Trang chủChứng trạng Đông yĐau quanh rốn (Tề phúc thống) - Chẩn đoán bệnh Đông y

Đau quanh rốn (Tề phúc thống) – Chẩn đoán bệnh Đông y

Khái niệm

Đau vùng rốn bụng – Tề phúc thống là chỉ chứng đau quanh rốn ở vùng bụng.

Chứng này sách Nội kinh gọi là “Hoàn tề nhi thống”, các sách Thương hàn luận, Kim quỹ yếu lược đều gọi là “Nhiễu tề thống” sách Trương thị ỵ thống gọi là “Đương tề thống”, các đời sau gọi là Tề phúc đông thống.

Tề phúc thống với Tiểu phúc thống, Thiếu phúc thống đều thuộc phạm vi bệnh phúc thống, Vì bộ vị cụ thể phát sinh đau khác nhau, tên gọi cũng khác nhau, đau ở quanh rốn gọi Ịà Tề phúc thống; đau ở phía dưới rốn gọi là Tiểu phúc thống; đau ở hai bên cạnh dưới rốn gọi là Thiếu phúc thống, cần phân biệt rõ trong lâm sàng, Còn đau bụng của phụ nữ và những chi tiết liên quan tới thai, sản, kinh, đới, tham khảo các mục hữu quan ở Phụ khoa.

Phân biệt

Chứng hậu thường gặp

Tề phúc thống do hàn ngưng tích lạnh: Có chứng vùng rốn bụng đau đột ngột dữ dội và liên tục không lúc nào ngưng, gặp ấm thì đỡ, kém ăn, bụng lạnh và sôi bụng, đại tiện tiết tả hoặc bí kết không thông, thậm chí chân tay quyết lạnh, chất lưỡi nhạt hoặc xanh, rêu lưỡi trắng nhuận mạch Trầm Khẩn mà trì.

Tề phúc thống do Tỳ Thận dương hư: Có chứng lạnh đau vùng Tề phúc xu thế đau liên miên lúc nặng lúc nhẹ, thích ấm ưa xoa bóp, gặp lạnh đau tăng, tinh thần mệt mỏi, sợ lạnh tay chân lạnh đại tiện lỏng loãng, chất lưỡi nhạt rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Trầm Tế Nhược.

Tề phúc thống do Dương minh nhiệt kết: Có chứng đau bụng quanh rốn, rắn đầy cự án, về chiều triều nhiệt, chân tay ra mồ hôi nhâm nhấp, đại tiện bí kết hoặc ỉa chảy ra nước trong loãng, tiểu tiện sẻn đỏ, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng dầy mà khô, mạch Trầm Hoạt mà Sác.

Tề phúc thống do Trường Vị khí trệ: Có chứng đau vùng bụng rốn, trướng đầy khó chịu, trướng đau tùy theo đánh trung tiện mà đỡ dần, hoặc vùng rốn bụng có khôi hơi tác động gây đau, tình chí khó chịu thì đau nặng hơn, không thiết ăn uống, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Huyền Hoạt.

Tề phúc thống do thấp nhiệt uất kết: Có chứng đau vùng bụng rốn, khi đau muốn đi ỉa chảy, đại tiện rồi vẫn khó chịu, lý cấp hậu trọng, đại tiện phân dính hôi, ra cả mủ máu, miệng đắng mà khô, không muốn ăn uống, chất lưỡi đỏ tối, rêu lưỡi vàng dày nhớt, mạch Hoạt Sác.

Tề phúc thống do thương thực tích trệ: Có chứng đau vùng bụng rốn, ợ hơi buồn nôn, kém ăn hoặc đại tiện lỏng, chất bài tiết ra nhiều thứ chưa tiêu hóa mùi hôi chua, sau khi ỉa lỏng xong đỡ đau, rêu ở gốc lưỡi dày nhớt, mạch Hoạt.

Tề phúc thống do giun đũa quấy rối trong bụng: Có chứng đau vùng bụng rốn, từng cơn không có giờ nhất định, cơn đau kịch liệt hoặc có thể thấy vùng bụng nổi hòn cục, hết cơn đau người bình thường, mặt vàng thể trạng gầy, có lúc mửa ra nước trong hoặc khi ngủ nghiến răng hoặc hay ăn vật lạ, hoặc môi mặt có ban ký sinh trùng, hoặc có bệnh sử đại tiện ra giun, khi đau mạch Huyền hoặc Trầm phục.

Phân tích

  • Chứng Tề phúc thống do hàn ngưng tích lạnh với chứng Tề phúc thống do Tỳ Thận dương hư: cả hai đều đau do hàn, nhưng loại trên là thực chứng, loại sau thuộc hư chứng. Loại trên phần nhiều do Tỳ Vị vốn hư, tà khí phong hàn xâm phạm vào bụng rốn hoặc ăn uống không Thận trọng, ăn quá nhiều thức sống lạnh đến nỗi hàn ngưng tích lãnh ở Trường VỊ, trung dương bị lấn át, khí cơ nghẽn trệ, không thông thì đau; loại sau thường do Tỳ dương hư suy lâu ngày liên lụy đến Thận dương, hoặc Thận dương suy kém, hỏa không sinh thổ, Tỳ thận đều hư, hàn từ trong sinh ra gây nên, Yếu điểm chẩn đoán phân biệt hai chứng này là: Tề phúc thống loại trên đau đột ngột, xu thế kịch liệt đau không lúc nào dứt. Tề phúc thống loại sau đau từ từ, cơn đau dằng dai lúc nặng lúc nhẹ, phần nhiều có kiêm chứng tinh thần mỏi mệt, sợ lạnh chân tay lạnh, đại tiện lỏng loãng là hiện tượng Tỳ Thận dương hư.

Tề phúc thống do hàn ngưng tích lạnh điều trị nên ôn trung tán hàn, lý khí giảm đau, dùng phương Thiên thai ô dược tán gia Can Khương, Nhục quế, Nếu đại tiện bế kết không thông có thể uống Ôn tỳ thang gia giảm. Tề phúc thống do Tỳ Thận dương hư, điều trị nên bổ ích Tỳ Thận, ôn dương chỉ thống, linh hoạt dùng Phụ tử lý trung hoàn hoặc Lý âm tiễn gia Nhục quế, Bạch thược.

– Chứng Tề phúc thống do Dương minh nhiệt kết và chứng Tề phúc thống do Trường Vị khí trệ: Cả hai đều thuộc Thực chứng. Loại trên là nhiệt kết hữu hình. Loại sau là khí tụ vô hình. Loại trên do cảm nhiễm hàn tà từ bên ngoài, vào lý hóa nhiệt, hoặc là tà khí ôn nhiệt truyền vào trong, nhiệt hun đốt tân dịch tổn thương tà nhiệt với cặn bã ở Đại trường câu kết gây nên, yếu điểm biện chứng là đau bụng quanh rốn thậm chí đầy mà cự án, đại tiện bí kết không thông hoặc nhiệt kết bàng lưu mùi hôi lạ thường. Loại sau phần nhiều do Tỳ Vị mất chức năng vận hóa, khí cơ thăng giáng bị ngăn trở, khí trệ ở trong, uất kết không thông, không thông thì đau. Yếu điểm biện chứng là đau vùng rốn bụng kiêm trướng đầy, thậm chí có cục hơi xáo động, được trung tiện thì giảm đau, khi biến hóa về tình chí thường đau nặng thêm. So sánh hai chứng, loại trên là hiện tượng nhiệt kết, đau bụng quanh rốn mà cứng đầy cự án, về chiều triều nhiệt, ra mồ hôi chân tay đại tiện bí kết, hoặc nhiệt kết bàng lưu, tức là Dương minh phủ thực chứng. Còn loại sau là chứng hậu khí trệ, đau bụng quanh rốn, trướng đầy trung tiện được thì đỡ, nặng hơn thì có khôi hơi xáo động, cơn đau có liên quan tới tình chí.

Tề phúc thống do Dương minh nhiệt kết điều trị theo phép thanh nhiệt tả hạ, linh hoạt chọn dùng các phương Điều Vị thừa khí thang, Đại thừa khí thang, Tiểu thừa khí thang. Tề phúc thống do Trường Vị khí trệ điều trị nên giáng khí tán kết, điều trung chỉ thống, có thể chọn dùng Ngũ ma ẩm tử.

– Tề phúc thống do thấp nhiệt uất kết với chứng Tề phúc thống do thương thực tích trệ: Cả hai đều là Thực cjiứng, biểu hiện lâm sàng khá nhiều chỗ tương tự, dễ bị lẫn lộn.

Tề phúc thống do thấp nhiệt uất kết là thấp nhiệt dồn xuống thúc ép Đại trường cho nên rốn bụng đau như thắt, nhiệt thúc ép thì mót rặn, thấp trệ cho nên hậu trọng, đại tiện khó đi, mồ hôi dính nhớt kiêm cả ra máu mủ.

Tề phúc thống do thương thực tích trệ tức như Tố vấn – Tý luận nói: “ăn uống gấp bội, Trường Vị tổn thương” gây nên. Thực vật lúc đầu tích trệ ở Vị quản, tiếp theo là ở Đại trường, cho nên đau rốn bụng, đại tiện tiết tả, mà chất bài tiết ra là tạp chất chưa tiêu hóa, mùi vị hôi chua, tả xong thì hết tích mà giảm đau chút ít. Hai chứng biểu hiện cộng đồng là đau rốn bụng và đại tiện không đều. Nhưng loại trên thì lý cấp hậu trọng, phần nhiều ra máu mủ, chất bài tiết xú uế. Loại sau đi tả xong thì giảm đau, phần nhiều ra thứ không tiêu và khí vị hôi chua, về điều trị, loại trên cần thanh thấp nhiệt, lý khí huyết, chủ yếu là giảm đau, dùng phương Thược dược thang gia giảm. Loại sau nên tiêu tích đạo trệ, tích trệ trừ thì hết đau, có thể dùng các phương Mộc hương tân lang hoàn, Chỉ thực đạo trệ hoàn.

– Chứng Tề phúc thống do giun đũa quấy rối ở trong:

Thường do ăn uống không sạch, thấp nhiệt ấp ủ sinh trùng, trùng ở trong bụng, trùng động thì đau, trùng yên thì đau ngưng, cho nên có từng cơn đau bụng, lúc đau lúc ngưng, có đặc điểm là trùng tích thì bụng thấy tích khối, trùng tan thì tích khôi cũng tiêu, khi đau thì dữ dội không chịu nổi, đau ngưng lại như người bình thường, đồng thời thấy xuất hiện các chứng trạng đặc biệt như nôn mửa ra nước trong, khi ngủ hay nghiến răng, hay ăn vật lạ môi mặt có ban ký sinh trùng, đại tiện ra giun… về điều trị, khi có cơn đau cần an hồi giảm đau, dùng Ô mai hoàn gia giảm; khi ngưng cơn đau, nên dùng phép khu hồi sát trùng, cho uống Hóa trùng hoàn.

Tóm lại: Tề phúc thống là chứng trạng thường gặp trên lâm sàng. Phép biện chứng, đại để lấy đau ưa xoa bóp là hư, không xoa bóp được là thực, nếu kiêm chứng đại tiện bí kết là nhiệt; nếu kiêm chứng đại tiện lỏng chân tay lạnh là hàn. Đau do thương thực thì đại tiện hôi chua, tả ra thức không tiêu. Đau do trùng tích thì đau bụng kịch liệt, hết đau lại như người bình thường. Vừa đau vừa trướng là khí trệ; đại tiện ra mủ máu phần nhiều là thấp nhiệt. Lâm sàng nắm vững tính chất đau, kiêm xem xét lưỡi và mạch, có thể chẩn đoán phân biệt dễ dàng.

Trích dẫn y văn

Đau quặn giữa rốn, nếu xét là huyết ứ kết ở đường lạc của Can tỳ, dùng Thất tiếu tán gia Quy tu, Đào nhân, Phỉ chấp, nếu do Thận hư mạch Nhâm gây bệnh, dùng Lục vị hoàn gia Quy bản (.Loại chứng trị tài – Phúc thống).

Bài viết liên quan
Bài viết cùng danh mục

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây