Blog Trang 555

Chữa Bệnh Lupus ban đỏ hệ thống – biểu hiện, chẩn đoán, điều trị

ĐỊNH NGHĨA VÀ BỆNH SINH

Bệnh không rõ nguyên nhân trong đó các mô và tế bào trải qua tổn thương trung gian bởi các phức hợp miễn dịch và tự kháng thể gắn ở mô. Di truyền, môi trường, và các yếu tố nội tiết có vai trò quan trọng trong bệnh sinh. Tăng hoạt động tế bào T và B, sản xuất các tự kháng thể đặc hiệu với yếu tố quyết định kháng nguyên nhân, và các bất thường chức năng tế bào T xảy ra.

BIỂU HIỆN LÂM SÀNG

90% là phụ nữ, thường trong độ tuổi sinh đẻ; gặp ở người da đen nhiều hơn người da trắng. Diễn tiến của bệnh thường đặc trưng bởi những giai đoạn bệnh trầm trọng và tương đối âm thầm. Có liên quan đến hầu hết các cơ quan và một loạt các mức độ nghiêm trọng của bệnh.

Các đặc điểm thường gặp gồm:

• Thể chất—mệt mỏi, sốt, khó ở, sụt cân
• Da—nổi ban (đặc biệt ban hình cánh bướm ở má), mẫn cảm với ánh nắng, viêm mạch, rụng tóc, loét miệng
• Viêm khớp—viêm, cân đối, không bào mòn
• Huyết học—thiếu máu (có thể tan máu), giảm bạch cầu trung tính, giảm tiểu cầu, bệnh hạch bạnh huyết, lách to, huyết khối động mạch hoặc tĩnh mạch
• Tim phổi—viêm màng phổi, viêm màng ngoài tim, viêm cơ tim, viêm màng trong tim. Bệnh nhân cũng tăng nguy cơ nhồi máu có tim do xơ vữa động mạch được gia tốc.
• Viêm thận—phân loại chủ yếu theo mô học (Bảng 319-2, trang 2727, HPIM-18)
• Tiêu hóa—viêm phúc mạc, viêm mạch
• Thần kinh—hội chứng não hữu cơ, co giật, rối loạn tâm thần, viêm não

Bệnh lupus do thuốc

Hình ảnh lâm sàng và miễn dịch tương tự như lupus ban đỏ hệ thống tự phát có thể gây ra do thuốc; đặc biệt: Procainamid, Hydralazin, Isoniazid, Chlorpromazin, Methyldopa, Minocyclin, các thuốc kháng TNF. Biểu hiện chủ yếu ở thể tạng, khớp, và màng tim-màng phổi; bệnh của thận và hệ thần kinh trung ương là hiếm gặp. Tất cả bệnh nhân có kháng thể kháng nhân (ANA); kháng thể kháng histon có thể có, nhưng kháng thể kháng dsDNA và giảm bổ thể máu là không thường gặp. Hầu hết bệnh nhân được cải thiện sau khi ngừng thuốc.

LƯỢNG GIÁ

Bệnh sử và thăm khám

Sự hiện diện của kháng thể kháng nhân là một đặc điểm cốt yếu, nhưng nếu chỉ (+) thì không đặc hiệu cho lupus ban đỏ hệ thống. Xét nghiệm đánh giá nên gồm: công thức máu, tốc độ máu lắng, kháng thể kháng nhân và các dưới nhóm (kháng thể kháng dsDNA, ssDNA, Sm, Ro, La, histon), nồng độ bổ thể (C3, C4, CH50), các globulin miễn dịch huyết thanh, kháng thể giang mai, PT, PTT, kháng thể kháng cardiolipin, chất chống đông lupus, phân tích nước tiểu.

Chụp x-quang thích hợp

Điện tâm đồ

Xem xét làm sinh thiết thận nếu có bằng chứng của viêm cầu thận

CHẨN ĐOÁN

Khi từ 4 tiêu chuẩn trở lên (Bảng 319-3, trang 2728, HPIM-18).

ĐIỀU TRỊ Bệnh lupus ban đỏ hệ thống

Lựa chọn điều trị dựa vào kiểu và mức độ nặng của biểu hiện bệnh. Mục tiêu nhằm kiểm soát các biểu hiện cấp tính, nặng của bệnh và xây dựng các chiến lược bảo tồn mà ở đó các triệu chứng bị ngăn chặn ở mức có thể chấp nhận được. Lựa chọn điều trị phụ thuộc vào (1) hoặc bệnh đe dọa tính mạng hoặc có khả năng gây tổn thương cơ quan; (2) hoặc các biểu hiện bệnh có thể phục hồi; và (3) cách tiếp cận tốt nhất để ngăn ngừa biến chứng của bệnh và điều trị (Ảnh 319-2, trang 2729, và Bảng 319-5, trang 2732, HPIM-18).

PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ BẢO TỒN CHO BỆNH KHÔNG ĐE DỌA TÍNH MẠNG

  • NSAIDs (Ibuprofen 400–800 mg x 3-4 lần/ngày). Phải xem xét biến chứng thận, tiêu hóa và tim mạch.
  • Thuốc chống sốt rét (Hydroxychloroquin 400 mg/ngày)—có thể cải thiện các biểu hiện về thể chất, da, khớp. Đánh giá về mắt trước và trong khi dùng thuốc để loại trừ độc tính ở mắt.
  • Belimumab (10 mg/kg đường tĩnh mạch vào các tuần 0, 2, 4 sau đó dùng hàng tháng). Thuốc ức chế kích thích đặc hiệu tế bào lympho B không nên dùng ở lupus ban đỏ hệ thống nặng như viêm thận hoặc bệnh của hệ thần kinh trung ương và hạn chế với bệnh hoạt động nhẹ đến vừa.

ĐIỀU TRỊ LUPUS BAN ĐỎ HỆ THỐNG ĐE DỌA TÍNH MẠNG

Glucocorticoid toàn thân.

Các thuốc gây độc tế bào/ức chế miễn dịch—cùng với Glucocorticoid để điều trị lupus ban đỏ hệ thống nặng.

1. Cyclophosphamid—liều 500–750 mg/m2 tĩnh mạch × 6 tháng sau đó bảo tồn với Mycophenolat mofetil hoặc Azathioprin. Các nghiên cứu của châu Au cho thấy Cyclophosphamid 500 mg x 6 liều mỗi 2 tuần có thể có hiệu quả, nhưng vẫn chưa rõ liệu những dữ liệu này có áp dụng cho Hoa Kỳ hay không.

2. Mycophenolat mofetil—2–3 g/ngày; có hiệu quả trong hạn chế viêm thận. Một tỉ lệ cao hơn bệnh nhân da đen đáp ứng với Myco-phenolate mofetil khi so sánh với Cyclophosphamid.

3. Azathioprin—có thể có hiệu quả nhưng đáp ứng chậm

Tâm lý người già và những điều cần lưu ý

Lão hóa là quá trình phát triển tự nhiên ở bất kỳ cơ thể sống nào. Quá trình lão hóa diễn ra từ từ trong cơ thể, bắt đầu là sự già cỗi, thoái hóa các bộ phận và suy giảm các chức năng sinh học. Lão hóa khiến mọi hoạt động trở lên chậm chạp nặng nề, kém chính xác, trong khi đó mọi suy nghĩ vẫn còn sáng suốt, ở người già thường nảy sinh hiện tượng “lực bất tòng tâm”, đây là một trong những nguyên nhân gây ức chế rất lớn ở người cao tuổi. Tâm lý bất ổn, lo lắng, chờ đợi, nghi ngờ cũng là những nét đặc trưng thường thấy ở lớp người già.

Đa số những người già khi còn trẻ thường chăm chút cho con cái rất nhiều nhưng khi đã không còn khả năng lao động nữa, họ luôn có tâm trạng phiền muộn, sợ rằng mình trở thành gánh nặng cho con cái. Người rơi vào trường hợp này lúc nào cũng xuất hiện sự tự ái cao độ. bất cứ điều gì phật ý cũng khiến họ đắm chìm trong suy nghĩ bị con cái bạc đãi. Nhu cầu tình cảm là điều không thể thiếu trong cuộc sống của lớp người này. Dù không thể hiện ra ngoài nhưng lúc nào họ cùng lo lắng cho con cháu mình, đi làm ra sao, học hành như thế nào, có cẩn thận khi đi ngoài đường không… Những lo lắng này thường xuất hiện khi người già ở nhà một mình và nghĩ về những gì xảy ra. Đôi khi, người già còn xuất hiện lo lắng xen lẫn sợ hãi về cái chết. Tâm lý sùng bái và mê tín vào thần thánh, các thể lực siêu nhiên là điều giải thích cho sự sợ hãi vào cái chết. Càng về già, người ta càng một mực tin tưởng vào thuốc, hòng chống chọi lại mọi thứ bệnh tật. Có những trường hợp mắc phải những căn bệnh “tướng”, nghĩa là cứ nghĩ cơ thể mình đang ẩn chứa hàng vạn thứ bệnh tật mà họ có thể nghĩ ra. nhưng thực ra đó chỉ là quá trình lão hóa của cơ thể. Và thế là bất cứ thuốc nào, thầy nào nghe nói là họ tìm đến. Đa số người già cảm thấy nuối tiếc cuộc sống và tìm cách níu kéo thời gian bằng cách này.

Khi quá trình lão hóa diễn ra, suy nghĩ của con người thường kém minh mẫn và việc làm thường xảy ra mâu thuẫn. Người già luôn làm việc trong tâm trạng hoài nghi vào bản thân, kém tự tin vào việc mình đang làm. Lúc này họ rất cần sự giúp đỡ, an ủi, tuy nhiên làm điều này phải cực kỳ tế nhị và khôn khéo.

Nhu cầu chuyện trò, chia sẻ là nhu cầu không thể thiếu đối với người già
Nhu cầu chuyện trò, chia sẻ là nhu cầu không thể thiếu đối với người già

Nhu cầu chuyện trò, chia sẻ là nhu cầu không thể thiếu đối với người già lúc này. Bên cạnh đó, những dấu ấn, ký ức xưa cũ cũng thường trực xuất hiện trong suy nghĩ. Có thể dễ hiểu việc người già có thể từ bỏ tất cả cuộc sống hiện có để trở về với những nơi thân thuộc của mình.

Nhiều người cho rằng người già khó chiều nhưng thực ra chăm sóc người già thật dễ dàng nếu như đặt suy nghĩ của mình theo những điều người già suy nghĩ, lo lắng. Nhìn chung, với một cơ thể khỏe mạnh, không bệnh tật hoặc biết cách chế ngự bệnh tật sẽ hạn chế được quá trình lão hóa xảy ra nhanh chóng. Giảm thiểu những lo lắng, hoài nghi, chờ đợi và tạo không khí chan hòa, tình cảm trong gia đình là phương thuốc tốt nhất cho những người già, tạo cho họ một cuộc sống khỏe mạnh về cơ thể và tâm hồn.

Cấp cứu Ung bướu

Cấp cứu trên bệnh nhân ung thư có thể được chia thành 3 loại: Ảnh hưởng do sự lan rộng của khối u, ảnh hưởng chuyển hóa hoặc nội tiết qua các chất tiết từ khối u, và các biến chứng điều trị.

CẤP CỨU UNG BƯỚU CẤU TRÚC/ TẮC NGHẼN

Những vấn đề thường gặp nhất là hội chứng tĩnh mạch chủ trên; tràn dịch màng ngoài tim/chèn ép tim; chèn éo tủy sống; co giật (Chương 193) và/hoặc tăng áp lực nội sọ; và tắc nghẽn ruột, đường tiểu hoặc đường mật. Ba tình trạng sau được thảo luận trong Chương 276 trong “Những nguyên lý nội khoa” bản 18.

HỘI CHỨNG TĨNH MẠCH CHỦ TRÊN

Tắc nghẽn tĩnh mạch chủ trên làm giảm máu tĩnh mạch từ đầu cổ và hai chi trên. Khoảng 85% trường hợp là do ung thư phổi; u lympho và huyết khối trong catheter tĩnh mạch trung tâm cũng gây ra. Bệnh nhân thường có biểu hiện sưng phù mặt, khó thở, và ho. Trong trường hợp nặng, sang thương khối trong trung thất có thể gây tắc nghẽn khí quản. Tĩnh mạch cổ dãn/nổi và tăng tĩnh mạch phụ bên ở trước ngực được chú ý khi khám lâm sàng. X quang ngực (CXR) cho thấy rộng trung thất trên; 25% bệnh nhân có tràn dịch màng phổi Phải.

Xạ trị là lựa chọn điều trị đới với ung thư phổi không tế bào nhỏ; kết hợp hóa trị với xạ trị có hiệu quả trong ung thư phổi tế bào nhỏ và u lympho. Các triệu chứng tái phát trong 10–30% và có thể được làm giảm đi nhờ đặt stent tĩnh mạch. Catheter trung tâm bị tắc nghẽn do cục máu đông gây ra hội chứng này nên được loại bỏ và khởi phát
liệu pháp kháng đông.

TRÀN DỊCH MÀNG NGOÀI TIM/CHÈN ÉP TIM

Tích tụ dịch trong màng ngoài tim làm giảm sự đổ đầy của tim và giảm cung lượng tim. Thường gặp nhất trên những bệnh nhân ung thư phổi hoặc vú, bệnh bạch cầu hay u lympho, chèn ép màng ngoài tim cũng có thể phát triển như là biến chứng muộn của xạ trị trung thất (viêm màng ngoài tim co thắt). Các triệu chứng thường gặp là khó thở, ho, đau ngực, khó thở khi nằm và suy nhược. Tràn dịch màng phổi, nhịp nhanh xoang, căng tĩnh mạch cổ, gan to và xanh tái là những triệu chứng lâm sàng thường gặp. Mạch nghịch, mờ tiếng tim, mạch xen kẽ và tiếng cọ màng ngoài tim ít gặp trên bệnh lý ác tính hơn bệnh màng tim lành tính. Siêu âm tim giúp chẩn đoán; chọc dò màng ngoài tim có thể cho biết dịch huyết thanh hay máu, và tế bào học thường cho thấy các tế bào ác tính .

Dẫn lưu dịch từ khoang màng ngoài tim có thể giữ được tính mạng đến khi thực hiện cuộc phẫu thuật quyết định (bóc hoặc mở cửa sổ màng ngoài tim).

CHÈN ÉP TỦY SỐNG

U tủy sống nguyên phát hiếm gặp, và chèn ép tủy là triệu chứng thường gặp do di căn ngoài màng cứng từ khối u liên quan thân đốt sống, đặc biệt là tiền liệt tuyến, phổi, vú, u lympho và u tủy nguyên phát. Bệnh nhân có triệu chứng đau lưng, đau nặng hơn khi nằm nghiêng, với căng đau tại chỗ. Mất kiểm soát ruột và bàng quang có thể xảy ra. Khi khám lâm sàng, bệnh nhân có mất cảm giác bên dưới đường ngang qua thân, gọi là mức cảm giác, thường tương ứng với một hoặc hai đốt sống bên dưới vị trí chèn ép. Yếu và co cứng chân tăng phản xạ với các ngón chân duỗi lên trong test Babinski thường có. Chụp x quang tủy sống có thể cho thấy ăn mòn cuống đốt sống (dấu hiệu “winking owl”), sang thương hủy hoặc xơ cứng thân đốt sống, và xẹp đốt sống . Quản lý bệnh nhân ung thư bị đau lưng. HÌNH 27-1 Quản lý bệnh nhân ung thư bị đau lưng.

Xẹp đốt sống đơn thuần không phải dấu hiệu chỉ định chính xác cho khối u; nó thường là biểu hiện của bệnh lý thường gặp hơn, loãng xương. MRI có thể thấy toàn bộ chiều dài tủy sống và xác định phạm vi liên quan của khối u.

ĐIỀU TRỊ Chèn ép tủy sống (Xem Hình 27-1)

Xạ trị kết hợp với dexamethasone, 4 mg tiêm mạch hoặc uống mỗi 4 giờ, thành công giúp làm ngưng và giảm các triệu chứng trên khoảng 70% bệnh nhân được chẩn đoán mà vẫn đi lại được. Phẫu thuật có tỷ lệ hồi phục tốt hơn nhưng có thể gây ảnh hưởng rộng (cắt thân đốt sống với giữ ổn định tủy sống). Chỉ 10% bệnh nhân bị liệt hai chân do khối u có thể hồi phục đi lại được.

HỘI CHỨNG CẬN UNG THƯ CẤP CỨU

Hầu hết các hội chứng cận ung khởi phát âm thầm (Chương 83). Tăng Calci máu, hội chứng bài tiết hormon chống lợi niệu không phù hợp, và suy thượng thận có thể biểu hiện tình trạng cấp cứu.

TĂNG CALCI MÁU

Hội chứng cận ung thường gặp nhất, tăng calci máu xảy ra khoảng 10% bệnh nhân ung thư, đặc biệt trên những bệnh nhân ung thư phổi, vú, đầu và cổ, và thận và u tủy.

Tái hấp thu xương được thực hiện qua trung gian protein liên quan đến hormon cận giá là cơ chế thường gặp nhất; interleukin 1 (IL-1), IL-6, yếu tố hoại tử khối u, và yếu tố tăng trưởng biến đổi Beta có thể hoạt động tại chỗ xương có liên quan khối u. Bệnh nhân thường biểu hiện các triệu chứng không đặc hiệu: mệt mỏi, chán ăn, táo bón, suy nhược. Giảm albumin máu liên quan đến bệnh lý ác tính có thể làm triệu chứng nặng hơn tùy theo nồng độ canxi huyết thanh vì càng nhiều canxi sẽ làm tăng lượng canxi tự do hơn lượng gắn kết với protein.

ĐIỀU TRỊ Tăng canxi máu

Bù dịch saline, thuốc chống tái hấp thu (vd: pamidronate, 60–90 mg tiêm mạch trong 4 giờ, hoặc zoledronate, 4–8 mg tiêm mạch), và glucocorticoids thường giảm nồng độ Calci đáng kể trong vòng 1-3 ngày. Hiệu quả điều trị luôn kéo dài nhiều tuần. Điều trị các bệnh lý ác tính
nguyên nhân cũng quan trọng.

SIADH

Do hoạt động của hormon chống bài niệu vasopressin arginine được sản xuất bởi những khối u nhất định (đặc biệt ung thư phổi tế bào nhỏ), SIADH đặc trưng bới hạ natri máu, nước tiểu bị cô đặc không thích hợp, và tăng bài tiết natri trong nước tiểu trong trường hợp không có giảm thể tích. hầu hết bệnh nhân với SIADH không có triệu chứng. Khi natri huyết thanh giảm <115 meq/L, bệnh nhân có thể có biểu hiện chán ăn, suy nhược, ngủ lịm, dễ bị kích thích, lú lẫn, yếu và thay đổi tính cách.

ĐIỀU TRỊ SIADH

Hạn chế nước kiểm soát hội chứng mức độ nhẹ. Demeclocycline (150–300 mg uống 3 hoặc 4 lần/ngày) ức chế hiệu lực vasopressin lên ống thận nhưng có thời gian bắt đầu tác dụng chậm (1 tuần). Điều trị bệnh lý ác tính nguyên nhân cũng quan trong. Nếu bệnh nhân có thay đổi tri giác với nồng độ natri <115 meq/L, truyền dung dịch normal saline thêm furosemide để tăng thanh lọc nước tự do có thể giúp cải thiện nhanh hơn. Tốc độ điều chỉnh không nên vượt quá 0.5–1 meq/L mỗi giờ. Thay đổi nhanh hơn có thể dẫn đến thay đổi dịch gây tổn thương não.

SUY THƯỢNG THẬN

Sự xâm nhiễm khối u vào tuyến thượng thận và sự phá hủy của nó do xuất huyết là hai nguyên nhân thường gặp nhất. Các triệu chứng như buồn nôn, nôn, chán ăn và hạ huyết áp tư thế có thể do ung thư tiến triển hoặc tác dụng phụ của điều trị. Điều trị nhất định (vd: ketoconazole, aminoglutethimide) có thể cản trở trực tiếp việc tổng hợp steroid ở tuyến thượng thận.

ĐIỀU TRỊ Suy thượng thận

Trong trường hợp cấp cứu, một liều tiêm mạch nhanh 100 mg hydrocortisone, sau đó truyền liên tục 10 mg/giờ. Trường hợp không cấp cứu nhưng trong hoàn cảnh khẩn cấp, 100–200 mg/ngày hydrocortisone đường uống là liều khởi đầu, giảm dần đến duy trì 15–37.5 mg/ngày. Fludrocortisone (0.1 mg/ngày) có thể cần nếu có tăng kali máu.

BIẾN CHỨNG ĐIỀU TRỊ

Biến chứng do điều trị có thể xảy ra cấp tính hoặc xảy ra nhiều năm sau khi điều trị. Tính gây độc có thể liên quan đến thuốc điều trị ung thư hoặc từ đáp ứng của khối u với điều trị (vd: thủng tạng rỗng hoặc gây biến chứng chuyển hóa như hội chứng ly giải bướu). Những biến chứng điều trị nặng biểu hiện như trường hợp cấp cứu. Sốt và giảm bạch cầu đa nhân trung tính và hội chứng ly giải bướu sẽ được nói đến ở đây, Biến chứng khác được thảo luận trong Chương 276 trong “Những nguyên lý Nội khoa Harrion” bản 18.

SỐT VÀ GIẢM BẠCH CẦU ĐA NHÂN TRUNG TÍNH

Nhiều bệnh nhân ung thư được điều trị với các thuốc độc tủy. Khi đếm bạch cầu hạt ngoại biên <1000/μL, nguy cơ nhiễm trùng căn bản tăng (48 trường hợp nhiễm trùng/100 bệnh nhân). Một bệnh nhân có giảm bạch cầu trung tính có sốt (>38°C) nên được khám lâm sàng, chú ý đặc biệt đến sang thương da, màng niêm mạc, vị trí đặt catheter tiêm mạch, và vùng quang trực tràng. Nên lấy hai mẫu máu từ hai vị trí khác nhau và chụp X quang ngực, và các cận lâm sàng thêm nê được chỉ định tùy theo các dấu hiệu lâm sàng từ bệnh sử và thăm khám. Nên giải quyết sự tích tụ dịch, và nước tiểu và/hoặc dịch nên được kiểm tra dưới lính hiển vi để tìm bằng chứng nhiễm trùng .

ĐIỀU TRỊ Sốt và giảm bạch cầu đa nhân trung tính

Sau khi lấy mẫu máu cấy, tất cả bệnh nhân nên được dùng kháng sinh phổ rộng đường tĩnh mạch (vd: ceftazidime, 1 g mỗi 8giờ). nếu tìm thấy vị trí nhiễm trùng trước đó, phác đồ kháng sinh điều trị nên bao phủ cả những vi sinh vật có thể gây nhiễm. Thường liệu pháp nên được bắt đầu với một hoặc nhiều thuốc diệt được cả vi khuẩn gram dương và âm. Nếu sốt giảm, nên tiếp tục điều trị đến khi hồi phục bạch cầu đa nhân trung tính. Sốt giảm bạch cầu trung tính kéo dài trên 7 ngày nên kết hợp thêm amphotericin B (hoặc các thuốc kháng nấm phổ rộng khác) vào phác đồ kháng sinh.

HỘI CHỨNG LY GIẢI BƯỚU

Khi khối u phát triển nhanh được điều trị với phác đồ hóa trị hiệu quả, các tế nào u sắp chết có thể giải phóng lượng lớn các sản phẩm phân hủy của acid nucleic (chủ yếu là acid uric), kali, phosphat, và acid lactic. Tăng phosphat có thể dẫn đến hạ kali máu. Acid uric tăng, đặc biệt trong trường hợp có toan hóa, có thể lắng đọng ở ống thận, dẫn đến suy thận. Suy thận có thể làm nặng hơn tình trạng tăng kaki máu.

ĐIỀU TRỊ Hội chứng ly giải bướu

Phòng ngừa là cách tốt nhất. Duy trì bù dịch với 3 L/ngày dung dịch saline, giữa cho pH nước tiểu > 7.0 với cho dùng bicarbonate, và bắt đầu dùng allopurinol, 300 mg/m2 mỗi ngày, 24 giờ trước khi bắt đầu hóa trị. Một khi đac tiến hành hóa trị, theo dõi điện giải huyết thanh mỗi 6 giờ. Nếu sau 24 giờ, uric acid tăng (>8 mg/dL) và creatinine huyết thanh tăng
(>1.6 mg/dL), rasburicase (men oxy hóa urat tái tổ hợp), 0.2 mg/kg tiêm mạch mỗi ngày, có thể giảm nồng độ acid uric. nếu kali huyết thanh >6.0 meq/ L và suy thận xảy ra sau đó, có thể cần thẩm tách máu . Duy trì nồng độ canxi trong giới hạn bình thường

Chẩn đoán và điều trị Sai khớp cắn loại II tiểu loại II do răng

I. ĐỊNH NGHĨA

Là tình trạng sai khớp cắn mà ở tư thế cắn trung tâm, múi ngoài gần của răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm trên khớp về phía gần so với rãnh ngoài gần của răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm dưới, độ cắn chìa bình thường, tương quan xương hai hàm bình thường nhưng độ cắn phủ tăng.

II. NGUYÊN NHÂN

  • Di truyền
  • Một số trường hợp không xác định được nguyên nhân.

III. CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán xác định

Lâm sàng

  • Ngoài mặt: Bệnh nhân thường có kiểu mặt thẳng khi nhìn nghiêng.
  • Trong miệng

Ở tư thế cắn trung tâm

+ Tương quan răng hàm lớn thứ nhất hai hàm: múi ngoài gần của răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm trên khớp về phía gần so với rãnh ngoài gần của răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm dưới.

+ Tương quan các răng trước hai hàm: tương quan răng nanh loại II, các răng cửa có hình ảnh đặc trưng của khớp cắn nắp hộp với các răng cửa hàm trên ngả lưỡi hoặc hai răng cửa giữa ngả lưỡi và hai răng cửa bên ngả môi.

  • Độ cắn chìa bình thường
  • Độ cắn phủ tăng, mức độ tăng cao tùy từng trường hợp
  • Đường cong spee tăng
  • Có thể có khấp khểnh răng
  • Có thể có cắn chéo các răng sau một bên hoặc cả hai bên.
  • Cung răng hàm trên có thể bình thường hoặc hẹp

Cận lâm sàng

Mẫu hàm thạch cao

  • Tương quan răng hàm lớn thứ nhất loại II
  • Tương quan răng nanh loại II
  • Đường cong Spee sâu.
  • Các răng cửa hàm trên ngả trong hoặc hai răng cửa giữa ngả trong và hai răng cửa bên ngả ngoài.

X quang phim sọ nghiêng (Cephalometrics)

  • Tương quan xương hàm trên và xương hàm dưới loại I theo chiều trước
  • Các chỉ số về răng:

+ Trục của răng cửa hàm trên ngả lưỡi.

+  Góc răng cửa hàm trên với mặt phẳng SN thấp.

+  Góc răng cửa hàm trên với mặt phẳng hàm trên thấp.

+  Góc liên răng cửa tăng.

– Chỉ số phần mềm: Góc mũi môi bình thường.

Chẩn đoán phân biệt

Sai khớp cắn loại II tiểu loại II do xương: Phân biệt phải dựa vào phim X quang sọ nghiêng với các đặc điểm:

  • Số đo góc ANB tăng,
  • Chỉ số Wits tăng.

IV.  ĐIỀU TRỊ

Nguyên tắc

  • Tạo lập lại tương quan hai hàm lý tưởng nhất là khớp cắn loại I cả răng hàm lớn và răng nanh, nếu không thì ít nhất phải đạt được tương quan răng nanh loại
  • Cải thiện về thẩm mỹ.
  • Đảm bảo độ ổn định

Điều trị cụ thể

  • Nghiên cứu mẫu hàm và lên kế hoạch điều trị.
  • Nhổ răng nếu có chỉ định
  • Gắn mắc cài cố định hai hàm.
  • Nâng khớp cắn nếu có chỉ định
  • Sắp xếp và làm thẳng các răng theo chiều ngang và chiều đứng
  • Đóng khoảng nhổ răng. Trong một số trường hợp cần tăng cường neo chặt
  • Hoàn thiện
  • Điều trị duy trì.
  • Kết thúc điều trị.

V.    TIÊN LƯỢNG VÀ BIẾN CHỨNG

  1. Tiên lượng
    • Tình trạng khớp cắn loại II tiểu loại 2 do răng thường gây sang chấn các răng trước hai hàm, viêm quanh răng và có thể gây mất răng sớm, ảnh hưởng đến chức năng và thẩm mỹ.
    • Nếu điều trị đúng phác đồ nói trên thì tiên lượng tốt
  2. Biến chứng
    • Sang chấn các răng trước hai hàm.
    • Đau khớp thái dương hàm.
    • Rối loạn khớp thái dương hàm.

VI.     PHÒNG BỆNH

Cần khám định kỳ, phát hiện và điều trị sớm.

Xét Nghiệm Tủy Xương

TỦY ĐỒ: để lấy mẫu tủy xương người ta thường chọc xương ức hoặc chọc hút ở mào chậu bằng một kim chọc đầu vát, có nòng, sau khi gây tê tại chỗ tuỳ theo hoàn cảnh.

Cũng có thể hút dịch tủy xương bằng chọc kim. Dịch hút ra sẽ phải lập tức đàn ngay trên phiến kính và nhuộm bằng phương pháp May-Grunwald- Giemsa rồi đọc dưới kính hiển vi.

Phương pháp nhuộm bằng màu xanh Phổ (bleu de Prusse) được sử dụng để phát hiện những hạt ferritin trong bào tương các nguyên hồng cầu và phương pháp nhuộm các enzym peroxydase có thể dùng để phân biệt được các nguyên bạch cầu.

Tủy đồ dùng để nghiên cứu hình thái các tế bào của tủy xương.

SINH THIẾT TỦY XƯƠNG: trong một số trường hợp, người ta lấy một mảnh tủy xương để xét nghiệm mô học.

Ngoài ra, sinh thiết tủy xương còn cho phép nghiên cứu cấu trúc của tủy xương.

Những chỉ định làm Tủy đồ

Là những trường hợp sau:

  1. Những bệnh trong đó xét nghiệm tủy xương là biện pháp duy nhất cho phép chẩn đoán xác định, đặc biệt là những rối loạn tạo huyết mà máu ngoại vi không thể hiện những biến đổi đặc biệt (ví dụ bệnh bạch cầu không tăng bạch cầu, thiếu máu bất sản), hoặc để phát hiện những yếu tố tế bào đặc biệt trong tủy xương (ví dụ trong bệnh đa u tủy xương đa, bệnh Gaucher).
  2. Những bệnh mà chẩn đoán có thể chính xác nhờ xét nghiệm tủy xương: ví dụ, các bệnh bạch cầu, thiếu máu tan huyết, thiếu máu ác tính, giảm bạch cầu hoặc giảm tiểu cầu bề ngoài tiên phát, một số bệnh không tan máu mà mầm bệnh chỉ có thể tìm thấy trong tủy xương (ví dụ bệnh do leishmania, bệnh do histoplasma, lao, bệnh do brucella).
  3. Phát hiện di căn vào tủy xương từ những ung thư tiên phát của tuyến tiền liệt, của phổi, của vú, V…V…
  4. Chẩn đoán phân biệt những trường hợp thiếu máu: hiếm khi cần phải làm tủy đồ, trong thực tế chỉ có chỉ định trong trường hợp thiếu máu nặng mà không xác định được nguyên nhân.

Thuyết minh tủy đồ

TỦY XƯƠNG NGHÈO TẾ BÀO

  1. Nghèo nàn do kỹ thuật chọc hút: khi chọc hút tủy xương, có thể bị lẫn máu làm cho tủy xương có vẻ nghèo nàn. Nếu chọc hút đúng kỹ thuật, và nếu chọc hút nhiều lần mà chỉ hút ra được máu, thì phải ghi nhận sự kiện này vì có thể là dấu hiệu của bệnh máu rất nặng. Nếu chọc hút tủy xương nhiều lần mà vẫn không lấy được đủ chất tủy thì cần phải làm sinh thiết tủy xương.
  2. Nghèo nàn thật sự:chất dịch hút ra nhạt màu và có mỡ, và tủy đồ “trống rỗng”, với rất ít tế bào: có thể là tủy xương bất sản (giai đoạn cuối cùng của bệnh bạch cầu, của bệnh thiếu máu bất sản, hoặc của nhiễm khuẩn huyết).

Về chi tiết, xem: suy tủy xương.

BIẾN ĐỔI DÒNG HỒNG CẦU:

  • Tủy xương quá trội về nguyên hồng cầu:trong tủy xương số lượng tế bào có nhân thuộc dòng hồng cầu tăng quá nhiều so với tế bào thuộc các dòng tủy bào khác. Tỷ số giữa những nguyên hồng cầu ưa base so với nguyên hồng cầu chính sắc trong tủy xương bình thường là 1:5 tới 1:8, nay bị đổi ngược lại và có thể tới 20:1.
  • Khi so sánh tủy đồ với huyết đồ, có thể nhận định như sau:

+ Nếu hồng cầu tăng đồng thời trong máu ngoại vi: bệnh đa hồng cầu nguyên phát, hoặc tăng hồng cầu thứ phát, bệnh tăng nguyên hồng cầu cấp tính là trường hợp ngoại lệ.

+ Nếu hồng cầu giảm đồng thời trong máu ngoại vi:

Thiếu máu hồng cầu bình thường (ở phần lớn các bệnh thiếu máu, nhất là thiếu máu tan huyết), trong trường hợp này ở tủy xương dòng hồng cầu tăng sinh sản (nhiều tiền nguyên hồng cầu và nguyên hồng cầu). Nếu trong tủy xương có rất nhiều nguyên hồng cầu, thì có thể là loạn sản tủy xương hoặc là bệnh loạn tạo hồng cầu bẩm sinh, hiếm thấy hơn.

Thiếu máu nguyên hồng cầu khồng lồ (thiếu máu ác tính và thiếu máu nguyên hồng cầu khồng lồ thứ phát), trong trường hợp này, dòng hồng cầu khồng lồ sinh sản mạnh, với những tế bào rất lớn mà những hạt chromatin của nhân lại rất nhỏ (tiền hồng cầu khồng lồ và hồng cầu khồng lồ).

Thiếu máu càng nặng thì nguyên hồng cầu trong tủy xương sinh sản càng mạnh.

  • Tủy xương có số lượng nguyên hồng cầu vừa phải:thấy trong thời kỳ tiến triển hoặc thuyên giảm của mọi trường hợp thiếu máu hoặc sau khi bị mất một lượng máu lớn.
  • tủy đồ có thể còn bình thường ở giai đoạn khởi đầu của bệnh thiếu máu bất sản hoặc thiếu máu thứ phát do ung thư.

Tủy đồ bình thường

Tế bào Khoảng dao động Trung binh
DÒNG BẠCH CẦU HẠT 50-75% 65,5%
Nguyên tủy bào 0,2-1,5% 0,9%
Tiền tủy bào 2,1-4,1% 3,3%
tủy bào 10,5-22,5% 16,5%
Hậu tủy bào 9,6-30,6% 20,9%
Bạch cầu hạt trung tính 9,5-31,0% 20,7%
Dòng bạch cầu hạt ưa acid 1,2-5,3% 3,1%
Dòng bạch cầu hạt ưa base 0-0,2% 0,1%
DÒNG HỒNG CẦU 8-30% 19,7%
Tiền nguyên hồng cầu 0,2-1,3% 1,4%
Nguyên hồng cầu ưa base 0,5-2,4% 1,4%
Nguyên hồng cầu ưa đa sắc 10,9-19,2% 14,9%
Nguyên hồng cầu chính sắc 0,4-4,6% 2,0%
DÒNG LYMPHO LƯỚI 5-20% 14,8%
lympho bào 5,1-23,2% 13,2%*
Tương bào 0,4-3,9% 1,3%
Tế bào lưới 0-0,9% 0,3%
TẾ BÀO NHÂN KHỔNG LỒ ++ tới +++ có trong tủy đổ
TỶ Số TỂ BÀO DỒNG BẠCH CẦU/DÒNG hồng CẦU 3:1-4:1 3,6:1

* Ở trẻ em nhỏ là 25%.

BIẾN ĐỔI Ở DÒNG BẠCH CẦU TỦY XƯƠNG:

  • Tủy xương có rất nhiều bạch cầu hạt hoặc nguyên bạch cầu hạt: thấy trong bệnh bạch cầu tủy bào; trên tủy đồ thấy tất cả mọi giai đoạn trung gian của dòng bạch cầu hạt đều tăng, nhất là những tủy bào và hậu tủy bào. Dòng bạch cầu hạt trung tính thường tăng nhiều nhất, nhưng cũng có những tế bào thuộc dòng ưa acid và ưa base. Những tế bào này có thể trội hơn trong bệnh bạch cầu tủy bào ưa base và ưa acid.
  • Tủy xương có bạch cầu hạt vừa phải: thấy trong những bệnh nhiễm khuẩn kèm theo tăng bạch cầu hạt trung tính trong máu. số lượng tủy bào và bạch cầu hạt trung tính tăng, nhưng số lượng các tế bào rất non thì bình thường hoặc tăng ít. Trong trường hợp tăng bạch cầu hạt ưa acid hoặc ưa base trong máu, thì trong tủy đồ cũng thấy những tế bào thuộc các dòng tương ứng tăng lên.
  • Giảm sản hoặc bất sản tủy xương: thấy trong trường hợp mất bạch cầu hạt, trong máu hầu như hoàn toàn không thấy các bạch cầu hạt. Trong tủy xương tất cả những tế bào thuộc dòng tủy bào ít nhiều đều bị suy giảm, trong khi tế bào thuộc các dòng khác bình thường. Vào thời kỳ bệnh thuyên giảm, các tế bào thuộc dòng tủy bào lại xuất hiện lại trên tủy đồ, nhưng xu hướng biệt hoá yếu.

BIẾN ĐỔI TỶ SỐ GIỮA TẾ BÀO DÒNG BẠCH CẦU VỚI DÒNG HồNG CẦU: trên tủy đồ bình thường, tỷ số này biến động giữa 3/1 và 4/1.

  • Tăng tương đối tếbào dòng bạch cầu: thấy trong đa số các trường hợp nhiễm khuẩn gây kích thích tạo bạch cầu, trong bệnh bạch cầu tủy bào, trong phản ứng dạng bệnh bạch cầu, và trong trường hợp giảm tế bào có nhân dòng hồng cầu (thiếu máu bất sản).
  • Tăng tương đối tế bào dòng hồng cầu: thấy trong bệnh mất bạch cầu hạt, tăng sản tạo hồng cầu ở bệnh thiếu máu hồng cầu khồng lồ (thiếu máu ác tính và thiếu máu hồng cầu khồng lồ thứ phát), thiếu máu hồng cầu bình thường (thiếu máu sau xuất huyết, thiếu máu thiếu sắt, thiếu máu tan huyết, thiếu máu vùng biển) và trong bệnh đa hồng cầu.

BIẾN ĐỔI DÒNG LYMPHO LƯỚI

  • Có quá nhiều lympho bào hoặc bạch cầu đơn nhân trong máu ngoại vi (xem: tăng lymphô bào và tăng bạch cầu đơn nhân), thường có kèm tăng đồng thời những yếu tố tế bào tương ứng ở trong tủy xương. Các tế bào thuộc những dòng này tăng riêng ở trong tủy xương gặp trong bệnh bạch cầu không tăng bạch cầu và trong sarcom lympho (là những bất thường về tế bào hay xảy ra).
  • Trong bệnh đa u tủy xương, người ta thấy số lượng tương bào tủy xương tăng rất cao. Tăng tương bào thường không rõ rệt trong những trường hợp viêm tủy xương và trong một số bệnh bạch cầu.

BIẾN ĐỔI DÒNG TẾ BÀO NHÂN KHỔNG LỒ

  1. Tủy xương nghèo tế bào nhân khổng lồ: nếu thời gian sống của tiểu cầu trong máu bình thường thì có thể là suy tủy xương toàn phần, tức là suy tất cả các dòng hồng cầu, bạch cầu, và tiểu cầu, hoặc chỉ suy tủy xương phân ly, tức là chỉ suy giảm riêng dòng tiểu cầu (gọi là giảm tiểu cầu trung ương).
  2. Tủy xương nghèo tế bào nhân khổng lồ có thể thấy cả trong bệnh thiếu máu bất sản, trong bệnh bạch cầu hoặc một bệnh máu ác tính khác, do ngộ độc (benzol, hơi ngạt gốc nitơ, hoặc các thuốc chống phân bào khác), hoặc do tác động của bức xạ.
  3. Số lượng tế bào nhân khổng lồ bình thường hoặc tăng trong tủy xương, nhưng thời gian sống trung bình của tiểu cầu trong máu ngắn, thấy trong:

+ Tăng sản tủy xương thứ phát sau chảy máu nặng hoặc tái phát nhiều lần.

+ Tăng năng lách: hội chứng Banti, bệnh Gaucher, hội chứng Felty.

+ Miễn dịch-dị ứng thuốc: quinin, quinidin, chloramphenicol, thuốc hạ nhiệt, digitoxin, heparin, V…V…

+ Bệnh do virus: bệnh quai bị, tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn, viêm gan, bệnh rubeon, nhiễm virus cự bào.

+ Bệnh đông máu nội mạch khu trú: u mạch máu khồng lồ ở trẻ sơ sinh (hội chứng Kasabach-Merritt).

+ Lupus ban đỏ rải rác.

+ Giảm tiểu cầu sau khi truyền một lượng máu lớn, tuần hoàn ngoài cơ thể.

Những chỉ định sinh thiết tủy xương

Xét nghiệm tủy đồ và nghiên cứu những tế bào riêng rẽ của tủy xương (trên tủy đồ) không cho biết về cấu trúc và những tổn thương ở tủy xương.

Sinh thiết tủy xương được chỉ định trong những trường hợp sau: khi tủy đồ không cung cấp đủ thông tin về bệnh, khi phải chẩn đoán những bệnh mà cấu trúc tủy xương tham gia vào quá trình bệnh lý (ví dụ bệnh xơ hoá tủy xương), khi phải tìm di căn ung thư vào tủy xương, hoặc u lympho bào thâm nhiễm vào tủy xương.

Đứng trước một trường hợp suy tủy xương, thì sinh thiết tủy xương thường cung cấp cho ta những thông tin đầy đủ hơn so với tủy đồ.

Những kỹ thuật khác

SINH SẢN NHỮNG TẾ BÀO CHƯA BIỆT HOÁ HOẶC NGUYÊN HUYẾT BÀO: Những tế bào này có vẻ rất non (nhân to, màu rất sáng, bào tương ít nhiều ưa base), chưa thể xếp chúng vào một dòng tế bào nào của tủy xương, nhưng có thể thấy chúng chiếm từ 1-2% trong tủy đồ bình thường. Một số trong những tế bào này cho phản ứng dương tính với peroxydase, điều này cho phép xếp chúng thuộc dòng bạch cầu tủy xương. Những tế bào chưa biệt hoá này sinh sản mạnh trong bệnh bạch cầu cấp tính hoặc trong những đợt cấp tính của bệnh bạch cầu mạn tính.

CÁC YẾU TỐ TẢNG TRƯỞNG TẠO HUYẾT (CSF hoặc “Colony Stimulating Factors”): là những polypetid có tác dụng kích thích sự sinh sản và biệt hoá của những tế bào nguồn (tế bào tiền thân) của những dòng tạo huyết khác nhau. Yếu tố erythropoietin (xem từ này) kích thích tạo hồng cầu, yếu tố tăng trưởng bạch cầu hạt hoặc G-CSF (xem: filgrastim) kích thích sinh sản dòng bạch cầu hạt. Còn những yếu tố khác kích thích sinh sản các dòng tế bào tạo huyết khác nữa.

Bệnh Huyết đồ tủy đồ
Thiếu máu ác tính và thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ (thiếu những yếu tố chống thiếu máu ác tính) Thiếu máu hồng cầu to. Có It hồng cầu lưới. Có các dạng không bình thường thuộc dòng hồng cầu.

tủy xương nhiều nguyên hồng cầu khồng lổ.

Thiếu máu nhược sắc thiếu sắt Thiếu máu nhược sắc hồng cầu nhỏ. Có ít hồng cầu lưới. Hình ảnh nguyên hồng cầu bình thường. Không thấy ferritin trong tủy xương.

Nguyên hồng cầu tàng.

Thiếu máu bất sản (ngộ độc, bức xạ) Thiếu máu. Có ít hồng cầu lưới. Giảm bạch cầu, giảm bạch cầu hạt trung tính, giảm tiểu cầu. Chọc hút nhiều lần nhưng chỉ được ít chất tủy xương.

Sinh thiết tủy xương sẽ phân biệt được giữa bất sản và giảm sản tủy xương

Thiếu máu tiêu tủy xương (xơ hoá, xơ cứng, thâm nhiễm tủy xương) Thiếu máu. ĐÔI khi có hồng cầu có nhân.

Giảm bạch cầu, đôi khi giảm tiểu cầu.

tủy đổ có (ch để chẩn đoán những bệnh bạch cầu và dl căn ung thư vào tủy xương (ung thư, u lympho bào).
Thiếu máu trong các bệnh nhiễm khuẩn, bệnh thận và bệnh gan Thiếu máu đôi khi hồng cầu bình thường, đôi khi hồng cầu to. tủy đổ bình thường, nhưng có ích để loại trừ những nguyên nhân khác.
Thiếu máu tan máu Tăng hồng cầu lưới Tăng tạo máu dòng hồng cầu.
Thiếu máu do mất máu không thiếu sắt Thiếu máu hồng cầu bình thường hoặc hơi to.

Tăng hồng cầu lưới

Phản ứng bình thưởng: tăng tạo huyết dòng hồng cầu.
Bệnh đa hồng cầu nguyên phát Đa hồng cầu, hay có tăng bạch cầu dạng tế bào non. Tăng sản mọl dòng tế bào tủy xương.
Bệnh bạch cầu (tăng bạch cầu) Tăng bạch cầu, các dạng tế bào non, hoặc không điển hình. tủy đổ thường cho phép xác định bệnh bạch cầu thuộc kiểu nào.
Bệnh bạch cầu (không tăng bạch cầu) Đôi khi giảm bạch cầu, tế bào dạng không điển hình. tủy đổ thường cho phép xác định chan đoán.
Bệnh Hodgkin Không thấy những biến đổi đặc biệt. Thâm nhiễm tủy xương không thường xuyên. Nên làm sinh thiết tủy xương.
Mất bạch cầu hạt Không thiếu máu, không giảm tiểu cầu. Tăng lympho bào tương đối. Không thấy bạch cầu hạt. Dòng hồng cầu và tế bào nhân khồng lổ bình thưởng.
Ban xuất huyết giảm tiểu cầu tiên phát Giảm tiểu cầu đơn thuẩn. tủy xương bình thường, tế bào nhân khồng lổ bình thường hoặc tăng số lượng.
Ban xuất huyết giảm tiểu cầu thứ phát Giảm tiểu cầu đơn thuần hoăc phối hợp với những dấu hiệu của bệnh bạch cầu. tủy xương bình thường hoặc có dấu hiệu bệnh bạch cầu, di căn ung thư vào tủy xương.

NHỮNG TẾ BÀO TIỀN THÂN Ở TỦY XƯƠNG (CFU hoặc “Colony Forming Units”): nghiên cứu những tế bào tiền thân của tủy xương có ích trong chẩn đoán những trường hợp suy tủy xương, đặc biệt là những hội chứng loạn sản tủy xương, bệnh bạch cầu, đa hồng cầu, và có ích trong đánh giá độ phong phú của tủy xương trước khi lấy tủy xương để ghép. Những tế bào tiền thân ở tủy xương được nghiên cứu bằng cách xét nghiệm những đám tế bào (colony: đám hoặc cụm tế bào) mọc lên trong môi trường cấy tế bào tủy xương đã cho thêm các yếu tố tăng trưởng tạo huyết (xem thuật ngữ này). Dòng bạch cầu hạt trung tính và dòng bạch cầu đơn nhân là những dòng hay được nuôi cấy nhất.

Risperdal

Thuốc Risperdal
Thuốc Risperdal

RISPERDAL

JANSSEN PHARMACEUTICA

Viên nén bao phim bẻ được 1 mg: vỉ 6 viên, hộp 2 vỉ hoặc vỉ 10 viên, hộp 2 vỉ và hộp 6 vỉ – Bảng B.

Viên nén bao phim bẻ được 2 mg: vỉ 10 viên, hộp 2 vỉ và hộp 6 vỉ – Bảng B. Viên nén bao phim bẻ được 3 mg: vỉ 10 viên, hộp 2 vỉ và hộp 6 vỉ – Bảng B. Viên nén bao phim bẻ được 4 mg: vỉ 10 viên, hộp 2 vỉ và hộp 6 vỉ – Bảng B. Viên nén bao phim 6 mg: vỉ 7 viên, hộp 4 vỉ – Bảng B.

Viên nén bao phim 8 mg: vỉ 7 viên, hộp 4 vỉ – Bảng B.

Dung dịch uống 1 mg/ml: chai 100 ml + ống hút 3 ml (được định chuẩn bằng mg và ml, thể tích nhỏ nhất là 0,25 ml và thể tích lớn nhất là 3 ml).

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Risperidone 1 mg
Tá dược: lactose, tinh bột ngô, cellulose vi tinh thể, hypromellose, Mg stearate, silic dạng keo khan, natri lauryl sulfate và propylene glycol.
cho 1 viên
Risperidone 2 mg
Tá dược: lactose, tinh bột ngô, cellulose vi tinh thể, hypromellose, Mg stearate, silic dạng keo khan, natri lauryl sulfate,

 

cho 1 viên
Risperidone 3 mg
Tá dược: lactose, tinh bột ngô, cellulose vi tinh thể, hypromellose, Mg stearate, silic dạng keo khan, natri lauryl sulfate, propylene glycol, talc, titane dioxide và vàng quinoline.

 

cho 1 viên
Risperidone 4 mg
Tá dược: lactose, tinh bột ngô, cellulose vi tinh thể, hypromellose, Mg stearate, silic dạng keo khan, natri lauryl sulfate, propylene glycol, talc, titane dioxide, vàng quinoline và phẩm màu chàm disulfonate nhôm.

 

cho 1 viên
Risperidone 6 mg
Tá dược: lactose, tinh bột ngô, cellulose vi tinh thể, hypromellose, Mg stearate, silic dạng keo khan, natri lauryl sulfate, propylene glycol, talc, titane dioxide, phẩm màu vàng quinoline nhôm và phẩm màu vàng cam S nhôm.
cho 1 viên
Risperidone 8 mg
Tá dược: lactose, tinh bột ngô, cellulose vi tinh thể, hypromellose, Mg stearate, silic dạng keo khan, natri lauryl sulfate, propylene glycol, talc, titane dioxide, phẩm màu vàng quinoline nhôm và phẩm màu chàm disulfonate nhôm.

 

cho 100 ml
Risperidone 100 mg
Tá dược: acid tartric, acid benzoic, natri hydroxide và nước tinh khiết.

DƯỢC LỰC

Risperdal, có hoạt chất là risperidone, là thuốc chống loạn thần mới thuộc nhóm dẫn xuất benzisoxazole.

Risperidone là một chất đối kháng monoaminergic có chọn lọc với những đặc tính riêng biệt. Risperidone có ái lực cao với các thụ thể serotonin 5-HT2 và dopamine D2.

Risperidone cũng gắn kết vào thụ thể a1-adrenergic và có ái lực thấp hơn với thụ thể histamin H1 và thụ thể a2-adrenergic.

Risperidone không có ái lực với các thụ thể cholinergic. Mặc dầu risperidone là chất đối kháng mạnh với thụ thể D2, được xem là cải thiện các triệu chứng dương tính của bệnh tâm thần phân liệt, nhưng risperidone ít gây ức chế các hoạt động về vận động và ít gây chứng giữ nguyên thế hơn các thuốc an thần kinh cổ điển chủ yếu. Là chất đối kháng cân bằng giữa thụ thể serotonin và dopamine trung ương, risperidone có thể làm giảm nguy cơ gây tác dụng phụ ngoại tháp và mở rộng tác động điều trị đối với các triệu chứng âm tính và triệu chứng cảm xúc ở bệnh nhân tâm thần phân liệt.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Risperidone được hấp thu hoàn toàn sau khi uống, đạt đến nồng độ đỉnh trong huyết tương trong vòng 1-2 giờ. Sự hấp thu không bị ảnh hưởng bởi thức ăn, vì vậy risperidone có thể dùng lúc no hoặc đói.

Risperidone được chuyển hóa một phần thành 9-hydroxy-risperidone, chất này có tác dụng

dược lý tương tự như risperidone. Risperidone cùng với 9-hydroxy-risperidone tạo nên thành phần có hoạt tính chống loạn thần. Đường chuyển hóa khác của risperidone là loại gốc alkyl ở Nitơ.

Ở những bệnh nhân tâm thần, sau khi uống risperidone được thải trừ với thời gian bán thải khoảng 3 giờ. Thời gian bán hủy của 9-hydroxy-risperidone và thành phần có hoạt tính chống loạn thần là 24 giờ.

Nồng độ ổn định trong máu của risperidone đạt được trong vòng 1 ngày ở hầu hết các bệnh nhân. Nồng độ ổn định trong máu của 9-hydroxy-risperidone đạt được trong vòng 4-5 ngày sau khi dùng thuốc. Trong khoảng liều điều trị, nồng độ trong huyết tương của risperidone tỉ lệ với liều dùng.

Risperidone được phân bố nhanh chóng. Thể tích phân bố là 1-2 l/kg. Trong huyết tương, risperidone gắn kết với albumin và a1-acid glycoprotein. Sự gắn kết với protein huyết tương của risperidone là 88%, của 9-hydroxy-risperidone là 77%.

Một tuần sau khi uống, 70% liều uống được thải trừ trong nước tiểu và 14% trong phân. Trong

nước tiểu, risperidone và 9-hydroxy-risperidone chiếm 35-45% liều dùng. Phần còn lại là những chất chuyển hóa không có hoạt tính.

Một nghiên cứu liều duy nhất cho thấy nồng độ chất có hoạt tính trong huyết tương cao hơn và sự thải trừ của risperidone chậm hơn ở người già và ở bệnh nhân suy thận. Nồng độ trong huyết tương của risperidone ở bệnh nhân suy gan là bình thường.

CHỈ ĐỊNH

Risperdal được chỉ định trong điều trị tâm thần phân liệt cấp và mạn tính và các bệnh loạn thần khác, trong đó nổi bật các triệu chứng dương tính (như ảo giác, hoang tưởng, rối loạn tư duy, thù hằn, đa nghi) và/hoặc các triệu chứng âm tính (như cảm xúc cùn mòn, co rút về tình cảm và xã hội, ngôn ngữ nghèo nàn).

Risperdal cũng cải thiện các triệu chứng cảm xúc (như trầm cảm, mặc cảm tội lỗi, lo âu) kết hợp với tâm thần phân liệt.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Risperdal được chống chỉ định với những bệnh nhân quá mẫn với thuốc.

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG và THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Do tác dụng chẹn alpha của Risperdal, chứng hạ huyết áp tư thế đứng có thể xảy ra, đặc biệt trong giai đoạn điều chỉnh liều ban đầu.

Risperdal nên được dùng thận trọng đối với những bệnh nhân được biết có bệnh về tim mạch (ví dụ như suy tim, nhồi máu cơ tim, bất thường về dẫn truyền, mất nước, giảm thể tích máu hoặc bệnh mạch máu não) và liều dùng nên được điều chỉnh từ từ như đã được khuyến cáo (xem phần Liều lượng và Cách dùng). Nên xem xét việc giảm liều nếu hạ huyết áp xảy ra.

Những thuốc có tính chất đối kháng thụ thể dopamine có liên quan với việc gây ra rối loạn vận động muộn đặc trưng bởi: các cử động nhịp nhàng không tự ý, chủ yếu ở lưỡi và/hoặc ở mặt. Đã có báo cáo rằng sự xuất hiện các triệu chứng ngoại tháp là một yếu tố nguy cơ cho việc phát triển rối loạn vận động muộn, bởi vì Risperdal ít có khả năng gây ra các triệu chứng ngoại tháp hơn so với các thuốc an thần kinh cổ điển chủ yếu nên Risperdal ít có nguy cơ tạo ra rối loạn  vận động muộn hơn so với các thuốc an thần kinh cổ điển chủ yếu. Nếu những dấu hiệu và triệu chứng của rối loạn vận động muộn xảy ra, việc ngừng sử dụng các thuốc chống loạn thần nên được xem xét.

Hội chứng ác tính của các thuốc an thần kinh chủ yếu, đặc trưng bởi sốt cao, cứng đờ cơ, sự không ổn định về thần kinh tự động, rối loạn ý thức và tăng nồng độ creatine phosphokinase (CPK) đã được báo cáo xảy ra với các thuốc an thần kinh cổ điển chủ yếu. Trong trường hợp này, tất cả các thuốc chống loạn thần, kể cả Risperdal nên được ngưng sử dụng.

Nên giảm phân nửa liều khởi đầu và phần tăng liều cho các liều kế tiếp ở người già, bệnh nhân suy thận hoặc suy gan. Cũng cần thận trọng khi kê toa Risperdal đối với bệnh nhân bệnh Parkinson bởi vì theo lý thuyết, nó có thể làm cho bệnh nặng thêm.

Những thuốc an thần kinh cổ điển chủ yếu được biết có thể làm giảm ngưỡng động kinh. Nên thận trọng khi điều trị cho những bệnh nhân có bệnh động kinh.

Bệnh nhân nên được khuyên tránh ăn quá nhiều vì có khả năng tăng cân.

Ảnh hưởng đến việc lái xe và sử dụng máy móc:

Risperdal có thể ảnh hưởng đến những hoạt động đòi hỏi sự tỉnh táo về tinh thần. Do đó, những bệnh nhân đang dùng Risperdal được khuyên không nên lái xe hoặc vận hành máy móc cho đến khi biết rõ sự nhạy cảm của họ.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Lúc thai:

Độ an toàn của Risperdal khi sử dụng cho phụ nữ có thai chưa được xác định. Mặc dù qua thử nghiệm trên động vật, risperidone không cho thấy độc tính trực tiếp trên sự sinh sản, một số tác dụng gián tiếp qua trung gian của prolactin và hệ thần kinh trung ương đã được ghi nhận. Tác động gây quái thai của risperidone không được ghi nhận ở bất cứ nghiên cứu nào. Do đó, chỉ nên dùng Risperdal trong lúc mang thai nếu lợi ích điều trị hơn hẳn nguy cơ tai biến.

Lúc nuôi con bú:

Risperdal cũng không được biết có bài tiết trong sữa mẹ hay không. Ở những nghiên cứu trên động vật, risperidone và 9-hydroxy-risperidone được bài tiết qua sữa. Do đó, phụ nữ đang sử dụng Risperdal không nên cho con bú.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Nguy cơ dùng kết hợp Risperdal với những thuốc khác chưa được đánh giá một cách có hệ thống. Do Risperdal có tác dụng chủ yếu trên hệ thần kinh trung ương vì vậy nên thận trọng khi dùng với các thuốc tác động trên hệ thần kinh trung ương.

Risperdal có thể đối kháng tác động của Levodopa và các chất đồng vận dopamine khác. Carbamazepine cho thấy làm giảm nồng độ phần có hoạt tính chống loạn thần của Risperdal trong huyết tương. Những thuốc cảm ứng men gan khác cũng có tác dụng tương tự. Liều của Risperdal nên được điều chỉnh lại và giảm liều nếu cần thiết khi ngưng dùng carbamazepine và những thuốc cảm ứng men gan khác.

Nhóm phenothiazine, các thuốc chống trầm cảm 3 vòng và một số thuốc chẹn beta có thể làm tăng nồng độ risperidone trong huyết tương nhưng không làm tăng nồng độ phần có hoạt tính chống loạn thần. Khi Risperdal được uống cùng với các thuốc gắn kết cao với protein thì không có sự thế chỗ lẫn nhau có ý nghĩa về mặt lâm sàng của bất cứ thuốc nào từ protein huyết tương.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Nhìn chung Risperdal được dung nạp tốt và trong nhiều trường hợp, khó phân biệt tác dụng phụ với những triệu chứng tâm thần. Những tác dụng phụ được quan sát thấy khi sử dụng Risperdal như sau:

Thường gặp: mất ngủ, bứt rứt, lo âu, nhức đầu.

Ít gặp: ngủ gà, mệt mỏi, choáng váng, mất tập trung, táo bón, ăn không tiêu, nôn, mửa, đau bụng, nhìn mờ, chứng cương dương vật, rối loạn chức năng cương dương vật, rối loạn sự xuất tinh, tiểu không kiểm soát, viêm mũi, ban và phản ứng dị ứng khác.

Risperdal ít gây ra tác dụng phụ ngoại tháp hơn so với các thuốc an thần kinh cổ điển chủ yếu. tuy nhiên, trong một số trường hợp, những triệu chứng ngoại tháp sau đây có thể xảy ra: run, cứng cơ, tăng tiết nước bọt, vận động chậm chạp, đứng ngồi không yên, loạn trương lực cơ cấp. Những triệu chứng này thường nhẹ và hồi phục khi giảm liều và/hoặc cho dùng những thuốc chống Parkinson nếu cần thiết.

Thỉnh thoảng, hạ huyết áp tư thế đứng, nhịp tim nhanh phản xạ hoặc cao huyết áp đã được nhận thấy sau khi uống Risperdal đặc biệt với liều khởi đầu cao (xem phần Thận trọng lúc dùng). Risperdal có thể gây tăng nồng độ prolactin trong huyết tương phụ thuộc vào liều dùng. Các biểu hiện có thể kết hợp là chảy sữa, to vú ở đàn ông, rối loạn chu kỳ kinh nguyệt và vô kinh.

Tăng cân (xem phần Thận trọng lúc dùng), phù và tăng men gan đã được quan sát thấy trong khi điều trị bằng Risperdal.

Cũng như những thuốc an thần kinh cổ điển chủ yếu, những triệu chứng sau thỉnh thoảng được ghi nhận ở bệnh nhân loạn thần: ngộ độc nước hoặc do uống nước nhiều hoặc do hội chứng SIADH (sự tiết không thích hợp của nội tiết tố chống lợi tiểu), rối loạn vận động muộn, hội chứng ác tính các thuốc an thần chủ yếu, rối loạn điều hòa thân nhiệt và các cơn động kinh.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Risperdal có thể được dùng dưới dạng viên nén hoặc dung dịch uống. Chuyển từ các thuốc chống loạn thần khác sang Risperdal:

Khi điều kiện trị liệu thích hợp, nên ngưng dần dần sự điều trị trước đó trong khi bắt đầu điều trị bằng Risperdal. Cũng như vậy, trong điều kiện trị liệu thích hợp khi chuyển bệnh nhân đang dùng các thuốc chống loạn thần có tác dụng kéo dài sang Risperdal, thì nên bắt đầu dùng Risperdal thay cho lần tiêm thuốc tiếp theo. Nhu cầu cho việc tiếp tục dùng những thuốc chống Parkinson nên được đánh giá lại định kỳ.

Người lớn:

Risperdal có thể được dùng 1 lần/ngày hoặc 2 lần/ngày.

Điều chỉnh liều tăng dần cho bệnh nhân đến 6 mg trong vòng 3 ngày. Bệnh nhân cấp tính hoặc mãn tính, nên dùng Risperdal liều khởi đầu 2 mg/ngày. Nên tăng liều lên 4 mg vào ngày thứ hai và 6 mg vào ngày thứ ba. Từ đó về sau có thể duy trì liều này hoặc thay đổi tùy từng bệnh nhân nếu cần thiết. Liều tối ưu thông thường là 4-8 mg/ngày. Tuy nhiên, ở một vài bệnh nhân có thể chỉ cần dùng liều thấp hơn.

Giai đoạn điều chỉnh liều chậm hơn có thể tích hợp về mặt trị liệu.

Liều trên 10 mg/ngày không thấy có hiệu quả cao hơn so với những liều thấp hơn và có thể gây ra các triệu chứng ngoại tháp. Vì độ an toàn của liều trên 16 mg/ngày chưa được đánh giá, do đó không nên dùng liều cao hơn ở mức này.

Benzodiazepine có thể được phối hợp thêm với Risperdal nếu cần có thêm tác dụng an thần. Người già:

Liều khởi đầu nên dùng là 0,5 mg x 2 lần/ngày. Liều này có thể được điều chỉnh tăng thêm 0,5 mg x 2 lần/ngày tùy theo từng bệnh nhân cho đến liều 1-2 mg x 2 lần/ngày. Risperdal được dung nạp tốt ở người già.

Trẻ em:

Chưa có kinh nghiệm dùng thuốc này cho trẻ em dưới 15 tuổi. Người bệnh gan và thận:

Liều khởi đầu nên dùng là 0,5 mg x 2 lần/ngày. Liều này có thể được điều chỉnh tăng thêm 0,5 mg x 2 lần/ngày tùy theo từng bệnh nhân cho đến liều 1-2 mg x 2 lần/ngày. Risperdal nên được dùng thận trọng ở nhóm bệnh nhân này cho đến khi có được nhiều kinh nghiệm hơn.

QUÁ LIỀU

Triệu chứng:

Nhìn chung, những dấu hiệu và triệu chứng được ghi nhận là kết quả từ tác dụng quá mức về tác động dược lý đã được biết của thuốc. Những triệu chứng này bao gồm buồn ngủ và an thần, nhịp tim nhanh, hạ huyết áp và triệu chứng ngoại tháp. Sự quá liều cho đến 360 mg đã được báo cáo.

Những bằng chứng hiện có gợi ý Risperdal có khoảng an toàn rộng. Ở một bệnh nhân có kèm theo hạ kali huyết mà uống 360 mg Risperdal, đoạn QT kéo dài đã được báo cáo.

Trong trường hợp quá liều cấp tính, nên xem xét khả năng đã dùng nhiều thuốc.

Điều trị:

Thiết lập và duy trì sự thông thường đường hô hấp và bảo đảm đầy đủ oxy và thông khí. Rửa dạ dày (sau khi đã đặt nội khí quản, nếu bệnh nhân bất tỉnh) và nên xem xét việc dùng than hoạt kết hợp với thuốc xổ. Nên bắt đầu theo dõi tim mạch ngay kể cả theo dõi điện tâm đồ liên tục để phát hiện loạn nhịp có thể xảy ra.

Không có thuốc giải độc đặc hiệu đối với Risperdal. Do đó những biện pháp hỗ trợ thích hợp  nên được áp dụng. Hạ huyết áp và suy tuần hoàn nên được điều trị bằng những biện pháp thích hợp như truyền dịch tĩnh mạch và/hoặc thuốc tác dụng giống thần kinh giao cảm. Trong trường hợp có triệu chứng ngoại tháp nặng, nên dùng các thuốc kháng cholinergic. Nên tiếp tục giám sát và theo dõi chặt chẽ về mặt y khoa cho đến khi bệnh nhân hồi phục.

BẢO QUẢN

Viên nén Risperdal nên được bảo quản ở nhiệt độ 15-30oC.

Dung dịch uống Risperdal nên được bảo quản ở nhiệt độ 15-30oC và nên được bảo vệ tránh đông.

Giữ thuốc ngoài tầm tay với trẻ em.

Cách Cho Con Bú: Hướng Dẫn Dành Cho Các Bà Mẹ

Việc cho con bú là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong việc nuôi dưỡng trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, nhiều bà mẹ vẫn chưa hiểu rõ cách cho con bú đúng cách. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ hướng dẫn các bà mẹ cách cho con bú hiệu quả để đảm bảo sức khỏe cho cả mẹ và bé.

1. Bú Sớm Sau Khi Sinh

Sau khi sinh, việc cho con bú ngay trong vòng nửa giờ đầu là rất quan trọng. Bú sớm giúp kích thích cơ thể mẹ sản xuất sữa, nhờ vào phản xạ tiết hormone prolactin và oxytoxin. Prolactin giúp tạo ra sữa, trong khi oxytoxin giúp đẩy sữa từ các nang sữa ra ngoài. Việc này không chỉ thúc đẩy sản xuất sữa mà còn giúp trẻ nhận được sữa non, giàu dinh dưỡng và kháng thể.

2. Tư Thế Cho Con Bú

Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc cho con bú, mẹ nên chọn tư thế thoải mái. Mẹ có thể nằm hoặc ngồi, sao cho toàn thân trẻ sát vào người mẹ. Miệng trẻ nên ngậm sâu vào quầng vú để động tác mút được hiệu quả.

  • Số lần bú: Không cần gò bó theo giờ giấc. Trẻ có thể bú từ 8 đến 10 lần mỗi ngày, kể cả vào ban đêm nếu trẻ đói.
  • Thời gian bú: Cho trẻ bú đến khi trẻ tự rời vú. Nếu trẻ chưa no, mẹ có thể chuyển sang bên vú còn lại.

3. Nuôi Con Bằng Sữa Mẹ

a. Cho Trẻ Bú Hoàn Toàn Trong 6 Tháng Đầu

Trong 6 tháng đầu đời, trẻ cần được bú sữa mẹ hoàn toàn. Ngay cả khi trẻ bị bệnh, mẹ cũng nên tiếp tục cho trẻ bú để cung cấp dinh dưỡng và kháng thể.

b. Trường Hợp Đặc Biệt

  • Đối với trẻ đẻ non hoặc yếu, mẹ cần vắt sữa cho trẻ ăn bằng cốc nếu trẻ không thể mút được.

    Bú sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng cho con
    Bú sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng cho con

4. Thời Gian Cho Bú Lâu Dài

Nên cho trẻ bú kéo dài từ 18 đến 24 tháng, không nên cai sữa trước 12 tháng. Khi cai sữa, mẹ cần lưu ý các điều sau:

  • Không cai sữa quá sớm: Chỉ cai sữa khi đã có đủ thức ăn thay thế cho bữa bú mẹ.
  • Tránh cai sữa vào mùa hè: Trẻ dễ kém ăn trong thời tiết nóng nực.
  • Không cai sữa đột ngột: Điều này có thể gây sang chấn tinh thần, làm trẻ quấy khóc và biếng ăn.
  • Không cai sữa khi trẻ bị ốm: Đặc biệt là trong trường hợp trẻ bị tiêu chảy.

5. Chế Độ Ăn Thay Thế Sau Khi Cai Sữa

Sau khi cai sữa, mẹ cần đảm bảo chế độ ăn thay thế cho trẻ đầy đủ chất dinh dưỡng. Chế độ ăn nên bao gồm:

  • Chất đạm: Thịt, cá, trứng, đậu, đỗ.
  • Chất béo: Dầu, mỡ.
  • Rau quả: Cung cấp vitamin và khoáng chất cần thiết cho sự phát triển của trẻ.

Kết Luận

Việc cho con bú đúng cách không chỉ giúp trẻ phát triển khỏe mạnh mà còn tạo sự gắn kết giữa mẹ và bé. Hy vọng những thông tin trong bài viết này sẽ giúp các bà mẹ hiểu rõ hơn về cách cho con bú, từ đó nuôi dưỡng trẻ một cách tốt nhất.

Bệnh Viêm tuyến giáp mủ

I.   ĐẠI CƯƠNG

Viêm tuyến giáp mủ là một bệnh ít gặp. Bệnh còn được gọi là viêm tuyến giáp cấp tính, viêm tuyến giáp cấp tính do vi khuẩn…

Tuyến giáp nói chung có khả năng kháng khuẩn cao, một phần do có nhiều mạch máu, hệ bạch huyết, có lượng lớn iod tại mô tuyến giáp, sự tạo hydrogen peroxide trong tuyến giáp để tổng hợp hormon giáp, hơn nữa tuyến giáp nằm trong bao tách biệt với các tổ chức xung quanh.

Tuy nhiên, ở một số trường hợp, nhất là ở trẻ em sự tồn tại lỗ rò thông từ pyriform sinus ở phía trái tuyến giáp dễ dẫn đến tạo áp xe. Áp xe có thể tái phát bên trái tuyến giáp do lỗ rò xoang cung họng thứ tư (fourth branchial arch sinus fistula). Thống kê 526 trường hợp tồn tại bẩm sinh lỗ rò này ghi nhận có 45% các trường hợp bị viêm tuyến giáp cấp nhiễm trùng.

Viêm tuyến giáp mủ là bệnh hiếm gặp, tuy nhiên hiện nay với sự gia tăng các trường hợp suy giảm miễn dịch, bệnh có chiều hướng tăng theo. Viêm tuyến giáp mủ chiếm khoảng 0,1 – 0,7% các bệnh tuyến giáp, tỷ lệ tử vong có thể đến 12% hoặc hơn nếu không điều trị. Nói chung tỷ lệ gặp ở trẻ em nhiều hơn do liên quan đến tình trạng lỗ rò thông từ pyriform sinus, có đến 90% các trường hợp thương tổn phát triển từ thùy trái tuyến giáp. Khoảng 8% gặp ở tuổi trưởng thành (20-40 tuổi), và 92% gặp ở trẻ em.

Ở người suy giảm miễn dịch có thể gặp viêm tuyến giáp do nấm. Có khi viêm tuyến giáp mủ gặp trên trẻ em hóa trị liệu chữa ung thư.

II.   NGUYÊN NHÂN

Vi trùng gây bệnh viêm tuyến giáp mủ thường gặp là Streptococcus, Staphylococcus, Pneumococcus, Salmonella, Klebsiella, Bacteroides, cũng có thể gặp Pallidum, Pasteurella, Multocida, Porphyromonas, Eikenella và lao.

Mầm bệnh có thể đến tuyến giáp bằng đường máu, bạch huyết hoặc trực tiếp từ ổ nhiễm khuẩn lân cận hay vết thương.

Ngoài ra viêm tuyến giáp mủ cũng có thể do các loại nấm như: Coccidioides immitis, Aspergillus, Actinomycosis, Blastomycosis, Candida albicans, Nocardia, Actinobacter baumanii, Cryptococcus và Pneumocystis. Các loại sau thường gặp trên các đối tượng suy giảm miễn dịch như AIDS, ung thư.

Áp xe tuyến giáp cũng có thể gặp trong bối cảnh bệnh ác tính kèm thông lỗ rò.

Viêm tuyến giáp mủ do Clostridium perfringens Clostridium septicum dường như luôn luôn đi liền với ung thư đại tràng, ngoài ra cũng đã gặp các trường hợp viêm tuyến giáp mủ do ung thư vú di căn.

Chọc hút bằng kim nhỏ trong xét nghiệm tế bào học cũng là một yếu tố có thể gây viêm tuyến giáp mủ.

Về sinh lý bệnh, trong bối cảnh nhiễm trùng tuyến giáp thâm nhiễm bạch cầu đa nhân, bạch cầu lympho trong giai đoạn đầu, thường kèm với hoại tử và áp xe hóa. Giai đoạn lui bệnh có sự xơ hóa. Chọc hút bằng kim nhỏ xét nghiệm giúp chẩn đoán vi khuẩn gây bệnh qua nhuộm Gram, tìm nấm, hoặc cấy bệnh phẩm tìm kháng sinh đồ.

III.   MÔ BỆNH HỌC

Sau khi vi khuẩn hoặc virus xâm nhập vào tuyến giáp gây ra quá trình viêm lan tỏa trong nhu mô tuyến và tổ chức liên kết. Tuyến giáp sưng to, phù nề do các hiện tượng sung huyết, xâm nhập bạch cầu đa nhân trung tính vào nhu mô tuyến giáp, nhiều nơi làm mủ, hoại tử.

Viêm mủ gây phá hủy các tổ chức xơ, sợi, tổ chức liên kết, thoái hoá trong dẫn đến giảm nhu mô và chức năng của tuyến.

IV. CHẨN ĐOÁN

  1. Lâm sàng

Phần lớn các trường hợp diễn biến xảy ra từ từ, song cũng có trường hợp xảy ra cấp tính với hội chứng nhiễm trùng.

  • Đau vùng tuyến giáp là triệu chứng nổi bật, có thể sờ thấy tuyến giáp lớn, nóng, mềm.
  • Người bệnh không thể ngửng cổ, thường ngồi cúi đầu để tránh căng gây đau vùng tuyến giáp.
  • Nuốt đau.
  • Nói khó, khàn tiếng.
  • Có thể có biểu hiện viêm tổ chức lân cận tuyến giáp, hạch cổ lớn, đau.
  • Thân nhiệt tăng.
  • Có thể có rét run nếu có nhiễm trùng huyết.
  • Khi đã có áp xe, khám vùng tuyến giáp có thể thấy cấc dấu hiệu của khối áp xe như: nóng, đau, đỏ và lùng nhùng.

Triệu chứng lâm sàng ở trẻ em thường rõ hơn ở người lớn: người lớn có thể chỉ thấy khối đau mơ hồ ở vùng cổ, có thể không sốt.

Viêm tuyến giáp mủ có thể lan xuống ngực gây hoại tử trung thất, viêm màng ngoài tim ở những trường hợp không có lỗ rò pyriform sinus. Bệnh thường xảy ra vào mùa thu, đông theo sau nhiễm trùng đường hô hấp trên.

Thường không kèm cường giáp hoặc suy giáp, tuy nhiên cá biệt có thể có biểu hiện rối loạn chức năng giáp khi viêm lan rộng, như trong các trường hợp viêm tuyến giáp do nấm, do lao. Viêm có thể gây thương tổn cấu trúc làm phóng thích một lượng hormon gây triệu chứng của nhiễm độc giáp.

Có khoảng 12% nhiễm độc giáp và 17% suy giáp ở viêm tuyến giáp cấp nói chung. Chính tình trạng chức năng giáp không đồng bộ này gây khó khăn cho chẩn đoán phân biệt giữa viêm tuyến giáp cấp và viêm tuyến giáp bán cấp khi cả hai trường hợp đều có đau tuyến giáp. Trường hợp lúc đầu có nhiễm độc giáp sau đó là suy giáp rồi trở về bình giáp sau điều trị đặc thù viêm tuyến giáp, đó thường là bệnh cảnh của viêm tuyến giáp mủ.

2.  Cận lâm sàng

  • Công thức máu có bạch cầu tăng cao, đa nhân chiếm ưu thế.
  • Tốc độ lắng máu tăng.
  • Xạ hình giáp thấy vùng không bắt giữ iod (nhân lạnh).
  • Siêu âm tuyến giáp thấy vùng giảm âm trong giai đoạn đầu. Nếu áp xe được thành lập, siêu âm giúp xác định chẩn đoán. Trong giai đoạn lui bệnh do điều trị đáp ứng tốt, siêu âm có thể thấy vùng giáp biến dạng kiểu teo ở vùng thương tổn, túi khí ở mô giáp và sẹo ở mô quanh tuyến giáp.
  • Chọc hút tuyến giáp bằng kim nhỏ rất quan trọng giúp phân biệt viêm tuyến giáp mủ và viêm tuyến giáp bán cấp, chọc hút thấy mủ khẳng định chẩn đoán, xét nghiệm giúp xác định nguyên nhân gây bệnh, kháng sinh đồ giúp định hướng kháng sinh điều trị. Chọc hút còn có thể giúp làm giảm sự chèn ép khí quản ở các trường hợp viêm tuyến giáp mủ có làm di lệch khí quản.
  • Không có kháng thể.

V.  CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT

Chẩn đoán phân biệt với các bệnh lý có khối tăng cảm và đau cấp tính ở vùng cổ trước như:

  • Viêm tuyến giáp dạng u hạt bán cấp tính (bệnh De Quervain).
  • Viêm mô lỏng lẻo vùng cổ trước, nhiễm khuẩn khoang sâu vùng cổ trước, nang ống giáp-lưỡi hay nang mang bội nhiễm.
  • Bướu giáp thể nang biến chứng chảy máu cấp tính trong nang.
  • U tuyến giáp lành hoặc ác tính.

VI. ĐIỀU TRỊ

  • Dùng kháng sinh toàn thân thích hợp dựa trên kháng sinh đồ, nhất là đối với các trường hợp viêm nặng.
  • Tại chỗ có thể dùng: chườm nóng, chiếu tia cực tím. Nếu sau một tuần dùng kháng sinh tích cực nhưng chọc hút thấy có mủ thì cần phải rạch tháo mủ, dẫn lưu và sau 6-8 tuần tiến hành cắt bỏ thùy viêm.
  • Trường hợp viêm tuyến giáp do Candida albican có thể dùng amphotericin B và 5 fluconazol 100 mg/ngày.
  • Phẫu thuật lấy lỗ rò sau khi đã điều trị kháng sinh để phòng tái phát.

VII.  TIÊN LƯỢNG

Bệnh viêm tuyến giáp mủ thường kéo dài 3-6 tuần. Cũng có trường hợp có diễn biến xấu, một số trường hợp thương tổn tuyến giáp nặng gây suy giáp, do đó trước một viêm giáp nhất là các trường hợp viêm lan tỏa cần theo dõi chức năng tuyến giáp để có thái độ điều trị thích hợp. Phẫu thuật lấy lỗ rò để tránh tái phát.

Nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và điều trị sốc tim ở trẻ em

Sốc tim là tình trạng suy giảm chức năng co bóp cơ tim dẫn đến hệ thống tuần hoàn không đáp ứng được nhu cầu chuyển hóa của mô và cơ quan trong cơ thể.

Sốc tim đứng hàng thứ ba, sau sốc nhiễm khuẩn (SNK) và sốc giảm thể tích tuần hoàn (SGTTTH), sốc tim ở trẻ em gặp ít hơn so với người lớn. Theo Đ.p Kiệt thống kê tại Khoa Hồi sức cấp cứu Bệnh viện Nhi Trung ương trong 2 năm 1986 – 1988, sốc tim chiếm 8,1%. Thống kê tại Khoa Hồi sức cấp cứu trong 5 năm (2002-2007) thấy tỷ lệ tử vong do sốc tim là 6,3%. Triệu chứng của sốc tim dễ nhầm với các loại sốc khác làm cho việc chẩn đoán sớm gặp nhiều khó khăn.

NGUYÊN NHÂN SỐC TIM

Tim bẩm sinh

Là nhóm nguyên nhân chính gây sốc tim, trong đó hay gặp nhất là những tổn thương bẩm sinh gây tắc nghẽn đường ra thất trái và tim bẩm sinh có luồng thông trái -phải lớn.

Nguyên nhân viêm tim

Viêm cơ tim do nhiều nguyên nhân gây ra như nhiễm trùng, bệnh mô liên kết, ngộ độc hoặc bệnh tự miễn, trong đó viêm cơ tim do virus là phổ biến nhất, hay gặp là Coxsackie B và Adenovirus.

Bệnh cơ tim giãn: có thể có tính di truyền hoặc tiền sử nhiễm virus, có thể là một di chứng của viêm cơ tim trước đó.

Rối loạn chuyển hóa: như suy/cường cận giáp trạng, hạ đường máu. Phản ứng có hại của thuốc như sulfonamid, penicillin, anthracyclines.

Bệnh mô liên kết như lupus ban đỏ hệ thống, viêm khớp thanh thiếu niên, Kawasaki, thấp khớp cấp.

Rối loạn nhịp tim

Cơn nhịp nhanh kịch phát trên thất, nhịp tim chậm, block tim hoàn toàn, nhịp nhanh thất hoặc rung thất.

Tắc nghẽn tim

Chèn ép tim cấp do tràn khí màng phổi hai bên, tràn dịch màng ngoài tim cấp. Tắc mạch phổi cấp nặng.

Những rối loạn khác

Chấn thương, đụng giập tim gây tổn thương cơ tim.

Theo Ng.T.T.Hà (2013) nghiên cứu về sốc tim tại Khoa Hồi sức cấp cứu, Bệnh viện Nhi Trung ương cho thấy nguyên nhân hay gặp nhất là bệnh chân tay miệng (42%), viêm cơ tim (22%) và bệnh cơ tim giãn (14%), bệnh tim bẩm sinh (11%), rối loạn nhịp tim (5%) và các nguyên nhân khác (6%).

TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA sốc TIM

Biểu hiện lâm sàng của sốc tim là giảm cung lượng tim, giảm tưới máu tổ chức trong khi thể tích tuần hoàn thích hợp.

Lâm sàng

  • Nhịp tim nhanh là phản ứng đầu tiên để tăng cung lượng tim trong sốc, đây là dấu hiệu thường gặp trong sốc tuy nhiên không đặc hiệu.
  • Các triệu chứng giảm tưới máu như thiểu niệu (<lml/kg/giò), chênh lệch nhiệt độ da và suy giảm ý thức. Giảm tưới máu ngoại biên biểu hiện da và đầu chi tái, vân tím, lạnh và ẩm, thời gian làm đầy mao mạch kéo dài (refill time > 2 giây).
  • Các triệu chứng thở nhanh, tim nhịp ngựa phi, nhịp ba, khò khè hoặc ran ẩm, khó thở hoặc ho, tím tái, vã mồ hôi, gan to, tĩnh mạch cổ nổi và phù ngoại vi. Hạ huyết áp là dấu hiệu muộn và rất nặng.

    Cận lâm sàng

  • Điện giải đồ, calci, BUN, creatinin, chức năng gan. Lactat và khí máu động mạch. Đo độ bão hòa oxy máu tĩnh mạch pha trộn hoặc tĩnh mạch chủ trên (Scv02) ước lượng hiệu quả của sự cung cấp oxy dựa trên nguyên tắc Fick.
  • Công thức máu đánh giá tình trạng thiếu máu
  • Xét nghiệm enzym tim: B-type natriuretic protein (BNP), theo dõi tiến triển của bệnh trong bệnh cơ tim và sau ghép tim.
  • Xquang phổi có thể biểu hiện tim to và sung huyết phổi, chỉ số tim ngực bình thường < 55% ở trẻ nhũ nhi và < 50% ở trẻ lớn.
  • Điện tâm đồ (ECG) có thể phát hiện rối loạn nhịp tim, tâm thất phì đại, thiếu máu cục bộ.
  • Siêu âm tim để xác định cấu trúc và chức năng tâm thu. Xác định phân suất tống máu (EF), vận động thành, kích thước thất, độ dày thành tim, trào ngược van, (EF bình thường từ 55-65%).

    CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán xác định

  • Lâm sàng có tình trạng sốc tim và suy tim cấp
  • Xquang phổi có diện tim to, ứ huyết phổi.
  • Siêu âm tim có chức năng co bóp cơ tim (EF giảm)…

Chẩn đoán phân biệt

Sốc nhiễm khuẩn, sốc giảm thể tích… hiếm khi biểu hiện áp lực và thể tích nhĩ phải tăng quá mức (xem thêm bài Sốc trẻ em).

ĐIỀU TRỊ

Sơ đồ tiếp cận điều trị

Sơ đồ tiếp cận sốc tim

Sơ đồ 2.1. Tiếp cận điều trị sốc tim -Theo Kurup R.p (2006)

Hct: hematocrit; KHC: khối hồng cầu; MAP (mean arterial pressure): huyết áp
động mạch trung bình, CVP: áp lực tĩnh mạch trung tâm.

Nguyên tắc điều trị

  • Giảm tốì thiểu nhu cầu oxy của cơ tim: kiểm soát hô hấp bằng thông khí nhân tạo, thân nhiệt, thuốc an thần /giãn cơ.
  • Hỗ trợ tối đa hoạt động của cơ tim: điều chỉnh rối loạn nhịp tim, tối ưu hóa tiền gánh, cải thiện chức năng co bóp cơ tim, giảm hậu gánh.
  • Trong trường hợp có tắc nghẽn đường ra thất trái phụ thuộc ống động mạch, cần sử dụng prostaglandin để duy trì ống động mạch ngay lập tức, liều khởi đầu là 0,03mcg/kg/phút.

Điều trị ban đầu: theo ABC

  • Kiểm soát đường thở, cung cấp oxy và thông khí nhân tạo. Chỉ định liệu pháp oxy sớm cho bệnh nhân, duy trì bão hòa oxy máu động mạch 95%.
  • Đặt huyết áp động mạch xâm nhập, đặt catheter tĩnh mạch trung tâm, theo dõi liên tục Sp02, áp lực tĩnh mạch trung tâm và huyết áp động mạch.
  • Kiểm soát thể tích tuần hoàn

Nếu CVP thấp cần bồi phụ đủ thể tích tuần hoàn.

+ Loại dịch sử dụng: dịch tinh thể ringer lactat hoặc natriclorua 0,9%, dung dịch keo, huyết tương và máu toàn phần.

+ Bắt đầu bằng dung dịch tinh thể, truyền tĩnh mạch với liều 5-10ml/kg/20 phút, có thể nhắc lại nếu không có dấu hiệu quá tải dịch.

+ Theo dõi sát gan to, khó thở tăng, nhịp tim nhanh, nhịp ngựa phi. Ngừng truyền dịch ngay nếu có dấu hiệu quá tải dịch.

Thuốc lợi tiểu

Cho lợi tiểu đường tĩnh mạch khi có biểu hiện ứ máu và quá tải dịch, liều lợi tiểu có thể tăng dần tùy theo chức năng thận. Có thể kết hợp với thuốc lợi tiểu thiazid trong những trường hợp kháng thuốc lợi tiểu.

Điều trị thuốc tăng cường co bóp cơ tim

Lựa chọn thuốc phụ thuộc bệnh nguyên và tình trạng co mạch hệ thống.

* Lựa chọn thuốc vận mạch /thuốc trợ tim: dobutamin với liều khởi đầu 5mcg/kg/phút, tăng dần mỗi 2,5mcg/kg mỗi 15 phút. Dopamin bắt đầu với liều 5mcg/kg/phút, tăng dần mỗi 2,5mcg/kg mỗi 15 phút.

Epinephrin liều khởi đầu 0,05mcg/kg/phút, chỉ định khi có tình trạng kháng dobutamin/dopamin. Milrinon liều khởi đầu 0,375mcg/kg/phút tác dụng tăng co bóp cơ tim và giãn mạch ngoại vi.

  • Điều trị khác: tình trạng toan máu, kiểm soát đường huyết, các rối loạn nội môi: điện giải, huyết học, chống nhiễm khuẩn, an thần, giảm đau. Hydrocortisol.
  • Điều trị nguyên nhân: gamaglobulin tĩnh mạch cho bệnh nhân viêm cơ tim với liều 2g/kg/48 giờ, điều trị rối loạn nhịp tim bằng thuốc, sốc điện. Lọc máu liên tục (CVVH) cho bệnh nhân sốc tim do viêm cơ tim, bệnh nhân tay-chân-miệng độ IV. Hội chẩn với chuyên khoa tim mạch để phẫu thuật, can thiệp sửa chữa các dị tật tim mạch khi có chỉ định. Điều trị các nguyên nhân khác.

Thuốc Articulin có tác dụng gì?

Tên chung: Articulin

Tên thương hiệu và các tên khác: Articulin F

Loại thuốc: Thảo dược

Articulin là gì và được sử dụng để làm gì?

Articulin là một loại thuốc kết hợp giữa nhiều loại thảo dược và khoáng chất kẽm, có sẵn dưới dạng viên nang không cần kê đơn (OTC). Articulin được sử dụng để điều trị viêm xương khớp, một tình trạng thoái hóa khớp liên quan đến tuổi tác. Articulin dường như giảm đáng kể điểm đau và tàn tật ở bệnh nhân viêm xương khớp, tuy nhiên, không có thay đổi nào được ghi nhận trên hình ảnh chụp X-quang, và chưa có nghiên cứu đầy đủ và kiểm soát về hiệu quả của nó.

Articulin là một loại thuốc thảo dược được sử dụng trong Ayurveda, một hệ thống y học truyền thống của Ấn Độ. Các thành phần của articulin là các loại thảo dược được cho là có đặc tính chống viêm, giảm đau và chống oxy hóa, có thể giúp giảm đau mà sự kết hợp này mang lại. Ngoài ra, các loại thảo dược này còn được cho là có khả năng hạ huyết áp và đường huyết. Các thành phần hoạt tính của articulin bao gồm:

  • Withania somnifera: Còn được gọi là quả anh đào mùa đông và ashwagandha ở Ấn Độ, W. somnifera là một loại cây bụi thường xanh, các bộ phận như lá, quả, hạt và rễ được sấy khô và sử dụng như thuốc thảo dược. Withania được coi là một loại thảo dược giúp cơ thể thích ứng và quản lý căng thẳng, lo lắng và mệt mỏi, đồng thời tăng cường sức khỏe tổng thể. Nó có đặc tính chống viêm, kháng khuẩn và tăng cường miễn dịch.
  • Boswellia serrata: B. serrata là một loại thực vật thơm, nhựa của nó được sử dụng làm thuốc. Boswellia được cho là có đặc tính chống viêm, chống viêm khớp và giảm đau. Các nghiên cứu cho thấy acid boswellic, thành phần hoạt chất chính của boswellia, giảm viêm và đau bằng cách ức chế enzyme 5-lipoxygenase, một enzyme tham gia vào quá trình tổng hợp leukotriene, các chất gây viêm được tạo ra bởi bạch cầu.
  • Curcumin longa: C. Longa là tên khoa học của nghệ, phần rễ của nó thường được sử dụng làm gia vị trong ẩm thực châu Á. Curcumin, thành phần hoạt chất của nghệ mang lại màu vàng cho nó, có đặc tính kháng khuẩn, chống viêm, chống oxy hóa, giảm đau và thúc đẩy quá trình chữa lành vết thương.
  • Kẽm: Kẽm là một khoáng chất vi lượng thiết yếu cần thiết với một lượng nhỏ cho sức khỏe con người. Kẽm có nhiều chức năng trong cơ thể bao gồm tăng trưởng và phân chia tế bào, duy trì hệ miễn dịch khỏe mạnh và chữa lành vết thương. Kẽm là một chất kháng khuẩn nhẹ và cũng là một chất làm se, có khả năng làm co mô và giảm sưng.

Cảnh báo

  • Không sử dụng articulin nếu bạn quá mẫn cảm với bất kỳ thành phần nào trong công thức.
  • Articulin có thể chứa các thành phần bổ sung khác ngoài những thành phần đã được đề cập. Hãy kiểm tra nhãn để biết chi tiết thành phần.
  • Không sử dụng articulin nếu bạn đang mang thai hoặc cho con bú.

Tác dụng phụ của articulin là gì?

Tác dụng phụ phổ biến của articulin bao gồm:

  • Đau bụng
  • Buồn nôn
  • Viêm da

Gọi cho bác sĩ ngay lập tức nếu bạn gặp bất kỳ triệu chứng hoặc tác dụng phụ nghiêm trọng nào sau đây trong khi sử dụng thuốc này:

  • Các triệu chứng tim nghiêm trọng bao gồm tim đập nhanh hoặc mạnh, cảm giác đập trong ngực, khó thở và chóng mặt đột ngột;
  • Đau đầu dữ dội, nhầm lẫn, nói lắp, yếu nghiêm trọng, nôn mửa, mất phối hợp, cảm thấy không vững;
  • Phản ứng nghiêm trọng của hệ thần kinh với các cơ rất cứng, sốt cao, đổ mồ hôi, nhầm lẫn, tim đập nhanh hoặc không đều, run rẩy và cảm giác như sắp ngất;
  • Các triệu chứng mắt nghiêm trọng bao gồm mờ mắt, nhìn như có đường hầm, đau hoặc sưng mắt, hoặc nhìn thấy quầng sáng quanh đèn.

Đây không phải là danh sách đầy đủ tất cả các tác dụng phụ hoặc phản ứng bất lợi có thể xảy ra khi sử dụng thuốc này. Gọi cho bác sĩ để được tư vấn y tế về các tác dụng phụ hoặc phản ứng nghiêm trọng.

Liều lượng của Articulin là gì?

  • Uống 2 viên nang hai lần mỗi ngày.

Một viên nang chứa:

  • 450 mg Withania somnifera (withania, ashwagandha)
  • 100 mg Boswellia serrata (boswellia, trầm hương Ấn Độ)
  • 50 mg Curcuma longa (nghệ)
  • 50 mg Phức hợp kẽm

Quá liều

Hiện không có báo cáo về trường hợp quá liều Articulin. Quá liều Articulin có thể gây ra các triệu chứng về tiêu hóa, và các triệu chứng này thường sẽ hết khi ngừng sử dụng thuốc thảo dược.

Tương tác thuốc của Articulin

Hãy thông báo cho bác sĩ về tất cả các loại thuốc mà bạn đang sử dụng để bác sĩ có thể tư vấn về bất kỳ tương tác thuốc nào có thể xảy ra. Không bao giờ tự ý bắt đầu dùng, ngừng đột ngột, hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ loại thuốc nào mà không có sự khuyến nghị của bác sĩ.

Hiện không có tương tác nghiêm trọng, nghiêm ngặt, trung bình hoặc nhẹ nào được biết đến giữa Articulin và các loại thuốc khác. Danh sách các tương tác thuốc này không bao gồm tất cả các tương tác hoặc tác dụng phụ có thể xảy ra. Để biết thêm thông tin về tương tác thuốc, bạn có thể tham khảo công cụ kiểm tra tương tác thuốc trên trang RxList.

Điều quan trọng là luôn thông báo cho bác sĩ, dược sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ y tế của bạn về tất cả các loại thuốc kê đơn và không kê đơn mà bạn sử dụng, bao gồm cả liều lượng của từng loại thuốc, và giữ danh sách thông tin này. Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ y tế nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về thuốc.

Thai kỳ và cho con bú

Hiện không có thông tin về độ an toàn của việc sử dụng Articulin trong thời kỳ mang thai hoặc cho con bú. Articulin được chỉ định cho viêm xương khớp, một tình trạng thoái hóa liên quan đến tuổi tác, ít có khả năng xảy ra ở phụ nữ có khả năng mang thai. Tránh sử dụng Articulin nếu bạn đang mang thai hoặc cho con bú.

Không bao giờ sử dụng bất kỳ loại thực phẩm bổ sung thảo dược nào mà không tham khảo ý kiến bác sĩ nếu bạn đang mang thai hoặc cho con bú.

Điều gì khác bạn cần biết về Articulin?

  • Articulin khi dùng đúng liều lượng được khuyến nghị có khả năng an toàn cho hầu hết người lớn.
  • Sử dụng thực phẩm bổ sung Articulin chính xác theo hướng dẫn trên nhãn. Sản phẩm tự nhiên không phải lúc nào cũng an toàn, và việc tuân theo liều lượng được khuyến nghị là rất quan trọng.
  • Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng bất kỳ loại thực phẩm bổ sung thảo dược nào, bao gồm cả Articulin, đặc biệt nếu bạn có bất kỳ tình trạng sức khỏe nào hoặc đang sử dụng thuốc điều trị thường xuyên.
  • Các sản phẩm thảo dược thường chứa nhiều thành phần. Kiểm tra nhãn để biết các thành phần trong sản phẩm Articulin mà bạn chọn.
  • Articulin được tiếp thị dưới dạng thực phẩm bổ sung thảo dược và không được quản lý bởi FDA. Các sản phẩm có thể khác nhau về công thức và hàm lượng, và nhãn có thể không luôn khớp với nội dung; hãy cẩn thận khi chọn sản phẩm.
  • Bảo quản thực phẩm bổ sung Articulin ở nơi an toàn, tránh xa tầm tay trẻ em.
  • Trong trường hợp quá liều, hãy tìm sự trợ giúp y tế hoặc liên hệ với Trung tâm kiểm soát chất độc.

Tóm tắt

Articulin là một loại thuốc kết hợp giữa nhiều loại thảo dược và khoáng chất kẽm, có sẵn dưới dạng viên nang không cần kê đơn (OTC). Articulin được sử dụng để điều trị viêm xương khớp, một tình trạng thoái hóa khớp liên quan đến tuổi tác. Các tác dụng phụ phổ biến của Articulin bao gồm đau bụng, buồn nôn và viêm da. Tránh sử dụng Articulin nếu bạn đang mang thai hoặc cho con bú.

Vacxin phòng bệnh não mô cầu

Đại cương về bệnh do não mô cầu:

Bệnh não mô cầu là một bệnh truyền nhiễm gây dịch, lây truyền qua đường hô hấp do song cầu khuẩn Neisseria meningitidis gây ra. Vi khuẩn thường đột nhập qua đường mũi họng, từ đó vi khuẩn xâm nhập vào máu gây nhiễm khuẩn huyết hoặc qua đường máu đến màng não gây viêm màng não mủ hoặc gây viêm màng não mủ kèm theo nhiễm khuẩn huyết.

Neisseria meningitidis, là loại vi khuẩn Gram âm , ái khí, có 9 nhóm huyết thanh : A, B, c, D, X, Y, z, w 135 và 29E. Ngày nay, nhóm B và c là nguyên nhân chủ yếu của các vụ dịch do não mô cầu.

Bệnh lây qua đường hô hấp do hít phải giọt nước bọt của người bệnh hoặc người lành mang khuẩn. Lây truyền mạnh trong thời kỳ khởi phát. Nếu được sử dụng kháng sinh, vi khuẩn sẽ biến mất khỏi đường mũi họng trong vòng 24 giờ. Tỷ lệ người lành mang khuẩn rất cao khoảng 25%, trong vụ dịch có thể tới hơn 50% số người nhiễm vi khuẩn không có biểu hiện triệu chứng.

Bệnh cảnh lâm sàng xảy ra đột ngột: sốt cao, rét run, đau mỏi toàn thân, đau khóp, xuất hiện các ban xuất huyết hoại tử trên da; có thể xuất hiện biến chứng sốc nhiễm khuẩn hoặc hội chứng Waterhouse Fridrichsen. Những trường hợp có viêm màng não thường có hội chứng màng não cấp tính : Nhức đầu, nôn, táo bón, cứng gáy, vạch màng bụng dương tính. Trẻ em hay có co giật, lơ mơ , hôn mê sâu. Chọc dò dịch não tuỷ thấy nước đục như nước vo gạo đôi khi kèm theo xuất huyết màng não. Chẩn đoán xác định bằng cấy máu, cấy dịch não tuỷ để phân lập vi khuẩn não mô cầu. Có thể chẩn đoán nhanh bằng cách chích ban xuất huyết hoại tử làm tiêu bản và soi tươi để tìm vi khuẩn não mô cầu. Ngoáy họng làm tiêu bản soi tươi hoặc cấy để tìm vi khuẩn não mô cầu.Nhưng chẩn đoán thấp vì tỷ lệ người lành mang khuẩn rất cao. Tỷ lệ tử vong của bệnh khoảng 5 – 15%.

Vacxin phòng bệnh viêm màng não cầu khuẩn

  • Tên chung.Naccin viêm màng não cầu khuẩn A+C
  • Tên thương mại:Meningococcal Polysaccharide Vacxine A+C
  • Nơi sản xuất:Pasteur Merieux Connaught – Pháp
  • Thời gian bảo vệ:3 năm
  • Tác dụng phụ:

Phản ứng đối với Vacxin hiếm gặp, ở người lớn ít hơn ở trẻ em. Có thể có phản ứng nhẹ và thoáng qua tại nơi tiêm. Đôi khi có sốt nhẹ, kích thích và mệt mỏi trong vòng 72 giò sau khi tiêm.

  • Chống chỉ định:

Bệnh nhiễm khuẩn cấp tính

Các bệnh cấp tính hoặc mãn tính tiến triển

Không tiêm người có phản ứng mạnh sau khi tiêm Vacxin lần trước hoặc người có dị ứng với thành phần của Vacxin.

  • Lịch tiêm:

Sử dụng Vacxin để phòng bệnh cho trẻ ở vùng có dịch lưu hành hoặc khi đang có dịch. Liều 0,5ml, tiêm dưới da hoặc tiêm bắp thịt

Tiêm 1 liều khi trẻ được 18 tháng tuổi.

Chú ý: cần thận trọng khi tiêm cho phụ nữ có thai, chỉ tiêm khi thực sự có nguy cơ mắc dịch. Không tiêm cho trẻ < 18 tháng tuổi trừ khi đang có dịch

Liệu khớp cùng chậu (SI) Của Bạn Có Gây Đau Lưng Không?

Nếu bạn đứng dậy từ ghế và cảm thấy đau ở lưng dưới, có thể là khớp khớp cùng chậu của bạn đang gặp vấn đề. Đừng để nó ảnh hưởng đến bạn! Hãy chủ động với một kế hoạch điều trị mang lại sự giảm nhẹ.

Khớp cùng chậu Là Gì?

Tên đầy đủ của nó là khớp cùng chậu (sacroiliac joint). Có hai khớp như vậy ở lưng dưới của bạn, nằm ở mỗi bên cột sống. Nhiệm vụ chính của chúng là mang trọng lượng của cơ thể bạn khi bạn đứng hoặc đi bộ và chuyển trọng lượng đó xuống chân.

Cảm Giác Đau Như Thế Nào?

Cảm giác đau có thể là âm ỉ hoặc nhói. Nó bắt đầu tại khớp SI, nhưng có thể lan sang mông, đùi, bẹn hoặc lưng trên.

Đôi khi đứng dậy sẽ kích hoạt cơn đau, và thường thì bạn chỉ cảm thấy nó ở một bên lưng dưới. Bạn có thể nhận thấy rằng cơn đau thường tồi tệ hơn vào buổi sáng và cải thiện trong suốt cả ngày.

Tình trạng này phổ biến hơn bạn nghĩ. Khoảng 15%-30% người cảm thấy đau như vậy có vấn đề với khớp SI.

Tại Sao Điều Này Xảy Ra?

Cơn đau bắt đầu khi khớp khớp cùng chậu của bạn bị viêm. Có nhiều lý do khiến điều này xảy ra. Bạn có thể bị đau khi chơi thể thao hoặc nếu bạn ngã. Bạn cũng có thể gặp vấn đề này từ các hoạt động gây áp lực thường xuyên lên vùng này, như chạy bộ.

Bạn có đi những bước không đều khi đi bộ vì một bên chân dài hơn bên kia không? Điều đó có thể là nguyên nhân gây đau khớp SI.

Đôi khi, bạn bắt đầu cảm thấy đau khi các dây chằng giữ cho khớp khớp cùng chậu của bạn bị tổn thương, điều này có thể khiến khớp di chuyển một cách bất thường.

Viêm khớp cũng có thể dẫn đến vấn đề này. Một loại viêm khớp ảnh hưởng đến cột sống, gọi là viêm cột sống dính khớp (ankylosing spondylitis), có thể gây tổn thương cho khớp SI. Bạn cũng sẽ cảm thấy đau khi sụn trên khớp khớp cùng chậu dần mòn theo tuổi tác.

Đau khớp khớp cùng chậu cũng có thể bắt đầu nếu bạn đang mang thai. Cơ thể bạn sản xuất hormone khiến các khớp của bạn lỏng lẻo và di chuyển nhiều hơn, dẫn đến sự thay đổi trong cách các khớp hoạt động.

Làm Thế Nào Để Giảm Đau?

Bạn có nhiều lựa chọn cho việc điều trị. Bước đầu tiên là đơn giản ngừng những hoạt động khiến bạn bị đau. Bác sĩ sẽ khuyên bạn nên tránh bất kỳ môn thể thao nào làm viêm khớp của bạn. Họ cũng có thể kê đơn một số loại thuốc giảm đau.

Một số cách khác để cảm thấy tốt hơn bao gồm:

  • Vật lý trị liệu: Các bài tập có thể cải thiện sức mạnh và làm bạn linh hoạt hơn. Bạn sẽ học cách khắc phục những thói quen mà bạn có thể đã hình thành khi cố gắng tránh đau, như đi khập khiễng hoặc nghiêng sang một bên. Nhà trị liệu của bạn có thể thử sử dụng siêu âm, liệu pháp nhiệt và lạnh, massage, và kéo giãn.
  • Tiêm: Bạn có thể được tiêm cortisone để giảm viêm trong khớp. Nếu điều đó không giúp ích, bác sĩ có thể gây tê các dây thần kinh quanh khớp khớp cùng chậu để giảm đau.
  • Bác sĩ cũng có thể tiêm một dung dịch muối và thuốc tê vào khớp của bạn. Bạn có thể nghe họ gọi điều này là “prolotherapy”. Điều này được cho là giúp làm chặt các dây chằng lỏng lẻo, nếu đó là nguyên nhân gây ra vấn đề ở khớp khớp cùng chậu của bạn.
  • Điều trị bằng chỉnh hình: Việc điều chỉnh bởi một nhà chỉnh hình có thể giúp giảm đau. Họ sẽ sử dụng các kỹ thuật để di chuyển cơ bắp và khớp của bạn.
  • Điều trị thần kinh: Bác sĩ có thể sử dụng một cây kim để gây tổn thương vĩnh viễn dây thần kinh gửi tín hiệu đau từ khớp khớp cùng chậu của bạn đến não. Họ cũng có thể làm đông nó bằng một mũi tiêm, mặc dù kỹ thuật này không được sử dụng nhiều.

Nếu Tôi Không Nhận Được Giảm Đau Thì Sao?

Những phương pháp điều trị này thường làm giảm viêm và đau trong khớp của bạn. Nhưng trong những trường hợp hiếm hoi, nếu bạn vẫn bị đau, bác sĩ có thể đề nghị phẫu thuật. Trong một ca phẫu thuật gọi là hợp nhất khớp SI, bác sĩ phẫu thuật sử dụng đinh và implant để kết hợp các xương gần khớp.

Đánh giá tình trạng Suy dinh dưỡng

Sự ổn định về cân nặng đòi hỏi năng lượng nhập vào và chi phí này được cân bằng theo thời gian. Các loại chính của tiêu thụ năng lượng là tiêu hao năng lượng nghỉ ngơi (REE) và năng lượng hoạt động; một phần nhỏ bao gồm năng lượng mất đi để chuyển hóa thức ăn (hiệu ứng nhiệt hoặc tác dụng động lực đặc hiệu của thức ăn) và sự sinh nhiệt do run. Năng lượng trung bình nhập vào khoảng 2800 kcal/ngày cho đàn ông và khoảng 1800 kcal/ngày cho phụ nữ, mặc dù sự tính toán này còn phụ thuộc vào tuổi, trọng lượng cơ thể, và hoạt động thể lực. Mức tiêu hao năng lượng cơ bản (BEE), tính bằng kcal/ngày, có thể ước tính bằng công thức của Harris và Benedict (Sơ đồ. 7-1).

Chế độ ăn tham khảo (DRIs) và chế độ ăn được khuyến cao (RDA) mô tả nhiều loại dinh dưỡng, bao gồm 9 acid amino cần thiết , 4 chất béo hòa tan và 10 vitamin tan trong nước, vài khoáng chất, các acid béo, choline, và nước (Bảng 73-1 và 73-2, trang. 590 và 591, HPIM-18). Lượng nước được yêu cầu là 1.0-1.5 mL/kcal năng lượng ở người lớn, để bù cho lượng nước mất do hoạt động. RDA cho protein là 0.6 g/kg trọng lượng cơ thể lí tưởng, chiếm 15% tổng lượng calo nhập vào. Chất béo nên chiếm ≤30% calo, và chất béo bão hòa <10% calo. Ít nhất 55% calo từ carbohydrate.

Suy dinh dưỡng là do ăn không đủ hoặc bất thường hệ tiêu hóa về hấp thu calo từ thức ăn, tiêu hao năng lượng quá mức, hoặc thay đổi chuyển hóa của nguồn cung cấp năng lượng bởi một bệnh trong cơ thể.

Đánh giá tình trạng Suy dinh dưỡng

SƠ ĐỒ 7-1 Tiêu hao năng lượng cơ bản (BEE) tính bằng kcal/ngày, công thức của Harris and Benedict. A, tuổi; H, chiều cao (cm); W, cân nặng (kg).

Cả bệnh nhân ngoại trú và nội trú là nguy cơ của suy dinh dưỡng nếu họ có một trong các dấu hiệu sau đây:

• Giảm cân không có chủ ý >10% trọng lượng bình thường của cơ thể trước đó 3 tháng.
• Trọng lượng cơ thể <90% trọng lượng lý tưởng (Bảng 7-1)
• Chỉ số khối cơ thể (BMI: cân nặng/chiều cao 2 đơn vị kg/m2) <18.5

Hai thể của suy dinh dưỡng thường gặp là: marasmus, nó đề cập đến sự thiếu ăn xảy ra do giảm nhập năng lượng kéo dài, và kwashiorkor, đề cập đến suy dinh dưỡng có chọn lọc protein do giảm nhập protein và dị hóa các chất trong bệnh lý cấp tính, bệnh đe dọa đến tính mạng hoặc các rối loạn viêm mạn tính.

BẢNG 7-1 CÂN NẶNG LÝ TƯỞNG CHO CHIỀU CAO

Chuẩn chiều cao cân nặng

aỞ đây đơn vị chiều cao là cm, cân nặng là kg. Đổi sang inch nhân với 2.54. đổi sang pounds, nhân với 2.2.

Hỗ trợ dinh dưỡng tích cực được chỉ định trong thể kwashiorkor để ngăn ngừa biến chứng nhiễm trùng và chữa lành các vết thương.

Nguyên nhân

Các nguyên nhân gây bệnh chủ yếu của suy dinh dưỡng là do thiếu ăn, stress từ phẫu thuật hay bệnh tật nghiêm trọng, và các cơ chế hỗn hợp. Thiếu ăn là do giảm ăn uống (từ nghèo đói, nghiện rượu mãn tính, chán ăn tâm thần, chế độ ăn khác lạ, trầm cảm nặng, các rối loạn thoái hóa thần kinh, mất trí nhớ, hoặc ăn chay nghiêm ngặt; đau bụng do thiếu máu ruột hoặc viêm tụy; hoặc chán ăn trong bệnh AIDS, ung thư phổ biến, suy tim hoặc suy thận) hoặc giảm hấp thu thức ăn (thiếu hụt men tụy; hội chứng ruột ngắn; bệnh Celiac; hoặc tắc nghẽn thực quan, dạ dày, hoặc ruột). Các stress thể chất bao gồm sốt, chấn thương cấp tính, phẫu thuật lớn, bỏng, nhiễm trùng huyết cấp tính, cường giáp, và viêm như xảy ra trong viêm tụy, bệnh mạch máu collagen, và các bệnh truyền nhiễm mãn tính như lao phổi hay nhiễm trùng cơ hội AIDS. Các cơ chế hỗn hợp trong AIDS, disseminated cancer, chronic obstructive pulmonary disease, chronic liver disease, Crohn’s disease, ulcerative colitis, and renal failure.

Đặc điểm lâm sàng

Chung: sụt cân, teo cơ thái dương và gần trục, giảm độ dày của nếp gấp da.

Da, tóc, và móng: dễ dàng rụng tóc (protein); tóc thưa (protein, biotin, kẽm); tóc cuộn, dễ bầm tím, xuất huyết, và xuất huyết nang quanh lông (vitamin C); phát ban dạng bong tróc ở chi dưới (Kẽm); tăng sắc tố da ở vùng tiếp xúc (niacin, tryptophan); móng tay lõm hình thìa (sắt)

Mắt: kết mạc nhợt nhạt (thiếu máu); quáng gà, khô mắt, và vệt Bitot (vit. A); liệt mắt (thiamine)

Miệng và màng nhầy: viêm lưỡi và/hoặc nứt môi (riboflavin, niacin, vit. B12, pyridoxine, folate), giảm khẩu vị (kẽm), viêm và chảy máu nứu (vit. C)

Thần kinh: mất phương hướng (niacin, photpho); ảo giác trí nhớ, dáng đi tiểu não, hoặc trỏ qua (thiamine); Bệnh lý thần kinh ngoại biên
(thiamin, pyridoxine, vit E.); mất cảm giác rung và vị trí (vit. B12)

Khác: phù (protein, thiamine), suy tim (thiamine, phosphorus), gan lớn ( protein )
Cận lâm sàng trong suy dinh dưỡng thiếu protein bao gồm albumin máu thấp, TIBC thấp, và làm test lẩy da. Thiếu vitamin cũng có thể xuất hiện.

Huyệt Nhũ Trung

Nhũ Trung

Tên Huyệt:

Huyệt ở giữa (trung) vú (nhũ), vì vậy gọi là Nhũ Trung.

Xuất Xứ:

Giáp Ất Kinh.

Đặc Tính:

Huyệt thứ 17 của kinh Vị.

Vị Trí huyệt:

ở khoảng gian sườn 4, ngay đầu vú.

Giải Phẫu:

Dưới đầu vú là chùm tuyến vú, sau chùm tuyến vú là cơ ngực to, cơ ngực bé, các cơ gian sườn 4.

Thần kinh vận động cơ là dây thần kinh ngực to, dây thần kinh ngực bé và dây thần kinh gian sườn 4.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh D4.

Ghi Chú:

Huyệt này chỉ dùng làm mốc để đo huyệt vùng ngực và bụng, khoảng giữa 2 đầu ngực là 8 thốn. Cấm Châm Cứu

Hạ canxi máu

Tình trạng hằng định nội môi trong nồng độ canxi là điều thiết yếu để bảo đảm hoạt động chức năng tế bào bình thường, dẫn truyền thần kinh, tính ổn định của màng tế bào, cấu trúc xương, quá trình đông máu và dẫn truyền tín hiệu nội tế bào. Các tình trạng hạ canxi máu cấp cứu song không được phát hiện hoặc điều trị không tốt có thể dẫn tới tử vong và gây tàn phế đáng kể cho bệnh nhân.

Hạ canxi máu được định nghĩa là có tình trạng giảm nồng độ canxi ion hóa huyết thanh <1,0 mmol/L (< 4,0 mg/dL) hoặc nồng độ canxi toàn phần huyết thanh < 2,0 mmol/L (< 8,0 mg/dL) trong điều kiện nồng độ albumin máu bình thường.

Nói chung, tình trạng hạ canxi máu có lẽ thường gặp hơn so với tình trạng tăng canxi máu song lại ít được chú ý hơn. ở bệnh nhân nằm viện, hạ canxi máu cực kỳ thường gặp, được ước tính là xảy ra ở khoảng 88% bệnh nhân nằm điều trị tại các khoa Điều trị tích cực và ở 26% bệnh nhân được nhập điều trị tại các bệnh phòng nội khoa khác (chủ yếu do suy thận cấp/mạn tính, thiếu hụt vitamin D và thiếu hụt magiê).

NGUYÊN NHÂN

Sinh lý học

Khoảng 99% lượng canxi được tìm thấy trong xương và 1% được thấy ở dịch ngoại bào. Trong 1% này, 50% dưới dạng ion hóa tự do (có hoạt tính), 40% được gắn với protein (chủ yếu là albumin) và 10% trong các phức hợp với các anion (ví dụ: citrat).

Nồng độ canxi ngoài tế bào được duy trì trong khoảng từ 2,2- 2,6 mmol/L (8,7-10,4 mg/dL). Biến đổi nồng độ canxi ngoài tế bào phụ thuộc vào pH huyết thanh, nồng độ protein và các anion và chức năng của các hormon điều hòa canxi. Mỗi ngày có khoảng 500mg canxi được loại bỏ khỏi xương và được thay thế bằng một lượng canxi mới tương đương. Lượng canxi được hấp thu ở ruột non tương ứng với lượng canxi được bài xuất qua nước tiểu. Mặc dù dòng canxi luân chuyển rất lớn nói trên nhưng nồng độ canxi ion hóa vẫn được duy trì ổn định nhờ sự kiểm soát chặt chẽ của hormon cận giáp (PTH) và vitamin D.

Các biến đổi trong nồng độ canxi được thụ thể nhận cảm canxi (CaSR) phát hiện, đây là một thụ thể xuyên màng-7 (7-transmembrane receptor) kết nối với protein G bằng một vùng amino tận ngoài tế bào lớn được tìm thấy trong màng tế bào của các tế bào cận giáp. Khi canxi gắn với thụ thể nhận cảm canxi (CaSR) sẽ gây hoạt hóa phospholipase c và ức chế tình trạng bài xuất PTH. Tình trạng giảm dù rất nhỏ nồng độ canxi máu sẽ kích thích các tế bào chính của tuyến cận giáp gây bài xuất PTH. Thụ thể nhận cảm canxi đóng vai trò quyết định đối với bài xuất PTH. PTH sẽ kích thích quá trình huy động canxi từ xương thông qua tinh trạng hủy xương của hủy cốt bào và làm giảm bài xuất canxi của thận do làm tăng tái hấp thu ờ ống lượn xa. Cuối cùng, PTH đóng vai trò trung gian đối với quá trình hấp thu canxi ở ruột dưới tác dụng của 1,25-dihydroxyvitamin D.

Vitamin D có nguồn gốc từ các nguồn thực phẩm ăn vào hoặc từ sự chuyển đổi của tiền chất cholesterol ở vùng trung bì khi tiếp xúc với ánh sáng cực tím. Thông thường, những người có da sáng màu cần mỗi ngày cần tiếp xúc với ánh sáng mặt trời tối thiểu 10 phút, còn những người có da sẫm màu có thể cần thời gian tiếp xúc với ánh sáng mặt trời lâu hơn. Vitamin D3 được gan chuyển đổi thành 25 hydroxyvitamin D có hoạt tính mạnh hơn và sau đó, dưới tác dụng điều hòa của PTH, sẽ được các tế bào của ống lượng gần của thận chuyển thành 1,25- dihydroxyvitamin D. Vitamin D kích thích tình trạng hấp thu canxi ở ruột, điều hòa quá trình giải phóng PTH của các tế bào chính của tuyến cận giáp, và đóng vai trò trung gian đối với quá trình tiêu xương do PTH kích thích.

Hạ canxi máu là hậu quả của tình trạng tăng mất canxi ion hóa từ vòng tuần hoàn (lắng đọng canxi trong các mô kể cả xương, mất qua nước tiểu, hoặc tăng gắn của canxi trong huyết thanh) hoặc giảm lượng canxi đi vào vòng tuần hoàn (giảm hấp thu dạ dày ruột, giảm tái hấp thu của xương). Các yếu tố chính gây ảnh hưởng tới nồng độ canxi máu là nồng độ phosphat trong trường hợp cấp tính, nồng độ PTH máu trong trường hợp bán cấp và vitamin D trong trường hợp mạn tính.

Chẩn đoán phân biệt

Nhìn chung, có bốn cơ chế có khả năng gây hạ canxi máu:

  • Cung cấp PTH bị suy giảm
  • Đáp ứng với PTH bị suy giảm
  • Cung cấp vitamin D bị suy giảm
  • Đáp ứng với vitamin D bị suy giảm

TÌNH TRẠNG THIẾU HỤT / KHÁNG HORMON CẬN GIÁP

Suy cận giáp

Suy cận giáp được định nghĩa như một tình trạng bài xuất PTH thấp một cách không thích hợp đối với một nồng độ canxi ion hóa tương ứng. Các dấu hiệu cận lâm sàng đặc trưng của suy cận giáp là hạ canxi máu và tăng phosphat máu khi chức năng thận bình thường. Bài xuất canxi trong nước tiểu 24 giờ thấp, đồng thời nồng độ calcitriol máu cũng thấp.

Tình trạng suy cận giáp có thể có nguồn gốc do phẫu thuật, gia đình, tự miễn hoặc vô cản. Suy cận giáp do tất cả các loại nguyên nhân đều có cùng triệu chứng, mặc dù suy cận giáp do di truyền có xu hướng khởi phát từ từ. Suy cận giáp do phẫu thuật thường xảy ra vào ngày thứ 1 hoặc 2 sau mổ như một biến chứng sau phẫu thuật vùng cổ, mặc dù tình trạng này có thể xảy ra sau thủ thuật nhiều năm. Tình trạng này do thương tổn không chủ ý hoặc do cắt phải mô cận giáp gây nên và có thể có liên quan nhiều tới kinh nghiệm của phẫu thuật viên hơn là với bản thân thủ thuật đã được tiến hành. Trong bệnh cảnh cắt bỏ tuyến cận giáp, sử dụng nồng độ PTH trong khi phẫu thuật rất hữu ích cho dự đoán bệnh nhân nào có nguy cơ xuất hiện tình trạng hạ canxi máu sau mổ. Giảm >75% nồng độ PTH trong và sau cuộc mổ giúp phát hiện các bệnh nhân có nguy cơ xuất hiện hạ canxi máu có triệu chứng. Ngoài ra, tình trạng hạ canxi máu trong giai đoạn sau phẫu thuật có thể xảy ra sau truyền máu nhiều, do chất bảo quản citrat trong máu gắp bỏ canxi.

Hạ canxi máu sau phẫu thuật cũng có thể được gặp thấy trong hội chứng xương đói”(“hungry bone syndrome”)xảy ra sau phẫu thuật cường cận giáp tiên phát hay thứ phát. Hội chứng này do tình trạng lắng cặn nhanh các tinh thể hydroxyapatit chứa canxi trong xương gây nên. Hội chứng cũng có thể được gặp trong bệnh cảnh sau cắt toàn bộ tuyến giáp ở bệnh nhân bị cường giáp hoặc trong khi điều trị nhiễm toan chuyển hóa kéo dài. Một bệnh cảnh kém nặng hơn cũng được quan sát thấy ờ bệnh còi xương trong giai đoạn phục hồi, sau khi điều trị tình trạng cường giáp, với các u đi kèm với tạo xương (ví dụ: tuyến tiền liệt, vú, bệnh lơxêmi). Có thể phân biệt hội chứng xương đối với tình trạng suy cận giáp dựa trên nồng độ phosphat máu thấp và nồng độ PTH tăng cao không thích hợp.

Suy cận giáp cũng có thể được kết hợp với hội chứng đa tuyến nội tiết typ 1 còn được biết như hội chứng đa tuyến nội tiết tự miễn. Rối loạn này hoặc là vô căn hoặc mắc phải như một bệnh di taiyền tính lặn qua nhiễm sắc thể thường. Hội chứng bao gồm tam chứng kinh điển là suy cận giáp, suy thượng thận và nhiễm nấm Candida da niêm mạc (mucocutaneous candidiasis), để chẩn đoán hội chứng đòi hỏi phải có 2 trong số 3 triệu chứng nói trên. Biểu hiện điển hình là tình trạng nhiễm nấm Candida từ tuổi thơ ấu, vài năm sau đó sẽ xảy ra tình trạng suy tuyến cận giáp vài sau đó là suy thượng thận ở tuổi vị thành niên. Bệnh cảnh lâm sàng thường thay đổi, cho đến nay, có 58 kiểu đột biến của gen AIRE (autoimmune regulator: gen điều hòa tự miễn) được phát hiện và gen này có vị trí ở nhiễm sắc thể 21q22.3 (Xem chương 35 – Hội chứng đa tuyến nội tiết tự miễn phần thảo luận về AIRE). Bệnh cũng có thể được kết hợp với thiếu máu ác tính, đái tháo đường typ 1 và viêm tuyến giáp.

Suy cận giáp vô căn điển hình được biểu hiện ở tuổi thơ ấu song có thể gặp ở bất kỳ thời gian nào trong suốt 80 năm cuộc đời. Bệnh gặp ưu thế ở nữ với tỷ lệ 2:1 và có thể được kết hợp với kháng thể kháng PTH. Khoảng một phần ba các bệnh nhân này cũng có kháng thể kháng thụ thể nhận cảm canxi của tuyến cận giáp. Thể có tính gia đình của rối loạn này có thể được di truyền theo dạng tính trội, tính lặn qua nhiễm sắc thể thường hoặc có liên quan với nhiễm sắc thể X.

Suy cận giáp cũng có thể là hậu quả của tình trạng không có (agenesis) hoặc loạn sản (dysgenesis) của tuyến cận giáp. Tình trạng này thường đi kèm với hội chứng DiGeorge’s, mà trong hội chứng này bất thường của túi mang (branchial pouches hay túi Rathke) thứ ba và thứ tư gây tình trạng không có tuyến ức và tuyến cận giáp. Các vần tắt từ chữ đầu giúp dễ nhớ được sử dụng để mô tả các triệu chứng của hội chứng DiGeorge’s là CATCH-22 (Cardiac anomalies [các bất thường tim]; Abnormal facies [mặt bất thường]; Thymic aplasia [bất sản tuyến ức]; Cleft palate [hở hàm ếch]; Hypocalcemia [hạ canxi máu] được gặp với tình trạng mất cánh của nhiễm sắc thể 22). Tình trạng suy cận giáp khởi phát muộn có thể được quan sát trong các bất thường bẩm sinh khác hoặc như một phần của rối loạn tự miễn phức hợp gây suy buồng trứng, suy thượng thận và suy cận giáp

Suy cận giáp có thể do tình trạng phá hủy trực tiếp tuyến cận giáp ở bệnh nhân cần được truyền máu nhiều lần gây nên tình trạng lắng đọng sắt, tình trạng lắng đọng đồng trong bệnh Wilson và tinh trạng lắng đọng nhôm ở các bệnh nhân lọc máu. Thâm nhiễm tới tuyến cận giáp trong ung thư biểu mô di càn, bệnh lý u hạt hoặc nhiễm amyloid là nguyên nhân hiếm gặp gây tình trạng suy cận giáp.

Gần đây hơn, suy cận giáp có thể xảy ra như một hậu quả của sử dụng các thuốc giống canxi, như cinacalcet. Các thuốc này gắn với thụ thể nhận cảm với canxi (CaSR) và làm hạ thấp ngưỡng hoạt hóa của thụ thể này đối với canxi ngoài tế bào. Vì vậy, giải phóng hormon cận giáp từ các tế bào cận giáp giảm đi. Tình trạng hạ canxi máu cũng đã được mô tả ở tới 5% các bệnh nhân này.

Giả suy cận giáp

Một nhóm các rối loạn bẩm sinh này do giảm đáp ứng của cơ quan đích với PTH gây nên. Các bất thường sinh hóa cũng giống với các bất thường được gặp trong suy cận giáp (nồng độ canxi máu thấp, phospho tăng); tuy nhiên, nồng độ PTH tăng cao. Có nhiều khiếm khuyết có thể gặp trong phức hợp thụ thể -PTH, vì vậy, một số biểu hiện kiểu hình của bệnh đã được mô tả. Giả suy cận giáp được phân thành typ 1 và typ 2. Typ 1 được phân nhỏ thêm thành typ 1A, 1B và 1C.

Cở sở phân tử của giả suy cận giáp typ 1 là tình trạng khiếm khuyết trong phức hợp màng – gắn PTH – thụ thể /adenylat cyclase, phức hợp này cung cấp AMP (cAMP) như một chất truyền tin thứ hai trong tế bào. Các bệnh nhân bị giả suy cận giáp sẽ không có đáp ứng sinh lý tăng nồng độ AMP trong nước tiểu sau khi truyền PTH.

Giả suy cận giáp typ 1A được biểu hiện bằng các dấu chứng sinh lý học của chứng loạn dưỡng xương do di truyền cùa Albright (AHO) bao gồm ngắn khối xương bàn chân và ngón chân, tầm vóc thấp, mặt tròn, béo phì, chậm phát triển tinh thần và hình thành xương ở các vị trí bất thường. Bệnh xảy ra do một khuyết tật của Gs-alpha và dẫn tới thiếu hụt trong chuỗi phản ứng tạp AMP . Khuyết tật của protein Gs-alpha không chỉ gây tác động đối với PTH mà còn ảnh hưởng tới các hệ thống hormon khác sử dụng AMP như một tín hiệu thứ 2 (ví dụ: tình trạng kháng glucagon, hormon kích thích tuyến giáp [TSH], hormon hướng sinh dục). Gen chi phối protein Gs-alpha có vị trí trên nhiễm sắc thể 20. Di truyền bệnh xảy ra theo tính trội qua nhiễm sắc thể thường và dòng tín hiệu di truyền từ gen tới protein (gene expression) mang tính đặc hiệu tổ chức và được truyền lại cho các thế hệ sau, với alen có nguồn gốc từ mẹ sẽ biểu hiện đặc tính di truyền bệnh trên thận. Vì vậy, nếu một người được thừa hưởng alen bị khiếm khuyết từ mẹ, người này sẽ có biểu hiện hạ canxi máu. Nếu một người được thừa hưởng alen từ cha, họ sẽ có biểu hiện thực thể của tình trạng loạn dưỡng xương do di truyền của Albright (AHO), song tình trạng hằng định nội môi của canxi máu vẫn được duy trì. Rối loạn thứ hai này được gọi là giả suy cận giáp (pseudo-hypoparathyroỉdism).

Giả suy cận giáp typ 1B được đặc trưng bằng một khiếm khuyết đáp ứng thận đối với PTH. Các bệnh nhân không có biểu hiện tình trạng loạn dưỡng xương do di truyền của Albright; thay vào đó, họ thường có các dấu hiệu thực thể trên hệ cơ xương phù hợp với cường cận giáp. Các bệnh nhân này có protein Gs-alpha bình thường, song bị kháng hormon đối với PTH- suy giảm đáp ứng AMP vòng với PTH, gợi ý khuyết tật nằm tại thụ thể. Tới mức độ nào sẽ gây tác động tới thụ thể hiện còn chưa được biết rõ.

Giả suy cận giáp typ 1C được biểu hiện bằng tình trạng kháng với nhiều thụ thể hormon song quá trình điều hòa tổng hợp protein Gs-alpha vẫn bình thường.

Bệnh nhân bị giả suy cận giáp typ 2 đáp ứng với dùng PTH bằng một gia tăng phù hợp AMP • nước tiểu, song không có tăng phosphat niệu, điều này gợi ý khuyết tật khu trú ở hạ lưu của quá trình sản sinh AMP . . Nếu bệnh nhân có biểu hiện hạ canxi máu, phosphat niệu thấp và tăng nồng độ hormon cận giáp đáp ứng miễn dịch (iPTH), trước tiên phải loại trừ thiếu hụt vitamin D do tình trạng này cũng có các biểu hiện tương tự. ở bệnh nhân bị thiếu hụt vitamin D, tất cả các thông số sẽ trở lại bình thường sau khi dùng vitamin D. Giả suy cận giáp typ 2 rất hiếm gặp, với < 50 ca được ghi nhận cho tới hiện tại.

Kháng PTH có thể được gặp trong trường hợp hạ magiê máu nặng. Khởi đầu, tình trạng kháng PTH xảy ra khi nồng độ magiê máu giảm xuống dưới 0,8 mEq/L (1 mg/dL hay 0,4 mmol/L). Sau đó, giảm bài xuất PTH xẩy ra ở bệnh nhân bị giảm magiê máu nặng nề hơn. Hội chứng giảm hấp thu, dùng lợi tiểu, truyền dịch tĩnh mạch, nghiện rượu mạn, và điều trị ciplastin là những nguyên nhân thường gặp nhất gây hạ magiê máu. Hạ canxi máu kết hợp gây tình trạng kháng với điều trị canxi và vitamin D. Tái phục hồi lại nồng độ canxi chỉ có thể đạt được sau khi tình trạng thiếu hụt magiê được điều chỉnh. Nồng độ phospho không bị tăng ở các bệnh nhân có hạ magiê máu (như được thấy trong suy cận giáp), tình trạng này có lẽ có liên quan với tình trạng suy dinh dưỡng đi kèm. Các bệnh nhân này được biểu hiện bằng nồng độ PTH thấp hoặc bình thường một cách không phù hợp trong bệnh cảnh hạ canxi máu.

Thiếu hụt vitamin D

Giảm sản xuất hoặc giảm hoạt tính của vitamin D gây hạ canxi máu thường gặp hơn các rối loạn PTH. Thiếu hụt vitamin D do một số cơ chế gây nên: (a) giảm hấp thu canxi từ chế độ ăn vào; (b) giảm tái hấp thu canxi ở thận và (c) tình trạng kháng với tác dụng của PTH trên hủy cốt bào ở xương. Trong thiếu hụt vitamin D và hạ canxi máu, tăng PTH bù trừ sẽ gây tăng nhẹ nồng độ canxi huyết thanh. Tuy nhiên, tình trạng tảng này dẫn tới giảm nồng độ phosphat máu, do PTH làm tăng phosphat niệu. Các tác dụng kết hợp này dẫn tới tình trạng mất chất khoáng xương và nếu không được điều chỉnh sẽ gây hội chứng còi xương (rickets) ở trẻ em và nhuyễn xương (osteomalacia) ở người lớn. Chứng còi xương xảy ra ở các xương đang phát triển, điển hình ở trẻ em và là hậu quả của tình trạng canxi hóa bất thường của sụn tại phần bản phát triển của xương (physis). Biểu hiện điển hình là cong các chi và lõm khớp nối sụn sườn (tràng hạt còi xương). Nhuyễn xương xảy ra sau khi bản phát triển xương đã đóng kín và có biểu hiện lâm sàng khó phân biệt với loãng xương. Bệnh nhân thường có hạ phosphat máu.

Thiếu hụt vitamin D có thể xảy ra khi ít tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, cung cấp vitamin D trong chế độ ăn không thỏa đáng, hoặc kém hấp thu acid béo ở ruột. Các bệnh nhân ít tiếp xúc với ánh sáng mặt trời thường là những người nằm trong bệnh viện hoặc tại các an dưỡng đường, ít tuổi hoặc rất già, hay những người sống ở vùng rất cao. Các bệnh nhân có da càng sậm màu sẽ càng giảm khả năng chuyển đổi vitamin D2 thành calcidiol khi cho tiếp xúc với cùng mức ánh sáng mặt trời nhất định. Suy giảm chế độ dinh dưỡng có thể xảy ra ở các đối tượng sống ở những vùng mà bổ sung vitamin D bằng các sản phẩm sữa không phải là một nguồn dinh dưỡng được chuẩn hóa. Ngoài ra, khẩu phần nhập qua chế độ dinh dưỡng không thỏa đáng có thể xảy ra ở người già hoặc các trẻ được bú sữa của những bà mẹ ăn chay. Tình trạng kém hấp thu có thể xảy ra ở các bệnh nhân được nối dạ dày ruột hỗng, cắt đoạn dạ dày, hoặc bị bệnh celiac (bệnh ruột do mất dung nạp với gluten). Các bệnh nhân này có thể có giảm nồng độ calcitriol, nhưng bệnh lý xương lại thường phụ thuộc vào các yếu tố khác như giảm tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, suy dinh dưỡng hay tình trạng mãn kinh. Bệnh lý gan gây giảm chức năng tổng hợp có thể gây thiếu hụt vitamin D từ một số nguồn: suy giảm quá trình hydroxyl hóa vitamin D, giảm muối mật gây kém hấp thu vitamin D, giảm tổng hợp protein mang vitamin D, hoặc các yếu tố khác. Bệnh nhân bị viêm tụy mạn, suy chức năng tụy và phân mỡ sẽ có giảm hấp thu canxi và vitamin D.

Có hai tình trạng bệnh liên quan với thiếu hụt vitamin D có tính chất gia đình. Bệnh nhân bị còi xương phụ thuộc vitamin D typ 1, cũng còn được biết như 25(OH) D 1-hydroxylase. Tình trạng này hiếm gặp và được di truyền theo kiểu tính lặn qua nhiễm sắc thể thường được biểu hiện điển hình trước 2 tuổi. Các bệnh nhân này có nồng độ 25(OH)D bình thường hoặc tăng cao, cho dùng calcitriol có thể điều chỉnh được tình trạng khuyết tật. Còi xương phụ thuộc vitamin D typ 2 còn được biết như là còi xương bẩm sinh kháng calcitriol, có các triệu chứng còi xương điển hình và chứng hói đầu. Đây là một bệnh được di truyền theo tính lặn qua nhiễm sắc thể thường và là hậu quả của một đột biến của gen chi phối thụ thể vitamin D. Các bệnh nhân này có nồng độ 1,25-hydroxy vitamin D huyết thanh cao và có thể được điều trị bằng liều cao canxi cũng như calcitriol.

Các nguyên nhân khác gây hạ canxi máu cấp tính

Có một số rối loạn có thể gây hạ canxi máu cấp do các cơ chế kiểm soát bình thường nồng độ canxi bị áp đảo. Một trong các cơ chế này là tình trạng tăng phosphat máu cấp tính. Sự phóng thích nhanh phospho từ các tế bào cơ bị tổn thương hoặc từ các tế bào u đang bị chết đi có thể làm tăng canxi nhanh chóng ờ bệnh nhân bị tiêu cơ vân hoặc hội chứng ly giải u. Các tình trạng này thường kèm với suy thận cấp.

Ngoài ra, bệnh lý ác tính có thể gây hạ canxi máu như hậu quả của hoạt hóa tạo cốt bào ở các bệnh nhân có di căn nguyên bào (blastic metastases) từ ung thư vú hoặc ung thư tuyến tiền liệt thông qua lắng đọng canxi ở tổn thương.

Tình trạng gắp bỏ canxi bởi citrat (chất chống đông có trong huyết tương hoặc máu lưu trữ), bởi lactat, chất cản quang có gadolinium được sử dụng trong chụp cộng hưởng từ (MRI, gadodiamide và gadoversetamide)và ethyỉen-diamin- tetraacetic acid (EDTA) sẽ làm giảm nồng độ canxi ion hóa máu nhưng không làm thay đổi nồng độ canxi toàn phần. Canxi cũng bị gắp bỏ trong viêm tụy cấp, chủ yếu do giải phóng các acid béo tự do. Mức độ hạ canxi máu được gặp trong viêm tụy có thể được coi là một yếu tố dự kiến tiên lượng, nồng độ canxi máu càng thấp, dự đoán tiên lượng càng tồi.

Phần lớn các bệnh nhân điều trị tại các khoa Điều trị tích cực bị hạ canxi máu song không tìm thấy bất kỳ một nguyên nhân nào. Tình trạng sepsis, nhất là khi do vi khuẩn gram âm gây nên, có thể đi kèm với tình trạng hạ canxi máu, thông qua vai trò của endotoxin. Tỷ lệ tử vong tăng lên ở các bệnh nhân bị sepsis có kèm hạ canxi.

Rất nhiều thuốc gây hạ canxi máu. Các thuốc này gây ức chế sự hủy xương như calcitonin, mithramycin, plicamycin, gallium nitrat và estrogen. Cimetidin làm giảm pH dịch dạ dày, làm chậm thoái giáng mỡ là chất cần thiết để tạo phực chất với canxi giúp quá trình hấp thu ở ruột. Các thuốc chống co giật có thể kích thích các enzym tiểu thể (microsomal enzymes) gây chuyển hóa bất thường của vitamin D. Các nghiên cứu cũng cho thấy phenyltoin có tác dụng giao thoa với hấp thu vitamin D ở ruột. Các bệnh nhân đang được điều trị thuốc chống co giật có thể có biểu hiện hạ canxi máu, nồng độ calcitriol bình thường và nồng độ PTH tăng cao.

Gia tăng số lượng bệnh nhân ung thư được điều trị bằng biphosphonat đường tĩnh mạch để điều trị tăng canxi máu hay bệnh lý di căn xương. Trong bệnh cảnh thiếu hụt vitamin D nặng, các bệnh nhân này có thể xuất hiện tình trạng hạ canxi máu có triệu chứng. Tình trạng này thường được báo cáo khi sử dụng zoledronic acid, nhiều khả năng là do cả hiệu lực mạnh lẫn sự thường dùng thuốc. Sử dụng biphosphonat đường tĩnh mạch bị chống chỉ định trong trường hợp bệnh nhân bị thiếu hụt vitamin D; vì vậy, trước khi dùng thuốc, nên tiến hành xét nghiệm nồng độ 25-OH vitamin D.

BIỂU HIỆN

Khai thác tiền sử và bệnh sử

Hạ canxi máu có triệu chứng phụ thuộc vào tốc độ và mức độ giảm nồng độ canxi huyết thanh.

  • Triệu chứng rõ rệt nhất là cơn tetani. Điển hình, bệnh nhân sẽ than phiền về các triệu chứng thứ yếu bao gồm tê quanh miệng, tê và kiến bò đầu ngọn chi, co quắp bàn chân, bàn tay, ví dụ kinh điển của biểu hiện này là tư thế bàn tay người đỡ đẻ. Xuất hiện dấu hiệu này có liên quan với khép cơ ngón cái, gấp các khớp bàn ngón và uốn gập cổ tay. Bệnh nhân cũng có thể xuất hiện tiếng rít thanh quản có nguy cơ đe dọa tính mạng do co thắt thanh quản.
  • Các biểu hiện trên hệ thần kinh trung ương của hạ canxi máu bao gồm co giật, kích thích, lú lẫn, sảng. Trẻ em bị hạ canxi máu mạn tính có thể bị chậm phát triển trí tuệ, và người lớn có thể có tình trạng sa sút trí tuệ tiến triển nặng lên. Chậm phát triển trí tuệ thường không thể phục hồi được song tình trạng sa sút trí tuệ ở người lớn có thể cải thiện khi điều chỉnh tình trạng hạ canxi máu ở khoảng 50% các trường hợp. Vôi hóa các hạch nền não có thể gây các rối loạn vận động.
  • Các biểu hiện tim mạch bao gồm cơn ngất, suy tim ứ huyết, cơn đau thắt ngực, các biểu hiện nói trên xảy ra trong bệnh cảnh hạ canxi máu cấp tính.
  • Các biểu hiện mạn tính bao gồm đục thủy tinh thể, da khô, tóc xơ, móng tay giòn dễ gãy, da vảy nến, ngứa mạn tính, răng xấu.
  • Tiền sử bệnh nội khoa liên quan có thể bao gồm viêm tụy, suy gan hoặc suy thận, rối loạn dạ dày ruột, cường giáp hoặc cường cận giáp.
  • Tiền sử ngoại khoa cần quan tâm bao gồm các phẫu thuật đối với tuyến giáp, tuyến cận giáp, hoặc ruột hoặc gần đây bị chấn thương vùng cổ.
  • Để loại trừ tình trạng giả hạ canxi máu, cần phải điều tra về tiền sử dùng thuốc cản quang, estrogen, lợi tiểu quai, biphosphonat, bổ sung canxi, kháng sinh và thuốc chống động kinh.
  • Tiền sử gia đình bị hạ canxi máu có thể giúp chẩn đoán các tình trạng bệnh có tính chất di truyền.

Khám thực thể

Hai dấu hiệu khám thực thể kinh điển bao gồm dấu hiệu Chvostek và dấu hiệu Trousseau. Dấu hiệu Chvostek được gây ra bằng cách gõ trên vị trí dây thần kinh mặt, trước gờ tai ngoài (tragus) 2cm và quan sát tình trạng co cơ cùng bên của các cơ mặt. Dấu hiệu này vừa không nhạy (27%) vừa không đặc hiệu và có thể được gặp ở 25% các đối tượng bình thường. Nếu bệnh nhân được dự định phẫu thuật cắt bỏ tuyến cận giáp, nên kiểm tra dấu hiệu Chvostek trước khi mổ để xác định độ tin cậy của dấu hiệu này. Dấu hiệu Trousseau được gây ra bằng cách bơm băng đo huyết áp cao hơn huyết áp tâm thu 20 mmHg và giữ mức áp lực này trong 3 phút và quan sát dấu hiệu tư thế bàn tay người đỡ đẻ. Các nghiên cứu cho thấy dấu hiệu này có độ nhạy 66% và tỉ lệ dương tính giả là 4%.

Các biểu hiện của hệ thần kinh trung ương bao gồm tình trạng kích thích, lú lẫn, ảo giác, sa sút trí tuệ, các biểu hiện ngoại tháp và co giật.

Các dấu hiệu tim phổi tiềm ẩn bao gồm xuất hiện tiếng thở khò khè (wheezing), tiếng rít (stridor), nhịp tim chậm, rale ở phổi và nhịp ngựa phi S3. Hạ canxi máu cấp gây kéo dài khoảng QT và tình trạng này có thể dẫn tới loạn nhịp thất, gây giảm tính co bóp của cơ tim dẫn tới suy tim ứ huyết, tụt huyết áp và cơn đau thắt ngực. Tình trạng co thắt cơ trơn có thể dẫn tới tiếng rít thanh quản, rối loạn nuốt và co thắt phế quản.

Các triệu chứng dạ dày ruột bao gồm cơn đau quặn gan (biliary colic) và cơn đau do co thắt ruột (interstinal colic) và rối loạn nuốt do do co thắt cơ trơn. Tiêu chảy và/hoặc tình trạng không dung nạp gluten có thể được gặp trong các trường hợp hạ canxi máu do tình trạng kém hấp thu gây nên (ví dụ: do bệnh celiac sprue).

Biểu hiện da tiên phát của hạ canxi máu là chốc lở dạng herpes (impertigo herpetiformis), một dạng của bệnh vảy nến có mụn mủ cấp được đi kèm với hạ canxi máu ở phụ nữ có thai. Tình trạng này biểu hiện bằng từng cụm các mụn mủ như gai mít. Bệnh nhân cũng có thể có các dấu hiệu kém đặc hiệu hơn như da khô, dễ bong tróc và móng tay giòn, dễ gãy.

XỬ TRÍ

Đánh giá cận lâm sàng

Một bệnh nhân bị hạ canxi máu nên được định lượng nồng độ albumin máu. Để hiệu chỉnh nồng độ canxi toàn phần máu trong bệnh cảnh albumin máu hạ thấp, sử dụng phương trinh sau:

Ca được hiệu chỉnh = [4-albumin máu (g/dL)] X 0,8 + Ca++ huyết thanh (mg/dL)

Thay cho cách tính này, có thể định lượng trực tiếp nồng độ canxi ion hóa máu. Tuy nhiên, xét nghiệm này kém tin cậy hơn nếu chỉ làm đo đạc một lần. Nó có thể bị tăng cao giả tạo khi có tình trạng thiếu máu cục bộ tay kéo dài do đặt garô để lấy mẫu máu xét nghiệm.

Các xét nghiệm khác cần làm bao gồm định lượng nồng độ phospho huyết thanh, PTH nguyên dạng (iPTH), magiê, creatinin và các chất chuyển hóa của vitamin D. Một nồng độ 25(OH)D thấp gợi ý có tình trạng thiếu hụt vitamin D do khẩu phần dinh dưỡng kém, thiếu tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, hay tình trạng kém hấp thu. Nồng độ 1,25(OH)2D thấp kết hợp với PTH cao gợi ý tình trạng suy giảm nhạy cảm với PTH và suy giảm sản sinh 25(OH)D 1-hydroxylase như được thấy ở bệnh nhân bị suy thận mạn,còi xương phụ thuộc vitamin D typ 1 và giả suy cận giáp.

Các thăm dò khác

  • Các dấu hiệu điện tâm đồ kinh điển của hạ canxi máu bao gồm kéo dài khoảng OT,sóng T bị đảo chiều cũng có thể xảy ra,song các dấu hiệu bất thường này không trở lại bình thường khi tiến hành điều chỉnh cấp bằng canxi.
  • Chụp X-quang hệ xương: Còi xương hoặc nhuyễn xương biểu hiện bởi các vùng Looser (Looser’s zone) đặc trưng cho bệnh, được quan sát rõ hơn ở cành xương mu, đầu trên xương đùi và xương sườn.
  • Nồng độ AMP vòng. trong nước tiểu có thể giúp chẩn đoán phân biệt tình trạng suy cận giáp với giả suy cận giáp typ 1 và 2.

Điều trị

Điều trị thực sự tinh trạng hạ canxi máu là điều chỉnh thích hợp các bệnh lý nguyên nhân.

Chỉ định điều chỉnh khẩn cấp tình trạng hạ canxi máu bao gồm triệu chứng cơn tetani nặng, có tiếng thả rít (stridor) hoặc co giật. Có thể bồi phụ lại canxi hoặc bằng canxium gluconat hoặc bằng calcium chlorua tiêm tĩnh mạch. Dung dịch canxi gluconat 10%, 10 đến 20 mL (1-2 ống thuốc tiêm chuẩn) có thể được tiêm trong vòng 10 phút; canxi chlorua cũng có hiệu quả tương đương, cần lưu ý không được tiêm kiểu bolus quá nhanh do rối loạn chức năng tim có thể xảy ra, và bệnh nhân cần được theo dõi bằng máy phá rung hoặc theo dõi từ xa (telemetry). Hiệu quả của kiểu tiêm liều bolus này mang tính tạm thời và cần tiếp tục sau đó điều trị đường tĩnh mạch kéo dài.

Để bồi phụ canxi cấp cứu song không quá khẩn cấp, 1 mg/kg/giờ nguyên tố canxi có thể được cho bằng cách truyền chồng qua đường tĩnh mạch (intravenous piggyback) trong vòng vài giờ. Mỗi ống canxi gluconat 10 mL chứa 90 mg trên 2,25 mmol nguyên tố canxi. Như vậy, nếu 6 ống canxi gluconat được pha trong 500mL dịch glucose 5%, tốc độ truyền nhỏ giọt là 0,92 mL/kg/giờ sẽ cung cấp 1 mg/kg/giờ nguyên tố canxi. Do canxi gây kích ứng thành mạch, cần thận trọng khi truyền thuốc để bảo đảm dịch truyền tĩnh mạch không bị truyền ra ngoài thành mạch. Ngoài ra, dịch bicarbonat và dịch phosphat khiến canxi bị kết tùa và không được cho truyền đồng thời canxi với các dịch này. cần tiến hành xét nghiệm nồng độ canxi huyết thanh mỗi 4 đến 6 giờ/lần trong khi truyền canxi tĩnh mạch và tốc độ truyền cần được điều chỉnh để duy trì nồng độ canxi huyết thanh trong khoảng 2,0-2,3 mmol/L (8-9 mg/dL).

Đích của điều trị bồi phụ canxi mạn tính là để duy trì được nồng độ canxi ở giới hạn bình thường thấp. Khoảng 1,5-3 g nguyên tố canxi nên được cho như một lượng bổ sung trong chế độ dinh dưỡng để bảo đảm khẩu phần nhập canxi thỏa đáng. Lượng bổ sung cần được cho với các bữa ăn để làm tăng hấp thu và dự phòng tăng phosphat máu. Có nhiều chế phẩm canxi dùng theo đường uống khác nhau, nhưng nói chung canxi carbonat là rẻ nhất, mặc dù hấp thu có thể kém hơn so với các chế phẩm khác.

Bổ sung vitamin D điển hình được thực hiện bằng dạng ergocalciferol (vitamin D2). Chế phẩm này rẻ hơn và có nửa đời sống dài nhất. Khoảng liều thường dùng cho các bệnh nhân bị suy cận giáp là 50000 đến 100000 UI uống mỗi ngày (1,25-2,5 mg/ngày). Nồng độ vitamin D 25(OH) huyết thanh cần được định lượng cùng với nồng độ canxi huyết thanh để đánh giá điều trị đã thỏa đáng hay chưa. Vitamin D là một chất rất ái mỡ (lipophilic) và có thể cần tới vài tuần mới đạt được tinh trạng ổn định với một liều mới dùng. Calcitriol là một chất có nửa đời sống ngắn hơn (8 giờ), cũng có thể được dùng với liều khởi đầu là 0,25 đến 0,5 mcg uống mỗi ngày.

Các bệnh nhân bị suy cận giáp và giả suy cận giáp có thể được xử trí lúc đầu bằng bổ sung canxi dùng theo đường uống, ở bệnh nhân bị suy cận giáp nặng, điều trị bằng vitamin D có thể được chỉ định; tuy nhiên, thiếu hụt PTH gây suy giảm quá trình chuyển đổi vitamin D thành calcitriol. Vì vậy, điều trị hiệu quả nhất là phối hợp thêm calcitriol.

Do bệnh nhân bị suy cận giáp phụ thuộc vào bài tiết canxi của thận để duy trì tình trạng hằng định nội môi canxi, nên cần đặc biệt chú ý đến chức năng thận. Bất cứ thuốc nào gây giảm cấp tính mức lọc cầu thận đều có thể gây tăng canxi máu có triệu chứng. Ngoài ra, các thuốc lợi tiểu thiazid, bằng cách gây block bài tiết canxi, có thể dẫn tới tăng canxi máu ở các đối tượng đang sử dụng canxi và bồi phụ vitamin D dài ngày.

Bệnh nhân bị hạ canxi mạn tính do suy cận giáp cũng có thể được điều trị bằng Forteo, mặc dù thuốc rất đắt tiền. Điển hình ra, bệnh nhân được điều trị bằng 20 mcg tiêm dưới da, X 2 lần /ngày, hoặc tới 2 mcg/kg/ngày. Trong bệnh cảnh sau phẫu thuật cắt bỏ tuyến cận giáp, thuốc có thể được sử dụng để làm giảm việc nhập viện của bệnh nhân và để đạt được tình trạng nồng độ canxi máu bình thường một ngày tới 2 mcg/kg/ngày. Trong giai đoạn sau mổ cắt tuyến giáp, thuốc có thể liều thường có hiệu quả là 40 mcg tiêm dưới da X 2 lần/ngày.

Tiên lượng

Tiên lượng của điều chỉnh hạ canxi máu sẽ tốt nếu rối loạn này được phát hiện, song tiên lượng còn tùy thuộc vào bệnh căn. Hầu hết các triệu chứng có thể được điều trị thuyên giảm. Tuy nhiên, tổn thương mắt hoặc chậm phát triển trí tuệ xảy ra khi bị hạ canxi kéo dài không thể phục hồi được.

Biến chứng

Đích điều trị đối với hạ canxi máu mạn tính là duy trì được nồng độ canxi huyết thanh ở giới hạn bình thường thấp (8-8,5 mg/dL). Nếu nồng độ canxi máu được duy trì ờ dưới mức này, bệnh nhân vẫn có nguy cơ bị triệu chứng của hạ canxi máu hoặc đục thủy tinh thể. Nồng độ canxi máu cao hơn có thể dễ làm bệnh nhân bị sỏi thận. Trong hạ canxi máu mạn tính, cần theo dõi tích số canxi-phosphat (được tính bằng cách nhân nồng độ canxi với nồng độ phosphat). Đích cần đạt là tích số này < 60 để tránh bị biến chứng hoại tử mô do tăng canxi máu (calciphylaxis). Ngoài ra, cũng cần kiểm tra lại định kỳ tỷ lệ canxi/creatinin trong nước tiểu để đánh giá tình trạng tăng canxi niệu. Tỷ lệ này được tính toán bằng cách chia nồng độ canxi niệu cho nồng độ creatinin niệu lấy mẫu bất kỳ. Tỷ lệ này phải thấp hơn 0,2; nếu tỷ lệ này > 0,2 có gia tăng nguy cơ xuất hiện sỏi thận, nhất là sỏi loại phosphat canxi. Các bệnh nhân được điều trị bằng Forteo có nguy cơ tiềm ẩn xuất hiện biến chứng saccôm xương (osteosarcoma).

Nếu xuất hiện tình trạng tăng canxi máu, cần ngừng bổ sung vitamin D và canxi tới khi nồng độ canxi máu trở về bình thường. Liều dùng sau đó nên giảm đi. Tác dụng của calcitriol thường kéo dài một tuần, nhưng tác dụng của ergocalcitriol có thể kéo dài trên một tháng.

NHỮNG ĐIỂM QUAN TRỌNG CẦN GHI NHỚ

Sinh lý bệnh của hạ canxi máu mạn tính có liên quan với tình trạng suy giảm chức năng của hoặc PTH hoặc vitamin D.

Triệu chứng đáng lo ngại nhất của hạ canxi máu cấp tính là biểu hiện thần kinh (ví dụ: co giật) hoặc biểu hiện thần kinh cơ (ví dụ: cơn tetani).

Xử trí cấp cứu là bổ sung canxi đường tĩnh mạch.

Xử trí lâu dài nói chung là bằng dùng vitamin D và bổ sung canxi đường uống.

Ngộ độc Carbamat – triệu chứng, xử trí cấp cứu

1. Đại cương

Carbamat là hóa chất trừ sâu thuộc nhóm ức chế enzym cholinesterase như phospho hữu cơ, carbamat gắn vào enzym yếu hơn nên enzym dễ hồi phục hơn phospho hữu cơ. Tác dụng trên lâm sàng của carbamat và phospho hữu cơ không khác nhau, chỉ khác nhau về thời gian gắn.

Carbamat hấp thụ dễ dàng qua đường đường tiêu hóa, da và niêm mạc. Các dấu hiệu và triệu chứng nhiễm độc rất thay đổi tùy theo đường nhiễm và mức độ nhiễm độc.

Carbamat vào cơ thể sẽ gắn và làm mất hoạt tính của ChE gây tích tụ acetylcholin tại các synap thần kinh, gây kích thích liên tục quá mức các receptor ở hậu synap (lúc đầu), sau đó kiệt synap ở cả hệ thần kinh trung ương và thần kinh ngoại biên. Sự kích thích dẫn tới hội chứng cường cholin cấp. Có hai loại receptor: muscarin (ở hậu hạch phó giao cảm) và nicotin (ở hạch thần kinh thực vật và ở các điểm nối thần kinh cơ vân-các bản vận động) chịu tác động của Vì vậy các triệu chứng lâm sàng rất phức tạp và tập trung thành các hội chứng bệnh lý khác nhau.

2.   NGUYÊN NHÂN NGỘ ĐỘC

  • Tự tử: là nguyên nhân thường gặp
  • Uống nhầm
  • Ăn rau quả còn carbamat tồn dư khi thu hoạch trước thời gian cho phép
  • Bị đầu độc

3.   CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán xác định

  • Triệu chứng lâm sàng: là dấu hiệu của cường cholin cấp, 3 hội chứng:

Hội chứng Muscarin: sảy ra sớm nhất và hay gặp nhất

+ Kích thích cơ trơn gây co thắt ruột, phế quản, bàng quang, co đồng tử, giảm phản xạ ánh sáng

+ Kích thích tuyến ngoại tiết: tăng tiết nước bọt, dịch ruột, mồ hôi, nước mắt, dịch phế quản… Bệnh nhân bị tức ngực, cảm giác chẹn ngực, khó thở, đau bụng, buồn nôn, nôn, ỉa chảy, ỉa đái không tự chủ. Khám thấy tình trạng suy hô hấp, lồng ngực kém di động, nghe phổi có thể thấy rì rào phế nang giảm, có nhiều ran ẩm, đôi khi có ran rít. Biểu hiện tim có thể thấy nhịp chậm xoang, giảm dẫn truyền nhĩ thất, rối loạn nhịp thất.

Hội chứng Nicotin:

+ Giật cơ, máy cơ, co cứng cơ, liệt cơ bao gồm cả các cơ hô hấp

+ Kích thích hệ thần kinh giao cảm: da lạnh, xanh tái, mạch nhanh, huyết áp tăng, giãn đồng tử.

Hội chứng thần kinh trung ương: thường chỉ gặp trong ngộ độc nặng

Lo lắng, bồn chồn, rối loạn ý thức, nói khó, thất điều, nhược cơ toàn thân, hôn mê, mất các phản xạ.

Ngộ độc nặng: suy hô hấp, trụy mạch, co giật, hôn mê sâu.

  • Triệu chứng cận lâm sàng

Các xét nghiệm cơ bản: công thức máu, đông máu cơ bản, urê, đường, creatinin, điện giải máu, AST, ALT máu, amylase máu, nước tiểu, khí máu động mạch.

Xét nghiệm ChE trong máu: giảm <50% giá trị bình thường tối thiểu

Chụp tim phổi: để chẩn đoán nguyên nhân gây suy hô hấp.

Điện tim: ghi điện tim và theo dõi trên monitor để phát hiện rối loạn nhịp

Xét nghiệm độc chất trong máu, nước tiểu, dịch dạ dày bằng sắc ký lớp mỏng, sắc ký khí

  • Chẩn đoán xác định dựa vào

Hỏi bệnh: hỏi bệnh nhân và người nhà bệnh nhân về: tên hoá chất, mầu sắc, số lượng, dạng hoá chất (bột, lỏng), yêu cầu người nhà mang tang vật đến (vỏ bao bì, lọ hoá chất….). Hỏi về hoàn cảnh, tâm lý của bệnh nhân

Bệnh sử nhiễm độc cấp rõ ràng: uống hoặc tiếp xúc với thuốc trừ sâu.

Triệu chứng lâm sàng có hội chứng cường cholin

Enzym Cholinesterase giảm <50% giá trị bình thường tối thiểu

Xét nghiệm độc chất carbamat trong nước tiểu, hoặc trong máu, dịch dạ dày (+)

Chẩn đoán phân biệt

  • Ngộ độc các hóa chất trừ sâu khác như phospho hữu cơ.
  • Hội chứng muscarin do ngộ độc nấm.
  • Ngộ độc  các  chất  ức  chế  ChE  dùng  trong  y  học  như  prostigmin, neostigmin,…

4.   ĐIỀU TRỊ

Nguyên tắc

Điều trị tích cực, sớm, sử dụng thuốc kháng độc đặc hiệu atropin theo dấu thấm

Cấp cứu ban đầu: tại tuyến y tế cơ sở

  • Gây nôn nếu bệnh nhân vừa uống trong giờ đầu: cho bệnh nhân uống nhiều nước, móc họng hoặc dùng ống thông mềm đưa sâu vào họng. Đưa bệnh nhân ra khỏi vùng có hơi độc (nếu ngộ độc qua đường khí – phải đảm bảo an toàn cho người cứu hộ trước)
  • Than hoạt 20g nếu bệnh nhân tỉnh, tốt nhất là uống Antipois – BMai 1 týp
  • Tiêm atropin 1 – 2mg/lần mỗi 10 – 15 phút cho đến khi thấm atropin (hết co thắt và tăng tiết hô hấp, da hồng ấm, đồng tử giãn, mạch 90-100 lần/phút). Duy trì thấm atropine khi vận chuyển.
  • Bảo đảm huyết áp bằng truyền dịch
  • Bảo đảm hô hấp bằng bóp bóng, đặt nội khí quản, oxy
  • Đảm bảo dấu hiệu sống trước và trong khi chuyển bệnh nhân
  • Mang vỏ lọ hoá chất hoặc thức ăn, đồ uống nghi nhiễm hoá chất để xét nghiệm
  • Gọi điện cho Trung tâm Chống độc để được tư vấn

Tại Bệnh viện các tuyến

Sử dụng thuốc kháng độc atropin

Duy trì thấm atropine điều trị dấu hiệu muscarin, chủ yếu là hết tăng tiết và co thắt phế quản. Tổng liều atropine từ vài mg đến vài chục mg trong vài ngày, dùng theo tình trạng lâm sàng. Atropin tiêm tĩnh mạch, liều thấp có thể tiêm dưới da, giảm liều dần, ngừng khi liều giảm tới 0,5mg/24 giờ. Không cắt atropin quá sớm hoặc đột ngột vì có thể thiếu atropin vào ngày thứ 3-5 gây tử vong. Có thể áp dụng bảng điểm atropin để tránh ngộ độc atropin.

Bảng 11.1: Bảng điểm atropin

Triệu chứng Ngấm atropin Điểm Quá liều atropin Điểm
1. Da Hồng, ấm 1 Nóng, đỏ 2
2. Đồng tử 3 – 5 mm 1 > 5mm 2
3. Mạch 70 -100lần/phút 1 > 110 lần/phút 2
4. Hô hấp Không tăng tiết và co thắt, còn đờm dãi lỏng 1 Đờm khô quánh hoặc không

có đờm

2
5. Tinh thần Bình thường 0 Kích thích vật vã, sảng hoặc li bì do atropin. 2
6. Bụng Mềm bình thường 0 Chướng, gõ trong 2
7.Cầu BQ Không có 0 Căng 2
Cộng điểm 1 2

Điểm atropine = 1 + 2 (điểm).

Ngấm atropine khi đạt 4- 6 điểm, quá liều atropin khi đạt > 6 điểm, thiếu atropine khi đạt < 4 điểm.

Các biện pháp hạn chế hấp thu

  • Ngộ độc đường tiêu hoá: Rửa dạ dày khi đã ổn định tình trạng bệnh nhân. Pha 40 – 50g than hoạt (hoặc 1 lọ Antipois BMai) với 50 ml nước bơm vào dạ dày trước khi rửa. Số lượng rửa 5 lít, có thể pha thêm 20g than hoạt vào dịch rửa. Sau rửa dạ dày, bơm vào dạ dày (20g than hoạt và 30g sorbitol) hoặc 1 typ Antipois BMai mỗi 2 giờ/lần, tổng là 3-6 lần. Theo dõi để đảm bảo bệnh nhân đi ngoài ra than hoạt trong vòng 24 giờ, cho thêm sorbitol 1g/kg cân nặng nếu sau 24 giờ vẫn không đi ngoài ra than hoạt.
  • Chú ý cởi bỏ quần áo nhiễm hóa chất. Cần tắm, gội tẩy độc cho bệnh nhân ngộ độc đường uống vì bệnh nhân thường nôn ra tóc, quần áo.

Các biện pháp hồi sức

  • Hô hấp: rất quan trọng, cho bệnh nhân thở oxy, đặt nội khí quản hút đờm dãi và thông khí nhân tạo nếu có suy hô hấp. Tuy nhiên nếu dùng atropine đủ, nhanh chóng đạt tình trạng ngấm thường sẽ tránh được suy hô hấp.
  • Tuần hoàn: Truyền đủ dịch, cho thuốc vận mạch nếu huyết áp vẫn thấp khi đã bù đủ dịch: Noradrenalin, Dopamin, …
  • Cân bằng nước- điện giải: bệnh nhân dễ bị mất nước do nôn, ỉa chảy, ăn uống không đủ, do ngộ độc atropin hoặc ngộ độc nước gây hôn mê do rửa dạ dày không đúng, truyền dịch quá nhiều. Các điện giải cần chủ ý là natri và kali, điều chỉnh sớm theo xét nghiệm.
  • Nuôi dưỡng: Bảo đảm 30 – 50Kcalo/kg/ngày bằng cả đường tiêu hoá và tĩnh mạch. Ngộ độc đường uống ngày đầu tiên thường nuôi dưỡng tĩnh mạch hoàn toàn vì dùng than hoạt và thuốc tẩy. Chế độ ăn kiêng mỡ và sữa.
  • Vệ sinh thân thể, thay đổi tư thế nếu bệnh nhân hôn mê.

5.   TIÊN LƯỢNG, BIẾN CHỨNG

Tiên ợng

Carbamat thường diễn biễn tốt và ổn định sau một vài ngày nếu được điều trị đúng, tích cực.

Biến chứng

Tụt huyết áp, rối loạn nước-điện giải, toan máu do nôn, ỉa chảy, mất dịch

Suy thận cấp: do tiêu cơ vân, giảm thể tích, toan chuyển hóa

Suy hô hấp do tình tạng tăng tiết dịch và co thắt phế quản

Sặc vào phổi (đặc biệt là sặc than hoạt khi bệnh nhân có rối loạn ý thức mà không bảo vệ tốt đường thở)

6. PHÒNG TRÁNH

  • Hướng dẫn cách sử dụng, bảo quản hoá chất bảo vệ thực vật
  • Mở lớp tập huấn về chẩn đoán và xử trí ngộ độc các hoá chất bảo vệ thực vật
  • Gọi tới Trung tâm Chống độc, bệnh viện Bạch Mai nếu cần thêm thông tin

Xoa bóp với bệnh tim mạch có lợi ích gì?

Xoa bóp, hay còn gọi là massage, có một lịch sử khá lâu đời từ hàng năm nay và hàng ngàn năm nay và đã được nâng lên đến mức nghệ thuật. Trong lịch sử Y học, xoa bóp là một biện pháp chữa bệnh có từ thời tiền sử và được coi là một biện pháp chữa bệnh hiệu nghiệm thời đó.

Với những thầy thuốc Hy Lạp và La Mã cổ đại, nghệ thuật xoa bóp được coi là một trong những phương pháp chữa bệnh chính và làm giảm đau. Ngày nay, xoa bóp vẫn giữ được ưu thế của nó, là một trong những biện pháp dự phòng và điều trị, nâng cao sức khoẻ con người. Không chỉ chữa bệnh, xoa bóp còn mang lại cho con người cảm giác thư giãn, dễ chịu, giải toả stress.

Hipocrates, ông tổ của Y học cho rằng “Thầy thuốc phải thành thạo nhiều điều, nhưng chắc chắn là phải biết xoa bóp…”

Xoa bóp đã mang lại cho con người sức khoẻ và lòng đam mê. Dưới tác dụng của xoa bóp, mạch máu lưu thông tốt hơn, trao đổi chất tại chỗ cũng được cải thiện. Các chất chuyển hoá ứ đọng tại cơ bắp cũng được giải phóng nên có tác dụng làm giảm đau cơ, khớp và thư giãn thần kinh.

Trên bề mặt da có rất nhiều các đầu mút thần kinh, khi bị tác động sẽ gây ra các phản ứng thần kinh thể dịch phức tạp. Dưới tác động của xoa bóp, cơ thể bài xuất ra một lượng endorphin là morphin nội sinh có tác dụng giảm đau gấp hàng trăm lần morphin. Xoa bóp có ảnh hưởng đến sự tuần hoàn cục bộ và tuần hoàn chung trong toàn bộ cơ thể. Dưới tác động của xoa bóp, tuần hoàn máu động mạch và tĩnh mạch tại chỗ và toàn thân đều tăng lên, giảm nhẹ gánh nặng cho tim.

Xoa bóp giúp cải thiện Tăng huyết áp
Xoa bóp giúp cải thiện Tăng huyết áp

Khi xoa bóp, các mạch máu cũng giãn nở, nhiệt độ da tăng lên từ 0,5 – 5 độ C. Các mao mạch cũng giãn nở làm cho lượng máu đi nuôi cơ thể cũng tăng lên. Xoa bóp cũng có tác dụng điều hoà huyết áp. Nhịp tim của vận động viên thay đổi không đáng kể khi xoa bóp.

Người bị đau thắt ngực có thể xoa bóp vùng trước tim và mặt trước trong cánh tay, cẳng tay, vùng trong lòng bàn tay, dưới 2 ngón tay út và áp út của bàn tay trái sẽ có tác dụng cắt được cơn đau.

Xoa bóp lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân cũng là những trường phái xoa bóp trên cơ sở tác động qua cung phản xạ thần kinh.

Tuy nhiên, nên nhớ rằng có rất nhiều bệnh không được xoa bóp. Báo “Thầy thuốc gia đình” (Nga) khuyên mọi người không được xoa bóp khi mắc các bệnh:

Bệnh ung thư máu, bệnh ưa chảy máu.

Bệnh lao thời kỳ đang phát triển.

Bệnh cốt tuỷ viêm.

Không được xoa bóp các khối u dù đã cắt bỏ do có thể làm lan tràn các tế bào ung thư đến các tổ chức khác và làm khôl u phát triển nhanh hơn.

Phụ nữ mang thai không nên xoa bóp vùng bụng và thắt lưng.

Người đang mắc bệnh ngoài da cũng không được xoa bóp trên vùng da bị tổn thương. Khi bị mụn nhọt không được xoa bóp trên vùng đau do có thể phá vỡ hàng rào bảo vệ quanh ở viêm dẫn đến viêm nhiễm lan tràn.

Không được xoa bóp các vùng nhạy cảm của cơ thể như núm vú, nách, bẹn… đặc biệt là các nốt ruồi và các vùng có tổn thương trên da.

Sau khi ăn no cũng không nên xoa bóp ngay, nhất là xoa bóp vùng bụng hoặc lưng và thắt lưng.

Người bệnh nặng cũng không nên xoa bóp.

Rau chân vịt không được ăn cùng với đậu phụ

Rau chân vịt nấu với đậu phụ là món ăn truyền thống của người Trung Quốc, vừa thanh đạm, ngon miệng, vừa đơn giản dễ làm, là một món ăn phổ biến hàng ngày được nhiều người ưa thích. Nhưng từ khi hiểu được chút ít về dinh dưỡng học, bắt đầu hiểu được thành phần của thực phẩm thì nhiều người cho rằng chất oxalate có trong rau chân vịt kết hợp với chất calcium có chứa trong đậu phụ thành chất calcium oxalate không hòa tan, nó không có cách gì được cơ thể hấp thu và lợi dụng, do đó mà cho rằng rau chân vịt không nên nấu lẫn với đậu phụ. Thực ra, cách nghĩ và cách nói như vậy thật phiến diện và không khoa học.

Rau chân vịt
Rau chân vịt

Calcium là chất khoáng quan trọng cần thiết đối với cơ thể, nó là thành phần chủ yếu tạo nên xương cốt và răng; hơn nữa, trong hoạt động sinh lí của con người như việc làm đông chắc huyết dịch, điều tiết công năng của tế bào thần kinh, sự co rút cơ tim và cơ thở ngang đều có sự tham dự của calcium. Calcium tồn tại trong rất nhiều loại thực phẩm như đậu phụ, các loại thịt, các loại trứng đều có rất nhiều chất calcium, nói ngay như rau chân vịt, cứ mỗi 100 gam cũng đã có tới 70 mg calcium.

Oxalate là một chất có hại đối với cơ thể con người, nếu ăn lượng lớn vào người sẽ làm bào mòn niêm mạc dạ dày, sau khi cơ thể hấp thu sẽ kết hợp với chất calcium trong cơ thể, hạ thấp nồng độ calcium trong huyết dịch, gây nên bệnh ở tim, huyết quản và ở hệ thống cơ bắp. Nó còn sẽ hình thành sỏi ở hệ tiết niệu, làm tổn hại đến công năng của thận, cho nên cần phải ngăn chặn sự hấp thu nó trong cơ thể. Không chỉ có rau chân vịt có nhiều chất oxalate mà trong rất nhiều loại rau như rau muống, rau giền đều có chứa nhiều oxalate. Thế mà chất calcium lại rất dễ kết hợp với oxalate để thành chất muối oxalate, chất muối này cơ thể không có cách gì hấp thu được. Nếu rau chân vịt không nấu lẫn với đậu phụ, cố nhiên chất oxalate có trong rau chân vịt sẽ không kết hợp với chất calcium để thành muối oxalate được, nhưng oxalate thì lại kết hợp với chất calcium có trong các loại thịt, các loại trứng và trong nhiều thực phẩm khác để thành muối oxalate. Nếu vì để đề phòng sự tổn thất của calcium trong thức ăn mà chỉ ăn riêng mỗi rau chân vịt không thôi, thì chất oxalate có trong rau chân vịt sẽ kết hợp với chất calcium và chất sắt trong cơ thể chẳng phải là đã càng gây tổn thất lớn hơn hay sao. Cho nên, có thể nói chất calcium trong đậu phụ chính là chất giải độc thiên nhiên có tác dụng hóa giải chất oxalate bảo vệ cơ thể.

Có nhiều người để xuất trước khi xào nấu rau chân vịt thì hãy hơ, rang, sấy trước rau chân vịt đó để trừ khử chất oxalate có trong rau chân vịt, nếu vậy, rất nhiều chất dinh dưỡng khác có trong rau chân vịt cũng sẽ bị mất đi do cách làm này. Thế mà rau chân vịt nấu lẩu với đậu phụ thì có thể đạt được cả hai mục đích vừa hóa giải được chất oxalate vừa ăn ngon miệng, cách ăn này rất khoa học.

Do đó có thể thấy rau chân vịt cũng như rau muống, rau giền… ăn cùng với đậu phụ không những có thể tránh được tổn hại của chất oxalate đối với cơ thể mà còn có thể bảo vệ được chất calcium, chất sắt trong thức ăn không bị kết hợp với chất oxalate, do đó mà càng tăng thêm sự hấp thu tốt của cơ thể đối với hai chất này.