Blog Trang 523

Sulfarlem Choline

SULFARLEM CHOLINE

viên bao: hộp 60 viên.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Choline bitartrate 300 mg
Anétholtrithione 5 mg

DƯỢC LỰC

Thuốc lợi mật. Anetholtrithione có tác động trực tiếp lên tế bào gan và choline bitartrate ngăn ngừa các trường hợp thoái hóa mỡ.

CHỈ ĐỊNH

  • Các rối loạn khó tiêu, trướng bụng thượng vị, chậm tiêu hóa, ợ, đầy hơi, buồn nôn.
  • Hỗ trợ điều trị chứng thoái hóa mỡ.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

  • Tắc mật.
  • Suy tế bào gan nặng
  • Mẫn cảm với một trong các thành phần của thuốc.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Đôi khi làm mềm phân và có khuynh hướng gây lỏng.

Nước tiểu nhuộm màu vàng đậm là hiện tượng bình thường.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Uống thuốc nửa giờ trước các bữa ăn. Người lớn: 2 đến 4 viên/lần, 3 lần/ngày. Trẻ em:

  • từ 5 đến 10 tuổi: 1 đến 3 viên/ngày.
  • từ 10 đến 15 tuổi: 2 đến 6 viên/ngày.

Tên gọi và ký hiệu của các chủng loại thuốc sâu

Có rất nhiều chủng loại thuốc sâu, đến nay trên thực tế có ngót một nghìn loại thuốc sâu được sử dụng, nhưng chỉ có hơn một trăm loại được sử dụng khá rộng rãi. Cho nên. số chủng loại thuốc sâu thực tế sử dụng cũng không nhiều lắm. Muốn sử dụng an toàn các loại thuốc sâu, chủ yếu phải nắm bắt được chủng loại chính, quan trọng nhất là các loại thường xuyên sử dụng. Hiểu được các kiến thức về từng loại thuốc sâu có quan hệ chặt chẽ với việc đề phòng và chữa trị khi bị ngộ độc thuốc sâu. Nghĩa là phải biết thuốc sâu này thuộc loại nào, có loại độc tố gì, để dễ bề đề phòng và chữa trị. Như thuốc sát trùng thuộc nhóm lân hữu cơ, đạm hữu cơ, v.v… từ tên gọi chỉ khác có một chữ, nhưng độc tố và phương pháp chữa trị sau khi bị ngộ độc lại không giống nhau, nếu làm sai thì hỏng hết. Nếu không biết tên của một loại thuốc sâu, không hiểu nó thuộc loại nào, nếu bị ngộ độc cấp tính thì phương pháp cấp cứu ra sao? Một loại thuốc sâu thường có nhiều tên gọi, có loại còn lấy dấu hiệu ở phòng thí nghiệm, càng gây thêm khó khăn cho trí nhớ. Như Marason, 4049 đều là một loại thuốc sâu, nhưng lại có người không biết thế. Ngoài ra còn có tên gọi khác như s – 3151, WL – 43479, NRDC – 143, FMC – 33297, NIA 33297, v.v… Có khi nông dân địa phương nào đó lại đặt tên cho một loại thuốc sâu, như nông dân ở Chiết Giang đặt tên 018 để chuyên chữa bệnh lá lúa nước bị khô trắng rồi lại đặt tên khác là hai lá xanh; quả thật không thể nhớ được. Có nơi còn gọi 1605 là thuốc sâu quét sạch chơn. Đây là vấn đề khiến nhiều người kể cả bác sỹ phải đau đầu. Vậy làm thế nào? Cần phải tìm hiểu khu vực mình sử dụng thuốc sâu nào. Trước đó phải có chuẩn bị đầy đủ, thu thập tài liệu, chia loại chúng ra. Sau đó đặt tên cho nó, số hiệu, tên thường gọi liệt kê vào một tờ giấy để khi cần dùng là có ngay. Hãy xem biểu dưới đây:

CÁC LOẠI THUỐC SÂU CHÍNH, DẤU HIỆU, TÊN KHÁC VÀ ĐỘC TỐ

CHỦNG

LOẠI

TÊN

LOẠI

THUỐC

CÁC TÊN KHÁC VÀ SỐ HIỆU ld50 độc tố cấp tính

VỚI CHUỘT LỚN MG/KG

CHÚ

THÍCH

QUA

MIỆNG

QUA DA
Thuốc sâu Clo hữu cơ Chlo diệt ve, rệp hút máu Chlorobenzen e, thuốc diệt ve R242 1.430 ~ 3.650
Chlo diệt ve E- 3314 130

135

195
Loại Clo diệt ve DDN, thiên địa hồng, thôi hểt, V-18 > 5.00 > 10.000 (miễn)
Loại Clo diệt ve FW – 293 668

842

1.870

(miễn)

666 Benzene Hexachloride, 666, BHC 1.000 ĐỘC tố được gia công thuốc bột.
Berưene

Hexachloride

Poly

Chlobenzene

HCB

10.000 Thuốc

diệt

khuẩn

Pentachloro-benzene Thuốc tản hạt, PCNB > 12.000 1.650 Thuốc diệt khuẩn
Thuốc diệt ve Cé. 88 R.BICS 3900
Thuốc diệt khuẩn TPN. Daconil 2787 > 10.000 > 1.000 (miễn) Thuốc

diệt

khuẩn

Rintan 666 thuốc nhóm B cao, Y – BHC Q88 0 91 1.000 Sẽ đào thải
Bột độc 3956 69 1.075

ĐIỀU TRỊ KHÁI QUÁT CÁC CA NGỘ ĐỘC THUỐC SÂU CẤP TÍNH

LOẠI THUỐC SÂU NHỮNG BIỂU HIỆN CHÍNH HAY NỔI BẬT XÉT

NGHIỆM

RỬA DẠ DÀY, KIÊNG KỴ, NÊN NGUYÊN TẮC ĐIỀU TRỊ
Loại Chlor hữu Cơ Nhẹ thì có các triệu chứng ở hệ thần kinh và tiêu hóa; nếu ngộ độc ở mức trung bình thì ra nhiều mồ hôi, hoảng sợ, sùi nước bọt, hoạt động không cân đối; bệnh nặng thì cơ bắp co rút, và co giật nhiềù lần sốt cao, hôn mê thời kỳ phục hồi thỉnh thoảng có lúc gan, thận bị tổn thương nhẹ, tiếp xúc ngộ độc có thể có chứng kích thích niêm mạc và viêm da. Không Dung dịch Sôđa hoặc nước muối ăn Điều trị theo bệnh, nếu sốt cao co giật thì uống thuốc giảm đau hoặc thuốc an thần. Kiêng dùng thuốc ở tuyến thận.
Loại Các triệu chứng tích Hoạt lực Nên bằng Thuốc chống
thuốc lân tụ kiềm kể cả các của nước Sôđa, Côlin và viên
hũucơ triệu chứng thần kinh Bteripco nước thuốc giải
(kể cả chung chung, há lin trong Potassium Photpho như
thuốc miệng, nôn mửa, đau máu Permanga Atropin và
diệt bụng, tháo tỏng, ra giảm nate và thuốc giải độc.
chuột có nhiều mồ hôi, lạnh, sút. nước muối Ngoài ra cần
Photpho) chảy nước dãi, mũi ăn. điều trị theo
mồm tê, ra nước bọt, triệu chứng
con ngươi co lại, mắt nhưng không
nhìn lơ mơ, sắc mặt được dùng
trắng bệch, môi tím Morphin.
thâm, động tác không Thuốc an thần,
cân đối, huyết áp Phenecgan và
tăng, cơ bắp co giật, Babiđô cũng
người nặng thì hôn phải sử dụng
mê, phổi phù thũng, đái dầm, ỉa đùn và khó thở hoặc suy kiệt, có loại gây độc tố thần kinh chậm tái phát ở thời kỳ hồi phục và đột tử. thận trọng.

 

Vật lý trị liệu trật khớp háng bẩm sinh

I. ĐỊNH NGHĨA

Trật khớp háng bẩm sinh chiếm 5 – 10/1.000 trẻ mới sinh. Đây là tình trạng chỏm xương đùi trật lên trên và ra trước so với ổ cối do quá trình phát triển bất thường của ổ cối hoặc của chỏm xương đùi.

II. CHẨN ĐOÁN

1. Yếu tố dịch tễ

  • Con gái.
  • Yếu tố gia đình (10%).
  • Địa lý + chủng tộc

2. Yếu tố cơ học

  • Sanh ngôi mông, sanh đôi, sanh mổ.
  • Thai lớn ký.
  • Bất thường kèm theo (gối ưỡn, vẹo cổ, talus, varus…).
  • Thiểu ối
  • Con so, sanh đôi.
  • Chậm phát triển bào
  • Mẹ cao huyết áp.
  • Rối loạn trương lực cơ, rối loạn tư thế.
  • Giới hạn dang
  • Dị tật kèm theo

III. CHẨN ĐOÁN

Hỏi bệnh

  • Hỏi tiền căn sản khoa, tiền sử gia đình.
  • Có bệnh lý hay dị tật khác kèm theo?

Khám lâm sàng

  • Mất đối xứng nếp nhượng chân.
  • Nếp bẹn sâu.
  • Mất cân xứng nếp bẹp
  • Mất cân xứng nếp mông.
  • Mất cân xứng tư thế chi dưới
  • Một bên háng dang hơn
  • Có dáng đi Trendelenburg, đi khập khiễng (đối với trẻ biết đi)
  • Duỗi lưng quá mức, dáng đi lạch bạch (trật 2 bên ở trẻ biết đi)
  • Thăm khám (khi trẻ yên không quấy khóc):

+ Tăng hoặc giảm trương lực cơ áp 1 bên hoặc 2 bên.

+ Giới hạn dang.

+ Co rút cơ mông, cơ căng cân đùi đối bên.

+ Khớp háng mất vững (khớp không vững khi đầu xương đùi trật ra ngoài ổ cối – một phần hoặc hoàn toàn), được khám bởi người có kinh nghiệm.

  • Dấu Ortolani (+), Barlow(+), Galeazzie(+).

IV. CẬN LÂM SÀNG

  1. X- quang

Vào tháng thứ 4 đến tháng thứ 6 sau khi sanh, chỏm xương đùi ra ngoài và lên trên.

  1. Siêu âm: (1lần/tháng trong 3 tháng đầu sau khi sinh)
  • Theo phương pháp Graf: đo góc

+ Nếu ≥ 60o: bình thường.

+ Nếu: từ 50 – 60o:

  • Ở trẻ < 3 tháng tuổi: khớp háng chưa trưởng thành.
  • Ở trẻ > 3 tháng tuổi: loạn sản nhẹ.

+   < 5o: trật khớp

  • Theo phương pháp Terjesen: Đánh giá độ bao phủ chỏm xương đùi (> 50%: bình thường)

+ Ngay sau sinh trẻ có:

  • Độ bao phủ chỏm xương đùi khoảng 30%: bán trật khớ
  • Độ bao  phủ  chỏm  xương  đùi  khoảng  10  –  20%:  trật khớp háng.

+ Trẻ từ 1 – 3 tháng có độ bao phủ chỏm xương đùi < 50%: trật khớp háng.

V. ĐIỀU TRỊ

1. Đối với trẻ sinh

Cần phát hiện sớm và điều trị càng sớm càng tốt.

  • Bán trật:

+ Tã dang hoặc mang 2 lớp tã giấy.

+ Mousse chèn dang háng.

  • Trật khớp háng:

+ Mang tã dang với 2 người.

+ Nẹp Pavlik.

Kiểm tra X-quang khi mang nẹp

Đến 3 tháng tuổi, kiểm tra X-quang, nếu tốt, chỉ cho mang tã hoặc nẹp ban đêm.

Chỉ định nẹp Pavlick: (mang trong những tuần đầu sau sanh khoảng 5 – 6 tháng).

  • Bán trật (háng không vững).
  • Trật khớp háng nắn được.

Lưu ý khi mang nẹp Pavlik:

  • Không áp 2 đùi, không bỏ nẹp
  • Không xách 2 chân lên khi thay tã.
  • Ẵm bé dang háng, ngồi dang 2 chân.
  • Dây đai ngực không quá siết
  • Quần áo rộng, không mặc áo liền quần
  • Hông gập 90 – 110o, hoặc đầu gối cách mặt giường
  • Không nằm nghiêng. Nằm sấp có gối lớn chèn dưới bụng
  • Không cho đứng sớm
  • Khi tắm, thay quần áo cho trẻ, cần thực hiện từng phần
  • Kiểm tra điểm đánh dấu các dây đai hàng ngày.

2. Đối với trẻ lớn

Nếu phát hiện trễ, điều trị sớm thất bại, trật khớp háng không nắn được thì cho kéo tạ, bó bột, phẫu thuật.

VI. VẬT LÝ TRỊ LIỆU

Khi mang dang hoặc nẹp Pavlick: không tập vật lý trị liệu, chỉ hướng dẫn gia đình bệnh nhân cách chăm sóc bệnh nhân với nẹp, các tư thế cần lưu ý khi mang nẹp, không kéo thô bạo chân trẻ để tránh phá hủy sụn

Sau giai đoạn bất động (do bó bột hay sau phẫu thuật – có sự chỉ định của bác sĩ).

  • Tập mạnh cơ (tập chủ động, tập đề kháng).
  • Tập gia tăng ROM (vận động thụ động, chủ động, kéo dãn).
  • Tập dáng đi đúng.

Tái khám và theo dõi

  • Ngày đầu tiên sau sinh
  • Ngày xuất viện
  • Khám định kỳ hàng tháng đến khi trẻ biết đi

Hội chứng tăng áp lực nội sọ ở trẻ em

I. ĐẠI CƯƠNG

1. Định nghĩa

  • Hội chứng tăng áp lực nội sọ là sự tăng áp lực trong hộp sọ.
  • Hậu quả huyết động học do tăng áp lực nội sọ thể hiện qua các công thức sau:

CPP = MAP – ICP.

CPP (cerebral perfulsion pressure): áp lực tưới máu não. MAP (mean arterial pressure): áp lực trung bình động mạch. ICP (intracranial pressure): áp lực nội sọ.

CBF = CPP/CVR.

CBF (cerebral blood flow): lưu lượng máu não.

CVR (cerebral vascular resistance): đề kháng mạch não.

  • Khi tăng ALNS sẽ làm giảm áp lực tưới máu não, gây giảm lưu lượng máu não. Hậu quả gây nhồi máu não.

Bảng áp lực trong sọ bình thường

LỨA TUỔI ÁP LỰC BÌNH THƯỜNG
Trẻ >10 tuổi < 10 – 15mmHg
Trẻ nhỏ 2 – 10 3 – 7 mmHg
Trẻ < 2 tuổi 1,5 – 6 mmHg

2.     Phân loại

  • Hội chứng tăng áp lực nội sọ cấp tính: có thể dẫn đến tử vong do:

+   Tụt não.

+   Nhồi máu não lan tỏa.

  • Hội chứng tăng áp lực nội sọ mạn tính: dẫn đến teo gai thị gây mù mắt

3.     Nguyên nhân

  • Do nhu mô não:

+   Phù não.

+   Nhồi máu não.

  • Do mạch máu não:

+   Tăng huyết áp.

+   Thuyên tắc xoang tĩnh mạch.

  • Do dịch não tuỷ:

+   U đám rối mạch mạc.

+   BĐN tắc nghẽn.

  • Khối choán chỗ:

+   Xuất huyết não, não thất tự phát hoặc chấn thương.

+   U não.

+   Dị dạng mạch máu não.

+   Áp xe não.

+   Tụ mủ dưới màng cứng.

II. CHẨN ĐOÁN

1. Triệu chứng lâm sàng

  • Tam chứng kinh điển:

+   Nhức đầu: thường xảy ra lúc sáng sớm hay khi có động tác gắng sức, gập người, ho, sổ mũi.

+   Ói: ói đột ngột, dữ dội và không kèm với buồn nôn trước đó

+ Phù gai, teo gai thị: nhức đầu, phù gai thị, ói mửa thường gặp ở hội chứng tăng áp lực nội sọ điển hình, 2/3 bệnh nhân có khối choán chỗ trong hộp sọ có đủ 3 triệu chứng này, và hầu hết các bệnh nhân hội chứng tăng áp lực nội sọ có ít nhất 2 triệu chứng.

  • Dấu hiệu khác

+   Tam chứng Cushing: mạch chậm, huyết áp tăng, rối loạn nhịp thở.

+   Tri giác: lú lẫn, hôn mê.

2.  Cận lâm sàng

  • X-quang sọ thường: thấy hình ảnh dãn rộng khớp sọ, bào mòn hố yên, dấu ấn ngón tay
  • Siêu âm xuyên thớp: ở trẻ còn thóp.
  • Chụp não cắt lớp (CT scan): chẩn đoán nguyên nhân hội chứng tăng áp lực nội sọ.
  • Cộng hưởng từ não (MRI): bổ sung và hoàn thiện những hình ảnh của CT scan.
  • Đo áp lực trong sọ: đây là phương pháp chẩn đoán và theo dõi điều trị quan trọng, thường chỉ định trong chấn thương sọ não nặng và một số bệnh lý khác.

+    Chỉ định:

  • Chấn thương sọ não nặng: Glasgow ≤ 8, CT não có bất thường.
  • Chấn thương sọ não nặng, CT scan bình thường nhưng có gồng mất vỏ và HA tâm thu < 90 mmHg

+   Chống chỉ định:

  • Bệnh nhân tỉnh
  • Rối loạn đông máu.

+   Vị trí đặt dụng cụ đo áp lực trong sọ:

  • Trong não thất
  • Trong mô não.
  • Khoang nhện
  • Dưới màng cứng
  • Ngoài màng cứng

III. ĐIỀU TRỊ

1. Mục tiêu

  • Giữ ALTS < 20
  • Giữ áp lực tưới máu não ³60

2. Điều trị nội khoa

  • Nằm đầu cao 30 – 45°, cổ thẳng
  • Kiểm tra đường thở, đặt nội khí quản khi Glasgow ≤ 8
  • Duy trì HA thích hợp
  • Duy trì PaCO2= 30 – 35 mmHg
  • Manitol: 1g/kg truyền tĩnh mạch/15 phút, sau đó 0,25g – 0,5g/kg truyền tĩnh mạch/30 phút/6 giờ.

3. Điều trị phẫu thuật

  • Điều trị phẫu thuật theo nguyên nhân.
  • Mở sọ giải áp khi điều trị nội khoa thất bại
  • Điều trị khác: khi các phương pháp trên không hiệu quả
    • Thở máy liên tục
    • Barbiturate liều
    • Tăng thông khí tích cực PaCO2 = 25 – 30 mmHg
    • Hạ thân nhiệt

IV. THEO DÕI

Theo dõi cải thiện triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng.

Cây đại

Cây đại
Cây đại

CÂY ĐẠI

Tên khác: Cây sứ, Bông sứ.

Tên khoa học: Plumeria rubra L. var. acutifolia (Poir.) Bailey, họ Trúc đào (Apocynaceae).

Phân bố: Cây mọc hoang và trồng bằng cành ở các đình chùa, các vườn hoa.

Mô tả: Cây nhỡ cao 4-5m hay hơn, có nhánh mập, có mủ trắng. Lá mọc so le, phiến to, hình bầu dục hay xoan thuôn, có mũi ngắn, không lông hoặc ít khi có lông ở mặt dưới, Ngù hoa ở đầu một cuống dài, mang hoa thơm màu đỏ, thường có tâm vàng; cánh hoa dày; nhị nhiều dính trên ống tràng. Quả đại choãi ra thẳng hàng, dài 10-15cm; hạt có cánh mỏng.

Thu hái: Ðược nhập trồng vì hoa đẹp, mọc lâu năm. Người ta thu hái hoa khi mới nở, dùng tươi hay phơi hoặc sấy nhẹ đến khô. Dùng khô tốt hơn dùng tươi.

Bộ phận dùng: Vỏ thân, hoa (Cortex et Flos Plumeriae), lá tươi, nhựa tươi.

Thành phần hoá học: Các chất thuộc nhóm Iridoid, alcaloid, trong hoa có tinh dầu.

Công năng: Hoa có tác dụng tiêu đờm, trừ ho, thanh nhiệt, trừ thấp, lương huyết. Nhựa mủ có tác dụng tiêu viêm, sát trùng.

Công dụng: Vỏ thân cạo bỏ lớp bần, thái mỏng, sao thơm, sắc uống để nhuận tràng, xổ ra giun và trị thuỷ thũng. Hoa trị sốt, chữa ho, tiêu đờm. Lá giã nấu thành cao, đắp vào chỗ sầy da, chảy máu. Nhựa: Bôi trị các vết ghẻ lở, viêm tấy.

Cách dùng, liều lượng: Vỏ dùng để nhuận tràng 3-6g, để xổ 8-16g; Hoa: 12-20g.

Bài thuốc:

  • Nhuận tràng: Lấy 4-5 g vỏ thái mỏng, sao thơm, sắc với 200 ml nước, chia làm 3 lần uống trong ngày.
  • Chữa táo bón: Dùng 5-10 g vỏ đại thái mỏng, sao thơm, sắc với 200 ml nước, chia làm 3 lần uống trong ngày.

Hoặc: Vỏ đại 50 g, cám gạo 50 g, sao vàng, tán nhỏ rồi rây thành bột mịn, trộn với hồ làm viên 0,5 g. Người lớn dùng 15 viên mỗi ngày, trẻ em 5-9 tuổi uống 5 viên, 10-15 tuổi uống 10 viên. Chia thuốc uống làm 2 lần với nước đun sôi để nguội (không dùng nước chè).

  • Chữa chân răng sưng đau: Lấy 12-20 g vỏ rễ ngâm trong 200 ml rượu 25-35 độ trong khoảng 30 phút. Mỗi ngày ngậm 2 lần, không được nuốt. Chú ý không được dùng quá liền
  • Chữa viêm tấy, lở loét chai chân: Dùng nhựa cây đại bôi tại chỗ.
  • Chữa sai khớp, bong gân, mụn nhọt: Lấy lá đại giã nát đắp tại chỗ.
  • An thần, giảm huyết áp: Hoa đại khô thái nhỏ 100 g, hoa cúc vàng khô thái nhỏ 50 g, hoa hòe (sao vàng) 50 g, hạt quyết minh (sao đen) 50 Tất cả tán thành bột, chia thành gói 10 g. Mỗi ngày dùng 1-2 gói, hãm uống thay nước chè trong ngày.

Thuốc có tác dụng bảo vệ mao mạch, làm giảm nhẹ huyết áp, an thần, gây ngủ nhẹ.

Chú ý: Người đang bị tiêu chảy, có thai không được dùng.

Bệnh do Nấm Tảo

Bệnh toàn thân hay ở da do nấm thuộc họ phycomycetes.

  • MUCORYCOSE HAY ZYGOMYCOSE: bệnh nấm cơ hội do nấm thuộc họ Mucoraceae thuộc lớp Zygomycetes, loài Absidia, Rhizopus … . Tần suất mắc tăng từ khi có trị liệu bằng các thuốc ức chế miễn dịch. Hay gặp bệnh này trong các trường hợp giảm bạch cầu, nhiễm ceton do đái tháo đường, bệnh gan ác tính, ghép tạng, điều trị dài ngày bằng deferoxamin. Lây bệnh do hít phải hoặc ăn phải nấm, qua da (vết thương, vết xước) hay tĩnh mạch (đặt ống thông). Mầm bệnh hay khu trú trong các xoang mũi hay cánh mũi rồi từ đấy xâm nhập sang hố mắt, xoang tĩnh mạch hang và não (nhiễm nấm ở mũi-não). Có thể khu trú ở phổi và ở ruột. Có xu hướng gầy huyết khối. Chẩn đoán xác định bằng phát hiện mầm bệnh trong mẫu sinh thiết. Tiên lượng dè dặt. Điều trị bằng amphotericin B theo đường tĩnh mạch trong 10-12 tuần.
  • BỆNH DO NẤM TẢO DƯỚI DA: bệnh u hạt do Basidioboluss meristosporus; có các u dưới da, gặp ở trẻ nhỏ và vị thành niên các vùng nhiệt đới, nhất là châu Phi và châu Á.
  • RHINO-ENTOMOPHTHOMYCOSE: bệnh hiếm gặp, do Entomopthora coronata, có các tổn thương ở niêm mạc mũi, có thể lan tới hầu và họng.

Sacôm cơ vân ở trẻ em

Sacôm cơ vân là ung thư phần mềm hay gặp nhất ở trẻ em,đứng hàng thứ 3 trong số các u đặc ngoài sọ sau u nguyên bào thần kinh, u Wilm.

Lịch sử của bệnh, năm 1854 Weber đưa ra những mô tả sớm nhất bệnh sacôm cơ vân, năm 1937 Rakov cũng đã mô tả trong y vãn lịch sử các khối u cơ. Năm 1958 Horn và Enterline phân tích 4 tuyp dưới nhóm: Thể đổi hình, thể phôi thai, thể răng, thể chùm. Năm 1950 Stobbe và Dargeon đã xem xét liệu pháp tia xạ, năm 1959 D’ Angio và cộng sự đã nhận thấy tác động hợp lực của Actinomycin D và xạ trị đối với sacôm cơ vân.

Tại Mỹ, tỷ lệ mắc bệnh hàng năm là 4,3 trên một triệu trẻ em, ước tính 350 ca mới. Các nước châu Á có nguy cơ mắc bệnh thấp hơn so với phương tây. Tuổi mắc bệnh trung bình là 5, chiếm 2/3 được chẩn đoán dưới 6 tuổi. Bệnh có tỷ lệ nam/nữ là 1,4/1.

Yếu tố ung thư gia đình và các dị tật bẩm sinh: Có sự liên quan về gia đình giữa sacôm cơ vân với các sacôm khác và ung thư biểu mô tuyến vú. Sacôm xương phát triển như một u ác tính thứ 2 ở những bệnh nhân sacôm cơ vân chứng tỏ những ảnh hưởng về gen và điều trị.

Vấn đề di căn: u nguyên phát vùng đầu cổ di căn nhiều nhất đến hệ thần kinh trung ương, sau đó đến phổi, hạch lympho. u nguyên phát ở chi 60% di căn hạch, 46% di căn phổi, 35% di căn xương, 32% di căn hệ thần kinh trung ương, 17% di căn phần mềm, 10% di can gan. Tổn thương đường niệu dục 65% di căn hạch, 35% di căn phổi, 35% di căn gan, 28% di căn xương, 21% di căn tuỷ xương, 7% di căn thần kinh trung ương. Trong trường hợp có di căn xương và tuỷ xương tiên lượng rất xấu.

CHẨN ĐOÁN

Lâm sàng

Biểu hiện ban đầu hay gặp nhất là vùng đầu cổ, tiếp đến là vùng niệu dục, kế tiếp là chi. Khoảng 70% trẻ bị sacôm cơ vân lúc biểu hiện bệnh là 10 tuổi, đỈnh cao từ 2 đến 5 tuổi, trẻ dưới 2 tuổi thường có khuynh hướng bị bệnh ở giai đoạn sớm hơn.

U nguyên phát ở đầu cổ chiếm 35%-40% các trường hợp.

Khối u vùng hố mắt thường gây ra lồi mắt, phù kết mạc, đôi khi liệt vận nhãn, thường được chẩn đoán trước khi có di căn xa. Di căn hạch vùng rất hiếm gặp do hệ thống bạch huyết nghèo nàn.

Khối u ở vùng mũi hầu gây ra tắc nghẽn mũi, xoang, tiết dịch mủ bất thường, chảy máu cam, nuốt đau và khó. Khối u vùng thanh quản thường gây khàn giọng.

Các khối u gần sọ não có thể gây liệt thần kinh sọ não, đôi khi liệt nhiều dây chỉ ra sự lan rộng trực tiếp của bệnh về phía nền sọ. Đau đầu, nôn, tăng huyết áp cũng có thể xảy ra.

Khối u vùng đầu cổ ngoài các vùng trên thường gây đau, phát triển lan rộng về phía các tổ chức còn lại.

U thuộc hệ sinh dục tiết niệu chiếm 25% các trường hợp.

U bàng quang hay gặp ở trẻ dưới 4 tuổi, thường gây đái máu, bí tiểu do bít tắc, đôi khi có thể chảy dịch nhày máu bất thường, hay gặp dạng chùm nho.

U vùng tuyến tiền liệt biểu hiện là một khối lớn vùng chậu, đôi khi có đái buốt, đái rắt, và hiếm gặp hơn có thể gây táo bón. U có thể xảy ra ở trẻ nhỏ hoặc trẻ lớn hơn, cũng có khi xảy ra ở người lớn. Khối u bàng quang thường giới hạn tại vùng trong khi khối u ở tuyến tiền liệt có xu hướng di căn vào phổi, xương, tuỷ xương.

Khối u cần tinh hoàn thường gây đau. Có mối tương quan giữa nguy cơ di căn hạch sau phúc mạc và tuổi chẩn đoán bệnh, di căn rất ít gặp ở độ tuổi dưới 10, nhưng đối với trẻ lớn tỷ lộ di căn hạch lên đến trên 50%.

U vùng âm đạo thường gặp ở trẻ nhỏ, gây tiết dịch âm đạo bất thường. Mô bệnh học thường là thể chùm nho.

Khối u vùng cổ và thân tử cung thường gặp ở trẻ lớn hơn. Bệnh thường biểu hiện bởi một khối tổn thương kèm theo tiết dịch bất thường vùng âm đạo. Di căn hạch không thường gặp.

Sacôm cơ vân vùng chi, thân mình

Sacôm cơ vân vùng chi thường xảy ra ở độ tuổi đi học làm cho việc chẩn đoán bị chậm chễ. Sự xuất hiện một khối bất thường có thể có đỏ da tại vùng, đau, tăng nhạy cảm đau thường là những biểu hiện lâm sàng hay gặp. Khoảng 2/3 khối u vùng này là thể hốc. Di căn hạch gặp ở khoảng 1/2 số bệnh nhân.

Sacôm cơ vân ở thân mình: tiến triển của bệnh gần giống tổn thương ở chi, hiếm di căn hạch, dễ tái phát và di căn xa mặc dù đã được phẫu thuật rộng.

Các vị trí khác

Tổn thương trong lồng ngực, sau phúc mạc và trong khung chậu: Khối u có thể đạt tới một kích thước lớn trước khi được chẩn đoán vì ở sâu.

U vùng đáy chậu và quanh hậu môn ít gặp, lâm sàng biểu hiện giống như một ổ abces hay polyp, thường là Sacôm cơ vân thể hốc, rất hay di căn hạch.

Đường mật: Khối u vùng này hiếm gặp hơn u ở đáy chậu và quanh hậu môn. u thường gây ra vàng da tắc nghẽn, hay lan rộng vào gan, sau phúc mạc, phổi.

Chẩn đoán phân biệt

Chẩn đoán phân biệt phụ thuộc vào vị trí nguyên phát của tổn thương.

Khối u ở hố mắt cần phân biệt với viêm mô tế bào thị giác, u nguyên bào thần kinh di căn, u mạch máu. u thần kinh đệm thị giác, loạn sản sợi của xương chứng mô bào huyết X, u nguyên bào võng mạc, sacôm hạt, u lympho.

Khối u vùng mũi, thanh quản và xoang cạnh mũi phải chẩn đoán phân biệt với u hạt viêm, bệnh lympho, sacôm phần mềm khác, u xơ mạch vùng mũi thanh quản thiếu niên.

Khối u vùng vùng cổ cần phân biệt với u lympho, nang khe mang, các tổn thương viêm nhiễm, bệnh bạch cầu, sacôm mô thần kinh.

Khối u trong ổ bụng cần phân biệt với u Wilms, u nguyên bào thần kinh, u quái, u lympho, sacôm phần mềm khác, nang mạc treo ruột.

Sacôm cơ vân cạnh tinh hoàn cần phân biệt với u tinh, carcinoma phôi, u quái tinh hoàn, u lympho. Ngoài ra cần phân biệt với các khối u lành tính khác và tràn dịch tinh mạc, giãn tĩnh mạch thừng tinh.

Các tổn thương chi và thân mình cần phân biệt với sacôm phần mềm khác, u xương, sacôm thần kinh.

Trong bàng quang phải xem xét có phải u xơ thần kinh, u mạch máu, sacôm cơ trơn. Nếu ở trong cơ vân âm đạo cần phải loại trừ tổn thương lành tính.

Chẩn đoán mô bệnh học

Sacôm cơ vân được xếp vào nhóm các khối u có tế bào tròn, nhỏ của trẻ em. Trước đây Sacôm cơ vân được phân loại theo hệ thống của Horn và Enterline, với các thể như thể bào thai, chùm nho, hốc và đa hình thái.

Phân loại quốc tế hiện nay bao gồm:

Thể bào thai: Chiếm 2/3 các trường hợp Sacôm cơ vân trẻ em. Hình ảnh mô bệnh học là một khối u giàu mô đệm, thấy tế bào hình thoi, không thấy có hình ảnh hốc. Các biến thể của thể bào thai gồm thể chùm nho, thể tế bào hình thoi. Thể chùm nho có tiên lượng tốt, hay gặp ở bàng quang, âm đạo của trẻ nhỏ và vòm họng của trẻ lớn hơn. Thể tế bào hình thoi hay gặp ở vùng cận tinh hoàn, nhưng cũng có thể thấy ở đầu cổ, chi, ổ mắt, thường phát triển chậm hơn Sacôm cơ vân thể bào thai cổ điển và có tiên lượng đặc biệt tốt.

  • Thể hốc: mô bệnh học điển hình gồm các tế bào tròn nhỏ xếp dày đặc, có thấy hình ảnh hốc trên tiêu bản. Một biến thể là thể hốc đặc (các tế bào tròn nhỏ xếp dày đặc nhưng không có hình ảnh hốc). Thể hốc chiếm khoảng 20-30% các Sacôm cơ vân được chẩn đoán, tiên lượng xấu hơn thể bào thai.

Thể không biệt hoá có hình ảnh những tế bào tròn, lớn, nhân to. Thể này có tiên lượng xấu, chiếm khoảng 8% các trường hợp.

  • Thể đa hình chỉ gặp trong khoảng 1% trường hợp, tiên lượng xấu.

Các thể khác rất hiếm gặp.

Xét nghiệm cận lâm sàng

Các xét nghiệm cơ bản: Công thức máu, chức năng gan, thận, nồng độ canxi trong huyết thanh, chụp phổi.

Siêu âm ổ bụng rất có giá trị đối với các u vùng bụng, chậu, tìm kiếm di căn hạch sau phúc mạc, di căn các tạng trong ổ bụng.

Bệnh nhân có nghi ngờ di căn tuỷ xương cần được sinh thiết tuỷ xương.

Chụp xạ hình xương với Technetium – 99m (phương pháp có độ nhạy, độ đặc hiệu tương đối cao) phát hiện di căn xương.

Chụp cắt lớp vi tính: là một biện pháp rất có giá trị cho chẩn đoán và lập kế hoạch điều trị tia xạ. Đặc biệt tốt đối với các khối u ổ bụng, đường sinh dục tiết niệu, trung thất, đầu cổ.

Chụp cộng hưởng từ rất có giá trị đối với u vùng đầu cổ, chi, thân mình.

Chẩn đoán giai đoạn:

 Hệ thống xếp giai đoạn của nhóm các nhà ung thư trẻ em (Children’s Oncology Group) Dựa trên mức độ lan rộng của khối u (xâm lấn, di căn hạch, di căn xa) và khả năng cắt bỏ mà chia thành các nhóm về lâm sàng (Clinical group – CG)

CG Mức độ lan rộng của bệnh và kết quả phẫu thuật

I      A. U giới hạn tại vùng, khu trú trong cơ quan nguyên phát, cắt bỏ hoàn toàn

B. U còn giới hạn tại vùng, thâm nhiễm ra ngoài cơ quan nguyên phát, cắt bỏ hoàn toàn

II.    A. U còn giới hạn tại vùng, chưa di căn hạch, cắt bỏ phần lớn khối u, còn tổn thương trên vi thể.

B. Đã có di căn hạch vùng, cắt bỏ hoàn toàn.

C. Di căn hạch vùng, cắt bỏ được u nhưng còn tổn thương vi thể.

III    A. Có hoặc chưa di căn hạch, lấy bỏ được phần lớn khối u chỉ qua sinh thiết.

B. Có hoặc chưa di căn hạch, phẫu thuật lấy bỏ được > 50% khối u.

IV    Di căn xa

Xếp giai đoạn theo TNM

T (khối U)T1: u khu trú trong cơ quan nguyên phát

T2: u xâm lấn và/hoặc dính vào tổ chức xung quanh

a: u có đường kính không quá 5 cm

b: u có đường kính trên 5 cm

N (hạch) No: không có xâm lấn hạch vùng

N1: Xâm lấn hạch vùng trên lâm sàng

Nx: Không đánh giá được xâm lấn hạch trên lâm sàng

M (di căn xa) Mo: không có di căn

MI: Có di căn xa

Xếp giai đoạn theo vị trí u và TNM: đây là hệ thống xếp giai đoạn trước điều trị. rất có giá trị trong tiên lượng bệnh.

Vị trí u T Kích thước u N M
1 ổ mắt Đầu cổ *

Hệ niệu dục**

T1.T2 a hoặc b Mọi N MO
II Bàng quang, tiền liệt tuyến Chi

U vùng sọ cận màng não Vị trí khác ***

T1.T2 a NO, Nx MO
III Bàng quang, tiền liệt tuyến T1.T2 a N1 MO
Chi

U vùng sọ cận màng não Vị trí khác ***

T1.T2 b Mọi N MO
IV • Tất cả các vị trí T1.T2 a hoặc b No, N1 M1

* Không gồm các tổn thương cận màng não ** Không gồm u vùng bàng quang, tuyến tiền liệt *** Gồm u vùng thân, sau phúc mạc,…

 

ĐIỀU TRỊ:

Ba phương pháp chính điều trị Sacôm cơ vân trẻ em là phẫu thuật, xạ trị và hoá trị.

Điều trị phẫu thuật

Vai trò của phẫu thuật là:

– Chẩn đoán đầy đủ giải phẫu bệnh.

Cắt bỏ hoàn toàn khối u nguyên phát nếu có thể phẫu thuật triệt căn, nếu không thể thì phẫu thuật để giảm gánh nặng khối u tại chỗ.

Để xếp loại giai đoạn lâm sàng và đánh giá tiến triển của liệu pháp điều trị với phẫu thuật “ second-look”.

Giảm phát triển tại chỗ “ tái phát” hoặc điều trị di căn giúp cho cắt bỏ bằng phẫu thuật.

Khối u vùng đầu cổ rất khó có thể phẫu thuật triệt để do khối u thường tiếp cận các mạch máu, thần kinh lớn. Một số vị trí như bàng quang, âm đạo, đường mật, phẫu thuật rộng rãi cũng không được ủng hộ do gây mất chức năng quá lớn. Đối với các trường hợp u đáp ứng tốt với điều trị bằng hoá chất và tia xạ như u vùng ổ mắt, phẫu thuật cắt bỏ là không cần thiết.

Phẫu thuật đóng vai trò rất quan trọng trong điều trị các khối u vùng thân, chi. ở những vị trí này, sống thêm chỉ thực sự được cải thiện nếu lấy bỏ được hết tổn thương. Theo Chui và cs (The St Jude Children’ Research Hospital), bệnh nhân Sacôm cơ vân vùng thân với kích thước u trên 5 cm được phẫu thuật có tỷ lệ sống thêm 10 năm là 57% +/- 13%, so với 8% +/- 5% ở nhóm không phẫu thuật.

Phẫu thuật công phá u được thực hiện nhằm giảm tối đa thể tích u trong trường hợp không thể lấy bỏ u toàn bộ, sau đó dựa vào xạ trị và hoá trị để loại bỏ khối u còn sót lại.

Phẫu thuật Second look tiến hành nhằm mục đích: 1) Kiểm tra trên phương diện mô bệnh học đối với một khối u đã được loại bỏ hoàn toàn trên lâm sàng để đánh giá điều trị tiếp; 2) Lấy bỏ những tổn thương còn lại sau xạ trị, hoá trị; 3) Để giảm liều tia đối với những bệnh nhân thuộc nhóm III.

Nguyên tác xạ trị

Sacôm phần mềm được cho là nhạy cảm với tia xạ từ trước năm 1960 khi Dritschilo và. cs tiến hành điều trị tia xạ cho 27 trẻ em sacôm cơ vân và sacôm không biệt hoá đạt tỷ lệ kiểm soát tại vùng lên đến 96%. Cho tới nay xạ trị vẫn là một trong những vũ khí chính điều trị sacôm cơ vân. Xạ trị không những cho phép loại bỏ những tổn thương còn lại sau phẫu thuật đặc biệt đối với ung thư vùng đầu cổ, chậu, mà còn là biện pháp được lựa chọn trong điều trị triệu chứng. Đối với những tổn thương vi thể còn lại sau phẫu thuật, xạ trị liều 41 đến 45 Gy là đủ, nhưng nếu khối u còn sót về mặt đại thể thì xạ trị phải đạt tới liều 50 đến 54 Gy mới kiếm soát được bệnh. Liều tia được chia thành 180 – 200 cGy một ngày, đối với tổn thương có trường chiếu rộng có thể chia 150 cGy một ngày.

Các tác dụng phụ của tia xạ bao gồm những phản ứng cấp tính như đỏ da, sưng nề, tróc vảy vùng tia, biến chứng muộn thường gặp gồm giảm chức năng cơ quan, tổ chức hoặc bất thường trong phát triển. Để giảm tác dụng phụ của tia xạ, một số nghiên cứu mới đây gợi ý giảm liều tia trong một số trường hợp đặc biệt, chẳng hạn tổn thương ổ mắt có thể kiểm soát được với liều tia giảm tới 45 cGy. Một số kỹ thuật mới: chụp cất lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ hạt nhân góp phần giảm chiếu xạ vào tổ chức lành. Trẻ em dưới 3 tuổi tổng liều xạ không nên vượt quá 40 Gy.

Một số trường hợp đặc biệt như kích thước khối u lớn, u vùng ngực, chậu, chi, thân, saccôm cơ vân thể hốc, thể không biệt hoá nên được chỉ định tia xạ ngay cả khi phẫu thuật lấy bỏ được toàn bộ tổ chức u do có tỷ lệ tái phát cao. Bên cạnh chiếu xạ từ ngoài theo cách cổ điển, xạ trị áp sát cũng được cân nhắc cho một số trường hợp u nhỏ ở vùng đầu cổ, bàng quang, tiền liệt tuyến, âm đạo.

Nguyên tắc điều trị hoá chất

Sacôm cơ vân là một trong những loại ung thư đáp ứng tốt với hoá trị liệu. Các đơn hoá chất nhạy cảm và tỷ lệ đáp ứng là actinomycin-D 24%, cyclophosphamide 54%, vincristine 59%, doxorubicin 31%, Mitomycin 36%, VP-16 là 33%. Phối hợp đa hoá chất cho tỷ lệ đáp ứng cao hơn. Ifosfamide đơn thuần hay phối hợp với etoposide, doxorubicin chỉ ra có hiệu quả cao hơn trong việc kiểm soát các Sacôm cơ vân chẩn đoán mới cũng như tái phát. Một số phác đồ có Ifosfamide khác là VAI (Vincristine, actinomicine-D, ifosfamide), VIE (vincristine, ifosfamide, etoposide) thường được chỉ định trong các trường hợp có nguy cơ cao.

Gần đây hơn, các thử nghiệm lâm sàng đã chỉ ra vai trò hứa hẹn của irinotecan trong điều trị các Sacôm cơ vân có di căn ở thời điểm chẩn đoán, và hiệu quả của phác đồ VAC có kết hợp với topotecan trong điều trị các Sacôm cơ vân có nguy cơ trung bình. Trong một số thử nghiệm lâm sàng phase I, Paclitaxel và docetaxel sử dụng đơn hoá chất hay kết hợp cho kết quả đáng khích lệ trong điều trị các u đặc tái phát ò trẻ em trong đó có Sacôm cơ vân. Các phác đồ hay được áp dụng cho Sacôm cơ vân trẻ em là: Phác đồ VA, VAC, VAI.

Hoá chất trong vỏ điều trị tổn thương hệ thần kinh trung ương

Theo nghiên cứu của Viện nghiên cứu sacôm cơ vân quốc tế 35% những tổn thương sacôm cơ vân ở mũi hầu, khoang mũi, các xoang cạnh mũi, ống tai giữa và chân – bướm- khẩu cái, các hố thái dương có bằng chứng lan tràn trực tiếp vào màng não thời điểm chẩn đoán hoặc sau đó khoảng 5 tháng. Khoảng 90% số đó chết trong tình trạng tổn thương hệ thần kinh trung ương. Những bệnh nhân có xâm lấn trong sọ, di căn tuỷ sống, tế bào ung thư ở dịch não tuỷ, liệt dây thần kinh sọ hoặc huỷ xương nền sọ được điều trị bằng tia xạ trong sọ và hoá chất trong vỏ(hoá chất nội tuỷ). Hoá chất trong vỏ dùng Cytosine Arabinoside, Hydrocortisone, Methotrexat, Leucovorin dùng 3 ngày 1 lần cho đến khi hết tế bào ung thư trong dịch não tuỷ.

Điều trị cụ thể đối với từng vị trí

U vùng đầu cổ

Khối u vùng đầu cổ thường khó phẫu thuật rộng rãi, nhờ đáp ứng tốt với xạ và hoá trị. phẫu thuật sinh thiết được xem là đủ đối với ung thư ở mọt số vị trí. Vét hạch có hệ thống là không cần thiết vì tỷ lệ di căn hạch thấp, trừ trường hợp có di căn trên lâm sàng.

U vùng mắt, ổ mắt: Rất nhạy cảm với hoá, xạ trị nên phẫu thuật cắt bỏ thường không được chỉ định. Tia xạ với trường chiếu bao gồm toàn bộ khối u, liều tia được gợi ý nên là 45 – 50 Gy trong thời gian 5 – 6 tuần. Trong phác đồ điều trị hoá chất nên có vincristine, actinomycine-D.

Các vị trí cận màng não: Tổn thương thường lan rộng theo hướng phá huỷ các xương, dây thần kinh sọ não. Trước khi điều trị tia xạ cần phải lập kế hoạch chi tiết để u nhận được liều chiếu thoả đáng và hạn chế tổn thương các cơ quan lân cận. Để kiểm soát khối u, thể tích bia nên được mở rộng, liều chiếu tối thiểu là 50 Gy. Gần 1/2 các bệnh nhân nhóm này thuộc nhóm III (CGIII) do vậy điều trị hoá chất có vai trò đặc biệt quan trọng. Phác đồ hoá chất nên bao gồm vincistine, actinomycine D, doxorubicine.

Các u vùng đầu cổ khác: gồm tổn thương vùng tuyến mang tai, thanh quản, lưỡi, má, mũi, da đầu… Phẫu thuật triệt căn lĩ khi thực hiện được. Tia xạ co thể kiểm soát được khối u với trường chiếu đủ rộng và liều tia 45-50 Gy. Điều trị hoá chất với phác đồ phối hợp vincistine, actinomycine D, cyclophosphamide.

U hệ sinh dục tiết niệu

Khối u vùng cận tinh hoàn: Phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn thường được chỉ định. Vét hạch thường chỉ được chỉ định nếu nghi ngờ di căn qua các phương tiện chẩn đoán hình ảnh. Tỷ lệ sống thêm 5 năm tốt hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm bệnh nhân có hạch âm tính. Loại thể bào thai ở vùng này được kiểm soát tốt bằng hoá chất phác đồ Vincristine, actinomycine D.

Khối u vùng âm hộ, âm vật, tử cung: Phẫu thuật cắt tử cung, âm đạo, buồng trứng ngày càng được chỉ định hạn chế. Ung thư vùng này có thể đáp ứng đầy đủ với điều trị hoá chất tiền phẫu 4 đến 5 tháng giúp cho phẫu thuật bảo tồn được thực hiện dễ dàng hơn. Phẫu thuật Second-look được chỉ định trong trường hợp khối u còn lại nhiều sau phẫu thuật ban đầu và thất bại sau điều trị hoá Chất, tia xạ hoặc bệnh tiến triển sau điều trị hoá chất, tia xạ.

Khối u vùng hàng quang, tuyến tiền liệt: Điều trị đa phương pháp đã làm giảm đáng kể chỉ định phẫu thuật tàn phá. Phẫu thuật cắt bỏ được chỉ định trong trường hợp có thể bảo tồn được chức năng bàng quang, niệu đạo. cắt toàn bộ bàng quang và vét chậu trước chỉ được chỉ định cho các trường hợp không kiểm soát được bệnh ngay cả khi đã kết hợp với hoá chất, tia xạ. Tổn thương vùng tuyến tiền liệt, bàng quang, âm đạo, tử cung khi điều trị hoá chất phác đồ vincristine, actinomycine D, cyclophosphamide, doxorubicine, cisplatine cho kết quả sống thêm 5 năm không bệnh tốt hơn nhóm chỉ điều trị bằng vincristine, actinomycine D, cyclophosphamide (74% so với 58%).

U vùng thân, chi

Thân mình: Tổn thương vùng này được cho là không đáp ứng tốt với điều tri hoá chất, tia xạ, do vậy phẫu thuật là phương pháp điều trị tốt nhất. Khi không thể cất bỏ hoàn toàn khối u. kiểm soát tại vùng được quyết định nhờ xạ trị. Liều tia 40 Gv cho các trường hợp được xác định còn bệnh trên vi thể và 50 Gy cho các trường hợp còn u trên đại thể. Sacôm cơ vân thể hốc ở thân mình rất thường gặp và đáp ứng với hoá chất kém hơn thể bào thai, Sacôm cơ vân thể bào thai nên được chỉ định điều trị hoá chất. Việc lựa chọn phác đồ dựa vào giai đoạn bệnh, nhóm I điều trị phác đồ vincristine, actinomycine-D, nhóm II, III, IV điều trị kết hợp vincristine, actinomvcine-D. cvclophosphamide.

Chi: Phẫu thuật là chỉ định số một bởi tiên lượng phụ thuộc chủ yếu vào việc có lấy bỏ được hết tổn thương hay không. Có tới một nửa số trường hợp có di căn hạch, do vậy việc kiêm tra hạch vùng là cần thiết. Nếu có di căn hạch thể tích bia chiếu cần bao gồm cả vùng hạch di căn. Không chiếu xạ vào những vùng hạch không liên quan. Điều trị hoá chất được cân nhắc như Sacôm cơ vân 0 thân. Di căn hạch thượng đòn với tổn thương chi trên và hạch chậu hoặc hạch cạnh động mạch chủ đối với tổn thương ở chi dưới được xem là di căn xa.

Các vị trí khác

Sacôm cơ vân: ở vùng chậu, sau phúc mạc, tổn thương trong lồng ngực thường phát triển từ trung thất hoặc màng phổi xâm lấn rộng, phẫu thuật cắt bỏ thường khó thực hiện. Hoá chất và xạ trị đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát khối u.

Điều trị bệnh tái phát

Tình trạng tái phát: thời gian sống thêm trung bình sau tái phát là 38 tuần với giai đoạn I, 31 tuần với giai đoạn II, 23 tuần với giai đoạn III và 19 tuần với giai đoạn IV. Điều trị tích cực có thể kéo dài thời gian sống sót tuy nhiên khó lui bệnh trong các trường hợp đã dùng hoá trị liệu và không thể cắt bỏ được u.

Tái phát muộn theo tác giả Sutow nguy cơ tái phát muộn sau 2 năm xảy ra ở 7,5% bệnh nhân. Trong đó vùng đầu cổ là 14,1%, vùng chi là 11,9%, thân mình chiếm 5,9%. Giai đoạn I 4,2%, giai đoạn II 8,4%, giai đoạn III là 13,8% có tái phát sau 2 năm.

Tái phát tại chỗ: Phẫu thuật cắt bỏ tổn thương tái phát được ưu tiên cân nhắc. Điều trị phối hợp bằng tia xạ, hoá. chất là cần thiết trong một số trường hợp. Tuy nhiên cần đánh giá kỹ tình trạng bệnh ban đầu và khi tái phát, thời gian tái phát hay tiến triển, các phương pháp điều trị đã áp dụng. Theo Mazzoleni s và cs, thời gian trung bình từ thời điểm chẩn đoán đến khi tái phát là 17,8 tháng, phần lớn là tái phát tại chỗ (72%), tỷ lệ sống thêm chung 5 năm là 28,3% +/- 8,7%.

Tái phát lan tràn: Phẫu thuật cắt bỏ tổn thương di căn nếu có thể thực hiện cũng không đem lại lợi ích về thời gian sống thêm. Điều trị hoá chất liều cao kết hợp truyền tế bào nguồn cho kết quả không rõ ràng, Sacôm cơ vân kém nhạy cảm với tia xạ so với tế bào của bệnh bạch cầu và u nguyên bào thần kinh do vậy tia xạ toàn thân cho hiệu quả kém hơn trong việc kiểm soát tổn thương tái phát.

TIÊN LƯỢNG

Tiên lượng bệnh dựa vào các yếu tố sau:

Di căn: Có hay chưa có di căn xa, di căn xương và tuỷ xương tiên lượng rất xấu.

Vị trí: u vùng ổ mất, mi mắt, các u vùng đầu cổ không kể tổn thương cận màng não, các u hệ tiết niệu sinh dục không kể u vùng bàng quang, tuyến tiền liệt thuộc nhóm có tiên lượng tốt, trong đó tiên lượng tố nhất là u vùng ố mắt.

Khả năng cắt bỏ được khối u (trừ u vùng ổ mắt).

Mô bệnh học: Sacôm cơ vân thể bào thai và các biến thể có tiên lượng tốt hơn Sacôm cơ vân thể hốc và thể không biệt hoá.

Tuổi bệnh nhân.

Hội chứng căng thẳng (Burnout): Triệu Chứng và Dấu Hiệu

Hội Chứng Căng Thẳng là gì?

Mọi người đều trải qua cảm giác này vào một thời điểm nào đó trong đời. Cuộc sống của chúng ta trở nên bận rộn khi chúng ta đối mặt với các trách nhiệm hàng ngày, từ công việc, giúp đỡ người khác, đến việc chăm sóc gia đình. Đôi khi, chúng ta quá bận rộn và quên nghỉ ngơi. Đó là lúc hội chứng căng thẳng có thể xuất hiện.

Hội chứng căng thẳng là một dạng kiệt sức do cảm giác luôn bị quá tải. Nó xảy ra khi chúng ta trải qua quá nhiều sự mệt mỏi về cảm xúc, thể chất và tinh thần trong một khoảng thời gian dài. Trong nhiều trường hợp, hội chứng căng thẳng liên quan đến công việc của một người. Nhưng nó cũng có thể xảy ra ở các lĩnh vực khác trong cuộc sống và ảnh hưởng đến sức khỏe của bạn.

Hội chứng căng thẳng có thể do stress gây ra, nhưng hai tình trạng này không giống nhau. Stress xuất phát từ áp lực tinh thần và thể chất quá nhiều, cùng với quá nhiều yêu cầu về thời gian và năng lượng. Hội chứng căng thẳng là về sự thiếu thốn: thiếu cảm xúc, động lực hoặc sự quan tâm. Stress có thể làm bạn cảm thấy choáng ngợp, nhưng hội chứng căng thẳng khiến bạn cảm thấy kiệt quệ và cạn kiệt.

Tình trạng này không được chẩn đoán y tế. Nhưng hội chứng căng thẳng có thể ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất và tâm thần của bạn nếu bạn không công nhận hoặc điều trị nó.

Hội chứng căng thẳng giữ bạn lại không thể làm việc hiệu quả. Nó khiến bạn cảm thấy tuyệt vọng, hoài nghi và oán giận. Những tác động của hội chứng căng thẳng có thể gây hại cho cuộc sống gia đình, công việc và xã hội của bạn. Hội chứng căng thẳng lâu dài có thể làm bạn dễ bị cảm lạnh và cúm hơn.

triệu chứng lo âu
triệu chứng lo âu

Hội Chứng Căng Thẳng và Trầm Cảm

Hội chứng căng thẳng và trầm cảm có nhiều triệu chứng tương đồng, nhưng chúng là hai trạng thái khác nhau. Trầm cảm là một rối loạn tâm thần có thể ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của cuộc sống, bao gồm suy nghĩ, cảm xúc và thể chất, không nhất thiết chỉ giới hạn ở công việc hay các nhiệm vụ căng thẳng. Trong khi đó, hội chứng căng thẳng thường xuất hiện do sự kiệt sức liên quan đến công việc hoặc các áp lực lặp đi lặp lại trong thời gian dài. Cả hai đều cần được điều trị kịp thời, nhưng phương pháp điều trị có thể khác nhau.

Các Loại Hội Chứng Căng Thẳng

Có ba loại hội chứng căng thẳng phổ biến:

  1. Hội Chứng Căng Thẳng Gây Ra Do Làm Việc Quá Sức: Xảy ra khi bạn làm việc quá tải trong thời gian dài, không có thời gian nghỉ ngơi hoặc thư giãn.
  2. Hội Chứng Căng Thẳng Do Thiếu Động Lực: Khi bạn không cảm thấy động lực hay hứng thú với công việc, dẫn đến mất cảm giác hứng khởi hoặc ý nghĩa trong công việc.
  3. Hội Chứng Căng Thẳng Do Áp Lực Ngoại Cảnh: Thường do các yếu tố như xung đột với đồng nghiệp, môi trường làm việc căng thẳng hoặc không có sự hỗ trợ từ quản lý.

Các Giai Đoạn Phát Triển Hội Chứng Căng Thẳng

  1. Giai Đoạn Mật Ngọt: Bạn hứng khởi với công việc mới hoặc dự án mới, nỗ lực làm việc chăm chỉ và tràn đầy năng lượng.
  2. Giai Đoạn Căng Thẳng: Dần dần, công việc bắt đầu trở thành gánh nặng và sự mệt mỏi tích tụ.
  3. Giai Đoạn Chạm Đáy: Bạn cảm thấy kiệt sức, thiếu động lực và bắt đầu xa cách với công việc và đồng nghiệp.
  4. Giai Đoạn Hoàn Toàn Kiệt Quệ: Bạn mất cảm giác hứng thú hoàn toàn, có thể cảm thấy không thể tiếp tục công việc và rơi vào tình trạng lo lắng, trầm cảm.

Nguyên Nhân và Yếu Tố Rủi Ro của Hội Chứng Căng Thẳng

Các yếu tố gây hội chứng căng thẳng có thể đến từ nhiều nguồn khác nhau:

  • Công Việc Quá Tải: Làm việc quá nhiều giờ mà không có thời gian nghỉ ngơi.
  • Yêu Cầu Cao Từ Bản Thân: Bạn đặt ra các kỳ vọng không thực tế và không chấp nhận sai sót.
  • Môi Trường Làm Việc Kém: Thiếu sự hỗ trợ từ đồng nghiệp hoặc người quản lý.
  • Công Việc Lặp Lại, Đơn Điệu: Làm công việc mà không cảm thấy sự phát triển hay hứng thú.
  • Thiếu Thời Gian cho Cuộc Sống Cá Nhân: Mất cân bằng giữa công việc và cuộc sống, không có thời gian cho gia đình, bạn bè và sở thích.

Dấu Hiệu và Triệu Chứng của Hội Chứng Căng Thẳng

Những dấu hiệu phổ biến của hội chứng căng thẳng bao gồm:

  1. Cảm Giác Kiệt Sức Thể Chất và Tinh Thần: Luôn cảm thấy mệt mỏi, không muốn tiếp xúc xã hội.
  2. Giảm Động Lực và Hiệu Suất Làm Việc: Bạn làm việc kém hiệu quả, mất tập trung, và không muốn hoàn thành công việc.
  3. Xa Cách và Bi Quan Về Công Việc: Tránh xa đồng nghiệp, cảm giác thiếu ý nghĩa và mất đam mê.
  4. Các Vấn Đề về Sức Khỏe Thể Chất: Đau đầu, mất ngủ, và tăng nguy cơ mắc các bệnh liên quan đến hệ miễn dịch.
  5. Thay Đổi Tâm Trạng và Cảm Xúc: Dễ cáu gắt, lo âu, và có thể cảm thấy bất mãn với mọi thứ xung quanh.

Phòng Ngừa Hội Chứng Căng Thẳng

  1. Xác Định Giới Hạn và Nói “Không” Khi Cần Thiết: Đặt ra ranh giới cho bản thân để tránh công việc quá tải.
  2. Thực Hành Nghỉ Ngơi: Đảm bảo thời gian nghỉ ngơi trong và ngoài giờ làm việc.
  3. Xây Dựng Quan Hệ Đồng Nghiệp: Xây dựng mối quan hệ tốt với đồng nghiệp để có người hỗ trợ khi cần.
  4. Giảm Stress Bằng Cách Tập Thể Dục và Thư Giãn: Các hoạt động như yoga, thiền, và thể dục giúp giảm căng thẳng.
  5. Duy Trì Thói Quen Sinh Hoạt Lành Mạnh: Ăn uống lành mạnh, ngủ đủ giấc, và duy trì các hoạt động giải trí giúp cân bằng cuộc sống.

Biện Pháp Hỗ Trợ Phục Hồi Khi Đã Mắc Hội Chứng Căng Thẳng

Nếu bạn đã mắc hội chứng căng thẳng, việc phục hồi có thể đòi hỏi thời gian và sự hỗ trợ từ cả bản thân và người xung quanh:

  1. Tìm Sự Trợ Giúp Từ Chuyên Gia: Tham khảo ý kiến từ các chuyên gia tâm lý hoặc bác sĩ để nhận hỗ trợ phù hợp.
  2. Đánh Giá Lại Mục Tiêu Cá Nhân: Đặt ra những mục tiêu và kế hoạch khả thi hơn cho bản thân.
  3. Thay Đổi Thói Quen và Tăng Cường Nghỉ Ngơi: Tập trung vào các hoạt động giúp bạn thư giãn và tạo ra niềm vui.
  4. Chia Sẻ với Người Thân và Bạn Bè: Nói chuyện với người thân về những khó khăn của mình để nhận được sự hỗ trợ tinh thần.
  5. Xây Dựng Thói Quen Tích Cực: Tập trung vào những điều nhỏ bé mang lại niềm vui mỗi ngày, như đọc sách, đi dạo, hoặc học một kỹ năng mới.

Viêm mũi xoang cấp

VIÊM MŨI XOANG CẤP

I.  ĐẠI CƯƠNG:

  • Là quá trình viêm cấp xảy ra tại niêm mạc mũi.
  • Nguyên nhân:

– Do mũi: cảm cúm..

– Do răng: sâu răng, viêm nướu

  • Vi trùng thường gặp: Pneumococci, Hemophilus influenza, Streptococci tan huyết nhóm A , Staphylococci, Moraxella catarrhalis, yếm khí….

II.  CHẨN ĐOÁN:

  1. Lâm sàng:
  • Sốt, nhức đầu, đau tức vùng mặt.
  • Chảy mũi: lúc đầu mũi trong sau vàng xanh có mùi tanh có khi lẫn máu.
  • Nghet mũi: nghẹt cả 2 bên nhưng nghẹt nhiều ở bên viêm
  • Hắt hơi, mỏi mắt
  • Khám :
  • Niêm mạc mũi sung huyết, xuất tiết, khe giữa có nhầy và mủ
  • Tìm các điểm đau : . Điểm hố nanh: xoang hàm bị viêm

. Điểm Grunwald vị trí bờ trên trong hố mắt: xoang sàng viêm

. Điểm Ewing ở mặt trước xoang trán: xoang trán viêm

  1. Cận lâm sàng:
  • Nội soi mũi xoang: các lỗ thông xoang phù nề, xuất tiết.
  • X quang niêm mạc xoang có phản ứng viêm như dầy niêm mạc xoang hoặc mức khí dịch.
  • Công thức máu bạch cầu tăng nhẹ.

III . ĐIỀU TRỊ

-Tại chỗ: xông mũi (kháng sinh và corticoid), rửa mũi.

  • Thuốc xịt mũi: Otrivin 0,1% ngày 2 lần, lần 1 nhát.

Fluticasone ngày 2 lần, lần 2 nhát.

Nước biển sâu (Xisat, Sterima) xit rửa mũi.

  • Toàn thân :
    • Kháng sinh (dùng 1 trong các loại sau), thời gian điều trị 15 ngày

+ Amoxicillin + Acid Clavulanic (Augmentin, Curam) 1v x 3 – 2 lần / ngày

+ Nhóm Cephalosporine  – Cephadroxil 0,5g 2v x 2 uống/ ngày

  • Cefuroxim ( Zinnat, ceroxim ) 5g 1v x 2 uống/ ngày
  • Cefetamet 0,5g, Cefpodoxim 0,2g 1v x 2 uống/ ngày

+ Nhóm Macrolide: Rovamycine, Clarithromycine, Azithromycine

+ Nhóm Quinolon: Ciprofloxacin 0,5g 1v x 2 uống/ ngày

+ Metronidazole 250mg  2v x 2 uống/ ngày (khi có kị khí)

  • Kháng viêm: – Steroid (Medrol, prednisolon ), thốc xịt mũi

– Kháng viêm men (Alpha chymotripsin)

  • Kháng histamine: Ebastin 10mg 1v x 2 uống/ ngày

Fexofenadin 60mg 1v x 2 uống/ ngày Levocetirizin  1v uống/ ngày

  • Gỉam đau, hạ sốt: Paracetamol
  • Chống sung huyết, nghẹt mũi
  • Chọc rửa xoang hàm
  • Nhổ răng nếu viêm xoang do răng

Tài liệu tham khảo:

  1. Thực hành TMH – Võ Tấn – NXB Y Học 1982.
  2. Phác đồ điều trị bệnh tai mũi họng 2013 – Bệnh viện tai mũi họng

Bệnh Thiếu máu thiếu sắt – triệu chứng, điều trị

1. ĐẠI CƯƠNG

Khái niệm

Thiếu máu thiếu sắt là tình trạng thiếu máu xảy ra do cơ thể không đủ sắt đáp ứng nhu cầu tạo hồng cầu vì những nguyên nhân khác nhau.

Vai trò của sắt và nhu cầu sắt trong cơ thể

Sắt là một trong những chất vi lượng có vai trò quan trọng bậc nhất có mặ t trong hầu hết các tổ chức của cơ thể như: Trong hemoglobin (Hb), myoglobin và một số Sắt tham gia vào các quá trình chuyển hoá như vận chuyển oxy, tổng hợp DNA, vậ n chuyển electron…

Ở người bình thường, 90-95% lượng sắt trong cơ thể được tái sử dụng từ nguồn sắt do hồng cầu già bị phá hủy và giải phóng ra, có 5 – 10% (1 – 2mg) lượng sắt được bài tiết qua nước tiểu, mồ hôi, phân. Để bù lại lượng sắt mất cơ thể nhận thêm sắt từ thức ăn, quá trình hấp thu sắt diễn ra chủ yếu ở dạ dày, hành tá tràng và đoạn đầu hỗng tràng.

2. NGUYÊN NHÂN THIẾU SẮT

Không cung cấp đủ nhu cầu sắt

Do tăng nhu cầu sắt: Trẻ em tuổi dậy thì, phụ nữ thời kỳ kinh nguyệt, phụ nữ có thai, cho con bú…;

Do cung cấp thiếu: Ăn không đủ, ăn kiêng, chế độ ăn không cân đối, chế độ ăn uống của người nghiện rượu, người già…;

Do cơ thể giảm hấp thu sắt: Viêm dạ dày, viêm ruột; cắt đoạn dạ dày, ruột; Do ăn một số thức ăn làm giảm hấp thu sắt như tanin, phytat trong trà, cà phê.

Mất sắt do mất máu mạn tính

Loét dạ dày tá tràng biến chứng chảy máu, ung thư đường tiêu hóa , nhiễm giun móc, polyp đường ruột… ; viêm chảy máu đường tiết niệu; mất máu nhiều qua kinh nguyệt; sau phẫu thuật, sau chấ n thương, U xơ tử cung…;

Tan máu trong lòng mạch: Bệnh đái huyết sắc tố kịch phát ban đêm.

Rối loạn chuyển hóa sắt bẩm sinh (Hypotransferrinemia):

Cơ thể không tổng hợp được transferrin vận chuyển sắt. Bệnh rất hiếm gặp.

3. TRIỆU CHỨNG

Triệu chứng lâm sàng

Triệu chứng lâm sàng của thiếu máu thiếu sắt diễn biến từ từ qua 3 giai đoạn:

Giai đoạn 1: Chỉ giảm sắt dự trữ nên người bệnh chưa bị thiếu máu, thường có một số triệu chứng của nguyên nhân gây thiếu sắt

Giai đoạn 2: Thiếu máu và thể hiện là có cả triệu chứng của thiếu máu và thiếu sắt. Tuy nhiên, ranh giới giữa các giai đoạn không rõ ràng.

Giai đoạn 3: Đã cạn sắt dự trữ và giảm sắt vận chuyển, người bệnh chưa có biểu hiện rõ tình trạng thiếu máu, có triệu chứng của nguyên nhân gây thiếu sắt; bắt đầu có triệu chứng của thiếu sắt như: Mất tập trung, mệt mỏi…

Triệu chứng cơ năng:

Mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt khi thay đổi tư thế, tức ngực, giảm khả năng hoạt động thể lực và trí lực

Triệu chứng thực thể:

Da xanh xao, niêm mạc nhợt nhạt, lưỡi nhợt, nhẵn do mất hoặc mòn gai lưỡi, lông, tóc, móng khô dễ gãy.

Xét nghiệm

  1. Xét nghiệm xác định mức độ và tính chất thiếu máu: Số lượng hồng cầu, lượng huyết sắc tố và tỷ lệ hematocrit giảm, hồng cầu nhỏ, nhược sắc.
  2. Xét nghiệm đánh giá mức độ thiếu sắt: Sắt huyết thanh giảm, ferritin giảm, transferrin tăng; khả năng gắn sắt toàn thể tăng; độ bão hòa transferrin giảm.
  3. Một số xét nghiệm tìm nguyên nhân: Soi dạ dày, soi đại tràng, siêu âm ổ bụng, tím ký sinh trùng đường ruột (trứng giun móc trong phân); CD55, CD59 (chẩn đoán bệnh đái huyết sắc tố kịch phát ban đêm),…

4. CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán xác định:

Dựa vào

  • Triệu chứng lâm sàng;
  • Triệu chứng xét nghiệm:

+ Tổng phân tích tế bào máu: Thiếu máu hồng cầu nhỏ nhược sắc.

+ Sinh hóa máu: Ferritin < 30ng/mL và hoặc độ bão hòa transferrin < 30%.

Chẩn đoán nguyên nhân

Dựa vào thăm khám lâm sàng và các xét nghiệm để chẩn đoán nguyên nhân của thiếu  máu thiếu sắt là do giảm cung cấp sắt hay mất sắt do mất máu hoặc do các nguyên nhân phối hợp.

Chẩn đoán phân biệt

a. Thalassemia:

Người bệnh có biểu hiện thiếu máu từ nhỏ, có thể trong gia đính có người bị bệnh Thường có triệu chứng hoàng đảm, lách to, gan to.

Xét nghiệm: Sắt huyết thanh bình thường hoặc tăng; ferritin có thể là bình thường, nhưng phần lớn là tăng và càng về sau càng tăng; transferrin bình thường hoặc giảm; độ bão hòa transferrin bình thường hoặc tăng; khả năng gắn sắt toàn thể bình thường; bilirubin gián tiế p thường tăng; có thể có thành phần huyết sắc tố bất thường.

b. Thiếu máu trong viêm mạn tính:

Lâm sàng : Có tình trạng viêm mạn tính như : Viêm đa khớp dạng thấp, lao, lupus…

Xét nghiệm: Sắt huyết thanh giả m , ferritin tăng, transferrin bình thường, độ bão hòa transferrin bình thường hoặc giảm , khả năng gắn sắt toàn thể tăng , tốc độ máu lắng tăng; protein phản ứng (CRP) tăng.

c. Thiếu máu trong suy dinh dưỡng:

Lâm sàng: Tình trạng gầy, yếu, chậm phát triển thể chất (đối với trẻ em). Có nguyên nhân dẫn đến suy dinh dưỡng như đói ăn, nhịn ăn trong thời gian dài.

Xét nghiệm: Thiếu máu hồng cầu nhỏ, protein huyết thanh giảm.

5.  ĐIỀU TRỊ

5.1. Nguyên tắc điều trị

  • Hạn chế truyền máu, chỉ truyền máu trong trường hợp thiếu máu nặng, mất bù .
  • Bổ sung các dạng chế phẩm sắt bằng truyền tĩnh mạch hoặc dung dịch uống, viên nén, khuyến khích sử dụng thuốc bổ sung sắt dạng uống . Chỉ định sử dụng sắt đường truyền tĩnh mạch trong các trường hợp sau:

+ Thiếu máu nặng, rất nặng;

+ Cơ thể không hấp thu được sắt khi dùng dạng uống: Cắt đoạn ruột , dạ dày, bệnh bẩm sinh;

+ Thiếu máu trong khi bệnh mạn tính hoặc viêm nhiễm đang tiến triển.

  • Giai đoạn sớm khi mới thiếu sắt chưa thiếu máu: Bổ sung sắt qua thức ăn và uống các chế phẩm chứa sắt.
  • Thời gian bổ sung sắt : Kéo dài , nên tiếp tục bổ sung sắt thêm ba tháng sau khi lượng huyết sắc tố trở đã về bình thường.
  • Phối hợp với điều trị nguyên nhân : Cần tìm được nguyên nhân gây thiếu sắt để điều trị đồng thời với điều trị thiếu máu thiếu sắt.

5.2. Các chế phẩm thuốc bổ sung sắt

  • Dạng uống:

+ Ferrous sulfate; ferrous gluconate; ferrous fumarate;

+ Liều lượng: 2mg sắt/kg/ngày;

+ Thời gian dùng thuốc: 6 tháng đến 12 tháng.

Nên bổ sung thêm vitamin C hoặc uống thêm nước cam, chanh để tăng khả năng hấp thu sắt.

Lưu ý : Thuốc hấp thu tốt nhất khi uống vào lúc đói , tuy nhiên nếu bị kích  ứng dạ dày thì có thể uống trong lúc ăn . Phân có màu đen , táo (không phải do xuất huyết tiêu hóa).

  • Dạng truyền tĩnh mạch:

+ Iron sucrose; Iron dextran;

+ Cách tính liều lượng thuốc bổ sung sắt dạng tiêm:

Tổng liều (mg) = P (kg) x (Hb đích (G/L) – Hb thực (G/L)) x 0,24 + 500 mg

  • P: trọng lượng cơ thể (kg);
  • Hb: nồng độ huyết sắc tố (G/L).

5.3. Điều trị nguyên nhân

Phải chẩn đoán và điều trị nguyên nhân gây thiếu sắt một cách triệt để, tránh gây thiếu sắt tái phát.

6. PHÒNG BỆNH

Bổ sung sắt trong suốt thời kỳ mang thai.

Thực hiện chế độ ăn cân đối giàu sắt, vitamin như thịt màu đỏ (thịt bò , thịt trâu…), hải sản, thịt gia cầm, trứng, bột bánh mí, đậu, lạc, các loại rau xanh đậm như rau ngót, dền, muống,… Tăng hấp thu sắt bằng uống nước hoa quả như cam, chanh khi ăn thức ăn nhiều sắt.

Không nên uống trà , cà phê ngay sau ăn.

Nên nuôi trẻ bằng sữa mẹ hoặc sữa bổ sung sắt dành cho trẻ trong năm đầu đời, ví sắt trong sữa mẹ được hấp thu hơn sữa bột.

Bệnh não do gan (bệnh não cửa – chủ)

Tên khác: bệnh não cửa – chủ, bệnh não cửa – đại tuần hoàn, hôn mê gan.

Định nghĩa

Hội chứng thần kinh thứ phát của suy gan nặng và I hoặc của dòng máu qua hệ cửa-chủ.

Căn nguyên

Máu theo tĩnh mạch cửa tối gan không được nhu mô gan khử độc. Trong máu có các chất làm rối loạn chuyển hoá của hệ thần kinh trung ương, nhất là ammoniac, các mercaptan, acid gamma amino butyric (GABA) và một số acid amin có nhân thơm. Ammoniac huyết tăng có lẽ là một trong những nguyên nhân chính làm rối loạn hoạt động của não mặc dù không phải lúc nào cũng phản ảnh đúng tình trạng lâm sàng.

  • Các bệnh mạn tính: xơ gan, viêm gan mạn tính hoạt động, khối u ác tính di căn ở gan.
  • Yếu tố phát động: các yếu tố sau đây làm bệnh phát triển nhanh ở người bị xơ gan và người mang nỗì thông cửa-chủ: ăn nhiều protein, xuất huyết tiêu hoá (100ml = 14 – 20 g protein), dùng nhiều lợi tiểu, kali huyết hạ, thuốc hướng thần (thuốc phiện, benzodiazepin, barbiturat) hoặc thuốc độc với gan, chấn thương, phẫu thuật, thiếu oxy, nhiễm khuẩn, tiêu chảy, chọc hút quá nhiều dịch cổ trướng.
  • Bệnh cấp: viêm gan virus tối cấp hoặc nhiễm độc, ngộ độc phospho, tetrachlorur carbon, amanit, ngộ độc thuốc.
  • Nối thông cửa-chủ hay cửa-đại tuần hoàn.

Triệu chứng

RỐI LOẠN THẦN KINH: có đặc điểm hay thay đổi và đa dạng. Có nhiều giai đoạn:

  • Giai đoạn I: “bắt chuồn chuồn” hoặc chi trên có các cử động giống như chim vẫy cánh nếu giữ cho hai bàn tay nằm ngang. Ngoài ra có lơ mơ, rối loạn nhân cách, rối loạn giấc ngủ, vật vã hoặc ám ảnh.
  • Giai đoạn II: lú lẫn nhẹ, rối loạn hành vi.
  • Giai đoạn III hay tiền hôn mẽ: rối loạn ý thức, lú lẫn nặng, tinh thần chậm chạp, rối loạn ngôi ngữ, khó nói, co giật, sững sờ.
  • Giai đoạn IV hay hôn mê gar : trạng thái hôn mê, mất trương lực cơ và mất phản xạ toàn thân trước khi chết.

HƠI THỞ CÓ MÙI (“FOETOR HEPATICUS”): hơi thở có mùi của mercaptan.

Xét nghiệm cận lâm sàng

  • Ammoniac máu: thường tăng nhưng không tỷ lệ với mức đỏ nặng. Phải định lượng ammoniac trong máu động mạch.
  • Dấu hiệu suy tế bào gan: albumin huyết thấp, prothrombin thấp (không tăng lên khi dùng vitamin K), urê và cholesterol huyết giảm. Bilirubin, transaminase và đôi khi phosphatase kiềm trong máu tăng.
  • Rối loạn nước-điện giải: hay gặp nhiễm kiềm có hạ kali huyết. pC02 hạ thấp.
  • Dịch não tuỷ: bình thường, đôi khi có glutamin tăng.

Điện não dồ: hoạt tính điện giảm cho đến khi xuất hiện sóng delta.

Chẩn đoán

CG các rối loạn thần kinh thay đổi và đa dạng, rối loạn điện não đồ, suy tế bào gan, ammoniac huyết cao. Tuy nhiên, không có triệu chứng nào là thật sự đặc hiệu.

Chẩn đoán phân biệt: các triệu chứng thần kinh cần phân biệt với do ngộ độc rượu cấp, cuồng sảng do rượu (rối loạn tâm thần-vận động, hoang tưởng nhẹ), ngộ độc thuốc phiện, barbituric và thuốc an thần, hội chứng Korsakoff, hạ đường huyêt, tụ máu dưới màng cứng ở ngườ’ nghiện rượu, vièm màng não.

Tiên lượng: thường có kết quả khi điều trị ở giai đoạn cấp. Giai đoạn III hoặc viêm gan tối cấp có tiên lượng xấu. Bệnh nhân bị suy gan nặng thường chết trong cơn hôn mê gan.

Điều trị

BỆNH NÃO CẤP

  • Ngừng hoàn toàn cung cấp protein qua thức ăn. Ngừng tất cả các thuốc không cần thiết, nhất là các thuốc hướng thần.
  • Thụt tháo nhiều lần.
  • Làm sạch ống tiêu hoá bằng neomycin (uống 4 g/ngày) hay gây tiêu chảy thẩm thấu bằng lactulose (uống 40 – 150 g/ngày) hoặc lactitol. Có thể dùng lactulose theo dạng thụt (100- 200 g/1). Kết hợp neomycin + lactulose còn bàn cãi nhưng có thể có tác dụng đối với một số trường họp chỉ trơ với một thuốc.
  • Điều chỉnh rối loạn nước-điện giải, nhất là hạ kali huyết và nhiễm kiềm chuyển hoá. Có thể bị hạ đường huyết nặng, nhanh, thường không có triệu chứng, cần truyền dung dịch
  • Nên hút dạ dày liên tục trong trường hợp xuất huyết đường tiêu hoá trên.

BỆNH NÃO MẠN TÍNH

  • Hạn chế cung cấp protein hàng ngày ở mức 30-40 g, chia làm 4 lần. Nên dùng protein thực vật hơn là protein động vật.
  • Lactulose (uống 10-30g/ngày, chia làm 3-4 lần) hoặc lactitol (10-30g/ngày) nhằm gây tiêu chảy thẩm thấu vừa phải và bệnh nhân chịu đựng được.
  • Ghép gan: chỉ định đối với các trường hợp điều trị nội khoa không có kết quả.

Tại Sao Mật Độ Vú Lại Quan Trọng

Tôi nghĩ mình đang làm mọi thứ đúng. Tôi chưa bao giờ bỏ lỡ một lần chụp mammogram hàng năm. Tôi thực hiện tự kiểm tra, ăn uống lành mạnh, và không có yếu tố nguy cơ nào được biết đến với ung thư vú. Tuy nhiên, một ngày nọ, tôi cảm thấy có một khối u. Tôi không quá lo lắng. Gần đây tôi đã có một lần chụp mammogram “bình thường”, không phát hiện gì. Sau đó, tôi được gửi đi chụp mammogram chẩn đoán, nhưng cũng không phát hiện được gì. Nhưng một siêu âm vào cùng ngày đã tiết lộ tin tức đau lòng: tôi mắc ung thư vú. Tại sao nó không hiện trên các bức ảnh mammogram? Lúc đó, tôi được thông báo rằng tôi có vú cực kỳ dày và khối u không nhỏ, không phải giai đoạn đầu đã bị che khuất bởi mô dày. Tôi chưa bao giờ được thông báo rằng mình có vú dày, chưa bao giờ được biết rằng mật độ vú làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú, chưa bao giờ được biết rằng mật độ vú làm giảm hiệu quả của mammogram, và thật không may, chưa bao giờ được thông báo rằng có các công cụ sàng lọc bổ sung có thể phát hiện ung thư của tôi ở giai đoạn sớm hơn.

Mammography hiệu quả hơn trong việc phát hiện ung thư ở một số phụ nữ hơn những người khác. Đối với phụ nữ có vú dày, ung thư thường phát triển mà không bị phát hiện trên mammogram và do đó, có thể cần thêm sàng lọc.

Thông tin chính:

  • Mô vú dày là phổ biến: 40% phụ nữ từ 40 tuổi trở lên có vú dày.
  • Mật độ vú được xác định qua mammogram của phụ nữ và được mô tả như một trong bốn loại tùy thuộc vào lượng mô vú so với mỡ trong vú.
  • Ung thư có khả năng phát triển gấp bốn lần ở phụ nữ có vú cực kỳ dày so với phụ nữ có vú mỡ.
  • Mặc dù mammograms phát hiện một số ung thư không thấy trên các bài kiểm tra sàng lọc khác, nhưng trong các vú dày, mammograms có thể bỏ sót tới 40% các ung thư hiện có.
  • Trong các vú dày, các bài kiểm tra sàng lọc khác, chẳng hạn như siêu âm hoặc đặc biệt là MRI vú, bên cạnh mammography, tăng cường đáng kể khả năng phát hiện ung thư vú giai đoạn sớm.

Mật độ vú có ý nghĩa gì?

Mật độ vú làm tăng khả năng phát triển ung thư vú và nguy cơ ung thư đó bị bỏ lỡ bởi mammography.

Mô vú dày xuất hiện như màu trắng trên mammogram, trong khi mô mỡ có màu xám tối. Thật không may, ung thư cũng hiển thị như màu trắng trên mammogram. Nếu có nhiều mô dày trên một bức ảnh mammogram, ung thư có thể “ẩn nấp” giữa các mô dày. Điều này đúng ngay cả khi mammogram được thực hiện bằng 3D/tomosynthesis. Tìm kiếm ung thư trong một vú dày đã được so sánh với việc tìm một quả cầu tuyết trong một cơn bão tuyết.

Trong các vú dày, một mammogram “bình thường”, “tiêu cực” hoặc “benign” không nhất thiết có nghĩa là ung thư không có mặt. Bất kể mammogram cuối cùng của bạn gần đây như thế nào, một khối u hoặc bất kỳ thay đổi nào trong vú của bạn nên được báo cho nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn.

Ngoài việc ẩn giấu ung thư, mật độ vú cũng là một trong nhiều yếu tố nguy cơ đã biết đối với ung thư vú. Mật độ mô vú càng lớn, nguy cơ phát triển ung thư vú càng cao.

Mật độ vú được xác định như thế nào?

Khi bạn thực hiện mammogram, mật độ vú của bạn sẽ được xếp hạng vào một trong bốn loại:

  • Loại A – Mỡ
  • Loại B – Các vùng mô dày rải rác
  • Loại C – Dày không đồng nhất
  • Loại D – Cực kỳ dày

Các vú thuộc loại C – Dày không đồng nhất, hoặc loại D – Cực kỳ dày, được coi là “vú dày”.

Làm thế nào để biết tôi có vú dày không?

Thông thường, thông tin này sẽ được cung cấp cho bạn bởi nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn, người đã nhận thông tin này từ cơ sở thực hiện mammogram của bạn. Nó cũng có thể được bao gồm trong bức thư bạn nhận được sau khi thực hiện mammogram. Nhiều tiểu bang (38 tiểu bang và Quận Columbia) hiện nay có luật yêu cầu một mức độ thông tin về mật độ vú được bao gồm trong bức thư mà phụ nữ nhận được sau khi thực hiện mammogram. Tuy nhiên, các luật này khác nhau giữa các tiểu bang. Để tìm hiểu yêu cầu báo cáo ở tiểu bang của bạn, vui lòng xem bản đồ lập pháp trên DenseBreast-info.org.

Việc phát hiện sớm rất quan trọng, vì vậy hãy là người bảo vệ thông tin cho chính mình. Tất cả phụ nữ nên biết mật độ vú của họ và các yếu tố nguy cơ cá nhân, thảo luận về lợi ích và rủi ro của việc sàng lọc bổ sung với chuyên gia chăm sóc sức khỏe của họ, và tiến hành sàng lọc bổ sung nếu phù hợp với họ, để đảm bảo có thể chẩn đoán ở giai đoạn sớm nhất có thể.

Kháng sinh Nhóm Tetracyclin (Cyclin)

Nhóm tetracyclin hay cyclin khác nhau đều có một phổ tác dụng kháng khuẩn, nhưng một số dẫn chất được hấp thụ tốt hơn qua đường tiêu hoá so với chất khác, các thuốc nhóm tetracyclin có tác dụng kìm hãm vi khuẩn và không diệt trùng; chúng được phân bổ tốt trong mô và tế bào, điều này làm cho chúng tác dụng lên các chủng vi khuẩn phát triển nội tế bào. Một quá trình đa kháng thuốc do plasmid đã làm giảm số mầm bệnh nhậy cảm với tetracyclin trong những năm gần đây; các tetracyclin xâm nhập vào bên trong các vi khuẩn, gắn vào các thụ thể của tiểu thể 30S của ribosom và ức chế sự tổng hợp protein của vi khuẩn; việc sử dụng rất rộng rãi nhóm tetracyclin và việc thêm chúng vào thức ăn gia súc đã làm cho nhiều chủng vi khuẩn trở nên đề kháng và thường là đề kháng chéo với các aminosid, sutfamid và chloramphemicol.

Phổ kháng khuẩn

Các chủng thường nháy cảm:

Brucella, Franciselia tularensis, Pasteurella,  Chlamydiae, Mycoplama pneumoniae, Ricketsiae, Neisseria gonorrhoeae, N.meningitidis (kém thấm qua màng não trong bệnh viêm màng não), Vibrio cholerea, Listeria, Treponema pallidum, Haemophilus influenzae, Balantidium cọli, Actinomyces.

Các chủng không thường xuyên nhậy cảm, liên cầu khuẩn nhóm A,C,G; phế cầu khuẩn, tụ cầu khuẩn, Escherichia coli, Salmonella, Shigella, Klebsiella, Clostridium,     Bacteroides, Legionella.

Các chủng đề kháng: Liên cầu khuẩn nhóm B và D, Enterobacter, Serratia, Proteus, Seratia marescens,       Providencia, Pseudomonas, Mycobacterium.

Các chế phẩm

Các kháng sinh nhóm tetracyclin tổng hợp được phân biệt với tetracyclin chiết xuất (loại cổ hơn) bởi một số tính chất:

Hấp thụ tôt hơn ở đường tiêu hoá, từ đó giảm được liều dùng và có thời gian bán thải huyết tương dài hơn.

Phân bổ trong mô tốt hơn nhờ có tính tan trong mỡ.

Do sự thải trừ qua đường tiêu hoá trội hơn, nên theo lý thuyết thì không cần giảm liều dùng khi bị suy thận. Tuy vậy, cần tránh cho tiêm tĩnh mạch doxycyclin do có polyvidon trong dung dịch tiêm.

Chỉ định

Nhiễm trùng cơ quan sinh dục, các bệnh lây truyền qua đường tình dục do Chlamydiae, mycoplasm (Ureaplasma), lậu cầu khuẩn nhạy cảm: viêm niệu quản, viêm tiền liệt tuyến, viêm vòi trứng, viêm cơ vòng trực tràng, viêm tinh hoàn-mào tinh.

Giang mai khi dị ứng với penicillin

Các bệnh nhiễm khuẩn: do Borrelừi, ào Brucella, do Pasteurella, do ricketsia, do Yersinia.

Nhiễm trùng cấp đường hô hấp: ngoại trừ viêm phổi do mycoplasma, bệnh sốt vẹt và sốt Q là những bệnh được coi tetracyclin là kháng sinh được chọn lựa, thuốc này đã bị nhiều chủng đề kháng (5-10% phế cầu khuẩn, 25% liên cầu nhóm A beta – tan huyết); các tetracyclin nói chung không thích hợp để điều trị các bệnh nhiễm trùng do tụ cầu.

Trứng cá nhiễm trùng: tetracyclin có hiệu quả với liều thấp trong trị liệu dài để ức chế hoạt động của một số vi khuẩn ngoài da.

Các bệnh do xoắn khuẩn: ngay cả nếu điều trị sớm, tetracyclin cũng không có tác dụng chắc chắn.

Bệnh amip đường ruột: phối hợp với metronidazol khi riêng thuốc này không hiệu quả.

Bệnh tả: để giảm ỉa chảy và rút ngắn thời kỳ đào thải phẩy khuẩn tả trong phân.

Nhiễm trùng ruột non.

Cơn sốt rét (phối hợp với quinin).

Thận trọng

Uống viên nén bằng một cốc nước.

Sữa và các sản phẩm sữa, thuốc kháng acid, các muôi sắt hay calci làm giảm mức hấp thụ tetracyclin.

Giảm liều khi bị suy thận (nguy cơ tích tụ).

Trong khi điều trị, người bệnh cần tránh ra nắng (nguy cơ nhậy sáng của da).

Không dùng các chế phẩm quá hạn (nguy cơ hội chứng về thận kiểu Fanconi và tổn thương da kiểu lupus ban đỏ rải rác).

Cho dùng cẩn thận khi bị loét tá tràng, nhược cơ, cường năng tuyến giáp.

Tránh dùng tetracyclin thiếu cân nhắc cho các nhiễm trùng nhẹ do dễ tạo thuận lợi cho các chủng đề kháng xuất hiện.

Chống chỉ định

Đã bị dị ứng với tetracyclin.

Trẻ em < 8 tuổi: nguy cơ rối loạn tạo xương và làm sẫm màu răng vinh viễn.

Bệnh lý về thận: nguy cơ làm nặng thêm suy thận.

Thiểu năng tế bào gan.

Có thai (nguy cơ độc với bào thai) và cho con bú (chuyển qua sữa mẹ).

Tác dụng phụ

Chán ăn, buồn nôn, nôn, ỉa chảy do kích ứng (không có máu và bạch cầu trong phân).

Viêm ruột do tụ cầu: do tăng sinh tụ cầu kháng thuốc, có thể là nặng; ỉa chảy có máu và bạch cầu trong phân.

Viêm đại tràng giả mạc do bội nhiễm Clostridium difficile hay do các chủng kháng thuốc khác, sốt, ỉa chảy, có bạch cầu và giả mạc trong phân.

Bội nhiễm nấm Candida: viêm âm đạo, viêm dạ dày, bệnh nấm Candida đường ruột, hay nhận thấy ở người bệnh có tình trạng chung xấu.

Nhạy sáng: phơi nắng có thể gây bỏng da và nhiễm sắc tố móng tay.

Chậm phát triển xương và làm xỉn răng vĩnh viễn ở trẻ em dưới 8 tuổi.

Nhiễm độc gan: vàng da, gan nhiễm mõ, được nhận thấy với liều cao, đặc biệt là khi có thai.

Nhiễm độc thận: các thuốc nhóm tetracyclin, nhất là doxycyclin tích tụ trong máu khi bị suy thận và có thể gây nên nhiễm toan do thận và làm nặng thêm tổn thương ở thận.

Phản ứng dị ứng (hiếm khi): ngứa, mẩn da, phù Quincke, viêm lưỡi, (lưỡi sẫm màu), sốt, tăng bạch cầu ưa eosin.

Rối loạn tiền phòng: chóng mặt, buồn nôn.

Tãrìg áp lực nội sọ nhẹ (giả u não)

Tương tác: với các thuốc kháng acid dạ dày, các chế phẩm sữa, các muôi sắt, thuốc nhuận tràng có magiê, các muối calci (tạo ra các hợp chất không tan và giảm sự hấp thụ tetracyclin ở đường tiêu hoá); với nhóm penicillin (tetracyclin có thể ảnh hưởng lên tác dụng diệt khuẩn của penicillin, nên tránh phối hợp), với các barbituric, phenytoin, cacbamazepin (giảm nồng độ tetracyclin phối hợp); tăng tác dụng của thuốc uống chống đông máu do thay đổi hệ vi khuẩn của ruột.

CÁC TETRACYCLIN CHIẾT XUẤT Oxytetracyclin

Innolyre ® (Innotech) [thuốc nhỏ mắt]

Posicycline ® (Alcon) [thuốc nhỏ mắt] Terramycine ® (Pfizer)

Hấp thụ đường tiêu hoá: 60-80%

Thời gian bán thải huyết tương: 6-10 giờ

Theo đường uống:

Người lớn: 1,5-2g/ngày chia 2-4 lần nên uống ngoài bữa ăn

Trong bệnh trứng cá, 750mg/ngày trong 10-15 ngày, liều duy trì 250mg/ngày.

Bệnh do lậu cầu: liều duy nhất 1,5g rồi 0,5g cách quãng 6h tới tổng cộng 9g

Theo đường tiêm bắp sâu:

Người lớn: 250-500mg/ngày chia 1*2 mũi tiêm.

Trẻ em trên 8 tuổi: 125-250 mg/ngày.

Tetracyclin (chlorhydrat) Hexacyclin ® (Diamant) Tetracyclin – tên thông dụng Tétramig ® (Biogalénique)

Hấp thụ đường tiêu hoá: 70%

Theo đường uống: người lớn: 1- 2g/ngày chia 2-4 lần (tối đa 4g/ngày)

Trẻ em >                   8 tuổi:          25-

50mg/kg/ngày chia 2-4 lần.

TETRACYCLIN BÁN TổNG Hộp

Doxycyclin

DoxylOO ® (Elerté)

Doxycline ® Plantier (Asta) Doxycyclin – tên thông dụng Doxygram ® (Pharma 2000) Doxylets ® (Galephar)

Granudoxy ® (P. Fabre) Monocline ® (Doms – Adrian) Spanor ® (Biothérapie)

Tolexine ® (Biorga)

Vibramycine ® (Pfizer) Vibraveineuse ® (Pfizer)

Hấp thụ đường tiêu hoá: 90-100%

Thời gian bán thải huyết tương: 12-22 giờ.

Liên kết với protein huyết tương: 80 90%

Không cần giảm liều khi suy thận Theo đường uống:

Người lớn: 200 mg/ngày uống 1 lần trong bữa ăn.

Trẻ em trên 8 tuổi: 4mg/kg/ngày.

Theo truyền tĩnh mạch chậm (tối thiểu 60 phút):

Người lớn: 200mg trong ngày đầu, những ngày sau 100mg

Trẻ em trên 8 tuổi: 4 mg/kg/ngày đầu rồi 2mg/kg các ngày tiếp sau

Các liều này được cho dùng trong 1-2 lần truyền mỗi ngày, cách quãng 8 giờ.

Lymecyclin

Tétralysat ®(Galderma)

Liều dùng uống 600mg/ngày. Metacyclin (methylenecyclin)

Lysocline ® (Parkes – Davis) [+ lysozyme]

Physiomycine ® (Laphal)

Thời gian bán thải huyết tương: 14-18 giờ

Liên kết với protein huyết tương: 80 90%

Người lớn: 600mg/ngày chia 2 lần, nên uống ngoài bữa ăn.

Trong bệnh trứng cá: 300mg/ngày trong: 10-15 ngày rồi dùng liều duy trì 150mg/ngày.

Minocyclin

Logryx ® (SCAT)

Mestacine ® (Novalis)

Minolis ® (Noviderm)

Mynocine ® (Lederle)

Hấp thụ đường tiêu hoá: 90-100%

Thời gian bán thải huyết tương: 12-24 giờ

Không cần giảm liều khi bị suy thận.

Tập trung trong nước bọt: được dùng dể điều trị cho người mang mầm bệnh sau nhiễm não mô cầu

Theo đường uống (minocyclin):

Người lớn: 200mg mỗi ngày uống 1 lần trong bữa ăn.

Trẻ em trên 8 tuổi: 4mg/kg/ngày.

Theo đường tiêm bắp hay tĩnh mạch chậm:

Người lớn: 200mg/ngày.

Trẻ em trên 8 tuổi: 4mg/kg/ngày.

Ghi chú:

Demeclocyclin (Ledermycine ®) có tính chất ức chế tác dụng hormon chống bài niệu trên ống lượn xa và bể thận; được dùng khi tiết không đủ hormon chống bài niệu (hội chứng Schwartz-Bartter) với liều 600mg/ngày.

Bệnh Buerger – viêm mạch máu huyết khối tắc nghẽn ở thiếu niên

Tên khác: viêm mạch máu huyết khối tắc nghẽn ở thiếu niên (không xơ vữa), viêm nội mô động mạch tắc nghẽn ở thiếu niên, viêm động mạch huyết khối ở thiếu niên, bệnh mạch máu huyết khối.

Định nghĩa

Bệnh mạch máu hiếm gặp, với đặc điểm là các động mạch có đường kính trung binh vấ nhỏ và thường cả các tĩnh mạch nữa, bị viêm trên từng đoạn, dẫn tới tình trạng hẹp động mạch ngoại vi, bệnh diễn biến thành từng cơn nối tiếp nhau, xen kẽ bởi những đợt thuyên giảm tạm thời.

Căn nguyên

Chưa rõ. Hút thuốc lá là một yếu tố quan trọng gây thuận lợi cho bệnh phát triển. Người ta cũng đã nêu ra mối quan hệ của bệnh với các kháng nguyên HLA-A9 va HLA-B5.

Giải phẫu bệnh

Phản ứng viêm không có xơ vữa đặc hiệu bởi viêm toàn bộ thành động mạch từng đoạn, nổi trội là những tổn thương ở nội mô (lớp áo trong) và huyết khối. Những tổn thương tương tự cũng xuất hiện ở các tĩnh mạc. Tổn thương mạch máu thường tiến triển tới xơ hoá ở từng đoạn mạch máu và lòng mạch không thông lại được nữa.

Sinh thiết ở đầu múp các ngón tay và ngón chân cho thấy những tổn thương đặc biệt (tăng sản mô liên kết-chun thành mạch).

Triệu chứng

Là các triệu chứng hẹp động mạch ngoại vi cấp và mạn tính (xem những từ này), nhưng có những đặc điểm riêng sau đây:

  • Bệnh hiếm gặp và xảy ra trong 9/10 số trường hợp ở nam giới dưới 40 tuổi, là những người nghiện thuốc lá nặng.
  • Bệnh tác động tới các động mạch ở chi dưới và chi trên (động mạch chày, động mạch mu chần, động mạch quay, trụ), nhưng không đôi xứng hai bên.
  • Những dấu hiệu thiếu cấp máu mạn tính: đau, mạch nhỏ hoặc mất mạch, đi khập khiễng gián cách, rồi đau cả khi nghỉ ngơi và tiến triển tới hoại thư. về chi tiết, xem: hẹp động mạch mạn tính.
  • Bệnh diễn biến thành từng cơn, đôi khi nặng dẫn tới hình thành loét do thiếu cấp máu.
  • Không hiếm trường hợp xuất hiện hội chứng Raynaud.
  • Viêm tĩnh mạch nông, tái phát, chuvến dịch vị trí trên cơ thể, thường ở khu vực tĩnh mạch hiên: viêm tĩnh mạch có đặc điếm của viêm mạch máu-huyết khối tắc nghẽn. Cũng có thể hình thành huyết khối ở tĩnh mạch sâu nhưng thường không được phát hiện.
  • Những rối loạn mạch máu có thể gây ra biến chứng viêm đa dây thần kinh do thiếu máu (đau, dị cảm, cảm giác rát bỏng, giảm cảm giác).

Xét nghiệm bổ sung: chụp động mạch cho thấy các động mạch bị thu nhỏ lại một cách đặc biệt, hay thấy huyết khối.

Xét nghiệm cận lâm sàng: lipid máu, đường huyết, và tốc độ máu lắng (huyết trầm) đều bình thường. Không tăng bạch cầu trong máu.

Chẩn đoán, dựa vào:

Tắc không đối xứng các động mạch ở đoạn xa gốc chi, xảy ra ở đối tượng trẻ tuổi, nghiện hút thuốc lá nặng.

Viêm tĩnh mạch nông tái phát nhiều lần.

Chẩn đoán phân biệt

  • Ở giai đoạn đầu, viêm mạch máu huyết khối tắc nghẽn (bệnh Buerger) có thể nhầm với viêm dây thần kinh toạ, viêm đa dây thần kinh, hoặc đau do bệnh thấp.
  • ớ giai đoạn muộn hơn, phải phân biệt bệnh viêm mạch máu huyết khối tắc nghẽn (bệnh Buerger) với hẹp động mạch do xơ vữa bởi những tiêu chuẩn đã nêu ở phần trên, và với bệnh Raynaud bởi dấu hiệu là bắt mạch thấy không bình thường cả trong những thời kỳ giữa các cơn kịch phát. Phân biệt với bệnh xơ cứng bì căn cứ vào tổn thương da đặc biệt của bệnh này.

Tiên lượng

Bệnh viêm mạch huyết khối tắc nghẽn hiếm khi gây hậu quả cắt cụt chi, nếu bệnh nhân chịu ngừng hút thuốc lá.

Điều trị

Các biện pháp toàn thân, xem: hẹp động mạch ngoại vi mạn tính. Ngừng hút thuốc lá là biện pháp chủ yếu để bệnh không nặng thêm.

Biện pháp ngoại khoa: thường không có chỉ định can thiệp loại bỏ vật nghẽn mạch hoặc phẫu thuật bắc cầu, vì hẹp động mạch thường ở nhiều vị trí và xảy ra ở những động mạch cỡ trung bình và nhỏ. Cắt thần kinh giao cảm có thể có ích trong trường hợp đi khập khiễng gián cách tiến triển hoặc có những rối loạn co thắt mạch máu gây ảnh hưởng nhiều. Hiếm khi phải cắt cụt chi và điều trị có thể ít tốn kém hơn so với điều trị bệnh hẹp động mạch mạn tính do xơ vữa.

Chữa Bỏng mắt

1. Đại cương

Tổn thương bỏng mắt có thể do nhiều loại tác nhân, tựu trung lại thành các nhóm:

1.1. Bỏng do hoá chất: Nhóm tác nhân này gồm 3 loại chất:

– Các acid
– Các chất base: Là những chất có gây ra thay đổi độ pH tổ chức.
– Các chất độc hoá học hay được dùng trong chiến tranh và các hoá chất độc hại khác đối với cơ thể mà không gây ra thay đổi độ pH ví dụ như cồn, oxy già, iod…

1.2. Bỏng do nhiệt: Bỏng mắt do nhiệt khô (lửa xăng, lửa điện…) hoặc do nhiệt ướt (nước sôi, hơi nước nóng…), bỏng lạnh do nhiệt độ thấp (tai biến của liệu pháp lạnh đông, tai nạn bỏng lạnh của các phi công bay ở các vùng Bắc, Nam cực) thường có tổn thương ở nhãn cầu nhẹ hơn do mi kịp phản xạ nhắm mắt che chở cho giác mạc, kết mạc và cũng do đó mà tổn thương chủ yếu là ở mi mắt.

1.3. Bỏng do phóng xa: Tổn thương cơ quan thị giác do phóng xạ thường là loại tổn thương phối hợp phức tạp do 4 yếu tô tác nhân của một vụ nổ phóng xạ gây nên:

– Đụng giập tổ chức mi, nhãn cầu do sóng nổ.
– Ánh sáng chói loá gây loá mắt, đục thể thủy tinh, bỏng võng mạc.
– Chất phóng xạ: gây nhiễm xạ mắt.
– Sức nóng: sức nóng của các vụ nổ nguyên tử có thể lên tối hàng ngàn độ. Nếu bệnh nhân ở vị trí may mắn thoát khỏi sức nóng cao gây tử vong thì ở mức nóng thấp hơn cũng gây bỏng cho cơ thể, trong đó mắt bị bỏng nóng.
Tính riêng ra thì đây cũng như một yếu tố bỏng nhiệt độ cao và do yếu tố bất ngờ nên tổn thương ở nhãn cầu nặng cũng hơn so với loại bỏng nhiệt thông thường.\

1.4. Bỏng do một số tác nhàn khác: đó là trường hợp do tia cực tím (ánh lửa hàn, đèn khử trùng…), do lade…\

Trên thực tế lâm sàng, loại bỏng mắt do nhiệt hay gặp nhất là (tỷ lệ >90%), nhưng tổn thương ở nhãn cầu thường chủ yếu ở mức độ nhẹ và vừa. Bỏng mắt do phóng xạ chỉ có thể gặp trong chiến tranh có sử dụng vũ khí hạt nhân hoặc các vụ thảm hoạ do sự cố hạt nguyên tử. Bỏng do hoá chất thường gặp ở mức ít hơn bỏng nhiệt nhưng cực kỳ khó khăn trong việc cứu chữa và nặng nề trong diễn biến cũng như ở kết quả điều trị. Hơn nữa, cho dù là nhiều loại tác nhân khác nhau nhưng diễn biến lâm sàng và việc xử trí bỏng mắt vẫn có nhiều nét chung. Vì vậy dưới đây chúng tôi chỉ đi sâu vào vấn đề bỏng mắt do hoá chất.

2. Bỏng mắt do hoá chất

Đây là loại bỏng có tỷ lệ ngày càng tăng, tổn thương nặng nề và kết quả điều trị thì còn rất bi đát. Bỏng mắt do hoá chất thường hay có phối hợp với các tổn thương khác của cơ thể (bỏng da và các cơ quan lân cận ở vùng đầu mặt cổ) cho nên hay bị bỏ quên trong giai đoạn câp cứu ban đầu. Đó là những đặc điểm cần được đặc biệt lưu ý.

2.1. Bệnh nguyên

2.1.1. Các chất kiềm

Tác nhân thường gặp là xút ăn da (NaOH), potat ăn da (KOH); vôi tôi [ Ca (OH)2], amoniac (NH3), hydroxyt amon (NH4OH)…
Đặc điểm nổi bật của nhóm tác nhân này là khả năng phá huỷ mạnh, xuyên thấm nhanh vào tổ chức nhãn cầu, ion (OH ) xà phòng hoá các acid béo cấu thành lớp màng và phá huỷ tế bào. Các cation của hoá chát thì hoá hợp với nhóm cacboxyl (COOH) của phân tử collagen và glycosaminoglycan ở trong nhu mô giác mạc gây ngấm nước và làm mất độ trong của giác mạc. Các sợi collagen bị ngấm nước sẽ dày lên, ngắn lại và xoắn vặn. Hiện tượng này xảy ra ở vùng bè thì sẽ gây tăng nhãn áp cấp tính ngay sau bỏng do cản trở lưu thông thủy dịch.
Độ xuyên thấm vào tổ chức được thấy nhanh nhất là ammonia: ngay lập tức đã thấy nó có mặt ở tiền phòng. Còn hydroxyt natri thì sau 3-5 phút. Các chất kiềm khác có tốc độ xuyên ngấm chậm hơn, tuy nhiên với tốc độ ngấm đó thì cũng đủ tạo cho nhóm tác nhân này có độ phá huỷ rất mạnh, độ xuyên sâu và rất khó tiên lượng được sự tổn hại của nhãn cầu sau bỏng kiềm.

2.1.2. Các axit:

Các tác nhân hay gặp ở nhóm này là acid sulfuric, acid sulíurơ, acid hydro fluoric, acid clohydric, acid nitric, acid acetic…
Về mặt cơ chế thì ion H+ của acid đưa tới sự thay đổi pH gây tổn thương tổ chức, còn các anion thì gây đông vón và làm cho biến tính protein của tô chức. Chính những chất đông vón này làm hạn chế khả năng xuyên ngấm của các acid. Tuy nhiên cần đặc biệt lưu ý có acid hydro fluoric Ooại acid hay dùng trong .các thiết bị lạnh) có độ xuyên thấm nhanh không kém gì các chất kiềm mạnh và khả năng xuyên thấm kém hơn HF một chút là acid sulíurơ. Các acid khác có khả năng xuyến thấm kém hơn nhưng ở nồng độ cao thì sự phá huỷ của chúng cũng rất dữ dội. Khi xuyên thấm vào tổ chức, các acid cũng gây ra những biến đổi như tủa của glycosaminoglycan ngoại bào và đục giác mạc, ngấm nước và làm ngắn các sợi fibrin, collagen đưa tới tăng nhãn áp tạm thời do sự xoắn vặn của vùng bè, thay đổi pH tiền phòng, tổn thương bán phần trước…

2.1.3. Một số hoá chất khác:

Nhóm này bao gồm các chất hoá học có thể được dùng trong chiến tranh và các hoá chất độc đối với mắt nhưng không gây ra sự thay đổi độ pH của tổ chức.
Có thể kể tới cồn iod, bạc nitrat… thường gặp trong tình huống tai nạn ở phòng thí nghiệm, chúng đốt cháy tổ chức và thường gây tổn thương ở lớp biểu mô, lốp nông của nhu mô giác mạc.
Các chất độc hoá học được dùng trong chiến tranh được chia thành các nhóm chính:
– Loại gây chảy nước mắt: brom, benzen, xyanid, cloraxetophenol, các chất này kích thích các tuyến lệ làm cho nước mắt chảy giàn dụa …
– Loại gây kích thích mạnh cho mắt, làm cho đối tượng phải nhắm nghiền mắt lại: adamxit, diphenylxianacxin…
– Loại gây ngạt thở: photgen, diphotgen …
Các chất này còn ngấm sâu vào nội nhãn gây tổn thương thành mạch võng mạc, hắc mạc đưa tới xuất huyết nội nhãn.
– Loại gây loét nát: yperit, lewezit. Các chất này tiếp xúc với mắt gây loại tử lớp vỏ nhãn cầu, đục giác mạc, thủng mắt…
– Loại gây độc toàn thân: cyanhydric, phosphor hữu cơ, sarin, soman…

2.2. Sinh bệnh lý

Các rối loạn sinh bệnh lý của bỏng mắt là cực kỳ phức tạp và là những ảnh hưởng có tính chất toàn thân và như trên đã nói, tổn thương bỏng mắt do hoá chất thường có sự phối hợp các tổn thương khác trên cơ thể, cho nên để hiểu cho đủ thì cần tìm hiểu thêm về bệnh bỏng, dưới đây chúng tôi chỉ nêu các rối loạn tại mắt.

2.2.1. Rối loạn độ pH

Với các tác nhân acid, base thì đây là rối loạn sớm, rõ rệt nhất.
Giới hạn độ pH bệnh lý theo các nguyên nhân đã chỉ ra là ở phía acid<3,34, ở phía kiềm > 11,5. Nếu pH tổ chức nhãn cầu vượt quá các giới hạn này và kéo dài thì đưa tới những tổn thương không phục hồi ở nội nhãn và có thể teo nhãn cầu.

Nếu độ pH tổ chức chưa tới mức giới hạn này nhưng tồn tại kéo dài thì thời gian rối loạn pH càng lâu, biến chứng càng nhiều.
Các chất kiềm và một số acid mạnh ngấm rất nhanh vào tiền phòng và làm thay đổi pH thủy dịch cùng các tổ chức nội nhãn. Sự rối loạn này kéo dài chừng 7 ngày với các chất kiềm. Với các acid thì thời gian rối loạn pH ngắn hơn do một phần là các tổ chức nhãn bình thường đều có độ pH nghiêng về phía kiềm.
Trong khi đó, bệnh nhân của ta thường tới viện cấp cứu muộn, tác nhân đã ngấm rất sâu, gây rối loạn nặng. Khi ấy chỉ bình thường hoá độ pH ở túi kết mạc là chưa đủ mà cần phải nghiên cứu các phương thức để bình thường hoá độ pH tổ chức nội nhãn và về thời gian thì càng nhanh càng tốt.

2.2.2. Rối loạn thủy động học, huyết động học:

Tăng nhãn áp thứ phát sau bỏng là một biến chứng tương đối hay gặp. Tỷ lệ tăng nhãn áp khác nhau ở các tác giả V.M. Nhe-po-mia-sa-ia (1981): 8 – 40%, M.I. A-le-sa-ev (1983): 50%, R.Kuckerlkorn, A. Kottek, M.Reim (1994): 37,8%. Hiện tượng hạ nhãn áp sau bỏng ít gặp hơn, chừng 17%.
Nhìn chung cơ chế gây rối loạn nhãn áp sau bỏng rất phức tạp. Đó chủ yếu là hậu quả trực tiếp của những rối loạn huyết động học, thủy động học của mắt bị bỏng. Sự co rút xoắn vặn ở vùng bè, tăng độ keo, tăng lượng tế bảo ở thủy dịch, tăng lưu lượng máu thể mi do giải phóng prostaglandin sau bỏng … đó là những yếu tố đưa tới tăng nhãn áp.
Cơ chế gây hạ nhãn áp chủ yếu do hệ thống mạch máu bị huỷ hoại, hiện tượng tắc mạch do cục nghẽn, do ngưng kết trong lòng mạch, do phù nề chèn ép làm cho thiếu máu thêm nặng nề đưa tới giảm lưu lượng máu ở thể mi, giảm sản xuất thủy dịch, nặng hơn nữa có thể đưa tới teo nhãn cầu. Ngoài ra còn phải kể tới yếu tố thủng nhãn cầu gây rò thủy dịch trên vi thể nhưng không thây rõ trên lâm sàng.

2.2.3. Rối loạn chuyển hoá – miễn dịch

Giai đoạn ngay sau bỏng, một số chất cấu thành giác mạc như glycogen, acid ascorbic, mucopolysaccharit, mucopolysaccharit acid … bị giảm sút nghiêm trọng, có chất không tìm thấy trong cấu trúc giác mạc. Tối tuần thứ 2 sau bỏng mới có sự phục hồi dần dần và đạt mức bình thường ở giai đoạn hồi phục hoàn toàn, những chất này có vai trò rất quan trọng trong cấu trúc, chuyển hoá của giác mạc, do đó những kết quả nghiên cứu này có giá trị định hướng rất tốt cho việc điều trị.

Các men tiêu protein như protease, elastase, callicreine … tăng rõ ở 24 h đầu và ở cuối tuần thứ 2 sau bỏng.

Plasminogen được hoạt hoá mạnh ngay sau bỏng biến thành plasmin. Khi dùng các chất ức chế proteinase thì không tìm thấy plasmin.

Còn cathepsin – D (mà hoạt động của chúng như là một chỉ điểm về hoạt tính tiêu protein) thì sau bỏng thấy có hoạt tính cao ở kết mạc, đó chính là một trong những nguyên nhân ngăn cản sự tái sinh của biểu mô giác mạc, góp phần gây trợt biểu mô giác mạc tái diễn.

Đáng chú ý nhất là men collagenase được thấy có hoạt tính cao ở giác mạc bỏng kiềm. Men này như đã biết là được sinh ra từ các tế bào biểu mô, các fibroblast, các tế bào viêm đặc biệt là các bạch cầu đa nhân.

Collagenase hoạt động cắt đứt liên kết phân tử collagen để sau đó cho các men tiêu protein khác phát huy tác dụng phân huỷ phân tử collagen đưa tới hoại tử giác mạc. Collagen chiếm 90% trọng lượng khô giác mạc, do đó vấn đề ức chế men collagen là một khâu quan trọng trong phức hợp điều trị bỏng.

Các chất ức chế men collagenase đã được nghiên cứu và sử dụng thường là: acetylcystein 20% (có biệt dược Mucomyst), L – cystein, EDTA, a2- macroglobulin, 8 – hydroxy quinolein Sulfat, sao đen, trầu không, cà gai leo.

Gần đây có điều thú vị là người ta đã phát hiện rằng tetracyclin, doxycyclin có tác dụng kẹp Zn++ và ức chế bạch cầu đa nhân cho nên tác dụng ức chế collagenase rất tốt. Đặc biệt
những nghiên cứu mới đưa ra các chất: cacboxyl synthetic peptid và thiol synthetic peptid có tác dụng ức chế collagenase mạnh gấp 105 lần so với acetylcystein.

Các rối loạn về miễn dịch của bỏng mắt đã được nhiều tác giả nghiên cứu, A.A. Va-nhich-kin và cộng sự (1987) thấy số lượng tế bào T- lymphocyt giảm nặng sau bỏng và tăng lên dần ở thời kỳ biểu mô hoá, tân mạch.

C.A. Ia-ki-men-ko (1990) đã chứng minh một tình trạng nhiễm độc, tự mẫn cảm do các ổ hoại tử bỏng mắt gây nên, có lẽ cũng vì vậy mà người ta đã dùng huyết thanh bệnh nhân bỏng đã bình phục để tiêm dưới kết mạc điều trị cho bệnh nhân bỏng mắt có kết quả.

2.2.4. Rối loạn cấu trúc vi thể:

Nhiều nghiên cứu thực nghiệm gây bỏng khu trú ở giác mạc, kết mạc đã cho thấy chỉ vài phút sau bỏng, biểu mô kết mạc và giác mạc đã bị huỷ hoại và bong đi một phần. Phần còn lại, các tế bào vẫn bám vào màng đáy nhưng bị đông vón, mất cấu trúc. Ở thời gian tiếp sau đó (từ 24h đến vài ngày sau bỏng) toàn bộ giác mạc bị phù nề, giác mạc dày lên. Các sợi collagen bị biến dạng, đông đặc, nhiều nơi không còn thấy ranh giới giữa các bó sợi. Các keratocyte cũng bị hoại tử, nhân teo lại, bắt màu kiềm mạnh hoặc bị tan ra thành các mảnh nhỏ.
Ở 2/3 dưới của nhu mô giác mạc, các lá collagen trương to, các keratocyte phần lớn bị thoái hoá, một số tế bào có nhân teo. Rất nhiều các tế bào viêm xâm nhập vùng này, đó là các loại thực bào, lympho bào, bạch cầu đa nhân…

Màng Descemet ở vùng bỏng mất cấu trúc và như bị hoà lẫn với khối collagen lân cận.

Tế bào nội mô vùng bỏng cũng bị hoại tử rời ra. Một số tế bào nội mô còn dính ở mặt sau giác mạc nhưng cũng bị thoái hoá.

Trên kết mạc thấy rõ các hiện tượng tắc mạch, xuất huyết. Các mạch máu thể mi giãn rộng, ứ máu hoặc xuất huyết.

Mặc dù thương tổn nặng nề nhưng biểu mô lại là thành phần tái tạo sớm nhất, thậm chí ngay từ ngày đầu tiên sau bỏng. Nếu vùng rìa (là nơi khu trú các tế bào nguồn) không bị tổn thương thì ngay ở phần đầu sau bỏng tế bào biểu mô quanh vết bỏng giác mạc đã tạo thành một lớp dầy đặc hoặc thành đám lẫn với dịch viêm. Do tái tạo trên một nền là nhu mô còn đang bị hoại tử hoặc đang bị phù nề, thâm nhiễm bạch cầu và mất màng đáy cho nên xảy ra hiện tượng bong biểu mô tái diễn. Trên lâm sàng lúc này khi thì nhuộm màu giác mạc không bắt màu (Fluo (-)) nhưng sau đó lại thấy bắt màu (Fluo (+)). Ở giai đoạn thành sẹo, biểu mô nhân tạo có nhiều lớp tế hào hơn bình thường. Các tế bào phía dưới của biểu mô phát triển lan xuống lớp nhu mô, nơi các lá collagen không còn cấu trúc. Ớ lớp giữa và lớp dưới, các tế bào biểu mô chen chúc nhau và có kích thước rất nhỏ do phải phân chia trong điều kiện thiểu dưỡng.

Ở lớp nhu mô có nhiều vùng phù nề xen kẽ những vùng mất cấu trúc. Các lá collagen trương to và lấp kín khoảng cách vốn có giữa chúng. Ớ phía sát màng đáy, tổ. chức collagen hầu như không còn cấu trúc, có nơi trở thành thuần nhất bắt màu eosin. Các lá collagen ở 1/3 trên của nhu mô giác mạc không còn rõ ranh giới, nhiều chỗ không phân biệt được với dịch tiêm. Trên mỗi lá collagen không thấy được cấu trúc sợi cấu thành.

ở phía 1/3 dưới, giữa các lá collagen có nhiều dịch viêm nên nhiều lá không còn giữ được hướng song song với bề mặt giác mạc. Khi sang giai đoạn thành sẹo, các lá collagen vùng trung tâm vết bỏng bị biến dạng nhiều. Giữa chúng có ít khoảng cách vì các sợi thường lớn và thô, hình ảnh thoái hoá sợi gặp rất phổ biến.
Nguyên bào sợi trong lớp nhu mô phát triển khá phong phú từ các keratocyte và chúng đã biệt hoá ở các giai đoạn khác nhau. Bạch cầu đa nhân và đơn nhân có mật độ cao ở lớp 1/3 dưới của nhu mô.
Màng Descemet cũng hồi phục dần cấu trúc, nó tương đối dày và dễ phân biệt với các lá collagen lân cận. ở nhiều chỗ màng Descemet và mống mắt bị dính với nhau bằng nhiều sợi collagen nhỏ.
Tế bào nội mô có hình dạng bất thường: kích thước lớn, nhân bầu dục. Đây là một đặc tính riêng của nội mô giác mạc, những tế bào này không nhân lên mà chỉ trải rộng ra để che phủ vùng tổn thương.
Trong phim nước mắt có thành phần nhày là do các tế bào đài tiết ra. Những tế bào đài có ở trên kết mạc. Nếu bỏng làm cho diện kết mạc bị hoại tử rộng, mất hết các tế bào đài tiết nhày thì sẽ dẫn tới khô mắt sau bỏng.
ở những mắt bị tổn thương hết tế bào nguồn vùng rìa, tế bào biểu mô kết mạc sẽ phát triển tiến vào che phủ lên giác mạc gây nên một hình ảnh kết mạc hoá giác mạc cùng với tân mạch.
2.2.5. Phản ứng viêm:
Khoảng 12h tới 14h sau bỏng đã có hiện tượng thâm nhiễm bạch cầu đa nhân, đơn nhân vào tổ chức quanh vùng bỏng và điều này đưa tối:
– Phù nề tổ chức.
– Giải phóng men collagenase.
– Hoạt hoá plasminogen.

2.3. Lâm sàng

Các giai đoạn lâm sàng: (M.c Culley J.P. – 1987):

– Giai đoạn 1- Ngay sau bỏng: Các dấu hiệu lâm sàng thể hiện ngay lập tức sau bỏng: diện tích bỏng, độ sâu và sự ngấm xuyên. Điều này liên quan tới đặc tính của tác nhân gây bỏng. Diện tích kết mạc bị bỏng sẽ bắt màu fluorescein natri, còn độ sâu của tổn thương giác mạc thì biểu hiện ở độ đục giác mạc (ngoại trừ bỏng do acid). Độ sâu của bỏng kết mạc thì đánh giá bằng cách quan sát hình ảnh thiếu máu hoặc hoại tử của kết mạc nhãn cầu hoặc kết mạc vùng rìa. Soi, chụp với tiêm chất huỳnh quang vào mạch máu là cách kiểm tra độ sâu của bỏng tốt nhất.
– Giai đoạn 2: – Giai đoạn cấp tính (0-7 ngày): Những mắt bỏng độ I, II nhanh biểu mô hoá, hồi phục tổn thương và có thể để lại sẹo giác mạc rất mỏng.
Ớ những mắt bỏng độ III, độ IV, sự tái tạo biểu mô ở giai đoạn này rất kém, thậm chí là chưa có. Có hiện tượng tăng sinh keratocyte, thâm nhiễm các tế bào viêm đợt 1, chưa có hoặc có rất ít men collagenase. Chưa xuất hiện tân mạch giác mạc.
– Giai đoạn 3 – Giai đoạn sửa chữa sỏm (7 tới 21 ngày): Bỏng độ I, II do còn tế bào nguồn vùng rìa cho nên có sự tăng sinh và di cư liên tục của tê bào biểu mô để tiếp tục hoàn thiện quá trình biểu mô hoá đã xảy ra.
Tuy nhiên, sự hồi phục biểu mô chỉ diễn ra bình thường ở những góc phần tư còn có tế bào nguồn vùng rìa còn nguyên vẹn. Do các tế bào biểu mô sinh ra từ tế bào nguồn vùng rìa không phát triển quá trung tâm giác mạc cho nên ở phía mà tế bào nguồn bị tổn thương có thể có hiện tượng chậm tái tạo biểu mô. Tế bào nguồn từ hai phía của vùng rìa bị tổn thương sẽ phát triển dọc theo rìa, gặp nhau rồi mối phát triển hướng tâm vào giác mạc.
ở nhu mô vùng lành thấy tăng sinh keratocyte cùng với tăng thâm nhiễm tế bào viêm đưa tới tăng sản xuất collagenase và hậu quả là hoại tử bán phần trước và loét giác mạc vô khuẩn.
Các mắt bỏng độ III, độ IV do mất hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn tế bào nguồn biểu mô vùng rìa cho nên việc hồi phục biểu mô bị hạn chế nghiêm trọng. Đây là giai đoạn để khẳng định rằng tế bào nguồn vùng rìa có bị tổn thương hoàn toàn hay không dựa vào hiện tượng có hay không có sự tái tạo biểu mô.
– Giai đoạn 4 – Giai đoạn sửa chữa muộn (21 ngày đến vài tháng): Ớ vào thời điểm đầu của giai đoạn sửa chữa sớm, tình trạng viêm giác mạc, sự tổng hợp collagen, tổng hợp men collagenase … cao ở mức đỉnh điểm và quá trình hồi phục biểu mô ở những mắt bỏng độ III, IV cũng đã có từ lúc này. Trên cơ sở đó người ta có thể xác định các thương tổn để đi đến việc tiên lượng các kiểu lành vết thương theo 4 typ sau:
+ Typ I: Hồi phục biểu mô thường.
Biêu mô giác mạc có thể nói là gần như bình thường trên lâm sàng. Nếu tế bào đài bị huỷ hoại nhiều thì có thể bị khô mắt và có biểu hiện của một tình trạng bệnh biểu mô (epitheliopathy) giác mạc.
+ Typ II: Biệt hoá chậm.
Biểu mô giác mạc tái tạo hoàn toàn ở những góc phần tư còn nguyên vẹn hoặc còn phần lớn tế bào nguồn vùng rìa, có những đám diện tích hình quạt chưa tái tạo biểu mô do mất tế bào nguồn. Những đám khuyết biểu mô này có thể được tế bào biểu mô kết mạc phát triển tiến vào che phủ hoặc có thể có một sự biểu mô hoá chậm và hiện tượng khô mắt cùng với bệnh biểu mô (epitheliopathy) kéo dài vài tháng.
+ Typ III: màng máu xơ – mạch.
Biểu mô giác mạc tái tạo rất ít hoặc không có tái tạo ở suốt giai đoạn sửa chữa sớm, kết quả là nếu biểu mô kết mạc còn sống sót sẽ phát triển đưa tới:
Một màng máu xơ mạch phát triển che phủ giác mạc.
Tân mạch hoá ở nhu mô giác mạc.
Dính mi cầu, quặm và lông xiêu.
+ Typ IV – Loét giác mạc vô khuẩn: Do tổn thương cả các tế bào biểu mô kết mạc, sự tái tạo biểu mô giác mạc hầu như không có. Giác mạc bị loét vô khuẩn do sự phân huỷ của các enzym. Tổn thương bỏng nặng còn có thể gặp tình trạng dính mống mắt ở vùng bè và góc tiền phòng, đục thể thủy tinh, glôcôm thứ phát, teo nhãn cầu. Tiên lượng của bỏng độ IV cho dủ được can thiệp cũng rất tồi tệ.

2.4. Điều trị bỏng mắt do hoá chất

2.4.1. Xử trí cấp cứu ở nơi xảy ra tai nạn

Tiên lượng của mắt bị bỏng tuỳ thuộc vào việc cấp cứu ở những giây phút đầu tiên sau bỏng, do đó, việc xử trí cấp cứu ở ngay nơi xảy ra tai nạn là điều cần được phổ biến và hướng dẫn cho mọi người.
Việc cần khẩn cấp tiến hành đầu tiên là loại trừ tác nhân gây bỏng ra khỏi túi kết mạc và bề mặt nhãn cầu. Cách tốt nhất là dùng nước sạch với khôi lượng nhiều để rửa mắt. Trong những điều kiện không có nước sạch lắm thì phải chấp nhận cả nước không sạch (nước ao, hồ, kênh rạch, ruộng .V. V…).
Phương thức rửa có thể là tự bệnh nhân ngâm mặt – mắt xuống nước nhưng lưu ý cố gắng chớp mắt nhiều lần ở trong nước để cho nước sạch lưu thông vào các túi cùng kết mạc. Có thể dùng vòi, gáo dội, ấm rót .v.v… để xối nước vào mắt trong tư thế bệnh nhân nằm ngửa, mắt mở chủ động hoặc người khác phải vành mi giúp. Lượng nước xổĩ rửa ít nhất phải là vài lít.
Rửa mắt tại nơi xảy ra tai nạn là một biện pháp rất đơn giản nhưng cực kỳ có giá trị, tác nhân gây bổng sẽ không còn lại ở bề mặt nhãn cầu và túi kết mạc để tiếp tục thâm nhập vào tổ chức.

2.4.2. Điều trị ở cơ sở y tế

– Tiếp tục loại trừ tác nhân gây bỏng: bất kể là mắt bỏng đã được rửa hay chưa được rửa cấp cứu ở nơi xảy ra tai nạn, nhân viên y tế càng nhanh càng tốt tiến hành rửa mắt bằng các dung dịch như muối sinh lý, ringer lactae, thậm chí nếu cơ sở thiếu thôn thì phải dùng cả nước sạch, nước lã v.v… để rửa. Không nên để mất thì giờ quý báu lúc này vào việc lựa chọn dung dịch rửa.

Sau những lít dung dịch hoặc nước ban đầu đã được rửa đúng yêu cầu thì tác nhân gây bỏng hầu như đã bị loại khỏi bề mặt nhãn cầu và túi kết mạc. Tuy nhiên có một phần tác nhân đã nhanh chóng thâm nhập vào tổ chức gây hoại tử mô, rối loạn độ pH v.v… cần được giải quyết và đến lúc này việc lựa chọn dung dịch rửa mắt mối nên đặt ra. Dung dịch được lựa chọn phải đáp ứng được 2 điều đòi hỏi.
+ Phải có áp lực thẩm thấu đẳng trương để không gây phù nề hoặc teo đét mô vì việc rửa mắt phải kéo dài, nhỏ giọt hàng giờ liền và lặp lại ở các ngày tiếp theo.
+ Phải có hiệu lực bình thường hoá độ pH tổ chức nhãn cầu để nhanh chóng làm giảm các tổn thương nặng nề do sự rối loạn độ pH gây nên.
Các nghiên cứu gần đây đã cho thấy: những dung dịch nên dùng để rửa mắt nhỏ giọt (sau khi đã nghiên cứu rửa bằng nước sạch) là nước muối sinh lý, ringer lactat, dung dịch đệm photphat pH 7,4. Trên thực tế lâm sàng, bệnh nhân của ta thường tối Viện rất muộn sau khi bị bỏng, khi mà tác nhân đã xuyên ngấm rất sâu, rất rộng, rất nhiều vào tô chức. Như thế thì việc phải hỗ trợ để nhanh chóng bình thường hoá độ pH nội nhãn là điều rất cần thiết. Dung dịch đệm photphat pH 7,4 dùng để rửa nhỏ giọt là cách làm có hiệu quả trong mục đích này. Cùng với cơ chế đệm của bản thân bệnh nhân, dung dịch đệm góp phần bình thường hoá pH tổ chức nội nhãn một cách nhanh chóng. Điều đó rất có giá trị để làm giảm bốt các rối loạn của tổ chức do độ pH bệnh lý gây nên.
Cần hết sức lưu ý rằng các dung dịch trung hoà (ví dụ nabica 2% dùng trong bỏng mắt do acid boric 1-2% dùng trong bỏng mắt do kiềm) mà chúng ta vẫn quen dùng trước đây, nay đã được khẳng định là nếu rửa mắt kéo dài sẽ gây thêm tổn thương, “gây bỏng lần thứ 2” cho mắt vốn đã bị bỏng cho nên không được sử dụng.
Để loại trừ tác nhân gây bỏng còn có thể làm các thủ thuật như: Cắt lọc tổ chức hoại tử, rách kết mạc theo kiểu Passov- Poliak, chọc tiền phòng hút bỏ thủy dịch bệnh lý hoặc tốt hơn nữa là thay thế thủy dịch bằng dung dịch ringer lactat hoặc BSS plus. Vấn đề chọc tiền phòng, bơm dung dịch đệm để điều chỉnh pH nội nhãn còn là vấn đề đang được nghiên cứu.
– Chống viêm:
Phản ứng viêm ở mắt bỏng gây ra nhũng bất lợi như tăng lượng men phá huỷ collagen đưa tới nhũn giác mạc, vì vậy phản ứng viêm cần được kiểm soát sớm.
Thuốc chống viêm sau bỏng hay dùng là corticosteroid dùng toàn thân tại chỗ, rỏ nhiều lần trong ngày ở giai đoạn 10 ngày đầu sau bỏng. Ớ giai đoạn tiếp theo, corticosteroid loại dùng tại chỗ cần được thay thế bằng các chế phẩm non – steroid. Dung dịch atropin 1% cũng là loại có tác dụng giảm đau, chống viêm tốt, nó làm giảm thiểu những hiện tượng viêm dính mống mắt thường thấy sau bỏng.
– Chống hoại tử giác mạc:
Quá trình hoại tử gây nhũn giác mạc thường xẩy ra ở thời kỳ viêm pha 2 (7-21 ngày sau bỏng) do các men phân huỷ protein hoạt động mạnh – đặc biệt là collagenase
Vì vậy song song với chống viêm cần có liệu pháp ức chế các men này: Gordox, Trasylon là những thuốc ức chê các men tiêu protein rất tốt. Riêng với collagenase cần dùng đường tại chỗ với thuốc dạng nước như Mucomyst, EDTA. Dạng thuốc mỡ: Tetraxyclin có tác dụng tốt. Đường tiêm dưới kết mạc: huyết thanh hoặc máu tự thân có chứa a2 – macroglobulin. Đường toàn thân: gordox, trasylon, tetracyclin, doxycyclin…. Nước ép lá trầu không, sao đen, cà gai leo cũng có tác dụng ức chế men collagenase, chúng ta nên nghiên cứu ứng dụng.
– Chống nhiễm khuẩn
Tổn thương bỏng ở bề mặt nhãn cầu mở đường cho sự xâm nhập và phát triển của vi khuẩn. 75% các trường hợp bỏng mắt là có nhiễm khuẩn. Ngoài liệu pháp chống nhiễm khuẩn toàn thân để điều trị bỏng phối hợp, cần dùng kháng sinh tại mắt với các thuốc nước tra nhiều lần trong ngày, thuốc mỡ kháng sinh tra mắt khi bệnh nhân đi ngủ, nên dùng mỡ tetraxyclin vừa có tác dụng kháng khuẩn vừa có tác dụng ức chế men collagenase.
– Chống dính mi cầu
ở bệnh nhân bỏng mắt – nhất là bỏng mắt có kèm tổn thương mi – vận động mi và nhãn cầu đều bị hạn chế, đó là những điều kiện thuận lợi đưa tới dính mi cầu. Đây là một di chứng rất khó khắc phục. Để hạn chế di chứng này cần dùng que bôi mỡ kháng sinh lùa vào các túi cùng kết mạc 1 đến 2 lần/ngày. Các sợi fibrin bắc cầu từ kết mạc nhãn cầu tới kết mạc mi sẽ bị loại bỏ.
Tuy nhiên ở những mắt bỏng nặng đặc biệt, người ta lai phải chấp nhận dính mi cầu để tăng nguồn nuôi dưỡng cho bán phần trước vốn đã bị tổn thương nặng nề do bỏng. Nhiệm vụ cấp thiết lúc này lại là bảo tồn nhãn cầu.
Vấn đề xử trí di chứng sẽ được tính sau mặc dù đó sẽ là điều cực kỳ nan giải.
– Tăng cường quá trình hồi phục:
Thuốc dùng để hỗ trợ thúc đẩy quá trình hồi phục là những loại tăng đồng hoá tổ chức giác mạc, thúc đẩy phân chia tê bào, tăng dinh dưỡng, cần chống khô mắt sớm ở những mắt tiên lượng có mất nhiều tế bào tiết nhày hoặc ở những mắt có hở mi. Giải pháp thường dùng là tra nước mắt nhân tạo thay thế hoặc khâu cò mi tạm thời.
Với độ bỏng III, IV, chỉ riêng các biện pháp điều trị bằng thuốc lã không đủ, thường phải can thiệp bằng phẫu thuật. Đó là các phẫu thuật như tạo hình bao Tenon che phủ vùng củng mạc lộ, ghép tế bào nguồn vùng rìa, vạt tenon – kết mạc…
– Điều trị các biến chứng:
Biến chứng hay gặp và đáng sự của bỏng mắt là thủng giác mạc. Thường biến chứng này được xử trí bằng khâu phủ kết mạc, bằng kính tiếp xúc cứng có dán keo sinh học. Ớ những mắt bỏng đặc biệt nặng mà tiên lượng chắc chắn thủng giác mạc, việc che phủ toàn bộ giác mạc bằng bao Tenon ngay từ tuần đầu sau bỏng đã và đang được nghiên cứu ứng dụng và bước đầu thấy có kết quả tốt.
Tăng nhãn áp sớm hoặc muộn sau bỏng hiện vẫn còn là vấn đề nan giải. Ớ giai đoạn sớm, việc dùng các thuốc nhỏ mắt loại ức chế có chọn lọc thụ thể giao cảm p! là sự lựa chọn hữu ích vì cần dùng kéo dài. Ớ giai đoạn muộn, phương pháp cắt bè tạo lỗ rò là cách có hiệu quả hơn cả.
Khô mắt và dínhmi cầu là các biến chứng và di chứng khó khắc phục. Dùng thuốc chống khô mắt thì rất phiền hà. Ghép niêm mạc mũi có chứa tế bào tiết nhầy là một biện pháp mới công bố có tác dụng tốt. Để điều trị dính mi cầu ở giai đoạn sóm cần tách dính và khi đã thành di chứng thì cần được phẫu thuật nhưng bệnh nhân rất hay tái phát. Các vật liệu thay thế kết mạc hay dùng ở phẫu thuật này thường là màng ổi, niêm mạc môi, kết mạc tự thân. …
Di chứng quan trọng nhất của bỏng mắt là sẹo đục giác mạc. Bỏng nặng thường gây sẹo cứng, dày và có cả màng máu xơ – mạch che phủ giác mạc. Ghép giác mạc điều trị di chứng bỏng có tỉ lệ thất bại cao (79%) so với các ghép khác chỉ thất bại từ 0- 8%. Ghép tế bào nguồn vùng rìa muộn là một bước quá độ hay nó làm tăng khả năng thành công của ghép giác mạc quang học điều trị di chứng bỏng.
Nhìn chung điều trị bỏng mắt do hoá chất cho đến nay vẫn còn là vấn đề rất nan giải. Y. Pouliquen đã nói: “… đã là bỏng mắt nặng thì không có một cách điều trị nào có thể đạt được thị lực mong muốn”. Vì vậy vấn đề cấp cứu sớm và có chất lượng cần được hết sức coi trọng để có thể hạn chế một cách tốt nhất những tổn hại của mắt do hoá chất gây nên.

Các thuốc giãn mạch trực tiếp cấp cứu

Nitroprussiat natri

Nipride ® (Roche).

Nitriate ® (L’Arguenon).

Tính chất: giãn mạch trực tiếp có tác dụng cực nhanh, chỉ được dùng trong các đơn vị hồi sức để chữa các cơn cao huyết áp, một số thể suy thất trái cấp và để hạ huyết áp có kiểm soát trong các can thiệp ngoại khoa.

Chỉ định

Cơn tăng huyết áp nguy hiểm: bệnh lý cao huyết áp của não, chảy máu não, khối u tế bào ưa chrom và phình tách động mạch chủ.

Suy thất trái cấp với cung lượng tim thấp và sức cản ngoại vi cao.

Trong ngoại khoa, để dẫn vào tình trạng hạ huyết áp có kiểm soát.

Ngộ độc các alcaloid của nấm cựa gà gây co mạch máu.

Liều dùng

Truyền tĩnh mạch: tốc độ ban đầu 0,3 pg/kg/phút rồi tăng lên tới tối đa 8 pg/kg/phút dưới sự theo dõi huyết áp liên tục, nên bàng đặt lưu đầu cực trong mạch máu (huyết áp trong động mạch) để theo dõi trên màn hình; nếu liều tối đa không làm hạ huyết áp được trong 10 phút thì phải ngừng cho thuốc (nguy cơ ngộ độc thiocyanat).

Khi hạ huyết áp có kiểm soát trong gây mê, 10pg/kg/phút trong thời hạn 2 giờ.

Thận trọng

Trong trường hợp cho dùng thuốc quá 48 giờ, đo hàng ngày nồng độ thiocyanat trong máu, không để vượt quá 8-10 mg/100 ml.

Cho dùng cẩn thận ở người bệnh có tuổi.

Chống chỉ định

Hẹp động mạch chủ, nối thông động-tĩnh mạch.

Giảm thể tích máu.

Cường năng tuyến giáp trạng.

Thiếu men sulfuryltransferase (rhodanase của Lang) trong bệnh lý Leber teo thị giác, giảm thị lực do hút thuốc hay suy gan nặng.

Khi có thai (sự vô hại chưa được xác lập).

Tác dụng phụ

Do hạ huyết áp: buồn nôn, nhức đầu, toát mồ hôi, hồi hộp, có thể giảm nhẹ khi giảm tốc độ truyền.

Do tích tụ thiocyanat (>80mg/lit): mất định hướng, co thắt, co giật, tình trạng lú lẫn hay loạn thần kinh; tích tụ thiocyanat được nhận thấy khi cho dùng trong nhiều ngày, nhất là khi thiểu năng thận: chẩn đoán được khẳng định bằng xác định nồng độ thiocyanat trong máu; thiocyanat có thể được loại trừ bằng thẩm phân máu.

Do tích tụ cyanua (>3,4mg/lit): nhiễm toan chuyển hoá, loạn nhịp tim, hạ huyết áp quá mức, tăng nhịp thở, co giật, bất tỉnh, diễn biến tối tử vong nhanh; điều trị bằng 30-60mg/kg hydroxocobalamin hoà loãng trong một dung dịch thiosulfat natri 10%, truyền tĩnh mạch.

Nhiễm methemoglobin máu: gây xanh tím da.

Suy tuyến giáp có thể xuất hiện sau một thời gian tiếp tác dụng ức chế giữ và cố định gắn với iod của thiocyanid tích tụ trong máu.

Tương tác: với các thuốc liệt hạch thần kinh (tăng khả năng tác dụng hạ áp).

Diaxoxid

Dẫn chất không lợi tiểu của benzothiadiazid, làm giãn các tiểu động mạch nhờ tác dụng trực tiếp và ức chế sự giải phóng insulin từ tuyến tuỵ.

Như thuốc chống cao huyết áp: Hyperstat® (Schering-Plough). Trong điều trị cấp cứu các cơn cao huyết áp, truyền tĩnh mạch (15 mg/phút) trong 20-30 phút hay tối khi thấy hạ huyết áp tâm trương < 100mmHg hay tới tổng liều tối đa

mg/kg; tác dụng hạ huyết áp kéo dài 4-12 giờ. Không dùng trong các bệnh cao huyết áp có nguồn gốc cơ học (hẹp động mạch chủ, nối thông động-tĩnh mạch hay trong khối u tế bào ưa chrom).

Tác dụng phụ: nhức đầu, buồn nôn, nôn; tăng đường huyết; giữ nước natri (phối hợp với một thuốc lợi tiểu thải muôi); truyền thuốc quá nhanh có thể gây hạ huyết áp nặng và đột ngột.

Như một thuốc tăng đường huyết: Proglicem® (Schering-Plough). Trong điều trị hạ đường huyết tự phát hay thứ phát do khối u tiết insulin không mổ được hay do rối loạn chuyển hoá glycogen, người ta cho uống ở người lớn 100-200 mg 2- 4 lần/ngày, ở trẻ em 5-10 mg/ngày. Không được chỉ định trong các hạ đường huyết chức năng.

Tác dụng phụ: buồn nôn, nôn, rậm lông (nhất là ở trẻ em), giữ nước và natri, tăng ure huyết.

CHĂM SÓC BỆNH NHÂN UNG THƯ GAN GIAI ĐOẠN CUỐI

CHĂM SÓC BỆNH NHÂN UNG THƯ GAN GIAI ĐOẠN CUỐI 

Bệnh nhân ung thư gan giai đoạn cuối khi vào bệnh viện có thể chết đột ngột. Trách nhiệm đầu tiên của người điều dưỡng trong việc chăm sóc bệnh nhân là tạo sự thoải mái tới mức có thể đáp ứng các nhu cầu về mặt tình cảm của bệnh nhân và gia đình bệnh nhân. Việc chăm sóc bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối cũng quan trọng như chăm sóc bệnh nhân đang hồi phục.

Mục đích của chăm sóc bệnh nhân ung thư gan giai đoạn cuối là phối hợp về điều trị, chăm sóc và nâng đỡ cho bệnh nhân. Hỗ trợ về mặt thể chất, tâm lý, tình cảm và tinh thần cho bệnh nhân và thân nhân.
Điều dưỡng viên đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao sức mạnh thể chất và tinh thần cho người bệnh.
2.1. Nhận định 
Đứng trước một bệnh nhân ung thư gan giai đoạn cuối, người điều dưỡng cần xác định các triệu chứng và biến chứng gây ra đau đớn, khó chịu cho người bệnh.
2.1.1. Nhận định qua hỏi bệnh nhân 
− Bệnh nhân có tiền sử viêm gan virus hay nghiện rượu không?
− Cảm giác nặng tức hạ sườn phải, lan sau lưng hay không? Đau nhức các nội tạng khác hoặc xương trong trường hợp có di căn. Đau có giảm khi dùng các thuốc giảm đau thông thường không?
− Chán ăn, buồn nôn, nôn, đi chảy không?
− Bệnh nhân có triệu chứng sốt trước khi vào viện hay không?
− Có sụt cân nhiều trong thời gian gần đây không?
2.1.2. Quan sát 
− Da, mắt có vàng không?
− Bụng có chướng không?
− Bệnh nhân có chảy máu chân răng, chảy máu cam, chảy máu dưới da không?
− Gầy, sút cân thường rõ trong ung thư gan giai đoạn cuối.
2.1.3. Thăm khám bệnh nhân 
Ngoài các dấu chứng cơ năng do hỏi bệnh và quan sát được. Khám thường phát hiện gan lớn, đau, vàng da, báng. Lấy dấu hiệu sống.
Bệnh nhân ung thư gan giai đoạn cuối thường có các dấu chứng khác kèm theo như: buồn nôn và nôn, xuất huyết tiêu hóa, táo bón, ăn uống kém, tưa miệng do nấm candida, lo âu, cảm giác mất mát, trầm cảm, lú lẩn, mê sảng, co giật.
Bên cạnh các dấu hiệu trên cần tìm hiểu các triệu chứng sinh học như thiếu máu, hạ đường huyết, các chức năng gan bị rối loạn…
2.2. Chẩn đoán điều dưỡng 
Một số chẩn đoán chính có thể có đối với bệnh nhân ung thư gan giai đoạn cuối
− Táo bón do nằm lâu
− Đau do chèn ép
− Suy dinh dưỡng do ăn kém
− Lo lắng do tình trạng bệnh nặng
− Nguy cơ nhiễm trùng do suy giảm miễn dịch và suy dinh dưỡng.
− Nguy cơ xuất huyết do vỡ nhân ung thư
2.3. Lập kế hoạch chăm sóc 
2.3.1. Những biện pháp chung 
− Làm giảm hay ngăn ngừa triệu chứng
− Bệnh nhân cần được nghỉ ngơi, chăm sóc toàn diện
− Chế độ ăn lỏng, dễ tiêu. Đảm bảo năng lượng và vitamin
− Hạn chế muối khi có phù, cổ trướng
− Vệ sinh răng miệng và vệ sinh thân thể cho bệnh nhân.
2.3.2. Lập kế hoạch thực hiện các y lệnh 
− Cho bệnh nhân uống thuốc và tiêm thuốc theo chỉ định.
− Làm các xét nghiệm theo yêu cầu.
− Thực hiện y lệnh chính xác kịp thời.
− Chuẩn bị bệnh nhân, dụng cụ, thuốc men, phụ giúp thầy thuốc chọc hút dịch màng bụng khi có chỉ định.
2.3.3. Lập kế hoạch theo dõi 
− Mạch, nhiệt độ, huyết áp, nhịp thở và cân nặng.
− Vị trí đau, hướng lan.
− Các dấu chứng hôn mê gan.
− Dấu xuất huyết.
− Diễn biến của bệnh.
− Tác dụng và cách dùng một số thuốc thông thường sử dụng ở giai đoạn cuối.
2.3.4. Giáo dục sức khỏe 
− Hướng dẫn bệnh nhân tự phục vụ bản thân.
− Hướng dẫn gia đình bệnh nhân chăm sóc, giúp đỡ người bệnh.
− Thân nhân người bệnh nên kết hợp với điều dưỡng viên ghi chép, theo dõi bảng theo dõi sử dụng thuốc.
− Thân nhân người bệnh cần biết nguyên nhân ung thư gan và tầm quan trọng của vấn đề ngăn ngừa viêm gan siêu vi.
2.4. Thực hiện kế hoạch chăm sóc 
2.4.1. Chăm sóc cơ bản 
− Khi tiếp cận người nhà bệnh nhân người điều dưỡng phải luôn nhẹ nhàng, lịch sự, nhã nhặn và thông cảm với họ.
− Trọng tâm của chăm sóc bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối là làm giảm đau và các triệu chứng khác, làm cho bệnh nhân cảm thấy dễ chịu hơn. Việc làm giảm hay ngăn ngừa triệu chứng có ý nghĩa và đem lại sự an lành cho bệnh nhân giai đoạn cuối.
− Chăm sóc về tinh thần:
+ Tôn trọng và đáp ứng những nhu cầu về mặt tình cảm của bệnh nhân tuân theo tôn giáo và những yêu cầu của bệnh nhân.
+ ở giai đoạn cuối cùng của cuộc đời, bệnh nhân thường cảm thấy cô đơn tuyệt vọng, do vậy người người điều dưỡng phải thường xuyên ở bên cạnh bệnh nhân để động viên và giúp đỡ họ.
+ Giúp đỡ bệnh nhân ổn định về mặt tâm lý, sinh lý và tinh thần.
+ Đảm bảo cho bệnh nhân và thân nhân không bị đơn độc trong giai đoạn cuối.
− Đối với thân nhân:
Phải tôn trọng và đáp ứng những nhu cầu về mặt tình cảm của thân nhân khi họ đến thăm bệnh nhân (trong điều kiện cho phép). Khi gia đình bệnh nhân hỏi về những vấn đề chuyên môn, người điều dưỡng có thể trả lời trong phạm vi cho phép. Khi chăm sóc bệnh nhân điều dưỡng viên thông báo và giải thích cho thân nhân về việc mình cần làm và yêu cầu gia đình bệnh nhân ra ngoài. Người nhà đến thăm và ở lâu với bệnh nhân, điều dưỡng hướng dẫn, giúp đỡ họ nơi ăn ở, các điều kiện sinh hoạt.
+ Chuyển bệnh nhân đến phòng riêng, tránh gây ồn ào, tiện cho việc chăm sóc và không ảnh hưởng đến bệnh nhân khác.
− Chế độ ăn uống:
+ Thức ăn lỏng, dễ tiêu, ăn nhạt khi có cổ trướng, hạn chế lipid, ăn tăng glucid và protein.
+ Theo dõi lượng nước vào ra bằng cách theo dõi lượng nước uống vào và đo lượng nước tiểu 24 giờ.
− ở giai đoạn cuối bệnh nhân mất cảm giác ngon miệng, buồn nôn, miệng bị khô, đỏ hoặc phỏng rộp lưỡi. Do đó, cần chăm sóc miệng thường xuyên (2 giờ /1 lần), kiểm tra tưa miệng, hướng dẫn kỹ thuật súc miệng và khuyến khích uống nhiều nước (nếu bệnh nhân không có cổ trướng, suy thận).
− Chăm sóc điều dưỡng rất quan trọng ở giai đoạn cuối. Đôi khi còn hiệu quả hơn dùng thuốc. Bệnh nhân lúc này rất yếu do nằm bất động quá lâu nên thường bị loét, táo bón, chán ăn, đau, buồn nôn và trầm cảm.
− ở bệnh nhân nằm lâu một tư thế, làm đau và co cứng cơ nên cần thay đổi gối kê, xoa bóp và nếu được cho ra khỏi giường trong một thời gian ngắn.
− Dù bất cứ nguyên nhân nào, cảm giác đau chịu tác động của nhiều yếu tố phối hợp. Đau cũng sẽ tăng lên khi lo lắng, trầm cảm, cô đơn… và các triệu chứng khác như táo bón. Đau sẽ giảm nhờ vào giải trí, thư giãn, bình thản và tình thân hữu.
− Công tác chính của điều dưỡng viên khi thăm bệnh là làm vệ sinh cá nhân cho bệnh nhân hàng ngày, đây là cơ hội để nhận định tình trạng bệnh nhân tiến triển tốt hay xấu đi để kịp thời thông báo cho bác sĩ.
− Chăm sóc khi có biến chứng chảy máu tiêu hóa:
+ Cho bệnh nhân nằm nghỉ tuyệt đối tại giường, đầu thấp, gối mỏng dưới vai, kê chân cao.
+ Tạm ngừng cho bệnh nhân ăn bằng đường miệng.
+ ủ ấm cho bệnh nhân.
+ Phụ giúp thầy thuốc đặt cathete theo dõi áp lực tĩnh mạch trung tâm.
+ Truyền dịch, truyền máu khẩn trương theo y lệnh.
− Đề phòng hôn mê gan:
+ Đặt ống thông hút hết máu còn ứ đọng trong dạ dày, sau đó rửa dạ dày bằng nước lạnh.
+ Thụt tháo phân để lọai trừ nhanh chóng máu đã xuống ruột.
+ Hạn chế các yếu tố làm dễ: nhiễm trùng, xuất huyết, rối loạn nước điện giải.
− Tận tình chăm sóc cứu chữa bệnh nhân đến phút cuối.
2.4.2. Thực hiện y lệnh 
− Thuốc: thực hiện đúng qui trình, kỹ thuật, thực hiện chính xác kịp thời chỉ định của bác sĩ.
− Thực hiện các xét nghiệm.
− Nếu có chỉ định của bác sĩ, điều dưỡng viên có thể thăm khám trực tràng và thụt tháo cho bệnh nhân.
− Tiến hành khẩn trương mọi y lệnh, đồng thời tìm mọi cách để làm giảm sự đau khổ của bệnh nhân.
− Mọi công việc thực hiện một cách nhẹ nhàng, nhanh gọn, có hiệu quả, tránh để thân nhân nghĩ là điều dưỡng thờ ơ với bệnh nhân khi họ sắp chết.
− Dựa vào việc cho bệnh nhân dùng thuốc và theo dõi, điều dưỡng có thể báo bác sĩ thay đổi thuốc nếu cần.
2.4.3. Thực hiện kế hoạch theo dõi 
− Mạch, nhiệt độ, huyết áp, nhịp thở và cân nặng
− Các dấu chứng hôn mê gan
− Dấu xuất huyết
− Vị trí đau, hướng lan
− Các triệu chứng khác như: buồn nôn và nôn, xuất huyết tiêu hóa, táo bón, ăn uống kém, tưa miệng, lo âu, cảm giác mất mát, trầm cảm, lú lẫn, mê sảng, co giật…
− Theo dõi tác dụng và cách dùng một số thuốc thông thường được sử dụng ở giai đoạn cuối.
− Các xét nghiệm: công thức máu, VS, chức năng gan, chức năng thận…
− Tác dụng phụ của thuốc: tác dụng phụ của morphin: buồn nôn, chóng mặt, lú lẫn, táo bón, co giật. Có thể làm giảm tác dụng phụ bằng cách giảm liều hoặc cho thuốc chống nôn và chế độ ăn chống táo bón.
− Theo dõi các dấu chứng hôn mê gan:
+ Theo dõi sự thay đổi tính tình: bệnh nhân đang vui rồi lại buồn, thờ ơ
+ Bệnh nhân có những biểu hiện rối loạn về trí nhớ
+ Mất phương hướng về thời gian, không gian, mất khả năng tập trung tư tưởng
+ Bàn tay run do rối loạn trương lực cơ.
− Khi có dùng bơm tiêm tự động, điều dưỡng phải theo dõi nơi tiêm để phát hiện sớm tắc nghẽn hay có dấu hiệu nhiễm trùng.
− Trong trường hợp bệnh nhân đái dầm, có thể dùng các loại vải trải giường thấm hút hoặc giường bằng nhựa, dẫn lưu.
2.4.4. Giáo dục sức khỏe 
− Hướng dẫn bệnh nhân tự phục vụ bản thân.
− Hướng dẫn gia đình bệnh nhân kỹ thuật chăm sóc, giúp đỡ người bệnh, để họ tự tin và có khả năng chăm sóc bệnh nhân một cách độc lập. Mối quan hệ thân mật giữa người bệnh và điều dưỡng giúp cho người bệnh niềm tin để xua đi nỗi lo lắng và nỗi thất vọng.
− Thân nhân người bệnh nên kết hợp với điều dưỡng viên ghi chép, theo dõi bảng theo dõi sử dụng thuốc.
− Để giảm nguy cơ gây táo bón, điều dưỡng có thể hướng dẫn cách thụt tháo nhẹ cho người chăm sóc.
− Thân nhân người bệnh cần biết nguyên nhân ung thư gan và dự phòng ung thư gan chủ yếu dựa vào tiêm chủng phòng virut viêm gan B và điều trị các bệnh viêm gan mạn do virut.
2.5. Đánh giá 
Việc chăm sóc bệnh nhân có hiệu quả khi đảm bảo các vấn đề sau:
− Bệnh nhân ăn thấy ngon miệng và không sụt cân.
− Bệnh nhân được yên tâm, thoải mái khi nằm viện và có sự hiểu biết nhất định về bệnh.
− Bệnh nhân được chăm sóc toàn diện, không có tai biến do quá trình điều trị.
− Đánh giá chức năng gan và thận ảnh hưởng như thế nào đến sự hấp thu, chuyển hóa và bài tiết của các loại thuốc và hạn chế tối đa tác dụng phụ của thuốc.
− Dựa vào xét nghiệm máu, cân bằng kiềm toan, chức năng gan, đường máu, chức năng thận, huyết sắc tố, siêu âm và X-quang để so sánh với các kết quả lần trước, để theo dõi diễn tiến của bệnh.
− Vai trò người điều dưỡng là chăm sóc, giáo dục, động viên, an ủi cho bệnh nhân và gia đình phát hiện sớm các triệu chứng, theo dõi diễn tiến của bệnh để có kế hoạch chăm sóc và điều trị tốt hơn.

Xét Nghiệm Máu cần làm trong thời kỳ mang thai

Ai Cần Làm Những Xét Nghiệm Này?

Tất cả phụ nữ nên làm một số xét nghiệm máu nhất định khi mang thai. Xét nghiệm máu kiểm tra tình trạng sức khỏe của bạn và giúp loại trừ các vấn đề tiềm ẩn.

Xét Nghiệm Làm Gì?

Khi bạn vừa mang thai, bác sĩ sẽ lấy mẫu máu của bạn. Phòng thí nghiệm sẽ kiểm tra các vấn đề có thể ảnh hưởng đến bạn và em bé, bao gồm rubella (bệnh sởi Đức), xơ nang, bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm, viêm gan B, nhiều bệnh lây truyền qua đường tình dục và các bệnh khác.

Bác sĩ cũng sẽ sử dụng mẫu máu này để kiểm tra nhóm máu của bạn, yếu tố Rh, lượng đường trong máu, số lượng tế bào và hemoglobin, một loại protein vận chuyển oxy khắp cơ thể bạn.

Sau đó, bạn sẽ được xét nghiệm máu lại. Các xét nghiệm này có thể kiểm tra bệnh tiểu đường thai kỳ, nhiễm trùng và đánh giá nguy cơ dị tật bẩm sinh của em bé. (Những xét nghiệm này có thể được thực hiện vào nhiều thời điểm trong thai kỳ. Xét nghiệm di truyền thường được thực hiện trong ba tháng đầu và là tùy chọn.)

Xét Nghiệm Máu cần làm trong thời kỳ mang thai
Xét Nghiệm Máu cần làm trong thời kỳ mang thai

Cách Thực Hiện Xét Nghiệm

Xét nghiệm máu an toàn cho bạn và em bé. Kỹ thuật viên sẽ lấy một lượng máu nhỏ từ cánh tay của bạn.

Những Điều Cần Biết Về Kết Quả Xét Nghiệm

Nếu bất kỳ kết quả xét nghiệm nào của bạn không bình thường, bác sĩ có thể đề nghị làm thêm các xét nghiệm theo dõi. Nếu có vấn đề, điều trị hoặc theo dõi thêm sẽ giúp giữ cho bạn và em bé khỏe mạnh.

Bao Lâu Thì Nên Làm Xét Nghiệm Trong Thời Gian Mang Thai?

Bạn sẽ được làm xét nghiệm máu trong lần khám thai đầu tiên. Trong tam cá nguyệt thứ hai, bạn sẽ được làm xét nghiệm máu để kiểm tra bệnh tiểu đường và kiểm tra lại hemoglobin của mình. Nếu bạn có yếu tố Rh âm tính, kháng thể của bạn sẽ được kiểm tra lại. Bạn có thể làm thêm các xét nghiệm máu khác, tùy thuộc vào sở thích và tình trạng sức khỏe của bạn.

Các Tên Khác Cho Những Xét Nghiệm Này

Yếu tố Rh, Sàng lọc trong ba tháng đầu, Sàng lọc Quad, Xét nghiệm các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STD), Xét nghiệm tiền sản.

Các Xét Nghiệm Tương Tự

Xét nghiệm nước tiểu