường hợp nhàm mục đích giảm nhẹ bệnh.

3. Ung thư tuyến giáp trạng thể không biệt hoá

Hầu hết các trường hợp Ung thư tuyến giáp trạng thể không biệt hoá đều không thể phẫu thuật được ở thời điểm chẩn đoán. Điều trị bằng hoá chất đơn thuần hoặc hoá chất với tia xạ thường được chỉ định.

4. Vấn đề điều trị hoá chất

  • Đơn hoá chất: Hay được sử dụng là Doxorubixin (adriamycin), Bleomycin, Cisplatin, Etoposide. áp dụng cho Ung thư tuyến giáp trạng không biệt hoá và Ung thư tuyến giáp trạng thể tuỷ. Để ý tới Doxorubicin tỏ ra hiệu quả hơn cả, liều 60-75 mg/m2/ tĩnh mạch chu kỳ, mỗi đợt 3 tuần có tỷ lệ đáp ứng trong khoảng 20-45% đối với bệnh nhân ung thư tuyến giáp đã di căn.
  • Điều trị đa hoá chất:

Phối hợp Cisplatin 40mg/m2/tĩnh mạch và Doxorubicin 60mg/m2/ tĩnh mạch nhắc lại mỗi đợt 3 tuần cho tỷ lệ đáp ứng cao hơn so với dùng Doxorubicin đơn thuần. Tỷ lệ lui bệnh hoàn toàn là 12%.

Phối hợp Doxorubincin + Bléomycin + Vincristine + Melphalan có tỷ lệ đáp ứng là 36%.

Doxorubicin 10mg/m2/ tĩnh mạch dùng trước khi điều trị tia xạ ngoài lần đầu tiên 90 phút, tia xạ liền 1,6 Gy/ X 2 lần/ngày. Điều trị liên tiếp 3 ngày/tuần trong 6 tuần. Phác đồ này cải thiện được thời gian sống thêm đáng kể cho bệnh nhân Ung thư tuyến giáp trạng thể không biệt hoá.

Nhìn chung điều trị hoá chất đối với di căn phổi có tỷ lệ đáp ứng hơn cả. Với thể không biệt hoá đáp ứng điều trị hoá chất có thể kéo dài thêm từ 3-5 tháng tới 15-20 tháng.

5. U lympho biểu hiện ở tuyến giáp

Phần lớn là u lympho ác tính không Hodgkin. u to nhanh trong vài tuần và có khoảng 25% biểu hiện cả 2 thuỳ. Nếu u chỉ giới hạn ở tuyến giáp, cắt bỏ u đơn thuần cũng có thể kéo dài thời gian sống thêm được 5 năm, cho 70 – 90% số bệnh nhân. Tuy nhiên, nếu u xâm lấn ra ngoài tuyến giáp thì không cải thiện thêm thời gian sống thêm của bệnh nhân. Trong trường hợp này cần thiết phải chỉ định điều trị bằng tia xạ và hoá chất.

Tiên lượng và theo dõi

  • Tiên lượng

Thể nhú sống sau 5 năm là: 80 – 90%.

Thể nang sống sau 5 năm là: 50-70%.

Thể tuỷ sống sau 5 năm là: 40%.

Thể không biệt hoá sau 5 năm là: < 50%.

Các yếu tố Tiên lượng tốt Tiên lượng xấu
  1. Tuổi
  2. Giới
  3. Kích thước u
  4. Thể giải phẫu bệnh
  5. Di căn hạch cổ
  6. Di căn xa
  7. Tính chất u
  8. Tiền sử tiếp xúc với tia xạ
  • Tuổi < 45
  • Nữ
  • u < 4cm
  • Thể nhú hoặc/và nang
  • Không
  • Không
  • Một u
  • Không
  • Tuổi > 45
  • Nam
  • u>4cm, vỏ bao bị xâm lấn
  • Thể tuỷ, không biệt hoá
  • Nhiều u
  • Theo dõi

Khám tại chỗ: Phát hiện tái phát và di căn hạch cổ 2 bên.

Chụp XQ: phổi phát hiện di căn.

Định lượng hormon tuyến giáp (Human Thyroglobulin) để phát hiện tái phát. Đối với bệnh nhân đã được cắt bỏ tuyến giáp toàn bộ. Khi không còn mô tuyến giáp, dù lành hay ung thư, lượng hormon tuyến giáp sẽ giảm xuống. Khi hormon tuyến giáp tăng trở lại, gợi ý tới bệnh tái phát.

Xạ hình I131 để đánh giá tái phát và di căn.

Đối với thể tụỷ, đánh giá dịch kỳ Calcitonin và CEA để phát hiện tái phát.

  • Phòng bệnh

Sử dụng iode có thể giảm tỷ lệ mắc ung thư giáp trạng thể nang.

Tránh tia xạ vùng tuyến giáp ở trẻ nhỏ để giảm nguy cơ ung thư.

Thuốc Beta Blockers

Thuốc chẹn beta là gì và chúng được sử dụng để làm gì?

Thuốc chẹn beta, còn được gọi là thuốc chẹn thụ thể beta-adrenergic, là các loại thuốc ngăn norepinephrine và epinephrine (adrenaline) gắn vào các thụ thể beta trên dây thần kinh.

Norepinephrine và epinephrine được tạo ra bởi dây thần kinh trên khắp cơ thể cũng như bởi tuyến thượng thận. Chúng đóng vai trò như các chất dẫn truyền thần kinh (hóa chất mà dây thần kinh sử dụng để giao tiếp với nhau) và có thể hoạt động tại nơi chúng được tạo ra hoặc ở những nơi khác trong cơ thể khi chúng được giải phóng vào máu. Cơ thể có cả thụ thể alpha và beta.

3 loại thụ thể beta

Có ba loại thụ thể beta, mỗi loại kiểm soát nhiều chức năng khác nhau tùy thuộc vào vị trí của chúng trong cơ thể:

  • Thụ thể beta-1 (β1) nằm ở tim, mắt và thận.
  • Thụ thể beta-2 (β2) nằm ở phổi, đường tiêu hóa, gan, tử cung, mạch máu và cơ xương.
  • Thụ thể beta-3 (β3) nằm trong các tế bào mỡ.

Thuốc chẹn beta chủ yếu chặn các thụ thể β1 và β2, qua đó ngăn tác dụng của norepinephrine và epinephrine. Việc ngăn chặn này làm giảm nhịp tim, hạ huyết áp bằng cách làm giãn mạch máu, và có thể gây co thắt đường thở do kích thích các cơ xung quanh đường thở co lại (một tác dụng phụ bất lợi).

Thuốc chẹn beta được sử dụng để điều trị:

  • Rối loạn nhịp tim
  • Huyết áp cao
  • Suy tim
  • Đau thắt ngực (đau tim)
  • Rung cơ
  • U tủy thượng thận (pheochromocytoma)
  • Phòng ngừa đau nửa đầu
  • Hẹp động mạch chủ phì đại
  • Ngăn ngừa các cơn đau tim và tử vong sau cơn đau tim

Các ứng dụng khác bao gồm điều trị cường giáp, akathisia (rối loạn khiến bệnh nhân bồn chồn, không thể ngồi yên), rối loạn hoảng sợ, lo âu và hành vi hung hăng. Một số thuốc chẹn beta còn làm giảm sản xuất dịch mắt và do đó được sử dụng để giảm áp lực trong mắt do bệnh tăng nhãn áp.

Tác dụng phụ của thuốc chẹn beta là gì?

Thuốc chẹn beta có thể gây ra:

  • Tiêu chảy
  • Chuột rút dạ dày
  • Buồn nôn
  • Nôn

Các tác dụng phụ quan trọng khác bao gồm:

  • Phát ban
  • Nhìn mờ
  • Mất phương hướng
  • Mất ngủ
  • Rụng tóc
  • Yếu đuối
  • Chuột rút cơ
  • Mệt mỏi

Thuốc chẹn beta có thể làm chậm nhịp tim và hạ huyết áp, nhưng có thể gây ra các tác dụng bất lợi như suy tim hoặc block tim ở những bệnh nhân có vấn đề về tim.

Việc ngừng đột ngột thuốc chẹn beta không được khuyến khích vì có thể làm trầm trọng thêm tình trạng đau thắt ngực (đau ngực) và gây ra cơn đau tim, rối loạn nhịp tim nghiêm trọng hoặc tử vong đột ngột.

Tác dụng phụ trên hệ thần kinh trung ương của thuốc chẹn beta bao gồm:

  • Đau đầu
  • Trầm cảm
  • Mất phương hướng
  • Chóng mặt
  • Ác mộng
  • Ảo giác

Thuốc chẹn beta tác động lên thụ thể β2 có thể gây khó thở ở những người bị hen suyễn.

Giống như các loại thuốc khác được dùng để điều trị huyết áp cao, thuốc chẹn beta có thể gây ra rối loạn chức năng tình dục.

Thuốc chẹn beta cũng có thể gây ra tình trạng hạ hoặc tăng đường huyết và che giấu các triệu chứng của hạ đường huyết ở những người mắc bệnh tiểu đường.

Các tác dụng phụ nghiêm trọng khác của thuốc chẹn beta bao gồm:

  • Hoại tử biểu bì nhiễm độc
  • Hiện tượng Raynaud
  • Lupus ban đỏ hệ thống
  • Co thắt phế quản
  • Phản ứng dị ứng nghiêm trọng
  • Hồng ban đa dạng
  • Hội chứng Steven Johnson
  • Hoại tử biểu bì nhiễm độc

Danh sách ví dụ về tên thương hiệu và tên gốc của thuốc chẹn beta:

  • acebutolol (Sectral)
  • atenolol (Tenormin)
  • betaxolol (Kerlone, Betoptic S)
  • bisoprolol fumarate (Zebeta)
  • carteolol (Cartrol, đã ngừng sản xuất)
  • carvedilol (Coreg)
  • esmolol (Brevibloc)
  • labetalol (Trandate [Normodyne – đã ngừng sản xuất])
  • metoprolol (Lopressor, Toprol XL)
  • nadolol (Corgard)
  • nebivolol (Bystolic)
  • penbutolol (Levatol)
  • pindolol (Visken, đã ngừng sản xuất)
  • propranolol (Hemangeol, Inderal LA, Inderal XL, InnoPran XL)
  • sotalol (Betapace, Sorine)
  • timolol (Blocadren, đã ngừng sản xuất)
  • timolol dạng dung dịch nhỏ mắt (Timoptic, Betimol, Istalol)

Sự khác biệt giữa các loại thuốc chẹn beta

Thuốc chẹn beta khác nhau ở loại thụ thể beta mà chúng chặn, do đó ảnh hưởng của chúng cũng khác nhau.

  • Thuốc chẹn beta không chọn lọc, ví dụ như propranolol (Inderal), chặn cả thụ thể β1 và β2, do đó ảnh hưởng đến tim, mạch máu và đường thở.
  • Thuốc chẹn beta chọn lọc, ví dụ như metoprolol (Lopressor, Toprol XL), chủ yếu chặn thụ thể β1 và do đó ảnh hưởng chủ yếu đến tim mà không ảnh hưởng đến đường thở.
  • Một số thuốc chẹn beta, ví dụ như pindolol (Visken), có hoạt tính giao cảm nội tại (ISA), có nghĩa là chúng bắt chước tác dụng của epinephrine và norepinephrine và có thể làm tăng huyết áp và nhịp tim. Thuốc chẹn beta có ISA có tác động nhỏ hơn đến nhịp tim so với những thuốc không có ISA.
  • Labetalol (Normodyne, Trandate)carvedilol (Coreg) chặn cả thụ thể beta và alpha-1. Việc chặn thụ thể alpha làm tăng tác dụng giãn mạch của labetalol và carvedilol.

Tương tác thuốc với thuốc chẹn beta

  • Kết hợp propranolol (Inderal) hoặc pindolol (Visken) với thioridazine (Mellaril) hoặc chlorpromazine (Thorazine) có thể dẫn đến hạ huyết áp và rối loạn nhịp tim do các thuốc này cản trở quá trình đào thải lẫn nhau, làm tăng nồng độ của cả hai.
  • Tăng huyết áp nguy hiểm có thể xảy ra khi clonidine (Catapres) được kết hợp với thuốc chẹn beta, hoặc khi clonidine hoặc thuốc chẹn beta bị ngừng sau khi đã sử dụng đồng thời. Huyết áp cần được theo dõi chặt chẽ khi bắt đầu hoặc ngừng clonidine hoặc thuốc chẹn beta khi chúng đã được sử dụng cùng nhau.
  • Phenobarbital và các chất tương tự có thể tăng tốc quá trình phân hủy và giảm nồng độ của propranolol (Inderal) hoặc metoprolol (Lopressor, Toprol XL) trong máu, làm giảm hiệu quả của thuốc chẹn beta.
  • Aspirin và các loại thuốc chống viêm không steroid khác (NSAIDs) (ví dụ, ibuprofen) có thể làm giảm hiệu quả hạ huyết áp của thuốc chẹn beta bằng cách làm giảm tác dụng của prostaglandins, các chất đóng vai trò kiểm soát huyết áp.
  • Thuốc chẹn beta có thể kéo dài tình trạng hạ đường huyết và che giấu các triệu chứng của hạ đường huyết ở người mắc bệnh tiểu đường đang dùng insulin hoặc các thuốc điều trị tiểu đường khác.

Tóm tắt

Thuốc chẹn beta được sử dụng để điều trị rối loạn nhịp tim, đau thắt ngực, cơn đau tim, tăng huyết áp, đau nửa đầu, ám ảnh xã hội, run và bệnh tăng nhãn áp. Các tác dụng phụ phổ biến của thuốc chẹn beta bao gồm buồn nôn, nôn, chuột rút dạ dày, tiêu chảy và tăng cân nếu bạn đang sử dụng thuốc điều trị tiểu đường (loại 1 và loại 2). Một số ví dụ về tên thuốc gốc và thương hiệu cho thuốc chẹn beta tại Hoa Kỳ bao gồm acebutolol (Sectral), atenolol (Tenormin), bisoprolol (Zebeta), metoprolol (Lopressor, Lopressor LA, Toprol XL), nadolol (Corgard)timolol (Blocadren).

Viêm màng não mủ ở trẻ em

Viêm màng não mủ là tình trạng nhiễm khuẩn màng não do các tác nhân gây bệnh có khả năng sinh mủ (chủ yếu là một số loại vi khuẩn) xâm nhập vào màng não gây nên. Là một trong những bệnh cấp cứu nguy hiểm, thường gặp ở trẻ em, nhiều nhất là ở lứa tuổi dưới 3 tuổi, tỷ lệ tử vong và di chứng khá cao.

  1. CĂN NGUYÊN GÂY BỆNH

Ba loại vi khuẩn gây bệnh viêm màng não mủ hay gặp nhất là:

  • Phế cầu (Streptococcus pneumoniae)
  • Influenzae (Haemophilus influenzae)
  • Não mô cầu (Neisseria meningitidis)
  • Riêng ở giai đoạn sơ sinh và trẻ nhỏ dưới 3 tháng tuổi (cũng như ở người già), căn nguyên gây bệnh thường gặp nhất là các loại vi khuẩn đường ruột (như Coli, Proteus, Klebsiella, Listeria, Streptococci nhóm B…).

Ngoài ra nhiều loại vi khuẩn và nấm khác cũng có thể là căn nguyên gây Viêm màng não mủ nhưng ít gặp hơn và thường xảy ra trên những bệnh nhân có tình trạng suy giảm miễn dịch, nhiễm khuẩn huyết.v.v

  1. CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán xác định

Phải dựa trên các biểu hiện lâm sàng và nhất thiết phải dựa trên kết quả xét nghiệm dịch não tuỷ.

Biểu hiện lâm sàng

  • Sốt, hội chứng nhiễm trùng: Thường sốt cao đột ngột, có thể kèm viêm long đường hô hấp trên, quấy khóc hoặc li bì, mệt mỏi, ăn hoặc bú kém, da xanh tái.
  • Hội chứng màng não:

Các dấu hiệu cơ năng: Nôn tự nhiên và buồn nôn, đau đầu (ở trẻ nhỏ thường quấy khóc hoặc khóc thét từng cơn), táo bón (ở trẻ nhỏ thường gặp tiêu chảy), có thể có biểu hiện sợ ánh sáng, nằm tư thế cò súng.

Các dấu hiệu thực thể: Gáy cứng (ở trẻ nhỏ có thể gặp dấu hiệu cổ mềm), dấu hiệu Kernig, Brudzinsky, vạch màng não… dương tính.

Trẻ nhỏ còn thóp thường có dấu hiệu thóp trước phồng hoặc căng, li bì, mắt nhìn vô cảm.

– Các biểu hiện khác

+ Co giật.

+ Liệt khu trú.

+ Rối loạn tri giác – hôn mê.

+ Ban xuất huyết hoại tử hình sao (Gặp trong nhiễm Não mô cầu).

+ Các dấu hiệu của shock nhiễm khuẩn.

Riêng ở trẻ sơ sinh bệnh thường xảy ra trên trẻ đẻ non, nhiễm trùng ối, ngạt sau đẻ. Hội chứng nhiễm trùng thường không rõ rệt, có thể không sốt, thậm chí còn hạ thân nhiệt, hội chứng màng não cũng không đầy đủ hoặc kín đáo. Trẻ thường bỏ bú, nôn trớ, thở rên, thở không đều hoặc có cơn ngừng thở, thóp phồng hoặc căng nhẹ, bụng chướng, tiêu chảy, giảm trương lực cơ, mất các phản xạ sinh lý của trẻ sơ sinh…và có thể co giật.

Biểu hiện cận lâm sàng

  • Quan trọng nhất và có tính chất quyết định cho chẩn đoán là xét nghiệm dịch não tuỷ. Cần tiến hành chọc dịch não tuỷ sớm ngay khi khám xét lâm sàng có nghi ngờ Viêm màng não mủ tại cơ sở y tế từ tuyến huyện trở lên (tại khe liên đốt L4-L5 vùng thắt lưng với cỡ kim chuyên dụng thích hợp theo lứa tuổi – trẻ dưới 1 tuổi dùng kim số 4, số Chú ý các chống chỉ định như hội chứng tăng áp lực nội sọ nặng có nguy cơ gây tụt kẹt thuỳ hạnh nhân tiểu não, tình trạng shock nặng, suy hô hấp nặng chưa ổn định, viêm tấy hoặc ổ nhiễm khuẩn tại vị trí chọc dò…).

Xác định chẩn đoán khi dịch não tuỷ có các biểu hiện sau:

  • Dịch não tuỷ đục như nước dừa non, nước vo gạo hoặc như mủ.
  • Soi hoặc cấy dịch não tuỷ xác định được vi khuẩn gây bệnh
  • Xét nghiệm sinh hoá dịch não tuỷ thấy nồng độ Protein cao (thường trên 1 gr/ lít), Glucose giảm dưới 1/2 đường máu, thử cùng lúc – có khi chỉ còn vết; tế bào tăng cao – từ vài trăm tới hàng nghìn tế bào/mm3, trong đó bạch cầu đa nhân trung tính chiếm ưu thế.
  • Các xét nghiệm khác:

Công thức máu thường thấy bạch cầu tăng cao, tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính chiếm ưu thế; ở trẻ nhỏ thường giảm nồng độ huyết sắc tố (thiếu máu).

Cấy máu và cấy dịch tỵ hầu, dịch hút tại ổ xuất huyết hoại tử… có thể xác định được vi khuẩn gây bệnh.

Ngoài ra có thể chụp cắt lớp vi tính sọ não, siêu âm qua thóp… để xác định các biến chứng có thể gặp; các xét nghiệm DNT giúp cho chẩn đoán phân biệt những trường hợp Viêm màng não mủ không điển hình (thường do điều trị kháng sinh không đúng trước đó) như PCR, ELISA đặc hiệu, nồng độ LDH, A. Lactic… và các xét nghiệm giúp cho điều trị toàn diện như điện giải đồ, khí máu…

Chẩn đoán phân biệt

  • Chẩn đoán phân biệt trước khi chọc dò dịch não tuỷ

Trên thực tế cần phân biệt với sốt cao co giật, động kinh, các viêm màng não do căn nguyên virus, lao… Đặc biệt ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ cần chú ý phân biệt với các xuất huyết não – màng não, tình trạng nhiễm khuẩn nặng như viêm phế quản phổi nặng, nhiễm khuẩn huyết. Trong những trường hợp chưa phân biệt được hay có nghi ngờ Viêm màng não mủ, giải pháp đúng đắn nhất là phải chọc dò dịch não tuỷ để xác định chẩn đoán.

  • Chẩn đoán phân biệt khi đã chọc dò tuỷ sống

Hầu hết các trường hợp xét nghiệm dịch não tuỷ điển hình cho phép chẩn đoán chắc chắn hay loại trừ chẩn đoán Viêm màng não mủ. Tuy nhiên, do việc lạm dụng kháng sinh, tự điều trị kháng sinh không đúng khi chưa có chẩn đoán đã gây khó khăn cho việc xác định Viêm màng não mủ vì các biểu hiện xét nghiệm dịch não tuỷ không còn điển hình nữa. Cụ thể như sau:

  • Nếu dịch não tuỷ trong hoặc không rõ đục, nồng độ Protein tăng, số lượng tế bào tăng từ vài chục đến hàng trăm: Cần chẩn đoán phân biệt với viêm màng não do virus và lao màng não.
  • Nếu dịch não tuỷ vàng, ánh vàng: Cần chẩn đoán phân biệt với lao màng não hoặc xuất huyết não-màng não cũ.

+ Với viêm màng não (hoặc viêm não-màng não) do virus:

Dịch não tuỷ thường trong, Protein tăng ít (thường dưới 1gr/lít), số lượng bạch cầu trong dịch não tuỷ thường thấp hơn (vài chục đến một vài trăm bạch cầu/ mm3), bạch cầu lympho và mono chiếm ưu thế. Cần chú ý tới các yếu tố dịch tễ và làm các xét nghiệm đặc hiệu như ELISA hoặc PCR để xác định căn nguyên virus.

+ Với lao màng não:

Dịch não tuỷ trong hoặc vàng chanh, Protein tăng trên 1gr/l, số lượng tế bào thường vài trăm/mm3, nhưng chủ yếu là lymphocyt. Cần tìm nguồn lây nhiễm, làm phản ứng Mantoux, chụp phổi và các xét nghiệm đặc hiệu để xác định lao.

+ Với xuất huyết não – màng não cũ:

Thường dịch não tuỷ vàng, Protein tăng nhưng số lượng tế bào trong dịch não tuỷ ít hoặc không có. Cần xem xét kỹ các biểu hiện lâm sàng, các biến đổi về xét nghiệm huyết học và nếu cần thì chụp CT scan sọ não để xác định chẩn đoán.

  1. ĐIỀU TRỊ

Nguyên tắc chung

Viêm màng não mủ là một trong các bệnh cấp cứu, cần được định chẩn đoán, điều trị kịp thời và theo dõi chặt chẽ tiến triển của bệnh tại cơ sở y tế.

Liệu pháp kháng sinh cần được chỉ định đúng, càng sớm càng tốt ngay khi xác định chẩn đoán.

Trong những trường hợp bệnh nặng, các biện pháp điều trị tích cực và hỗ trợ là hết sức quan trọng để cứu sống người bệnh và giảm thiểu các di chứng.

Liệu pháp kháng sinh

  • Khi chưa xác định được chính xác căn nguyên vi khuẩn, liệu pháp kháng sinh được chỉ định theo lứa tuổi bệnh nhân, cụ thể như sau:

Bảng 1. Liệu pháp kháng sinh điều trị Viêm màng não mủ khi chưa xác định căn nguyên

Lứa tuổi Loại kháng sinh Liều lượng (mg/kg/24h) Cách dùng Thời gian dùng (ngày)
Trẻ sơ  sinh (≤ 1 tháng tuổi) 1.Ceftriaxone hoặc Cefotaxime Kết hợp với Ampiciline Hoặc:

2. Ampiciline Kết hợp với Gentamicin

100mg 200 – 300mg

200-300 mg

 

 

200-300 mg

5mg

IV chia 1-2 lần

IV chia 4 lần

 

IV chia 4 lần IV chia 4 lần IV / IM 1 lần

7 – 21 ngày (tuỳ theo căn nguyên và tiến triển)

 

nt

Từ    >1       –

≤3tháng tuổi

Ceftriaxone hoặc Cefotaxime 100mg

 

200 – 300mg

IV   chia   1-2 lần

IV chia 4 lần

 

7- 14 ngày

Trên 3 tháng tuổi – 5 tuổi Ceftriaxone hay Cefotaxime 100mg 200mg                   – 300mg IV chia 4 lần IV   chia   1-2 lần  

7- 14 ngày

Trẻ > 5 tuổi Ceftriaxone hay Cefotaxim

Có   thể   phối hợp với Vancomycin

100mg 200 – 300mg

60mg

IV  chia  1  -2 lần

IV chia 4 lần PIV chia 4 lần

7-14 ngày

(Chữ viết tắt trong bảng 1: IV: Tiêm tĩnh mạch; PIV: truyền tĩnh mạch; IM: Tiêm bắp)

Khi không đáp ứng đổi kháng sinh phổ rộng bao vây phế cầu và H. Influenzae:

Liệu pháp kháng sinh khi đã xác định được căn nguyên gây Viêm màng não mủ (có kết quả cấy dịch não tuỷ dương tính và có kháng sinh đồ):

  • Với Phế cầu ( Pneumoniae): Nếu vi khuẩn còn nhạy cảm với Penicilin: Dùng Benzyl Penicilin liều 60mg/kg tiêm TM chậm cho mỗi 6 giờ (250.000UI /kg/24h).
  • Nếu không làm được hay không có kháng sinh đồ và MIC nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) >0,125mg/l cần dùng Cefotaxime hoặc Ceftriaxone theo cách dùng tại bảng 1, phối hợp với Vancomycine 60mg/kg/24h chia 4 lần truyền tĩnh mạch , phối hợp Rifampicin 20mg/kg chia 2 lần uống . Thời gian điều trị thường phải kéo dài từ 10-14 ngày.
  • Với Influenzae: Dùng Cefotaxime hoặc Ceftriaxone theo cách dùng tại bảng 1. Thời gian điều trị thường từ 7-10 ngày. Nếu không đáp ứng phối hợp pefloxacine 10 – 15 mg/kg/ngày chia 2 -3 lần truyền tĩnh mạch trong ngày hay Meropenem 120mg/kg/ngày chia 3-4 lần tiêm mạch hay truyền tĩnh mạch.
  • Với Não mô cầu ( Meningitidis): Penicillin G 250000UI/kg/24h; hoặc Ampicillin 200mg/kg/24h IV chia 4 lần.Cũng có thể dùng Cefotaxime hoặc Ceftriaxone theo cách dùng và liều lượng đã nêu trong bảng 1. Thời gian điều trị thường từ 5 – 7 ngày.
  • Với các loại trực khuẩn đường ruột Gr (-): Dùng Cefotaxime hoặc Ceftriaxone phối hợp với Gentamycin như đã nêu trong bảng Thời gian điều trị thường kéo dài hơn tới 3 tuần.
  • Riêng với Listeria cần dùng Benzyl Penicilin (liều 000UI / Kg / 24h chia 4 lần) hoặc Ampicillin (liều 300 mg / Kg / 24h chia 4 – 6 lần). (kết hợp Trimethoprim

+ sulfamethoxazole liều “5 + 25” mg/Kg cho mỗi 6 giờ (“20+100”/Kg/24h), hoặc kết hợp Gentamicin theo liều 5mg/Kg/24h cho những trường hợp nặng). Có thể Thời gian điều trị thường từ 2-3 tuần.

Chú ý:

Trên những trường hợp bệnh nhân Viêm màng não mủ có biểu hiện suy gan, suy thận liều kháng sinh sử dụng cần được cân nhắc, tính toán cụ thể tuỳ theo mức độ suy gan, thận và tình trạng bệnh Viêm màng não mủ.

Điều trị phối hợp

  • Nếu bệnh nhân hôn mê hoặc có dấu hiệu nhiễm khuẩn nặng, đe doạ shock nhiễm khuẩn cần được điều trị, chăm sóc tại phòng cấp cứu hoặc điều trị tích cự
  • Nếu bệnh nhân có co giật: Cắt cơn giật bằng Seduxen, liều 0,1- 0,2mg/kg/lần pha trong dung dịch NaCl 0,9% tiêm tĩnh mạch chậm cho tới khi ngừng giật. Nếu vẫn còn giật có thể tiêm lại cứ sau mỗi 10 phút nhưng không quá 3 lần. Phòng co giật bằng Barbituric (Gardenal) uống liều 5-20mg/kg/ngày, kết hợp với việc dùng thuốc hạ nhiệt, chống phù não, cân bằng nước, điện giải và thăng bằng toan kiềm khi cần thiết.
  • Nếu bệnh nhân có suy hô hấp cần được cho thở oxy hoặc hô hấp hỗ trợ, kể cả cho thở máy khi có chỉ đị
  • Chống viêm bằng Dexamethason liều 0,2-0,4 mg/kg/ngày chia 2 lần tiêm tĩnh mạch chậm trong 3 ngày đầu cho những trường hợp nặng
  • Chế độ chăm sóc và nuôi dưỡng: Bảo đảm thông khí, chống ứ đọng đờm rãi (hút đờm rãi, vỗ rung, đặt tư thế nằm ngiêng, đầu thấ..). Nếu bệnh nhân không ăn được cần cho ăn qua sonde và nuôi dưỡng hỗ trợ bằng đường tĩnh mạch .

Điều trị cụ thể tại các tuyến y tế

  • Tuyến xã: Cần khám xét thận trọng, tỷ mỷ; nếu nghi ngờ bệnh nhân có khả năng mắc bệnh Viêm màng não mủ phải chuyển tuyến trên ngay sau khi đã sơ cứ Các biện pháp sơ cứu cần thiết là chống co giật hoặc phòng co giật, hạ sốt, chống suy hô hấp… Những trường hợp nặng, nếu điều kiện cho phép cần báo gấp để được hỗ trợ phương tiện vận chuyển và cấp cứu.
  • Tuyến huyện: Chỉ tiếp nhận điều trị nếu có khả năng xác định chẩn đoán (chọc dò dịch não tuỷ, xét nghiệp dịch não tuỷ) và bệnh nhân không có biểu hiện tiên lượng nặng như hôn mê, suy hô hấp, đe doạ shock nhiễm khuẩn hoặc có khả năng biến chứng, không có các bệnh mạn tính kèm
  • Tuyến tỉnh, trung ương: Là nơi tiếp nhận và điều trị tất cả các trường hợp Viêm màng não mủ, thực hiện được tất cả các biện pháp điều trị như đã nêu ở trên.
  1. THEO DÕI TIẾN TRIỂN VÀ BIẾN CHỨNG

Cần khám xét và theo dõi bệnh nhân Viêm màng não mủ hàng ngày hoặc hàng giờ tuỳ theo tình trạng bệnh nặng, nhẹ về các chức năng sống (hô hấp, tuần hoàn…), tình trạng tri giác, hội chứng màng não, tình trạng nhiễm trùng…

Tiến hành các xét nghiệm cần thiết (Điện giải đồ, đường máu, khí máu…) cho những bệnh nhân nặng để giúp cho điều trị. Riêng chọc dò dịch não tuỷ thường tiến hành 3 lần: Lúc vào viện (để chẩn đoán xác định). sau điều trị kháng sinh từ 1-3 ngày (để đánh giá hiệu quả của liệu pháp kháng sinh và cân nhắc việc thây đổi kháng sinh khi cần thiết) và trước khi ra viện (để bảo đảm khỏi bệnh).

Tiêu chuẩn khỏi bệnh hoàn toàn: Hết sốt, lâm sàng hoàn toàn bình thường ít nhất 3 ngày; dịch não tuỷ trở về ngưỡng bình thường.

Một số biến chứng có thể gặp:

Tràn dịch dưới màng cứng, ổ abces nội sọ: Thường bệnh nhân có tình trạng tăng áp lực nội sọ, các dấu hiệu nhiễm trùng vẫn dai dẳng, dịch não tuỷ vẫn biến đổi.

Ứ dịch não thất do dính tắc: gặp chủ yếu ở trẻ nhỏ. Các dấu hiệu nhiễm trùng và dịch não tuỷ cải thiện nhưng có dấu hiệu tăng áp lực nội sọ, giãn đường khớp, thóp căng…

Các trường hợp này cần xác định bằng chụp CT scan sọ não (với trẻ nhỏ có thể siêu âm qua thóp) và cân nhắc khả năng phối hợp điều trị ngoại khoa.

Các biến chứng khác có thể gặp là bại não, động kinh, điếc hay giảm thính lực v.v…

Cần chú ý là tỷ lệ tử vong và các biến chứng thường xảy ra ở trẻ nhỏ, chẩn đoán muộn, điều trị không đúng.

  1. PHÒNG BỆNH

    • Vaccin phòng bệnh
      • Tiêm vaccin Hib cho tất cả các trẻ em (3 liều, lúc 2, 4 và 6 tháng).
      • Đối với vaccin phòng não mô cầu và phế cầu chỉ sử dụng cho những vùng dịch lưu hành hoặc trên những người có cơ địa đặc biệt (Suy giảm miễn dịch, sau cắt lách…)
    • Phòng cho những người có nguy cơ (tiếp xúc với nguồn lây) Dùng Rifampicin liều từ 10 đến 20mg/kg/ngày trong 4 ngày.

Áp dụng các biện pháp cách ly và khử khuẩn môi trường, dụng cụ… theo quy định.

Cách dùng Đảng sâm bồi bổ cơ thể

Tên khác:

Lộ đảng sâm, đài đảng sâm, dã đảng sâm, điều đảng.

Nguồn gốc:

Đây là loại rễ khô của cây đảng sâm, tô hoa đảng sâm và xuyên đảng sâm, thuộc loài thực vật họ hoa chuông, sản xuất chủ yếu ở Sơn Tây, Thiểm Tây, Cam Túc, Tứ Xuyên, Cát Lâm…

Phân biệt tính chất, đặc điểm:

Dược liệu này bao gồm những đoạn ngắn hình trụ tròn hoặc các miếng mỏng hình bầu dục đã được sao tẩm bào chế. Bề mặt mầu nâu vàng hoặc nâu xám, có nếp vân nhăn dọc và vân vòng tròn, mắt vỏ dài, nằm năng, nổi gồ lên, chỗ tách rễ nhánh ra có chất dính như keo màu be đan, đầu trên có bạnh đấu sư tử. Đường viền chung quanh mặt cắt có màu nâu xám, phần vỏ dài chiếm đại bộ phận rễ, có màu trắng, có khe nứt hoặc hoa văn hình tên bắn, phần vỏ màu trắng vàng nhạt, phần gỗ màu vàng nhạt, có mùi thơm đặc biệt, vị ngọt, nhấm vào là thành bã.

Đảng sâm
Đảng sâm

Tính vị và công hiệu:

  • Đảng sâm tính bình, vị ngọt, lợi về kinh tì, phế.
  • Có thể bổ trung ích khi, điều hoà khí trong dạ day, sản sinh thêm nước bọt.
  • Bổ máu, cầm máu
  • Giải độc chì.

Chủ trị:

Thể hư khí nhược, tứ chi vô lực, đầu váng mắt hoa, tỳ vị hư hàn, ăn không ngon miệng, ỉa lỏng, ỉa chảy, tâm hư nhịp tim loạn, hay quên, mất ngủ, sôi bụng kinh niên, phế hư, hen suyễn, viêm thận mãn tính, phù thũng, thiếu máu, sa dạ con, lòi dom, tiêu khát, phản nhiệt thương tân, đổ mồ hôi trộm, ngộ độc do bị nhiễm phải chất chì.

Theo các công trình nghiên cứu hiện nay, dược phẩm này có hàm chứa các thành phần: chất nhớt, chất albumin, vitamin B1, vitamin B2, đường mía, đường hoa cúc, chất kiềm v.v…

  • Có tác dụng hưng phấn đối với hệ thần kinh, tăng cường khả năng diệt khuẩn cho hệ thống nội bì dạng lưới, nâng cao năng lực phòng bệnh cho cơ thể, thúc đẩy sự sinh trưởng của các hồng cầu và protein huyết, còn có thể nâng cao đường huyết, hạ thấp huyết áp.

Bảo quản:

  • Để nơi thoáng gió và khô ráo.
  • Đề phòng mối mọt, phòng độc.

Các phương thuốc thường dùng:

Sâm kỳ tinh (bột đảng sâm hoàng kỳ)

  • Đảng sâm 250g – Hoàng Kỳ 250g
  • Đường trắng 500g

+ Cách làm:

  • Rửa sạch đảng sâm và hoàng kỳ
  • Ngâm trong nước lã 12 giờ
  • Cho thêm nước cho đủ, sắc trong 30 phút, lấy nước 1.
  • Cho nước vào bã, tiếp tục sắc, lấy nước 2, nước 3.
  • Đổ lẩn cả ba nước vào, cô đặc, khi nào thấy đặc dính là được, dừng lửa, để nguội, cho đường trắng vào khi nào hút hết chất thuốc đặc dính đó thì thôi, quấy trộn cho đều, phơi khô, nghiền nát, cho vào lọ, uống ngày 2 lần, mỗi lần 10 gam, cho vào nước sôi khuấy tan ra ma uống.

+ Chữa trị các chứng bệnh:

  • Phế khí hư nhược.
  • Thở dốc ho nhiều
  • Đầu váng, tim đập hồi hộp
  • Tỳ khí hư nhược
  • Ăn ít ỉa lỏng.
  • Lục phủ ngũ tạng bị sa sệ v.v…

Sâm mễ trà (trà đảng sâm ngô hạt)

  • Đảng sâm 30g – Ngỏ hạt 100g

+ Cách làm:

  • Rửa riêng từng thứ cho sạch
  • Đảng sâm sấy khô nghiền nát.
  • Ngô hạt sao chín.
  • Bỏ cả hai thứ vào nồi đất, cho 1000ml nước lã, ngâm trong 1 giờ, sắc 20 phút thì tắt lửa.
  • Sau khi thuốc lắng cặn, đổ vào phích, uống thay trà.

+ Chữa trị các bệnh:

  • Tỳ vị hư nhược.
  • Dạ dày đau âm ỉ

Sâm táo thang (thang đảng sâm táo tầu)

  • Đảng sâm 15g – Táo tầu 20 quả

+ Cách làm:

  • Rửa sạch táo tầu, ngâm trong nước lạnh 1 giờ
  • Cho cả hai thứ vào nồi đất, cho nước vào sắc nhỏ lửa.
  • Uống ngày một thang, chia 2 lần.

+ Thích hợp chữa trị bệnh thiếu máu cho người khi hư, huyết hư.

Sâm kỳ đại táo thang (thang đảng sâm hoàng kỳ táo tầu)

  • Đảng sâm 30g
  • Hoàng Kỳ 30g
  • Táo tầu 10 quả

Cách làm:

  • Bỏ cả ba vị vào nước sắc chung nhỏ lửa.
  • Khi thấy thang ngọt là được
  • Uống thang, ăn táo ngày 1 lần

Chữa các bệnh:

  • Khí hư, huyết hư
  • Kinh nguyệt trước kỳ, lượng nhiều sắc nhợt
  • Thân thể và tinh thần mệt mỏi
  • Mặt xanh xao không có thần sắc
  • Lưỡi nhạt, tưa lưỡi trắng, mạch yếu v.v…

Sâm kỷ hồng táo chử kê đản (Đảng sâm câu kỷ hầm trứng già)

  • Đảng sâm 15g
  • Câu kỷ tử 10 – 15g
  • Táo tầu 10 quả
  • Trứng gà 2 quả

+ Cách làm:

  • Bỏ cả vào nồi đất luộc chín, hầm nhừ.
  • Trứng chín bóc bỏ vỏ, lại cho vào hầm tiếp.
  • Ăn trứng, uống thang.
  • Uống ngày 1 lần hoặc cách một ngày 1 lần.
  • Uống liền trong 6-7 ngày.

+ Thích hợp chữa trị các bệnh:

  • Khí hư.
  • Da loang lổ
  • Đổ máu cam, chảy máu chân răng.
  • Mắt hoa đầu váng.
  • Sắc mặt xanh xao.
  • Mói và móng chân, móng tay khô ráp
  • Đánh trống ngực, khí đoản, tinh thần và thể lực đều mỏi mệt…

Đảng sâm đồn nhục (Đảng sâm hầm thịt)

  • Đảng sâm 30 – 60g (hoặc cùng sử dụng với hoàng kỳ, đại táo, đương qui).
  • Thích hợp vừa phải

+ Cách làm:

Thịt lợn thái miếng, cho vào với đảng sâm cùng hầm cho tới khi thịt chín nhừ, cho thêm muối và gia vị. Ăn thịt và uống thang.

+ Chữa trị các chứng: Thân thể hư nhược, lượng khí huyết thiểu.

Đảng sâm bách hợp trư phế thang (thang đảng sâm bách hợp phổi lợn)

  • Bách hợp 30g
  • Phổi lợn 250g
  • Đảng sâm 15g

+ Cách làm: Cả ba thứ trên cho nước vào đun cho tới khi phổi lợn chm. Cho muối và gia vị vừa phải. Uống thang, ăn phổi lợn.

+ Chừa các bệnh:

  • Phế hư, ho láu
  • Tái phát nhiều lần, khó bề chữa khỏi.

Đảng sâm hoàng mễ trà (trà đảng sâm gạo rang)

  • Đảng sâm 15 – 30g
  • Gạo rang 30g

+ Cách làm :

Cho cả hai vị vào nồi đổ 4 bát nước sắc lấy 1 bát rưỡi.

  • Cách ngày uống một thang.

+ Thích hợp chữa trị các chứng:

  • Tỷ dương hư, ăn ít, mệt mỏi
  • Người rét, chân tay giá lạnh.
  • Đi ỉa tháo dạ hoặc ăn không tiêu, sôi bụng, đau bụng.
  • Phụ nữ bạch đới trong và loãng
  • Lưỡi nhạt, tưa lưỡi trắng, mạch yếu hoặc chìm, chậm.

Đảng sâm song hoa trà: (trà đảng sâm kim ngân ngũ vị)

  • Đảng sâm 10g
  • Hoa kim ngân 10g
  • Ngũ vị tử 10g

Sắc với nước đun sôi nhiều lần, uống từ từ thay trà.

  • Chữa trị với người bệnh phế nhiệt, âm hư, ho nhiều.

Sâm kỷ tửu (rượu đảng sâm câu kỷ tử)

  • Đảng sâm 15g
  • Câu kỷ tử 15g
  • Rượu gạo 500ml

+ Cách làm:

  • Rửa sạch đảng sâm, câu kỷ tử
  • Phơi khô nghiền thành bột thô
  • Bỏ vào chai hoặc bình miệng nhỏ, đổ rượu gạo nút kín.
  • Ngâm từ 7 ngày trở ra, mỗi ngày lắc sóc một lần.
  • Mỗi ngày uống hai lần vào buổi sớm và buổi tối, mỗi lần 15ml.

+ Chữa trị các bệnh:

  • Tâm hư tỳ hư
  • Đánh trống ngực, mất ngủ

Ban đêm ngủ mê nhiều

Ăn uống không ngon miệng, cơ thể và chân tay mệt mỏi…

Đảng sâm nhân trần nhũ (Sữa đảng sâm nhân trần)

Nhân trần 3g

Đảng sâm 3g

Sữa tươi 100ml

+ Cách làm: Cho nhân trần, đảng sâm vào nước sắc ba lần lấy 50ml trộn đều với sữa người. Uống ngay 3-4 lần, mỗi lần 20-30 ml

+ Chữa trị các bệnh:

Tỳ hư tưa lưỡi vàng.

Trẻ sơ sinh 3-5 ngày mặt vàng, da vàng, sắc nhọt, da sỉn, thần kinh mệt mỏi, không chịu bú v.v…

Đảng sâm sinh mạch âm (đảng sâm mạch môn ngũ vị)

Đảng sâm 25g

Mạch môn đông 20g

Ngũ vị tử 15g

Cho nước vào sắc, uống ngày một thang.

Dùng cho những người mắc chứng đánh trống ngực, khí đoản, đổ mồ hôi, khô miệng do dương suy sinh ra, và những người bị các bệnh về cơ tim, thần kinh suy nhược v.v…

Đảng sâm thăng ma thang (thang đảng sâm, thăng ma)

Đảng sâm 50g

Thăng ma 15g

Cho nước vào sắc uống ngày một thang

Chữa các chứng sa dạ con, khí đoản lực thiếu v.v…

Sâm tinh bổ hư thang (thang đảng sâm hoàng tinh bổ tỳ can thận)

Đảng sâm 15g

Hoàng tinh 15g

Câu kỷ tử 15g

Hà thủ ô 15g

Kê huyết đằng 20g

Cho nước vừa đủ sắc uống (hoặc hầm với thịt nạc, ăn thịt uống thang),

Chữa chứng tinh huyết hư nhược, lợi về tỳ, thận, gan.

Sâm trúc ẩm (thuốc sắc đảng sâm ngọc trúc).

Ngọc trúc 250g

Đảng sâm 30g

Đại táo 30g

Đan sâm 30g

Đường vừa phải

Bốn vị trên ngâm trong nước lạnh cho nở ra, sau đó cho lượng nước vừa phải, sắc sôi 20 phút. Lấy một cốc, cho đường vừa phải, uống thay trà.

Chữa trị bệnh về cơ tim.

Đảng sâm hồ đào thang.

Đảng sâm 15g

Cùi hồ đào 15g

Sắc đặc, uống thang, ăn cùi hồ đào.

Chữa chứng són đái của người già.

Những điều cấm kỵ khi dùng thuốc:

Phàm những người khí trệ và hoả thịnh, khi dùng phải hết sức thận trọng.

Trong thời kỳ dùng thuốc, kiêng ăn củ cải và uống trà v.v…

Khi pha chế cấm kỵ phản lê lô, không sử dụng chung…

Địa phu tử

địa phu tử
địa phu tử

Địa phu tử ( 地肤子 )

Tên và nguồn gốc

+ Tên thuốc: Địa phu tử

+ Tên khác: Địa quì (地葵), Địa mạch (地麦), Ích minh (益明), Lạc trửu tử (落帚子), Trúc trửu tử (竹帚子), Thiên đầu tử (千头子), Trửu thái tử (帚菜子), Thiết tảo bả.tử (铁扫把子).

+ Tên Trung văn: 地肤子 DIFUZI

+ Tên Anh Văn: “BelvederFruit,FruitofBelveder”

+ Tên La tinh: Kochia scparia(L.) Schrad[Chenopodi-um scopariumL.」+ Nguồn gốc: Là quả của Địa phu thực vật họ Lê (Chenopodiaceae).

– Phân bố –

Chủ yếu sản xuất ở các vùng Hà Bắc, Sơn Tây, Sơn Đông, Hà Nam v.v… của Trung Quốc.

Tính vị

– Trung dược học: Cay, đắng, lạnh.

– Bản thảo: Vị đắng, lạnh

– Biệt lục: Không độc.

– Cương mục: Ngọt, lạnh.

Qui kinh

– Trung dược học: Vào kinh Thận, Bàng quang.

Công dụng và chủ trị

Liệu tiểu tiện, thanh thấp nhiệt.

Trị tiểu tiện không lợi, bệnh lâm, đái hạ, sán khí, phong chẩn, nhọt độc, ghẻ lở, ấm bộ thấp ngứa.

– Thần nông bản thảo kinh: Chủ bàng quang nhiệt, lợi tiểu tiện.

– Bản kinh: Chủ bàng quang nhiệt, lợi tiểu tiện, bổ trung ích tinh khí.

– Biệt lục: Khứ bỏ nhiệt khí trong bì phu, tán nhọt độc, sán hà, cường âm, làm người nhuận sáng.

– Điền Nam bản thảo: Lợi bàng quang tiểu tiện tích nhiệt, tẩy phong ở bì phu, trị phụ nữ khách nhiệt ở các kinh, thanh lợi thai nhiệt, phụ nữ thấp nhiệt đái hạ dùng tốt vậy.

– Ứng dụng –

  1. Lâm chứng: Bổn phẩm khổ hàn giáng tiết, năng thanh lợi thấp nhiệt mà thông lâm, cho nên dùng trị chứng bàng quang thấp nhiệt, tiểu tiện không lợi, nhỏ giọt dầm dề rít đau, thường cùng dùng với Mộc thông, Cù mạch, Đông quỳ tử, v.v… Địa phu tử thang (Tế sinh phương).
  2. Âm ngứa đái hạ, phong chẩn, thấp chẩn: Bổn phẩm năng thanh trừ thấp nhiệt và phong ở trong bì phu mà cầm ngứa. Điều trị phong chẩn, thấp chẩn, thường cùng dùng với Bạch tiên bì, Thiền thối, Hòang bá v.v…; Nếu hạ tiêu thấp nhiệt, ngọai âm thấp ngứa, có thể với Khổ sâm, Long đởm thảo, Phèn chua v.v… sắc nước nóng rửa ngòai chổ bệnh; Trị thấp nhiệt đái hạ, có thể phối Hòang bá, Thương truật v.v…sắc uống.

– Liều dùng và cách dùng –

Sắc uống, 9 ~ 15g. Dùng ngòai lượng thích hợp.

Kiêng kỵ

– Bản thảo bị yếu: Ghét Phiêu tiêu.

– Thành phần hoá học –

Bổn phẩm hàm chứa triterpenoid saponins, dầu béo, vitamin A (Trung dược học).

Bài thuốc cổ kim tham khảo

+ Phương thuốc 1:

Trị huyết lỵ lâu ngày, ngày đêm không cầm: Địa phu tử 1 lượng, Địa du 3 phân, Hòang cầm 3 phân. Thuốc trên nghiền rây làm bột. Dùng nước cháo điều uống mỗi lần 2 chỉ, bất kễ lúc nào.

(Thánh huệ phương)

+ Phương thuốc 2:

Huyết lỵ không cầm: Dụng Địa phu tử 5 lượng; Địa du, Hòang cầm đều 1 lượng, cùng nghiền bột. Mỗi lần uống 1 thìa, nước nóng điều uống.

+ Phương thuốc 3:

Trị quáng gà: Địa phu tử 5 lượng, Thảo quyết minh 1 thăng. Hai vị trên giã sàng, nước gạo hòa hòan. Sau mỗi bửa ăn uống 20 ~ 30 hòan.

(Quảng tế phương – Địa phu tử hòan)

+ Phương thuốc 4:

Trị sườn đau, đau tích lâu ngày, có lúc phát cơn: Tháng 6, 7 lấy Đia phu tử, phơi âm can, nghiền bột. Uống thìa 1 tấc vuông, ngày 5 ~6 lần uống.

(Thánh huệ phương – Địa phu tử tán)

+ Phương thuốc 5:

Trị sán khí: Địa phu tử sao thơm, nghiền bột, mỗi lần uống 1chỉ, uống với rượu.

(Giản tiện đơn phương)

+ Phương thuốc 6:

Trị bệnh trĩ: Địa phu tử không kễ nhiều ít, nướng khô trên ngói mới, giã sàng làm bột. Mỗi lần uống thìa 3 chỉ, dùng nước hạt ngô cũ điều uống, ngày 3 lần.

(Thánh tế tổng lục)

+ Phương thuốc 7:

Trị lôi đầu phong sưng: Địa phu tử, cùng gừng tươi nghiền nát, rượu nóng quấy uống, lấy mồ hôi ra mà khỏi.

(Thánh tể tổng lục)

+ Phương thuốc 8:

Trị hột cơm ở tay chân thân thể: Địa phu tử, Phèn chua lượng bằng nhau. Sắc nước nóng rửa nhiều lần.

(Thọ vực thần phương)

+ Phương thuốc 9:

Trị ung nhọt: Địa phu tử, La bặc tử đều 1 lượng. Lửa nhỏ sắc nước, thừa lúc còn nóng rửa chổ đau, mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 10 ~ 15 phút.

(Nội Mông Cổ – Trung thảo dược tân y liệu pháp tư liệu tuyển biên)

+ Phương thuốc 10:

Mắt đỏ phong nhiệt: Có Địa phu tử 1 thăng (nướng), Sinh địa nửa cân lấy nước, cùng dùng làm bánh, sấ khô, nghiền nhỏ. Mỗi lần uống 3 chỉ, bụng đói uống, rượu điều uống.

+ Phương thuốc 11:

Sán khí: Dùng Địa phu tử sao, sau đó nghiền nhỏ, mỗi lần uống 1 chỉ, rượu điều uống.

+ Phương thuốc 12:

Tiểu tiện không thông: Dùng Địa phu thảo ép nước uống, hoặc dùng Địa phu thảo 1 nắm, thêm nước sắc uống.

+ Phương thuốc 13:

Địa phu tử sắc nước uống, lấy chút ít mồ hôi ra dâm dấp, điều trị viêm vú cấp tính, thu hiệu quả vừa ý.

(Tạp chí Trung y Sơn Đông, 1983, 4: 40)

Tham khảo thêm:

ĐỊA PHỦ TỬ

Tác dụng:

Lợi niệu, thông lâm, trừ thấp nhiệt.

Chủ trị:

+ Trị tiểu không thông, viêm bàng quang, viêm niệu đạo, các loại chứng lâm, phù thũng cước khí. Dùng ngoài, sắc lấy nước rửa nơi lở ngứa ngoài da.

Liều lượng:

Uống 3-5 chỉ, dùng ngoài tùy ý.

Kiêng kỵ:

Phụ nữ có thai tiểu nhiều, không có thấp nhiệt, bệnh hư không thấp nhiệt cấm dùng. Ghét Phiêu tiêu.

Bảo quản:

Dễ mọt, đậy kín, để nơi cao ráo. Tránh ẩm, dễ mất mùi thơm.

Đơn thuốc kinh nghiệm:

+ Đau mắt, mắt lèm nhèm, hễ đau mắt hay bụi vào mắt, bẩm chất người có nhiệt, dùng Địa phu tử, lấy nước cốt trắng của nó điểm nhiều lần (Ngoại Đài Bí Yếu).

+ Đỏ mắt do phong nhiệt, dùng Địa phu tử sấy khô 1 thăng, Sinh địa hoàng nửa cân, gĩa nát lấy nước cốt trộn thuốc làm bánh rồi phơi nắng tán bột, lần uống 3 chỉ lúc đói với rượu (Thánh Huệ Phương).

+ Lỵ ra huyết không cầm, dùng Địa phu tử 5 lượng, Địa du, Hoàng cầm mỗi thứ 1 lượng tán bột lần uống một muỗng nhỏ với nước ấm (Thánh Huệ Phương).

+ Đau nhức đầu như búa bổ, đến nỗi bất tỉnh nhân sự, dùng Địa phụ tử cùng nghiền nát với Sinh khương, uống với rượu nóng cho ra mồ hôi là được (Thánh Tế Tổng Lục).

+ Đau dưới sườn, dùng Địa phu tử tán bột, uống một muỗng nhỏ với rượu (Thọ Thành Thần Phương).

+ Toàn thân nổi mụn như da cóc, dùng Địa phu tử, Phèn chua (Bạch phàn) các vị bằng nhau sắc rửa nhiều lần (Thọ Thành Thần Phương).

+ Thoát vị (sán khí) nguy cấp, dùng Địa phu tử sao thơm, tán bột, mỗi lần uống 1 chỉ với rượu (Giản Tiện Phương).

+ Do khiêng vác nặng gây nên thoát vị bẹn hoặc sa tử cung : dùng Địa phu tử 5 chỉ, Bạch truật 2 chỉ 5, Quế tâm 5 phân tán bột uống với rượu lần 3 chỉ, Kiêng hành sống, đào, lý (Bí Hiệu Phương).

+ Phong chẩn lâu năm, đau thắt lưng kinh niên, cứ đến tháng 6-7 là phát đau, chọn Địa phu tử khô tán bột, uống một muỗng nhỏ với rượu, ngày 5-6 lần (Trửu Hậu Phương).

+ Có thai bí tiểu hoặc đái rắt, đau không chịu được, tay chân lạnh, dùng địa phu tử 12 lượng, 4 thăng nước, sắc còn 2 thăng rưỡi, chia làm nhiều lần uống (Tử Mẫu Bí Lục).

+ Trị đái ra máu hoặc nhiệt lâm : Địa phu tử, Trư linh, Tri mẫu, Cù mạch, Đông quy tử đều 3 chỉ, Thông thảo Chỉ thực, Hoàng bá, Cam thảo đều 2 chỉ. Sắc uống (Địa Phu Tử Thang – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Học).

+ Trị đau thắt lưng, tiểu ít, nước tiểu vàng : Địa phu tử 4 lượng, tán bột, mỗi lần uống 2 chỉ, với rượu, ngày 2 lần (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Học).

+ Trị các chứng ngứa ngoài da : Địa phu tử, Khổ sâm, mỗi thứ 3 chỉ, Phòng phong, Thuyền thoái mỗi thứ 2 chỉ. Sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Học).

+ Trị chốc lở ngoài da : Địa phu tử 4 chỉ, Sanh cam thảo 2 chỉ. Sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Học).

+ Trị phong nhiệt ngoài da, ngứa ngáy, ngứa chảy nước ở bìu đái : Địa phu tử (toàn cây) sắc rửa (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Học).

+ Trị trùng roi âm đạo, ngứa âm đạo, bạch trọc nhiều : Khổ sâm, Hoa tiêu, Bạch phàn, sắc rửa ngoài

+ Trị mề đay, phong ngứa : Địa phụ tử, Bạch phụ tử, Xà sàng tử, Xuyên tiêu, các vị bằng nhau tán bột, trộn với ít mỡ heo bôi vào

Tham khảo:

+ Vào mùa hè thu hái nhánh non của cây Địa phu gọi là Địa phu miêu, phơi khô cất dùng. Tính vị và tác dụng sinh lý giống như Địa phu tử. Dùng để trị viêm khớp do phong thấp, đau các khớp tay chân, tiểu ít, lấy Địa phu miêu 4 chỉ sắc uống (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+ Địa phu tử vị đắng tính lạnh, có tác dụng thanh nhiệt hóa thấp, có công năng thông lâm, lợi tiểu tiện, lại có thể giải độc trừ thấp sang. Trên lâm sàng chủ yếu dùng để trị phong lở do thấp nhiệt, ngứa toàn thân, có thể dùng cho uống trong và rửa bên ngoài (Trung Dược Học Giảng Nghĩa).

Nấc (ách nghịch)

Khái niệm

Vị khí nghịch lên, khoảng yết hầu vướng mắc luôn luôn phát thành tiếng, sách Y lâm cải thác bảo là “ách nghịch” tục gọi là “Đả lạc thắc”.

Trong các sách Nội kinh, Thương hàn luận, Kim quỹ yếu lược, Chư bệnh nguyên hậu luận, Thiên kim dực phương đều gọi Ách nghịch là “uế”, đến thời kỳ Kim Nguyên, sách Lan thất bí tàng lại gọi lẫn lộn “ẩu thổ uế” Sách Đan Khê Tâm pháp nói: “Có tiếng có vật gọi là ẩu thổ, có tiếng không có vật gọi lằ uế” Vậy uế tức là Can ẩu, cùng loại ẩu thổ. Cho nên sách vở y học trước đời Kim Nguyên, ách nghịch đồng nghĩa với uế. Sách Loại kinh nói: “Xưa bảo là uế, tức là Ách nghịch không ngờ gì nữa”. Từ sau Kim Nguyên, uế tức là Can ẩu, sở dĩ chứng trạng ba loại Ách nghịch, Uế (Can ẩu) và Ẩu thổ tuy đều có chứng trạng Vị khí nghịch lên, nhưng biểu hiện có chỗ không giống nhau.

Phân biệt

Chứng hậu thường gặp

Ách nghịch do Vị hàn: Có chứng trạng Vị quản khó chịu, tiếng nấc trầm và từ từ, gặp ấm thì dễ chịu, gặp lạnh thì bệnh tăng trong miệng hoà, lưỡi trắng nhuận mạch Trì hoãn.

Ách nghịch do Vị hoả: Có chứng tiếng nấc vang rõ, thúc ngược lên phát ra tiếng, miệng hôi phiền khát, tiểu tiện sẻn đồ, đại tiện bí, rêu lưỡi vàng, mạch Hoạt sằc.

Ách nghịch do Tỳ Thận dương hư: Có chứng nấc liên tục, hơi không tiếp nối, chân tay không ấm, sắc mặt tái xanh, kém ăn mỏi mệt, lưng gối vô lực, tiểu tiện trong dài, đại tiện nhão, chất lưỡi nhạt, rêu trắng nhuận, mạch Trầm Nhược.

Ách nghịch do Vị âm bất túc: Tiếng nấc gấp gáp nhưng không liên tục, miệng lưỡi khô ráo, phiền khát không yên, chất lưỡi đỏ tía, mạch Tế Sác.

Phân tích

  • Chứng Ách nghịch do Vị hàn với chứng ách nghịch do Vị hoả: cả hai đều thuộc Thực chứng. Loại trên do ăn uống không điều độ lại ăn quá nhiều thức ăn sống lạnh hoặc ngoại cảm hàn tà vào sâu Trường Vị, đình trệ ở Vị, Vị dương bị chèn ép, hấp thu và giáng xuống thất thường phát sinh chứng Vị hàn ách nghịch thuộc chứng hàn thực. Loại sau do ăn nhiều thức cay nóng. Vị bị ấp ủ tích nhiệt, hoặc ngoại cảm nhiệt tà kết ở Vị phủ, hoặc tình chí không thư sướng, khí uất hóa hoả. Can hoả phạm Vị đến nỗi Vị hoả xông lên mà thành Ách nghịch thuộc chứng thực nhiệt.

Tiếng nấc của loại trên, trầm và từ từ có lực. Tiếng nấc loại sau vang rõ có lực. Loại trên do Vị dương bị chèn ép, dương khí bị trở ngại, cho nên có kiêm chứng trạng Vị quản bĩ đầy, được nhiệt thì bĩ đầy ở Vị quản đỡ, gặp lạnh thì bĩ đẩy nặng thêm, miệng nhạt nh^t, là những kiêm chứng Vị hàn. Loại sau do VỊ hoả xông lên, cho nên tiếng nấc vang rõ, xông nghịch phát ra, đồng thời có kiêm chứng miệng hôi Tâm phiền, tiểu tiện sẻn đỏ, đại tiện khó, rêu lưỡi vàng, mạch Hoạt Sác.

Vị hàn Ách nghịch điều trị nên ôn trung tán hàn, dùng phương Đinh hương tán, nếu hàn nặng có thể gia Nhục quế, Ngô thù du để ôn dương tán hàn giáng nghịch chỉ ẩu. Nếu kiêm đàm trệ không biến hóa được, ngực khó chịu, Ợ hôi, có thể gia Hậu phác, Chỉ thực, Trần bì .V.V.. để hành khí hóa đờm tiêu trệ.

Ách nghịch do Vị hỏa xông lên, điều trị theo phép thanh giáng tiết nhiệt, dùng phương Trúc diệp thạch cao thang gia Thị đế để hóa đờm giáng nghịch. Nếu đại tiện bí kết, có thể gia Đại hoàng, thông lợi Đại trường để đưa nhiệt tiết xuống dưới.

– Chứng Ách nghịch do Tỳ Thận dương hư với chứng ách nghịch do Vị âm bất túc: cả hai đều là hư chứng Ách nghịch. Loại trên thuộc chứng dương hư. Loại sau thuộc chứng âm hư. Tỳ Thận dương hư, tiếng nấc thấp và liên tục, hơi không tiếp nối, Vị âm bất túc, tiếng nấc gấp gáp mà không liên tục.

Ách nghịch do Tỳ Thận dương hư, kiêm chứng sợ lạnh tay chân lạnh, chân tay không ấm, tiểu tiện trong dài. Ách nghịch do Vị âm bất túc, kiêm chứng miệng lưỡi khô ráo, phiền khát không yên, lưỡi đỏ tía.

Tỳ Thận dương hư gây nên Ách nghịch, điều trị theo phép bổ ích Tỳ Thận, hoà.VỊ giáng nghịch, dùng phương Toàn phúc Đại giả thang. Nếu Tỳ Thận dương hư sợ lạnh tay chân lạnh, đại tiện nhão, có thể gia Phụ tử, Bạch truật Can khương để ôn dương kiện Tỳ mà dẹp nghịch khí.

Vị âm bất túc gây nên Ách nghịch điều trị theo phép sinh tân dưỡng Vị, chọn dùng phương ích Vị thang gia Tỳ bà diệp, Thạch cao, Thị đế, để giáng nghịch chống nấc. Nếu Vị khí quá hư, không thiết ăn uống thì dùng Quất bì trúc nhự thang để ích khí hoà trung.

Tóm lại chứng Ách nghịch có hư thực hàn nhiệt khác nhau. Thực thì phần nhiều do khí đờm hoả uất gây nên. Hư chứng lại có Tỳ Thận dương hư với Vị âm bất túc khác nhau, đều phải coi “hư thì bổ, thực thì tả” làm nguyên tắc điều trị.

Trích dẫn y văn

Chứng Nấc trong tạp chứng tuy do khí nghịch, nhưng có kiêm hàn, kiêm nhiệt, có khi do thực trệ mà nghịch, có khi do khí trệ mà nghịch, có khi do trung khí hư mà nghịch, có khi do âm khí kiệt mà nghịch. Nhưng xét nguyên nhân mà chữa từ khí, có khi không khỏi. Nếu là nấc nhẹ nhàng dễ dãi, hoặc ngẫu nhiên mà nấc, khí thuận thì thôi, không cần phải chữa. Chỉ có trường hợp người bệnh nấc dồn dập hoặc nấc quá nặng, hẳn phải do khí quá nghịch hoặc nguyên khí Tỳ Thận có sự suy kiệt mới như thế Nhưng loại Ách do thực không khó chữa, chỉ có loại Ách mà nguyên khí suy kiệt mới là chứng hậu tối nguy hiểm (Cảnh Nhạc toàn thư – Tạp chứng mô).