Blog Trang 477

Thị Giác Là Gì? Kết quả kiểm tra và đánh giá

Thị Giác Quan Trọng Như Thế Nào?

Acuity of vision là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả độ rõ ràng hoặc sắc nét của thị giác của bạn khi được đo ở khoảng cách 20 feet (khoảng 6 mét).

Thị giác là phép đo lâm sàng phổ biến nhất về cách mà đôi mắt của bạn hoạt động. Nó thường là một trong những bài kiểm tra đầu tiên được thực hiện trong một cuộc khám mắt toàn diện để xác định độ sắc nét của thị lực của bạn.

Nếu ai đó có thị giác 20/20, điều đó có nghĩa là họ có thể nhìn thấy cùng một lượng chi tiết từ khoảng cách 20 feet như người bình thường. Nếu ai đó có thị giác 20/40, họ có thể nhìn thấy cùng một lượng chi tiết từ khoảng cách 20 feet mà người bình thường sẽ nhìn thấy từ khoảng cách 40 feet.

Tại Sao Thị Giác Quan Trọng?

Việc đo thị giác của bạn là một trong những quy trình đầu tiên mà bạn sẽ thực hiện trong một cuộc khám mắt toàn diện tại một bác sĩ nhãn khoa.

Bài kiểm tra thị giác này là một phần quan trọng để xác định các dấu hiệu của các vấn đề về thị lực. Ví dụ, nó có thể phát hiện ra các lỗi khúc xạ, thường được biết đến với tên gọi cận thị và viễn thị. Viễn thị (hyperopia) xảy ra khi bạn có thị lực xa rõ ràng trong khi thị lực gần thì kém rõ. Cận thị (myopia) là ngược lại — thị lực gần của bạn có thể rõ ràng, trong khi thị lực xa lại mờ.

Có thị giác 20/20 không nhất thiết có nghĩa là thị lực của bạn là hoàn hảo. Thị giác chỉ đo độ sắc nét hoặc độ rõ ràng của thị lực của bạn ở khoảng cách xa. Sức mạnh của thị giác cũng bao gồm sự phối hợp của mắt, khả năng cảm nhận độ sâu, nhận thức ngoại vi, khả năng tập trung và thị lực màu.

Thị Giác Được Kiểm Tra Như Thế Nào?

Một bài kiểm tra thị giác sẽ xem xét mức độ bạn có thể mô tả chi tiết của một chữ cái, hình ảnh hoặc ký hiệu từ một khoảng cách nhất định.

Trẻ em thường thực hiện các bài kiểm tra thị giác để theo dõi sự phát triển thị lực của chúng. Việc phát hiện sớm các vấn đề này có thể ngăn chặn bất kỳ vấn đề nào trở nên tồi tệ hơn.

Như một người lớn, bạn có thể cần một cuộc kiểm tra nếu bạn gặp vấn đề với thị lực của mình hoặc nếu bạn cảm thấy độ rõ của thị lực đã thay đổi. Nó cũng có thể là một phần trong các bài kiểm tra thị giác mà bạn có thể thực hiện để lấy giấy phép lái xe.

Có hai loại bài kiểm tra thị giác:

  • Kiểm Tra Snellen

Bài kiểm tra Snellen sử dụng một bảng có chứa các chữ cái hoặc ký hiệu. Các chữ cái này được sắp xếp thành các hàng — mỗi hàng ngày càng nhỏ hơn xuống bảng.

Để đo thị giác, bạn sẽ được yêu cầu đứng cách bảng khoảng 20 feet. Khi bạn che một trong hai mắt của mình, bác sĩ nhãn khoa hoặc chuyên gia y tế sẽ yêu cầu bạn xác định các chữ cái trong mỗi hàng và đọc chúng to. Thông thường, họ sẽ yêu cầu bạn đi xuống mỗi hàng và đọc các chữ cái nhỏ hơn — cho đến khi bạn không thể xác định chúng nữa. Sau đó, bạn lặp lại quy trình với mắt còn lại.

  • Kiểm Tra E Ngẫu Nhiên

Bài kiểm tra E ngẫu nhiên thường được sử dụng cho trẻ em hoặc người lớn gặp khó khăn trong việc xác định chữ cái. Thay vì đọc các chữ cái khác nhau, bài kiểm tra E ngẫu nhiên chỉ sử dụng chữ E in hoa.

Khi bạn di chuyển xuống bảng, chữ E in hoa sẽ hướng về các hướng khác nhau và giảm kích thước. Bạn sẽ được yêu cầu xác định hướng mà chữ E đang chỉ (lên, xuống, trái, hoặc phải) cho đến khi bạn không thể nhìn thấy rõ ràng nữa.

Bài kiểm tra E ngẫu nhiên được tính toán theo cùng một cách như bài kiểm tra Snellen — dòng mà hầu hết các chữ E có thể được xác định chính xác.

Hiểu Kết Quả Kiểm Tra Của Bạn

Khi bạn hoàn thành một bài kiểm tra thị giác, bạn sẽ nhận được kết quả dưới dạng một phân số. Số ở trên chỉ khoảng cách bạn đứng từ bảng. Trong hầu hết các trường hợp, điều này sẽ là 20 feet. Số ở dưới chỉ khoảng cách mà một người bình thường có thể đọc cùng một dòng mà bạn đã đọc.

Ngay cả khi bạn bỏ lỡ một vài chữ cái trên dòng nhỏ nhất mà bạn có thể đọc, dòng đó vẫn sẽ được tính vào kết quả của bạn.

Ví dụ, 20/20 được coi là bình thường. 20/40 chỉ ra rằng dòng mà bạn đọc đúng có thể được đọc bởi một người có thị lực bình thường từ khoảng cách 40 feet.

Người có kết quả thị lực tốt nhất được điều chỉnh là 20/200 thì được coi là mù hợp pháp. Mặc dù có thể có thị lực tốt hơn 20/20 (không cần sự trợ giúp của thiết bị, như ống nhòm), giới hạn được cho là khoảng 20/10.

Cách Đọc Đơn Thuốc Kính Của Bạn

Khi bạn nhìn vào đơn thuốc kính của mình, bạn sẽ thấy các số được liệt kê dưới các tiêu đề OS và OD. Đây là các viết tắt bằng tiếng Latin: OS (oculus sinister) có nghĩa là mắt trái và OD (oculus dexter) có nghĩa là mắt phải. Đôi khi, bạn sẽ thấy một ghi chú cho OU (oculus uterque), có nghĩa là điều gì đó liên quan đến cả hai mắt. Nói chung, số càng xa 0 trong đơn thuốc, thị lực của bạn càng tệ và bạn càng cần sự điều chỉnh thị lực (đơn thuốc mạnh hơn). Một dấu cộng (+) đứng trước số có nghĩa là bạn bị viễn thị, và một dấu trừ (-) có nghĩa là bạn bị cận thị. Những số này đại diện cho diop, đơn vị được sử dụng để đo sự điều chỉnh, hoặc sức mạnh tập trung của thấu kính mà mắt của bạn cần. Diop thường được viết tắt là “D.”

Ví dụ, nếu đơn thuốc của bạn ghi -1.00, bạn có 1 diop cận thị. Đây là một mức độ cận thị khá nhẹ. Nếu bạn là -4.25, điều đó có nghĩa là bạn có 4 và 1/4 diop cận thị. Điều này có nghĩa là bạn cận thị nhiều hơn -1.00 và cần thấu kính mạnh hơn (dày hơn). Tương tự, +1.00 sẽ là một mức độ viễn thị nhỏ và +5 sẽ là nhiều hơn.

Đối với những người có chứng loạn thị, sẽ có ba số trong đơn thuốc của bạn. Hình thức chung để viết những số này là S x C x Trục.

  • S đề cập đến phần “hình cầu” của đơn thuốc, đây là mức độ cận thị hoặc viễn thị đã được thảo luận ở trên.
  • C đề cập đến “xi-lanh” hoặc loạn thị, và có thể là một số âm hoặc dương. Nó đo trong diop mức độ loạn thị mà bạn có. Số này càng lớn, loạn thị của bạn càng nhiều. Loạn thị thường được gây ra bởi một giác mạc có hình dạng giống như bóng đá hơn là bóng rổ.
  • Trục là một số từ 0 đến 180 độ. Nó tiết lộ hướng của loạn thị. Chỉ cần xác định mức độ loạn thị không đủ; bạn phải biết nơi mà sự khác biệt trong độ cong đang diễn ra.

Dưới đây là hai ví dụ về đơn thuốc cho mắt có loạn thị:

-2.00 +1.50 x 180

+3.50 +3.00 x 45

Đơn thuốc đầu tiên có nghĩa là người đó có 2 diop cận thị với 1.5 diop loạn thị và một trục 180 độ.

Đơn thuốc thứ hai có nghĩa là người đó có 3.5 diop viễn thị, 3 diop loạn thị và một trục 45 độ.

Nếu Bạn Không Có Thị Giác 20/20

Không có thị giác 20/20 là điều bình thường. Chỉ khoảng 35% người lớn có thị giác 20/20 mà không cần sử dụng kính chỉnh thị lực hoặc phẫu thuật.

Nếu thị giác của bạn không đạt 20/20, bạn có thể cần kính áp tròng, kính mắt hoặc phẫu thuật. Có thể cũng có một tình trạng mắt tiềm ẩn cần được điều trị. Bác sĩ hoặc bác sĩ nhãn khoa của bạn có thể thảo luận về bất kỳ điều trị hoặc điều chỉnh nào có thể cần thiết.

Nhiều người có thể đạt được thị giác 20/20 với việc sử dụng kính chỉnh thị lực. Tuy nhiên, bạn không cần phải có thị giác 20/20 để lái xe, làm việc hoặc thực hiện các hoạt động hàng ngày khác.

Tóm tắt

  • Thị giác được đo bằng độ rõ nét của hình ảnh ở khoảng cách 20 feet.
  • Thị giác 20/20 được coi là bình thường.
  • Các bài kiểm tra thị giác bao gồm kiểm tra Snellen và kiểm tra E ngẫu nhiên.
  • Kết quả thị giác được diễn tả dưới dạng phân số (số ở trên là khoảng cách từ bảng).
  • Đơn thuốc kính có thể chỉ ra sự cần thiết cho kính áp tròng hoặc phẫu thuật nếu thị giác không đạt 20/20.

Nếu bạn cần thông tin chi tiết hơn hoặc có bất kỳ câu hỏi nào, hãy cho tôi biết!

Xử trí dị vật đường thở ở trẻ

I. ĐẠI CƯƠNG

  • Dị vật đường thở thường gặp ở trẻ Bản chất dị vật có thể từ nguồn gốc thực vật, động vật, kim khí…
  • Nguyên nhân:

+ Dị vật rơi vào đường thở khi cười, ho, nhảy mũi.

+ Do lấy dị vật mũi, dị vật hạ họng.

+ Cannule gãy, rớt vào ống cao su lúc dẫn lưu.

  • Vị trí: thanh quản, khí quản, phế quản…

II. CHẨN ĐOÁN

1. Hội chứng xâm nhập

  • Trẻ nhỏ: khó thở, mặt tái, mắt trợn, vẻ ặt hốt hoảng, cố gắng thở, thở rít sau đó ho bật ra
  • Trẻ lớn: sặc, ho từng tràng, có khi đau nhói

Nếu không ho bật ra, sau hội chứng xâm nhập sẽ xuất hiện một loạt triệu chứng khác tùy thuộc vị trí của dị vật. Hội chứng xâm nhập có thể bị bỏ qua đối với trẻ em quá nhỏ, trong lúc ngủ, động kinh.

2. Dị vật thanh quản

  • Thở rít kèm những cơn co thắt thanh quản
  • Ho từng  tràng,  ho  khan  hoặc  đàm  mủ,  khàn  tiếng  (có  khi mất tiếng).
  • Nếu dị vật nhọn có thể gây đau, khó nuốt

3. Dị vật khí quản

Do dị vật lớn không vào phế quản được gây khó thở, thở rít từ cơn do dị vật di động. Xảy ra ở một số tư thế: thường ngủ và ban đêm. Sau đó yên ổn hoàn toàn. Thường luôn luôn tồn tại một tình trạng khó thở, luôn luôn có ho và khạc đờm mủ có lẫn máu, đau sau xương ức.

4. Dị vật phế quản

Thường dễ bị bỏ quên vì quá nhỏ và không khó thở. Chính biến chứng ở phổi cho biết sự hiện diện của nó:

  • Dữ dội như viêm phổi dầu (peanut bronchitis) trong hóc đậu phộng
  • Có khi chậm: không có một triệu chứng gì.
  • Dị vật bằng kim khí chỉ thấy khi chụp phim, soi hoặc mổ xác.
  • Nếu dị vật bít một phế quản: khó thở, lồng ngực xẹp một bên, rung thanh giảm, gõ đụ Nếu không hoàn toàn: nghe tiếng thổi còi.
  • Tóm lại dị vật phế quản một bên dẫn đến triệu chứng viêm phế quản một bên kéo dài.

III. DIỄN TIẾN VÀ TIÊN LƯỢNG

  • Ho bắn dị vật ra ngoài ngay hoặc sau một thời
  • Chết ngay tức khắc do dị vật lớn gây co thắt thanh môn, tắc nghẽn cơ học
  • Nếu dị vật tồn tại trong đường thở sẽ gây các biến chứng khác nhau tùy thuộc vào vị trí:

+ Thanh quản: dị vật cắm chặt gây phù nề, giả mạc, có khi che lấp dị vật.

+ Khí quản: thường dị vật di động gây rơi vào phế quản hay mắc vào thanh quản dẫn đến viêm khí phế quản xuất tiết.

+ Phế quản phổi: thường dị vật ở phế quản gốc gây phế quản phế viêm, abcès phổi, gây ho, khạc mủ hôi lẫn máu, khó thở, tổng trạng xấu. Trẻ nhỏ thường dễ tử vong vì phế quản phế viêm. Dị vật vô trùng gây viêm phổi mủ mạn tính, xơ phổi, dãn phổi ở vùng dưới dị vật và chít hẹp tại dị vật. Thường ở phế quản thì dị vật gây biến chứng nặng nhất, lệ thuộc vào:

  • Dị vật vô trùng hay không.
  • Bít tắc nhiều hay không.
  • Gây xẹp phổi và ứ dịch
  • Loét và nhiễm trùng niêm mạc có thể gây viêm phế quả Nếu thủng thành phế quản gây tràn mủ – viêm mủ màng phổi, trung thất .

IV. CHẦN ĐOÁN

Chẩn đoán dựa vào:

1. Triệu chứng

  • Bệnh sử có nuốt dị vật, cơn sặc, ho
  • Triệu chứng cơ năng: hội chứng xâm nhập
  • Triệu chứng thực thể:

+ Dị vật thanh quản: khàn tiếng.

+ Dị vật khí quản: co thắt từng cơn.

+ Dị vật phế quản: dị vật mắc lại – dấu hiệu viêm phổi một bên.

  • Chẩn đoán phân biệt với:

+ Khó thở do thức ăn lớn vào thực quản.

+ Cơn sặc: có thể do co thắt thanh môn, bạch hầu, viêm thanh quản.

+ Nếu không có hội chứng xâm nhập rõ ràng dễ lầm lẫn với bệnh phổi khác (viêm phế quản mủ, dãn phế quản, lao phổi, tràn mủ màng phổi, hoại tử phổi). Chỉ qua mổ tử thi mới phân biệt được.

2. Chụp X-quang: ngay khi nghi ngờ có di vật đường thở

  • Cần chụp các tư thế:

+ Thẳng, nghiêng thì hít vào.

+ Thẳng, nghiêng thì thở ra.

+ Nằm nghiêng bên bệnh, tia ngay.

  • Dị vật là kim khí hay xương sẽ thấy rõ trên X-quang.
  • Dị vật không cản quang: xẹp phổi hay khí phế thũng
  • Chụp cản quang với Lipidol bơm vào khí quản: nghẽn lại hay bao quanh dị vật

3. Soi khí – phế quản: vừa chẩn đoán vừa điều trị. Có thể lấy dị vật, thấy mủ xuất tiết, dẫn đến hút, đặt Adrenalin sẽ thấy dị vật bên dưới

V. ĐIỀU TRỊ

Cấp cứu: mở khí quản cấp cứu giải quyết tốt nếu dị vật ở thanh quản, nếu ở khí quản có thể ho bắn ra ở lỗ mở khí quản

Chọn lọc

  • Nếu dị vật ở thanh quản có thể soi gián tiếp để lấy nhưng tốt nhất vẫn là soi trực tiếp
  • Nếu dị vật ở khí phế quản: soi khí phế quản tốt nhất dưới sự ểm soát của soi X-quang. Phải chuẩn bị sẵn ôxy, bộ mở khí quản đề phòng ngưng thở.

Yếu tố thành công

  • Chẩn đoán sớm
  • Kỹ thuật tốt và dụng cụ tốt
  • Lấy dị vật nhanh

Người bệnh phù thũng nên ăn gì

Thường gặp nhiều ở đàn bà, bệnh phù nước thường hạn chế ở hai chi dưới, bộ phận mặt. Bệnh này thường là không nghiêm trọng, không có triệu chứng gì khác.

Món 1: CÁ DIẾC

Nguyên liệu:

  • Cá diếc 1 con
  • thịt nạc 50gr
  • hành, gừng, muối, tương dầu, bột ngọt, dầu ăn, đường, rượu giấm vừa đủ.

Cách chế biến:

Cá diếc bỏ hết vảy mang và lòng, rửa sạch để ráo nước, cho một ít muối vào ướp cá. Thịt nạc bằm nhỏ cho tương dầu bột ngọt vào. Sau đó nhét vào cho đầy bụng cá. Đặt nồi lên bếp cho dầu ăn chín đến 8 phần, cho cá vào chiên một lúc rồi vớt ra, giữ lại một ít dầu trong nồi cho tương dầu, nước sôi vào, nêm vào bột ngọt, muối đường, rượu, giấm. Cho cá vào, để lửa to nấu tới khi sôi lên thì để lửa nhỏ khoảng 20 phút là được.

Cách ăn: Ăn cơm.

Công hiệu: Lặn nước hết phù.

Món 2: CHÁO BẮP ĐẬU VE

Nguyên liệu:

  • Bắp 60gr
  • đậu ve trắng 25gr
  • táo to 60 quả.

    Ngô là một nguồn tốt của nhiều loại vitamin và khoáng chất.
    Ngô là một nguồn tốt của nhiều loại vitamin và khoáng chất.

Cách chế biến:

Bắp, đậu ve, táo to rửa sạch theo cách thông thường nấu cháo, nấu cho tới khi bắp, đậu ve chín nhừ là được.

Cách ăn: Làm điểm tầm.

Công hiệu: Bổ tụy, lợi tiểu, hết phù.

Món 3: CUỘN DƯA CHUỘT DẦU HÀNH

Nguyên liệu:

  • Dưa chuột 400gr
  • muối tinh, bột ngọt, tiêu bột, dầu vừng, hành vừa đủ.

    Dưa chuột chăm sóc da mặt
    Dưa chuột

Cách chế biến:

Dưa chuột cắt thành đoạn 1 tấc, dùng một ít ướp qua rồi cho vào thủy phân, dùng dao cắt từng đoạn dưa thành từng lát, bỏ đi phần ruột, thành cuộn dưa chuột. Sau đó dùng dường trắng, muối chế ra nước ướp trong một giờ. Hành xắt nhỏ dùng dầu vừng xào lên, dầu vừng sẽ làm mất đi mùi hành. Dưa chuột sau khi ướp xong rồi cho dầu hành lên là được.

Cách ăn: Ăn cơm.

Công hiệu: Lợi tiểu hết phù.

  • Nên ăn những thức ăn, thực phẩm bổ thận, bổ khí.

Chẩn đoán và điều trị tràn dịch màng phổi do lao

  1. Đại cương

Tràn dịch màng phổi do lao là bệnh khá thường gặp, xếp hàng thứ 3 sau lao phổi và lao hạch, chiếm 25% đến 37% các trường hợp tràn dịch màng phổi.

Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng ở tuổi trẻ nhiều hơn, nam nhiều hơn nữ, có thể Tràn dịch màng phổi đơn thuần hoặc phối hợp với tổn thương lao ở nhu mô phổi. Người nhiễm HIV có tỷ lệ bệnh cao hơn.

Tiên lượng Tràn dịch màng phổi do lao nói chung là tốt nếu được điều trị đúng, tuy nhiên cần đề phòng các biến chứng nặng do phát hiện muộn hoặc điều trị không đúng như viêm mủ màng phổi, tràn dịch kết hợp với tràn khí màng phổi, dày dính màng phổi, ổ cặn màng phổi.

  1. Chẩn đoán

Chẩn đoán xác định

  • Biu hin lâm sàng
    • Triệu chứng: đa số các trường hợp có biểu hiện ho, chủ yếu là ho khan xuất hiện khi thay đổi tư thế, đau ngực và sốt, đau ngực thường có trước. Khó thở tăng dần chủ yếu do tăng lượng dịch trong khoang màng phổi. Tuy nhiên, một số trường hợp biểu hiện ít cấp tính hơn như đau ngực nhẹ, sốt nhẹ, ho khan, sút cân, mệt mỏi.
    • Khám lâm sàng tại phổi có hội chứng 3 giảm: rung thanh giảm, gõ đục, rì rào phế nang giảm hoặc mất, có thể thấy tiếng cọ màng phổi ở giai đoạn khởi đầu hoặc giai đoạn hấp thu gần hết dịch.
  • Cn lâm sàng
    • X-quang phổi thẳng và nghiêng: thấy hình mờ đều. Dựa trên X-quang có thể chia ra các mức độ tràn dịch màng phổi:
  • Tràn dịch màng phổi ít: tù góc sườn hoành
  • Tràn dịch màng phổi trung bình: hình mờ ở nửa dưới khoang màng phổi, đường cong Damoi Thường kèm theo cơ hoành bị đẩy thấp, trung thất lệch sang bên đối diện.
  • Tràn dịch màng phổi nhiều: hình mờ vượt quá 1/2 khoang màng phổi, có thể mờ đều toàn bộ một bên lồng ngực. Kèm theo cơ hoành bị đẩy thấp, trung thất lệch sang bên đối diện.
  • Siêu âm màng phổi: thấy hình tràn dịch màng phổi, bên cạnh đó còn giúp đánh giá tình trạng vách hóa khoang màng phổi.
  • Chọc hút dịch màng phổi dịch thường màu vàng chanh, rất hiếm khi dịch màu hồng mà vẫn có nguyên nhân do lao.
  • Phản ứng Mantoux: đường kính sẩn cục 10 mm sau 72 giờ tiêm trong da 5 đơn vị tuberculin được coi là phản ứng dương tính. Mantoux (+) thấy ở 70-80% các trường hợp Tràn dịch màng phổi do la ở người nhiễm HIV kích thước này trên 5 mm là dương tính. Nếu kết quả âm tính cũng không loại trừ chẩn đoán nguyên nhân do lao.
  • Xét nghiệm tìm AFB trong đờm và dịch màng phổi, với dịch màng phổi nên làm theo phương pháp ly tâm lắng cặ Bệnh phẩm cần gửi làm xét nghiệm nuôi cấy tìm vi khuẩn lao. Tỷ lệ tìm thấy AFB trong dịch màng phổi bằng phương pháp soi trực tiếp rất thấp chỉ 0-10%.
  • Xét nghiệm sinh hóa dịch màng phổi thấy tràn dịch màng phổi dịch tiết.
  • Xét nghiệm tế bào trong dịch màng phổi rất có lợi ích cho chẩn đoán, dịch màng phổi do lao thường có rất nhiều tế bào, chủ yếu là tế bào lymphô (> 70%). Nếu thành phần bạch cầu ái toan trong dịch màng phổi trên 10% gợi ý loại trừ nguyên nhân do lao (nếu không có tràn khí màng phổi kèm theo).
  • Adenosin deaminase (ADA) dịch màng phổi tăng, điển hình là trên 70U/L và hiếm khi thấp dưới 40 U/
  • Định lượng Interferon-Gamma dịch màng phổi cho kết quả tăng cao trên 140 pg/ml.
  • Phản ứng nhân gien (PCR) tìm vi khuẩn lao trong dịch màng phổi cũng có vai trò nhất định trong chẩn đoán, tuy nhiên, cần lưu ý đến khả năng dương tính giả.
  • Sinh thiết màng phổi: là một kỹ thuật chẩn đoán rất cần thiết, kết quả cho thấy các u hạt trong tổ chức màng phổi thành, bệnh phẩm sinh thiết cần được xét nghiệm AFB cũng như nuôi cấy tìm vi khuẩn lao. Tỷ lệ xét nghiệm cả mô bệnh học, soi trực tiếp và nuôi cấy tìm vi khuẩn lao sẽ cho kết quả dương tính ít nhất 1 trong ba xét nghiệm là 91%.

Giá trị của một số xét nghiệm cận lâm sàng trong chẩn đoán nguyên nhân

  • Tất cả các trường hợp Tràn dịch màng phổi đều cần xem xét nguyên nhân do lao, X- quang ngực chuẩn và CT, xét nghiệm đờm tìm AFB, tìm các tổn thương phối hợp như hạch ngoại biên, chọc hút dịch màng phổi làm xét nghiệm cận lâm sàng tùy theo điều kiện sẵn có.
  • Nếu tìm thấy AFB hoặc nuôi cấy vi khuẩn lao dương tính trong dịch màng phổi thì đó là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán Tràn dịch màng phổi do
  • ADA >70 U/L và tỷ lệ bạch cầu lympho trên 75% có thể gợi ý chẩn đoán Tràn dịch màng phổi do lao
  • Nếu ADA từ 40 đến 70 U/L và tỷ lệ bạch cầu lymphô và bạch cầu trung tính trên 75% cũng có thể chẩn đoán Tràn dịch màng phổi do lao nếu các biểu hiện lâm sàng, X-quang phù hợp hoặc có thể xem xét soi hoặc sinh thiết màng phổi.
  • Nếu ADA dưới 40 U/L có thể loại trừ Tràn dịch màng phổi do lao và có thể áp dụng các kỹ thuật đặc hiệu hơn như soi hoặc sinh thiết màng phổi.
  • Interferon-Gamma tăng cao trên 140 pg/ml có thể xác định được Tràn dịch màng phổi do lao với độ nhậy và độ đặc hiệu ca Tại điểm cắt 149 pg/ml, IFN có ý nghĩa chẩn đoán Tràn dịch màng phổi do lao với độ nhạy là 84,2% và độ đặc hiệu là 96,2 %.

Chẩn đoán phân biệt

  • Tràn dịch màng phổi ác tính (ung thư màng phổi nguyên phát hoặc di căn): Thường dịch màu đỏ, xét nghiệm thấy tế bào ung thư trong dịch màng phổi. ADA, Interferon-Gamma thấ Chụp X-quang phổi sau khi hút dịch màng phổi, chụp cắt lớp vi tính (CT), soi phế quản, soi màng phổi sẽ là các kỹ thuật rất có giá trị cho chẩn đoán Tràn dịch màng phổi ác tính.
  • Tràn dịch màng phổi dịch tiết do nguyên nhân khác như: phản ứng màng phổi của viêm phổi, nhồi máu phổi, áp xe gan (đối với bên phải).
  • ADA cũng có thể cao trong 2 trường hợp Tràn dịch màng phổi là mủ màng phổi và tràn dịch màng phổi trong thấp khớp, tuy nhiên, dễ dàng phân biệt dựa vào hình ảnh lâm sàng và tế bào trong dịch màng phổi không phải ưu thế bạch cầu lymphô.
  • Đối với các nước bệnh lao còn phổ biến như nước ta, tràn dịch màng phổi nước vàng chanh, dịch tiết, không xác định được các nguyên nhân nào khác thì có thể chẩn đoán như là Tràn dịch màng phổi do lao và tiến hành điều trị thử theo phác đồ la

Các thể đặc biệt của Tràn dịch màng phổi do lao

  • Tràn mủ màng phổi do lao:

Là một biến chứng ít gặp đặc trưng bởi mủ màng phổi có chứa nhiều vi khuẩn lao, khác với biểu hiện cấp tính của viêm mủ màng phổi do vi khuẩn. Các trường hợp này thường có tổn thương từ nhu mô phổi gần màng phổi hoặc các hang lao thông với màng phổi. Mủ màng phổi có thể tự do hoặc khư trú. Tổn thương màng phổi dày dính, vôi hóa, và dày màng xương sườn vùng mủ màng phổi khư trú. Mủ màng phổi do lao có nhiều tế bào lymphô và có tỷ lệ AFB (+) cao. Điều trị tràn mủ màng phổi do lao cần dẫn lưu màng phổi và xem xét can thiệp bóc ổ cặn màng phổi bằng phẫu thuật thông thường hoặc phẫu thuật nội soi 2 tháng sau khi bắt đầu hóa trị liệu chống lao.

  • Tràn dịch màng phổi có thông phế quản do lao

Hiện nay ít gặp vì hóa trị liệu chống lao có hiệu quả. Chỉ còn gặp ở các trường hợp tràn khí tràn dịch màng phổi do lao mà không được điều trị kịp thời và đúng cách, còn gọi là ổ cặn màng phổi do lao. Chẩn đoán dựa vào hình ảnh mức nước hơi trên phim X-quang ngực hoặc bơm xanh methylen vào màng phổi, bệnh nhân khạc đờm có màu xanh. Thể bệnh này rất nguy hiểm vì: (1) sự liên thông phế quản màng phổi là cầu nối để vi khuẩn xâm nhập vào màng phổi gây ra viêm màng phổi mủ có nhiều khả năng gây nhiễm độc; (2) khi khoang màng phổi có bội nhiễm, nguy cơ viêm phổi do sự xâm nhập các chất nhiễm khuẩn từ màng phổi vào các phế khí quản còn lại; và (3) vi khuẩn lao trong khoang màng phổi có nguy cơ trở nên kháng đa thuốc. Điều trị Tràn dịch màng phổi có thông phế quản do lao cần bắt đầu bằng hóa trị liệu chống lao đủ mạnh, điều trị kháng sinh phổ rộng phối hợp và dẫn lưu màng phổi điểm thấp của ổ cặn. Phẫu thuật nên đặt ra sau hóa trị liệu chống lao đến khi AFB (-).

  1. Điều trị

  • Tràn dịch màng phổi do lao cần điều trị đúng cách để tránh bệnh lao tiến triển sau này, tránh dày dính màng phổi hay ổ cặn màng phổi.
  • Chọc hút dịch màng phổi được chỉ định sớm để chẩn đoán và giảm nhẹ triệu chứng, nhắc lại khi có triệu chứng khó thở. Cần chú ý vô trùng và tránh gây tràn khí màng phổi. Nếu không có triệu chứng khó thở, đau ngực đáng kể việc chọc hút thường xuyên đến lúc hết là không cần thiết, cùng với tác dụng của hóa trị liệu dịch màng phổi có thể được hấp thu.
  • Hóa trị liệu: người bệnh cần được điều trị với phác đồ 2RHZE/4RH có kiểm soát trực tiếp toàn bộ 6 tháng của Chương trình chống lao Quốc gia:
  • 2 tháng tấn công hàng ngày, liều theo cân nặng: rifampixin 10 mg/kg, rimifon 5 mg/kg, pyrazinamid 25 mg/kg và ethambutol 15kg.
  • 4 tháng duy trì hàng ngày, liều tương tự như trên: rifampixin, rimifon
  • Thuốc uống 1 lần lúc đói (trước bữa ăn 1 giờ hoặc sau bữa ăn 2 giờ).
  • ở người bệnh có tiền sử bệnh lý gan (viêm gan virus, nghiện rượu, ) cần bổ sung các thuốc bảo vệ gan và theo dõi chặt chẽ đề phòng tác dụng không mong muốn của thuốc.
  • ở người bệnh có nhiễm HIV cần điều trị phối hợp với thuốc kháng virus (ARV) và điều trị dự phòng nhiễm trùng cơ hội khác (cotrimoxazol).
  • Tập phục hồi chức năng cần được chỉ định sớm, ngay sau khi thực hiện phác đồ hóa trị liệu bao gồm tập thở căng giãn màng phổi từ bên ngoài và thổi bóng tăng dần để tăng giãn nở phổi từ bên tron
  • Corticosteroid có thể có tác dụng làm giảm triệu chứng nhanh và tăng tái hấp thu dịch màng phổi nên có thể dùng trong 2 tuần đầu. Tác dụng phòng ngừa dày dính màng phổi còn không rõ ràn
  • Điều trị biến chứng mủ màng phổi hoặc thông phế quản – màng phổi bằng dẫn lưu màng phổi tối thiểu hoặc tối đa, phẫu thuật song song cùng với hóa trị liệu đủ mạnh.
  1. Phòng bệnh

Phòng Tràn dịch màng phổi do lao đó là phòng bệnh lao nói chung. Điều quan trọng là phòng cấp 2 tức là khi có Tràn dịch màng phổi do lao cần được chẩn đoán sớm, điều trị đúng cách để phòng bệnh lao tiến triển, phòng các biến chứng và di chứng.

Tài liệu tham khảo

  1. Bộ Y tế (2005), “Hướng dẫn điều trị (tập I)”, NXB Y học.
  2. Bộ Y tế (2009), “Hướng dẫn quản lý bệnh lao”, NXB Y học.
  3. Bộ Y tế (2009), “Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị HIV/AIDS”, NXB Y học.
  4. Light R.W. (2007), “Pleural Diseases”, 4th ed, Lippincott Williams & Wilkins.
  5. Mason R.J. et al. (2010), Murray & Nadels Textbook of Respiratory Medicine, 5thed, Saunders, Elsevier.
  6. WHO (2010),     “Guideline      for    the     diagnosis      and     treatment       of tuberculosis”.

Những ai không được đi máy bay?

Những máy bay theo tuyến đều được điều áp. Áp suất riêng phần của oxy được duy trì trong máy bay từ 60-70 mmHg, tương đương với áp suất ở độ cao 2500m. Điều kiện áp suất này đối với những người bình thường có sức khoẻ tốt, thì chịu đựng được hoàn toàn không có vấn đề gì, nhưng cũng có thể gây ra một số rối loạn ở một số bệnh nhân. Không khí ở trong buồng máy bay cực kỳ khô, và nếu chuyến bay dài thì có thể gây ra mất nước đôi khi ở mức độ quan trọng, nếu không uống đủ nước. Những hãng máy bay bao giờ cũng có dịch vụ y tế để quyết định những trường hợp khó khăn và bố trí những biện pháp cần thiết (xe đẩy, oxy, có sẵn trong chuyến bay, V..V..).

Những điều thận trong và chống chỉ định khi du hành bằng máy bay

Tuổi: trẻ em dưới một tuần tuổi không nên đi máy bay. Còn đối với người lớn, thì không có giới hạn quy định nào dù với người già, miễn là không có vấn đề gì nặng về sức khoẻ.

Thiếu máu: những người hàm lượng hemoglobin thấp dưới 8,5 g/100ml thì không nên du hành bằng máy bay. Chống chỉ định đối với bệnh nhân bị bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm.

Lo âu: những người mắc chứng lo âu nặng thì nên có người khác đi kèm, và nếu cần thì uống thuốc an thần trước khi bay.

Viêm tai áp suất và viêm xoang áp suất: những đối tượng viêm mũi vận mạch hoặc viêm mũi dị ứng phải nhỏ thuốc chống sung huyết vào mũi trước và trong khi bay.

Những bệnh nhân mở thông dại tràng: tháo nén (giảm áp suất) nói chung làm tăng thể tích hơi và chất bài tiết, do đó cần chuẩn bị túi đựng đủ lớn hoặc nhiều túi đựng.

Tình trạng mất nước: phòng ngừa mất nước cơ thể rất quan trọng vì không khí trong khoang máy bay rất khô. Trong chuyến bay, hành khách phải uống đủ nước bằng các loại đồ uống không có rượu cồn, rượu cồn làm tăng bài niệu.

Điều thận trọng này rất quan trọng đối với những người bị sỏi thận, bị viêm tĩnh mạch huyết khối, hoặc mang kính áp tròng.

Có thai: không nên đi máy bay trong tháng cuối cùng của thời kỳ thai nghén. Một số hãng máy bay cấm không cho những hành khách có thai quá 35 hoặc 36 tuần lên máy bay. Người ta khuyên những hành khách có thai nên đi bách bộ mỗi giờ một lần trong khoang máy bay, vì nguy cơ huyết khối tĩnh mạch. Phụ nữ có thai phải thắt dây lưng an toàn vào đùi.

Bệnh máu: những bệnh nhân thiếu máu hồng cầu hình liềm không nên đi máy bay (nguy hiểm vì có thể gây ra nhồi máu lách).

Các bệnh tim-mạch: chống chỉ định đi máy bay đối với những trường hợp suy tim có biểu hiện, nhồi máu cơ tim đang trong thời kỳ cấp tính hoặc bán cấp tính, cơn đau thắt ngực không ổn định. Trong trường hợp nhồi máu cơ tim không có biến chứng thì có thể đi máy bay vào 2-4 tuần sau kể từ lúc bắt đầu cơn nhồi máu. Đối với tai biến mạch máu não thì cũng vậy. Những trường hợp nhồi máu cơ tim cũ, tăng huyết áp động mạch không biến chứng, tật van tim còn bù, cơn đau thắt ngực ổn định thì không có chống chỉ định đi máy bay. Không cho phép lên máy bay đối với những bệnh nhân bệnh tim bẩm sinh tím tái.

Các bệnh phổi: chống chỉ định bay đối với những người bị tràn khí màng phổi (nguy hiểm vì ngạt thở do không khí trong ổ màng phổi giãn rộng ra), bệnh nhân hen đang giai đoạn cấp tính, bệnh nhân giãn phế nang, và viêm phế quản mạn tính nặng, hoặc bệnh kén phổi.

Nhịp ngày dêm: những cuộc hành trình đường dài bằng máy bay với múi  giờ thay đổi làm rối loạn nhịp sinh học ngày đêm, và sau khi bay cần phải có một thời kỳ thích nghi, và sự thích nghi này càng khó khăn nếu tuổi càng cao. Những bệnh nhân đái tháo đường phụ thuộc insulin phải thích nghi với liều insulin của riêng mình.

Máy kích thích tim: có thể làm khởi động các hệ thống an toàn của máy bay, và bị ảnh hưởng của hệ thống này. Bệnh nhân phải mang theo mình một chứng chỉ y tế xác nhận có mang trên người máy kích thích tim và thông báo cho nhân viên hãng máy bay biết.

Viêm tĩnh mạch huyết khối: dự phòng viêm tĩnh mạch huyết khối là điều quan trọng trong những chuyên bay đường dài. Ngoài vấn đề uống đủ nước, hành khách còn phải thực hiện đều đặn những động tác vận động bàn chân, cẳng chân và đứng dậy mỗi giờ một lần để đi bách bộ một lúc ngay trong khoang máy bay.

Những người bị chấn thương, người đã mổ: vận chuyển những người bị gẫy xương không đặt thêm ra vấn đề nào, ngoài vấn đề có đủ chỗ trong máy bay. Những người đã bị mở ổ bụng hoặc mở lồng ngực không được đi máy bay trong vòng khoảng 10 ngày kể từ ngày phẫu thuật.

Kính áp tròng: vì độ ẩm không cao trong khoang máy bay, nên cần phải nhỏ thường xuyên dung dịch nước mắt nhân tạo.

Cấu trúc của vi khuẩn

Các thành phần cấu tạo vi khuẩn được xếp thành 2 nhóm:

Thành phần chung: Gồm có vách , màng bào tương, bào tương và nhân. Thành phần riêng: nang, lông (flagella), nhung mao (pili) và bào tử.

Nang (capsule):

Thay vỏ, là thành phần ngoài cùng chỉ có ở một số loại vi khuẩn. Nang không cần thiết cho sự sống của vi khuẩn nhưng thường có vai trò trong động lực của vi khuẩn, vì nó ngăn cản sự thực bào, giúp vi khuẩn có thể sống được khi xâm nhập vào cơ thể. Nang còn chứa kháng nguyên đặc hiệu giúp ta định được typ vi khuẩn (ví dụ: Dựa vào thành phần cấu tạo của nang người ta phân biệt được Pneumococcus có trên 85 typ khác nhau). Nang có thể nhìn thấy rõ qua kính hiển vi sau khi nhuộm vi khuẩn bằng phương pháp đặc biệt như nhuộm bằng mực tàu.

Vách tế bào:

  • Là phần vỏ cứng che chở và giữ vững hình dạng của vi khuẩn. Cấu trúc của vách tếbào về cơ bản giúp ta phân chia vi khuẩn thành 2 nhóm theo phương pháp nhuộm màu Gram:

Vi khuẩn Gram dương: Vách tế bào của nhóm này chứa chủ yếu là peptidoglycan đến 80-90%, và một số thành phần khác như acid teicheic. Do cấu trúc của vách tế bào, nên trong phương pháp nhuộm Gram vách tếbào sẽ giữ màu của thuốc nhuộm gentian, làm vi khuẩn có màu tím.

Vi khuẩn Gram âm: Vách tế bào của nhóm này có cấu trúc hoá học phức tạp. Lớp peptidoglycan ít hơn của loại vi khuẩn Gram dương, chỉ chiếm khoảng 10%. Mặt ngoài của lốp peptidoglycan là một lớp dầy chiếm khoảng 80% gồm các chất protein, lipo- polysaccarid. Lớp lipo- polysaccarid này thường là nội độc tố và là kháng nguyên O; giúp ta định danh được một số vi khuẩn như nhóm vi khuẩn đường ruột. Do cấu trúc trên, nên trong phương pháp nhuộm Gram, vách tế bào của nhóm vi khuẩn Gram âm sẽ không giữ được thuốc nhuộm gentian nên vi khuẩn sẽ có màu hồng do bắt màu với phẩm nhuộm safranin o.

Màng bào tương:

Còn gọi là màng tế bào chất, là một lớp mỏng sát liền bên trong vách tê bào, cấu tạo bỏi những chất protein và lipid. Màng này chứa nhiều enzym nên giữ nhiều nhiệm vụ sinh lý quan trọng như:

  • Thẩm thấu chọn lọc: Vì có khả năng kiểm soát sự đi qua của các chất dinh dưỡng và cặn bã.
  • Hô hấp để cung cấp năng lượng.
  • Điều khiển sự phân bào.

Tiêu hoá tại chỗ một số thức ăn.

Bào tương:

Còn gọi là tế bào chất. Là chất ở thể keo, thành phần hoá học chính là ARN. Trong bào tương có nhiều enzym để thực hiện sự chuyển hoá, sự tổng hợp các nguyên liệu cần thiết cho tế bào. Trong bào tương còn có nhiều thể ribo (ribosom) là những hạt nhỏ dùng làm nơi tổng hợp các loại protein.

Nhân:

Nhân vi khuẩn chỉ gồm 1 sợi ADN duy nhất có trọng lượng phân tử khoảng 3. 109Daltons, độ dài 1mm. Sợi ADN này được coi là nhiễm sắc thể duy nhất của hạt nhân. Nhân không có màng bọc, không có bộ máy gián phân đẳng nhiễm . Nhân có nhiệm vụ di truyền những đặc tính của vi khuẩn mẹ sang vi khuẩn con, cháu.

Lông (flagell):

Cấu tạo bằng protein, xuất phát từ bên trong màng bào tương. Đây là bộ phận di chuyển của.vi khuẩn. Lông còn mang tính kháng nguyên, gọi là kháng nguyên H.

Nhung mao (pili):

Là những sợi nhỏ ngắn. Có 2 loại pili:

  • Pili chung: Có nhiệm vụ giúp vi khuẩn bám vào mô.
  • Pili giới tính: Có nhiệm vụ di chuyển chất liệu di truyền.

Bào tử:

Là một hình thái biến đổi của vi khuẩn giúp vi khuẩn chịu đựng được hoàn cảnh bất lợi như: Khô, nóng, hoá chất sát khuẩn… bào tử cấu tạo bởi những lớp vỏ chứa rất ít nước. Bình thường trong bào tử không có hoạt động biến dưỡng. Dạng bào tử chỉ tìm thấy ở một số vi khuẩn thường là trực khuẩn Gram dương, khi gặp hoàn cảnh bất lợi cho đời sống thì thành lập bào tử để tồn tại. Đến khi có hoàn cảnh thuận lợi thì sẽ nẩy mầm trở lại thành vi khuẩn.

Hướng dẫn điều trị một số bệnh da lành tính bằng thủ thuật

Một số bệnh da lành tính thường gặp không thể giải quyết bằng thuốc mà cần phải can thiệp ngoại khoa. Sau đây một số bệnh da lành tính thường gặp.

MỤN CÓC PHẲNG

Cần tránh tiếp xúc trực tiếp với thương tổn để hạn chế sự lan truyền của siêu vi.

Nên hạn chế cạo lông trên những vùng da có thương tổn vì bệnh sẽ lây lan nhanh

Cần cân nhắc trước khi điều trị vì thương tổn có thể biến mất. Hơn nữa điều trị mụn cóc phẳng có nguy cơ để lại sẹo xấu.

Khi thương tổn xuất hiện ở bộ phận sinh dục, cần liên hệ với bệnh nhiễm qua đường tình dục.

Các phương pháp điều trị:

Nếu thương tổn rải rác có thể thoa trực tiếp acid salicylic từng thương tổn mỗi ngày. Điều trị này bị hạn chế do sự kích thích nên hiện tại không áp dụng.

Thoa kem Tretinoin 0.025%, 0.05%, hoặc 0.1% lên toàn bộ thương tổn lúc đi ngủ. Điều trị có thể lâu dài, cần phải trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng.

Nitrogen lỏng hoặc chạm rất nhẹ với kim đốt điện, laser CO2 có thể thực hiện cho kết quả nhanh.

U HẠT SINH MỦ

U hạt sinh mủ thường gặp ở trẻ em và thanh niên. Nguyên nhân không rỏ, chấn thương da hoặc hormone được xem là những yếu tố quan trọng vì u hạt sinh mủ có thể xảy ra nơi bị tổn thương và trong suốt thời kỳ mang thai.

Thương tổn phổ biến ở đầu, cổ và ngón tay. u hạt sinh mủ tồn tại mãi nếu không điều trị, mặc dù có một vài thương tổn thoái hóa trong vòng 6 tháng, u hạt sinh mủ có thể tái phát sau điều trị.

Phương pháp điều trị

U hạt sinh mủ được điều trị bằng đốt điện hay laser và tiếp sau là dùng nạo cạo (curette) để làm sạch đáy và bờ của thương tổn.

U MỀM LÂY

U mềm lây là do nhiễm DNA virut thuộc họ virut thủy đậu và là trình trạng nhiễm virut tại chổ, tự giới hạn ở da. Nguy cơ truyền bệnh thấp hơn herpes virus và papilloma virus.

U mềm lây có thể xảy ra bất cứ tuổi nào. Thương tổn có khuynh hướng xảy ra trên những vùng cơ thể khác nhau với những nhóm tuổi khác nhau.

U mềm lây khó điều trị ở người suy giảm miễn dịch. Thương tổn thường nhiều hơn và lan tỏa. Kích thước thương tổn khá lớn và xuất hiện dai dẳng.

Cần tránh tiếp xúc trực tiếp với thương tổn để hạn chế sự lan truyền của siêu vi.

Tùy thuộc vào vị trí thương tổn, bệnh nhân được khuyên không nên cạo râu ở vùng thương tổn do có thể dẫn đến tự lây nhiễm.

Khi thương tổn xuất hiện ở bộ phận sinh dục cần liên hệ đến bệnh nhiễm qua đường tình dục và thăm khám bạn tình, cần điều trị và dùng bao cao su để tránh lây lan.

Thương tổn tự lành ở người khỏe mạnh và một số có nguy cơ có sẹo sau điều trị, nên quyết định điều trị phải dựa trên từng cá nhân.

Thương tổn riêng biệt thường tự lành trong vòng 6-9 tháng nhưng có thể kéo dài đến 24 tháng.

Các phương pháp điều trị:

  1. Nạo để lấy đi lỏi nhiễm trùng ở trung tâm. Phương pháp này giúp làm sạch thương tổn ngay tức thì. Nạo đặc biệt hữu ích cho thương tổn vùng sinh dục.
  2. Phẫu thuật lạnh với nitrogen lỏng. Nitrogen lỏng làm đông và phá hủy thương tổn hiệu quả, hiếm khi tạo sẹo.
  3. Thoa kem Tretinoin (0.025%, 0.05%) tại chỗ. cần điều trị liên tục một tháng hoặc nhiều hơn. Tretinoin có thể gây kích thích tại chỗ.
  4. Điều trị u mềm lây bằng laser có kết quả thật tốt. Thường không để lại sẹo và gây rối loạn sắc tố da.
  5. Có thể điều trị đơn giản bằng cách dùng vật bén nhọn (thí dụ như lưỡi dao mỗ) để lẩy nhân của thương tổn và sau đó chấm Iode (Betadine).

Đối với trẻ em

Thương tổn vùng quanh mắt do tự lây nhiễm rất phổ biến, đặc biệt ở trẻ con. Những thương tổn này tốt nhất nên để tự lành. Điều trị hoàn toàn không cần thiết vì thương tổn tự lành do phát triển miễn dịch trung gian tế bào.

Trộn lẫn prilocaine và lidocaine (EMLA) hoặc lidocaine 4%, nên thoa 60-90 phút trước khi làm các thủ thuật nitrogen lỏng hoặc nạo.

MÓNG CHỌC THỊT HAY MÓNG QUẶM

Trong cuộc sống hằng ngày, người ta luôn làm đẹp, làm móng tay hay móng chân là điều phụ nữ quan tâm hàng đầu, trong đó: cắt móng, cắt phần mềm quanh móng, sơn móng tay móng chân, thông thường móng tay ít khi có biểu hiện móng quặm, nhưng móng quặm ở ngón chân, đặc biệt ngón chân cái khóe trong và khóe ngòai ngón chân cái thường gặp móng quặm nhiều nhất.

Các hình thức móng quặm thường gặp:

  • Móng quặm ở phần xa: thường xảy ra sau khi cắt móng làm thuận lợi cho sự hình thành một gờ hay cựa móng còn sót lại gây ra sự nhô cao của mô mềm phần xa.

Biểu hiện lâm sàng bằng sưng nhẹ vùng rìa ngón, đi lại cảm thấy hơi đau trong trường hợp nầy có thể xử trí nội khoa không cần phải gây tê chỉ cần cắt phần rìa ngòai của móng có cựa móng phần móng chọc vào thịt ở mép bên ngón.

Trong thể đau đơn thuần, vùng bên ngón bị chôn vùi vào mô viêm, gây tê tại chỗ luồn vào gốc ngoài một mèche bétadine để bảo vệ thượng bì.

  • Giai đoạn xuất hiện một chồi thịt, ngoài cách chăm sóc trên còn phải cắt đi chồi thịt và cách chăm sóc kháng khuẩn hàng ngày.
  • Trong giai đoạn nhiễm trùng phần ngón sưng to nhiễm trùng có mủ chồi thịt, lúc nầy có thể có dạng như một u hạt sinh mủ, cần điều trị triệt để, thực hiện theo 2 thì: thì đầu cắt đi phần cựa móng, sau đó cần nạo đi phần mô hạt viêm. Thường thì người ta có thể đốt điện hay dùng tia laser để đốt đi phần bên nến móng để không bị tái phát lại móng quặm.

NHỮNG RỐI LOẠN TĂNG SỪNG CỦA VÙNG GAN CHÂN : CHAI CHÂN

Phần nầy bàn đến căn nguyên và điều trị các tổn thương dầy sừng của vùng gan chân , là hậu quả của cọ sát, áp lực hay xuất hiện trên vùng xương bàn ngón, cần phân biệt với những rối loạn nội tại của vùng da như các bệnh lý về da hay nhiễm nấm tinea hoặc do mụn cóc.

Nguyên nhân do xương: phần khớp xương bàn ngón, ở vị trí các xương bàn, bàn chân Mor­ton, khớp bàn đốt ngón cái, hậu quả của chấn thương, bàn chân vẹo trong hay ngoài.

Bệnh hệ thống Viêm đa khớp dạng thấp Viêm khớp vẩy nến

Tổn thương da Mụn cóc Mắt cá chân Da dầy sừng

Nguyên nhân do mô mềm:

Teo mô mỡ vùng gan chân, sẹo gan chân sau chấn thương

Nguyên nhân cơ hoc

Bán trật hay trật khớp bàn đốt

Chai chân do biến dạng Ngón cái vẹo ngoài (Hallux valgus) sau mổ chuyển gân Nguvẽn nhân do thầy thuốc

Sau mổ trên vùng khớp bàn ngón (như là sau chuyển gân )

Mổ Ngón cái vẹo ngoài (Hallux valgus)

Dầy Sừng Gan Chân

Khám nhiều bàn chân có chai chân người ta nhận thấy rằng tình trạng chai chân nói chung dễ chẩn đóan, tuy nhiên chẩn đoán có khi không rõ ràng và người ta cần xem các nguyên nhân khác.

Hình dáng bàn chân cũng cần được quan tâm đến vì những biến dạng không bình thường cần được hướng dẫn hoặc cấp giầy thích hợp nhằm tránh những tì đè tăng áp lực bất thường như bàn chân sụp vòm gan chân, bàn chân bẹt, bàn chân vẹo trong hoặc những biến dạng bàn chân có thay đổi trục xương bàn chân. Những biến dạng nầy không nhất thiết phải có chỉ định ngoại khoa nhưng đa số là điều trị nội khoa bảo tồn.

Biến dạng vẹo bàn chân ngựa (equinus deformity) của vùng khớp mắt cá chân sẽ ảnh hưởng đến việc chịu sức nặng lên trên vùng đầu khớp xương bàn ngón, thường gây ảnh hưởng đến chai chân ở vùng xương bàn 1, 2 và 3. Hậu quả là bệnh nhân rất đau khi đi lại, đặc biệt là ở những bệnh nhân lớn tuổi, thường có kèm theo mô mỡ vùng gan chân. Trường hợp bệnh nhân có bàn chân mất cảm giác như trong bệnh lý tiểu đường, hay tổn thương thần kinh ngoại biên thì loét gan chân có thể gặp.

Bàn chân bẹt không thường xuyên gây ra chai chân ngay dưới đầu xương bàn chân, nếu có thể biến dạng ngón cái vẹo ngoài (hallux valgus deformity), tuy nhiên, bệnh nhân có thể có chai chân dọc theo mặt gan chân trong của ngón cái ở vùng khớp bàn đốt.

Biên dạng bàn chân trước vẹo trong, phần gan chân ngoài sẽ tiếp xúc nhiều với bờ ngoài gan chân và thường gây ra chai chân ở vùng xương bàn ngón V.

Biến dạng bàn chân xoay ngoài, qua đó vùng bàn ngón cái sẽ gập so với các vùng bàn ngón khác và gây ra chai chân lan rộng đối diện ngay vùng đầu xương bàn ngón cái.

Chẩn Đoán

Việc đánh giá bàn chân bệnh nhân dầy sừng chai chân cần hỏi kỹ về bệnh sử và điều kiện xuất hiện và kiểu giầy bệnh nhân mang có làm trầm trọng và loại giầy gì bệnh nhân ghi nhận mang giảm đau và những phương thức điều trị trước đó.

Khám bệnh nhân ở tư thế đứng, quan sát cẩn thận hình dáng vị thế của các ngón, tính chất của khớp bàn ngón và vòm gan chân dọc vị trí. Và tầm hoạt động khớp cổ chân, ngang qua xương cổ chân và cần ghi nhận khớp xương bàn ngón. Hình dạng gan chân cũng cần được đánh giá kỹ.

Vị trí của chai chân và tính chất được mô tả. Mụn cóc gan chân thường khu trú có dạng khảm cho thấy lấm chấm đen xung quanh có chai chân, cắt phần da dầy thì thấy rướm máu li ti ở những chấm li ti đen, thường mụn cóc gan chân không ở vị trí ở đầu xương bàn nhưng mụn cóc thường thấy ở rải rác vùng gan chân.

Vùng da dầy sừng cần được khám cẩn thận vị trí trong đó thì đầu xương bàn và tính chất đặc trưng. Vùng chai chân có một nhân trắng nằm ngay dưới vùng chai chân vùng dầy sừng gan chân ngay dưới.

Để dễ dàng nhận định thương tổn và đảm bảo cho chẩn đoán chắc không phải là mụn cóc gan chân, thì thương tổn cần được gọt mỏng bằng dao số 17. Lạng phần da dầy có thể nhận định được kích thước bờ của chai chân, vì định vị rõ chai chân sẽ góp phần xác định bờ xung quanh cần phải cắt bỏ, ngược lại khi lạng da thấy phần chai chân nầy có những lỗ nhỏ li ti lan tỏa không định rõ bờ giới hạn của vùng da gan chân như vậy mụn cóc có vùng da dầy da tăng sừng nhưng có những mạch máu gây xuất huyết thường biểu hiện ở những chấm đen trên nền chai chân khác xa với tính đặc trưng của chai chân thường không có mạch máu cung cấp thì chắc chắn không phải là mụn cóc. Cách lạng da cũng đủ để cho thầy thuốc xác định được bờ của chai chân, vì chai chân luôn khu trú rõ, đối lại với chai chân lan rộng không có bờ giới hạn rõ.

Điều trị bảo tồn

Hai chân được lạng da với con dao bén. Khi cắt chai chân, người ta cố lấy đi mô tăng sừng với phần da dầy không thể cùng lúc lấy đi phần da chai, ngay một lúc mà nếu cần phải tiên hành lạng da nhiều lần cho phép lấy đi phần da dầy. Một vùng da chai giống như hạt đậu thường kích thước từ đường kính 2-3 mm thì có thể lấy đi trong lần đầu tiên.

Sau khi đã cắt phần chai chân, dùng một miếng nâng đỡ mềm vùng xương bàn để làm giảm áp lực tác động trên xương bàn nầy. Miếng nâng đỡ mềm nầy cũng có thể sử dụng ngay từ lúc đầu, cung cấp trang bị giầy cho bệnh nhân theo kích thước giầy. Nếu giầy quá chật sẽ bó chặt chân. Do đó, không thể mang thêm lớp độn. Với những bệnh nhân nầy cần mang giầy thích hợp sao cho có thể lót thêm lớp đệm cho giầy, cần khuyến khích bệnh nhân mang giầy rộng, mềm khi có vùng chai chân đáng kể, vùng đệm cho gan bàn chân thì được đặt phía trước vùng chai chân. Khi thực hiện như thế điều quan trọng nhất là giáo dục hướng dẫn cho bệnh nhân là miếng nâng đỡ nầy có thể cảm thấy bất tiện và cần thời gian làm quen từ 1 tuần đên 10 ngày.

Bệnh nhân cần được tái khám định kỳ, để chỉnh miếng nâng đỡ vùng xương bàn. Nếu bệnh nhân có bàn chân biến dạng như vẹo trong hay vẹo ngòai hay sụp vòm gan chân thì cần cung cấp dụng cụ chỉnh hình thích hợp in khuôn bàn chân thì mang lại lợi ích hơn. Dụng cụ chỉnh hình không được sử dụng cho đến khi người bệnh đã ý thức với miếng nâng đỡ mềm xem coi bệnh nhân có đáp ứng tốt với dụng cụ chỉnh hình không. Nếu chai chân tiếp diễn và có triệu chứng thì cần can thiệp phẫu thuật.

Điều trị phẫu thuật

Phẫu thuật được tiến hành ở vùng gan chân chai dựa trên tính chất chai chân .

Một chai chân âm thầm với vùng da dầy trung tâm được quan sát thấy ngay vùng đầu xương bàn và ngay dưới vùng xương vừng đối với ngón chân cái.

Phương pháp điều trị ngoại khoa là ưu điểm nhất vì lấy nhân mắt cá khi sẹo hình thành thì hiếm khi tái phát vì nhân mắt cá đã lấy trọn sẹo lành nhanh chỉ là một sẹo thẳng dài và sẽ hạn chế kích thích

Phẫu thuật chai chân gồm các bước

  • Thì một: cắt da chai để xác định nhân mắt cá chân, sau khi cắt phần chai chân chúng ta sẽ định vị được vùng chai chân chân có nhân là mắt cá chân màu trắng, nhân trắng nầy cùng với phần chai chân sẽ kích thích các đầu dây thần kinh nhạy cảm của vùng gan chân nên bệnh nhân đau thường thì bệnh nhân đến muộn vùng chai chân đã rộng và khó mà may lại được thì đầu.
  • Thì hai: định vị được mức độ lan rộng của mắt cá.
  • Thì ba: lấy nhân mắt cá.
  • Thì 4: may da lại bằng chỉ Nylon 2/0 kim tam giác.

Phòng ngừa : không đi chân đất.

Giầy phòng ngừa: cấp cho bàn chân có chai chân ở vùng đối diện với chỗ dầy chai chân có một miếng lót đệm.

Thăm dò chức năng tuyến vỏ thượng thận

NHỮNG HORMON CHÍNH CỦA TUYẾN vỏ THƯỢNG THẬN

SẢN XUẤT

  • Những hormon vỏ thượng thận là nhữnẹ steroid, dẫn xuất của Một số lớn những steroid được tong hợp ở vỏ thượng thận, nhưng về mặt lâm sàng thì những chất quan trọng nhất là cortisol (glucocorticoid), aldosteron (khoáng corticoid) và dehydroepiandrosteron (hoặc androgen).
  • Những steroid ít quan trọng hơn gồm có: desoxycorticosteron (là một khoáng corticoid mà tác dụng chỉ bằng 3% so với tác dụng của aldosteron), 18-hydroxycorticosteron, cortison (là dẫn xuất oxy hoá của cortisol), pregnenolon, progesteron, androstenedion, testosteron,
  • Pregnenolon là tiền chất chính của corticosteron và 17-alpha- hydroxypregnenolon là chất tiền chất chính của

Những hormon chính của tuyến vỏ thượng thận

GLUCOCORTICOID (tác dụng chủ yếu tới chuyển hoá của glucose và protein):

Cortisol (hydrocortison, hợp chất F).

Cortison (hợp chất E)

MINERALOCORTICOID HOẶC KHOÁNG CORTICOID (tác dụng chủ yếu tới bài tiết Na4 và K4):

Aldosteron (electrocortin)

Desoxycorticosteron (desoxycorton, DOCA, hợp chất A).

Corticosteron (hợp chất B).

ANDROGEN:

Dehydro-epiandrosteron (DEA, DHEA).

Androstenedion

CÁC ESTROGEN (bình thường rất ít tác động)

  • Sinh tổng hợp các hormon vỏ thượng thận cần đến một số lượng enzym nhất định. Thiếu hụt enzym 21-hydroxylase sẽ dẫn tới tăng sản tuyến vỏ thượng thận bẩm sinh, và là kết quả của tăng bài tiết ACTH (xem: hội chứng sinh dục – thượng thận bẩm sinh). Mặt khác, chất metyrapon (Metopyrone) có tác dụng ức chế hoạt động của 11-beta- hydroxylase là enzym cần thiết cho tổng hợp Do đó metopypone được sử dụng trong thử nghiệm (test) kích thích bài tiết ACTH (giảm tạm thời cortisol huyết tướng gây ra bởi metyrapon sẽ kích thích bài tiết ACTH)

CHUYỂN VẬN:

  • Cortisol được chuyển vận trong huyết tương một phần nhỏ dưới dạng tự do (có hoạt tính sinh học) còn một phần lớn thì liên kết với một protein đặc biệt gọi là transcortin hoặc CBG (tiếng Anh: Cortisol- Binding Globulin -Globulin gắn cortisol). Hàm lượng của CBG trong huyết tương bình thường là 30-42 mg/1; hàm lượng này tăng lên trong trường hợp ngấm estrogen và có thai, và giảm trong những trường hợp xơ gan, hội chứng thận hư, và đa u tuỷ xương.

Khi hàm lượng CBG trong huyết tương tăng lên, thì bộ phận cortisol gắn với protein này cũng tăng theo; trong khi đó thì hàm lượng cortisol tự do trong huyết tương lại giảm xuống, từ đó gây ra kích thích bài tiết ACTH kéo dài tới khi sự cân bằng mới giữa cortisol tự do và cortisol gắn với CBG được tái lập.

  • Aldosteron trong huyết tương: chỉ có một phần nhỏ gắn với CHUYỂN HOÁ VÀ BÀI TIẾT
  • Các glucocorticoid: cortisol được chuyển hoá ở trong gan, và các dẫn xuất của quá trình chuyển hoá ở đây được liên kết với acid glucuronic, một phần của cortisol được chuyển thành cortison.
  • Mineralocorticoid (khoáng corticoid): khoảng 75% aldosteron bất hoạt khi lần đầu tiên được chuyển qua gan. Có từ 7 đến 15% aldosteron được bài tiết ra nước tiểu dưới dạng liên kết với acid glucuronic.
  • Androgen: dehydro-epiandrosteron là tiền chất chính của những chất 17-cetosteroid trong nước tiểu: ở phụ nữ, toàn bộ những chất 17- cetosteroid bài tiết ra nước tiểu là từ tuyến thượng thận. Còn ở nam giới thì 2/3 lượng các chất này được bài tiết theo nước tiểu có nguồn gốc từ tuyến thượng thận và 1/3 còn lại có nguồn gốc từ tinh hoàn.

TÁC DỤNG VÀ ĐIỀU HOÀ

  • Việc phân biệt các hormon của tuyến thượng thận thành hai loại glucocorticoid và mineralocorticoid không có tính chất tuyệt đôi, vì trong thực tế, phần lớn những glucocorticoid cũng có hiệu quả của mineralocorticoid và ngược lại.
  • Các glucocorticoid (ví dụ cortisol): có những tác động dưới đây:

+ Làm tăng đường huyết và tăng tổng hợp glucose ở gan.

+ Làm tăng quá trình dị hoá protein.

+ Kích thích chuyển hoá lipid ở gan.

+ Làm giảm tái hấp thu các muối urat ở ống thận

+ Gây ra tiêu (làm tan) các lympho bào T, cắc tế bào lympho nhỏ, và bạch cầu hạt ưa acid.

+ ức chế tuyến yên bài tiết ACTH. Mặt khác ACTH lại có tác dụng kích thích tuyến thượng thận bài tiết ra glucocorticoid (quá trình này gọi là điều hoà trợ động tuyến yên-thượng thận hoặc điều hoà phản hồi tuyến yên-tuyến thượng thận).

  • Mineralocorticoid (corticoid khoáng, ví dụ aldosteron): có các tác dụng: + Làm tăng tái hấp thu các ion Na+ và Cl- ở các ống thận.

+ Làm tăng bài tiết Kali.

+ Tác động tới trao đổi giữa Kali nội tế bào với Natri ngoại tế bào.

+ Duy trì huyết áp động mạch và thể tích dịch ngoài tế bào.

+ Angiotensin II (hệ thống rennin-angiotensin) và tăng kali huyết có tác dụng kích thích bài tiết các mineralocorticoid. Ngược lại, giảm kali huyết sẽ ức chế bài tiết corticoid này.

  • Androgen: có tác dụng:

+ Kích thích sự xuất hiện hoặc duy trì các đặc điểm giới tính thứ phát.

+ ACTH (chứ không phải gonadostimulin) kích thích tuyến thượng thận bài tiết các androgen.

GIẢM BÀI TIẾT: xem những bệnh đưới đây

  • Bệnh Addison (suy vỏ thượng thận mạn tính).
  • Suy vỏ thượng thận cấp tính (thiếu hụt các glucocorticoid và mineralocorticoid).
  • Chứng giảm aldosteron (thiếu hụt các mineralocorticoid).

TĂNG BÀI TIẾT: xem những hội chứng dưới đây:

  • Hội chứng Cushing: (thừa glucocorticoid)
  • Chứng tăng aldosteron (thừa mineralocorticoid)
  • Tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh (thừa androgen).
Bảng 12.5. Test chức năng tuyến vỏ thượng thận

  Hàm lượng cortisol huyết tương Hàm lượng ACTH hũyết tương 17 OHCS* nước tiểu Kích thích bởi ACTH Klm hãm bởi Dexamethason
Bệnh Addison Giảm Tăng Giảm Không hiệu quả Không hiệu quả
Suy vỏ thượng thận thứ phát Giảm Giảm Giảm Dương tính Không hiệu quả
Bệnh Cushing (u tuyến yên) Tăng Tăng Tăng Dương tính Không hoậc yếu
Hội chứng Cushing

-U tuyến thương thận

-Ung thư thượng thân

-Sản xuẫt ACTH lac chỗ

Tăng

Tăng

Tăng

Giảm

Giảm

Tăng

Tăng

Tăng

Tăng

Dương tính

Không hiệu quả

Không hoặc yếu

Thay đổi

Không hiệu quả Không hiệu quả

Nhược năng tuyến yên Giảm Giảm Giảm Dương tính Không hiệu quả

* 17-hydroxycorticosteroid

NHỮNG TEST CHỨC NĂNG CỦA GLUCOCORTICOID

NHỊP NGÀY ĐÊM: hàm lượng trong huyết tương của những hormon vỏ thượng thận biến động trong chu kỳ 24 giờ, và tuỳ theo đối tượng ở tư thế đứng hoặc nằm.

HÀM LƯỢNG CỦA CORTISOL (HỢP CHẤT F) TRONG HUYẾT TƯƠNG: cortisol gắn với một protein của huyết tương, có tên là transcortin hoặc CBG. Hàm lượng cortisol này cao nhất vào khoảng 6 giờ sáng và thấp nhất vào nửa đêm (chu kỳ ngày đêm).

  • Tăng hàm lượng cortisol (định lượng vào lúc 8 giờ sáng): trong những trường hợp: ưu năng vỏ thượng thận, bệnh Cushing (mất nhịp ngày đêm với hàm lượng bằng hoặc cao nhất vào lúc 20 giờ hoặc 8 giờ tối), ngấm estrogen và có thai (do tăng hàm lượng của protein vận chuyến CBG).
  • Giảm hàm lượng cortisol (định lượng vào 8 giờ sáng): thấy trong trường hợp: nhược năng tuyến vỏ thượng thận, suy tuyến vỏ thượng thận mạn tính (bệnh Addison) và suy vỏ thượng thận cấp tính (hàm lượng suy sụp).

CORTISOL TỰ DO TRONG NƯỚC TIỂU (FLU): phản ảnh hàm lượng cortisol tự do trong huyết tương. Cortisol tự do trong nước tiểu được định lượng nhằm theo dõi hiệu quả điều trị bệnh Addison và hội chứng Cushing. Hàm lượng bình thường là từ 30 đến 40 μg/24 giờ.

ĐỊNH LƯỢNG 17-CETOSTEROID (17-KCS) TRONG NƯỚC TIỂU: đây là những sản phẩm chuyển hoá của các steroid được bài tiết theo nước tiêu, ơ nam giới thì 2/3 hàm lượng có nguồn gốc từ tuyến thượng thận và 1/3 có nguồn gốc từ tinh hoàn, nhưng ở nữ giới thì toàn bộ có nguồn gốc từ tuyến thượng thận. Các 17-KCS được định lượng trong nước tiểu thu thập trong 24 giờ bằng phương pháp Zimmerman hoặc bằng sắc ký khí.

  • Tăng 17-cetosteroid trong nước tiểu: xảy ra trong trường hợp: tăng sản tuyến vỏ thượng thận bẩm sinh, do thiếu hụt 11, 17 hoặc 21 hydroxylase hoặc 3 hydroxy-dehydrogenase, trong hội chứng buồng trứng đa nang, khối u thượng thận nam tính hoá.
  • Tăng 17-cetosteroid và 17-hydroxycorticosteroid trong nước tiểu: thấy trong trường hợp: bệnh Cushing, u lành hoặc carcinom (ung thư) tuyến thượng thận, sử dụng liệu pháp corticoid.
  • Giảm 17-cetosteroid trong nước tiểu: gặp trong trường hợp: suy tuyến vỏ thượng thận, suy tinh hoàn.

ĐỊNH LƯỢNG 17-HYDROXYCORTICOSTEROID TRONG NƯỚC TIỂU (17-OH): những chất 17- hydroxycorticosteroid trong nước tiểu bao gồm cortisol, cortison, 11-desoxycortisol, tetrahydrocortisol, tetrahydrocortison. Những chất này được định lượng trong nước tiểu 24 giờ, bằng phương pháp Porter và Silber.

  • Tăng các chất 17-hydroxycorticosteroid(và những chất 17-cetosteroid): gặp trong trường hợp: bệnh Cushing, tăng sản và khối u tuyến vỏ thượng thận, sử dụng liệu pháp corticoid.
  • Giảm các chất 17-hydroxycorticosteroid (và những chất 17-cetosteroid): gặp trong trường hợp: bệnh Addison, suy tuyến vỏ thượng thận thứ phát, nhược năng tuyến yên. Ngoài ra, giảm các chất 17- hydroxycorticosteroid (với cortisol huyết bình thường) còn thấy trong trường hợp chán ăn tâm thần, kém dinh dưỗng, chứng phù niêm, những bệnh gan.
  • Giảm các chất 17-hydroxycorticosteroid (với tăng các cetosteroid): thấy trong trường hợp: tăng sản tuyến vỏ thượng thận bẩm sinh do thiếu hụt 21-hydroxylase.

ĐỊNH LƯỢNG MỨC BÀI TIẾT CORTISOL: là phương pháp phức tạp và khó khăn. Người ta tiêm cortisol đánh dấu bằng chất đồng vị phóng xạ, rồi đo mức bài tiết bằng kỹ thuật pha loãng chất đồng vị in vivo.

THỬ NGHIỆM KÍCH THÍCH TRỰC TIẾP TUYẾN THƯỢNG THẬN BẰNG ACTH (TEST THORN): dùng để đo mức dự trữ glucocorticoid của vỏ thượng thận. Người ta truyền tĩnh mạch ACTH tổng hợp (Synacthene) (trong vòng 4, 8, hoặc 24 giờ), và định lượng cortisol huyết và các steroid trong nước tiểu trước và sau khi truyền thuốc nói trên. Trong test phát hiện nhanh, người ta tiêm bắp thịt một chế phẩm ACTH chậm, và định lượng cortisol huyết trước khi tiêm và 1 giờ sau khi tiêm.

  • Đáp ứng dương tính binh thường , hàm lượng cơ bản cortisol trong huyết tương và mức bài tiết 17-hydroxycorticosteroid trong nước tiểu đều tăng. Ngoài ra, còn thấy giảm bạch cầu hạt ưa
  • Đáp ứng dương tính nhưng muộn, cần phải làm lại test trong 2-3 ngày tiếp theo , suy tuyến vỏ thượng thận thứ phát (nguồn gốc dưới đồi thị- tuyến yên), hoặc nhược năng tuyến yên.
  • Không có đáp ứng hoặc đáp ứng yếu: suy vỏ thượng thận nguyên phát.
  • Tăng cao nhất 17-cetosteroid trong nước tiểu: thấy trong hội chứng sinh dục-thượng thận (tăng sản tuyến thượng thận).

Tiêm ACTH bình thường sẽ làm tăng hàm lượng trong huyết tương của desoxycortisol (hợp chất S) và của 17-hydroxyprogesteron (17-OHP) lên gấp 3 lần; những chất này là các hợp chất trung gian trên con đường sinh tổng hợp của các glucocorticoid, cũng như của pregnanetriol nước tiểu (sản phẩm chuyên hoá của 17-OHP). Hàm lượng cơ bản của những hợp chất này tăng lên quá 3 lần sau khi tiêm ACTH được coi như dấu hiệu về thiếu hụt enzym 21- hoặc 11-hydroxylase.

THỬ NGHIỆM KÍCH THÍCH GIÁN TIẾP BÀI TIẾT ACTH NỘI SINH BẰNG METYRAPON (Metopyrone): thử nghiệm này cho phép khảo sát chức năng của trục dưới đồi thị-tuyến yên – thượng thận (với điều kiện là tuyến vỏ thượng thận còn khả năng đáp ứng với kích thích của ACTH). Metyrapon có tác dụng ức chế enzym 11-hydroxylase và kìm hãm sự chuyển đổi 11-desoxycortisol (hợp chất S) thành cortisol (hợp chất F). Giảm cortisol huyết có tác dụng kích thích tuyến yên bài tiết ACTH, nhưng sản xuất cortisol thì vẫn bị kìm hãm bởi metyrapon do đó hàm lượng hợp chất s trong huyết thanh cao (hợp chất này không có các tác dụng của glucocorticoid).

Thông thường người ta cho người thử sử dụng 750 mg metyrapone cứ 4 giờ một lần trong vòng 24 giờ và đo hàm lượng cortisol và 11-desoxycortisol trong huyết tương và hàm lượng 17-hydroxycorticoid trong nước tiểu. Hàm lượng các chất này tăng lên trong trường hợp trục dưới đồi thị-tuyến yên đáp ứng bình thường. Tuy nhiên, thử nghiệm sẽ sai lệch nếu đối tượng đang sử dụng glucocorticoid.

  • Bình thường: sau khi cho metyrapon thì những ngày sau đó mức bài tiết 17-hydroxycorticosteroid trong nước tiểu sẽ tăng gấp đôi.
  • Trong hội chứng Cushing,nếu đáp ứng âm tính thì rất có khả năng là u tuyến vỏ thượng thận, hoặc một hội chứng cận ung thư, nhưng lại là chứng cứ phủ nhận bệnh
  • Suy vỏ thượng thận: thử nghiệm cho đáp ứng âm tính (tăng 11- desoxycorticosterol trong huyết thanh và 17-hydroxycorticosteroid trong nước tiểu sẽ không xảy ra hoặc thấp hơn mức bình thường).

THỬ NGHIỆM KÍCH THÍCH BANG CORTICOLIBERIN (CRF): (xem: bệnh Addison).

THỬ NGHIỆM KÌM HÃM BẰNG DEXAMETHASON: chủ yếu dùng để phân biệt trường hợp tăng bài tiết xảy ra do tăng sản tuyến thượng thận (đáp ứng dương tính) với tăng bài tiết do u tuyến thượng thận (đáp ứng âm tính). Nguyên tắc của thử nghiệm như sau: tăng hàm lượng glucocorticoid trong huyết tương có tác dụng kìm hãm bài tiết ACTH, từ đó lại dẫn tới giảm bài tiết chính các glucocorticoid (điều hoà trợ động hoặc điều hoà phản hồi tuyến yên-thượng thận). Để làm thử nghiệm, người ta cho người thử sử dụng một glucocorticoid mạnh (dexamethason) và đánh giá hiệu quả đối với cortisol huyết hoặc 17-hydroxycorticosteroid trong nước tiểu.

  • Thử nghiệm kìm hãm “nhanh” (dùng để phát hiện): cho đối tượng sử dụng 1 mg dexamethason buổi tố”i hôm trước, vào lúc đi ngủ rồi định lượng cortisol huyết vào sáng sớm hôm sau.
  • Thử nghiệm kìm hãm “chậm”: cho đối tượng sử dụng dexamethason 3 mg/ngày, từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 7, và thu nước tiểu từ ngày thứ 1 đến ngày thứ 7 để tìm đáp ứng:
  • Đáp ứng dương tính: bình thường các 17-hydroxycorticosteroid trong nước tiểu và cortisol huyết đều giảm 50% (kìm hãm bình thường).
  • Trong trường hợp tăng sản tuyến thượng thận: đáp ứng dương tính chỉ xảy ra khi cho người thử sử dụng liều cao hơn, tới 8 mg/ ngày trong 3 ngày liền.
  • Trong trường hợp u tuyến thượng thận và hội chứng Cushing do bất cứ nguyên nhân nào: đáp ứng âm tính hoặc kìm hãm không hoàn toàn. Với test kìm hãm “mạnh” (cho sử dụng 2 mg cứ 6 giờ một lần trong 24 giờ) mà không có kìm hãm thì có nghĩa là đổì tượng có u lành tuyến vỏ thượng thận, trong khi mức kìm hãm một phần hoặc toàn bộ là dấu hiệu của bệnh

TEST QUÁ TẢI NƯỚC: đã bỏ không thực hiện.

NHỮNG TEST CHỨC NĂNG CỦA MINERALOCORTICOID (KHOÁNG CORTICOID)

ĐO HÀM LƯỢNG ALDOSTERON TRONG HUYẾT TƯƠNG: cho bệnh nhân nằm nghỉ trong 2 giờ rồi lấy mẫu máu; trước đó ít nhất trong vòng 2 tuần, bệnh nhân ăn mặn bình thường (chế độ ăn có muối bình thường) và không sử dụng thuốc lợi tiểu. Hàm lượng aldosteron tăng rõ rệt trong trường hợp tăng tiết aldosteron.

ĐỊNH LƯỢNG ALDOSTERON VÀ SẢN PHẨM CHUYỂN HÓA CỦA CHẤT NÀY TRONG NƯỚC TIỂU: kết quả cho các giá trị tăng hơn bình thường trong trường hợp tăng bài tiết aldosteron nguyên phát và thứ phát.

TEST GIÁN TIẾP (định lượng kali huyết): nếu một bệnh nhân ăn mặn bình thường mà thấy giảm kali huyết kết hợp với tăng calci niệu, thì vế nguyên tắc, bệnh nhân này bị chứng tăng bài tiết aldosteron. Tăng kali huyết gặp trong trường hợp giảm bài tiết aldosteron. Tuy nhiên giảm bài tiết aldosteron thường hiếm khi đơn độc.

TEST KÍCH THÍCH BẰNG CHẾ ĐỘ KHÔNG ĂN MUỐI: chế độ ăn không muối (mức thu nhận hàng ngày vào cơ thể thấp hơn 10 mEq Natri), kéo dài trong 3- 5 ngày sẽ có tác dụng kích thích bài tiết aldosteron làm cho hàm lượng hormon này trong huyết thanh tăng lên rõ rệt. Hàm lượng aldosteron vẫn còn tiếp tục tăng 2-3 giờ sau khi đối tượng chuyển từ tư thế nằm sang tư thế đứng. Cũng có thể kích thích bài tiết aldosteron bằng cách cho sử dụng Furosemid (40-80 mg).

THỬ NGHIỆM KÌM HÃM BẰNG DEXAMETHASON: cho bệnh nhân ăn chế độ có muối bình thường, nếu cho sử dụng dexamethasòn thì bình thường sẽ ức chế tuyến vỏ thượng thận bài tiết aldosteron, do đó hàm lượng chất này trong huyết tương và trong nước tiểu sẽ giảm xuống. Nếu đáp ứng với thử nghiệm là âm tính thì đó là bằng chứng tăng bài tiết aldosteron nguyên phát.

ĐO HOẠT TÍNH RENIN TRONG HUYẾT TƯƠNG: hoạt tính này giảm trong trường hợp tăng tiết aldosteron nguyên phát, và tăng trong trường hợp tăng tiết aldosteron thứ phát.

TEST KÌM HÃM BẰNG cách truyền dung dịch MUỐI sinh lý (THỬ NGHIỆM QUÁ TẢI NATRI): truyền tĩnh mạch dung dịch muối đẳng trương (9g NaCl/lít) với tốc độ 500 ml/giờ trong vòng 4 giờ. Bình thường, do tăng thể tích máu nên hoạt tính renin trong huyết tương ở máu tĩnh mạch sẽ giảm xuông và hàm lượng aldosteron trong huyết tương cũng giảm theo.

  • Trong trường hợp tăng tiết aldosteron thứ phát thì ở tình trạng khởi đầu (trước khi làm test), hoạt tính renin huyết tương và hàm lượng aldosteron cao. Sau khi truyền dung dịch muối thì hoạt tính renin huyết tương giảm và aldosteron huyết cũng giảm xuống dưới 100 ng/1 (kìm hãm).
  • Trong trường hợp tăng tiết aldosteron nguyên phát, thì ở tình trạng khởi đầu hoạt tính renin huyết tương suy giảm trong khi aldosteron huyết lại cao. Sau khi tuyền dung dịch muối, hoạt tính renin huyết tương không thay đổi trong khi aldosteron huyết giữ nguyên ở mức trên 100 ng/1 (không kìm hãm hoặc kìm hãm không đầy đủ).

Test quá tải muối chống chỉ định trong trường hợp suy tim hoặc suy thận (tăng thể tích máu nhanh chóng sẽ gây nguy hiểm cho bệnh nhân).

HỆ THỐNG RENIN-ANGIOTENSIN-ALDOSTERON

RENIN: những tiểu động mạch đến của những tiểu cầu thận có một hệ thống những tế bào bao xung quanh, tạo nên bộ máy cận cuộn mao mạch hoặc cận chùm mao mạch của tiểu cầu thận, những tế bào nói trên có khả năng giải phóng ra renin tích chứa trong bào tương của chúng dưới dạng hạt. Bộ máy cận cuộn mao mạch cảm nhận được những biến động của huyết áp trong các tiểu động mạch, và từ đó điều hoà sự bài tiết renin như sau: nếu thể tích lưu lượng máu ở các tiểu động mạch đến của tiểu cầu thận giảm xuống, thì sẽ kích thích các tế bào của bộ máy cận cuộn mao mạch tiết ra renin và ngược lại.

ANGIOTENSIN: angiotensinogen là tiền chất của angiotensin, được tổng hợp bởi tế bào gan và được chuyển đổi thành angiotensin I (bất hoạt) khi có sự hiện diện của renin. Angiotensin I lại chuyển đổi thành angiotensin II (hoạt tác) nhờ sự xúc tác của enzym chuyển đổi angiotensin. Enzym (men) này (gọi ngắn gọn là enzym chuyển đổi) có mặt trong nhiều loại mô và trong huyết tương của máu.

ALDOSTERON: angiotensin II có tác dụng kích thích tuyến vỏ thượng thận bài tiết ra aldosteron. Bài tiết aldosteron tăng lên sẽ làm cho cơ thể giữ lại nước và muối natri và làm tăng huyết áp động mạch. Một số thuốc có tác dụng ức chế sự kết gắn enzym này, và như vậy gián tiếp ức chế sản xuất aldosteron (xem: thuốc ức chế men chuyển).

Nuốt nước chua (thôn toan) – Triệu chứng bệnh Đông y

Khái niệm

Chứng trạng Thôn toan với Thổ toan gần giống nhau, tục đều gọi là Phiếm toan, nhưng nguyên nhân cơ chế bệnh và phương pháp điều trị lại khác nhau: “Thôn toan, là nước chua từ Vị khẩu ứa lên trên, đẩy tới khoảng yết hầu không mửa ra kịp lại nuốt xuống, vị chua sót ruột có vẻ như nuốt nước chua” (Y lâm dắng mạc), là “bệnh ở nơi cao nhất của thượng quản”; Nếu “không gần như Thôn toan, không ở thượng quản mà ở khoảng trung tiêu Vị quản, nhiều lúc nôn oẹ, vật mửa ra chua, tức có tên Thổ toan mà òng ọc không mửa được” (Cảnh Nhạc toàn thư).

Mạch Kinh gọi là “Thôn toan”, Chư bệnh nguyên hậu luận gọi là “Y toan”, Tam nhân phương lại gọi là “Yết toan”.

Phân biệt

Chứng hậu thường gặp

Thôn toan do Can khí phạm Vị: Có các chứng từng lúc nuốt nước chua, trong Vị có cảm giác nóng rát, tái phát nhiều lần, kiêm chứng ngực sườn khó chịu, đắng miệng họng khô, Tâm phiền dễ giận, rêu lưỡi vàng mỏng mạch Huyền Sác.

Thôn toan do ăn uống tích trệ: Có các chứng từng lúc nuốt nước chua, trong Vị có cảm giác nóng rát, ợ hăng mùi thức ăn hôi, dạ dầy bĩ sợ ăn, rêu lưỡi vàng dầy mà nhớt mạch Hoạt.

Thôn toan do hàn thấp ngăn trở ở trong: Có các chứng từng lúc nuốt nước chua, kiêm chứng ngực khó chịu, bụng bĩ đầy, không thiết ẵn uống, rêu lưỡi trắng trơn, mạch Huyền Hoạt.

Phân tích

– Chứng Thôn toan do Can khí phạm Vị với chứng Thôn toan do ăn uống tích trệ: Cả hai có cảm giác nóng rát. Loại trên là do tình chí gây bệnh. Loại sau là do ăn uống tổn thương.

Thôn toan do Can khí uất kết, vì cáu giận hại Can, Can uất khí trệ, hoành nghịch phạm vị, cho nên từng lúc nuốt chua, trong Vị có cảm giác nóng rát, đồng thời kiêm chứng ngực sườn khó chịu, Tâm phiền dễ cáu giận, miệng đắng họng khô là những biểu hiện do Can khí uất kết.

Thôn toan do ăn uống tích trệ, là vì ăn uống không điều độ, tích đồ ăn làm hại Vị, khí cơ ở trung tiêu bị ngăn trở, Vị mất hoà giáng cho nên từng lúc nuốt nước chua, trong Vị có cảm giác nóng rát, đồng thời kiêm các chứng trạng biểu hiện thương thực như ợ ra mùi thức ăn hôi chua, bụng đầy chán ăn, rêu lưỡi dày nhớt.

Thôn toan do Can khí phạm Vị điều trị theo phép thanh Can lý khí, hoà Vị giáng nghịch, dùng phương Tả kim hoàn gia các vị như Sài hồ, Chi tử, Ngoã bạng tử, Thanh bì, uất kim .V.V.. Thôn toan do ăn uống đình trệ điều trị theo phép tiêu thực đạo trệ, lý khí hoà trung, dùng phương Bảo hoà hoàn gia giảm.

– Chứng thôn toan do hàn thấp ngăn trở ở trong: Do ăn quá độ thức sống lạnh, hoặc nhiễm thấp tà từ bên ngoài, thấp ngăn trở trung tiêu, khí trệ không thư sướng, thu nạp vận chuyển ở Tỳ Vị thất thường, cho nên thấy trong ngực bĩ đầy, không thiết ăn uống, khí cơ không thư sướng, từng lúc nuốt nước chua, đối với hai chứng Thôn toan do Can khí uất kết hoặc Thôn toan do ăn uống tích trệ, phân biệt không khó khăn. Điều trị chứng Thôn toan do hàn thấp ngăn trở ở trong theo phép dưỡng Can Vị, lý khí hoà trung, dùng phương Hương sa lục quân tử thang.

Trích dẫn y văn

– Thồn toan do uất trệ lâu ngày, ẩn náu ở Tỳ Vị không tự bài tiết ra được cũng không nuốt xuống được. Nếu như cơ biểu lại nhiễm phong hàn thì nội nhiệt càng uất mà Vị chua gắt sót ruột, Cơ biểu được ấm áp thì tấu lý mở, hoặc dùng Hương nhiệt hoàn thì tân dịch lưu thông, uất nhiệt giải dần dần (Thâm thị tôn sinh thư – Ái khí tào tạp thôn toan ố Tâm nguyên lưu).

Hướng dẫn cách chữa đau tim tại nhà và chú ý phòng đau tim

Đau tim là triệu chứng do tim thiếu máu, thiếu ôxi đột ngột, hay tạm thời gây nên. Chỗ đau thường là ở ngực bên trái hoặc giữa hai vú, có khi đau ra cả vai, cánh tay trái và sau lưng. Đau kiểu tức tối, đè nén. Mỗi lần đau từ 1 – 5 phút, rất ít khi vượt quá 15 phút. Đau tim thường phát ra do bị nhiễm lạnh, mệt mỏi, hưng phấn quá mức hoặc quá phẫn nộ.

Y học Trung Quốc cho rằng đau tim là do khí lạnh xâm nhập vào tim, tinh thần u uất, ăn uống mất vệ sinh, thể chất suy nhược, tuổi già gan thận suy nhược gây nên.

Cách chữa đau tim
Cách chữa đau tim

Nội dung chữa đau tim

Khi bị đau tim đừng hoảng hốt, phải ngừng ngay làm việc và hoạt động và dùng thuốc cấp cứu tự chữa bệnh. Thuốc cấp cứu nên để ở chỗ cố định hoặc mang theo người.

Chú trọng bồi dưỡng tinh thần, phải giỏi tự mình giải thoát. Tinh thần vui vẻ phấn chấn là phương thuốc phòng bệnh đau tim tốt nhất.

Rèn luyện thể dục và làm việc với mức độ vừa phải, có lợi cho khí huyết lưu thông. Thái cực quyền, khí công, bách bộ, chạy chậm đều có thể tập luyện được, mức độ tập luyện phải tăng dần, không nên quá vội vã.

Có một số bệnh nhân khi phát bệnh, không đau ghê gớm, chỉ ợ hơi, nấc, tức tối khó thở, không đau ở trong ngực. Cần phải chú ý quan sát.

Bệnh nhân không được hút thuốc lá. Rượu nhẹ chỉ có thể uống ít, cấm không được uống rượu mạnh.

Ăn uống thanh đạm, nên ăn ít đường, các loại yến mạch, đại mạch, đậu nành đào, hạt hướng dương, hải sâm, sò, hến, sơn tra, sữa chua, cá.v.v. có lợi cho việc trị bệnh, nên ăn nhiều càng tốt. Những thứ nhiều mỡ, nhiều colesterin như bơ, trứng cá, cá nục, tôm tép, gan lợn, thận lợn, thịt cừu, lòng đỏ trứng gà.v.v. nên ân ít, cà phê cũng không được uống.

Không được ăn uống quá nhiều, ăn xong không được đi ngủ ngay.

Sáng ngủ dậy nên uống một cốc nước và uống thuốc. Sau một đêm ngủ nồng độ máu tăng lên vì vậy mà đau tim cũng thường phát ra buổi sáng. Vì vậy uống một cốc nước làm cho máu lỏng ra, lại có thuốc điều trị sớm thì tim ít bị đau.

Không làm động tác nín hơi. Thí dụ cố rặn ỉa, hai tay nâng vật nặng.

Giảm việc sinh hoạt vợ chồng.

Khi bệnh phát ra quá nặng, thời gian kéo dài, vã mồ hôi, thở gấp, chân tay lạnh, không điều khiển được đại tiểu tiện, phải tăng lượng thuốc cấp cứu, nếu có điều kiện thì uống 3 gam bột sâm Triều Tiên rồi đưa ngay đi bệnh viện.

Nên ăn ít và chia làm nhiều bữa. Cơm tối nên ăn ít và thanh đạm.

Phương pháp chữa bệnh đau tim

  1. Thuốc cấp cứu pha chế sẵn.
  • Viên axitnitric glyxeerin, mỗi lần 1 viên, ngậm.
  • Xạ hương bảo tâm hoàn, mỗi lần 1 viên, ngậm dưới lưỡi.
  • Lục thần hoàn, mỗi lần 15 viên, uống.
  • Tâm thủ tĩnh, mỗi lần một gói, hít vào mũi.
  1. Bấm huyệt cấp cứu

Trong điều kiện không có thuốc cấp cứu, có thể bấm huyệt cấp cứu, hiệu quả cũng rất tốt; hàng ngày kiên trì xoa bóp cũng có tác dụng phòng ngừa.

  • Ấn hai huyệt chiên trung và huyệt nội quan. Mỗi huyệt từ 3 – 5 phút (huyệt chiên trung: nằm trên xương ngực giữa đường nối hai đầu vú. Huyệt nội quan: nằm ở cổ tay cách bàn tay hai ngón nằm ngang.
  • Ấn huyệt chí dương: ở giữa xương ngực thứ 7 và 8

Phương thuốc hiệu nghiệm

  1. Ngũ linh chỉ 12 gam, thêm một ít dấm, gừng sống 2 miếng, giã nhỏ cho vào nước sôi để uống, mỗi ngày 2 lần.
  2. Một góc lá sen, lá sơn tra 30 gam, đun nước uống thay chè.
  3. Qua lâu 30 gam, củ kiệu 10 gam, xuyên phúc 10 gam sắc uống.
  4. Hoa cúc 50 gam, sắc làm hai lần, mỗi lần 10 phút.

Phương pháp ăn uống

  1. Một ít bột ngô, sơn tra sống 10 củ, một ít đường đỏ, nấu cháo ăn.
  2. Mộc nhĩ đen 15 gam, táo tàu 10 gam, hoàng kỳ sống 30 gam (gói riêng) một ít đường đỏ, nấu thành canh để ăn,
  3. Sữa bò 250 gam (1 hộp) một ít mạch nấu cháo ăn.

Những việc cần lưu ý

Có người mắc bệnh tim lại khống chế việc ăn uống quá mức, lượng thức ăn chính quá ít, nhất là những người béo chỗ nào cũng đề phòng, như vậy sẽ không lợi cho việc chữa bệnh.

Uống nhiều loại côca, nước khoáng, nước ngọt, cacao cũng có khả năng gây nên bênh đau tim.

Chữa bệnh tim là một quá trình lâu dài, nếu tự tiện ngừng thuốc thì khó mà giữ được hiệu quả chữa bệnh

Dùng thuốc giảm đau aspirin nhiều quá làm cho khả năng dẫn tinh của nam giới giảm xuống, ảnh hưởng đến sinh dục, cũng làm tổn thương niêm mạc dạ dày, làm loét dạ dày.

Sốt Hồi Quy (sốt phát ban hồi quy) – chẩn đoán và điều trị

Tên khác: sốt phát ban hồi quy.

Định nghĩa

Là các bệnh lây do các xoắn khuẩn Borellia được truyền bởi chấy rận hay bọ tuỳ theo vùng, có các sơn sốt lặp đi lặp lại xen kẽ với các đợt thuyên giảm có vẻ như đã khỏi bệnh.

Căn nguyên

Mầm gây bệnh là các xoắn khuẩn Borellia. Các đợt tái phát là do sự thay đổi cấu trúc gen của vi khuẩn trong quá trình gây bệnh. Do đó, cơ thể phải chịu đựng nhiều đợt nhiễm khuẩn trước khi có khả năng miễn dịch với tất cả các biến thể của kháng nguyên.

Dịch tễ học

SỐT HỔI QUY DO CHẤY RẬN: đặc hiệu cho người, do Borellia recurrentis, do rận (Pediculus corporis) truyền: chấy rận hút máu bệnh nhân và truyền sang người lành qua các chất mà chúng thải ra (gãi sau khi bị đốt, giết chấy rận ở chỗ bị chúng cắn). Thể này gặp ở một số vùng nhất định có bệnh lưu hành ở châu á, châu Phi và Nam Mỹ. Dịch xuất hiện trên toàn thế giới ở những nơi có điều kiện vệ sinh kém. Người là nguồn chứa mầm bệnh.

SỐT HỔI QUY DO BỌ: do nhiều loài Borellia khác nhau gây ra, các loài gậm nhấm là nguồn chứa mầm bệnh. Vi khuẩn được truyền ngẫu nhiên sang người qua vết cắn của bọ Ornithodorus. Các vùng có dịch lưu hành là Bắc Phi và vùng nhiệt đới châu Phi, Trung Đông, Iran, Ân Độ, Trung Á và toàn châu Mỹ. Bệnh do bọ cắn nhẹ hơn là do chấy rận.

Giải phẫu bệnh

Lách to có các ổ hoại tử chứa đầy xoắn khuẩn. Xuất huyết thanh mạc và niêm mạc.

Triệu chứng

Thời gian ủ bệnh là 5- 15 ngày. Khởi phát đột ngột, có rét run và sốt 39-41°C, nhức đầu, nôn, sung huyết kết mạc và đau cơ. Sốt kéo dài 4-7 ngày rồi hết đột ngột, bệnh nhân kiệt sức. Sau một thời kỳ không sốt từ 4-7 ngày, lại xuất hiện đợt sốt có rét run. Có thể thấy lách to, đôi khi có ban đỏ. Các cơn lặp đi lặp lại; nếu không được điều trị thì thể trạng sẽ suy sụp dần. Các đợt sốt tự hết sau 6-8 tuần.

Biến chứng

Gan to và vàng da, viêm thận, viêm màng não lympho, viêm dây thần kinh thị giác sau nhãn cầu, viêm màng bồ đào, viêm cơ tim, hội chứng xuất huyết, vỡ lách.

Xét nghiệm cận lâm sàng

Phát hiện xoắn khuẩn trong máu trong các thời kỳ có sốt bằng soi trực tiếp giọt máu đàn (dưới kính hiển vi có độ phóng đại lớn, và nhuộm Giemsa).

Sinh thiết mô: có thể phát hiện các borellia bằng phương pháp ngấm bạc hay các phương pháp miễn dịch hoá học.

Có thể cấy máu ở các phòng thí nghiệm chuyên khoa.

Tiêm truyền cho chuột nhắt: xoắn khuẩn xuất hiện trong máu con vật trong vòng 48 giờ.

Thiếu máu và giảm tiểu cầu, protein niệu, trụ niệu.

Phản ứng Bordet-Wassermann dương tính trong 10-20% số trường hợp.

Chẩn đoán phân biệt: bệnh vàng da xuất huyết do xoắn khuẩn, sốt rét, dengue, sốt vàng, sốt thương hàn, sốt rickettsia phát ban.

Tiên lượng: tỷ lệ tử vong của bệnh do bọ truyền là 2-10% nếu không được điều trị; tỷ lệ tử vong của bệnh do chấy rận truyền lên tới 30%. Tỷ lệ tử vong của các thể bệnh hầu như bằng không nếu được điều trị bằng kháng sinh.

Điều trị

Thể do bọ truyền: 0,5 g tetracyclin, 6 giờ một lần trong 5-10 ngày; hoặc procain benzylpenicillin 600.000 đơn vị 12 giờ một lần.

Thể do chấy rận: điều trị như trên. Liều một lần 0,5 g tetracyclin hay tiêm một liều 600.000 đơn vị procain- benzylpenicillin đủ để ngăn cơn sốt. Penicillin cần phải được tiêm vào đầu cơn, trước khi nhiệt độ tăng để tránh phản ứng Herxheimer có thể xảy ra.

Phòng bệnh

Diệt chấy rận, tiêu diệt các ổ bọ.

Cách làm xôi vò thơm ngon và đơn giản

Xôi vò là món phổ biến của miền Bắc trong các dịp giỗ chạp hay dùng làm món điểm tâm rất đơn giản mà chắc bụng. Xôi vò Bắc có vị béo nhờ mỡ gà, không ngọt như xôi vò miền Nam và được dùng chung với chè đường hoặc với chả lụa, chả quế. Món xôi vò miền Nam có vị ngọt đậm mà lại béo thơm mùi nước cốt dừa, không cần dùng kèm với loại thực phẩm nào mà vẫn không có cảm giác ngán.

Nguyên liệu

500g nếp hạt dài

200g đậu xanh cà vỏ 200g dừa nạo

1 muỗng cà phê muối

50g đường cát trắng

Vài cọng lá dứa

Nguyên liệu làm xôi vò thơm ngon
Nguyên liệu làm xôi vò thơm ngon

Thực hiện

Nếp vo sạch, ngâm qua đêm, để ra rổ cho thật ráo nước. Xóc vào nếp 1 muỗng cà phê muối. Nấu nước trong xửng cho sôi, cho nếp và lá dứa vào xửng, hấp chín. Xôi chín, nhắc xôi xuống trải ra cho nguội, gắp bỏ lá dứa.

Xôi vò đậu xanh tơi dẻo
Xôi vò đậu xanh tơi dẻo

Đậu xanh ngâm nở. Cho đậu xanh vào chung với nước cốt dừa nấu chín, xay nhuyễn. Vắt đậu xanh thành nắm.

Dùng dao cắt đậu thành lát mỏng. Trộn 2/3 đậu xanh với xôi và đường cho đến khi xôi rời từng hạt với phần đậu xanh bao đều quanh từng hạt xôi. Cho xôi trở lại xửng hấp lại khoảng 15 phút nữa cho đường tan hết và thấm vào xôi, vừa hấp vừa rưới mỡ gà vào từ từ cho hết.

Câch làm xôi vò
Câch làm xôi vò

Trình bày

– Khi nấu chín xôi, rưới mỡ gà từ từ vào xôi để tạo độ bóng, hạt xôi mềm và rời, xới ra đĩa có thể ăn kèm với chả quế hay chả lụa.

Xôi vò ngon hấp dẫn
Xôi vò ngon hấp dẫn

Bí quyết món ăn

Xôi vò theo cách hướng dẫn ở trên là xôi nấu theo khẩu vị miền Nam, có vị béo của nước cốt dừa và ngọt đậm. Nếu nấu xôi vò theo kiểu Bắc, cần bớt lượng đường và không sử dụng cốt dừa, chỉ sử dụng khoảng 1 muỗng canh đường và thêm 100g mỡ gà thắng chín, bỏ xác mỡ, rưới thêm vào xôi.

Bệnh Áp xe gan do amip và phẫu thuật

Gan là một trong những tạng đặc trong ổ bụng có liên quan mật thiết với ông tiêu hoá. Gan nhận toàn bộ máu của ống tiêu hoá thông qua hệ tĩnh mạch cửa. có mối liên quan bạch huyết khăng khít với các cơ quan này, đặc biệt có quan hệ trực tiếp với ruột qua hệ thống đường mật nên gan dễ bị vi khuẩn và ký sinh trùng xâm nhập để gây bệnh.

Áp xe gan là hiện tượng có ổ mủ trong tổ chức gan. cần phân biệt áp xe gan (các ổ mủ nguyên phát do nhiễm trùng, nhiễm KST như amip, giun sán…) với các ổ mủ thứ phát của gan như ung thư gan bội nhiễm, nang gan bội nhiễm…

Áp xe gan amip được biết đến và mô tả từ lâu, là một bệnh khá phổ biến ở các nước vùng nhiệt đới và luôn là thứ phát sau amip ở ruột. Nguyên nhãn gây bệnh là Entamoeba histolitica. Bệnh có tính chất địa phương: vùng nhiệt đới mắc nhiều tuy nhiên bệnh phụ thuộc nhiều vào yếu tố vệ sinh (phân) hơn là yếu tố khí hậu.

Bệnh thường gặp nhiều ở nam hơn ở nữ (80-90% nam) và chủ yếu ở người lớn, rất hiếm thấy ơ trẻ em.

Bệnh lý này có thuốc điều trị đặc hiệu nên khả năng chữa khỏi bệnh tốt, nhất là ở giai đoạn sớm. Vì vậy trong thời gian gần đây việc điều trị chủ yếu là nội khoa, xu hướng mổ ngày càng giảm.

BỆNH NGUYÊN, BỆNH SINH

Amip gây bệnh áp xe gan là Entcimoeba hystolitica thể hoạt động được tìm thấy và mô tả đầu tiên bởi Losch ơ bệnh viện Peterburg năm 1873. Amip có nơi cư trú chính là ơ thành đại tràng (manh tràng, đại tràng xích ma và trực tràng), gây tổn thương loét ở thành ruột (bệnh kiết lỵ) rồi từ đó theo đường máu tĩnh mạch cửa để tới gan. Nếu cư trú ở gan amip gây áp xe gan. nếu chúng vào hệ tuần hoàn chung và đi đến các cơ quan bộ phận khác có thể gây nên áp xe não, phổi….

Quá trình hình thành áp xe gan có thể rất nhanh chỉ sau 3-4 ngày phát bệnh bởi hoại tử tế bào gan do độc tố của amip đồng thời với quá trình viêm tắc các tĩnh mạch cửa ở trung tâm tiểu thuỳ. Nhưng đa phần ổ áp xe hình thành từ từ. Amip xuất hiện ở các tiểu tĩnh mạch cửa hay các xoang tĩnh mạch cửa gây viêm cương tụ, xung huyết và hoại tử tế bào gan và thường các điểm hoại tử nằm sát nhau (không rõ tại sao) tạo nên ổ áp xe. Hiếm khi có nhiều ổ áp xe nhỏ rải rác mà thường là một ổ to, hay gặp ở gan phải.

Thành ổ áp xe là tổ chức xơ. Khi không bị bội nhiễm thì là mủ vô khuẩn.

GIẢI PHẪU BỆNH LÝ

  • Giai đoạn cương tụ, viêm: gan to, đỏ và căng mọng. Khi cắt lách thấy có chảy máu dưới bao gan. Vi thể thấy có những vùng thâm nhiễm hồng cầu, những ổ bạch cầu và có thể thấy amip nằm giữa những mao mạch cương tụ.
  • Giai đoạn hoại tử: Các nhánh nhỏ tĩnh mạch cửa trong gan bị huyết khối dẫn tới nhồi máu và hoại tử nhu mô gan.
  • Giai đoạn làm mủ: các ổ hoại tử kết hợp nhau thành ổ áp xe Thành ổ áp xe là tổ chức gan xơ hoá, thường có amip ở đây.

Chất mủ màu đỏ nâu, không thôi, quánh đặc, không có vi khuẩn, chỉ gồm tế bào gan thoái hoá, bạch cầu đa nhân và đại thực bào.

Thường hay gặp áp xe ở gan phải, hiếm khi khu trú ở gan trái và đa số là một ổ áp xe to, nhiều ngóc ngách, ít khi gặp áp xe gan amip nhiều ổ.

TRIỆU CHỨNG

Giai đoạn viêm gan cấp

  • Toàn thân nổi bật tình trạng nhiễm trùng: sốt 39-40° sốt nóng và rét run.
  • Cơ năng: đau dưới sườn phải và nửa dưới ngực phải, lan lên vai phải hoặc cũng có khi lan lên cả hai bả vai, đau tăng khi ho, khi thở sâu làm bệnh nhân không dám thở mạnh.
  • Thực thể: Sờ nắn thấy gan to dưới bờ sườn, mặt nhẵn, mật độ chắc, ấn đau. Gõ có thể thấy gan to cả lên trên đẩy vòm hoành phải lên cao:

+ Phản ứng dưới sườn phải + Nghiệm pháp rung gan (+)

  • Xét nghiệm máu cho thấy bạch cầu tăng rất cao chủ yếu loại đa nhân trung tính, tốc độ máu lắng tăng cao.
  • Xquang: chiếu điện thấy cơ hoành phải di động kém, chụp phim thấy bóng gan to, đường kính hoành-đỉnh và hoành-cột sống lớn hơn bình thường, có phản ứng của màng phổi biểu thị bởi hình ảnh mờ góc sườn hoành.
  • Phản ứng miễn dịch huỳnh quang với kháng nguyên của Entamoeba histolitica dương tính với hiệu giá cao, thường có giá trị chẩn đoán xác định khi hiệu giá từ 1/400 đến 1/3200 và nghi ngờ khi hiệu giá khoảng 1/50-1/200:
  • Chọc dò ở giai đoạn này không có mủ mà chỉ hút ra máu, đôi khi làm chẩn đoán nhầm với ung thư giai đoạn tiến triển.

Giai đoạn làm mủ: giống giai đoạn trên về dấu hiệu cơ năng và toàn thân nhưng có một vài điểm khác. Dấu hiệu điển hình ở giai đoạn này như sau:

  • Toàn thân

Thể trạng bệnh nhân thường suy sụp nhanh chóng, gầy sút, hốc hác đôi khi khiến thầy thuốc nghĩ tới một bệnh ung thư.

Sốt thường vẫn tồn tại, có thể sốt cao dao động.

  • Cơ năng

Đau vùng dưới sườn phải nhiều hơn, cảm giác nhức nhối làm bệnh nhân không dám thở mạnh, không dám ho mặc dầu nhiều trường hợp bệnh nhân bị ho do màng phổi bị kích thích. Nhưng khi ổ áp xe đã khu trú và nhất là đã có điều trị thì nhiều khi bệnh nhân chỉ cảm thấy tức nặng vùng gan.

Một số ít bệnh nhân có biểu hiện vàng da, vàng mắt và nước tiểu vàng đậm hoặc do tế bàó gan bị hủy hoại hoặc do khối áp xe lớn chèn ép đường mật.

  • Thực thể

Gan to: thông thường gan to xuống dưới bò sườn, mật độ mềm, bờ tù, ấn đau. Nếu ổ áp xe ở vòm gan thì gan to nhiều lên trên, gõ thấy diện đục của gan lên cao trên ngực.

An kẽ liên sườn 9-10 bệnh nhân đau chói, nhất là điểm trên đường nách giữa (thường ổ mủ nằm ở vòm gan phải).

Làm nghiệm pháp rung gan thường gây đau nhiều cho bệnh nhân nên khi khám cần chú ý động tác phải nhẹ nhàng.

Có thể sờ thấy khối lùng nhùng dưới bờ sườn phải khi gan to và nếu ổ áp xe nằm ở mặt trước dưới gan.

Hội chứng 3 giảm đáy ngực phải.

  • Cận lâm sàng

Xquang: chụp gan xa sẽ thấy bóng gan to, cơ hoành phải bị đẩy lên cao, không di động, góc sườn hoành phải tù hoặc hình ảnh tràn dịch màng phổi phải. Chiêu Xquang thấy cơ hoành phải mất di động.

Siêu âm: là một trong những biện pháp thăm dò cận lâm sàng thuận tiện, dê làm, ít nguy hiểm, giá trị và độ tin cậy cao. Hơn nữa siêu âm còn giúp xác định chính xác vị trí ố áp xe tạo thuận lợi cho phẫu thuật viện chọn lựa đường mổ hoặc hô trợ cho việc điều trị chọc hút mủ, rửa và dẫn lưu ổ áp xe có kết quả tốt.

Hình ảnh trên siêu âm là ổ trống hay giảm âm nằm trong nhu mô gan, có vách rõ.

  • Xét nghiệm máu: Bạch cầu vẫn tăng với tỷ lệ đa nhân trung tính cao. Máu lắng tăng cao là một yếu tố giúp chẩn đoán đồng thời để theo dõi tiến triển của bệnh.
  • Chọc dò: phải dùng kim có độ dài và kích thước lớn (dài 10-12cm. đường kính 8/10 mm) để chọc hút vì mủ thường đặc quánh. Mủ chọc hút ra có màu sôcôla, không mùi, nuôi cấy không có vi trùng, soi tươi có thể thấy amip di động nhưng với tỷ lệ rất thấp chỉ khoảng 10-30%. Thông thường với hướng dẫn của siêu âm hoặc CT-Scanner thì việc chọc dò sẽ thuận lợi và chính xác hơn. Trường hợp không có siêu âm và CT-Scanner thì qua kim chọc dò có thể bơm thuốc cản quang vào trong ổ áp xe và chụp Xquang tư thế thẳng và nghiêng để xác định vị trí ổ áp xe nhằm hướng dẫn cho thầy thuốc chọn lựa đường dẫn lưu mủ.
  • CT-Scanner là biện pháp lý tưởng để chẩn đoán áp xe gan nhưng lại là một thăm khám đắt tiền và chưa được phổ cập ở mọi bệnh viện. Phương pháp này cho biết vị trí chính xác của ổ áp xe kể cả những ổ nhỏ. Hình ảnh cho thấy là những ổ giảm tỷ trọng so với nhu mô gan có vỏ và ranh giới rõ.
  • Đồng vị phóng xạ: trên xạ hình gan, ổ áp xe là một nhân lạnh.

BIẾN CHỨNG

  • Tại chỗ: tổ chức hoại tử có thể làm loét thủng vào mạch máu trong gan, hình thành tụ máu dưới bao, có thể vỡ gây chảy máu, thậm chí tử vong đột ngột.
  • Vỡ vào các tạng lân cận
  • Vỡ vào ổ phúc mạc gây viêm phúc mạc, gặp từ 4-7% các trường hợp, thường từ các ổ áp xe mặt dưới gan. Biểu hiện lâm sàng là đột nhiên xuất hiện sốc và dấu hiệu viêm phúc mạc ở một bệnh nhân đang theo dõi điều trị áp xe gan.

.     – Vỡ vào màng phổi gây tràn mủ màng phổi, gặp với tỷ lệ khoảng 5-7%, thường ở các ổ áp xe hạ phân thuỳ VII vỡ qua cơ hoành lên màng phổi. Bệnh nhân đột ngột đau ngực, khó thở, khám có hội chứng ba giảm bên phổi phải, chọc dò màng phổi hút ra mủ màu sôcôla.

  • Vỡ vào màng tim gây tràn mủ màng tim, ít gặp hơn (0,4%) thường từ áp xe gan trái, đây là biến chứng nặng dễ gây tử vong do chèn ép tim cấp.
  • Vỡ vào phế quản thường từ ổ áp xe ở hạ phân thuỳ VIII, gặp trong khoảng 7-8%. Đáy phổi tương ứng vùng này dính vào cơ hoành nên ổ áp xe phá dần qua cơ hoành, nhu mô phổi và thông vào phế quản. Biểu hiện lâm sàng bằng khạc ra mủ màu sôcôla, không thôi.
  • Vỡ ra ngoài thành bụng gây loét hoại tử thành bụng, thành ngực lan rộng, là một biến chứng nặng thường gây tử vong.

CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán xác định

  • Giai đoạn sớm: Trên lâm sàng dựa vào tam chứng Fontan: đau + sốt + gan to, kết hợp với các dấu hiệu cận lâm sàng biểu hiện hội chứng nhiễm khuẩn (bạch cầu và máu lắng tăng), Xquang có tràn dịch màng phổi phải và cơ hoành kém di động. Động tác điều trị thử bằng emetin hoặc metronidazol hay dẫn xuất sẽ khỏi nhanh các dấu hiệu trên cũng là một yếu tố để chẩn đoán bệnh.
  • Giai đoạn làm mủ(giai đoạn áp xe thực thụ): phối hợp với kết quả của chọc dò của siêu âm hay CT-Scanner sẽ giúp chẩn đoán bệnh một cách chính xác.

Chẩn đoán phân biệt

  • Giai đoạn sớm

Ung thư gan tiên phát tiến triển: kết hợp các dấu hiệu lâm sàng với các xét nghiệm, đặc biệt aFP tăng cao và dựa vào điều trị thử có tiến triển tốt để phân biệt.

Gan tim: Trường hợp bệnh nhân có suy tim phải cấp làm cho gan bị ứ máu nhiều, đột ngột gây nên gan to và đau. Bệnh nhân không sốt, có khó thở, cần tìm các dấu hiệu thực thể như tĩnh mạch cổ nổi, phản hồi gan-tĩnh mạch cổ, rales ứ đọng ở phổi, nghe có tiếng tim bệnh lý.

Viêm túi mật cấp: bệnh nhân thường có sốt và đau hạ sườn phải, khám thấy phản ứng và co cứng dưới sườn phải nên khó xác định tình trạng gan và túi mật trên lâm sàng. Siêu âm giúp ích nhiều cho chẩn đoán.

  • Giai đoạn làm mủ

U gan: Những áp xe điều trị dở dang có vỏ xơ dày, ít mủ đặc sệt và bệnh nhân không đau, không sốt dễ nhầm với u gan. Để phân biệt thường phải dựa vào chẩn đoán hình ảnh, xét nghiệm aFP, chọc hút làm tế bào học và thậm chí có thể mổ thăm dò để khẳng định.

Nang gan bội nhiễm: thường rất khó phân biệt trừ khi tiền sử bệnh nhân biết có nang gan, nay có các dấu hiệu bội nhiễm thì có thể chẩn đoán được. Chọc dò để xét nghiệm mủ trong trường hợp này có giá trị phân biệt.

ĐIỀU TRỊ

  • Nội khoa: Với các thuốc kháng amip đặc hiệu phần lớn bệnh nhân bị áp xe gan amip có thể được điều trị khỏi, nhất là ở giai đoạn sớm.
  • Emetine clohydrate: với liều lượng 1mg/1kg/ngày trong 10 ngày, tiêm bắp sâu. Tổng liều không vượt quá 10mg cho một cân nặng cơ thể. Vì thuốc có tác dụng phụ gây nhược cơ, mệt mỏi nên thường dùng kết hợp với Strychnin và Vitamin Bl. Ngoài ra vì thuốc có ảnh hưởng về tim mạch do vậy phải được theo dõi kỹ trong thời gian điều trị.

DehydroEmetin là Emetin tổng hợp, tác dụng tương tự nhưng ít tác dụng phụ hơn. Liều dùng 1,5-2 mg/kg/ngày, tổng liều l,2g.

  • Metronidazol và các dẫn xuất
  • Metronidazol (Flagyl) đường uống với liều l,5-2gam/ngày trong 5-7 ngày hoặc tôt hơn dùng loại tiêm truyền tĩnh mạch với liều 7,5mg/kg/mỗi 8giờ (khoảng 1gam/ngày).
  • Các dẫn xuất của metronidazol như Secnidazol (Flagentyl), Tinidazol (Fasigyne), Ornidazol (Tibéral).

Liều lượng thông thường theo đường uống: 1,5g/ngày X 5 ngày.

Với những áp xe có đường kính < 5cm thì chỉ cần điều trị nội khoa đơn thuần mà không cần hút hay dẫn lưu mủ.

Những trựòng hợp nghi ngờ có bội nhiễm nên dùng phối hợp với kháng sinh có phổ kháng khuẩn rộng, ưu thế mạnh đối với vi khuẩn Gram âm.

  • Chọc hút mủ

Với hướng dẫn của siêu âm việc chọc hút sẽ chính xác hơn và có thể hút mủ triệt để hơn. Đồng thời sau hút mủ có thể bơm rửa sạch ổ áp xe thì thời gian điều trị sẽ được rút ngắn.

Đối với những áp xe ở sâu trong nhu mô hoặc áp xe nông nhưng đã thành hoá thì sau khi chọc hút bằng kim nhỏ có thể rút kim, còn theo nguyên tắc kinh điển thì phải lưu kim 48 giờ để tạo dính tránh chảy máu, mủ vào ổ phúc mạc.

Thường áp dụng chọc hút cho những ổ áp xe không quá lốn.

  • Dẫn lưu qua da bằng catheter

Tuỳ theo loại catheter mà ta có cách đặt dẫn lưu khác nhau, theo kiểu Seldinger với guide dẫn đường, hoặc với catheter có vỏ kim loại hay kim nhựa có nòng bằng kim loại thì chọc dò trực tiếp vào ổ áp xe rồi rút vỏ hay nòng kim loại để lại catheter.

Dẫn lưu qua da dưới hướng dẫn của siêu âm hay CT-Scanner thì kết quả sẽ tốt hơn.

Săn sóc hàng ngày có thể rửa 4 – 6 lần hoặc bơm rửa liên tục nếu đặt 2 catheter hoặc dùng loại catheter 2 nòng. Dẫn lưu này thường để lưu 5 – 15 ngày tuỳ theo kết quả điều trị.

  • Chích dẫn lưu

Trên cơ sở chọc dò ổ áp xe và lưu kim để tạo dính gan với thành bụng, chích một vết nhỏ qua đó đặt một ống dẫn lưu vào ổ áp xe. Thường là đối với những ổ áp xe không quá lớn và gần với bề mặt gan.

Phẫu thuật

  • Đường mổ

Tuỳ theo vị trí ổ áp xe mà chọn lựa đường mổ cho hợp lý

  • Đường giữa trên rốn nếu áp xe gan trái hay những áp xe mặt trước hoặc nhất là những trường hợp cần thăm dò với các áp xe có biến chứng trong ổ bụng.
  • Đường dưới bờ sườn phải là đường vào tốt đối với các áp xe cả ở gan phải và gan trái và trong trường hợp cần thiết có thể mở rộng thành đường dưới sườn hai bên.
  • Đường ngực phải qua màng phổi và cơ hoành chỉ dành cho áp xe sau trên phải đơn độc chưa có biến chứng. Bệnh nhân nằm nghiêng trái, rạch qua khe liên sườn 8, 9 hoặc 10, khâu đính cơ hoành vơí cơ gian sườn nơi túi cùng màng phổi để biệt lập khoang màng phổi trước khi đặt dẫn lưu.
  • Đường sau, ngoài phúc mạc, ngoài màng phổi sau khi cắt xương sườn 12 đối với áp xe sau dưới phải.

Nói chung với những áp xe phải điều trị phẫu thuật nên chọn đường qua phúc mạc để có thể thăm dò toàn diện hơn.

Thăm dò

  • Gan: mặc dù đã có chẩn đoán bằng siêu âm trước mổ vẫn cần thăm dò bằng mắt và chủ yếu bằng tay sờ một cách cẩn thận để xác định ổ áp xe, nhất là những trường hợp có nhiều ổ. Nếu có siêu âm trong mổ thì việc thăm dò sẽ thuận lợi và chính xác hơn.
  • Ổ phúc mạc: để xác định ổ áp xe đã gây biến chứng chưa chẳng hạn như vỡ gây viêm phúc mạc, vỡ vào các tạng lân cận…
  • Lấy mủ để làm xét nghiệm tế bào và vi trùng học

Dẫn lưu

  • Mở gan tối thiểu áp dụng cho cả áp xe gan ở nông cũng như các áp xe ở sâu trong nhu mô. Mở một lỗ ở vị trí nhu mô mỏng nhất qua đó hút mủ và đặt một ống dẫn lưu to vào ổ áp xe để dẫn lưu mủ ra ngoài, cần thiết phải cố định diện gan xung quanh ống dẫn lưu vào thành bụng để biệt lập ổ áp xe với ổ phúc mạc bằng cách khâu nhu mô gan với thành bụng hoặc dùng mèche chèn để tạo dính.
  • Mở rộng ổ áp xe, cắt chỏm áp xe đối với những áp xe ở nông, thành ổ áp xe phía bề mặt gan hầu như không còn nhu mô gan nên việc cắt phần chỏm này ít chảy máu. Sau khi cắt chỏm áp xe thì hút sạch mủ, lấy hết tổ chức hoại tử rồi đặt cạnh miệng áp xe một ống dẫn lưu to, mềm, nhiều lỗ để dẫn lưu với lỗ ra qua thành bụng thấp, xa vết mổ.

Săn sóc

  • Thông thường để dẫn lưu tự chảy nhưng cũng có thể hút liên tục dưới áp lực nhẹ.
  • Thời gian để dẫn lưu thường từ 7 đến 15 ngày tuỳ theo diễn biến toàn thân và tại chỗ.
  • Kiếm tra: có thể chụp có bơm thuốc cản quang qua ông dẫn lưu để đánh giá tiên triên của ổ áp xe hoặc dùng siêu âm với ưu điểm ít nguy hiểm, có thể làm đi làm lại nhiều lần.

Điều trị biến chứng

  • Viêm phúc mạc do áp xe gan vỡ: phẫu thuật để lau rửa ổ bụng đồng thời dẫn lưu áp xe như trên
  • Áp xe vỡ vào màng phổi: dẫn lưu màng phổi tối thiểu là điều trị chính. Dẫn lưu ổ áp xe có thể làm hoặc không tuỳ theo tình trạng bệnh nhân tiến triển có tốt hay không sau khi dẫn lưu màng phổi tối thiểu.
  • Áp xe vỡ vào màng tim: cũng tương tự như trên với dẫn lưu màng tim là chính.                          .
  • Áp xe vỡ vào phế quản thường áp dụng phương pháp dẫn lưu bằng tư thế đầu dốc để bệnh nhân ho khạc ra mủ mà không cần dẫn lưu áp xe.
  • Chảy máu: thường phải áp dụng biện pháp cắt gan

KẾT LUẬN

Áp xe gan amip là bệnh lý thường gặp ở những nước vùng nhiệt đới, do Entamoeba histolitica gây ra, thứ phát sau nhiễm amip ở ruột. Chẩn đoán bệnh thường không khó với các dấu hiệu lâm sàng và cận lâm sàng, chủ yếu là siêu âm. Nhờ có thuốc đặc hiệu nên điều trị nội khoa thường tiến triển tốt, chỉ trong một số ít trường hợp phẫu thuật mới được đặt ra.

 

Đầu trướng (nặng đầu) – Triệu chứng bệnh Đông y

Khái niệm

Đầu trướng tục gọi là “Não trướng”

Chứng này gần giống với chứng “Đầu nặng”. Đầu nặng thì như lấy vật bọc lại nên có cảm giác nặng nề. Còn Đầu trướng thì tự cảm thấy đầu căng ra như muốn nứt.

Nếu Đầu trướng ngẫu nhiên hoặc do thiếu ngủ, hoặc do say rượu gây nên không phải là trạng thái bệnh thì không thuộc phạm vi thảo luận ở mục này.

Phân biệt

Chứng hậu thường gặp

  • Đầu trướng do Can hỏa: Có chứng phát bệnh khi cáu giận, đầu trướng và đau, nặng nề bức bôi, gân xanh ở đầu nổi chằng chịt, miệng đắng và khô, thậm chí hai tai ù đặc, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch Huyền hoặc Sác.
  • Đầu trướng do thấp tà ngăn trở: Có chứng đầu trướng nặng nề như có vật bọc lấy đầu, bụng đầy, ngực khó chịu, bụng trướng buồn nôn không muốn ăn uống, chân tay nặng nề, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Nhu hoặc Hoạt.

Phân tích

  • Chứng Đầu trướng do Can hỏa: Phần nhiều do cáu giận hoặc tình chí ức uất, Can khí không được thư sướng điều đạt, uất lại hóa hỏa. Hoặc ăn bừa các thức cay nóng dẫn động Can hỏa nghịch lên làm rối loạn không khiếu dẫn đến đầu trướng. Nặng hơn thì thanh khiếu vít tắc làm cho điếc đột ngột, có những triệu chứng đầu trướng và đau, hai bên sườn trướng đau, miệng khô và đắng, Tâm phiền dễ cáu giận, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch Huyền Sác là những hiện tượng Can hỏa quá thịnh. Điều trị theo phép thanh Can tả hỏa, dùng phương Long Đởm tả Can thang gia giảm.
  • Chứng Đầu trướng do thấp tà ngăn trở: Phần nhiều do ở lâu nơi đất ẩm hoặc lội nước dầm mưa cảm nhiễm thấp tà. Thấp ngăn trở, dương bị lấn át, thanh dương không thăng, trọc khí không giáng dẫn đến đầu trướng. Có các chứng: đầu trướng nặng nề như lấy vải buộc chặt, bụng đầy nôn ọe, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Nhu Hoạt là những dâu hiệu thấp tà ngăn trở. Điều trị theo phép khư thấp thăng thanh dùng các phương Xương truật trừ thấp thang hoặc Thanh trấn trang. Chứng này với chứng Đầu trướng do Can hỏa nguyên nhân bệnh khác nhau, biểu hiện lâm sàng cũng khác nhau. Chứng trên phần nhiều gặp hiện tượng Can uất hóa hỏa, còn chứng này phần nhiều kiêm cả đặc trưng thấp trọc ngăn trở ở trong chẩn đoán phân biệt rất dễ.

Chứng Đầu trướng phần nhiều thuộc Thực chứng, thường đồng thời xuất hiện với các chứng Đau đầu, Đầu choáng và Đầu nặng, có thể tham khảo với những mục đã nói ở trên.

Trích dẫn y văn

  • Túc thực không tiêu hóa, no thì trọc khí hun đốt, đầu trướng và đau dùng Bình vị tán gia Chỉ thực làm phương chủ yếu (Tôn sinh thư – Đầu thống).
  • Mạch bên hữu Huyền, đầu trướng, tai ù, hỏa bốc lên đó là Can dương uất ở trên, thanh khiếu mất chức năng (Lâm chứng chỉ nam y án – Can phong).

Động kinh – Nguyên nhân và điều trị

Được định nghĩa khi co giật liên tục hoặc tái diễn, các cơn co giật riêng lẻ có suy giảm ý thức giữa các cơn. Thời gian cơn co giật kinh điển khoảng 15-30 phút. Định nghĩa hay dùng trên lâm sàng hơn là bất kỳ tình trạng nào cần sử dụng ngay thuốc chống co giật; trong trạng thái động kinh co giật toàn thể (GCSE), điển hình khi co giật kéo dài > 5 phút.

TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG

Động kinh gồm nhiều loại:

GCSE (vd: dai dẳng, co giật toàn thể trên điện não, hôn mê, và động kinh co cứng – co giật), và động kinh không co giật (vd: cơn vắng ý thức kéo dài hoặc động kinh cục bộ, lú lẫn, hoặc giảm ý thức cục bộ, và những bất thường vận động nhỏ). GCSE dễ nhận thấy khi co giật rõ, nhưng sau 30-45 phút co giật liên tục, các dấu hiệu có thể trở nên khó nhận thấy hơn (co giật nhẹ các ngón tay; chuyển động mắt nhanh nhẹ; hoặc những giai đoạn nhịp nhanh kịch phát, dãn đồng tử, và tăng huyết áp).

EEG có thể là phương tiện chẩn đoán duy nhất khi các dấu hiệu lâm sàng khó nhận thấy; vì vậy, nếu một bệnh nhân vẫn còn hôn mê sau co giật, nên thực hiện EEG để loại trừ tình trạng động kinh tiếp diễn. GCSE đe dọa tính mạng khi kèm theo rối loạn chức năng tim phổi, tăng thân nhiệt, và rối loạn chuyển hóa như toan máu (do hoạt động cơ kéo dài). Tôn thương thần kinh không phục hồi có thể xảy ra do co giật dai dẳng, thậm chí trên một bệnh nhân bị liệt do ức chế thần kinh cơ.

NGUYÊN NHÂN

Các nguyên nhân chủ yếu của GCSE là không sử dụng đúng hoặc cai thuốc chống động kinh, các rối loạn chuyển hóa, ngộ độc thuốc, nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương, khối u hệ thần kinh trung ương, động kinh khó chữa, và chấn thương đầu.Điều trị tình trạng động kinh co cứng-co giật

HÌNH 23-1 Điều trị tình trạng động kinh co cứng-co giật toàn thể ở người lớn. Thanh ngang màu xám chỉ dẫn tương đối khoảng thời gian tiêm thuốc. TM : tiêm tĩnh mạch; PE: tương đương phenytoin.

ĐIỀU TRỊ Trạng thái động kinh

GCSE là một cấp cứu y khoa cần phải được điều trị ngay lập tức.

Đầu tiên chú ý đến vấn đề tim phổi hoặc tăng thân nhiệt cấp tính.

Tiến hành khám toàn diện và khám thần kinh, lập đường truyền tĩnh mạch, và xét nghiệm kiểm tra những bất thường chuyển hóa gồm nồng độ thuốc chống co giật nếu bệnh nhân có tiền sử động kinh.

Liệu pháp chống co giật nên bắt đầu ngay sau đó không trì hoãn (Hình. 23-1)

Đồng thời, tìm ra nguyên nhân co giật là cần thiết để ngừa tái phát và điều trị các bất thường kèm theo.

Điều trị tình trạng động kinh không co giật ít khẩn cấp hơn khi co giật liên tục không kèm theo rối loạn chuyển hóa nặng của GCSE; tuy nhiên, nhiều bằng chứng tổn thương tế bào tại chỗ các vùng co giật cục bộ, vì vậy nên được điều trị nhanh nhất có thể theo hướng tiếp cận chung cho GCSE.

TIÊN LƯỢNG

Tỷ lệ tử vong là 20% trong GCSE, và tỷ lệ di chứng thần kinh kéo dài là 10 –5 0%.

Chẩn đoán và điều trị trầm cảm ở trẻ em

Trầm cảm là một loại rối loạn khí sắc bao gồm khí sắc trầm dai dẳng, mất mọi quan tâm thích thú, hay mệt mỏi và giảm hoạt động làm giảm khả năng thích ứng của người bệnh với cuộc sống.

CHẨN ĐOÁN

Dựa vào các nhóm triệu chứng:

Ba triệu chứng đặc trưng

  • Khí sắc trầm.
  • Mất quan tâm thích thú.
  • Tăng sự mệt mỏi.

Bảy triệu chứng phổ biến

  • Giảm tập trung chú ý.
  • Giảm tính tự trọng và lòng tự tin.
  • Ý tưởng bị tội và không xứng đáng.
  • Nhìn tương lai ảm đạm và bi quan.
  • Ý tưởng và hành vi tự huỷ hoại hoặc tự sát.
  • Rối loạn giấc ngủ.
  • Ăn không ngon hoặc ăn nhiều.

Một số triệu chứng sinh học trong trầm cảm nặng

  • Giảm 5% trọng lượng cơ thể trong 1 tháng, khí sắc giảm về buổi sáng, chậm chạp tâm lý vận động, thức giấc sớm.
  • Sững sờ, hoang tưởng và ảo giác có thể gặp trong trầm cảm nặng. Nội dung hoang tưởng thường là có tội, không xứng đáng, bị truy hại hoặc không tồn tại, ảo giác thường gặp là ảo thanh.
  • Chẩn đoán mức độ nặng của trầm cảm
  • Mức độ nặng: gồm 3 triệu chứng đặc trưng kết hợp với trên 4 triệu chứng phổ biến.
  • Mức độ vừa: có 2 triệu chứng đặc trưng kết hợp với 3 hoặc 4 triệu chứng phổ biến.
  • Mức độ nhẹ: có 2 triệu chứng đặc trưng kết hợp với 2 triệu chứng phổ biến.

Chẩn đoán theo thể bệnh

  • Giai đoạn trầm cảm: chỉ bị một giai đoạn trầm cảm.
  • Rối loạn trầm cảm tái diễn: có sự tái phát của những giai đoạn trầm cảm.
  • Rối loạn cảm xúc lưỡng cực: giai đoạn trầm cảm xen kẽ với giai đoạn hưng cảm.

ở trẻ nhỏ trầm cảm có thể biểu hiện dưới dạng cáu kỉnh hoặc khí sắc thay đổi nhanh, bứt rứt, ngủ nhiều, ăn nhiều, các triệu chứng đau cơ thể… Giảm vận động chủ ý, tư duy chậm gây ra những suy giảm về học tập. Đối với trẻ vị thành niên cảm giác tự ti, mặc cảm tội lỗi gặp khá phổ biến và có thể sự bi quan, thất vọng dẫn đến ý nghĩ tự sát hoặc hành vi tự sát. ở một số trẻ em trầm cảm có thể biểu hiện bằng những hành vi chống đối xã hội như bỏ học, phạm pháp, trốn nhà, gây rối nơi công cộng…

Test tâm lý thường dùng để nhận định trầm cảm là test Beck: nếu kết quả tổng điểm trên 15 là trầm cảm nặng, 8-14 điểm là trầm cảm vừa, 5-7 điểm là trầm cảm nhẹ. Ngoài ra test CBCL cũng được sử dụng để đánh giá trầm cảm.

ĐIỀU TRỊ

Điều trị bằng hoá dược là chủ yếu kết hợp với liệu pháp tâm lý. cần theo dõi đặc biệt tới những bệnh nhân trầm cảm nặng, chán ăn, có bệnh cơ thể kèm theo, có ý tưởng hoặc hành vi tự sát.

Liệu pháp hoá dược

Thuốc chống trầm cảm 3 vòng như amitriptylin, anafranil liều 25 – 75mg/ngày, uống.

– Thuốc chống trầm cảm mới: fluoxetin (Prozac) 20mg/ngày, uống.

Đốì với những bệnh nhân có hoang tưởng, ảo giác cho uống thêm an thần kinh như tisersin 25-75mg/ngày hoặc haloperidol 1,5 – 3mg/ngày.

Lưu ý tác dụng phụ của thuốc chống trầm cảm 3 vòng: có thể gây khô miệng, nhìn mờ, giãn đồng tử, chán ăn, bí tiểu tiện, chóng mặt, tăng nhịp tim… trong trường hợp đó cần phải giảm liều.

Liệu pháp tâm lý

Có thể áp dụng nhiều liệu pháp khác nhau nhưng thường sử dụng liệu pháp hành vi nhận thức và liệu pháp gia đình nhằm hỗ trợ tâm lý người bệnh, phục hồi chức năng tâm lý xã hội, giúp cho họ sớm thích nghi với cuộc sống trong cộng đồng.

Các phương pháp điều trị hỗ trợ khác

Nâng đỡ tâm lý người bệnh, đưa vào các hoạt động vui chơi giải trí, thể thao, lao động hợp lý… cần lưu ý tới chế độ ăn đảm bảo dinh dưỡng.

  • Tiêu chuẩn ra viện và theo dõi điều trị ngoại trú
  • Tiêu chuẩn ra viện

Khí sắc Ổn định, không có ý tưởng tự sát, người bệnh đã bước đầu có thể trở lại sinh hoạt bình thường, giao tiếp và học tập được.

  • Theo dõi và điều trị ngoại trú

Điều trị bằng thuốc chống trầm cảm tối thiểu từ 6 đến 9 tháng kể từ khi bệnh đã ổn định vì bệnh rất hay tái phát. Đối với bệnh nhân bị trầm cảm tái diễn phải dùng thuốc chống trầm cảm kéo dài hơn kết hợp với depamid liều uống 200-400mg/ngày nhằm dự phòng nguy cơ tái phát. Bệnh nhân được theo dõi và khám định kỳ trong thời gian dài.

Điều trị táo bón ở trẻ em

Táo bón là tình trạng đi ngoài không thường xuyên, phân to cứng, đau và khó khăn khi đi ngoài kèm theo đi ngoài phân són. Theo tiêu chuẩn ROME III , một trẻ được chẩn đoán là táo bón khi có ít nhất 2 trong số các triệu chứng sau trong vòng 1 tháng với trẻ < 4 tuổi, 2 tháng đối với trẻ > 4 tuổi:

  • < 3 lần đi ngoài mỗi tuần.
  • Ít nhất một lần són phân mỗi tuần ở trẻ đã được huấn luyện đi ngoài.
  • Tiền sử nhịn đi ngoài hoặc đi ngoài đau và khó khăn.
  • Có khối phân lớn trong trực tràng.
  • Có tiền sử đi ngoài đau hoặc khó khăn
  • Tiền sử đi ngoài phân to có thể gây tắc bồn cầu

    táo bón ở trẻ em
    Táo bón ở trẻ em

PHÂN LOẠI

  • Táo bón cơ năng.
  • Táo bón thực thể

NGUYÊN NHÂN

  • Táo bón do rối loạn cơ năng.
  • Táo bón do nguyên nhân thần kinh: thần kinh dạ dày – ruột ( Bệnh Hirschsprung, loạn sản thần kinh ruột, bệnh Chaga) hoặc thần kinh trung ương (bại não, thoát vị màng não tủy, u dây sống, tật nứt dọc tủy sống).
  • Táo bón do nguyên nhân nội tiết chuyển hóa hoặc bệnh hệ thống: suy giáp trạng, đa xơ cứng, tăng hoặc giảm can xi máu…

Biểu hiện lâm sàng

Cơ năng

  • Hỏi bệnh:

Thời điểm xuất hiện triệu chứng

Số lần đi ngoài trong một tuần: ít hơn 3 lần/1tuần.

Tính chất phân:

+ Phân cứng chắc, to.

+ Máu quanh phân hoặc trong giấy vệ sinh.

+ Són phân: thỉnh thoảng từng đợt vài lần một ngày, phân nhỏ són hoặc nhiều (đôi khi mẹ bệnh nhân nhầm lẫn với tiêu chảy).

– Hành vi nín nhịn đi ngoài:

+ Ngồi xổm.

+ Bắt chéo hai chân.

+ Gồng cứng người.

+ Đỏ mặt, đổ mồ hôi, khóc.

+ Bấu vào mẹ, đồ vật.

+ Trốn đi ngoài.

– Đau bụng:

+ Không đặc trưng, không có đỉểm đau khu trú.

+ Giảm khi trẻ đi ngoài.

Toàn thân:

  • Trẻ chán ăn, giảm cảm giác thèm ăn.
  • Phát triển vận động có bình thường không, có biểu hiện bệnh lý thần kinh hay không?

Thực thể:

  1. Khám bụng:
    • Có thể có bụng chướng
    • Có thể thấy dấu hiệu tắc ruột
    • Sờ thấy khối phân.
  2. Khám hậu môn – trực tràng
    • Vị trí hậu môn: Thường bình thường, có lỗ dò hay không.
    • Có nứt kẽ hậu môn.
    • Dấu hiệu của trẻ bị ngược đãi (lạm dụng tình dục).
    • Thăm trực tràng:

+ Có khối phân trong trực tràng:

+ Sự co dãn tự động của cơ thắt hậu môn.

+ Hẹp trực tràng.

  • Thăm khám các cơ quan khác để phát hiện các nguyên nhân khác gây táo bón.

Cận lâm sàng.

  • XQ bụng không chuẩn bị:

Tìm triệu chứng của tình trạng ứ đọng phân. Thường được áp dụng khi không thăm khám được hậu môn trực tràng (trẻ không hợp tác hoặc nghi ngờ có tổn thương).

  • XQ có thuốc cản quang:

Chụp đại tràng thẳng nghiêng khi nghi ngờ táo bón do nguyên nhân thực thể (phình đại tràng bẩm sinh).

  • Chụp lưu thông đại tràng có chất đánh dấu phóng xạ:

Ít sử dụng, giúp phân biệt trẻ són phân do táo bón và són phân không liên quan táo bón.

  • Đo áp lực hậu môn trực tràng
    • Có thể có ích đối với những trường hợp táo bón kéo dài và khó chữa
    • Giúp phát hiện bệnh phình đại tràng bẩm
    • Tiên lượng kết quả và đáp ứng điều trị ở một số bệnh nhân.
  • Các xét nghiệm cận lâm sàng khác (khi nghi ngờ táo bón do nguyên nhân thực thể):
    • Sinh hóa máu: T4, TSH chẩn đoán suy giáp trạng bẩm
    • Chụp CT- scanner hoặc MRI chẩn đoán táo bón do nguyên nhân thần kinh…

CHẨN ĐOÁN

Đối với táo bón cơ năng, hỏi bệnh sử và thăm khám lâm sàng là đủ để chẩn đoán bệnh.

Tiêu chuẩn chẩn đoán táo bón cơ năng: (Rome III)

Có ít nhất 2 trong các triệu chứng sau, trong vòng 1 tháng đối với trẻ <4 tuổi hoặc trong vòng 2 tháng đối với trẻ > 4 tuổi:

  • Đi ngoài ít hơn 3 lần/1 tuần
  • Ít nhất 1 lần són phân mỗi tuần
  • Tiền sử nhịn đi ngoài hoặc ứ phân rất nhiều (do nhịn).
  • Có tiền sử đi ngoài đau hoặc khó khăn.
  • Có khối phân lớn trong trực tràng.
  • Tiền sử đi ngoài phân to có thể gây tắc bồn cầu

Các triệu chứng đi kèm (sẽ hết khi trẻ đi ngoài):

  • Chán ăn.
  • Chướng bụng, đau bụng

Các dấu hiệu gợi ý táo bón do nguyên nhân thực thể.

  • Táo bón xuất hiện ở trẻ dưới 1 tuổi
  • Chậm phân su
  • Bóng trực tràng rỗng
  • Có máu trong phân.
  • Không có sự nín nhịn đi ngoài.
  • Không đi ngoài són.
  • Xuất hiện triệu chứng ngoài ruột
  • Bất thường sắc tố.
  • Bệnh liên quan đến bàng
  • Không đáp ứng với điều trị thông thường
  • Cơ thắt hậu môn chặt
  • Chậm phát triển

Khi có các dấu hiệu gợi ý trên cần thăm khám lâm sàng để tìm nguyên nhân thực thể gây táo bón.

ĐIỀU TRỊ

Điều trị táo bón cơ năng.

Mục tiêu:

  • Khôi phục lại khuôn phân bình thường (phân mềm, không đau khi ngoài, không són phân).
  • Ngăn ngừa sự tái phát.

Điều trị cụ thể

  • Tư vấn: Giải thích cho cha mẹ và trẻ biết tình trạng và các can thiệ
  • Thụt tháo phân (trước khi điều trị duy trì):
    • PEG (Poly ethylene glycol): 1 – 1,5g/1kg/ngày x 3 ngày (uống).
    • Thụt hậu môn: Phosphate soda enemas (Fleet): trẻ > 2 tuổ
    • Dầu paraffin: trẻ > 1 tuổi: 15- 30ml/tuổi (năm) chia 2 lầ
  • Điều trị duy trì (bao gồm điều trị thuốc, chế độ ăn và huấn luyện đi ngoài).
    • Điều trị thuốc:

+ Nhuận tràng thẩm thấu:

Lactulose: 1- 3ml/kg/ngày, chia 2 lần. Sorbitol  : 1- 3ml/kg/ngày, chia 2 lần. PEG 3350 không có điện giải: 1g/kg/ngày.

Magiesium hydroxide: 1- 3ml/kg/ngày, chia 2 lần.

+ Nhuận tràng bôi trơn (ít dùng)

Dầu paraffin: trẻ > 1 tuổi: 1- 3ml/kg/ngày, chia 2 lần.

+ Nhuận tràng kích thích:

Bisacodyl ≥ 2 tuổi:  0,5 – 1 viên đạn 10mg/lần.

1 – 3 viên nén 5mg/lần.

Glycerin đặt hậu môn.

  • Chế độ ăn:

Tăng lượng dịch, carbonhydrate và chất xơ.

Lượng chất xơ = tuổi + 5 (gam/ngày) đối với trẻ < 2 tuổi.

+ Một số trẻ táo bón do bất dung nạp sữa bò: Dùng sữa đậu nành hoặc sữa đạm thủy phân.

+ Thực phẩm giàu chất xơ: rau quả, bánh mỳ nguyên cám, ngũ cốc nguyên hạt.

– Huấn luyện đi ngoài.

Điều trị táo bón thực thể:

Tùy thuộc vào nguyên nhân:

  • Bệnh phình đại tràng bẩm sinh: phẫu thuật cắt bỏ đoạn đại tràng vô hạch.
  • Bệnh suy giáp trạng bẩm sinh: liệu pháp hormone thay thế.
  • Khối u vùng tủy- thắt lưng, các dị tật thần kinh như thoát vị màng não tủy hoặc tật nứt dọc đốt sống phải được điều trị triệt để bằng phẫu thuật…

Hội chứng Barrett

Tên khác: thực quản ngắn bên trong, dị sản Barrett.

Căn nguyên

Hội chứng gây ra bởi chứng trào ngược (hồi lưu) dạ dày- thực quản mạn tính (xem hội chứng này), từ đó khởi động một quá trình dị sản (thay thế typ tế bào bình thường bởi một typ tế bào khác) và đưa tới nguy cơ thoái hoá trở thành ung thư dạng tuyến (carcinom tuyến). Hội chứng Barrett bẩm sinh hình như hiếm gặp, nhưng người ta đã thấy những biến dị của gen p53 ở những trẻ em mắc hội chứng này. Có thể hội chứng còn kết hợp với bệnh xơ cứng bì.

Giải phẫu bệnh

Ở phần dưới (thấp) của thực quản thấy biểu mô trụ dị sản, xuất hiện ở ngay phía trên của nơi chuyển tiếp bình thường giữa biểu mô thực quản và dạ dày. Biểu mô dị sản có thể trở thành đối tượng của quá trình loét và thành sẹo xen lẫn với nhau tái diễn nhiều lần.

Triệu chứng

Biểu hiện lâm sàng như một trường hợp viêm thực quản loét. Dị sản thực quản là tiền đề cho ung thư thực quản và ung thư tâm vị phát triển.

Điều trị

Theo dõi bằng nội soi hàng năm trong trường hợp dị sản, làm sinh thiết nhiều lần. Trong trường hợp có biến chứng (hẹp, vết loét, vết trợt) thì cho thuốc ức chế bơm proton trong thời hạn dài (ví dụ: Omeprazol 40 mg hàng ngày) để làm bệnh tiến triển chậm lại hoặc ngừng hẳn. Nếu thấy loạn sản nặng thì nên chỉ định điều trị ngoại khoa.