Blog Trang 445

Tứ vật thang

Thành phần tứ vật thang:

Thục địa 12g

Đương quy 10g

Bạch thược 12g

Xuyên khung 5g

Cách dùng: Các vị thuốc trên tán thành bột thô, sắc nước uống, mỗi lần uống 9g. Nước 1 bát rưỡi, sắc đến 8 phần, bỏ cặn uống nóng, uống trước ăn khi bụng rỗng. Nếu phụ nữ có thai thai động không yên, huyết chảy không ngừng, thêm ngải 10 lá, a giao 1 lát, sắc giống như trên. Hoặc huyết tạng hư lãnh, băng trung, mất máu quá nhiều cũng thêm Giao, Ngải sắc. Hiện nay: làm thang sắc nước uống. 1 tễ sắc 3 lần, sáng trưa tối uống khi bụng rỗng.

Công dụng

Bổ huyết, điều huyết.

Chủ trị

Xung nhâm hư tổn, kinh nguyệt không đều, đau bụng vùng rốn, băng huyết rong kinh, huyết hoá thành khối cứng, thường gây đau, lúc thai nghén thì thai động không yên, huyết ra không dứt, lúc sinh xong sản dịch không xuống hết, kết thành hòn tụ, bụng dưới đau cứng, có lúc nóng lạnh, sắc mặt vàng, môi không tươi nhuận, chất lưỡi nhạt, mạch huyền tế hoặc tế sáp.

Phương giải

Tứ vật thang là phương tễ bổ huyết cơ bản, cũng là chủ phương của bổ huyết. Tác dụng của nó là bổ huyết hòa doanh, điều trị huyết hư doanh trệ, thực tế chính là trong hư có trệ, nên nó cũng là phương tễ cơ bản của điều kinh phụ khoa. Đồng thời không chỉ là điều kinh, trong phụ khoa thường dùng đến tứ vật thang, giả giảm biến hóa rất nhiều, như tiền sản dùng, hậu sản dùng, kinh nguyệt cũng dùng. Tứ đại môn của phụ khoa chủ yếu là thai, sản, kinh, đới, 3 mục trước đều thường dùng tứ vật thang, trong đới bệnh có lúc cũng sẽ dùng đến nó.

Phương này chú trọng lý giải phối ngũ của 4 vị thuốc trong nguyên phương. Phương dùng thục địa, Bạch thược, Đương qui, Xuyên khung mỗi vị đều có đặc điểm có thể phân nó như thế này, có âm, có dương, có bổ, có hành. Thục địa là bổ, có thể bổ huyết, Đương qui, Xuyên khung là hành, Thục địa, Bạch thược là âm dược, Đương qui, Xuyên khung là dương dược. Ở đây cần phân nhỏ, vị của Thục địa hậu nhất, là thuốc bổ mà không hành, Bạch thược là thuốc bổ kiêm điều. Đây đều là so sánh mà nói, không thể rời xa tiền đề lớn bổ huyết. Đầu tiên đây phương bổ huyết, trong bổ huyết kiêm tác dụng điều hòa doanh huyết. Trong 4 vị thuốc tạo thành phương tễ chia âm dương, trong âm dương lại chia là tương đối mà nói. Nếu nắm rõ câu nói để lý giải cho rằng “bạch thược là bổ mà kiêm hành” thì giải thích sai rồi. Đương qui chủ yếu thuộc thuốc hòa huyết chính là có thể bổ huyết có thể hành huyết, Xuyên khung chỉ là hành huyết, mà không có tác dụng bổ huyết. Vì huyết hư trong mạch, vận hành của huyết không lưu sướng, do đó sẽ hình thành huyết hư mà trệ. Trong vấn đề này huyết tương ứng với khí. Khí hành thì huyết hành, khí là soái của huyết, huyết là mẹ của huyết, khí nương tựa vào huyết. Hiện nay huyết hư rồi khí trong huyết sao đây? Tất nhiên cũng hư. Nên cần lý giải như vậy vì tạng phủ kinh mạch, khí huyết âm dương trong cơ thể đều liên quan với nhau. Phương này là bổ huyết tễ, trong phương vị Đương qui đã nói rất tỷ mỷ trong tiêu dao tán, tác dụng trong ở đây cũng như vậy. Đương qui đắng cay cam ôn, nó có thể hành khí trong huyết, vị cam của nó cũng có thể bổ tỳ khí, nên sự cay tán “ thượng chí điên đỉnh, hạn hành huyết hải” (trên đến đỉnh nóc, dưới hành huyết hải” của nó và Xuyên khung cũng khác nhau. Hai vị thuốc trước, Thục địa và Bạch thược, chỉ có Bạch thược là hơi hàn, hầu hết là thiên về ôn. Ở đây có Đương qui lại có Xuyên khung nên quan hệ bổ khí huyết ở đây có thể thể hiện ra. Lấy tân ôn hành khí là chủ, như vậy khiến thuốc bổ huyết bổ mà không nê trệ, khiến thuốc âm dược có thể được dương hóa ra, như vậy mới có thể dương sinh âm trưởng, mới có thể đạt được mục đích bổ huyết. Nên ở đây doanh hư huyết trệ, bổ huyết hòa doanh, không thể lý giải là khái niệm hành huyết, trệ này không thể so sánh với ứ. Nên tứ vật thang chủ yếu nắm mấy điểm này, thì có thể nắm được tinh thần của nó. Trong ứng dụng cụ thể rốt cuộc lấy bổ huyết làm chủ hay là hòa huyết là chủ, 4 vị này có thể điều chỉnh lẫn nhau. Nếu lấy bổ huyết làm chủ, thì thêm lượng Thục địa, Bạch thược, nếu huyết hư mà trệ còn có tình trạng xuất huyết thì không chỉ cần dùng Thục địa nhiều một chút, đặc biệt là Bạch thược cũng cần nhiều 1 chút. Ở đây lại nhắc đến vấn đề chỉ huyết, vấn đề liễm doanh của bạch thược. Nếu như huyết trệ, trệ khá nhiều một chút, hoặc là huyết hư mà hàn một chút, vậy Xuyên khung, Đương qui ở đây tất phải dùng, đồng thời cần căn cứ tình trạng này để điều chỉnh thêm lương dùng của chúng. Đối với Đương qui phân đoạn để dùng, trong trung dược đã nói qua, ở đây không thuật lại, ở đây dùng toàn đương quy. Nếu huyết hư còn có nhiệt, cần trọng dụng Bạch thược, còn trong tình trạng xuất huyết, Xuyên khung không chỉ cần dùng ít còn có thể suy xét không dùng, vì nó là thuốc cay ôn mà táo, trên dưới tẩu toán (chạy trốn), khí trong huyết. Nên hiểu được được đặc điểm 4 thuốc này, hiểu được ý nghĩa phối ngũ chủ yếu 4 thuốc này, thì sẽ nắm rõ phương tễ này. Hiểu được 4 phương diện bổ, hành, ôn, lương của phương tễ này, tóm lại tiền đề là phương tễ bổ huyết hòa doanh. Ví dụ huyết hư mà hàn, lại thêm chút ôn, huyết hư mà nhiệt thêm thuốc lương huyết, xuất huyết nhiều thêm thuốc chỉ huyết, kinh nguyệt không hành có thể thêm thuốc hoạt huyết, nếu có ứ trệ còn có thể thêm thuốc phá ứ, gia giảm biến hóa rất nhiều. Đối với chủ trị trong nguyên văn cũng cần phải suy xét, trong đó là “phụ nữ mang thai thai động không yên, ra máu không ngừng, thêm ngải 10 lá, a giao 1 lát… huyết tạng hư hàn, băng trung, ra máu quá nhiều cũng thêm ngài, giao sắc lên”, còn thận trọng biện chứng mà dùng về sau.

Fucidin

Thuốc fucidin-cream
Thuốc fucidin-cream

FUCIDIN

LEO PHARMA

kem bôi ngoài da 2%: ống 5 g, 15 g. thuốc mỡ bôi ngoài da 2%: ống 5 g, 15 g.

THÀNH PHẦN

cho 1 g kem
Acid fusidic 20 mg
cho 1 g thuốc mỡ
Acid fusidic 20 mg

DƯỢC LỰC

Fucidin là thuốc kháng khuẩn tại chỗ sử dụng ngoài da, có hoạt chất chính là acid fucidic có cấu trúc steroid, thuộc nhóm fusinadines.

Fucidin có tác dụng diệt khuẩn chủ yếu trên các mầm bệnh vi khuẩn thường gây các nhiễm trùng ngoài da.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Acid fusidic có đặc tính đồng thời thân nước và thân mỡ nên thấm rất tốt vào da, tới những lớp sâu của da và hiện diện trong tất cả các lớp mô da và dưới da.

Fusidin thích hợp cho những trường hợp nhiễm trùng da ở nông và sâu.

Fusidin dạng kem và thuốc mỡ khi sử dụng không vấy thuốc trên da, không làm vấy bẩn.

CHỈ ĐỊNH

Fucidin được chỉ định để điều trị nhiễm trùng da do tụ cầu trùng, liên cầu trùng và các vi sinh vật khác nhạy cảm với Fucidin. Chỉ định quan trọng nhất là: chốc, viêm nang lông, vết thương nông, bệnh nấm do Corynebacterium minutissimum, nhọt, viêm nang râu, vết thương do chấn thương hoặc phẫu thuật, vết bỏng, cụm nhọt, viêm tuyến mồ hôi, vết loét do giãn tĩnh mạch, viêm quanh móng, và trứng cá thường.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Chỉ dùng ngoài da, không bôi lên mắt, thời gian điều trị nên giới hạn trong vòng 7 ngày, ngoại trừ trường hợp điều trị mụn trứng cá, để tránh hiện tượng chọn lọc chủng vi khuẩn nhạy cảm.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Fucidin được dung nạp rất tốt. Có một tần suất rất nhỏ xảy ra phản ứng tăng mẫn cảm với thuốc.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Kem và thuốc mỡ.

Thoa Fucidin lên vùng thương tổn 2-3 lần/ngày, thường dùng trong 7 ngày, ngoại trừ điều trị trứng cá, thời gian điều trị cần lâu hơn tùy theo bản chất của bệnh này. Có thể băng hoặc không băng vùng thương tổn.

Nhím – Cách dùng, Tác dụng chữa bệnh của nhím

NHÍM

Tên khác: Dím, nhím chồn

Tên khoa học: Acanthion subcristatum Swinhoe

Họ Nhím            (Hystricidae).

MÔ TẢ

Nhím có thân dài 70cm và nặng 15 – 20kg. Đầu nhỏ, mõm tròn hơi nhọn. Chân ngắn có móng sắc. Bộ lông không đồng đều, phần lớn biến thành gai cứng, đầu nhọn. Gai lưng gồm loại dài khoảng 20cm và loại ngắn 10cm, màu đen nâu pha trắng. Bụng có lông mềm màu xám.

Nhím
Nhím

PHÂN BỐ, NƠI SỐNG

Nhím phân bố ở các nước châu Á.

Ở Việt Nam, nhím sống hoang ở vùng rừng núi Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng, Bắc Cạn, Hòa Bình, Quảng Ninh, Nghệ An, Hà Tĩnh, vùng ven biển miền Trung, đồng bằng sông cửu Long và Tây Nguyên.

Nhím sống gần nương rẫy, ăn hoa màu, măng, rễ cây non. Dáng chậm chạp, nhút nhát, gặp kẻ địch thì xù bộ lông gai, giật lùi rồi xô mạnh vào đối phương làm một số lông gai tuột ra và cắm vào kẻ địch gây thương tích. Lúc đó, nhím thoát thân nhanh chóng. Nhím sinh đẻ vào tháng 3-5. Nhím đã được thuần dưỡng và phát triển nuôi với kết quả tốt.

BỘ PHẬN DÙNG, THU HOẠCH, CHẾ BIẾN

Thịt nhím, da nhím, lông nhím và dạ dày nhím.

Nhím bắt về, đem lột da, lấy vôi bột rắc lên mặt trong cho đều. Phơi khô ở nơi thoáng gió. Khi dùng, ngâm da nhím vào nước cho mềm, cạo sạch lông, gai (đê riêng), thịt và mỡ bám. Để ráo nước, cắt thành từng miếng nhỏ, phơi khô rồi sao nóng với bột hoạt thạch đên khi da có màu vàng. Lấy ra, chải cho hết bột hoạt thạch, cạo lần nữa cho sạch lông.

Lông nhím phơi khô hoặc sấy cho thật khô. Có thể lấy lông cùng lúc lột da.

Dạ dày nhím bổ đôi, cạo và rửa sạch mặt trong, phơi khô. Khi dùng, cắt nhỏ, sao cho phồng, tán bột.

CÔNG DỤNG VÀ LlỀU DÙNG

  • Thịt nhím, tên trong sách thuốc cổ là hào trư nhục, có vị ngọt, tính lạnh, không độc, có tác dụng lợi đại tràng, chữa đại tiện không thông.

Liều dùng hàng ngày: 30 – 60g, dưới dạng thức ăn – vị thuốc.

  • Lông nhím là hào trư mao thích, có vị cay, tính ấm, có tác dụng hành khí, chống viêm, đốt thành than, rồi phối hợp với quả bồ kết và giun đất chữa co giật, cấm khẩu.

Liều dùng hàng ngày: 8 – 16 g chia làm hai lần.

Dùng ngoài, chữa lở ngứa với nước tắm gồm lông nhím, tóc phụ nữ, phèn chua, vỏ cây nhừ, rễ cỏ tranh, sa nhân, lá và vỏ cây khế.

  • Da nhím, tên thuốc là thích vị bì, có vị đắng, tính bình, có tác dụng giảm đau, chống nôn, giải độc, làm se, chữa nôn mửa, đau bụng.

Liều dùng hàng ngày: 6 – 16g dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột.

Da nhím đốt thành than, tán bột, uống với nước chữa ngộ độc hoặc uống với rượu chữa kiết lỵ. Phụ nữ có thai không được dùng da nhím.

  • Dạ dày nhím là hào trư đỗ, có vị ngọt, đắng, tính lạnh, có tác dụng cầm máu, giảm đau, giải độc, chữa lòi dom, chảy máu. Bột dạ dày nhím đã chế biến uống với nước sắc hoa hòe (10g) với liều mỗi lần 2 – 4g, ngày 3 lần.

Để chữa trúng độc, dạ dày nhím (1 cái), rửa sạch, phơi hoặc sấy khô, giã nhỏ, trộn với gạo cẩm (100g) rang vàng, tán bột mịn. Ngày uống hai lần, mỗi lần 10g.

BÀI THUỐC

  • Chữa gai hoặc mảnh đạn cắm vào da thịt: Lông nhím và ốc đồng, đốt thành tro, trộn với dây tơ hồng và mầm lúa nếp giã nhỏ, làm thành bánh, đắp.
  • Chữa trĩ: Da nhím, tầng tổ ong, xác rắn lột,mai ba ba, móng giò lợn (lượng mỗi thứ bằng nhau), đốt thành tro, trộn đều. Ngày uống 8g với nước ấm. (Nam dược thần hiệu).

Sporal

Thuốc Sporal
Thuốc Sporal

SPORAL

JANSSEN PHARMACEUTICA

Viên nang (chứa các vi nang) 100 mg: hộp 4 viên.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Itraconazole 100 mg

DƯỢC LỰC

Itraconazole, một dẫn xuất triazole, có hoạt tính đối với vi nấm dermatophytes (các chủng Trichophyton, Microsporum, Epidermophyton floccosum), nấm men (Cryptococcus neoformans, các chủng Candida bao gồm C. albicans, C. glabrata và C. krusei, các chủng Pityrosporum), các chủng Aspergillus, các chủng Histoplasma, Paracoccidioides brasiliensis, Sporothrix schenckii, các chủng Fonsecaea, các chủng Cladosporium, Blastomyces dermatitidis và các vi nấm và nấm men khác.

Các nghiên cứu trong ống nghiệm đã xác nhận rằng Sporal gây rối loạn việc tổng hợp ergosterol của tế bào vi nấm. Ergosterol là một thành phần thiết yếu của màng tế bào vi nấm. Sự rối loạn việc tổng hợp chất này cuối cùng dẫn đến một tác dụng kháng nấm.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Khả dụng sinh học khi uống của Sporal đạt tối đa khi viên nang Sporal được uống ngay sau khi ăn no. Nồng độ đỉnh ở huyết tương đạt được 3-4 giờ sau một liều uống. Sự thải trừ thuốc khỏi huyết tương có hai pha với thời gian bán hủy sau cùng là 1 đến 1,5 ngày. Khi sử dụng dài hạn, trạng thái hằng định đạt được sau 1-2 tuần. Ba đến bốn giờ sau khi uống thuốc, nồng độ itraconazole trong huyết tương ở trạng thái hằng định là 0,4 mg/ml (với liều 100 mg một lần mỗi ngày), 1,1 mg/ml (với liều 200 mg một lần mỗi ngày) và 2,0 mg/ml (với liều 200 mg 2 lần mỗi ngày).

Sporal kết hợp với protein huyết tương là 99,8%. Nồng độ itraconazole trong máu toàn bộ bằng 60% nồng độ trong huyết tương. Sự xâm nhập của thuốc vào các tổ chức sừng, đặc biệt là da, đến 4 lần cao hơn ở huyết tương, và sự thải trừ Sporal liên quan với việc tái sinh biểu bì. Trái ngược với nồng độ trong huyết tương mà trở nên khó phát hiện trong vòng 7 ngày sau khi ngưng thuốc, nồng độ điều trị ở da tồn tại cho đến 2-4 tuần sau khi kết thúc một liệu trình điều trị 4 tuần bằng Sporal. Nồng độ itraconazole đã được phát hiện ở sừng móng ngay trong tuần điều trị đầu tiên và tồn tại kéo dài ít nhất là 6 tháng sau khi kết thúc một liệu trình điều trị 3 tháng . Sporal cũng hiện diện ở chất bã nhờn và với một mức độ ít hơn ở mồ hôi.

Sporal còn được phân bố rộng rãi ở các mô có xu hướng bị nhiễm nấm. Nồng độ của thuốc ở phổi, thận, gan, xương, dạ dày, lách và cơ bắp được phát hiện là 2-3 lần cao hơn nồng độ huyết tương tương ứng. Nồng độ điều trị của Sporal ở mô âm đạo được duy trì thêm 2 ngày nữa sau khi kết thúc liệu trình 3 ngày với liều 200 mg mỗi ngày và thêm 3 ngày nữa sau khi kết thúc liệu trình điều trị 1 ngày với liều 200 mg, 2 lần/ngày.

Sporal được chuyển hóa mạnh mẽ ở gan thành nhiều chất chuyển hóa. Một trong những chất chuyển hóa này là hydroxy-itraconazole và có hoạt tính kháng nấm tương đương với itraconazole trên vitro. Nồng độ thuốc kháng nấm được đo lường bằng các thử nghiệm sinh học gấp 3 lần nồng độ itraconazole được đo bằng phương pháp sắc ký lỏng kỹ thuật cao. Sự bài xuất thuốc ở dạng chưa chuyển hóa thay đổi từ 3-18% so với liều dùng. Thuốc ở dạng chưa chuyển hóa đào thải qua thận ít hơn 0,03% liều dùng. Khoảng 35% của liều uống được thải trừ dưới dạng các chất chuyển hóa trong nước tiểu trong vòng một tuần.

CHỈ ĐỊNH

Sporal được chỉ định cho điều trị các trường hợp sau: Phụ khoa: Candida âm đạo – âm hộ.

Ngoài da, nhãn khoa:

Lang ben, nhiễm nấm ngoài da, viêm giác mạc mắt do nấm và nhiễm Candida ở miệng. Nấm móng do dermatophyte và/hoặc nấm men.

Nấm nội tạng: nhiễm nấm nội tạng do nấm Aspergillus và Candida, nhiễm nấm Cryptococcus (kể cả viêm màng não do Cryptococcus), nhiễm nấm Histoplasma, Sporothrix, Paracoccidioides, Blastomyces và các nhiễm nấm nội tạng hoặc nhiễm nấm vùng nhiệt đới hiếm gặp khác.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

  • Không dùng Sporal ở những bệnh nhân quá mẫn với thuốc hoặc các thành phần của thuốc.
  • Sporal chống chỉ định cho phụ nữ có thai trừ khi nhiễm nấm đe doạ tính mạng, và lợi ích điều trị lớn hơn so với nguy cơ tiềm tàng đối với thai Nên thận trọng ngừa thai đầy đủ suốt thời kỳ kinh nguyệt ở phụ nữ đang dùng Sporal.
  • Những thuốc sau chống chỉ định dùng chung với Sporal: terfenadine, astemizole, cisapride, quinidine, pimozide, các thuốc ức chế HMG-CoA reductase được chuyển hóa bởi CYP3A4 như là simvastatin và lovastatin, các thuốc triazolame và midazolame uống.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

  • Sporal có khả năng gây những tương tác thuốc quan trọng trên lâm sàng (xem Tương tác thuốc).
  • Tính acid dạ dày giảm: sự hấp thu thuốc sẽ kém khi tính acid dạ dày giả Ở những bệnh nhân đang dùng thuốc trung hòa acid (ví dụ như: hydroxyd nhôm) các thuốc này nên được uống ít nhất là 2 giờ sau khi uống Sporal. Ở bệnh nhân thiếu toan dịch vị như một số bệnh nhân AIDS và bệnh nhân dùng thuốc kháng tiết acid (như chất đối kháng H2, chất ức chế bơm proton) được khuyến cáo nên uống thuốc Sporal cùng với nước giải khát cola.
  • Sử dụng trong nhi khoa: các dữ kiện lâm sàng về việc dùng Sporal ở bệnh nhi còn hạn chế, vì vậy không nên dùng Sporal ở trẻ em trừ khi lợi ích điều trị cao hơn nguy cơ có thể xảy ra.
  • Nên giám sát chức năng gan ở những bệnh nhân dùng thuốc điều trị liên tục trong hơn một tháng và những bệnh nhân thấy có những triệu chứng gợi ý viêm gan như biếng ăn, buồn nôn, nôn, mệt mỏi, đau bụng hoặc nước tiểu sậm màu. Nếu có bất thường xảy ra, nên ngưng điều trị.
  • Ở những bệnh nhân tăng men gan hay có bệnh gan tiến triển hoặc bị nhiễm độc gan do thuốc khác, không nên bắt đầu điều trị trừ khi lợi ích mong đợi nhiều hơn nguy cơ tổn thương gan.

Trong những trường hợp như vậy, theo dõi sát men gan là cần thiết.

  • Suy gan: Itraconazole được chuyển hóa chủ yếu ở Thời gian bán hủy tận cùng của itraconazole ở bệnh nhân xơ gan hơi kéo dài . Khả dụng sinh học đường uống ở bệnh nhân xơ gan có hơi giảm. Nên giám sát nồng độ itraconazole trong huyết tương để điều chỉnh liều khi cần thiết.
  • Nếu xảy ra bệnh lý thần kinh mà có thể quy cho Sporal, nên ngưng điều trị.
  • Suy thận: khả dụng sinh học khi uống của Sporal giảm ở những bệnh nhân suy thậ Nên giám sát nồng độ Sporal ở huyết tương và điều chỉnh liều thích hợp.
  • Không có một thông tin nào đề cập đến phản ứng chéo giữa itraconazole và các thuốc kháng nấm thuộc nhóm azole khác. Cần thận trọng trong việc kê toa Sporal cho những bệnh nhân nhạy cảm với các thuốc thuộc nhóm azole khác.

Ảnh hưởng trên khả năng lái xe và điều khiển máy móc:

Không ảnh hưởng.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Khi dùng liều cao itraconazole trên chuột nhắt có thai (>= 40 mg/kg/ngày) và chuột lớn có thai (>= 80 mg/kg/ngày), thấy tăng tai biến bất thường trên thai và gây ra tác dụng không mong muốn trên phôi. Hiện chưa có các nghiên cứu về việc sử dụng Sporal trên phụ nữ có thai. Vì vậy, ở những        phụ nữ có thai chỉ nên dùng Sporal trong các trường hợp nhiễm nấm nội tạng đe dọa tính mạng và khi ở các trường hợp này lợi ích điều trị cao hơn nguy cơ có hại cho bào thai.

Chỉ một lượng rất nhỏ itraconazole được tiết ra trong sữa mẹ. Vì vậy, nên cân nhắc lợi ích điều trị bằng Sporal với nguy cơ tiềm tàng ở phụ nữ đang cho con bú. Trong trưòng hợp nghi ngờ, bệnh nhân không được cho con bú.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Các thuốc ảnh hưởng trên sự chuyển hóa itraconazole:

  • Những nghiên cứu về tương tác thuốc đã được thực hiện với rifampicine, rifabutin, và Vì khả dụng sinh học của itraconazole và hydroxy-itraconazole giảm đi trong những nghiên cứu này tới một mức độ làm giảm hiệu quả điều trị rất nhiều, nên thuốc không được khuyên kết hợp với những chất cảm ứng men mạnh này. Hiện nay chưa có một số liệu nghiên cứu chính thức cho các thuốc cảm ứng men khác như là carbamazepine, phenobarbital và isoniazid, nhưng cần tiên lượng những hậu quả tương tự có thể xảy ra.
  • Do itraconazole đươơc chuyển hóa chủ yếu qua CYP3A4, những chất ức chế mạnh enzyme này có thể làm tăng khả dụng sinh học của itraconazole. Những chất đó là: ritonavir, indinavir, và clarithromycine.

Tác dụng của itraconazole trên sự chuyển hóa của những thuốc khác:

Itraconazole có thể ức chế sự chuyển hóa của những thuốc được chuyển hóa bởi men cytochrome họ 3A. Điều này có thể đưa đến sự gia tăng và/hoặc kéo dài tác dụng của chúng kể cả tác dụng phụ. Sau khi ngưng điều trị, nồng độ itraconazole trong huyết tương giảm dần tùy thuộc vào liều dùng và thời gian điều trị (xem Tính chất dược động học). Cần quan tâm đến vấn đề này khi xem xét tác dụng ức chế của itraconazole trên những thuốc dùng chung.

Các ví dụ được biết như:

  • Các thuốc không được dùng chung với itraconazole trong điều trị: terfenadine, astemizole, cisapride, triazolam, midazolam uống, quinidine, pimozide, các chất ức chế men khử HMG-CoA reductase được chuyển hóa bởi CYP3A4 như simvastatin,
  • Những thuốc cần theo dõi sát nồng độ trong máu, tác dụng hay tác dụng phụ. Nếu điều trị phối hợp với itraconazole, các thuốc này nên giảm liều khi cầ
  • Thuốc chống đông đường uố
  • Thuốc ức chế protease HIV như là ritonavir, indinavir, saquinavir.
  • Một số thuốc điều trị ung thư như là vinca alkaloids, busulphan, docetaxel và
  • Thuốc ức chế canxi chuyển hóa bởi CYP3A4 như là dihydropyridines và
  • Một số thuốc ức chế miễn dịch: cyclosporine, tacrolimus, rapamycin .
  • Các thuốc khác: digoxine, carbamazepine, buspirone, alfentanil, alprazolam, midazolam tiêm mạch, rifabutin,

Không thấy tương tác giữa itraconazole với AZT (zidovudine) và fluvastatine.

Người ta không thấy ảnh hưởng của itraconazole trên chuyển hóa của ethinyloestradiol và norethisterone.

Tác dụng trên sự gắn protein huyết tương:

Những nghiên cứu trên vitro đã cho thấy không có sự tương tranh trên sự gắn protein huyết tương giữa itraconazole và imipramine, propranolol, diazepam, cimetidine, indomethacine, tolbutamide và sulfamethazine.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Các tác dụng ngoại ý được báo thông thường nhất có liên quan đến việc sử dụng Sporal là những tác dụng phụ trên đường tiêu hóa như ăn không tiêu, buồn nôn, đau bụng và táo bón. Các tác dụng không mong muốn ít gặp được báo cáo bao gồm nhức đầu, tăng men gan có phục hồi, rối loạn kinh nguyệt, choáng váng và phản ứng dị ứng (như ngứa, ban, mề đay, phù mạch). Cũng có báo cáo các trường hợp riêng lẻ của bệnh lý thần kinh ngoại biên và hội chứng Stevens-Jonhson.

Đặc biệt ở bệnh nhân dùng thuốc điều trị dài hạn (khoảng 1 tháng), người ta nhận thấy một vài trường hợp có giảm kali huyết, phù, viêm gan và rụng tóc.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Để đạt sự hấp thu tối đa, cần thiết phải uống Sporal ngay sau khi ăn no. Viên nang Sporal nên được uống trọn 1 lần.

Chỉ định Liều Thời gian
Phụ khoa:

– Nhiễm Candida âm đạo, âm hộ

200 mg, 2 lần/ngày hoặc 1 ngày
200 mg, 1 lần/ngày 3 ngày
Ngoài da / nhãn khoa:
– Lang ben 200 mg, 1 lần/ngày 7 ngày
– Nhiễm nấm ngoài da (dermatophytes) 200 mg, 1 lần/ngày hoặc 7 ngày
100 mg, 1 lần/ngày 15 ngày
Các vùng sừng hóa cao như ở trường hợp nhiễm nấm ở lòng bàn chân, lòng bàn tay

:

200 mg, 2 lần/ngày trong 7

ngày, hoặc 100 mg, 1 lần/ngày trong 30 ngày.

– Nhiễm Candida ở miệng 100 mg, 1 lần/ngày 15 ngày
Ở một số bệnh nhân thương tổn miễn dịch như: giảm bạch cầu trung tính, bệnh nhân AIDS, bệnh nhân cấy gh p cơ quan, khả dụng sinh học đường uống của itraconazole có thể bị giảm. Vì vậy, cần gấp đôi liều dùng.
– Nhiễm nấm giác mạc mắt 200 mg, 1 lần/ngày 21 ngày

– Nấm móng:

– Điều trị đợt cách khoảng (xem bảng phía dưới):

Một đợt bao gồm: 2 viên nang (200 mg), 2 lần/ngày, trong 1 tuần. Dùng 2 đợt điều trị cho nhiễm nấm móng tay, và 3 đợt điều trị cho nhiễm nấm móng chân. Các đợt điều trị luôn luôn được cách nhau bởi 1 khoảng 3 tuần không dùng thuốc. Đáp ứng lâm sàng sẽ được thấy rõ khi móng phát triển trở lại sau khi ngừng điều trị.

Vị trí của nấm móng Tuần
1 2-3-4 5 6-7-8 9
Nấm móng chân cùng với có hay không có nấm móng tay Đợt 1 Ngưng thuốc Đợt 2 Ngưng thuốc Đợt 3
Chỉ nấm móng tay Đợt 1 Ngưng thuốc Đợt 2

Hoặc:

– Điều trị liên tục: 2 viên nang mỗi ngày (200 mg, 1 lần/ngày), trong 3 tháng.

Sự thải trừ Sporal khỏi tổ chức da và móng chậm sự thải trừ khỏi huyết tương. Các hiệu quả tối ưu về lâm sàng đạt được 2-4 tuần sau khi kết thúc liệu trình điều trị nấm da và 6-9 tháng sau khi kết thúc liệu trình điều trị nấm móng.

– Nấm nội tạng:

Liều dùng thay đổi tùy theo loại vi nấm nhiễm:

Chỉ định Liều Thời gian Ghi chú
Nhiễm Aspergillus 200 mg, 1 lần/ngày 2-5 tháng (1)
Nhiễm Candida 100-200 mg, 1

lần/ngày

3 tuần- 7 tháng
Nhiễm nấm Cryptococcus ngoài màng não 200 mg, 1 lần/ngày 2 tháng- 1 năm (2)
Viêm màng não do Cryptococcus 200 mg, 2 lần/ngày
Nhiễm Histoplasma 200 mg, 1-2

lần/ngày

8 tháng
Nhiễm Sporothrix schenckii 100 mg, 1 lần/ngày 3 tháng
Nhiễm Paracoccidioides brasiliensis 100 mg, 1 lần/ngày 6 tháng
Chromomycosis (Nhiễm Cladosporium, Fonsecaea) 100-200 mg, 1

lần/ngày

6 tháng
Nhiễm Blastomyces dermatitidis 100 mg, 1 lần/ngày 6 tháng
– 200 mg, 2 lần/ngày

1 Tăng liều lên 200 mg, 2 lần mỗi ngày trong trường hợp xâm nhiễm hoặc lan tỏa

2 Điều trị duy trì cho các trường hợp viêm màng não là: 200 mg, 1 lần/ngày

QUÁ LIỀU

Hiện chưa có dữ kiện về quá liều. Trong trường hợp tai biến quá liều, nên áp dụng các biện pháp hỗ trợ. Trong vòng 1 giờ đầu sau khi uống nên rửa dạ dày. Có thể sử dụng than hoạt nếu như thấy thích hợp. Không thể loại bỏ itraconazole bằng thẩm phân máu. Không có thuốc giải độc đặc hiệu.

BẢO QUẢN

Bảo quản ở 15-30oC

Bệnh bạch cầu mãn

Bệnh bạch cầu mãn là : Một bệnh lý ác tính về máu. Tăng sinh qúa độ của bạch cầu đã phân hóa nhiều.  Diễn tiến tới tử vong nhưng chậm hơn bệnh bạch cầu cấp.

PHÂN LOẠI BỆNH HỌC

Gồmm 3 loại chính

Bệnh bạch cầu mãn dòng tủy (chronic myeloid leukemia :CML ) – Thường gặp ở VN.

Bệnh bạch cầu mãn dòng lymphô (chronic lymphoid leukemia CLL)- Phương tây. o Bệnh bạch cầu mãn dòng bạch cầu đơn nhân (chronic myelomonocytic leukemia CMML ) – Hiếm gặp.

NGUYÊN NHÂN

Chính xác chưa rõ Yếu tố thuận lợi :

Tia xạ

Bom nguyên tử

Rối loạn nhiễm sắc thể

Yếu tố gia đình: CLL  tăng gấp 16 lần nếu trong gia đình có người mắc bệnh này

BỆNH BẠCH CẦU MÃN DÒNG TỦY

Diễn tiến qua 2 giai đoạn :

Giai đoạn kinh niên

Giai đoạn chuyển cấp

Giai đoạn kinh niên

Lâm sàng

Khởi phát âm thầm

Mệt mõi, da hơi xanh , ăn không ngon , nặng hạ sườn trái

Lách to độ 3 , độ 4.

Cận lâm sàng

CTM

– -Hồng cầu: bình thường hoặc giảm nhẹ. Thiếu máu đẵng sắc đẵng bào

– Bạch cầu :tăng rất cao từ 100.000 -500.000/mm3 hiện diện đầy đủ các giai đoạn của BC hạt ( phết máu như phết tủy) € chẩn đoán xác định.

+  Tiểu cầu :bình thường hoặc tăng

Tủy đồ

– Tủy rất giàu tế bào.

– Có đầy đủ tất cả các giai đoạn của BC dòng tủy.

– Dòng hồng cầu bình thường

– Dòng tiểu cầu tăng

Nhiễm sắc thể: Có NST Philadelphia (Ph) NST 22 bất thường .T(9,22), làm NST 22 ngắn lại.Chổ nốisinh ra 1 gen sinh ung thư (ABL – BCR). 90% Bn có NST Ph : Tiên lượng tốt

Chẩn đoán

Lách to

CTM : Bc tăng cao , có đầy đủ các giai đọan của dòng tủy o,  Tủy rất giàu tế bào

Có NST Ph

Kéo dài từ 2- 4 năm

Giai đoạn chuyển cấp

– Sốt không giải thích được, sụt cân , đau khớp

– Gan to

– Thiếu máu

– Xuất huyết (do giảm TC)

– Không đáp ứng với thuốc điều trị trước đây

– CTM :HC giảm nặng, BC tăng cao , TC giảm

– Tủy đồ: nguyên tủy bào + tiền tủy bào >25%

Diễn tiến và tiên lượng

BN thường sống từ 2 – 4 năm, tỷ lệ sống còn sau 5 năm là 52-63%

BN tử vong do bệnh chuyển cấp

Hầu hết các BN đều chuyển qua giai đoạn chuyển cấp. Biểu hiện :thiếu máu , lách to không điều trị được, tủy đồ như một bạch cầu cấp.

NST Ph vẫn tồn tại trong giai đoạn chuyển cấp và xuất hiện thêm nhiều Rối loạn NST như 3nst 8 ( trisomie 8 ), 3nst 19, 1nst 17

Điều trị

Giai đoạn kinh niên :

Hydroxyurea(hydrea) Viên 500mg.

Ức chế tổng hợp AND€ giảm sinh sản BC+ các TB khác (da niêm).

Liều từ 1-6 g /ngày tùy theo số lượng bạch cầu. Điều chỉnh sao cho   Bc từ

10.000-20.000. Ngưng thuốc khi BC <5000 m3 .

Hydroxyurea không làm thay đổi tỷ lệ NST Ph

Theo dõi CTM / w.

Phụ: lở loét da niêm sau 1 tg sử dụng

Interferon  (Roferon )

Liều 5.000.000 đv TDD x 3 ngày trong tuần . Dùng trong 1 năm

Interferon làm giảm tỷ lệ NST Ph. . Interferon kéo dài thêm 3 năm . Những BN mất NST Ph có đời sống dài nhất .

Gleevec : ức chế phức hợp ABL-BCR  qua cơ chế ức chế men ATP của phức hợp này.

Liều :400mg -800mg /ngày . Dùng từ 3-9 tháng

Ghép tủy:

BN <55 tuổi

Được thực hiện trong giai đoạn kinh niên.

Trong vòng 1 năm kể từ ngày chẩn đoán .

Giai đoạn chuyển cấp

Điều trị như bạch cầu cấp

-Hóa trị Aracytine liều cao:Aracytine 3g/m2 mỗi 12 giờ x 10 ngày

Loãng xương: Tất cả những gì bạn cần biết

Loãng xương là gì?

Loãng xương, có nghĩa là “xương xốp,” là một tình trạng khiến xương dần dần mỏng và yếu đi, làm tăng nguy cơ gãy xương.

Mặc dù tất cả các xương đều có thể bị ảnh hưởng bởi bệnh, nhưng xương cột sống, hông và cổ tay của bạn có khả năng gãy cao nhất. Nếu bạn lớn tuổi, gãy xương hông có thể đặc biệt nguy hiểm. Việc phải nằm yên trong một thời gian dài trong quá trình hồi phục có thể dẫn đến những biến chứng nghiêm trọng, chẳng hạn như huyết khối hoặc viêm phổi.

Các chuyên gia cho rằng điều này là do phụ nữ có xương nhẹ hơn, mật độ xương thấp hơn và trải qua những thay đổi nội tiết tố sau mãn kinh làm tăng tốc độ mất khối lượng xương.

Loãng xương và giảm mật độ xương

Giảm mật độ xương và loãng xương có liên quan, nhưng chúng là hai chẩn đoán riêng biệt. Bạn có thể coi giảm mật độ xương như “trạng thái tiền loãng xương.” Nếu bạn bị giảm mật độ xương, xương của bạn cũng đang mất khối lượng, và chúng có thể dễ gãy hơn. Nếu bạn tiếp tục mất mật độ xương, giảm mật độ xương sẽ trở thành loãng xương.

Khi bạn đi xét nghiệm mật độ xương, mật độ của bạn sẽ được so sánh với một người có giới tính và chủng tộc giống bạn, người có khối lượng xương đỉnh cao, thường là một người trong độ tuổi từ 25 đến 30. Kết quả được gọi là điểm T. Đây là ba điểm T có thể có:

  • Từ -1 đến +1: Bạn có mật độ xương bình thường
  • Từ -1 đến -2.5: Mật độ xương của bạn thấp hơn mức bình thường và bạn bị giảm mật độ xương
  • Dưới -2.5: Mật độ xương của bạn quá thấp và bạn bị loãng xương

Nếu bạn có giảm mật độ xương, bạn có thể thực hiện các bước để làm chậm quá trình mất mật độ xương. Một số người thậm chí có thể đảo ngược tình trạng này với điều trị.

Hình ảnh loãng xương
Hình ảnh loãng xương

Nguyên nhân gây loãng xương

Khi bạn còn trẻ, xương trong cơ thể bạn được phá vỡ và thay thế liên tục, một quá trình được gọi là tái tạo xương. Khối lượng xương thường đạt đỉnh vào giữa đến cuối độ tuổi 20.

Mất xương — khi quá trình phá vỡ xương xảy ra nhanh hơn quá trình xây dựng xương — thường bắt đầu vào giữa độ tuổi 30. Xương bắt đầu mất canxi, khoáng chất làm cho xương cứng, nhanh hơn khả năng thay thế. Quá trình tái tạo xương ít diễn ra hơn, và xương bắt đầu mỏng đi.

Nếu bạn là phụ nữ hoặc người được xác định là nữ lúc sinh, quá trình mất mật độ xương sẽ tăng tốc trong 5-7 năm đầu sau mãn kinh và sau đó chậm lại. Các nhà khoa học tin rằng điều này là do sự suy giảm mạnh mẽ trong sản xuất hormone estrogen của cơ thể bạn, hormone này có vẻ giúp giữ canxi trong xương.

Mặc dù một số mất mật độ xương là một phần tự nhiên của quá trình lão hóa, nhưng bạn có nguy cơ cao hơn về việc mắc phải xương rất xốp và gãy xương liên quan đến loãng xương nếu bạn:

  • Gầy hoặc có khung nhỏ
  • Hút thuốc, uống nhiều hơn mức vừa phải, hoặc sống lối sống ít vận động
  • Có tiền sử gia đình về gãy xương hông
  • Đã cắt buồng trứng, đặc biệt là trước 40 tuổi
  • Là người da trắng hoặc châu Á

Một số tình trạng y tế có thể làm tăng sự phá vỡ xương, bao gồm bệnh thận, hội chứng Cushing và tuyến giáp hoặc cận giáp hoạt động quá mức, cũng có thể dẫn đến loãng xương. Corticosteroids và thuốc chống co giật, cũng như tình trạng không thể di chuyển trong thời gian dài do liệt hoặc bệnh tật, cũng có thể gây mất xương.

Xét nghiệm và chẩn đoán loãng xương

Để đưa ra chẩn đoán, bác sĩ của bạn sẽ thường xuyên lấy đầy đủ tiền sử bệnh lý và yêu cầu xét nghiệm mật độ xương và có thể là các xét nghiệm khác.

Trong quá trình khám, bác sĩ của bạn sẽ:

  • Xem xét độ tuổi của bạn, xem xét liệu bạn đã đến giai đoạn mãn kinh chưa, có từng gãy xương khi còn là người trưởng thành hay không, tiền sử gia đình của bạn, cũng như thói quen của bạn như uống rượu, ăn uống và tập thể dục.
  • Hỏi về các loại thuốc bạn đang dùng. Một số loại thuốc, chẳng hạn như corticosteroids, có thể làm yếu xương nếu dùng lâu dài.
  • Đo chiều cao của bạn để xem liệu bạn có bị mất chiều cao hay không. Bác sĩ sẽ kiểm tra cột sống của bạn. Nếu nó cong về phía trước một cách bất thường, đó có thể là dấu hiệu bạn đã từng bị gãy xương cột sống do loãng xương.

Xét nghiệm mật độ xương là không xâm lấn. Nó giống như một tia X. Khi bạn nằm trên một bàn đặc biệt, một cánh tay robot sẽ di chuyển qua và đo nồng độ khoáng chất trong xương ở hông, cột sống và cổ tay của bạn. Một số quét có thể kiểm tra toàn bộ cơ thể bạn. Bác sĩ của bạn sẽ so sánh kết quả của bạn với mức bình thường và xác định xem bạn có mật độ xương bình thường, giảm mật độ xương, hay loãng xương.

Điều trị loãng xương

Bác sĩ của bạn có thể đề xuất một số bước để giúp bạn ngăn chặn mất xương thêm và giảm nguy cơ gãy xương. Các bước này bao gồm ngừng hút thuốc nếu bạn hút thuốc, giảm lượng rượu tiêu thụ, ăn một chế độ ăn uống lành mạnh và tập thể dục.

Nếu loãng xương của bạn là do một tình trạng y tế hoặc thuốc bạn đang dùng, bác sĩ của bạn sẽ giải quyết vấn đề này. Ví dụ, nếu một trong những tác dụng phụ của thuốc là mất xương, có thể có một lựa chọn để thay đổi thuốc. Tuy nhiên, điều này không phải lúc nào cũng khả thi. Trong trường hợp này, bác sĩ của bạn sẽ kiểm tra định kỳ để theo dõi sức khỏe xương của bạn.

Thuốc điều trị loãng xương

Các loại thuốc điều trị loãng xương có thể giúp hạn chế sự phá vỡ xương và duy trì mật độ xương, giảm nguy cơ gãy xương do loãng xương. Hầu hết các loại thuốc này đã được chứng minh là làm giảm nguy cơ gãy xương ở hông và lưng.

Các loại thuốc bisphosphonate thường là điều trị tiêu chuẩn cho loãng xương. Một số ví dụ bao gồm:

  • Alendronate (Fosamax, Binosto)
  • Ibandronate (Boniva)
  • Risedronate (Actonel, Atelvia)
  • Acid zoledronic (Reclast, Zometa)

Các lựa chọn thuốc khác để bảo vệ chống lại mất xương bao gồm:

Abaloparatide (Tymlos) và teriparatide (Forteo): Đây là dạng tổng hợp của hormone tuyến cận giáp cho những người bị loãng xương có nguy cơ cao gãy xương. Những loại thuốc này giúp tăng mật độ xương.

Calcitonin: Là một hormone tự nhiên giúp ngăn ngừa gãy xương và có thể giúp làm chậm quá trình mất xương.

Denosumab (Prolia, Xgeva): Là một kháng thể ngăn chặn sự hình thành của các tế bào phá vỡ xương, dẫn đến mất xương ít hơn.

Raloxifene (Evista): Là một loại thuốc giống như estrogen, giúp tăng mật độ xương và giảm nguy cơ gãy xương.

Romosozumab-aqqg (Evenity): Là một kháng thể chống sclerostin, hoạt động để tăng cường sự hình thành xương và giảm mất xương.

Nếu bạn bắt đầu dùng thuốc duy trì xương, hãy đảm bảo bác sĩ của bạn biết về tất cả các loại thuốc khác mà bạn đang sử dụng. Một số thuốc có thể ảnh hưởng đến xương, và bác sĩ có thể muốn chuyển bạn sang một loại thuốc khác hoặc điều chỉnh liều lượng.

Nếu bạn đang dùng bisphosphonate, bạn có thể được chuyển sang một loại thuốc khác sau 5 năm, vì có nguy cơ thấp gãy xương đùi liên quan đến việc sử dụng lâu dài các loại thuốc này.

Các loại thuốc khác cho loãng xương có thể bao gồm liệu pháp hormone thay thế (HRT) — hoặc estrogen đơn độc hoặc kết hợp estrogen và progestin — có thể ngăn ngừa và điều trị loãng xương.

Tuy nhiên, nghiên cứu đã chỉ ra rằng HRT có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú, bệnh tim và đột quỵ ở một số người. Do đó, HRT không được khuyến nghị là phương pháp điều trị đầu tay cho loãng xương, vì các rủi ro về sức khỏe được cho là vượt quá lợi ích.

Cơ thể bạn cần canxi và vitamin D để nuôi dưỡng xương. Nếu bạn chưa bao gồm thực phẩm giàu canxi và vitamin D trong chế độ ăn, việc thêm chúng vào chế độ ăn có thể giúp bạn làm chậm mất xương.

Dưới đây là một số thực phẩm giàu canxi:

  • Sản phẩm từ sữa ít béo
  • Rau xanh lá đậm, chẳng hạn như cải củ, rau chân vịt và cải thìa
  • Bông cải xanh
  • Cá mòi và cá hồi (có xương)

Một số thực phẩm được bổ sung canxi, điều này có thể giúp bạn đạt được lượng canxi khuyến nghị hàng ngày. Chúng bao gồm:

  • Sữa đậu nành
  • Đậu hũ
  • Nước cam
  • Ngũ cốc
  • Bánh mì

Bạn có thể nhận được một số vitamin D từ ánh nắng mặt trời, nhưng bạn cũng có thể nhận được một số từ một số thực phẩm nhất định, chẳng hạn như:

  • Cá béo
  • Dầu cá
  • Lòng đỏ trứng
  • Gan

Một số thực phẩm, chẳng hạn như sữa và ngũ cốc, được bổ sung vitamin D.

Lượng canxi và vitamin D bạn cần phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm sức khỏe của bạn và khả năng hấp thụ thực phẩm. Đây là lượng khuyến nghị trung bình:

Canxi:

  • Phụ nữ và những người được chỉ định nữ tại thời điểm sinh (AFAB) dưới 50 tuổi: 1,000 miligam mỗi ngày
  • Phụ nữ và những người AFAB từ 50 tuổi trở lên: 1,200 miligam mỗi ngày
  • Nam giới và những người được chỉ định nam tại thời điểm sinh (AMAB) dưới 71 tuổi: 1,000 miligam mỗi ngày
  • Nam giới và những người AMAB từ 71 tuổi trở lên: 1,200 miligam mỗi ngày

Vitamin D:

  • Tất cả người lớn dưới 55 tuổi: 400-800 đơn vị quốc tế (IU) mỗi ngày
  • Tất cả người lớn 55 tuổi trở lên: 800-1,000 IU mỗi ngày

Gãy xương do loãng xương: Gãy xương do loãng xương thường xảy ra ở hông, cổ tay và cột sống. Gãy xương hông thường cần phẫu thuật. Gãy xương cổ tay có thể cần bó bột hoặc phẫu thuật.

Gãy xương cột sống, cổ tay và hông là phổ biến nhất ở người cao tuổi. Xương yếu có thể dẫn đến gãy nén ở đốt sống, các xương tạo nên cột sống của bạn. Theo thời gian, gãy nén có thể thay đổi độ mạnh và hình dạng của cột sống. Bạn có thể mất chiều cao hoặc bị đau lưng mãn tính. Ở một số người, cơn đau có thể nghiêm trọng và dẫn đến các vấn đề sức khỏe khác.

Bài tập cho loãng xương: Nếu bạn bị loãng xương, tập thể dục có thể giúp bạn làm chậm quá trình mất xương. Nó cũng có thể giúp bạn:

  • Tăng cường sức mạnh cơ bắp
  • Duy trì sự linh hoạt
  • Cải thiện hoặc duy trì sự cân bằng
  • Cải thiện tư thế của bạn
  • Giảm đau

Tất cả những điều này có thể giảm nguy cơ té ngã, giảm nguy cơ gãy xương của bạn.

Hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn trước khi bắt đầu bất kỳ chương trình tập thể dục nào, đặc biệt nếu bạn bị loãng xương nặng. Bác sĩ của bạn có thể giới thiệu bạn đến một nhà vật lý trị liệu hoặc một chương trình tập thể dục thân thiện với loãng xương. Bạn cũng có thể xem có các chương trình tập thể dục trong khu phố của bạn phục vụ cho những người bị loãng xương không. Một số huấn luyện viên cá nhân cũng sẽ làm việc với những người bị loãng xương.

Dù bạn chọn loại hình tập thể dục nào, hãy bắt đầu từ từ và đừng tin vào cách nghĩ “không đau, không đạt được”. Nếu bạn thấy đau, hãy dừng lại.

Dưới đây là các loại bài tập khác nhau giúp người bị loãng xương.

Tập thể lực: Nếu cơ bắp của bạn mạnh hơn, chúng có thể giúp bảo vệ xương của bạn và giảm nguy cơ ngã. Bạn có thể:

  • Sử dụng máy tập tạ.
  • Nâng tạ tự do.
  • Sử dụng dây kháng lực.
  • Nâng trọng lượng cơ thể của bạn.

Bài tập tác động (còn gọi là bài tập chống trọng lực): Những bài tập này làm cho cơ thể bạn làm việc chống lại trọng lực và có thể củng cố xương. Bạn có thể thực hiện các bài tập tác động thấp hoặc cao, tùy thuộc vào mức độ sức khỏe và thể lực của bạn. Ví dụ, đi bộ là bài tập tác động thấp, trong khi chạy là bài tập tác động cao. Các bài tập khác bao gồm:

  • Nhảy múa
  • Leo cầu thang
  • Tennis
  • Aerobics
  • Một số hình thức yoga

Bài tập cân bằng: Cân bằng tốt giúp bạn đứng thẳng, không chỉ giúp đi lại và thực hiện các công việc hàng ngày mà còn có thể giúp bạn tránh ngã nếu bạn vấp ngã hoặc trượt. Các bài tập bao gồm:

  • Yoga
  • Tai chi

Bài tập linh hoạt: Giống như các bài tập cân bằng, các bài tập linh hoạt có thể giúp bạn tránh ngã, nhưng chúng cũng có thể giữ cho cơ bắp và khớp của bạn không bị cứng lại quá mức:

  • Yoga
  • Kéo giãn

Ngăn ngừa loãng xương: Bạn không thể ngăn ngừa tất cả mất xương vì một số mất xương xảy ra do tuổi tác. Nhưng bạn có thể thực hiện một số bước để làm chậm quá trình mất xương, đặc biệt nếu bạn đã được chẩn đoán là bị loãng xương nhẹ (osteopenia). Bạn càng trẻ khi bắt đầu những bước ngăn ngừa này, khả năng giữ cho xương của bạn càng khỏe mạnh.

  • Ăn một chế độ ăn lành mạnh, giàu canxi và vitamin D
  • Tập thể dục. Một sự kết hợp của các hoạt động chống trọng lực, tăng cường cơ bắp, cân bằng và các bài tập linh hoạt là tốt nhất.
  • Không hút thuốc.
  • Hạn chế lượng rượu bạn uống.

Kiểm tra mật độ xương sẽ không ngăn ngừa loãng xương, nhưng nó có thể cho bạn biết nếu bạn có loãng xương nhẹ và bạn có thể thực hiện các biện pháp để giảm nguy cơ tiến triển thành loãng xương. Các chuyên gia khuyến nghị bạn nên thực hiện xét nghiệm mật độ xương nếu bạn:

  • Là phụ nữ từ 65 tuổi trở lên
  • Là phụ nữ dưới 65 tuổi và có yếu tố nguy cơ loãng xương
  • Là nam giới trên 50 tuổi có yếu tố nguy cơ loãng xương
  • Trên 50 tuổi và đã mất từ 1,5 inch chiều cao trở lên
  • Sử dụng thuốc gây mất xương hoặc làm cản trở việc tái tạo xương

Kết luận: Một số mất xương khi bạn già đi là điều bình thường, nhưng nếu bạn mất quá nhiều, bạn có thể phát triển loãng xương, dẫn đến xương giòn. Kiểm tra mật độ xương có thể cho bạn biết nếu bạn bị loãng xương hoặc loãng xương nhẹ, điều này có thể dẫn đến loãng xương. Nếu bạn có loãng xương, bạn có thể làm chậm quá trình mất xương và giảm nguy cơ gãy xương với một số loại bài tập nhất định.

Câu hỏi thường gặp về loãng xương:

Nguyên nhân chính của loãng xương là gì?

Nguyên nhân chính của loãng xương là do tuổi tác. Khi bạn già đi, xương của bạn không tái tạo tế bào xương nhanh như khi bạn còn trẻ. Điều này trở nên nghiêm trọng hơn ở phụ nữ khi họ bước vào thời kỳ mãn kinh.

Vitamin D có thể đảo ngược loãng xương không?

Bạn không thể đảo ngược loãng xương, nhưng vitamin D kết hợp với canxi có thể giúp làm chậm quá trình mất xương.

Điều tốt nhất bạn có thể làm cho loãng xương là gì?

Nếu bạn bị loãng xương, điều tốt nhất bạn có thể làm là thực hiện các bước để làm chậm quá trình mất xương hơn nữa và bảo vệ bản thân khỏi gãy xương. Điều này có nghĩa là ăn một chế độ ăn uống lành mạnh và tập thể dục, có thể giữ cho cơ bắp của bạn mạnh và giúp bạn giữ được sự cân bằng và linh hoạt.

Helmintox

Thuốc Helmintox
Thuốc Helmintox

HELMINTOX

INNOTECH

Viên bao dễ bẻ 125 mg: hộp 6 viên.

Viên bao dễ bẻ 250 mg: hộp 3 viên.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Pyrantel pamoate tính theo pyrantel 125 mg
cho 1 viên
Pyrantel pamoate tính theo pyrantel 250 mg

DƯỢC LỰC

Thuốc diệt giun có tác động trên Enterobius vermicularis, Ascaris lumbricoides, Ankylostoma duodenale và Necator americanus. Helmintox tác động bằng cách phong bế thần kinh cơ, làm tê liệt giun và tống chúng ra theo phân bởi nhu động ruột. Pyrantel pamoate tác động đồng thời lên cả dạng chưa trưởng thành và đã trưởng thành của giun. Thuốc không tác động lên ấu trùng của giun khu trú trong mô.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Hấp thu qua ruột rất yếu: nồng độ pyrantel trong huyết tương rất thấp (0,05-0,13 mg/ml) và đạt được sau 1 đến 3 giờ.

Sau khi uống, trên 50% sản phẩm được bài tiết qua phân dưới dạng không bị biến đổi. Dưới 7% được tìm thấy trong nước tiểu dưới dạng không bị biến đổi và dưới dạng chất chuyển hóa.

Thuốc không làm cho phân có màu đỏ.

CHỈ ĐỊNH

Nhiễm giun kim, giun đũa, giun móc.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Không nên dùng trong trường hợp bị suy gan.

LÚC CÓ THAI

Tuy có một lượng nhỏ qua được niêm mạc tiêu hóa để vào máu, và mặc dầu các nghiên cứu ở động vật không cho thấy thuốc có tác động gây quái thai, tính vô hại khi dùng Helmintox trong thai kỳ chưa được xác nhận. Do đó chỉ dùng thuốc này trong trường hợp cần thiết.

TƯƠNG TÁC THUỐC

  • Không nên điều trị đồng thời với lévamisole do pyrantel pamoate có thể làm tăng độc tính của lévamisole.
  • Pipérazine có thể đối kháng với tác dụng diệt giun của pyrantel: tránh dùng phối hợp hai hoạt chất này.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Có thể gây rối loạn tiêu hóa (10-15%): chán ăn, buồn nôn, ói mửa, đau bụng, tiêu chảy, tăng transaminase nhẹ và tạm thời.

Hiếm gặp hơn: nhức đầu, chóng mặt, suy nhược, rối loạn giấc ngủ, phát ban ngoài da.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Dạng viên 125 mg: thường được dùng cho trẻ em.

Nhiễm giun kim, giun đũa: 10 mg/kg, liều duy nhất tương ứng 1 viên loại 125 mg/10 kg (trẻ dưới 18 tháng nên dùng dạng hỗn dịch uống). Đối với nhiễm giun kim, nên dùng tiếp một liều thứ 2 vào khoảng 2 đến 3 tuần lễ sau liều đầu tiên.

Giun móc:

Nhiễm nhẹ Ankylostoma duodénale: 10 mg/kg, liều duy nhất.

Nhiễm nặng Ankylostoma duodénale hoặc nhiễm Necator americanus: 20 mg/kg (chia 1 hoặc 2 lần) trong 2 đến 3 ngày, tương ứng 2 viên loại 125 mg (hay 1 viên loại 250 mg)/10 kg/ngày.

Dạng viên 250 mg: thường được dùng cho người lớn. Nhiễm giun kim, giun đũa: 10 mg/kg, liều duy nhất.

Người lớn dưới 75 kg: 3 viên loại 250 mg/ngày.

trên 75 kg: 4 viên loại 250 mg/ngày. Đối với nhiễm giun kim, nên dùng tiếp một liều thứ 2 vào khoảng 2 đến 3 tuần lễ sau liều đầu tiên.

Giun móc:

Nhiễm nhẹ Ankylostoma duodénale: 10 mg/kg, liều duy nhất.

Nhiễm nặng Ankylostoma duodénale hoặc nhiễm Necator americanus: 20 mg/kg (chia 1 hoặc 2 lần) trong 2 đến 3 ngày, tương ứng:

Người lớn dưới 75 kg: 6 viên loại 250 mg/ngày.

trên 75 kg: 8 viên/ngày.

Vai trò của Vitamin D và Tình trạng thiếu Vitamin D

 

Vitamin D là một dưỡng chất và là một chất tiền hormon chủ yếu được điều hòa bởi các yếu tố môi trường như chế độ dinh dưỡng và tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Có một số dạng dinh dưỡng của vitamin D; được biết đến nhiều nhất là vitamin D3 (cholecalciferol) là dạng được tổng hợp trong da của động vật và vitamin D2 (ergocalciferol) là dạng được chiết suất từ thực vật. Trong chương này, khi nói đến vitamin D, chúng tôi muốn nói tới vitamin D2 hoặc vitamin D3. Những hợp chất mẹ này là trơ về mặt sinh học. Để có được hoạt tính sinh học, vitamin D phải trải qua một phản ứng hợp nước đầu tiên (hydroxylation) tại gan thành 25(OH) vitamin D (25[OH]D) và sau đó trải qua phản ứng hợp nước thứ hai ở thận để chuyển thành dạng hormon có hoạt tính là 1α,25(OH)2D.

Vai trò chính của vitamin D trong cơ thể là tham gia vào quá trình điều hòa hằng định nội môi của canxi và phốt pho và tình trạng thiếu hụt vitamin D dẫn đến cân bằng của các khoáng chất này nghiêng về chiều âm và gây chứng nhuyễn xương. Tuy vậy, vitamin D còn có vai trò rộng hơn nhờ việc phát hiện ra thụ thể của vitamin D (VDR) và sản xuất ở ngoài thận vitamin D có hoạt tính ở hầu hết các tổ chức của cơ thể. Những phát hiện trên đã mở ra một lĩnh vực nghiên cứu mới về tác dụng sinh và dược lý của vitamin D.

TỔNG HỢP VITAMIN D

Da là một cơ quan chính chịu trách nhiệm sản xuất vitamin D. Tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, đặc biệt là với tia photon cực tím B (UVB) có bước sóng trong khoảng 290 và 315nm gây một sự phân quang của 7-dehydrocholesterol (DHC) ở trong da (7-DHC hoặc provitamin D3) thành chất tiền vitamin D3, chất này đồng phân hóa thành vitamin D3. Vitamin D3 gắn với protein mang vitamin D (DBP) và được vận chuyển trong hệ tuần hoàn.

Tổng hợp vitamin D3 ở da phụ thuộc vào lượng tia photon cực tím B (UVB) đâm xuyên qua lớp thượng bì. Một loạt các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp vitamin D ở da như thời gian tiếp xúc với ánh nắng, sử dụng các kem chống nắng vì quá cảnh giác với nguy cơ ung thư da, ở các vĩ độ khác nhau, mùa trong năm, lượng melanin của da và tình trạng giảm nồng độ 7-DHC trong lớp thượng bì theo tuổi. Ví dụ, kem chống nắng có chứa yếu tố bảo vệ đối với ánh sáng mặt trời (SPF) số 8 làm giảm sản xuất vitamin D3 tới 98%. Nồng độ của tiền chất vitamin D trong da của những người da trắng đạt tình trạng cân bằng trong vòng 20 phút tiếp xúc với tia cực tím, nhưng phải mất một khoảng thời gian dài hơn gấp 3 đến 6 lần ở những người có da mầu tối mới đạt được nồng độ cân bằng tương đương. Phơi nắng kéo dài không gây tăng nồng độ vitamin D3 đến ngưỡng độc do bản thân ánh sáng mặt trời lại gây tình trạng quang giáng tiền chất vitamin D3 và vitamin D3 do đó điều hòa tổng lượng vitamin D trong hệ tuần hoàn và ngăn ngừa tình trạng ngộ độc.

KHẨU PHẦN VITAMIN D NHẬP QUA CHẾ ĐỘ DINH DƯỠNG

Vitamin D là một chất hòa tan trong mỡ. Nó chủ yếu được hấp thụ ở phần trên của ruột non. Hấp thu Vitamin D trong thức ăn cần có muối mật và bề mặt hấp thu tại ruột lành lặn. Các tế bào ruột hấp thu vitamin D theo cơ chế khuếch tán thụ động và sau đó tiết vào hệ thống bạch huyết dưới dạng các vi thể nhũ chấp (chylomicrons). Enzym lipoprotein lipase trong tế bào nội mạc sẽ thủy phân triglycerid từ các vi thể nhũ chấp để tạo nên các căn dư vi thể nhũ chấp, và nhưng cặn dư này sẽ nhanh chóng được gan loại bỏ. Một phần lớn vitamin D được chuyển hóa theo cách này.

Chỉ có một số ít thức ăn thường được sử dụng hàng ngày là nguồn cung cấp tốt vitamin D một cách tự nhiên. Cá là nguồn thức ân tự nhiên chính cung cấp vitamin D3 qua chế độ ăn; 100g cá hồi thiên nhiên cung cấp 600 đến 1000 IU vitamin D. Một khối lượng tương tự đối với cá thu, các trích, hoặc cá ngừ cung cấp khoảng 200 đến 300 IU, trái lại dầu gan cá tuyết (1 thìa cà phê) cung cấp khoảng 600 đến 1000 IU và lòng đỏ trứng có 20 IU vitamin D2 và D3. Chỉ có một vài nguồn cấp vitamin D2 được ăn vào thường xuyên; nấm shiitake phơi khô là một nguồn cung cấp vitamin D2 tốt. ở Mỹ, nguồn thực phẩm chính cung cấp vitamin D là các thức ăn thêm. Ví dụ một cốc sữa, nước cam, sữa chua bổ sung dinh dưỡng (8 aoxơ); bơ bổ sung dinh dưỡng (nặng khoảng 3 aoxơ) hoặc một xuất ngũ cốc bổ sung dinh dưỡng cho bữa điểm tâm sáng cung cấp 100 IU vitamin D3. Các trẻ sơ sinh được điều dưỡng viên nuôi dưỡng phải được bổ sung vitamin D hoặc cho tiếp xúc với ánh nắng mặt trời để đảm bảo khẩu phần vitamin D thỏa đáng do sữa mẹ là một nguồn cấp rất kém đối với vitamin này.

Khẩu phần vitamin D nhập vào qua chế độ ăn dao động từ 90 lU/ngày đến 212- 392 lU/ngày đối với quần thể dân chúng khác nhau tại Hoa Kỳ đã được đánh giá qua nghiên cứu điều tra về Thăm khám và Dinh dưỡng sức khỏe Quốc gia (NHANES) lần thứ III. Tiếp xúc toàn thân với ánh nắng mặt trời trong 15 phút dễ dàng cung cấp 10000 lU/ngày cho một người lớn da trắng. Lượng vitamin có được này nhiều gấp 50 đến 100 lần lượng vitamin D trung bình cung cấp từ khẩu phần thức ăn. Do đó, nguồn cấp từ khẩu phần thức ăn không phải là nguồn quan trọng để duy trì nồng độ vitamin D ờ người tiếp xúc đủ với ánh nắng mặt trời thỏa đáng.

Chuyển hóa của vitamin D

Một khi vitamin D đi vào tuần hoàn từ da hoặc từ hệ bạch huyết thông qua ống ngực, nó nhanh chóng được dự trữ vào mở hoặc được chuyển hóa tại gan. Dự trữ vitamin D trong mỡ được sử dụng vào mùa đông; tuy vậy, những người béo phì chỉ có thể tăng nồng độ vitamin D trong máu bằng một nửa so với người cỏ cân nặng bình thường. Bước đầu tiên trong quá trình hoạt hóa chuyển hóa vitamin D là phản ứng hydroxyl hóa (hydroxylation) của carbon tại vị trí 25 và quá trình này xảy ra chủ yếu tại gan. Một số cytochrom P-450 của gan đã được chứng minh là có hoạt tính hydroxyl hóa carbon 25 của các phức chất vitamin D. CYP2R1, có mặt ở gan và tinh hoàn, dường như là enzym 25-hydroxylase có hoạt tính hydroxyl hóa carbon 25 mạnh nhất tham gia vào quá trình chuyển hóa của cả vitamin D2 và vitamin D3. Đột biến của gen CYP2R1 đã được phát hiện ờ các bệnh nhân có nồng độ 25(OH)D thấp và bệnh nhân bị còi xương. 25(OH)D là dạng lưu hành chính trong tuần hoàn của vitamin D và có nửa đời sống trong tuần hoàn ở người là 10 ngày đến 3 tuần. Phản ứng hydroxyl hóa của carbon 25 tại gan được điều tiết không tốt. Nồng độ 25(OH)D huyết thanh tăng tương ứng với mức tổng hợp tại da và khẩu phần nhập vitamin D từ chế độ ăn, vì vậy là một chỉ điểm tốt nhất của tình trạng vitamin D (Hình 24-1).

Bước thứ 2 trong quá trình hoạt hóa vitamin D là sự hình thành 1α, 25-dihydroxyvitamin D (1,25[OH]2D bời enzym 1a-hydroxylase có chủ yếu ở thận. Nửa đời sống của 1,25(OH)2D trong tuần hoàn người vào khoảng 4 đến 6 giờ. Những khuyết tật bẩm sinh trong quá trình giải mã enzym 1α-hydroxylase tại các tế bào ống thận gây ra bệnh còi xương phụ thuộc vitamin D typ 1. Nhiều tế bào và mô khác nhau như tiền liệt tuyến, tuyến vú, đại tràng, phổi, rau thai, tế bào (3 của tiểu đảo tụy, tế bào xương, các tế bào miễn dịch được hoạt hóa, các tế bào thành mạch máu và tế bào cận giáp điều hòa tác dụng của 1a-hydroxylase và có thể chuyển 25(OH)D thành dạng hormon có hoạt tính. Tăng sản xuất tại chỗ vitamin D có hoạt tính này sẽ đóng vai trò như một yếu tố tự hormon – cận hormon (autocrine-paracrin factor), một yếu tố then chốt trong chức năng đặc trưng của tế bào. Sự đóng góp của các nguồn cấp ngoài thận này cho nồng độ 1,25(OH)2D có trong tuần hoàn không đáng kể và chỉ xảy ra trong khi có thai, suy thận mạn, bị bệnh sarcoidosis, bệnh lao, các bệnh lý u hạt và viêm khớp dạng thấp.

Hoạt tính của 1a-hydroxylase tại thận được điều hòa ở một mức độ cao và có chức năng duy trì nồng độ canxi trong giới hạn bình thường. Nồng độ canxi trong huyết tương thấp sẽ kích thích enzym này bằng điều hoà chức năng của hormon cận giáp (PTH). Tăng nồng độ PTH huyết thanh thúc đẩy thận tăng sản xuất 1,25(OH)2D theo cách trực tiếp bằng cách gây cảm ứng điều hòa chức năng 1a-hydroxylase và theo cách gián tiếp bởi giảm nồng độ phosphat máu như một hậu quả của tình trạng tăng mất phosphat qua thận do PTH kích hoạt. Hiện tượng bù trừ này giúp giữ nồng độ của hormon 1,25(OH)D gần như hằng định ngay cả khi nồng độ 25(OH)D giảm thấp. Tăng nồng độ của 1,25(OH)2D có thể hướng suy nghĩ của người thày thuốc bị đánh lạc hướng với nhận định rằng bệnh nhân không bị thiếu hụt vitamin D khi họ có thể bị thiếu hụt trầm trọng vitamin D.

Tổng hợp và các tác động của vitamin D

Hình 24-1. Tổng hợp và các tác động của vitamin D

Vitamin D được tiết chủ yếu vào dịch mật. Mặc dù một một lượng vitamin D được tái hấp thu tại ruột non nhưng chu trình gan – ruột của vitamin D không được coi là cơ chế quan trọng để duy trì nồng độ ổn định. Vitamin D được dị hóa thành các phức chất dễ tan trong nước hơn, và các chất này được DBP và albumin vận chuyển và được thận bài tiết ra ngoài.

Dị hóa của cả 25(〇H)D và 1,25(〇H)2D được thực hiện nhờ enzym 24-hydroxylase, là enzym xúc tác môt loạt các bước oxy hóa gây ra cắt nhỏ các chuỗi bên và làm bất hoạt vitamin.

Thận là vị trí chính của quá trình dị hóa vitamin D. Các phức hợp 1, 24,25(OH)D hoặc 24, 25(OH)D được tạo ra ở thận trong điều kiện bình thường; tuy vậy, 24-hydroxylase có trong toàn bộ cơ thể và làm suy giảm các đáp ứng tế bào do 1,25(OH)2D gây cảm ứng. 1,25(OH)2D kiểm soát quá trình giáng hóa của chính bản thân nó một cách trực tiếp bằng cách kích thích hoạt tính của 24-hydroxylase hoặc gián tiếp bằng cách làm giảm nồng độ PTH.

Trong huyết tương, vitamin D được vận chuyển bằng cách gắn với các protein huyết tương. Trên 99% chất chuyển hóa của vitamin D lưu hành trong tuần hoàn được gắn với protein, hầu hết là với DBP và một phần nhỏ được gắn với albumin và lipoprotein. DBP có ái tính cao nhất đối với 25(OH)D và 24,25(OH)2D và có ái tính kém hơn với 1,25(OH)2D. Nồng độ 1,25(OH)2D bình thường thấp hơn 1000 lần so với nồng độ của 25(OH)D. DBP có thể bị giảm trong bệnh lý gan, hội chứng thận hư hoặc suy dinh dưỡng. DBP có thể tăng lên trong thời gian có thai và điều trị bằng estrogen. Mặc dù có nhưng thay đổi của DBP, nồng độ vitamin D tự do lưu hành trong tuần hoàn dưới dạng hormon có hoạt tính luôn hằng định. Do đó, DBP đóng vai trò như một chất đệm, nhằm để dự phòng tình trạng thiếu hụt hợp chất có hoạt tính và/hoặc ngộ độc. DBP cũng tạo thuận cho 25(〇H)D đi vào trong các tế bào của ống thận gần thông qua cơ chế bắt giữ DBP trung gian qua thụ thể tại bờ bàn chải của tế bào ống thận. Megalin tạo thuận cho quá trình vận chuyển vào bên trong tế bào bằng giả túc của màng bào tương (endocytosis) đối với DBP và phức hợp 25(OH)D. Một khi được đưa vào trong tế bào, 25(OH)D được giải phóng và chuyển thành 1,25(OH)2D trong ty lạp thể nhờ xúc tác của 1a-hydroxylase.

CÁC TÁC DỤNG PHÂN TỬ CỦA VITAMIN D

Thụ thể của vitamin D (VDR) được biểu hiện ở hầu hết các mô trong cơ thể người. 1,25(OH)2D gắn vào VDR và tác động như một yếu tố phiên mã hoạt hóa bởi phối tử (ligand-activated transcription factor) để điều hòa quá trình vận hành của gen đáp ứng với vitamin D. VDR có ái tính với 1,25(OH)2D mạnh gấp 100 lần so với 25(OH)D hoặc các chất chuyển hóa dihydroxy khác của vitamin D. Sau khi gắn vào VDR, vitamin D tạo phức hợp nhị trùng không đồng nhất (heterodimeric complex) với thụ thể X của acid retinoic (RXR), phức hợp này tương tác với các thành phần đáp ứng với vitamin D (VDRE) trên DNA và kích hoạt quá trình sao chép của gen được điều hòa bởi vitamin D. Các đột biến đặc hiệu trên gen VDR gây ra bệnh còi xương phụ thuộc vitamin D typ II do kháng với 1,25(OH)2D. Một số biến thể di truyền của VDR được kết hợp với các thay đổi trong tính hằng định nội môi của các chất khoáng, tái cấu trúc hệ cơ xương, điều biến tăng sinh tế bào.

PHÂN LOẠI CÁC TÌNH TRẠNG CỦA VITAMIN D

Các tình trạng của vitamin D thường được ước tính bằng cách định lượng nồng độ 25(OH)D trong huyết tương. Các bằng chứng cho thấy các công nhân, nông dân và nhân viên bảo vệ khỏe mạnh làm việc ngoài trời có nồng độ 25(OH)D từ 44 đến 70 ng/mL gợi ý một nồng độ tối ưu ở người khỏe mạnh cao hơn so với nồng độ được chấp nhận để dự phòng bệnh còi xương và nhuyễn xương. Xác nhận các marker sinh học đặc hiệu mới như sự hấp thụ canxi của ruột, ức chế PTH tối đa, dự phòng gẫy xương và quay vòng canxi xương đã góp phần phát triển hệ thống phân loại các tình trạng của vitamin D sau đây. Một khái niệm quan trọng là hầu hết bệnh nhân có nồng độ vitamin D dưới mức lý tưởng sẽ không có hạ nồng độ canxi máu.

  • Tình trạng thiếu hụt vitamin D (Vitamin D Deficiency) – Nồng độ của 25(OH) D < 10 ng/mL được kết hợp với tình trạng cường cận giáp trạng nặng, giảm hấp thu canxi tại ruột, còi xương/ nhuyễn xương, và bệnh cơ.
  • Tình trạng thiếu vitamin D (Vitamin D Insufficiency) – Nồng độ của 25(OH)D trong khoảng từ 10 đến 25 ng/dL được kết hợp với tình trạng cường cận giáp nhẹ, hấp thu canxi tại ruột thấp, giảm tỷ trọng khoáng của xương và bệnh lý cơ chưa phát hiện được trên lâm sàng.
  • Chứng giảm nồng độ vitamin D (Hypovitaminosis) – Nồng độ 25(OH)D trong khoảng từ 26 đến 30 ng/mL. PTH bị tăng nhẹ.
  • Vitamin D thỏa đáng (Vitamin D Adequacy) – Nồng độ 25(OH)D từ 30 đến 40 ng/mL. Để đạt được hiệu quả tối đa đối với tình trạng vận chuyển canxi ở ruột phụ thuộc vitamin D, nồng độ 25(OH)D huyết thanh phải tối thiểu là 30 ng/mL.
  • Ngộ độc vitamin D (Vitamin D Toxicity) – Nồng độ 25(OH)D >100 ng/mL. Các biểu hiện ngộ độc là tăng canxi máu và các biến chứng được kết hợp với tình trạng này (được mô tả trong phần trình bày sau).

TẦN SUẤT HIỆN HÀNH

Tần suất hiện hành của tình trạng thiếu hụt vitamin D dường như dàn trải ở tất cả các nhóm tuổi. Vĩ độ địa lý, thời gian trong ngày, mùa trong năm, và chủng tộc có ảnh hưởng rất lớn tới sản xuất vitamin D3 của da. Tại miền Nam của nước Mỹ vào thời kỳ mùa đông đối với nam và nữ tuổi từ 30 đến 59, tình trạng thiếu hụt vitamin D (nồng độ 25[OH]D < 25 ng/dL) dao động từ 12% ở đối tượng nam giới da trắng đến 75% ở đối tượng nữ giới người Mỹ gốc Phi. Ngoài ra, tình trạng thiếu hụt vitamin D có thể lên tới 54% ở những người cao tuổi sống quanh quẩn trong nhà; 84% ở người già da đen; 40% ở phụ nữ người Mỹ gốc Phi có thai và những trẻ sơ sinh do có phụ nữ này sinh ra. Nhóm có nguy cơ cao nhất là những đối tượng nam giới người Mỹ gốc Phi và những phụ nữ sống ở vĩ độ phía bắc trong suốt thời gian của năm.

BỆNH CĂN CỦA TÌNH TRẠNG THIẾU HỤT VITAMIN D

Các yếu tố thuộc về môi trường

  • Trẻ đẻ non
  • Da sẫm mầu
  • ít tiếp xúc với ánh nắng mặt trời
  • Nuôi bằng sữa mẹ
  • Dùng kem chống nắng
  • Hoạt động trong nhà
  • Béo phì
  • Tuổi cao
  • Theo mùa
  • ở vĩ tuyến xa đường xích đạo

Giảm tính sinh khả dụng (Decreased Bioavailability)

  • Các bệnh nhân bị giảm hấp thu mỡ (tình trạng giảm hấp thu) hậu quả của bệnh xơ hóa nang (cystic fibrosis), bệnh celiac, bệnh Whipple, bệnh Crohn, phẫu thuật nối tắt dạ dầy, hoặc dùng thuốc làm giảm hấp thu
  • Các đối tượng béo phì có tăng lắng đọng vitamin D trong mỡ những giảm tính sinh khả dụng để sẵn sàng sử dụng cho các tổ chức khác.

Tăng dị hóa

  • Bệnh nhân đang dùng thuốc chống co giật, glucocorticoid, liệu pháp điều trị chống retrovirus có hoạt lực cao (HAART) (dùng điều trị cho bệnh nhân có hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải [AIDS]), các thuốc chống thải mảnh ghép).
  • Giảm tổng hợp 25(OH)D: Có một tương quan nghịch giữa nồng độ của 25(OH)D và mức độ nặng của xơ gan. Thiếu hụt vitamin D đã được phát hiện thấy ờ khoảng 66% bệnh nhân xơ gan thuộc mức độ B hoặc c theo phân loại của Child-Turcotte-Pugh mức độ B hoặc c và ở tới 96% bệnh nhân đang chờ được ghép gan.
  • Tăng mất 25(OH)D qua nước tiểu: Bệnh nhân bị hội chứng thận hư do mất 25(OH)D gắn với DBP trong nước tiểu gây nên.
  • Giảm tổng hợp 1,25(OH)2D: Đây là một đặc trưng của các bệnh nhân bị bệnh thận mạn tính. Giảm tổng hợp trong giai đoạn sớm là do tăng phosphat máu gây giảm hoạt tính của 1a-hydroxylase, trái lại trong giai đoạn muộn tình trạng giảm tổng hợp 1,25(〇H)2D lại do tình trạng phá hủy ống thận và giảm tính khả dụng của cơ chất (25[OH]D). Ngoài nồng độ 1,25(OH)2D thấp, thiếu hụt 25(OH)D được thấy ờ 70% đến 80% các bệnh nhân bị bệnh thận mạn tính giai đoạn 3 và 4.

Còi xương

  • Các rối loạn di truyền: Chứng còi xương phụ thuộc vitamin D typ I, II, III; còi xương giảm phosphat máu có liên quan với nhiễm sắc thể X; còi xương giảm phosphat máu di truyền tính trội qua nhiễm sắc thể thường; còi xương giảm phosphat máu di truyền tính lặn qua nhiễm sắc thể thường.
  • Các rối loạn mắc phải: Chứng nhuyễn xương do khối u gây nên.

Tăng chuyển 25(OH)D thành 1,25(OH)2D

  • Cường cận giáp trạng tiên phát. 1a-hydroxylase của ống thận được cảm ứng bởi PTH thúc đẩy nhanh sự chuyền đổi 25(〇H)D thành 1,25(〇H)2 Tình trạng giảm vitamin D được báo cáo gặp ở 53% các bệnh nhân bị cường cận giáp tiên phát và thiếu hụt nặng vitamin D (25[OH]D <12 ng/mL) được thấy ở 27% các bệnh nhân này.
  • Các rối loạn tạo u hạt như bệnh sarcoidosis, bệnh lao và u lympho. Các cytokin kích hoạt 1α-hydroxylase của đại thực bào, vi vậy chuyển đổi 25(OH)D thành dạng hoạt tính có tác dụng hormon.

Tăng chuyển hóa

  • Cường giáp

CÁC TÁC DỤNG SINH LÝ CỦA VITAMIN D TRONG DUY TRÌ TÍNH HẰNG ĐỊNH NỘI MÔI CANXI

Khi một người trở nên bị thiếu hụt 25(OH)D, hấp thu canxi và phospho ở ruột sẽ giảm đi, nồng độ canxi ion hóa trong huyết thanh sẽ tụt giảm và gây một kích thích tổng hợp và tiết PTH bù trừ (cường cận giáp trạng thứ phát). Tăng nồng độ PTH huyết tương giúp duy trì nồng độ canxi máu bằng cách làm tăng sản xuất 1,25(OH)2D tại thận, tăng quay vòng canxi của xương và tăng mất xương, bằng cách thúc đẩy tái hấp thu canxi và bài tiết phospho của ống thận. Tăng nồng độ 1,25(OH)2D kích thích hấp thu canxi và phospho tại ruột và kích hoạt hoạt tính của các hủy cốt bào (osteoclast), nhờ đó làm tăng tính khả dụng của canxi và phosphat trong máu.

CÁC TÁC DỤNG TRÊN XƯƠNG CỦA VITAMIN D

Còi xương/nhuyễn xương

Thiếu hụt vitamin D, canxi hoặc phospho có thể làm suy giảm tình trạng tạo chất khoáng bình thường của xương, vì vậy gây bệnh còi xương hoặc nhuyễn xương, ở trẻ em, tình trạng tạo chất khoáng không thỏa đáng của mô tiền cốt (osteoid) và sụn trong bản phát triển xương (growth plates) gây chứng còi xương, một bệnh lý được đặc trưng bằng giãn to tại đầu của các xương dài, các chỗ kết nối của sụn sườn nổi gồ lên (chuỗi hạt sườn còi xương), biến dạng hệ xương như trán gồ cao và biến dạng của các chi dưới gây chân vòng kiềng, đầu gối củ lạc (knocked knee), ở người trưởng thành, suy giảm hình thành khoáng chất cho mô liên kết của xương gây ra chứng nhuyễn xương, một tình trạng bệnh lý được đặc trưng bằng đau xương toàn thân, yếu cơ, dáng đi lạch bạch (waddling gait) và giả gẫy xương; các đặc điểm X quang kinh điển được đặc trưng bằng các vùng sáng trong ở vỏ xương được bao quanh bằng xơ hóa ở các xương dài.

Còi xương/nhuyễn xương phụ thuộc vitamin D

  • Còi xương/nhuyễn xương do dinh dưỡng. Thiếu hụt vitamin D thường gặp ở trẻ nhỏ được nuôi dưỡng bằng sữa mẹ kéo dài song không được bổ sung thêm vitamin D hoặc không được tiếp xúc đầy đủ với ánh nắng mặt trời. Tất cả các loại sữa nuôi dưỡng cho trẻ dưới một tuổi tại Hoa Kỳ thường được làm giàu thêm với ít nhất 400 IU/L vitamin Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ khuyến cáo bổ sung 200 lU/ngày vitamin D2 cho tất cả các trẻ dưới một tuổi được nuôi bằng sữa mẹ trừ khi chúng đã được bổ sung thêm ít nhất 500 mL sữa đã được giàu vitamin D và cho tất cả các trẻ dưới một tuổi không được nuôi bằng sữa mẹ nhưng chỉ được dùng < 500 mL sữa được làm giàu thêm vitamin D. Còi xương/nhuyễn xương do dinh dưỡng cũng có thể được gặp ở những người cao tuổi có da tối mầu và ít tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Những bệnh nhân này sẽ có nồng độ canxi và phospho huyết thanh thấp và nồng độ PTH cao. ở người lớn, liều ergocalciferol là 50.000 IU/ tuần trong 8 đến 10 tuần kết hợp với bổ sung canxi 1000 mg/ngày đã được sử dụng để điều trị còi xương. Nồng độ canxi, phospho, phosphatase kiềm huyết thanh và tỷ số canxi/creatinin niệu được đo đạc trước và 4 tuần sau khi bắt đầu điều trị và sau đó là mỗi 3 tháng/lần. Chụp X quang để theo dõi tình trạng hồi phục các biến đổi xương của còi xương.

Còi xương phụ thuộc vitamin D có tính chất di truyền

■ Còi xương phụ thuộc vitamin D typ I (VDDR-I), còn được gọi là còi xương giả thiếu vitamin D, thường được biểu hiện ở trẻ trước 2 tuổi. Đây là một bệnh di truyền tính lặn theo nhiễm sắc thể thường và được kết nối với nhiễm sắc thể 12q14. Rối loạn là hậu quả của một khuyết tật của enzym 1a-hydroxylase của ống thận, enzym này tham gia vào phản ứng chuyển đổi 25(OH)D thành dạng có hoạt tính là 1,25(OH)2D. Nồng độ canxi máu thường thấp hoặc bình thường, nồng độ 25(OH)D thường bình thường hoặc cao, nồng độ 1,25(OH)2D thấp và nồng độ PTH tăng cao thứ phát do hạ canxi máu. Nồng độ phosphat máu thường thấp do PTH cao và nồng độ 1,25(OH)2D thấp. Điều trị bao gồm bồi phụ bằng calcitriol (1,25[OH]2D), và đích điều trị là duy trì được nồng độ canxi, phosphat, phosphatase kiềm và nồng độ PTH ở trong giới hạn bình thường.

■ Còi xương phụ thuộc vitamin D typ II (VDDR-II), còn được gọi là còi

xương kháng vitamin D có tính di truyền (HVDRR) là một bệnh rất hiếm gặp. Đây là một bệnh di truyền tính lặn theo nhiễm sắc thể thường và được kết hợp với tình trạng kháng của các cơ quan đích với calcitriol, do hậu quả của các đột biến các gien mã hóa thụ thể vitamin D (VDR). Các trẻ mắc bệnh khi sinh ra hoàn toàn bình thường, nhưng bệnh lý xương do chuyển hóa biểu hiện sớm ngay trong 2 năm đầu đời. Nồng độ canxi máu thấp, PTH cao, 25(OH)D từ bình thường đến cao và 1,25(OH)2D từ bình thường đến cao. Điều trị bao gồm dùng calcitriol và canxi liều cao. Truyền canxi dài ngày qua tĩnh mạch trung tâm là một điều trị khác được chọn đối với bệnh nhân có tình kháng nặng vitamin D.

Còi xương/nhuyễn xương không phụ thuộc vào vitamin D

  • Còi xương hạ phosphat máu liên quan với nhiễm sắc thể X là một rối

loạn di truyền tính trội liên quan với nhiễm sắc thể X (Xp22). Rối loạn này là do một khuyết tật của PHEX (endopeptidase điều hoà phosphat [phosphate regulating endopeptidase]), là enzym ly giải một yếu tố lưu hành trong tuần hoàn gây mất phosphat qua thận. Các bệnh nhân bị rối loạn này cũng có khiếm khuyết tổng hợp 1,25(OH)2D thứ phát do nồng độ phosphat huyết tương hạ thấp. Các bệnh nhân có nồng độ 1,25(OH)2D thấp, nồng độ phosphat thấp, nồng độ canxi máu và PTH bình thường. Điều trị bao gồm bổ sung phosphat và vitamin D.

  • Bệnh còi xương giảm phosphat máu di truyền tính trội qua nhiễm sắc thể thường, một đột biến của yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi (FGF23) gây tăng nồng độ của phosphatonin này dẫn đến tình trạng mất một lượng lớn phosphat qua thận. FGF23 ức chế trực tiếp enzym 1a-hydroxylase của thận, vì vậy ức chế tổng hợp 1,25(OH)2 Các biểu hiện lâm sàng và điều trị rối loạn này tương tự như đối với bệnh còi xương giảm phosphat máu liên quan với nhiễm sắc thể X.
  • Bệnh còi xương giảm phosphat máu di truyền tính lặn qua nhiễm sắc thể thường. Protein của khối bào tương mầu ngà voi -1 (Dentin matrix protein-1 [DMP1) được các tạo cốt bào (osteocytes) tạo nên. DMP1 ức chế tiết hoặc sản xuất FGF Bệnh này là hậu quả của đột biến đồng hợp tử của gen DMP1 và gây nên sự phóng thích tình trạng ức chế của FGF 23, vì vậy gây tình trạng đái phostphat và nhuyễn xương. Các đặc điểm lâm sàng tương tự như với bệnh còi xương di truyền tính trội qua nhiễm sắc thể thường khác.
  • Nhuyễn xương gãy ra do khối u được đặc trưng bằng tảng sản xuất phosphatonin bởi các khối u tạo xơ có nguồn gốc trung bì. Bệnh nhân có tăng mất phosphat qua thận và tăng tổng hợp bù trừ của 1,25(〇H)2 Điều trị bao gồm bồi phụ lại phosphat, cắt bỏ u và dùng các chất giống somatostatin.
  • Hạ phosphat máu với tăng canxi niệu là một khuyết tật di truyền tính lặn qua nhiễm sắc thể thường đối với cơ chế đồng vận chuyển Na-P04 typ 2c ở ống lượn gần của thận. Bệnh nhân có nồng độ phosphat máu thấp và tăng vitamin D bù trừ, tình trạng này gây tăng tái hấp thu canxi tại ruột và tăng thải canxi qua nước tiểu. Điều trị bao gồm bổ sung phosphat.

Loãng xương

Loãng xương là một rối loạn toàn thân được đặc trưng bằng tình trạng giảm khối xương, làm biến loạn cấu trúc vi mô của mô xương, dẫn tới tình trạng suy nhược xương và làm tăng nguy cơ bị gẫy xương đối với cổ xương đùi,cột sống và cổ tay. Tình trạng cường cận giáp thứ phát đã được đề xuất như một cơ chế chính để kết nối với tình trạng thiếu hụt vitamin D, với cơ chế bệnh sinh của giảm tỷ trọng khoáng của xương và loãng xương.

Mặc dù một thực tế là nồng độ 25(〇H)D trong huyết thanh cao hơn sẽ đi kèm với tỷ trọng chất khoáng của xương (BMD) cao hơn trên tất cả các quần thể được nghiên cứu (NHANES III), song vai trò của bổ sung vitamin D để dự phòng gẫy xương hiện vẫn đang còn là vấn đề gây tranh cài. Bổ sung vitamin D và canxi (1000mg canxi và 800IU vitamin D một ngày) giúp làm giảm có ý nghĩa nguy cơ bị gẫy cổ xương đùi tới 43% các gẫy xương khác không phải là cột sống tới 32% trong số 3270 phụ nữ sau mãn kinh là đối tượng bị thiếu hụt vitamin D (nồng độ 25[OH] D trung bình là 16 ng/mL) và nồng độ 25(OH)D tăng lên tới 42 ng/mL sau điều trị. Trong một nghiên cứu phân tích gộp gần đây, bổ sung thêm vitamin D (700-800 IU) giúp làm giảm gây cổ xương đùi tới 26% và gẫy các xương khác không phải là cột sống tới 23% khi so sánh với các đối tượng không được bổ sung thêm vitamin D. Trái lại, một phân tích ờ các phân nhóm trong nghiên cứu Sáng kiến Sức khỏe của Phụ nữ (Women’s Health Initiative [WHI]) đã báo cáo rằng bổ sung thêm vitamin D3 (400 IU) và canxi carbonat (1000mg) cho 36.282 phụ nữ sau tuổi mãn kinh trong vòng 7 năm, đã không ngản ngừa được nguy cơ gẫy cổ xương đùi mặc dù có được cải thiện đôi chút về tỷ trọng chất khoáng của xương (BMD) của cổ xương đùi ở nhóm được điều trị khi so sánh với nhóm dùng giả dược. Một số vấn đề liên quan với nghiên cứu này đã được đưa ra như các hạn chế trong diễn giải kết quả kể cả tỷ lệ tuân thủ điều trị thấp, khẩu phần canxi nhập tại thời điểm nền cao hơn ở các đối tượng tham gia nghiên cứu, có lẽ lựa chọn bổ sung vitamin D3 dưới mức tối ưu. Trong nghiên cứu Sáng kiến Sức khỏe của Phụ nữ (WHI), nồng độ 25(OH)D huyết thanh chỉ tăng khoảng 2,8 ng/mL.

Một thử nghiệm ngẫu nhiên sử dụng vitamin D và canxi để dự phòng cấp hai đối với tình trạng gẫy xương liên quan với loãng xương ở người cao tuổi (thử nghiệm RECORD) cho thấy là không dự phòng được gẫy xương lần 2 đối với các bệnh nhân được uống 1000 mg canxi/ngày và 800 IU vitamin D3/ngày. Tuy vậy, có nhiều câu hỏi được đặt ra làm thay đổi cách diễn giải kết quả của nghiên cứu này. Thứ nhất là nhóm giả dược được phép dùng canxi và vitamin D bất kể có được can thiệp hay không. Thứ hai là tỷ lệ tuân thủ điều trị kém. Thứ 3 là nồng độ 25(OH)D trung bình đạt được chỉ có 24,8 ng/mL đối với nhóm được điều trị bằng vitamin D. Trong khi chỉ dự phòng được tối ưu tình trạng gẫy xương khi nồng độ 25(OH)D đạt được từ 36 đến 40 ng/mL. Chỉ có thể đạt được tới nồng độ này trong các thử nghiệm dùng vitamin D3 với liều 700 đến 800 lU/ngày cho các đối tượng có nồng độ nền trung bình dao động từ 17 đến 31 ng/mL. Do đó, để dự phòng tối ưu đối với tình trạng loãng xương có thể cần các khẩu phần vitamin D3 nhập vào > 700-800 lU/ngày cho các đối tượng có mức 25(OH)D nền <17 ng/mL.

CÁC TÁC DỤNG KHÔNG LIÊN QUAN ĐẾN CHUYỂN HÓA CANXI CỦA VITAMIN D

Ngày càng có nhiều bằng chứng thu được từ các nghiên cứu trên mô hình chuột cũng như trên người gợi ý rằng, duy trì được kho dự trữ vitamin D tối ưu rất quan trọng không những đối với sức khỏe của xương mà còn đối với sức khỏe chung. Mặc dù phần lớn các số liệu tại thời điểm này là dựa trên mối quan hệ tương quan, một khối lượng lớn bằng chứng nghiên cứu gợi ý thiếu hụt vitamin D có thể khiến các nguy cơ bệnh lý tim mạch được biết diễn biến tồi đi. Kết quả của các thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên tiến cứu là rất quan trọng.

Đái tháo đường typ II (Type 2 DM)

Tần suất bị giảm vitamin D cao hơn ở những phụ nữ đái tháo đường typ 2. Phân tích nghiên cứu NHANES III và Nghiên cứu về Đái tháo đường trên lực lượng lao động khẳng định các bệnh nhân có nồng độ 25(OH)D không bị suy giảm (> 30 ng/mL) sẽ có khoảng 1/3 nguy cơ phát triển thành đái tháo đường hoặc giảm dung nạp glucose so với những đối tượng có nồng độ vitamin D suy giảm (< 24 ng/mL). Những nghiên cứu trên chuột đã gợi ý rằng thiếu hụt vitamin D có thể dẫn đến suy giảm quá trình tiết insulin và tình trạng kháng insulin. Trên người, chỉ số độ nhạy cảm insulin, như được đánh giá bằng bằng kỹ thuật kẹp tăng đường huyết – tâng insulin máu (hyperinsulinemic-hyperglycemic clamps), cải thiện tỷ lệ thuận với nồng độ vitamin D; ngoài ra, những nghiên cứu can thiệp trên những đối tượng bị thiếu hụt vitamin D đâ cho thấy có cải thiện độ nhạy đối với insulin trên những đối tượng không dung nạp với glucose sau khi điều trị bồi phụ vitamin D.

Đái tháo đường typ 1

Đái tháo đường typ 1 được coi như một bệnh tự miễn qua trung gian tế bào T. Phức chất vitamin D được biết là có tác dụng ức chế hoạt tính của lympho bào T và làm biến đổi khả năng trình diện kháng nguyên của đại thực bào và các tế bào hình sao cũng như điều biến khả năng giải phóng các cytokin. Các tác dụng này có thể bảo vệ tế bào beta chống lại các tổn thương tự miễn dịch. Một số nghiên cứu dịch tễ học đã mô tả mối tương quan giữa vĩ tuyến địa lý với tỷ lệ mắc đái tháo đường typ 1. Một nghiên cứu trước đây đã chứng minh được rằng nồng độ 25(OH)D ở những bệnh nhân mới được chẩn đoán là đái tháo đường typ 1 thấp hơn so với nhóm chứng là người khỏe mạnh. Nghiên cứu về tình trạng tự miễn của bệnh đái tháo đường ờ người trẻ (DAISY) đã báo cáo là biểu hiện của các kháng thể kháng tế bào đối với các tế bào tụy đảo tương quan nghịch với khẩu phần vitamin D trong chế độ dinh dưỡng của bà mẹ trong thời kỳ thai nghén. Thêm vào đó, ở những bệnh nhân bị còi xương, tỷ lệ mắc đái tháo đường tuổi thiếu niên tăng gấp 3 lần so với những trẻ khỏe mạnh. Nhiều nghiên cứu quan sát đã chứng minh rằng, điều trị cho trẻ một liều vitamin D <400 lU/ngày không làm giảm nguy cơ phát triển thành đái tháo đường typ 1. Tuy vậy, một nghiên cứu tiến cứu duy nhất dựa trên đánh giá khẩu phần nhập vitamin D trong thời kỳ sơ sinh (trên 10.821 trẻ) chứng minh được bổ sung vitamin D cho trẻ sơ sinh với liều 2000 lU/ngày trong 1 năm sẽ giúp làm giảm nguy cơ phát triển thành đái tháo đường typ 1 tới 80% tính đến tuổi 30. cần phải có nhiều nghiên cứu để xác định có nên bắt đầu điều trị vitamin D ngay khi trong thời kỳ thai nghén và xác định liều vitamin tối ưu không gây tác dụng phụ cho người sử dụng.

Vitamin D và tăng huyết áp

Các nghiên cứu can thiệp gợi ý bổ sung vitamin D giúp làm giảm huyết áp. Trong một nghiên cứu điều trị bằng canxi và vitamin D3 đường uống trong vòng 8 tuần cho những phụ nữ lớn tuổi bị thiếu hụt vitamin D, nồng độ 25(OH)D huyết tương tăng lên > 25 ng/mL và huyết áp tâm thu được làm giảm một cách có ý nghĩa thống kê tới 13 mmHg khi so sánh với nhóm chứng chỉ được điều trị bằng canxi. Tiếp xúc với tia cực tím ở mức độ vừa đủ để làm da sạm giúp làm tăng nồng độ 25(OH)D huyết tương lên đến 40 ng/mL và làm giảm huyết áp ở những bệnh nhân có tảng huyết áp mức độ nhẹ. Tuy nhiên, điều trị 1,25(OH)2D đường uống đã không chứng minh được là có tác dụng bền bỉ trên huyết áp, có lẽ do có khác biệt về các tình trạng nồng độ vitamin D trong quần thể được nghiên cứu, cũng như khác biệt về liều dùng vitamin D và khoảng thời gian bổ sung vitamin D.

Vitamin D ức chế hệ thống Renin – Angiotensin

Trên mô hình động vật, vitamin D ức chế hoạt tính của vùng khởi động (promoter) của gen renin không phụ thuộc vào chuyển hóa canxi. Chuột thiếu thụ thể vitamin D (VDR) có biểu hiện tăng huyết áp và phì đại buồng tim do tăng giải phóng renin và sản xuất angiotensin II. Điều trị bằng vitamin D đường uống cho chuột bị tăng huyết áp tiên phát sẽ làm giảm số đo huyết áp cũng như cải thiện được tình trạng giãn mạch phụ thuộc vào tế bào nội mạc mạch. Trên người, có một mối tương quan nghịch giữa nồng độ của vitamin D và nồng độ của renin huyết tương. Các nghiên cứu can thiệp với tiến hành điều trị bổ sung vitamin D tổng hợp đường uống giúp làm giảm nồng độ renin huyết tương ở các bệnh nhân bị thiếu hụt vitamin D không có kèm đái tháo đường. Bằng chứng này ủng hộ cho mối quan hệ có tính khái niệm giữa vitamin D và hệ thống renin-aldosteron trong tăng huyết áp tiên phát và những ảnh hưởng tích cực của bổ sung vitamin D đối với huyết áp.

Vitamin D và bệnh lý tim mạch

Vitamin D không những làm thay đổi các hormon tham gia vào cơ chế bệnh sinh của tăng huyết áp và đái tháo đường mà còn có tác dụng trực tiếp lên hệ thống mạch máu. Biểu hiện của các thụ thể vitamin D (VDR) và hoạt hóa vitamin D bởi enzym 1a-hydroxylase trong tế bào nội mạc và tế bào cơ trơn mạch máu gợi ý cho tầm quan trọng của vitamin D trong quá trình chuyển hóa tế bào mạch máu. Tình trạng thiếu hụt vitamin D thường xảy ra nhiều hơn ờ bệnh nhân bị bệnh mạch máu ngoại biên, nồng độ vitamin D có mối tương quan nghịch với sức cản mạch máu ờ bệnh nhân tăng huyết áp. Các biến cố tim mạch thường xuất hiện nhiều hơn về những tháng mùa đông và ở những vùng ở các vĩ tuyến cao hơn là nơi mà nồng độ vitamin D trung bình trong máu thấp nhất. Nồng độ 25(OH)D thấp hơn một cách có ý nghĩa ở bệnh nhân bị đột quỵ, bệnh nhân không đái tháo đường có nhồi máu cơ tim cấp và bệnh nhân suy tim. Các đối tượng đái tháo đường typ 2 có bệnh mạch vành trên lâm sàng có nồng độ 25(OH)D thấp hơn so với những bệnh nhân đái tháo đường không bị thiếu vitamin D và không bị bệnh mạch vành. Cũng ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2, nồng độ vitamin D thấp được kết hợp một cách rõ rệt và độc lập với tăng độ dầy của lớp áo trong và áo giữa của động mạch cảnh, một dấu chỉ tin cậy của tình trạng vữa xơ mạch. Cuối cùng, một số nghiên cứu can thiệp đã ghi nhận được rằng bổ sung vitamin D kéo dài cho bệnh nhân thiếu hụt vitamin D không có bệnh đái tháo đường giúp làm giảm có ý nghĩa nồng độ trong huyết tương của protein c phản ứng (CRP), metaỉỉo-proteinase của khối bào tương (matrỉx-metallo- proteinase) của mô (MMP1 và MMP9), chất ức chế của chúng (TIMP-1,25) và có tác dụng có lợi trên đặc tính chun giãn của động mạch cảnh chung ở phụ nữ sau tuổi mãn kinh.

Tính miễn dịch

Thụ thể vitamin D (VDR) có mặt trên các đại thực bào và tế bào lympho T. 1,25(OH)2D tác động như một chất điều biến hệ thống miễn dịch, dự phòng hiện tượng giải phỏng quá thừa các cytokin gây viêm và làm tăng “sự bùng nổ ô xy hỏa” của các đại thực bào. Điều quan trọng nhất là vitamin D kích hoạt các peptid kháng khuẩn (cathelicidin và beta-defensin 2) có mặt trong các bạch cầu đa nhân trung tính, bạch cầu đơn nhân, tế bào diệt tự nhiên và trong các tế bào biểu mô lát đường hô hấp, nơi mà các tế bào này đóng vai trò chính bảo vệ cơ thể chống lại vi khuẩn, vi rút và nấm. Những người Mỹ gốc Phi, được biết có tăng nhạy cảm với vi khuẩn lao (TB), đã được báo cáo là có nồng độ 25-hydroxyvitamin D huyết thanh thấp và kém đáp ứng với điều hòa sản xuất cathelicidin. Cho thêm vitamin D vào huyết thanh của các bệnh nhân người Mỹ gốc Phi sẽ làm tăng sản xuất cathelicidin của đại thực bào và làm tăng tốc độ tiêu diệt vi khuẩn lao. Cathelicidin và beta-defensin 2 có hoạt tính kháng khuẩn phổ rộng, bao gồm cả hoạt tính kháng virus và đả được chứng minh là có thể bất hoạt được virus cúm. Những người tình nguyện được tiếp xúc với virus cúm sống được làm giảm độc tính gây nên trong mùa đông nhiều khả năng là sẽ xuất hiện triệu chứng sốt và có các bằng chứng huyết thanh của một đáp ứng miễn dịch so với những người tiếp xúc với virus vào mùa hè, điều này gợi ý có mối tương quan giữa nồng độ vitamin D và tính chất xuất hiện theo mùa của dịch cúm. Thiếu hụt vitamin D dễ khiến cho trẻ em bị nhiễm khuẩn hô hấp. Tăng nồng độ vitamin D bằng cách chiếu tia cực tím và cho ăn gan cá tuyết giúp làm giảm tần suất mắc các nhiễm khuẩn hô hấp ở trẻ em. Điều này gợi ý khả năng sản xuất vitamin D khác nhau có thể ảnh đến tính nhạy cảm hoặc đề kháng với các nhiễm khuẩn.

Tác dụng chống tăng sinh tế bào (Antiproliferative Effects)

Chất chuyển hóa có hoạt tính của vitamin D, ngoài tham gia điều hòa hằng định nội môi canxi-phosphat và tạo khoáng của xương, còn gây tình trạng làm ngừng chu kỳ tế bào, biệt hóa tế bào và quá trình tế bào chết theo chương trình trên in vitro ở một loạt các tế bào ung thư.

Hầu hết các nghiên cứu quan sát đã báo cáo có mối tương quan nghịch giữa các tình trạng vitamin D, sự tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, nguy cơ ung thư và tỷ lệ tử vong. Nồng độ 25(OH)D tâng cao tại thời điểm chẩn đoán hoặc trong thời gian điều trị ung thư có thể cải thiện tiên lượng đối với ung thư đại tràng, ung thư vú và ung thư tiền liệt tuyến. Bệnh nhân có đa dạng đột biến di truyền thụ thể vitamin D, đặc biệt là kiểu gien Bsm I bb, có tần suất bị ung thư đại tràng, tiền liệt tuyến và vú tăng cao gấp hai lần. Đa dạng đột biến của Fok IVDR làm biến đổi nguy cơ bị ung thư tuyến tiền liệt. Các nam giới có kiểu gen Fok I ff hoạt động chức năng kém hơn dễ bị mẫn cảm hơn vởi ung thư này khi cỏ kèm nồng độ 25(OH)D thấp.

Trong ung thư đại tràng, bằng chứng rất khẳng định. Hầu hết các nghiên cứu đánh giá mối tương quan giữa nồng độ 25(OH)D lưu hành trong tuần hoàn và nguy cơ tiếp sau đó bị ung thư hoặc u biểu mô tuyến đại đại trực tràng, đã tìm thấy một nguy cơ bị ung thư thấp hơn ờ nhóm có nồng độ 25(OH)D cao hơn. Trong một phân tích gần đây trong Nghiên cứu về Sức khỏe của các điều dường (Nurses* Health Study), nguy cơ bị ung thư đại tràng cỏ tương quan nghịch vởi nồng độ 25(OH)D.

Các bệnh nhân có nồng độ 25(OH)D là 39,9 ng/mL sẽ có nguy cơ tương đối (RR) xuất hiện ung thư đại tràng hầu như giảm một nửa (RR: 0,53; khoảng tin cậy [Cl]: 0,27-1,04) so với các bệnh nhân có nồng độ < 16 ng/mL (p=0,02). Lợi ích của nồng độ 25(OH)D cao hơn được quan sát thấy đối với các ung thư ở phụ nữ lớn tuổi mắc ung thư đại tràng đoạn xa và ung thư trực tràng, nhưng không thấy có bằng chứng đối với ung thư đại tràng đoạn gần.

Trong một nghiên cứu dọc trên 1954 nam giới, có khẩu phần vitamin D nhập vào hàng ngày là 233 đến 652 IU cho thấy có giảm tới một nửa nguy cơ tương đối xuất hiện ung thư đại tràng so với những nam giới có khẩu phần vitamin D nhập vào ít hơn 6-94 lU/ngày. WHI là một nghiên cứu tiến cứu theo dõi trong 7 năm đã khẳng định rằng phụ nữ tham gia vào nghiên cứu khi họ là đối tượng có nồng độ vitamin D máu thấp (<15 ng/mL) sẽ có nguy cơ mắc ung thư ruột cao gấp 2 lần so với những đối tượng có nồng độ vitamin D > 58,4 nmol/L. Tuy nhiên, không có bằng chứng nào cho thấy điều trị bằng canxi 1000 mg/ngày kết hợp với vitamin D (400 lU/ngày) sẽ giúp làm giảm nguy cơ xẩy ra ung thư ruột. Một số vấn đề bất cập được đặt ra trong nghiên cứu này, chủ yếu liên quan với thời gian theo dõi của nghiên cứu còn ngắn và liều vitamin D3 được sử dụng là 400 IU không đủ để nâng nồng độ 25(〇H)D lên tới giới hạn cao hơn 30 ng/mL. Dựa trên kết quả của nghiên cứu này và các nghiên cứu trước đây, nồng độ 25(OH)D huyết thanh tối ưu được ước tính có liên quan với tác dụng làm giảm tần suất mắc u tế bào tuyến đại tràng là 30-35 ng/mL.

Trong ung thư tiền liệt, các dữ liệu dịch tễ và cận lâm sàng ủng hộ cho vai trò của vitamin D trong sự tăng trưởng và biệt hóa của các tế bào tuyến tiền liệt ở người. Trong một nghiên cứu ở Phần Lan, tần suất mắc hiện hành của ung thư tiền liệt tuyến được đánh giá trên 18.966 đối tượng là nam có tuổi từ 40 đến 57 và nghiên cứu được theo dõi trong vòng 14 năm. Những đối tượng có nồng độ 25(OH)D thấp hơn 16ng/ml_ có tỷ lệ mắc ung thư tiền liệt tuyến cao hơn 70% so với các đối tượng có nồng độ này >16 ng/mL. Đối với các nam giới trẻ tuổi có nồng độ 25(OH)D <16 ng/mL, tần suất mắc ung thư tuyến tiền liệt cao gấp 3,5 lần so với các đối tượng có nồng độ này >16 ng/mL, tần suất bị ung thư xâm lấn cao hơn 6,3 lần. Một vài thử nghiệm nhỏ pha II cung cấp các bằng chứng cho thấy so với những đối tượng có nồng độ từ 16 ng/mL trở lên. Một số thử nghiệm nhỏ pha II cho thấy chỉ riêng nồng độ 1,25(OH)2D hoặc kết hợp với hóa trị liệu bằng thuốc ức chế phân bào làm sẽ giúp làm chậm tiến triển của ung thư tiền liệt tuyến, nhưng cần có nhiều nghiên cứu hơn nữa.

Trong ung thư vú, phân tích kết hợp trên 1.760 phụ nữ từ hai thử nghiệm báo cáo nguy cơ bị ung thư vú dựa trên giá trị ngũ phân vị của 25(OH)D,cho thấy nguy cơ ung thư vú được làm giảm tới 50% trên những đối tượng có nồng độ 25(OH)D là 50 ng/mL khi so sánh với những đối tượng có nồng độ này là 10 ng/mL. Thêm vào đó, phụ nữ có nồng độ 1,25(OH)2D huyết thanh thuộc tứ phân vị thấp nhất có nguy

Cơ mắc ung thư vú cao gấp 5 lần so với những đối tượng có nồng độ này nằm ở tứ phân vị cao nhất. Nồng độ 1,25(OH)2D thấp cũng được kết hợp với tiến triển nhanh hơn của ung thư vú có di cân. Các nghiên cứu trên động vật thực nghiệm đã khẳng định là 1,25(OH)2D có tác dụng ức chế ung thư vú, nhưng những nghiên cứu trên người còn chưa chứng minh được điều này.

Bệnh lý cơ

Yếu cơ là đặc điểm lâm sàng thường gặp ở bệnh nhân bị thiếu hụt vitamin D. Tình trạng này có thể có tác động đến nguy cơ gẫy xương do làm thay đổi khả năng dễ bị ngã. Các bằng chứng kết hợp thu được từ năm nghiên cứu trên 1237 bệnh nhân cho thấy khẩu phần vitamin D nhập làm giảm nguy cơ bị ngã 22% (vởi nguy cơ tương đối [RR] 0,78; khoảng tin cậy 95% [95% Cl]: 0,64 – 0,92). Trong một nghiên cứu mù đôi gần đây, đối tượng là những người cao tuổi có khả năng tự đi lại được dùng 700 IU vitamin D cộng với 500 mg canxi có giảm nguy cơ ngã 46% so với những đối tượng dùng giả dược. Giảm nguy cơ ngã được thấy rõ rệt nhất ở phụ nữ ít vận động. Kém vận động thể lực hoặc giảm nặng khả năng vận động thể lực được phát hiện ở 1234 đối tượng là nam và nữ cao tuổi khi nồng độ 25(OH)D huyết thanh giảm dưới 20 ng/mL. Bệnh cơ do giảm vitamin D có thể được thể hiện thậm chí trước cả khi bệnh nhân có các biến đối sinh hóa liên quan đến bệnh xương. Làm bình thường hóa hoàn toàn bệnh cơ do giảm vitamin D đòi hỏi phải điều trị bằng vitamin D liều cao trong vòng từ 6 tháng trở lên. Cũng không có nhiều bằng chứng cho thấy tình trạng đau thắt lưng thấp vô căn ở các bệnh nhân bị thiếu hụt vitamin D sẽ cải thiện rõ rệt khi nồng độ vitamin D được đưa trở lại bình thường. Nồng độ 25(OH)D thấp cũng thường gặp ở các bệnh nhân bị chứng đau xơ cơ (fibromyalgia) và đau cơ xương không đặc hiệu mạn tính không đáp ứng với điều trị.

Viêm khớp dạng thấp

Viêm khớp dạng thấp là một trong những bệnh lý viêm mạn tính thường gặp nhất và tác động tới khoảng 1% dân số ở Hoa Kỳ. Các nghiên cứu dịch tễ học đã phát hiện được nồng độ vitamin D và chất chuyển hóa của nó trong huyết thanh của bệnh nhân viêm khớp dạng thấp vị hạ thấp. Những nghiên cứu can thiệp nhỏ ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp được điều trị bằng alfacalcidol đường uống liều cao (một dạng của vitamin D) cho thấy có tác dụng tích cực trên tiến triển của bệnh ờ 89% số bệnh nhân, chỉ có 11% bệnh nhân không thấy có cải thiện. Trong viêm khớp vẩy nến, dùng theo đường uống 1,25(OH)2D cho thấy giúp cải thiện về triệu chứng của bệnh. Trong nghiên cứu Sáng kiến Sức khỏe của Phụ nữ (WHI), những phụ nữ được dùng ít hơn 200 IU viamin trong chế độ ăn mỗi ngày sẽ có khả năng xuất hiện viêm khớp dạng thấp tăng 33% so với phụ nữ có chế độ ăn chứa nhiều vitamin hơn. Các kết quả này cung cấp bằng chứng cho thấy các gắn kết thụ thể vitamin D (VDR ligands) có thể mang lại các lợi ích lâm sàng tiềm tàng khi được sử dụng để điều trị viêm khớp dạng thấp.

Xơ cứng rải rác (Multiple Sclerosis)

Các dữ liệu dịch tễ học cho thấy có mối tương quan giữa vị trí địa lý và tỷ lệ mắc xơ cứng rải rác. ở phụ nữ, kết quả của hai nghiên cứu Nurses’s Health study và Nurses’s Health study II đã khẳng định tác dụng bảo vệ của vitamin D đối với nguy cơ mắc bệnh xơ cứng rải rác. Nguy cơ tương đối xuất hiện xơ cứng rải rác sẽ giảm 60% khi so sánh giữ phụ nữ có khẩu phần vitamin > 400 lU/ngày so với những phụ nữ không được bổ sung vitamin D. Chưa có nghiên cứu tiến cứu nào được thực hiện để đánh giá giả thuyết trên.

 

Ferrovit

THÀNH PHẦN

Ferrovit thuốc sắt cho bà bầu
Ferrovit thuốc sắt cho bà bầu

Mỗi viên nang mềm gelatin, màu đỏ chứa:
Sắt fumarate 162mg

Folic acid 0,75mg

Vitamin B12 7,50mcg

Tá dược: Vanillin, Aerosil 200, lecithin, Sáp ong trắng, dầu thực vật hydro hóa, dầu đậu tương.

CHỈ ĐỊNH

Bổ sung sắt cho phụ nữ có thai và các chứng thiếu máu thiếu sắt.

LIỀU DÙNG

Một viên nang 2 lần mỗi ngày hoặc theo hướng dẫn bác sĩ.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Không chỉ định cho bệnh nhân có tiền sử dị ứng với bất cứ thành phần nào của thuốc.

THẬN TRỌNG

Sự hấp thu sắt bị ức chế bởi magie trisilicate, các thuốc kháng acid và các loại thức ăn như trứng và sữa. Do vậy, nên sử dụng các chế phẩm bổ sung sắt trước 1h hoặc 2h sau khi sử dụng các loại thức ăn như trứng, sữa, trà, cà phê, lúa mì và ngũ cốc, các thuốc kháng acid hoặc các chế phẩm bổ sung canxi.

TÁC DỤNG PHỤ

Hiếm gặp các rối loạn tiêu hóa như buồn nôn, táo bón, tiêu chảy, đau bụng hoặc đau dạ dày, đau quặn bụng…Dùng các chế phẩm bổ sung sắt có thể làm phân có màu đen.
Thông báo cho ác sĩ biết các tác dụng phụ gặp phải trong quá trình sử dụng thuốc.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Sắt: Dùng đồng thời sắt với các thuốc sau có thể làm giảm hiệu quả của sắt, như những chế phẩm có chứa caloi và magnesi, kể cả thuốc kháng acid và các chế phẩm bổ sung khoáng chất, và bicarbonate, carbonat, oxalate hoặc phosphate, kẽm, tetracycllin, trientin và acetohydroxamic acid. Một số thuốc như ascorbic acid và citric acid thực sự có thể làm tăng sự hấp thu sắt. Ngoài ra muối sắt cũng có thể làm giảm sự hấp thu cũng như sinh khả dụng của một số thuốc khác, như cefdinir, biphosphonat, entacapon, fluoroquinolon, levodopa, methydopa, mycophenolat mofetil, và penicilamin. Muối sắt cũng có thể làm giảm hiệu quả của levothyroxin.
Folic acid: tình trạng thiếu folat có thể do ảnh hưởng bởi một số thuốc như thuốc chống động kinh, thuốc tránh thai, thuốc kháng lao, rượu và thuốc đối kháng acid folic như  methotrexat, pyrimethamin, triamteren, trimethoprim và sulfonamide.
Vitamin B12: Hấp thu vitamin B12 từ đường tiêu hóa có thể bị giảm bởi neomycin, aminosalicylic acid, thuốc kháng histamine H2 và colchicin. Dùng đồng thời với thuốc tránh thai uống có thể làm giảm nồng độ Vitamin B12 trong huyết thanh.Điều kiện bảo quản: bảo quản nơi khô mát, dưới 25oc. Không bảo quản trong tủ lạnh.
Trình bày: 10 vỉ/ hộp. 10 viên/ vỉ. Giá bán : 80,000 vnđ (chúng tôi đưa thông tin để người đọc tham khảo, chúng tôi không phải là đơn vị buôn bán thuốc)

Lưu ý:

Để thuốc xa tầm với của trẻ em.

Đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng.

Không dùng thuốc quá hạn ghi trên vỉ.

Không sử dụng những viên thuốc có bất kỳ dấu hiệu thay đổi bất thường nào.

Nhà sản xuất: MEGA LIFESCIENCES (AUSTRALIA), THÁI LAN

Thuốc Lamisil

Thuốc Lamisil
Thuốc Lamisil

LAMISIL

NOVARTIS

kem bôi ngoài da: tube 5 g.

 THÀNH PHẦN

cho 100 g
Terbinafine hydrochloride 1 g
Chất bảo quản: Benzyl alcohol

DƯỢC LỰC

Terbinafine là một allylamine có tác dụng diệt nấm phổ rộng đối với nấm da, nấm móng và nấm lưỡng hình. Tác dụng diệt hay là kháng nấm men tùy thuộc vào chủng loại nấm.

Terbinafine can thiệp chọn lọc vào giai đoạn đầu của quá trình sinh tổng hợp ergosterol, dẫn đến sự thiếu hụt ergosterol và làm tăng sự tích tụ nồng độ squalene trong nội tế bào và làm chết tế bào nấm. Terbinafine phát huy tác dụng bằng cách ức chế squalene epoxidase trong màng tế bào nấm. Men squalene epoxidase này không gắn kết với hệ thống cytochrome P450. Terbinafine không gây ảnh hưởng tới sự chuyển hóa của các hormon hay các thuốc khác.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Ở cơ thể người, dưới 5% liều dùng được hấp thu sau khi bôi thuốc tại chỗ. Vì vậy, tác dụng toàn thân rất nhẹ. Các chất chuyển hóa thông qua quá trình chuyển hóa sinh học không có tác dụng kháng nấm và được đào thải chủ yếu qua phân và nước tiểu. Thời gian bán thải là 17 giờ. Không có bằng chứng về tích lũy thuốc.

CHỈ ĐỊNH

Nhiễm nấm da gây ra bởi các loại nấm như Trichophyton (T. rubum, T. mentagrophytes, T. vurrucosum, T. violaceum), Microsporum canis và Epidermophyton foccosum.

Nhiễm nấm men ở da, đặc biệt gây ra bởi nấm Candida (như Candida albicans). Lang ben do Pityrosporum orbiculare (được biết đến như Malassezia furfur).

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Mẫn cảm với terbinafine hay với bất cứ thành phần tá dược nào của thuốc.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Lamisil dạng kem chỉ để dùng ngoài. Tránh để thuốc tiếp xúc với mắt.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Các nghiên cứu về sự sinh sản trên động vật không chỉ ra tác dụng độc hại nào của thuốc, nhưng chưa có thử nghiệm kiểm chứng nào được thực hiện trên phụ nữ có thai. Vì vậy, không nên dùng thuốc cho phụ nữ có thai trừ khi lợi ích điều trị vượt trội những nguy cơ có thể xảy ra. Terbinafine được bài tiết qua sữa mẹ và mặc dù với lượng hấp thu ít vẫn không nên dùng thuốc trong thời kỳ cho con bú.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Chưa có sự tương tác thuốc nào được biết đến với Lamisil dạng kem.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Mẩn đỏ, ngứa, cảm giác kiến đốt đôi khi xảy ra tại chỗ dùng thuốc nhưng rất ít khi phải ngừng điều trị vì lý do này. Các phản ứng vô hại này cần phải được phân biệt với các phản ứng dị ứng đòi hỏi phải ngừng điều trị.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Có thể bôi kem 1-2 lần mỗi ngày. Rửa sạch và lau khô vùng da bị nhiễm nấm trước khi dùng thuốc. Bôi một lớp kem mỏng vào vùng da bị nhiễm nấm và vùng da xung quanh rồi thoa nhẹ. Trong các trường hợp nhiễm nấm có trầy (hăm) da (kẽ vú, kẽ ngón chân, ngón tay, kẽ mông, bẹn) nên phủ lớp thuốc bôi bằng một gạc mỏng, nhất là về ban đêm.

Thời gian điều trị:

Nấm da thân, nấm da đùi: 1 tuần. Nấm da chân: 1 tuần.

(Thông thường chỉ điều trị 1 tuần là đủ nếu bôi thuốc 2 lần mỗi ngày). Nấm Candida ở da: 1 tuần.

Lang ben: 2 tuần.

Các triệu chứng lâm sàng thường thuyên giảm sau vài ngày điều trị, với điều kiện không bị tái nhiễm. Cần phải điều trị đều đặn và đủ thời gian. Nếu không có dấu hiệu cải thiện sau 2 tuần điều trị thì cần xem xét lại chẩn đoán.

Dùng thuốc ở người già:

Không có bằng chứng cho thấy sự khác biệt về liều dùng hay tác dụng phụ giữa người già và trẻ. Dùng thuốc ở trẻ em:

Kinh nghiệm dùng Lamisil tại chỗ đối với trẻ em còn hạn chế, vì vậy chưa thể đưa ra khuyến cáo cho đối tượng này.

Lưu ý chung:

Việc giữ vệ sinh tốt là cần thiết và phải luôn luôn đi kèm với việc sử dụng Lamisil để tránh tái nhiễm nấm (như từ quần áo lót, vớ (tất), giày…).

QUÁ LIỀU

Chưa có trường hợp quá liều nào được biết đến.

Cách chữa Mụn cóc – Mụn cơm tại nhà

Mụn cóc là một loại mụn lành tính mọc trên da do siêu vi trùng xâm nhập vào da gây ra phản ứng làm tăng tế bào. Sau khi siêu vi trùng xâm nhập vào da khoảng 4 tháng sau mới phát bệnh. Mụn cóc trên da có nhiều loại, nhưng có 3 loại thường gặp nhất.

Mụn cóc bình thường: còn gọi là thiên nhật thương. Thường thấy ở thanh thiếu niên. Những mụn nhỏ có chất sừng bằng hạt thóc hoặc hạt đậu, hình bán nguyệt, cứng, màu nâu hoặc như màu da bình thường, trên đầu mụn có thể toè ra như nhuỵ hoa hoặc nhọn như mũi dùi, mới đầu chí có một chiếc, dần dần tăng lên nhiều chiếc, thỉnh thoảng có mụn đụng vào cảm thấy đau.

Mụn cóc dưới bàn chân: mọc ở dưới bàn chân, mụn to tới 4-5 cm, hình dẹt, màu vàng, chất sừng khá dầy, có mụn ấn vào thấy đau. Dưới lớp sừng có một ruột sừng mềm.

Mụn cóc dẹt: có loại đầu nhọn hình tròn bằng hạt đậu xanh, hoặc có loại dẹt không theo quy cách nào, màu nâu nhạt hoặc màu da, thường mọc ở mặt hoặc mu bàn tay, thường thấy ở thanh thiếu niên.

Nội dung chữa bệnh Mụn cóc

Mụn cóc mọc trong khoảng 2-3 năm thì tự mất đi, nhưng cũng có nhiều người chỗ này khỏi lại mọc chỗ khác. Vì vậy phải kiên trì chữa bệnh.

Số lượng mụn cóc ít chỉ cần chữa bệnh bên ngoài là được, nếu số lượng nhiều, mọc đi mọc lại thì phải chữa bệnh bằng phương pháp đông y.

Tâm tình u uất, hay cáu gắt cũng có thể làm cho mụn cóc phát triển. Có một số bệnh nhân không cần chữa bệnh bằng dược liệu mà dùng phương pháp chữa bệnh ám thị trực tiếp hoặc gián tiếp mà mụn cóc vẫn khỏi, như vậy rõ ràng là tinh thần và mụn cóc có quan hệ nhất định. Vì vậy thế giới tinh thần của người bệnh phải thật yên tĩnh thoải mái.

Kiêng rượu và các thứ cay đắng. Ăn nhiều rau quả tươi, bảo đảm đầy đủ vi ta min, cần phải giữ cho đại tiện dễ dàng.

Khi số lượng mụn cóc tăng nhiều, dùng phương pháp bôi thuốc bên ngoài, không cần bôi thuốc tất cả các mụn, chỉ cần bôi thuốc vào chiếc mụn cái, đó là mụn mọc sớm nhất. Mụn này khỏi thì tất cả các mụn khác cũng khỏi theo.

Phương pháp chữa bệnh Mụn cóc

Phương thuốc hiệu nghiệm.

  1. Bột tam thất tươi, mỗi lần uống 1 gam, ngày 3 lần.
  2. Hoa hồng, mỗi lần 6 gam, pha nước uống thay trà.
  3. Thổ phục linh, nhân ý dĩ, bản lam căn, sinh địa, mỗi thứ 15 gam, sơn đậu căn, cỏ mộc tặc, mỗi thứ 10 gam, ngày 1 thang, sắc làm 2 lần.

Phương pháp ăn uống.

Nhân ý dĩ tươi 60 gam, bản lam căn 30 gam, sài hồ 10 gam, nấu chín , bỏ bã, cho đường vào uống.

Điều trị bên ngoài.

  1. Lấy đầu đen que diêm sát vào mật mụn cóc, làm cho mặt mụn cóc đỏ lên là được.
  2. Lấy dầu thanh hương bôi lên mặt mụn cóc, lấy khói thuốc lá hơ lên mặt mụn cóc, ngày nhiều lần.
  3. Lấy lá ngải tươi giã nhỏ lấy nước sát vào mụn cóc, sát đi sát lại cho da đỏ lên, ngày nhiều lần.
  4. Lấy nước dãi bò bôi vào mụn cóc.
  5. Lấy bột lá ngải vê bằng hạt gạo, đặt trên mụn cóc (nếu không đặt được lấy tí mỡ dính vào mụn cóc) sau đó đốt viên bột ngải, viên bột ngải cháy gần đến da, sẽ có cảm giác đau. cố gắng chịu đựng, nếu không chịu được thì lấy ngón tay gẩy đi. Mỗi lần cứu 5 viên, ngày 1 lần. Nếu chỗ nào không tiện cứu bột lá ngải hoặc nhiều mụn quá thì đốt bột lá ngải đê xông khói cũng được, ngày 1 lần.

Mụn cóc cần lưu ý.

  1. Có người vì sợ mụn cóc ảnh hưởng tới sắc đẹp, nên đã không sợ đau dùng dao cắt đi, như vậy không những không trị tận gốc, mà gây viêm nhiễm hoặc vết sẹo càng to hơn.
  1. Mụn cóc ở dưới bàn chân tưởng nhầm là mắt cá. Mắt cá số lượng ít, thường mọc ở chỗ cọ sát nhiều, dùng lực nhiều, diện tích lớn, thường ăn sâu vào da chân, cắt lớp da dầy ở bên ngoài không thấy đau. Hai bệnh này cần phải phân biệt rõ ràng.

Sốc giảm thể tích tuần hoàn ở trẻ em

  1. ĐẠI CƯƠNG

Sốc giảm thể tích tuần hoàn là loại sốc đặc trưng bởi tưới máu tổ chức không thỏa đáng do giảm nặng thể tích dịch trong lòng mạch. Nguyên nhân của bệnh có thể do mất dịch hoặc cung cấp dịch không đầy đủ. Khi cơ thể còn bù trừ được (biểu hiện nhịp tim nhanh, tăng sức cản mạch hệ thống, tăng co bóp cơ tim) HA vẫn duy trì trong giới hạn bình thường, nếu HA giảm thể tích dịch trong lòng mạch có thể mất ≥ 30%, vì vậy khi HA giảm là sốc đã ở giai đoạn muộn

  1. NGUYÊN NHÂN

  • Mất dịch trong lòng mạch:
    • Mất máu do chấn thương, xuất huyết
    • Thoát dịch ra tổ chức kẽ
    • Mất dịch vào khoang thứ 3: do viêm tụy, tắc ruột non, lồng ruột, cổ chướng, hội chứng thận hư
  • Mất dịch ngoài lòng mạch:
    • Nôn nhiều
    • Ỉa chảy mất nước
    • Tiểu nhiều do tăng áp lực thẩm thấu (tăng đường máu, đái nhạt do yên), suy tuyến thượng thậ
    • Sử dụng thuốc lợi tiểu
  • Mất nước vô hình:

Thở nhanh, sốt cao, bỏng mức độ vừa và nặng

  • Không ăn uống được:

Viêm niêm mạc miệng, viêm loét họng, chán ăn uống

  1. CHẨN ĐOÁN

Thăm khám lâm sàng

  • Triệu chứng lâm sàng của sốc giảm thể tích tuần hoàn bao gồm các dấu hiệu của sốc, kèm theo các biểu hiện giảm tưới máu não và giảm tưới máu ngoại biên.
    • Dấu hiệu giảm tưới máu não: ở giai đoạn sốc sớm trẻ thay đổi ý thức trẻ kích thích nhưng tỉnh, giai đoạn muộn vật vã li bì hoặc hôn mê.
  • Đo tĩnh mạch trung tâm (CVP) giảm < 5 cmH2O
  • Dấu hiệu giảm tưới máu ngoại biên: giai đoạn sớm còn bù trừ mạch nhanh rõ, HA trong giới hạn bình thường hoặc tăng nhẹ, thời gian làm đầy mao mạch (refill) < Ở giai đoạn muộn mạch nhanh nhỏ, khó bắt hoặc không bắt được. Nhịp tim nhanh, chi lạnh, da ẩm, vã mồ hôi, refill kéo dài >2s, huyết áp giảm và kẹt, thiểu niệu hoặc vô niệu.
  • Các dấu hiệu của bệnh chính là nguyên nhân gây sốc giảm thể tích có thể phát hiện được khi thăm khám bao gồm:
    • Nôn hoặc ỉa chảy có dấu hiệu mất nước nặng kèm rối loạn rối loạn điện giải có thể do viêm dạ dày ruột do virus.
    • Dấu hiệu thiếu máu: da xanh, niêm mạc nhợt kèm tiền sử chấn thương thường là nguyên nhân sốc giảm thể tích do mất máu.
    • Dấu hiệu mất nước nặng kèm tăng natri máu có thể do đái tháo nhạt
    • Dấu hiệu đặc trưng của sốc giảm thể tích là có dấu hiệu trương lực mạch yếu (narrow pulse pressures) nguyên nhân huyết áp tâm trương tăng do tăng sức cản mạch hệ thống.
    • Dấu hiệu điển hình của mất dịch có thể không điển hình ở trẻ mất nước ưu trương (mất dịch nhược trương) có thể là viêm dạ dày ruột do rotavirus và đái nhạt do tuyến yên hoặc ở trẻ bụ bẫm.
    • Bụng chướng, gõ đục vùng thấp, dấu hiệu thiếu máu, có tiền sử chấn thương bụng có thể tổn thương tạng gây chảy máu trong ổ bụng.
    • Bụng chướng, nôn, có phản ứng, hoặc các dấu hiệu rắn bò có thể do tắc ruột, hoặc không có hậu môn.
    • Bệnh nhân bị bỏng nặng gây tăng nguy cơ mất nước do thoát huyết tương.

Cận lâm sàng

  • Công thức máu: tình trạng cô đặc máu (Hb và hematocrit tăng), chú ý khi trẻ bị thiếu máu.
  • Đường máu: thường giảm ở bệnh nhi sốc giảm thể tích do viêm dạ dày ruột, ngược lại đường máu thường tăng ở bệnh nhân sốc giảm thể tích do bỏng nặng hoặc chấn thương nặng hoặc tiểu nhiều do tăng áp lực thẩm thấu
  • Điện giải đồ, Khí máu.
  • Lactat máu giúp cho tiên lượng sốc, nếu > 5mmol/l tăng nguy cơ tử vong.
  • Đông máu (số lượng tiểu cầu, PT, aPTT, INR và Fibrinogen) xét nghiệm đông máu ở những bệnh nhân đang chảy máu có thể giúp chẩn đoán một số nguyên nhân gây chảy máu như: xuất huyết giảm tiểu cầu, suy gan, sử dụng thuốc chống đông).
  • Định nhóm máu ABO/Rh (tùy theo nguyên nhân)
  • Xét nghiệm nước tiểu giúp chẩn đoán nguyên nhân tiểu đường hoặc đái nhạt.

Các xét nghiệm khác :

– Chẩn đoán hình ảnh: chụp x quang phổi, siêu âm ổ bụng, CT có giúp chẩn đoán nguyên nhân chấn thương, tràn dịch màng phổi màng tim, viêm tụy.

– Xét nghiệm giúp theo dõi biến chứng: chức năng gan thận.

  • Chẩn đoán xác định
    • Lâm sàng: khi trẻ có tình trạng sốc kèm với dấu hiệu mất nước/mất máu cấp và nặng (bảng 1 và 2)
    • Xét nghiệm: cô đặc máu với Hb và Hct tăng, hoặc giảm áp lực keo nặng với protein và albumin huyết thanh giảm nặng.
    • Đo áp lực tĩnh mạch trung tâm (CVP) giảm nặng.
    • Sau bù đủ thể tích tuần hoàn trẻ thoát sốc

Bảng 1. Dấu hiệu lâm sàng theo mức độ mất nước ở trẻ em

Triệu chứng Nhẹ Trung bình Nặng
Mạch BT Nhanh Rất nhanh, yếu hoặc không bắt được
HATT BT BT hoặc giảm Giảm
Nhịp thở BT Thở nhanh sâu Rối loạn nhịp thở/ngừng thở
Niêm mạc miệng ẩm khô Khô
Thóp BT Trũng Trũng sâu
Mắt BT Trũng Trũng sâu
Đàn hồi da BT Kéo dài Kéo dài
Da BT Lạnh Lạnh ẩm tím tái
Nước tiểu BT hoặc giảm nhẹ Giảm Thiểu niệu/vô niệu
Tinh thần Khát ít Khát nhiều, kích thích Li bì, hôn mê

Bảng 2. Dấu hiệu lâm sàng theo mức độ sốc mất máu trẻ em

 

Dấu hiệu

Độ I (nhẹ) Độ II

(trung bình)

Độ 3 (nặng) Độ IV

(rất nặng)

Thể tích máu mất < 15 % 15 – 30% 30 – 40 % >40%
Nhịp tim BT Tăng nhẹ Nhanh Rất nhanh
Nhịp thở BT Tăng nhẹ Nhanh Rất nhanh rối loạn nhịp thở/ngừng thở
HA BT/tăng nhẹ BT/giảm nhẹ Giảm Giảm nhiều/không đo được
Mạch BT BT/mạch biên nhỏ Yếu, khó bắt Không bắt được kể cả mạch lớn
Da Ấm, hồng Lạnh ngoại biên, ẩm Lạnh ẩm ngoại biên, tím Lạnh ngoại biên kèm tím tái
Refill < 2s >2s Kéo dài Kéo dài
Tinh thần Kích thích nhẹ Giảm nhẹ Rất kích thích, li bì, lơ mơ Hôn mê
Nước tiểu BT Giảm nhẹ Giảm nhiều Vô niệu
  • Chẩn đoán phân biệt
    • Sốc nhiễm trùng: có kèm giảm thể tích tuần hoàn: bệnh nhi có hội chứng đáp ứng viêm hệ thống, có nhiễm khuẩn nặng (xem bài sốc nhiễm trùng).
    • Sốc phản vệ: tiền sử tiếp xúc dị nguyên, có dấu hiệu số Có những trường hợp khó vì trong sốc phản vệ cũng có giảm thể tích, đặc biệt khó phân biệt ở giai đoạn muộn.
    • Sốc tim: áp lực tĩnh mạch trung tâm thường tăng, cung lượng tim và sức co bóp cơ tim giảm, có biểu hiện bệnh lý tại tim
  • Chẩn đoán mức độ sốc
    • Sốc còn bù: trẻ kích thích, mạch nhanh, HA bình thường hoặc kẹt
    • Sốc nặng mất bù: trẻ li bì, hôn mê, mạch nhỏ hoặc không bắt được, HA giảm/hoặc không đo được, tiểu ít hoặc không có nước tiểu
  1. XỬ TRÍ

    • Nguyên tắc
      • Duy trì chức năng sống theo ABCs
      • Khẩn trương bù lại thể tích tuần hoàn đã mất, giám sát dịch tiếp tục mất, điều chỉnh nội môi.
      • Điều trị nguyên nhân.
    • Xử trí cụ thể

Xử trí ban đầu

Mục tiêu điều trị trong giờ đầu

  • Mạch trở về bình thường theo tuổi
  • HA tâm thu ≥ 60 mmHg với trẻ < 1 tháng, ≥ 70 mmHg + [2 x tuổi (năm)] với trẻ từ 1 – 10 tuổi, và ≥ 90 mmHg với trẻ > 10 tuổi
  • Thời gian đầy mao mạch < 2s
  • Tinh thần về bình thường
  • Nước tiểu ≥ 1 ml/kg/h
  • Chống suy hô hấp
    • Thông thoáng đường thở, kê gối dưới vai, đầu thấp.
    • Cho thở oxy lưu lượng cao 5- 10 lít/ph (100%). Nếu không cải thiện, môi đầu chi tím, Sp02 < 92% hoặc sốc nặng: đặt ống nội khí quản hỗ trợ hô hấp.
  • Tuần hoàn: Thiết lập đường truyền tĩnh mạch ngoại biên hoặc truyền trong xương/bộc lộ ven nếu không lấy được ven
  • Truyền 20 ml/kg dung dịch Ringer lactat hoặc Natriclorua 0,9% trong 5- 15 phút. Có thể bơm dịch nhanh trong trường hợp sốc nặng. Đánh giá lại sau mỗi liều dịch truyền, có thể nhắc lại liều trên nếu cần, lượng dich truyền có thể tới 40 – 60 ml/kg trong giờ đầu. Từ liều dịch thứ hai cần chú ý quá tải dịch (ran phổi, gan to ra), hoặc nếu bệnh nhân không đáp ứng có thể sử dụng dung dịch cao phân tử/albumin 4,5% cho những bệnh nhân sốc giảm thể tích không phải do mất nước đơn thuần (do mất máu, viêm dạ dày ruột, viêm tụy, tắc ruột…), liều lượng dung dịch cao phân tử cho bệnh nhân sốc mất máu là 3ml cho mỗi ml máu mất (nếu chưa có máu), tốt nhất là truyền máu.
  • Chú ý điều trị rối loạn đường máu

Điều trị tiếp theo

  • Nếu thoát sốc tiếp tục truyền dịch duy trì trong ngày tùy theo mức độ thiếu hụt + lượng dịch tiếp tục mất + lượng dịch nhu cầu và chú ý điều trị rối loạn điện giải nếu có
  • Nếu bệnh nhân sốc giảm thể tích đơn thuần sẽ thoát sốc sau khi điều trị bước đầu. Nếu sốc không cải thiện sau truyền dung dịch đẳng trương với liều 60 ml/kg cần thăm khám tìm các nguyên nhân sốc khác và điều trị theo nguyên nhân như:

+ Sốc do mất máu: cần truyền khối hồng cầu cùng nhóm với liều 10 ml/kg, đưa Hb >= 10 g% Hct >= 30%.

+ Sốc giảm thể tích như: bỏng, hoặc mất dịch do tăng tính thấm thành mạch (tắc ruột, viêm tụy cấp), thường khó xác định chính xác lượng dịch mất

+ Cần truyền dung dịch keo trong những trường hợp thể tích trong động mạch giảm do áp lực keo thấp do giảm albumin, hội chứng thận hư

  • Điều trị theo nguyên nhân:

+ Nếu sốc do mất máu: cầm máu tại chỗ, hoặc phẫu thuật nếu có chỉ định phẫu thuật để ngăn ngừa lượng dịch tiếp tục mất

+ Sốc giảm thể tích do các nguyên nhân khác: điều trị bệnh chính

  • Theo dõi điều trị các biến chứng nếu có: rối loạn điện giải, suy chức năng đa cơ

Aliqopa (copanlisib) là gì và hoạt động như thế nào?

Tác dụng phụ, Liều dùng, Tương tác, Cảnh báo

Thuốc gốc: Copanlisib
Tên thương hiệu: Aliqopa

Aliqopa là thuốc kê đơn được sử dụng để điều trị cho người lớn mắc bệnh u lympho nang (FL) khi bệnh đã tái phát sau khi điều trị bằng ít nhất hai loại thuốc trước đó.

Tác dụng phụ của Aliqopa là gì?

Aliqopa có thể gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng, bao gồm:

  • Nhiễm trùng: Aliqopa có thể gây ra nhiễm trùng nghiêm trọng, có thể dẫn đến tử vong. Nhiễm trùng nghiêm trọng phổ biến nhất là viêm phổi. Hãy báo ngay cho nhà cung cấp dịch vụ y tế nếu bạn bị sốt hoặc bất kỳ dấu hiệu nào của nhiễm trùng trong quá trình điều trị với Aliqopa.
  • Đường huyết cao (tăng đường huyết): Tăng đường huyết thường xảy ra sau khi truyền Aliqopa và đôi khi có thể nghiêm trọng. Báo cho nhà cung cấp dịch vụ y tế nếu bạn có các triệu chứng của tăng đường huyết trong quá trình điều trị. Các triệu chứng có thể bao gồm:
    • Cảm thấy rất đói
    • Đau đầu
    • Cảm thấy rất khát
    • Đi tiểu thường xuyên
  • Huyết áp cao (tăng huyết áp): Huyết áp cao phổ biến sau khi truyền Aliqopa và đôi khi có thể nghiêm trọng.
  • Vấn đề về phổi hoặc hô hấp: Nhà cung cấp dịch vụ y tế có thể thực hiện các xét nghiệm kiểm tra phổi nếu bạn có vấn đề về hô hấp trong quá trình điều trị với Aliqopa. Hãy báo ngay nếu bạn gặp phải ho mới hoặc xấu đi, khó thở hoặc gặp vấn đề về hô hấp.
  • Giảm bạch cầu trung tính: Giảm số lượng bạch cầu trung tính thường xảy ra với điều trị bằng Aliqopa và đôi khi có thể nghiêm trọng. Nhà cung cấp dịch vụ y tế sẽ kiểm tra số lượng tế bào máu thường xuyên trong quá trình điều trị. Hãy báo ngay nếu bạn bị sốt hoặc có bất kỳ dấu hiệu nhiễm trùng nào.
  • Phản ứng da nghiêm trọng: Lột da, phát ban và ngứa là những tác dụng phụ phổ biến với Aliqopa và đôi khi có thể nghiêm trọng. Hãy báo cho nhà cung cấp dịch vụ y tế nếu bạn gặp phải lột da, ngứa hoặc phát ban trong quá trình điều trị. Nhà cung cấp có thể tạm ngừng điều trị, giảm liều, hoặc ngừng điều trị hoàn toàn nếu phản ứng da nghiêm trọng.

Các tác dụng phụ phổ biến nhất của Aliqopa bao gồm:

  • Giảm số lượng bạch cầu (leukopenia)
  • Giảm tiểu cầu trong máu (giảm tiểu cầu)
  • Tiêu chảy
  • Giảm sức mạnh và mệt mỏi
  • Nhiễm trùng đường hô hấp dưới
  • Buồn nôn

Đây không phải là tất cả các tác dụng phụ có thể xảy ra của Aliqopa. Hãy gọi cho bác sĩ của bạn để nhận lời khuyên y tế về các tác dụng phụ.

Liều dùng của Aliqopa là gì?

Liều khuyến cáo của Aliqopa là 60 mg, được truyền tĩnh mạch trong vòng 1 giờ vào các ngày 1, 8 và 15 của chu kỳ điều trị 28 ngày theo lịch trình gián đoạn (ba tuần điều trị, một tuần nghỉ). Tiếp tục điều trị cho đến khi bệnh tiến triển hoặc gặp phải độc tính không thể chấp nhận được.

Điều chỉnh liều cho suy gan trung bình

Giảm liều Aliqopa xuống còn 45 mg ở bệnh nhân suy gan trung bình (Child-Pugh B).

Điều chỉnh liều khi sử dụng cùng với chất ức chế mạnh CYP3A

Giảm liều Aliqopa xuống còn 45 mg nếu phải sử dụng chất ức chế mạnh CYP3A. Sử dụng đồng thời Aliqopa với các chất ức chế mạnh CYP3A làm tăng sự phơi nhiễm copanlisib (AUC) và có thể làm tăng nguy cơ gặp phải độc tính.

Điều chỉnh liều do độc tính

Quản lý các độc tính theo Bảng 1 bằng cách giảm liều, trì hoãn điều trị hoặc ngừng Aliqopa. Ngừng điều trị Aliqopa nếu xảy ra độc tính nguy hiểm đến tính mạng liên quan đến thuốc.

Bảng 1: Điều chỉnh liều và Quản lý độc tính

Độc tính Mức độ Phản ứng Bấta Hướng dẫn Quản lý Khuyến nghị
Nhiễm trùng Độ 3 trở lên Tạm ngừng sử dụng Aliqopa cho đến khi tình trạng hồi phục.
Nghi ngờ nhiễm trùng phổi do pneumocystis jiroveci (PJP) ở bất kỳ độ nào Độ bất kỳ Tạm ngừng Aliqopa. Nếu xác nhận nhiễm trùng, điều trị cho đến khi khỏi hoàn toàn, sau đó tiếp tục Aliqopa với liều trước đó và dùng thuốc dự phòng PJP.
Tăng đường huyết Đường huyết lúc đói ≥ 160 mg/dL hoặc đường huyết ngẫu nhiên/không đói ≥ 200 mg/dL Tạm ngừng Aliqopa cho đến khi đường huyết lúc đói <160 mg/dL hoặc đường huyết ngẫu nhiên/không đói <200 mg/dL.
Đường huyết trước hoặc sau liều ≥ 500 mg/dL Lần đầu: Tạm ngừng Aliqopa cho đến khi đường huyết lúc đói <160 mg/dL hoặc đường huyết ngẫu nhiên/không đói <200 mg/dL. Sau đó giảm Aliqopa từ 60 mg xuống 45 mg. Nếu xảy ra lần sau, giảm tiếp xuống 30 mg. Nếu tiếp tục tại mức 30 mg, ngừng Aliqopa.
Tăng huyết áp Huyết áp trước liều ≥ 150/90 mmHgc Tạm ngừng Aliqopa cho đến khi huyết áp <150/90 mmHg (dựa trên hai lần đo liên tiếp cách nhau ít nhất 15 phút).
Huyết áp sau liều ≥ 150/90 mmHgc (không nguy hiểm đến tính mạng) Nếu không cần điều trị hạ huyết áp, tiếp tục Aliqopa với liều trước đó. Nếu cần điều trị hạ huyết áp, xem xét giảm liều Aliqopa từ 60 mg xuống 45 mg hoặc từ 45 mg xuống 30 mg. Ngừng Aliqopa nếu huyết áp không kiểm soát được (>150/90).
Tăng huyết áp sau liều có hậu quả nguy hiểm đến tính mạng Ngừng Aliqopa.
Viêm phổi không nhiễm trùng (NIP) Độ 2 Tạm ngừng Aliqopa và điều trị NIP. Nếu NIP phục hồi đến Độ 0 hoặc 1, tiếp tục Aliqopa ở liều 45 mg. Nếu NIP Độ 2 tái phát, ngừng Aliqopa.
Viêm phổi không nhiễm trùng (NIP) Độ 3 trở lên Ngừng Aliqopa.
Giảm bạch cầu trung tính ANC từ 0.5 đến 1.0 x 103 tế bào/mm³ Duy trì liều Aliqopa. Theo dõi ANC ít nhất hàng tuần.
ANC dưới 0.5 x 103 tế bào/mm³ Tạm ngừng Aliqopa cho đến khi ANC ≥ 0.5 x 103 tế bào/mm³, sau đó tiếp tục Aliqopa với liều trước đó. Nếu tái phát, giảm Aliqopa xuống 45 mg.
Phản ứng da nghiêm trọng Độ 3 Tạm ngừng Aliqopa cho đến khi độc tính được giải quyết và giảm Aliqopa từ 60 mg xuống 45 mg hoặc từ 45 mg xuống 30 mg.
Nguy hiểm đến tính mạng Ngừng Aliqopa.
Giảm tiểu cầu <25 x 109/L Tạm ngừng Aliqopa; tiếp tục khi mức tiểu cầu trở lại ≥75.0 x 109/L. Nếu hồi phục trong 21 ngày, giảm liều Aliqopa từ 60 mg xuống 45 mg hoặc từ 45 mg xuống 30 mg. Nếu không hồi phục trong 21 ngày, ngừng Aliqopa.
Các độc tính nghiêm trọng và không đe dọa tính mạng khác Độ 3 Tạm ngừng Aliqopa cho đến khi độc tính được giải quyết và giảm Aliqopa từ 60 mg xuống 45 mg hoặc từ 45 mg xuống 30 mg.

 

Ghi chú:

  • a: Đảm bảo có ít nhất 7 ngày giữa hai lần truyền liên tiếp.
  • b: Các tiêu chí về thuật ngữ phổ biến của Viện Ung thư Quốc gia cho các sự kiện bất lợi (NCI-CTCAE) v4.03.
  • c: Cần cả huyết áp tâm thu <150 mmHg và huyết áp tâm trương <90 mmHg.

Những thuốc nào tương tác với Aliqopa?

Ảnh hưởng của thuốc khác đến Copanlisib

Bảng 4 liệt kê các tác động tiềm năng của việc dùng đồng thời Aliqopa với các chất ức chế và gây cảm ứng CYP3A mạnh.

Bảng 4: Tương tác thuốc với Aliqopa ảnh hưởng đến nồng độ Copanlisib

Các chất gây cảm ứng CYP3A mạnh
Tác động lâm sàng
  • Việc sử dụng đồng thời Aliqopa với các chất gây cảm ứng CYP3A mạnh có thể
    làm giảm AUC và Cmax của copanlisib.
Quản lý phòng ngừa
  • Tránh sử dụng đồng thời Aliqopa với các chất gây cảm ứng CYP3A mạnh
Các chất ức chế CYP3A mạnh
Tác động lâm sàng
  • Việc sử dụng đồng thời Aliqopa với các chất ức chế CYP3A mạnh
    làm tăng AUC của copanlisib.
  • Sự tăng lên của AUC copanlisib có thể làm tăng nguy cơ xảy ra phản ứng bất lợi
Quản lý phòng ngừa
  • Nếu không thể tránh được việc sử dụng đồng thời với các chất ức chế CYP3A mạnh,
    hãy giảm liều Aliqopa xuống 45 mg

 

Aliqopa có an toàn khi sử dụng trong thời kỳ mang thai hoặc cho con bú không?

  • Dựa trên các phát hiện từ các nghiên cứu trên động vật và cơ chế tác dụng, Aliqopa có thể gây hại cho thai nhi khi được sử dụng ở phụ nữ mang thai.
  • Hiện không có dữ liệu về sự hiện diện của copanlisib và/hoặc các chuyển hóa trong sữa mẹ, tác động đến trẻ bú mẹ hoặc ảnh hưởng đến sản xuất sữa.
  • Sau khi cho chuột mẹ đang cho con bú dùng copanlisib được đánh dấu phóng xạ, khoảng 2% độ phóng xạ được bài tiết vào sữa; tỷ lệ độ phóng xạ trong sữa so với huyết tương là 25 lần.
  • Vì có khả năng xảy ra các phản ứng bất lợi nghiêm trọng ở trẻ bú mẹ do copanlisib, khuyên phụ nữ đang cho con bú không nên cho con bú trong thời gian điều trị bằng Aliqopa và ít nhất 1 tháng sau liều cuối cùng.

Tóm tắt

Aliqopa là thuốc kê đơn được sử dụng để điều trị cho người lớn mắc bệnh lympho nang (FL) khi bệnh đã tái phát sau khi điều trị bằng ít nhất hai loại thuốc trước đó. Các tác dụng phụ nghiêm trọng của Aliqopa bao gồm nhiễm trùng, đường huyết cao (tăng đường huyết), huyết áp cao (tăng huyết áp), số lượng bạch cầu thấp (giảm bạch cầu trung tính) và các phản ứng da nghiêm trọng.

Kỹ thuật thử phản ứng thuốc – Test thuốc kháng sinh

Kỹ thuật thử phản ứng thuốc – Test thuốc kháng sinh

KỸ THUẬT THỬ PHẢN ỨNG THUỐC (THỬ TEST LẨY DA KHÁNG SINH)

Test lẩy da là test khá chính xác, tương đối an toàn và dễ làm để đề phòng sốc phản vệ.

KỸ THUẬT TEST PHẢN ỨNG THUỐC

– Nhỏ một giọt dung dịch kháng sinh( penixilin hoặc Streptomycin) nồng độ 100.000 đơn vị /ml lên mặt da( 1 gam Streptomycin tương đương 1 triệu đơn vị).

– Cách đó 3-4 cm nhỏ một giọt dung dịch muối sinh lý( Nacl 0,9%) làm chứng.

– Dùng kim tiêm vô khuẩn ( số 24) châm vào 2 giọt trên ( mỗi giọt dùng một kim I riêng) qua lớp thượng bì, tạo với mặt da một góc 45o rồi lẩy nhẹ, không được làm chảy máu. Sau 20 phút đọc và đánh giá kết quả.

ĐỌC KẾT QUẢ TEST THỬ PHẢN ỨNG

Mức độ Ký hiệu Biểu hiện

Âm tính – Giống như chứng âm tính

Nghi ngờ +/- Ban sẩn đường kính < 3mrn

Dương tính nhẹ + Đường kính ban sẩn 3-5mm, ngứa, xung huyết

Dương tính vừa ++ Đường kính ban sẩn 6-8mrn, ngứa, ban đỏ

Dương tính mạnh +++ Đường kính ban sẩn 9-12mm, ngứa, chân giả

Dương tính rất mạnh ++++ Đường kính >12mm, ngứa nhiều, nhiều chân giả

Chủ ý: – Không dược làm test lẩy da khi người bệnh:

+ Đang có cơn dị ứng cấp tính( viêm mũi, mày đay, phù Quincke, hen phế quản…)

+ Phụ nữ có thai.

– Trước khi làm test lẩy da, chuẩn bị sẩn sàng các phương tiện cấp cứu sốc phản vệ

Kỹ thuật làm test trong da của Đại học Y Hà Nội

Triệu chứng và điều trị bệnh sợ độ cao

Bệnh độ cao có thể xảy ra khi bạn ở độ cao cao. Nó thường cải thiện trong vài ngày với việc nghỉ ngơi, nhưng đôi khi có thể trở nên nguy hiểm đến tính mạng và cần điều trị.

Kiểm tra xem bạn có nguy cơ mắc bệnh độ cao không

Bạn có thể mắc bệnh độ cao nếu bạn ở nơi có độ cao cao (thường là trên 2,500 mét so với mực nước biển).

Bạn có nhiều khả năng mắc bệnh nếu bạn di chuyển hoặc leo lên độ cao nhanh chóng.

Bạn có thể gặp bệnh này ở những nơi như:

  • Núi Everest ở Nepal
  • Núi Kilimanjaro ở Tanzania
  • Một số địa điểm ở dãy Alps
  • La Paz ở Bolivia

Thông tin:

Kiểm tra nguy cơ du lịch

Bạn có thể kiểm tra xem có nguy cơ mắc bệnh độ cao ở một quốc gia hoặc địa điểm bạn đang du lịch bằng cách truy cập trang web TravelHealthPro.

Chứng sợ độ cao
Chứng sợ độ cao

Triệu chứng của bệnh độ cao

Triệu chứng của bệnh độ cao thường bắt đầu từ 6 đến 10 giờ sau khi ở độ cao cao.

Các triệu chứng chính bao gồm:

  • Đau đầu
  • Mất cảm giác thèm ăn
  • Cảm thấy buồn nôn hoặc nôn mửa
  • Cảm thấy mệt mỏi hoặc kiệt sức
  • Chóng mặt
  • Khó ngủ

Đôi khi, triệu chứng có thể phát triển thành các triệu chứng nghiêm trọng hơn có thể đe dọa đến tính mạng.

Những gì cần làm nếu bạn mắc bệnh độ cao

Nếu bạn ở độ cao cao và có triệu chứng của bệnh độ cao hoặc cảm thấy không khỏe:

  • Hãy cho ai đó bạn đang đi cùng biết rằng bạn không cảm thấy tốt
  • Nghỉ ngơi ở cùng một độ cao cho đến khi bạn cảm thấy tốt hơn – không đi hoặc leo lên độ cao cao hơn
  • Bạn có thể uống thuốc chống buồn nôn hoặc thuốc giảm đau như ibuprofen hoặc paracetamol để làm giảm triệu chứng

Triệu chứng của bệnh độ cao thường cải thiện trong vòng 1 đến 3 ngày.

Nếu triệu chứng của bạn đã hết và bạn cảm thấy tốt hơn, bạn có thể di chuyển hoặc leo lên độ cao cao hơn.

Quan trọng: Nếu triệu chứng của bạn không cải thiện

Nếu triệu chứng của bạn trở nên tồi tệ hơn hoặc không cải thiện sau 1 ngày, hãy cố gắng đến một độ cao thấp hơn nếu có thể. Hãy cố gắng xuống khoảng 300 đến 1,000 mét.

Lời khuyên khẩn cấp: Gọi trợ giúp y tế ngay lập tức nếu:

Bạn đang ở độ cao cao và bạn hoặc người khác:

  • Có triệu chứng của bệnh độ cao và cảm thấy rất không khỏe
  • Bị bối rối
  • Gặp vấn đề về cân bằng hoặc phối hợp
  • Nhìn thấy hoặc nghe thấy những thứ không có thực (ảo giác)
  • Cảm thấy khó thở, ngay cả khi đang nghỉ ngơi
  • Ho hoặc khạc ra đờm bọt hoặc có máu
  • Có da, môi, lưỡi hoặc móng tay xanh hoặc xám (trên da nâu hoặc đen, điều này có thể dễ dàng nhận thấy hơn ở lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân)
  • Rất buồn ngủ hoặc khó đánh thức

Hãy xuống một độ cao thấp hơn ngay lập tức (khoảng 300 đến 1,000 mét) nếu bạn có thể.

Điều trị bệnh độ cao

Bệnh độ cao thường cải thiện mà không cần điều trị nếu bạn nghỉ ngơi.

Bạn có thể được kê đơn thuốc để giúp giảm triệu chứng.

Nếu triệu chứng của bạn nghiêm trọng hơn, bạn có thể được cho:

  • Thuốc steroid
  • Thuốc hạ huyết áp
  • Oxy qua mặt nạ

Hiếm khi, bạn có thể cần được điều trị bằng oxy trong một buồng kín áp lực đặc biệt (buồng áp lực cao) để tăng mức oxy trong máu của bạn.

Cách giảm nguy cơ mắc bệnh độ cao

Có một số điều bạn có thể làm để giúp giảm nguy cơ mắc bệnh độ cao.

Nên làm:

  • Di chuyển hoặc leo lên độ cao cao một cách từ từ để cơ thể bạn có thời gian làm quen với mức oxy thấp hơn
  • Dành vài ngày ở độ cao dưới 2,500 mét trước khi đi cao hơn
  • Có một ngày nghỉ ở cùng một độ cao mỗi 3 đến 4 ngày (nếu bạn ở độ cao 3,000 mét hoặc cao hơn)
  • Uống đủ nước để tránh mất nước
  • Nói chuyện với bác sĩ hoặc phòng khám du lịch nếu bạn đã từng mắc bệnh độ cao trước đây hoặc nếu bạn đang di chuyển đến độ cao cao một cách nhanh chóng – họ có thể kê thuốc để giúp ngăn ngừa bệnh độ cao

Không nên làm:

  • Cố gắng không di chuyển từ độ cao dưới 1,200 mét lên độ cao trên 3,500 mét trong 1 ngày
  • Cố gắng không bay trực tiếp đến một nơi có độ cao cao – nếu điều này không thể, hãy nghỉ ngơi 1 ngày trước khi đi cao hơn
  • Cố gắng không ngủ ở độ cao cao hơn 500 mét so với độ cao mà bạn đã ngủ vào đêm trước (nếu bạn ở độ cao 3,000 mét hoặc cao hơn)
  • Không uống rượu khi di chuyển hoặc leo núi

Chế độ ăn uống của bà mẹ nuôi con bằng sữa mình

Trong thời gian nuôi con bằng sữa mình, người mẹ cần có cuộc sống yên tĩnh, tránh mọi công việc nhọc mệt, cần ngủ nhiều, có thể tập đi bộ hàng ngày nhưng tránh những môn thể thao mạnh cần sức lực. Trong những tuần đầu sau khi sinh, thường bà mẹ nào cũng cảm thấy nhu cầu được nghỉ ngơi.

Cần ăn hơn mức ngày thường, những thức ăn tươi, bổ, thay đổi món, ăn những thức ăn dễ tiêu. Khi còn mang thai, cần ăn để có 2.500 calo mỗi ngày. Sau khi sinh nở, người mẹ cần 3.000 calo mỗi ngày bởi vì, từ ngày thứ 15, cơ thể phải sản xuất tới 500 g sữa mỗi ngày.

Vậy, nên ăn thế nào ?

  • Bữa điểm tâm cũng nên ăn nhiều và đầy đủ hơn mọi khi với các món chất bột, trứng…
  • Ăn thêm sữa và các sản phẩm của sữa như phó-mát để cung cấp cho Bé đủ chất có canxi và phốtpho; cá, thịt; các loại trái cây, rau.

Trong thành phần sữa có tới 90% là nước. Bởi vậy, khi cho con bú, các bà mẹ thường cảm thấy khô miệng do mất nước. Nên uống mỗi ngày khoảng 3 lít : nước, sữa hoặc nước trái cây. Trong khi đang cho con bú, nên để một ly nước bên mình để thấy khát thì uống.Sữa công thức cho con

Trong thời gian cho con bú, nên TRÁNH :

  • Không dùng bất cứ loại thuốc gì nếu chưa có sự chỉ định của bác sĩ. Một số thuốc có tác dụng làm giảm sữa. Một số làm cho sữa độc hại đối với trẻ em, nhất là các loại thuốc an thần, thuốc ngủ,… thuốc giảm đau, thuốc có hoóc-môn.
  • Không nên uống quá mức cà phê, trà, rượu. Tránh hút thuốc.
  • Nếu bị táo bón, cũng không nên dùng các loại thuốc tẩy mà chỉ nên ăn thêm rau, trái cây, mật ong, rau trộn dầu dấm.

Làm thế nào để tăng lượng sữa ?

Có sữa nhiều hay ít là tùy cơ thể của mỗi người. Có người cho rằng nên ăn những sản phẩm của lúa mạch.

Nhưng điều chắc chắn nhất là phải nghỉ ngơi, làm việc vừa phải vì sự mệt nhọc có ảnh hưởng không tốt tới khả năng chế tạo sữa của cơ thể người mẹ. Nếu có thể, sau mỗi lần cho con bú, người mẹ cũng nên nghỉ ngơi chừng 15 phút.

Bé bú thế có đủ không ?

Làm thế nào để biết Bé bú mẹ như thế có đủ không ? Muốn biết rõ, hãy ngắm Bé, cân Bé và coi phân của Bé.

VẺ MẶT CỦA BÉ – Nếu được bú đầy đủ, da Bé hồng hào, bóng và rắn chắc. Sau khi bú, Bé có vẻ no nê, mãn nguyện và ngủ yên.

CÂN NẶNG – Trong Chương I, chúng ta đã biết đường biểu diễn sự tăng cân bình thường của Bé, phải giống tương tự đường biểu diễn mẫu. Muốn vậy, trong 3 tháng đầu, Bé phải tăng từ 25 tới 30 g mỗi ngày; từ 20 – 25 g mỗi ngày cho những tháng tiếp theo.

Trong những ngày đầu, người ta có thể cân Bé mỗi ngày. Nhưng sau khi thấy sự tăng trưởng của Bé bình thường, chỉ cần cân mỗi tuần một lần.

PHÂN – Phân các trẻ em bú sữa mẹ thường có màu vàng thẫm. Ngoài không khí, phân chuyển thành mầu xanh, nhìn như trứng hỏng và có mùi sữa chua. Mỗi ngày Bé di tiêu từ 3-6 lần. những ngày đầu, mỗi lần bú lại Ị; từ 3 tới 6 tháng tuổi, Bé Ị 2 tới 3 lần mỗi ngày. Ở tuổi lớn hơn, mỗi ngày Bé Ị 1 lần.

Đôi khi, Bé đi nửa phân, nửa nước hoặc đi hoàn toàn lỏng. Nếu không có triệu chứng Bé bị gầy đi, thì hiện tượng đi lỏng là bình thường. Trẻ em nào bú mẹ cũng thường như vậy.

TÁO BÓN – Trẻ em bú sữa mẹ ít khi bị táo bón. Trẻ “ị” ít phân không phải là táo bón. Nhiều trẻ không “Ị” đều mỗi ngày. Nếu phân của các cháu mềm, đi ra dễ dàng, tăng cân đều thì cũng không phải táo bón, và sự tiêu hóa của cháu là tốt.

Bé bị táo bón phần lớn do chế độ ăn uống của mẹ, do Bé uống không đủ nước hoặc do cơ thể Bé bị mất nước.

BÚ THIẾU – Khi bú chưa đủ no, Bé thường cựa quậy để tìm vú, khóc hoặc bú không khí. Nếu buồn ngủ, Bé sẽ thức dậy sau 1, 2 giờ. Những trẻ không tăng cân, thiếu dinh dưỡng thường hay đau bụng, nôn ói do bú ít mà hớp không khí thì nhiều.

Khi Bé không tăng cân bình thường, không phải là sữa mẹ thiếu chất dinh dưỡng mà do mẹ ít sữa. Để kiểm tra điều này, người ta cân Bé trước và sau khi bú trong ngày và tính ra lượng sữa còn thiếu là bao nhiêu để cho Bé bú bù bằng sữa công nghiệp.

Trường hợp người mẹ dư sữa, cũng không sợ Bé bị bội thực. Vì khi đã no đủ, tự nhiên Bé sẽ thôi không bú nữa.

Ung thư tuyến tụy – Triệu chứng, Chẩn đoán và hướng điều trị

Ung thư tuyến tụy là gì

Ung thư tuyến tụy xảy ra khi các tế bào ác tính (ung thư) phát triển, phân chia và lan rộng trong tuyến tụy. Tuyến tụy là một cơ quan dài 15 cm, có hình dạng ống, nằm ở phía sau bụng, phía sau dạ dày. Nó có hai chức năng chính trong cơ thể: sản xuất dịch tiêu hóa (gọi là enzyme) giúp phân hủy thức ăn và sản xuất hormone – bao gồm insulin – điều khiển cách cơ thể sử dụng đường và tinh bột.

Triệu chứng

Người ta thường không có triệu chứng trong giai đoạn đầu của bệnh này. Tuy nhiên, khi ung thư phát triển và lan rộng, đau thường xuất hiện ở phần bụng trên và đôi khi lan ra phía lưng. Cơn đau có thể trở nên tồi tệ hơn sau khi ăn hoặc nằm xuống. Các triệu chứng khác có thể bao gồm vàng da, buồn nôn, mất cảm giác thèm ăn, giảm cân, mệt mỏi, yếu đuối và trầm cảm.

Tỷ lệ sống sót: Những điều cần biết

Bởi vì bác sĩ hiếm khi phát hiện ung thư tuyến tụy ở giai đoạn đầu, khi mà việc điều trị dễ dàng nhất, nó là một trong những loại ung thư chết người nhất. Khoảng 9% người mắc ung thư tuyến tụy sống ít nhất 5 năm sau khi chẩn đoán. Tuy nhiên, tỷ lệ sống sót 5 năm thì tốt hơn nhiều – 44% – nếu nó chưa lan ra ngoài tuyến tụy. Cần biết rằng tỷ lệ sống sót không thể dự đoán những gì sẽ xảy ra với bất kỳ người nào và có thể không phản ánh các loại điều trị mới hơn.

Nguyên nhân

Các chuyên gia không biết nguyên nhân chính xác của ung thư tuyến tụy. Một số đột biến gen có thể gây ra nó. Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm hút thuốc, tuổi tác (thường được chẩn đoán ở những người trên 45 tuổi), tiểu đường, viêm tụy mãn tính do đột biến gen, xơ gan, tiền sử gia đình mắc bệnh này, giới tính (thường phổ biến hơn ở nam giới so với nữ giới), béo phì, một số hóa chất và chủng tộc. (Người Mỹ gốc Phi có nguy cơ cao hơn một chút so với người da trắng; các chuyên gia không biết lý do tại sao.)

Chẩn đoán

Khó khăn trong việc phát hiện bệnh này ở giai đoạn sớm. Một bác sĩ có thể không nhìn thấy hoặc cảm thấy một khối u nhỏ trong quá trình kiểm tra định kỳ. Để giúp chẩn đoán, bạn có thể cần thực hiện các xét nghiệm hình ảnh như siêu âm hoặc CT scan. Khu vực màu xanh lá cây hiển thị trong CT scan này có vẻ là ung thư ở tuyến tụy và gan. Những nghiên cứu này cũng giúp bác sĩ của bạn chọn phương pháp điều trị phù hợp nhất. Để chẩn đoán, bạn sẽ cần thực hiện một cuộc sinh thiết, trong đó bác sĩ của bạn sẽ sử dụng một chiếc kim hoặc thực hiện một cuộc phẫu thuật để lấy một phần mô từ khối u để xét nghiệm.

Phẫu thuật

Phẫu thuật để loại bỏ khối u có thể chữa khỏi ung thư nếu nó chưa lan ra ngoài tuyến tụy. Bác sĩ phẫu thuật của bạn sẽ giữ lại càng nhiều mô tuyến tụy bình thường càng tốt. Thật không may, với ung thư tuyến tụy, các tế bào ung thư thường đã lan ra ngoài tuyến tụy vào thời điểm chẩn đoán. Nếu khối u quá lớn để loại bỏ, một loại phẫu thuật khác có thể là một lựa chọn. Mục tiêu sẽ là giúp giảm bớt một số triệu chứng và ngăn ngừa một số vấn đề liên quan đến kích thước của khối u ung thư.

Xạ trị

Xạ trị sử dụng bức xạ công suất cao để tiêu diệt các tế bào ung thư. Đối với ung thư tuyến tụy, bạn có thể sẽ nhận được liệu trình xạ trị 5 ngày một tuần trong vài tuần. Lịch trình này giúp bảo vệ mô bình thường bằng cách phân bổ tổng liều bức xạ. Xạ trị cũng đang được nghiên cứu như một cách để tiêu diệt các tế bào ung thư còn lại ở khu vực sau phẫu thuật. Xạ trị có thể giúp giảm đau hoặc các vấn đề tiêu hóa do khối u lớn gây ra.

Hóa trị

Hóa trị sử dụng thuốc để tiêu diệt các tế bào ung thư và ngăn chúng phát triển hoặc phân chia. Nó có thể liên quan đến một loại thuốc hoặc một sự kết hợp của các loại thuốc. Bạn có thể nhận thuốc qua đường miệng hoặc tiêm. Các loại thuốc vào máu và di chuyển qua cơ thể, khiến hóa trị trở thành một lựa chọn tốt cho ung thư đã lan rộng. Bạn cũng có thể nhận hóa trị sau phẫu thuật để tiêu diệt bất kỳ tế bào ung thư nào còn sót lại.

Liệu pháp nhắm mục tiêu

Các loại thuốc này tấn công các phần cụ thể của tế bào ung thư. Các liệu pháp nhắm mục tiêu dường như có ít tác dụng phụ hơn so với hóa trị và ít gây hại cho các tế bào bình thường. Bác sĩ có thể sử dụng một liệu pháp nhắm mục tiêu gọi là erlotinib (Tarceva) cùng với hóa trị để điều trị ung thư tuyến tụy giai đoạn tiến triển. Các tác dụng phụ có thể bao gồm phát ban, tiêu chảy, mất cảm giác thèm ăn và mệt mỏi.

Liệu pháp miễn dịch

Loại điều trị này sử dụng hệ thống miễn dịch của bạn để chống lại bệnh. Đối với ung thư tuyến tụy, các bác sĩ có thể sử dụng pembrolizumab (Keytruda) để chặn một protein gọi là PD-1, để hệ thống miễn dịch có thể tấn công ung thư. Các tác dụng phụ có thể bao gồm mệt mỏi, vấn đề về da, đau khớp và các vấn đề về đường ruột (táo bón, tiêu chảy và buồn nôn). Các tác dụng phụ nghiêm trọng hơn có thể xảy ra nếu hệ thống miễn dịch bắt đầu tấn công cơ thể.

Chăm sóc giảm nhẹ

Chăm sóc giảm nhẹ được sử dụng để giảm triệu chứng và quản lý cơn đau ở bất kỳ giai đoạn nào của bệnh. Bạn có thể nhận chăm sóc giảm nhẹ cùng với các phương pháp điều trị y tế khác. Mục tiêu là cải thiện chất lượng cuộc sống không chỉ trong cơ thể mà còn trong tâm trí và tinh thần. Mặc dù các liệu pháp giảm nhẹ rõ ràng là phù hợp ở giai đoạn rất tiến triển của bệnh, nhưng chúng cũng giúp ích khi được cung cấp cùng với các phương pháp điều trị khác nhắm mục tiêu ung thư.

Bạn có thể phòng ngừa ung thư tuyến tụy không?

Mặc dù không có cách nào để ngăn ngừa tất cả các trường hợp, bạn có thể hành động chống lại các yếu tố nguy cơ mà bạn có thể kiểm soát. Một số mẹo của Hiệp hội Ung thư Mỹ:

  • Nếu bạn hút thuốc, hãy bỏ ngay bây giờ.
  • Đạt được trọng lượng khỏe mạnh và hoạt động thể chất.
  • Ăn một chế độ ăn uống lành mạnh, đặc biệt chú trọng đến thực phẩm thực vật.
  • Nếu bạn uống rượu, hãy giữ mức độ vừa phải. Uống nhiều có thể là yếu tố nguy cơ

Những điều kiêng kỵ trong luyện tập thể thao

Ba không nên khi tập luyện về buổi tối

Có một số người sáng ra không tranh thủ được thời gian tập luyện nên tập luyện vào buổi tối. Vậy khi tập luyện vào buổi tối như thế cần chú ý những gì?

  1. Trước khi sắp đi ngủ không nên vận động mạnh mẽ.

Trước khi sắp đi ngủ, cơ thể cần phải có một hoàn cảnh yên tĩnh, thư thái dễ chịu để tăng cường quá trình ức chế của tế bào thần kinh vỏ đại não, làm cho con người rất nhanh đi vào trạng thái ngủ. Nếu lúc đó vận động mạnh mẽ sẽ làm cho tế bào thần kinh sinh hưng phấn. Quá trình hưng phấn này cần phải qua nghỉ ngơi mất thời gian tương đối dài mới có thể dần dần chuyển biến thành quá trình ức chế. Nếu tập luyện như vậy tất nhiên sẽ phải kéo dài thời gian đi vào giấc ngủ, ảnh hưởng đến giờ ngủ trong đêm. Có khi tuy cũng có thể đi vào giấc ngủ ngay đấy, nhưng do vỏ đại não có lượng nhỏ tế bào thần kinh ở trong trạng thái hưng phấn, kết quả sẽ xuất hiện hiện tượng ngủ không sâu hoặc hay nằm mê, nằm mộng, cơ thể không được khôi phục. Nếu cứ kéo dài tình trạng này thường xuyên sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe. Ngoài ra, sau khi vận động, sự thay đổi chuyển hóa chất sẽ được tăng cường, nhiệt độ cơ thể tăng cao. Các nhà y học cho rằng hiện tượng này sẽ duy trì trên 4 giờ, mà khi ngủ thì đòi hỏi thân nhiệt hơi thấp mới có thể đi vào giấc ngủ được.

Hãy tập thể dục, chơi thể thao... thể thao sẽ giúp ta quên đi phiền muộn
Hãy tập thể dục, chơi thể thao… thể thao sẽ giúp ta quên đi phiền muộn
  1. Giữa bữa ăn tối và luyện tập phải cách nhau một khoảng thời gian ít nhất là 1 giờ. Nếu vừa ăn xong đã tập luyện ngay thì rất dễ gây bệnh ở dạ dày và ruột như tiêu hóa không tốt.
  2. Thời gian tập luyện không nên quá dài. Tập luyện về tối chỉ nên kéo dài 1 giờ. Ngoài ra, thời gian kết thúc không nên quá muộn, tốt nhất sau khi tập luyện khoảng 1 giờ thì đi ngủ, như vậy sẽ làm cho cơ năng của các cơ quan trong cơ thể trước khi đi vào giấc ngủ có thể khôi phục ở trạng thái bình tĩnh.

Bốn kiêng kỵ trong tập luyện về mùa hè

  1. Không nên tập luyện những động tác thể thao quá mạnh dưới ánh nắng mặt trời gay gắt. Tia hồng ngoại trong ánh nắng mặt trời khoảng từ 12-15 giờ ngày hè là cực mạnh. Nếu tia này chiếu rọi lâu vào người sẽ dễ làm tổn hại thần kinh đại não, sinh ra hiện tượng giống như trúng thử vậy.
  2. Sau khi tập luyện xong không nên vào tắm hoặc ngồi dưới quạt máy ngay. Sau khi tập luyện, sự thay đổi và chuyển hóa của các cơ quan tổ chức trong toàn thân được tăng cường, các huyết quản mao dẫn trong da mở to ra để có lợi cho sự phát tán nhiệt lượng dư thừa. Nếu lúc đó mà vào tắm hoặc ngồi dưới quạt máy ngay thì sự thu co của các huyết quản mao dẫn không lợi cho sự phát tán nhiệt lượng dư thừa, các lỗ chân lông đang mở rộng to ra bị lạnh liền bịt kín lại, làm cho người ta cảm thấy không chịu được nhiệt và dễ bị thương phong cảm mạo v.v…
  3. Sau khi tập luyện xong không nên uống lượng lớn nước. Uống lượng lớn nước trước hết pha loãng dịch vị, hạ thấp nồng độ vị toan, bất lợi cho tiêu hóa. Mặt khác, đột nhiên sẽ tăng thêm gánh nặng cho tim. Uống lượng lớn nước mà không bổ sung muối thường sẽ gây buồn ngủ, nhức đầu, buồn nôn, người mệt mỏi rã rời, bị co giật v.v…
  4. Sau khi tập luyện không nên ăn, uống lượng lớn đồ lạnh ngay. Ăn vào lượng lớn đồ lạnh dễ gây tổn thương công năng sinh lí bình thường của dạ dày và ruột, người bị nhẹ thì sẽ gây viêm dạ dày và ruột cấp tính như nôn mửa, tiêu chảy, đau bụng v.v…; người bị nặng thì sẽ là mầm tai họa gây nên các bệnh về dạ dày và ruột về sau như bị viêm dạ dày mạn tính, bị loét dạ dày v.v…

Điều cần đặc biệt chú ý nữa khi tập luyện đó là kỵ làm trái với “đồng hồ sinh vật” của con người: Đặc trưng sinh lí và tâm lí của sự hưng phấn và ức chế trong cơ thể con người có liên quan đến “đồng hồ sinh vật” mà các nhà khoa học vẫn thường nói đến. Theo “đồng hồ sinh vật” thì sau 6 giờ sáng, sau 9 giờ sáng và sau 4 giờ chiều là thời gian tiến hành tập luyện bảo vệ sức khỏe có hiệu quả nhất để có một tinh thần sảng khoái và cơ thể khỏe mạnh, để nâng cao hiệu suất học tập và năng suất công tác. Lượng vận động, tập luyện có thể căn cứ vào trạng thái tâm lí và sinh lí lúc bấy giờ để định ra cho mình cho phù hợp. Nếu đảo lộn thứ tự lượng vận động, làm nhiễu loạn “đồng hồ sinh vật” sẽ làm cho sự phân tiết bên trong và nhịp điệu sinh hoạt không có sự phối hợp nhịp nhàng, bất lợi cho sự phát triển bình thường của sức khỏe và không có ích bổ gì cho sinh hoạt và học tập.

Người béo không nên chạy bộ

Phần lớn người ta cho rằng chạy bộ để làm khỏe mạnh cơ thể là một hạng mục vận động lí tưởng để làm giảm béo cho những người béo. Những năm trước đây các học giả của Liên Xô cũ đã tiến hành nghiên cứu đối với hàng nghìn người béo ở Azerbaigian tập luyện giảm béo, kết quả nghiên cứu chứng tỏ người béo không nên cho rằng chạy bộ sẽ làm khỏe mạnh cơ thể. Do vì thể trọng của người béo lớn, trong quá trình chạy bộ nặng nề như thế, các bộ phận chống đỡ với sự vận động, nhất là ở bộ vị khớp đầu gối và khớp mắt cá chân sẽ phải chịu một tác dụng chống đỡ với lực nén xuống mặt đất tương đối lớn. Như vậy, do kết quả của “tác dụng quá tải trọng” làm cho các khớp đầu gối và khớp mắt cá chân của những người này dễ bị các tổn thương, đau đớn, như sưng đau khớp, đau khớp do viêm khớp đầu gối v.v… Do đó, đối với những người béo, vận động giảm béo tốt nhất cần phải là bơi, đi xe đạp, đi bộ cự li dài.

Vận động mạnh vừa kết thúc, không nên ăn ngay

Khi vận động, nhất là vận động mạnh, trung khu quản lí hoạt động của cơ bắp trong hệ thần kinh đang ở trạng thái hưng phấn cao độ. Dưới ảnh hưởng của nó, hệ thần kinh phó giao cảm quản lí hoạt động của các cơ quan nội tạng đã tăng cường ảnh hưởng có tính ức chế đối với hoạt động của hệ tiêu hóa. Đồng thời, khi vận động, huyết dịch của toàn thân cũng tiến hành phân phối lại và cung ứng tương đối tập trung nhu cầu của các cơ quan vận động, mà sự cung ứng huyết dịch cho các cơ quan trong khoang bụng sẽ tương đối giảm đi. Lúc đó, sự tiết ra adrenalin cũng tăng lên mạnh. Những nhân tố về mấy mặt trên đây làm cho nhu động của đường dạ dày và ruột giảm đi nhiều, nó cần phải qua một thời gian nghỉ ngơi sau khi kết thúc vận động mới có thể khôi phục lại. Nếu ăn ngay sẽ làm tăng thêm gánh nặng cho cơ quan tiêu hóa, gây nên rối loạn công năng, thậm chí gây nên các bệnh tật. Biện pháp tốt nhất là sau khi kết thúc vận động được 20 – 30 phút rồi hẵng ngồi vào mâm ăn.

Về các mùa đông, xuân, sau khi tập luyện buổi sáng sớm, không ăn ngay các thức ăn nóng quá

Về mùa đông và đầu mùa xuân buổi sáng sớm không chỉ không khí quá hàn lạnh, mà cơ thể lúc đó còn chưa kịp thích nghi thân nhiệt đang thấp, trạng thái thay thế chuyển hóa cơ sở cũng đang thấp do qua một đêm ngủ. Nếu lúc này tham gia tập luyện mà vận động khởi động trước khi tập luyện không đầy đủ, thì không khí hàn lạnh về buổi sáng sớm sẽ có tác dụng hạ nhiệt độ tạm thời đối với khoang mũi, khí quản họng liền kề và thực đạo, làm cho cơ thể xuất hiện “thích ứng lạnh”. Nếu sau khi tập luyện kết thúc không nghỉ ngơi qua quít một lát, đã ăn ngay cháo, phở, mì vằn thắn, bánh bao, bánh sủi cảo, bánh trôi v.v… vừa mới ở trên bếp bắc ra đang còn rất nóng sẽ dễ sinh các chứng bệnh như nôn ra máu, đại tiện ra máu. sở dĩ đó là vì lớp niêm mạc thực đạo, huyết quản mao dẫn trong các tổ chức phụ cận của nó và một số huyết quản tương đối lớn đang trong trạng thái thích ứng lạnh không thể ngay một lúc thừa nhận được kích thích nhiệt của những thức ăn quá nóng bỏng này, vì thế công năng điều tiết có tính tạm thời xuất hiện bị rối loạn, làm cho một bộ phận huyết dịch xuyên qua thành huyết quản, và thành huyết quản mao dẫn vào trong thực đạo và dạ dày, sinh ra triệu chứng nôn ra máu hoặc đại tiện ra máu.