Blog Trang 554

Dung dịch apraclonidine 1% – nhỏ mắt, Iopidine

TÊN THUỐC THÔNG DỤNG: DUNG DỊCH APRACLONIDINE 1% – DÙNG CHO MẮT (A-pra-KLOE-ni-deen)
TÊN THƯƠNG MẠI: Iopidine

CÁC CÔNG DỤNG CỦA THUỐC | CÁCH SỬ DỤNG | TÁC DỤNG PHỤ | CÁC BIỆN PHÁP ĐỀ PHÒNG | TƯƠI HỢP THUỐC | QUÁ LIỀU | GHI CHÚ | QUÊN LIỀU | BẢO QUẢN

CÔNG DỤNG: Thuốc này được sử dụng để điều trị hoặc ngăn ngừa áp lực cao trong mắt có thể xảy ra trong và sau khi phẫu thuật mắt bằng laser. Giảm áp lực cao trong mắt có thể giúp ngăn ngừa mất thị lực hoặc mù lòa ở mắt được điều trị bằng phẫu thuật laser. Apraclonidine được cho là hoạt động bằng cách giảm lượng dịch trong mắt.

CÁCH SỬ DỤNG: Thuốc này được cho dưới dạng nhỏ mắt, thường được thực hiện bởi một chuyên gia y tế. Nó không nên được uống hoặc tiêm vào mắt. Đối với phẫu thuật mắt bằng laser, nó thường được cho 1 giờ trước khi điều trị bằng laser và được lặp lại vào cuối điều trị. Để nhỏ thuốc mắt, hãy rửa tay trước tiên. Để tránh nhiễm bẩn, hãy cẩn thận không chạm vào đầu ống nhỏ hoặc để nó chạm vào mắt hoặc bất kỳ bề mặt nào khác. Nghiêng đầu ra sau, nhìn lên và kéo xuống mí mắt dưới để tạo thành một túi. Giữ ống nhỏ ngay trên mắt và nhỏ 1 giọt vào túi. Nhả mí mắt và nhẹ nhàng nhắm mắt lại. Đặt một ngón tay ở góc mắt (gần mũi) và nhấn nhẹ trong 1 đến 2 phút. Điều này sẽ ngăn thuốc thoát ra ngoài. Cố gắng không chớp mắt và không chà xát mắt. Lau sạch dung dịch thừa xung quanh mắt bằng khăn giấy và rửa tay để loại bỏ bất kỳ thuốc nào có thể còn dính trên tay. Nếu bạn đang sử dụng loại thuốc mắt khác (ví dụ: nhỏ mắt hoặc thuốc mỡ), hãy đợi ít nhất 5 phút trước khi sử dụng thuốc khác. Sử dụng nhỏ mắt trước thuốc mỡ để cho phép thuốc nhỏ vào mắt.

TÁC DỤNG PHỤ: Có thể xảy ra một số tác dụng phụ như khó chịu/đỏ/bỏng ở mắt, thị lực mờ, đau dạ dày, chóng mặt hoặc buồn ngủ. Ngứa/rươm rướm mắt hoặc sưng mí mắt có thể là triệu chứng của phản ứng dị ứng ở mắt. Nếu bất kỳ triệu chứng nào trong số này kéo dài hoặc xấu đi, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết ngay lập tức. Hãy nhớ rằng bác sĩ đã kê toa thuốc này vì họ đã đánh giá rằng lợi ích của bạn lớn hơn nguy cơ tác dụng phụ. Nhiều người sử dụng thuốc này không gặp phải tác dụng phụ nghiêm trọng. Hãy cho bác sĩ biết ngay lập tức nếu bạn gặp phải bất kỳ tác dụng phụ nghiêm trọng nhưng không thường xuyên nào như: ngất xỉu, thay đổi tâm trạng/khó chịu (ví dụ: trầm cảm), nhịp tim chậm/không đều. Phản ứng dị ứng nghiêm trọng với thuốc này là hiếm. Tuy nhiên, hãy tìm kiếm sự chăm sóc y tế ngay lập tức nếu bạn nhận thấy bất kỳ triệu chứng nào sau đây của một phản ứng dị ứng nghiêm trọng: phát ban, ngứa/sưng (đặc biệt là trên mặt/lưỡi/họng), chóng mặt nghiêm trọng, khó thở. Đây không phải là danh sách đầy đủ các tác dụng phụ có thể xảy ra. Nếu bạn nhận thấy các tác dụng khác không được liệt kê ở trên, hãy liên hệ với bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn.

CÁC BIỆN PHÁP ĐỀ PHÒNG: Trước khi sử dụng apraclonidine, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết nếu bạn bị dị ứng với thuốc này; hoặc với clonidine; hoặc nếu bạn có bất kỳ dị ứng nào khác. Sản phẩm này có thể chứa các thành phần không hoạt động, có thể gây phản ứng dị ứng hoặc vấn đề khác. Hãy hỏi dược sĩ để biết thêm chi tiết.
Trước khi sử dụng thuốc này, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết lịch sử bệnh của bạn, đặc biệt là: bệnh mạch máu (ví dụ: bệnh mạch máu não, bệnh Raynaud), huyết áp cao, vấn đề tim (ví dụ: đau tim gần đây), bệnh thận, rối loạn tâm lý/tinh thần (ví dụ: trầm cảm), ngất xỉu sau khi căng thẳng cảm xúc (tấn công vasovagal). Sau khi bạn nhỏ thuốc này, thị lực của bạn có thể tạm thời bị mờ hoặc không ổn định. Nó cũng có thể thỉnh thoảng khiến bạn chóng mặt hoặc buồn ngủ. Không lái xe, sử dụng máy móc hoặc thực hiện bất kỳ hoạt động nào đòi hỏi sự tỉnh táo hoặc thị lực rõ ràng cho đến khi bạn chắc chắn có thể thực hiện các hoạt động đó một cách an toàn. Hạn chế đồ uống có cồn. Trong thời kỳ mang thai, thuốc này chỉ nên được sử dụng khi thực sự cần thiết. Thảo luận về các rủi ro và lợi ích với bác sĩ của bạn. Chưa biết liệu thuốc này có đi vào sữa mẹ hay không. Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi cho con bú.

TƯƠNG TÁC THUỐC:

Bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn có thể đã biết về bất kỳ tương tác thuốc nào có thể xảy ra và có thể đang theo dõi bạn về điều đó. Đừng bắt đầu, ngừng, hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ loại thuốc nào trước khi kiểm tra với họ trước. Việc dùng thuốc ức chế MAO cùng với loại thuốc này có thể gây ra một tương tác thuốc nghiêm trọng (có thể gây tử vong). Tránh sử dụng thuốc ức chế MAO (như isocarboxazid, linezolid, methylene blue, moclobemide, phenelzine, procarbazine, rasagiline, selegiline, tranylcypromine) trong quá trình điều trị với loại thuốc này. Hầu hết các thuốc ức chế MAO cũng không nên được dùng trong hai tuần trước khi điều trị với loại thuốc này. Hãy hỏi bác sĩ của bạn khi nào nên bắt đầu hoặc ngừng sử dụng loại thuốc này.

Trước khi nhận loại thuốc này, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết về tất cả các sản phẩm theo toa và không theo toa/sản phẩm thảo dược mà bạn có thể sử dụng, đặc biệt là: thuốc chẹn beta (ví dụ: atenolol, metoprolol), thuốc điều trị huyết áp cao, thuốc chống trầm cảm ba vòng (ví dụ: amitriptyline, nortriptyline). Kiểm tra nhãn trên tất cả các loại thuốc của bạn (ví dụ: sản phẩm ho và cảm lạnh) vì chúng có thể chứa các thành phần có thể gây buồn ngủ. Hãy hỏi dược sĩ của bạn về cách sử dụng những sản phẩm đó một cách an toàn. Tài liệu này không chứa tất cả các tương tác có thể xảy ra. Do đó, trước khi sử dụng sản phẩm này, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết về tất cả các sản phẩm bạn đang sử dụng. Giữ một danh sách tất cả các loại thuốc của bạn bên mình và chia sẻ danh sách đó với bác sĩ và dược sĩ.

QUÁ LIỀU:

Thuốc này có thể gây hại nếu nuốt phải. Nếu nghi ngờ nuốt phải hoặc quá liều, hãy liên hệ ngay với trung tâm kiểm soát chất độc hoặc phòng cấp cứu. Các triệu chứng của quá liều có thể bao gồm: nhịp tim chậm, buồn ngủ, da lạnh/nổi mồ hôi.

GHI CHÚ:

Không chia sẻ loại thuốc này với người khác. Các xét nghiệm y tế và/hoặc xét nghiệm trong phòng thí nghiệm (ví dụ: đo mạch, huyết áp, kiểm tra mắt) có thể được thực hiện định kỳ để theo dõi tiến trình của bạn hoặc kiểm tra các tác dụng phụ. Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ của bạn để biết thêm chi tiết.

LIỀU THUỐT BỊ BỎ LỠ:

Không áp dụng.

BẢO QUẢN:

Lưu trữ ở nhiệt độ từ 36-77 độ F (2-25 độ C) và tránh ánh sáng. Không được đông lạnh. Không lưu trữ trong phòng tắm. Giữ tất cả các loại thuốc tránh xa trẻ em và thú cưng. Không xả thuốc xuống toilet hoặc đổ chúng vào cống trừ khi có hướng dẫn. Vứt bỏ sản phẩm này đúng cách khi hết hạn hoặc không còn cần thiết nữa. Hãy tham khảo ý kiến dược sĩ của bạn hoặc công ty xử lý chất thải địa phương để biết thêm chi tiết về cách vứt bỏ sản phẩm của bạn một cách an toàn.

Thuốc Perphenazine and amitriptyline hydrochloride

Amitriptyline với perphenazine-oral là gì, và cơ chế hoạt động của nó là gì?

Perphenazine/amitriptyline là sự kết hợp giữa một loại thuốc chống loạn thần và một loại thuốc chống trầm cảm. Perphenazine là một thuốc chống loạn thần hoạt động trong não và hệ thần kinh. Cơ chế hoạt động chính xác của nó vẫn chưa được biết đến. Amitriptyline là một loại thuốc chống trầm cảm ba vòng. Người ta tin rằng ở một số bệnh nhân mắc trầm cảm, nồng độ bất thường của các chất dẫn truyền thần kinh (các hóa chất mà các dây thần kinh sử dụng để giao tiếp với nhau) có thể liên quan đến tình trạng trầm cảm của họ. Amitriptyline làm tăng tâm trạng bằng cách nâng cao mức độ của các chất dẫn truyền thần kinh trong các dây thần kinh ở não.

Tên thương hiệu nào có sẵn cho amitriptyline với perphenazine-oral?

Etrafon (không còn có sẵn ở Mỹ).

Amitriptyline với perphenazine-oral có sẵn dưới dạng thuốc generic không?

CÓ THUỐC THAY THẾ: Có.

Tôi có cần đơn thuốc cho amitriptyline với perphenazine-oral không?

Có.

Các tác dụng phụ của amitriptyline với perphenazine-oral là gì?

Các tác dụng phụ của perphenazine/amitriptyline bao gồm co thắt cơ bất thường, khó thở và nuốt, co thắt cổ, và các bất thường trong chuyển động trên khuôn mặt, cánh tay và chân. Thuốc này cũng gây ra chóng mặt, buồn ngủ, an thần, nhịp tim không đều, tăng hoặc giảm huyết áp, và thị lực mờ.

Các loại thuốc chống trầm cảm làm tăng nguy cơ suy nghĩ và hành vi tự sát trong các nghiên cứu ngắn hạn ở trẻ em và thanh thiếu niên mắc trầm cảm và các rối loạn tâm thần khác. Bất kỳ ai xem xét việc sử dụng thuốc chống trầm cảm cho trẻ em hoặc thanh thiếu niên đều phải cân nhắc giữa nguy cơ tự sát với nhu cầu lâm sàng. Những bệnh nhân bắt đầu điều trị nên được theo dõi chặt chẽ để phát hiện sự xấu đi về lâm sàng, suy nghĩ tự sát, hoặc các thay đổi bất thường trong hành vi.

Bệnh nhân cao tuổi bị tâm thần phân liệt liên quan đến sa sút trí tuệ khi được điều trị bằng thuốc chống loạn thần có nguy cơ tử vong cao hơn.

Liều lượng cho amitriptyline với perphenazine-oral là gì?

Lo âu hoặc kích thích kèm theo trầm cảm: Liều khởi đầu là một viên thuốc 2/25 mg hoặc 4/25 mg uống ba đến bốn lần mỗi ngày HOẶC uống một viên thuốc 4/50 mg hai lần mỗi ngày.

Trầm cảm kèm theo tâm thần phân liệt: Liều khởi đầu là hai viên thuốc 4/25 mg uống hai hoặc ba lần mỗi ngày, có thể cho liều thứ tư vào lúc đi ngủ.

Liều duy trì cho tất cả bệnh nhân: Uống một viên thuốc 2/25 mg hoặc 4/25 mg hai đến bốn lần mỗi ngày HOẶC uống một viên thuốc 4/50 mg hai lần mỗi ngày. Liều 2/10 mg và 4/10 mg có thể được sử dụng để tăng tính linh hoạt trong việc điều chỉnh liều duy trì đến mức thấp nhất mà vẫn đảm bảo giảm triệu chứng. Liều tối đa là 16/200 mg mỗi ngày.

Các loại thuốc hoặc thực phẩm bổ sung nào tương tác với amitriptyline với perphenazine-oral?

Perphenazine/amitriptyline nên được sử dụng cẩn thận với các loại thuốc như paroxetine (Paxil), fluoxetine (Prozac) và sertraline (Zoloft) vì những loại thuốc này cũng làm tăng nồng độ chất dẫn truyền thần kinh trong cơ thể, dẫn đến các phản ứng nghiêm trọng và có thể gây chết người.

Perphenazine/amitriptyline nên tránh sử dụng với các loại thuốc như quinidine, disopyramide (Norpace), procainamide (Pronestyl), propafenone (Rhythmol) và flecainide (Tambocor) vì chúng có thể ảnh hưởng đến nhịp tim và làm tăng nguy cơ nhịp tim không đều.

Perphenazine/amitriptyline cũng nên được sử dụng cẩn thận với các loại thuốc như epinephrine do tăng nguy cơ nhịp tim và nhịp bất thường.

Amitriptyline với perphenazine-oral có an toàn để sử dụng khi tôi mang thai hoặc đang cho con bú không?

Perphenazine/amitriptyline có trong sữa mẹ và không được khuyến cáo trong thời gian cho con bú.

Tôi còn cần biết gì về amitriptyline với perphenazine-oral?

Các dạng bào chế của amitriptyline với perphenazine-oral có sẵn là gì? Viên nén: 2/10 mg, 2/25 mg, 4/10 mg, 4/25 mg và 4/50 mg.

Tôi nên bảo quản amitriptyline với perphenazine-oral như thế nào? Bảo quản viên nén Perphenazine/amitriptyline ở nhiệt độ phòng từ 20°C đến 25°C (68°F đến 77°F). Bảo vệ thuốc khỏi ánh sáng.

Tóm tắt

Perphenazine và amitriptyline hydrochloride (Etrafon – nhãn hiệu không còn khả dụng ở Mỹ) là thuốc chống trầm cảm được kê đơn để điều trị trầm cảm và các rối loạn tâm trạng hoặc tâm lý khác. Các tác dụng phụ, tương tác thuốc, liều lượng, bảo quản và độ an toàn trong thai kỳ cần được xem xét trước khi sử dụng loại thuốc này.

Bệnh gan tim (gan ứ máu, xơ gan do tim)

Tên khác: gan ứ máu, xơ gan do tim.

Định nghĩa

Là sự tăng sinh của mô liên kết trong gan, do tăng huyết áp tĩnh mạch lâu dài.

Giải phẫu bệnh: suy tim phải nặng và kéo dài (hỏng van động mạch và van hai lá có cả hở van ba lá). Bệnh cơ tim. Viêm màng ngoài tim co thắt.

Giải phẫu bệnh: gan to, giống như quả nhục đậu khấu, có vân, đỏ ở vùng trung tâm và xám ở ngoại vi. Dưới kính hiển vi: các tĩnh mạch trung tâm tiểu thuỳ giãn và chèn ép các tế bào gan làm chúng bị hoại tử và được thay thế bằng mô xơ.

Triệu chứng

Bệnh cảnh lâm sàng chủ yếu là các triệu chứng suy tim.

Gan: gan to, rắn, đau khi sờ vào hoặc khi gắng sức. Giai đoạn muộn: gan có thể bình thường hoặc nhỏ.

Ấn vào gan gây phản hồi gan – tĩnh mạch cổ.

Lách to, cổ trương: hay gặp.

Vỡ tĩnh mạch thực quản do giãn: hiếm gặp.

Xét nghiệm cận lâm sàng: bilirubin, transaminase, thời gian prothrombin thường tăng vừa phải.

Chẩn đoán

Gan tim ngày nay hiếm gặp; cần phân biệt với ứ máu ở gan đơn thuần gặp trong suy tim mất bù cấp, có thể phục hồi nhanh khi dùng lợi tiểu và thuốc trợ tim.

Biến chứng

Vàng da do các tế bào gan bị tổn thương vì thiếu oxy.

Điều trị

Điều trị suy tim, cắt bỏ màng ngoài tim nếu bị viêm màng ngoài tim co thắt.

Bệnh dịch hạch là gì, nguy hiểm như thế nào?

Từ lâu, người ta xếp bệnh dịch hạch vào loại “tối nguy hiểm” không chỉ vì bệnh gây tử vong rất cao mà còn do bệnh lây lan nhanh và mạnh theo đường máu, đường tiêu hoá, đường hô hấp, đường da – niêm mạc. Cùng với sự tiến bộ của y học, đặc biệt là y tế dự phòng, bệnh dịch hạch đã được khống chế rất nhiều, những nguy cơ chưa phải đã hết.

Bệnh dịch hạch do trực khuẩn Yersinia pestỉs có sẵn trong thiên nhiên gây ra, biểu hiện bởi tình trạng nhiễm trùng – nhiễm độc toàn thân nặng nề, tổn thương hạch đặc hiệu, tổn thương phổi và một số cơ quan khác. Người đang mắc bệnh dịch hạch và cả những người đã khỏi bệnh có thể là nguồn lây, đặc biệt với bệnh dịch hạch thể phổi. Vật trung gian truyền bệnh dịch hạch là bọ chét ký sinh trên các loài gặm nhấm hoang dã (có tới 7200 loài) truyền sang người thông qua các vết đốt trên da. Vật chủ nguy hiểm hàng đầu là loài chuột: Chuột nhắt, chuột công, chuột đồng… Tính nguy hiểm của bệnh dịch hạch được tăng thêm do trực khuẩn gây bệnh có thể tiết ra cả ngoại độc tố và nội độc tố. Độc tố của vi khuẩn làm tan hồng cầu, tan sợi huyết, làm đông huyết tương… khiến bệnh nhân nhanh chóng rơi vào tình trạng nhiễm trùng – nhiễm độc toàn thân rất nặng nề và tử vong nếu không được cứu chữa kịp thời.

Bệnh dịch hạch
Bệnh dịch hạch

Những năm qua, do công tác dự phòng của ngành y tế nước ta phát triển nên bệnh dịch hạch không gây thành dịch lớn, tuy nhiên bệnh vẫn tản phát tại nhiều địa phương trong cả nước. Theo một thống kê năm 1998 cho thấy, tỉ lệ mắc bệnh chung là 0,11/10 vạn người dân; tỉ lệ tử vong là 0,01/10 vạn người dân. Như vậy có nghĩa là cứ 11 người mắc bệnh dịch hạch thì có 1 người tử vong.

Việc nhận biết và điều trị bệnh dịch hạch không khó khăn lắm đối với thể thông thường điển hình. Với thể bệnh này, thời gian ủ bệnh không dài (khoảng từ 2 – 5 ngày) rồi khởi phát rất đột ngột: người đang khoẻ mạnh đột nhiên mệt mỏi, nhức đầu, chóng mặt đau khắp mình mẩy, sốt cao có gai rét hoặc rét run; thấy đau nhiều ở vùng hạch bị tổn thương. Chỉ sau đó vài ngày dấu hiệu viêm hạch rõ dần, nhất là với các hạch ở gần chỗ bọ chét đốt, nhưng hay gặp hơn là viêm hạch vùng đùi – bẹn, vùng cổ hoặc dưới hàm. Điều đặc biệt là các hạch viêm lúc đầu chắc, sờ thấy nóng, đau và lớn rất nhanh, có thể các hạch viêm kết thành cụm kích thước lớn bằng lòng bàn tay. Phần da tương ứng với hạch viêm phù nề có màu đỏ hoặc tím, sau 7 đến 10 ngày có thể hạch tự vỡ mủ, lỗ rò lâu liền và để lại sẹo rúm ró. Đôi khi hạch viêm trở nên xơ hoá thành một cục rắn chắc, nếu được chữa trị sớm và tích cực thì hạch sẽ thu nhỏ lại. Kèm theo dấu hiệu viêm hạch, người bệnh có các triệu chứng nhiễm trùng – nhiễm độc như môi khô, lưỡi bấn, sốt cao giao động hoặc liên tục nhức đầu, mệt mỏi, buồn nôn, li bì, mê sảng; da – niêm mạc phù nề sung huyết…

Ngoài thể thông thường điển hình còn xuất hiện các thể lâm sàng khác như: Thể nhiễm khuẩn huyết (còn gọi là dịch hạch đen chiếm tỷ lệ 1 – 2%); thể phổi; các thể hiếm gặp khác như thể viêm màng não, thể tiểu hoá, thể niêm mạc.

Đối với bệnh nhân dịch hạch dù ở thể nào cũng cần phải cách ly tuyệt đối để theo dõi và điều trị kịp thời. Các loại thuốc kháng sinh như cloroxit, tetracyclin, streptomycin… cùng với truyền dịch, trợ tim mạch, giảm đau hạ sốt, an thần, phối hợp với một chế độ dinh dưỡng hợp lý tỏ ra có hiệu quả trong điều trị bệnh dịch hạch.

Vì ổ bệnh dịch hạch có sẵn trong thiên nhiên, tốc độ lây lan rất nhanh, bệnh dễ bùng phát thành dịch lớn vì vậy công tác dự phòng là vô cùng quan trọng. Lý tưởng nhất vẫn là diệt nguồn bệnh bằng cách tăng cường diệt bọ chét, diệt chuột, phòng bọ chét đốt. Có thể tiêm chủng vaccin EV(vaccin sống) cho người ở trong ổ dịch mà chưa có miễn dịch hoặc người đến vùng dịch công tác, mặc dù hiệu lực bảo vệ của vaccin không cao. cần lưu ý, nếu có bệnh nhân tử vong do dịch hạch nhất thiết phải liệm bằng vải tẩm cloramin 5%, rắc vôi bột trong quan tài và chôn sâu tối thiểu là 2m, hoặc hoả táng để tiêu diệt mầm bệnh.

Tác dụng chữa bệnh của Quả Trâu Cổ – Quả Vẩy Ốc

Cây trâu cổ thuộc loại dây leo, mọc bám nhờ rễ phụ, cành ngắn và mềm, màu nâu, lúc non có lông, sau nhẵn. Lá mọc so le, lá ở cành sinh sản, hình bầu dục hoặc hình trứng, dàl 5-7cm, rộng 2,5-4,5cm, gốc lá tròn hoặc hơi hình tim, đầu tù, hoặc hơi nhọn, hai mặt lá nhẵn, mép nguyên, gân gốc có 3-5 nơi gồ ở mặt dưới, gân phụ tạo thành mạng thưa. Cuống lá dài 1,5-1,8cm, có lông hung, lá kèm có lông. Lá ở cành không sinh sản hình vẩy ốc, gốc lệch, mọc áp sát vào thân cây chủ, dài 2,5-3cm, cuống ngắn 2-3mm.

Cụm hoa mọc ở kẽ lá, hoa đực mọc nhiều tập trung ở gần đỉnh, dài 2-3 răng nhị 2, bao phấn hẹp, hoa cái có 4 lá dài, không bằng nhau, bầu thuôn dài cong.

Quả phức to, hình chóp ngực, đầu bằng, dài 3,5cm, dày 3cm, nhẵn, màu tím khi chín, CÙI nạc và mềm xốp.

Cây trâu cổ thuộc loại dây leo, mọc bám nhờ rễ phụ
Cây trâu cổ thuộc loại dây leo, mọc bám nhờ rễ phụ


Theo Đông y, quả trâu cổ có vị ngọt chát, tính bình. Có tác dụng bổ thận, tráng dương, cố tinh hoạt huyết, hạ nhũ, chữa đau lưng, kiết lỵ lâu ngày, chữa bệnh liệt dương v.v…

Thuốc ứng dụng:

Bài 1. Thuốc chữa bệnh đau xương, đau mình

+ Quả trâu cổ 30g

+ Ba kích 20g

+ Độc hoạt 12g

+ Cành dâu 20g

+ Gừng tươi 3g

Các vị thuốc cho vào nồi, thêm 600ml nước đun nhỏ lửa cho thuốc nhừ. Khi còn 300ml nước thuốc chắt lấy nước, bỏ bã. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày, trước bữa ăn. Cần uống liền 11 ngày.

Quả trâu cổ
Quả trâu cổ

+ Quả trâu cổ 300g

+ Hạt ý dĩ 200g

+ Địa cốt bì 200g

+ Độc hoạt 150g

+ Gừng khô 10g

+ Cành dâu tươi 250g

+ Quế chi 100g

Các vị thuốc sấy khô, tán nhỏ mịn. Người bệnh ngày uống 3 lần, mỗi lần 12g bột thuốc với nước sôỉ để nguội, trước bữa ăn.

Bài 2. Thuốc chữa bệnh tim hồi hộp đập loạn nhịp

+ Quả trâu cổ 30g

+ Địa cốt bì 15

+ Đào nhân   15g

+ Cam thảo (nướng thơm) 10g Các vị thuốc cho vào nồi, thêm 600ml nước đun nhỏ lửa cho thuốc nhừ. Khi còn 300ml nước thuốc chắt lấy nước, bỏ bã. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày, sau bữa ăn. Cần uống liền 11 ngày là một liệu trình, thời gian nghỉ giữa các liệu trình là 5 ngày, dùng 5 liệu trình.

Bài 3. Thuốc chữa bệnh liệt dương

+ Quả trâu cổ 30g

+ Nhục thung dung 12g

+ Kỷ tử 10g

+ Ba kích 8g

+ Thục địa 10g

Các vị thuốc cho vào nồi, thêm 600ml nước đun nhỏ lửa cho thuốc nhừ. Khi còn 300ml nước thuốc chắt lấy nước, bỏ bã. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày, trước bữa ăn. Cần uống liền 21 ngày.

Bài 4. Thuốc chữa tắc tia sữa cho phụ nữ sau sinh

+ Quả trâu cổ 30g

+ Đậu đỏ nhỏ hạt 30g

+ Quả mít non 30g

+ Vừng đen 30g

+ Thông thảo 30g

+ Gạo nếp 50g

+ Móng lợn 1 cái

Các thứ rửa sạch sau ninh nhừ, vứt bỏ thông thảo, quả mít non, quả trâu cổ; phần còn lại chia 3 lần cho người bệnh ăn hết trong ngày, lúc đói. cần ăn liền 5 ngày.

Đông y chữa bệnh Ung thư bàng quang

Ung thư bàng quang là loại ung thư đường tiết niệu thường gặp nhất và chiếm khoảng 3% các loại ung thư. Tuổi thường gặp là từ 50 đến 70 tuổi, nam gấp đôi nữ về tỷ lệ phát sinh bệnh. Triệu chứng sớm nhất là tiểu có máu mà không đau.

Bệnh thuộc phạm trù chứng huyết lâm trong y học cổ truyền.

Triệu chứng lâm sàng:

Huyết niệu là 1 triệu chứng sớm của ung thư bàng quang, lượng huyết niệu nhiều ít bất chừng. Bắt đầu có huyết niệu từng lúc và không đau. Lượng tiểu máu không giảm đi lúc nghĩ ngơi. Nước tiểu có thể nhìn thấy có lúc trong nhưng nhìn vi thể thì lúc nào cũng có máu. Trường hợp khối u to ra hoặc phát sinh nhiều nơi, hoặc có nhiễm trùng thứ phát sẽ có triệu chứng tiểu gấp, tiểu nhiều lần, tiểu đau. Nên khối u ở gần cổ bàng quang sẽ có triệu chứng tiểu khó, vùng bàng quang đau tức. Nếu trong nước tiểu có huyết khối có thể làm tắt đường tiểu. Nếu khối u to, dùng tay khám qua trực tràng hoặc âm đạo có thể sờ thấy khối

Đến thời kỳ cuối do ung thư di căn bệnh nhân có cảm giác đau vùng trên xương mu hoặc vùng hội âm, vùng háng, vùng thắt lưng cùng các triệu chứng thiếu máu, suy mòn.

Chẩn đoán căn cứ chủ yếu:

(1) Nam giới tuổi trên 50 nhiều lần có huyết niệu.

(2) Lấy nước tiểu 24 giờ hoặc tiểu lúc sáng sớm, tìm tế bào ung thư trong cặn lắng.

Chụp và soi bàng quang có thể xác định u to nhỏ vị trí và làm sinh thiết xác định chẩn đoán.

Kiểm tra siêu âm.

Các phương pháp kiểm tra cùng kết hợp bệnh sử và triệu chứng lâm sàng để xác định chẩn đoán.

Điều trị:

Ung thư bàng quang phát hiện sớm nên dùng phẫu trị sớm, sau đó kết hợp dùng đông y điều trị.

I. BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ

Ung thư bàng quang thời kỳ đầu và giữa chủ yếu là thể thấp nhiệt, thời kỳ cuối chủ yếu là âm hư thấp nhiệt hoặc khí âm lưỡng hư kiêm thấp nhiệt.

1. Thấp nhiệt hóa hỏa.

– Triệu chứng chủ yếu: Huyết niệu từng lúc, màu đỏ tươi hoặc có máu cục, thường không đau. Chất lưỡi đỏ, rêu vàng nhớt khô, mạch huyền sác.

– Phép trị: Thanh nhiệt tả hỏa, lương huyết chỉ huyết.

+ Bài thuốc: Tiểu kê ẩm tử gia giảm.

Tiểu kế, Bồ hoàng (nửa sống nửa sao) đều 10g, sinh Địa, Hoàng bá, Bạch mao căn, ích mẫu thảo, Đơn bì đều 12g, Đại hoàng 6g, Xích thược, sinh Địa du, Thổ Phục linh, Đạm trúc diệp, Bạch vi, Xa tiền thảo tươi, sao Chi tử đều 12g, Hoạt thạch 20g.

– Gia giảm: Trường hợp nước tiểu có nhiều huyết khối và tiểu đau gia Huyết dư thán, Đào nhân, Hải kim sa, bột Tam thất (hòa thuốc uống) bột Hổ phách (hòa uống), Xuyên Ngưu Tất. Nhiệt thịnh gia Bạch hoa xà thiệt thảo, Bán chi liên, Bồ công anh, Long quí, Bạch anh, Thất diệp nhất chi hoa… để thanh nhiệt giải độc. Sau khi đã cầm máu do xuất huyết thương âm dùng Lục vị địa hoàng hoàn gia Hạn liên thảo, Bạch thược để dưỡng âm hoạt huyết, mệt mỏi, hơi thở ngắn gia Hoàng kỳ, Tiên hạc thảo, Đại táo.

2. Thấp nhiệt ở hạ tiêu:

– Triệu chứng chủ yếu: huyết niệu hoặc trong nước tiểu có máu, tiểu tiện khó hoặc đau bụng dưới đau tức, tiểu vàng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi nhớt khô, mạch huyền sác.

– Phép trị: Thanh lợi thấp nhiệt.

+ Bài thuốc: Long đờm tả can thang gia giảm.

Long đởm thảo, sao Chi tử, Hoàng cầm, Sài hồ, sinh Địa, Xa tiền thảo, Trạch tả đều 12g, Mộc thông, Biển súc, Cù mạch đều 10g, Hoạt thạch 20g, Bạch hoa xà thiệt thảo, Bán chi liên, Bạch anh, Thổ Phục linh đều 12g.

– Gia giảm: Nôn, buồn nôn gia Bán hạ, Xuyên hoàng liên, Tô diệp. Đại tiện bón gia Đại hoàng, huyết niệu nhiều gia ích mẫu thảo, Tiểu kế, Bạch mao căn, bột Tam thất (hòa uống).

3. Âm hư thấp nhiệt.

– Triệu chứng chủ yếu: bệnh lâu ngày, mất máu thương âm, chóng mặt tai ù, lưng gối đau mỏi, lòng bàn chân tay nóng, ra mồ hôi trộm, sốt chiều, huyết niệu nhiều lần tái phát lưỡi đỏ, rêu ít, vàng, mạch huyền tế sác.

– Phép trị: Tư âm thanh nhiệt lợi thâ’p.

+ Bài thuốc: Trị bá địa hoàng hoàn gia giảm.

Sinh Địa 20g, Hoài sơn 12g, Sơn thù lOg, Bạch linh, Đơn bì, Trạch tả, Tri mẫu, Hoàng bá, Xuyên Ngưu tất, Tang ký sinh, Nữ trinh tử, Hạn liên thảo, ích mẫu thảo, Bạch mao căn đều 12g, Qui bản 16g.

II. GIỚI THIỆU BÀI THUỐC KINH NGHIỆM:

1. Bài thuốc của Thượng Hải: Đại tiểu kế, Bán chi liên, Trư linh, Phục linh, Trạch tả, Xa tiền tử, Lục nhất tán, Tri mẫu, Hoàng bá, sinh Địa, Bồ hoàng thận, Ngẫu tiết thán, Quán chúng thán, Hoa hòe.

2. Long xà dương tuyền thang: Long qui, Bạch anh, Xà môi, Hải kim sa, Thổ Phục linh, Đảng tâm thảo, Uy linh tiên, Bạch hoa xà thiệt thảo.

3. Phức phương hổ phách thang: Khổ sâm, sinh Địa, Ngân hoa, Đại tiểu kế, Trạch tả, Tỳ giải Hoàng bá, Hổ phách (Triết Giang).

4. Bài thuốc trị ung thư bàng quang (Triết Giang): Nhẫn đông đằng, Tiên hạc thảo, Bạch mao đằng, Hổ trượng, Bán biên liên, Bán chi liên, Phượng vĩ thảo, Xuyên luyện tử, Ô dược, Khổ sâm, Bạch chỉ.

5. Những thuốc thường dùng trong điều trị ung thư bàng quang: Bạch anh, Xà môi, Bạch hoa xà thiệt thảo, Bán chi liên, Bán biên liên, Tiên hạc thảo, sinh Địa du, Bồ hoàng, Thất diệp nhất chi hoa.

CHĂM SÓC BÀ MẸ KHI CÓ THAI VÀ CHO CON BÚ

Chăm sóc y tế và dinh dưỡng

1. Bà mẹ có thai

  • Cần đến cơ sở y tế khám thai ít nhất 3 lần, 3 tháng/lần trong thời kỳ thai nghén. Khám thai với các nội dung chính sau:

+ Khám toàn thân mẹ: cân mẹ, đo chiều cao mẹ, đếm mạch, đo huyết áp, khám tim phổi, thử albumin trong nước tiểu, khám phù.

+ Khám thai: đo chiều cao tử cung, đo vòng bụng, sờ nắn đánh giá thai, nghe tim thai (khi thai được 18 – 20 tuần thai).

Ferrovit thuốc sắt cho bà bầu
Ferrovit thuốc sắt cho bà bầu
  • Uống viên sắt acid folic.
  • Tiêm phòng uốn ván đủ 2 mũi.
  • Hướng dẫn ăn uống đầy đủ và hợp lý khi có thai.
  • Gia đình và xã hội cần quan tâm để tinh thần bà mẹ mang thai được thoải mái.
  • Nên sinh con tại cơ sở y tế để an toàn.

2. Bà mẹ nuôi con bú

  • Uống 1 viên vitamin A 200.000 đơn vị trong vòng 1 tháng đầu sau đẻ.
  • Được cán bộ y tế tới thăm tại hộ gia đình ít nhất 2 lần trong vòng 42 ngày sau đẻ.
  • Tiếp tục bổ sung viên sắt acid folic hằng ngày trong vòng 1 tháng đầu sau đẻ.
  • Được hướng dẫn ăn uống đầy đủ và hợp lý khi nuôi con bú.

Vệ sinh khi mang thai và nuôi con bú

  • Mặc: Khi có thai, khối lượng tuần hoàn và hô hấp tăng nhanh, cho nên phải mặc sao cho không ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan này. Muốn thế quần áo phải rộng rãi, thoáng mát, mùa hè mặc quần áo mỏng, mùa đông mặc quần áo đủ ấm.
  • Tắm rửa: nên dùng nước ấm, không tắm lâu, không tắm nơi có gió lùa, không ngâm mình trong ao hồ dễ bị nhiễm khuẩn.
  • Chăm sóc núm vú: chú ý lau đầu vú hằng ngày khi tắm rửa, nếu núm vú tụt chỉ được vê hay kéo núm vú sau 37 tuần thai vì dễ dẫn đến sảy thai do kích thích co bóp tử cung (dạ con).

Nghỉ ngơi và lao động khi mang thai và nuôi con bú

Lao động

Khi có thai nên hoạt động nhẹ nhàng và không nên làm việc quá nặng nhất là trong những tháng cuối để tránh đẻ non. Nếu thấy tử cung hay co cứng hoặc có tiền sử sảy thai, đẻ non hoặc cơ thể yếu thì nên làm việc nhẹ.

Tập thể dục rất cần cho thai phụ vì giúp cho tinh thần được sảng khoái, tuần hoàn lưu thông máu, thai phụ ngủ được, nhưng phải tập đúng mức, tập những động tác nhẹ nhàng, tập thở sâu, co duỗi chân tay. Không nên chơi các môn thể thao và điền kinh nặng.

Nghỉ ngơi

Nghỉ ngơi là việc cần thiết cho thai phụ và thai nhi. Tuy vậy, không nên nghỉ ngơi hoàn toàn vì như thế sẽ làm người mẹ đẻ khó. Trong tháng cuối trước khi đẻ, bụng to nhanh, nặng, thai phụ đi lại khó khăn, đồng thời tháng cuối cũng là tháng thai nhi tăng cân nhanh, tốt nhất sản phụ nên nghỉ làm việc một tháng trước khi đẻ để lợi cho cả mẹ và con.

Sự quan tâm chăm sóc của gia đình và xã hội đối với phụ nữ khi có thai và nuôi con bú

Đây là một vấn đề có vai trò quan trọng giúp cho người mẹ sinh con an toàn và đủ sữa cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Nếu người mẹ nhận được sự quan tâm chăm sóc chu đáo của gia đình và xã hội, được sự theo dõi đầy đủ của nhân viên y tế sẽ là nguồn động viên giúp họ yên tâm, phấn khởi, tin tưởng, sinh đẻ được “mẹ tròn con vuông” và nuôi con có nhiều sữa, tránh được nguy cơ suy dinh dưỡng từ khi trong bụng mẹ và những năm đầu của cuộc đời.

Tăng Áp Lực Tĩnh Mạch Cửa

Tăng áp lực tĩnh mạch cửa được định nghĩa là gradien áp lực tĩnh mạch gan >5mmHg, xuất hiện như một hậu quả của xơ gan. Nguyên nhân có thể do tăng sức cản dòng chảy qua gan do xơ gan và tăng lưu lượng máu ở các tạng do giãn tĩnh mạch mạch tạng

PHÂN LOẠI (XEM BẢNG 166-1)

BẢNG 166-1 PHÂN LOẠI TĂNG ÁP LỰC TĨNH MẠCH CỬA

Trước gan

Huyết khối tĩnh mạch cửa
Huyết khối tĩnh mạch lách
Gan to (Hội chứng Banti )

Gan

Trước xoang
Sán máng
Xơ hóa gan bẩm sinh
Xoang
Xơ gan – có thể gây ra
Viêm gan rượu
Sau xoang
Tắc xoang gan (Hội chứng tắc tĩnh mạch)

Sau gan

Hội chứng Budd-Chiari
Tắc phần gan của tĩnh mạch chủ dưới (Inferior vena cava weds)

Nguyên nhân tim mạch

Bệnh lý cơ tim hạn chế
Viêm màng ngoài tim co thắt
Suy tim sung huyết nặng


HẬU QUẢ

Biến chứng chính của tăng áp lực tĩnh mạch cửa là giãn tĩnh mạch thực quản dạ dày kèm xuất huyết, cổ trướng, tăng hoạt lách, bệnh não gan, viêm phúc mạc tự phát do vi khuẩn, hội chứng gan thận, ung thư biểu mô tế bào gan.

GIÃN TĨNH MẠCH THỰC QUẢN DẠ DÀY

Có tới 1/3 bệnh nhân xơ gan có giãn tĩnh mạch và 1/3 bệnh nhân có giãn tĩnh mạch chảy máu. Chảy máu là một biến chứng đe dọa tính mạng; nguy cơ chảy máu tương quan với kích thước tĩnh mạch giãn và vị trí, mức độ tăng áp lực tĩnh mạch cửa (áp lực tĩnh mạch cửa >12mmHg), và mức độ xơ gan, vd theo phân loại Child-pugh (xem Bảng165-3)

CHẨN ĐOÁN

Nội soi thực quản dạ dày: là một công cụ được lựa chọn để đánh giá xuất huyết đường tiêu hóa trên do tăng áp lực tĩnh mạch cửa hoặc nghi ngờ. Chụp mạch mạc treo và động mạch thân tạng là lựa chọn thay thế khi chảy máu ồ ạt nội soi không phát hiện được và đánh giá rõ ràng tĩnh mạch cửa (cũng có thể đánh giá tĩnh mạch cửa bằng siêu âm Doppler và MRI).

ĐIỀU TRỊ Giãn Tĩnh Mạch Thực Quản Dạ Dày

Phương pháp chung điều trị chảy máu đường tiêu hóa

KIỂM SOÁT CHẢY MÁU CẤP TÍNH

Lựa chọn tiếp cận phụ thuộc vào bối cảnh lâm sàng và các công cụ sẵn có

1. Nội soi can thiệp được sử dụng là phương pháp điều trị đầu tay để kiểm soát chảy máu cấp tính. Thắt tĩnh mạch giãn qua nội soi (EVL) được sửa dụng để kiểm soát chảy máu cấp tính ở >90% trường hợp. EVL ít thành công khi tĩnh mạch giãn mở rộng tới phần gần của dạ dày. Trong một vài trường hợp tiêm sơ (liệu phát xơ hóa) là phương pháp điều trị ban đầu,
đặc biệt khi chảy máu ồ ạt.

2. Thuốc co mạch: somatostatin hoặc octreotide (50–100 μg/h truyền liên tục).

3. Ép bóng (ống Blakemore-Sengstaken hoặc Minnesota). Có thể được sử dụng khi nội soi không sẵn có hoặc ở bệnh nhân cần ổn định trước khi nội soi. Biến chứng — tắc họng, ngạt thở, sặc, loét thực quản. Nói chung dùng riêng trong các trường hợp chảy máu ồ ạt, thất bại vasopressin và/ hoặc nội soi

4. Thông cửa chủ trong gan qua tĩnh mạch cảnh (TIPS)—Thông cửa chủ bằng X quang can thiệp, dành riêng trong các trường hợp thất bại các phương pháp khác; nguy cơ bệnh lý não gan (20 -30%), tắc hoặc hẹp shunt ( 20-30%), nhiễm trùng

PHÒNG NGỪA CHẢY MÁU TÁI PHÁT

1. EVL nên được lặp lại đến khi loại bỏ tất cả các tĩnh mạch giãn

2. Propranolol hoặc nadolol— chẹn beta không chọn lọc đóng vai trò như chất làm giảm áp lực tĩnh mạch cửa; có thể giảm nguy cơ xuất huyết giãn tĩnh mạch và tỉ lệ tử vong do xuất huyết

3. TIPS—là “cầu nối” rất hữu ích để ghép gan ở bệnh nhân điều trị nội thất bại và đang chờ ghép gan

4. Phẫu thuật nối thông cửa chủ được sửa dụng ít phổ biến hơn cùng với sự ra đời của TIPS; được cân nhắc ở bệnh nhân chức năng tổng hợp của gan tốt

PHÒNG NGỪA CHẢY MÁU LẦN ĐẦU

Đối với bệnh nhân có nguy cơ giãn tĩnh mạch chảy máu, cân nhắc dự phòng EVL và/ hoặc chẹn beta không chọn lọc

BỆNH LÝ NÃO GAN

Là tình trạng thay đổi trạng thái tâm thần và khả năng nhận thức xuất hiện khi suy gan; có thể cấp tính và phục hồi hoặc mãn tính và tiến triển

BIỂU HIỆN LÂM SÀNG

Lú lẫn, nói lắp, thay đổi tính cách có thể bao gồm bạo lực và và hành vi không phù hợp, buồn ngủ và khó đánh thức, suy tư thế vận động (asterixis – dấu hiệu flapping tremor). Có thể tiến triển đến hôn mê; lúc đầu có đáp ứng với các kích thích, sau thì không đáp ứng

CƠ CHẾ BỆNH SINH

Các chất độc thần kinh có nguồn gốc từ ruột không được gan loại bỏ do các vòng nối và giảm khối lượng gan, đến não và gây các triệu chứng của bệnh lý não gan. Nồng độ amoniac tăng điển hình trong bệnh lý não, nhưng tương quan giữa mức độ nghiêm trọng của bệnh gan mà nồng độ amoniac thường nghèo nàn. Các chất khác có thể bao gồm chất dẫn truyền thần kinh giả và mercaptans

CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ

Chảy máu đường tiêu hóa, tăng ure huyết, táo bón, chế độ ăn giàu protein, nhiễm kiềm hạ kali máu, thuốc, thuốc ức chế thần kinh trung ương (vd., benzodiazepines and barbiturates), thiếu oxy, tăng cacbondioxit huyết, nhiễm trùng huyết

ĐIỀU TRỊ Bệnh Lý Não Gan

Loại bỏ các yếu tố nguy cơ; cân bằng điện giải. Lactulose (không dung nạp disacarid) gây acid hóa đại tràng và tiêu chảy và dược chất chính trong điều trị; mục tiêu là đi ngoài 2-3 lần phân mềm trong ngày. Các kháng sinh kém hấp thu thường được sử dụng ở bệnh nhân kém dung nạp với lactulose, kèm dùng xen kẽ neomycin và metronidazole để giảm các tác dụng phụ của từng chất. Rifaximin cũng được sử dụng gần đây; bổ sung kẽm đôi khi hiệu quả. Ghép gan khi có chỉ định khác.

Bệnh ỉa chảy mỡ và bệnh Spru không phải nhiệt đới

Tên khác

Ở trẻ em: bệnh tạng, nhi tính ruột, bệnh ruột do gluten, bệnh Herter, bệnh Heubner-Herter, bệnh Gee.

Ở người lớn: bệnh spru không phải nhiệt đới hoặc bệnh spru người lớn, bệnh phân có mỡ vô căn.

Định nghĩa

Hội chứng kém hấp thu có đặc điểm là teo các nhung mao ruột (lông ruột) của tiểu tràng do tình trạng không dung nạp gluten gây ra (gluten là protein của lúa mì).

Căn nguyên

Khi tiếp xúc với gluten (là thành phần protein của bột mì), thì trong niêm mạc ruột non sẽ tập trung một số lớn những tế bào lympho B mẫn cảm với một protein của gluten, là gliadin. Tính di truyền đóng vai trò trong bệnh sinh của bệnh này, các bệnh nhân bị bệnh thường thuộc nhóm HLA-D3 (có kháng nguyên bạch cầu người HLA-D3).

Giải phẫu bệnh

Niêm mạc tiểu tràng phẳng, đôi khi có những đám thâm nhiễm lympho tương bào. Những nhung mao ruột bị teo, những khe tuyến tăng sản và dài ra, và có những tế bào biểu mô ruột ở giai đoạn chưa trưởng thành. Trong những thể nhẹ thì nhung mao ruột bị teo hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn chỉ giới hạn ở tá tràng (thường ở người lớn), nhưng teo nhung mao ruột cũng có thể lan rộng tới tận hồi tràng (thể nặng).

Triệu chứng

Ở TRẺ EM (bệnh tạng): những rối loạn tiêu hoá xuất hiện khi bắt đầu cho trẻ ăn những thực phẩm có bột mì, vào 2-4 tháng tuổi. Trẻ bị ỉa chảy phân có mỡ, bụng chướng căng và đôi khi đau bụng. Bệnh nhi sút cân, ngừng tăng trưởng, tính cách trở nên dễ bị kích thích và buồn bã. Những rối loạn này giảm nhẹ ở tuổi vị thành niên. Đã có báo cáo về những trường hợp khỏi hoàn toàn.

NGƯỜI LỚN (bệnh spru không phải nhiệt đới): những rối loạn tiêu hoá bắt đầu xuất hiện giữa 30 và 60 tuổi và có thể không điển hình.

  • Thể ít triệu chứng: cóthể biểu hiện bởi giảm calci huyết, thiếu máu, không có rối loạn tiêu hoá.
  • Thể tiêu hoá:ỉa chảy phân có mõ, phân có mùi khó ngửi, bụng chướng, đau bụng, viêm miệng aphtơ (viêm miệng bọng nước).
  • Thể thiếu dinh dưỡng:biểu hiện bởi thiếu máu hồng cầu to (đại hồng cầu) hoặc hồng cầu nhỏ (tiểu hồng cầu) dai dẳng, tăng trưởng chậm, nhuyễn xương, co giật hoặc đôi khi có cơ địa chảy máu.
  • Thể kết hợp với viêm da kiểu herpes:bệnh cảnh lâm sàng nổi trội là viêm da mụn bọng nước, gặp ở trẻ em và người lớn còn trẻ tuổi. Trong các màng đáy thấy lắng đọng IgA dạng hạt.

Biến chứng

Tăng tần suất mắc u lympho bào ác tính khởi điểm ở ruột, tăng nguy cơ ung thư thực quản, phát triển các tổn thương loét và không hồi phục ở hồi tràng, xơ cứng tuỷ phối hợp, đôi khi không dung nạp đường lactose.

X quang: nghiên cứu chuyển vận chất của tiểu tràng cho thấy có rối loạn, hình ảnh quai ruột giãn rộng, những hình ảnh thức ăn thô ứ đọng và thành mảnh (giá trị chẩn đoán hạn chế).

Xét nghiệm cận lâm sàng

  • Test miễn dịch:tìm những kháng thể sau đây:

+ Kháng thể kháng gliadin: những IgA và IgG được phát hiện bằng test ELISA.

+ Kháng thể kháng reticulin: phát hiện bằng kỹ thuật miễn dịch-huỳnh quang gián tiếp.

  • Xét nghiệm phát hiện:định lượng folat và caroten trong huyết thanh. Định lượng chất mỡ trong phân, test với D- xylose, test Schilling (xem test này) là những test phức tạp hơn nhưng kém tin cậy.

Xét nghiệm bổ sung: sinh thiết đoạn trên tiểu tràng qua miệng (theo đường miệng) sẽ phát hiện được những tổn thương điển hình của niêm mạc (xem mục giải phẫu bệnh ở trên). Những tổn thương này sẽ thuyên giảm sau vài tháng ăn chế độ không có gluten.

Chẩn đoán

Dựa trên kết quả xét nghiệm bệnh phẩm sinh thiết ruột non, và sự kiện các rối loạn tiêu hoá và dinh dưỡng được cải thiện khi ăn chế độ không có gluten.

Chẩn đoán phân biệt

Đôi khi cũng phải xem xét tới những nguyên nhân khác gây rối loạn tiêu hoá và dinh dưỡng nếu xét nghiệm bệnh phẩm sinh thiết ruột non không cho kết quả rõ rệt, hoặc khi cho bệnh nhân ăn chế độ không có gluten mà bệnh không thuyên giảm, đặc biệt là phải nghĩ tới bệnh Crohn, bệnh Whipple, bệnh thoái hoá dạng tinh bột, thiếu máu tiểu tràng cục bộ (tiểu tràng thiếu máu), viêm loét hỗng tràng, và viêm ruột bạch cầu hạt ưa acid.

Điều trị

  • Chế độ ăn không có gluten (xem thuật ngữ này): phải tuân thủ nghiêm ngặt và vĩnh viễn.
  • Cho các vitamin (B12, acid folic) và sắt theo đường uống vào lúc bắt đầu điều trị. Vitamin D thì cho thận trọng, chỉ cho sau khi calci đã trỏ lại bình thường nhờ chế độ ăn không có
  • Corticoid với liều thông dụng và theo đường tiêm chỉ dành cho những thể nặng không được cải thiện bởi chế độ ăn không có
  • Dapson được sử dụng cho những thể kết hợp với viêm da kiểu

GHI CHÚ: người ta mô tả hai bệnh hiếm gặp sau đây rất giống với bệnh ỉa chảy mõ:

Viêm loét hỗng tràng mạn tính không phải u hạt: là một bệnh rất hiếm gặp giống với bệnh ỉa chảy mỡ mô tả ở trên (kém hấp thu, đối tượng thuộc nhóm kháng nguyên HLA-D3, hình ảnh mô học niêm mạc tiểu tràng giống nhau), nhưng bệnh này gây ra loét, thủng, chảy máu, thắt hẹp tiểu tràng đôi khi xuất hiện dữ dội sau 4-5 năm diễn biến. Chẩn đoán dựa vào mở ổ bụng thăm dò và nội soi tiểu tràng trong khi phẫu thuật. Chế độ ăn không có gluten không mang lại hiệu quả và corticoid hiếm khi làm bệnh thuyên giảm lâu dài. Nếu không thể phẫu thuật cắt bỏ, thì tiên lượng dè dặt vì hay xảy ra biến chứng thủng ruột.

Viêm ruột hoặc viêm dạ dày ruột bạch cầu hạt ưa acid là bệnh có đặc điểm là các bạch cầu hạt ưa acid (ái toan) thâm nhiễm vào lớp niêm mạc của tiểu tràng và đôi khi cả dạ dày. Bệnh nhân ở trong tình trạng kém hấp thu và mất protein nặng. Thường thấy tăng bạch cầu hạt ưa acid trong máu. Căn nguyên chưa rõ: có thể là do dị ứng với thức ăn (sữa, thịt, cá ?) ở những đối tượng có tiền sử dị ứng (sổ mũi theo mùa, hen, chàm hoặc eczema). Điều trị: tránh ăn uống sữa, hoặc tránh những kháng nguyên thực phẩm nghi ngờ bị dị ứng, cho corticoid.

Điều trị phù não

Phù não là sự tích tụ bất thường nước và dịch trong tế bào và/hoặc khu vực ngoài tế bào não, dẫn đến tăng thể tích toàn bộ của não. Bởi vì bộ não được bao bọc trong một hộp sọ cứng, kết quả phù não khu trú hoặc toàn bộ tới một mức nào đó sẽ gây tăng áp lực đủ để vượt quá cơ chế bù trừ điều chỉnh áp lực nội sọ và làm xuất hiện triệu chứng lâm sàng. Khi phù não ở mức độ nhẹ (ít) nó không ảnh hưởng đến chức năng não nên không có triệu chứng lâm sàng; khi phù não khu trú và tăng nặng nề, nghiêm trọng, nó có thể gây ra hiệu ứng khối chèn ép các cấu trúc chức năng não, gây tăng áp lực nội sọ. Khi chèn ép vào thân não và tăng áp nội sọ gây thoát vị não, bệnh nhân có thể tử vong.

Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu điều trị phù não, các nhà lâm sàng và các nhà nghiên cứu đã cho thấy rằng: phù não là một phản ứng nhu mô thứ phát sau một quá trình bệnh lý ban đầu và là nguyên nhân chủ yếu làm tăng áp lực nội sọ nên việc điều trị nó phải gắn chặt với việc điều trị tăng áp lực nội sọ.

Cho dù nguyên nhân là gì, phù não lan tỏa làm nặng thêm đáng kể tiên lượng của bệnh nhân và cần phải điều trị cấp cứu, phục hồi nhanh chóng lưu lượng dòng máu não và can thiệp chuyên khoa sớm với hy vọng cứu sống được nhiều tế bào thần kinh khỏi rơi vào quá trình tiến triển dẫn đến chết tế bào.

Mục đích của điều trị

Khôi phục và duy trì áp lực tưới máu não thỏa đáng và tránh biến chứng chèn ép nhu mô não gây thoát vị não là hai mục đích ưu tiên hàng đầu. Người ta cũng thống nhât răng việc điêu trị nguyên nhân của phù não (nhiễm khuẩn, khối u, chuyển hóa..) là không thể tách khỏi việc điều trị triệu chứng phù não.

Chỉ định điều trị phù não

Căn cứ vào những ảnh hưởng của phù não lên chức năng não, chỉ định điều trị sẽ dựa trên cơ sở có dấu hiệu tăng áp lực nội sọ có/hoặc không kèm theo dấu hiệu chèn ép nhu mô não do tổn thương thần kinh khu trú hoặc lan tỏa.

Cho dù nguyên nhân gây phù não là gì, mức độ nặng nề của các triệu chứng thần kinh tiện phát, hoặc sự thiếu hụt thần kinh thứ phát mà không phải do các nguyên nhân toàn thân thì đều cần phải được điều trị.

Theo một điều tra mới đây trên 427 bệnh nhân chấn thương sọ não, sự nặng lên về tổn thất thần kinh được xác định khi có dãn đồng tử, mất phản xạ đồng tử với ánh sáng, chênh lệch

đường kính đồng tử hai bên trên 1mm, giảm trên 2 điểm Glasgow so với lần khám trước, hoặc tất cả các tình huống cần phẫu thuật ngay lập tức.

Phù não nặng được xác định khi không còn nhìn thấy các não thất và/hoặc đường giữa bị đẩy lệch trên 5mm trên phim CT.Scan sọ não.
Bảng 9.1. Các chỉ định điều trị đặc hiệu phù não

Các dấu hiệu nặng từ đầu Dấu hiệu lâm sàng của tăng áp lực nội sọ

Áp lực nội sọ trên 20 mmHg

Đè đẩy chuyển dịch đường giữa trên 5mm

Các dấu hiệu nặng thứ phát Nặng thêm về dấu hiệu tổn thương thần kinh Điểm Glasgow giảm đi trên 2 điểm Áp lực nội sọ trên 20mmHg

Trái lại, trong một vài tình huống lâm sàng không nhất thiết phải chỉ định điều trị phù não ngay lập tức nếu phù não chưa gâỵ tác động lớn đến hệ thần kinh, ví dụ như các trường hợp phù não khu trú do khối u hoặc thiếu máu não hoặc phù não khu trú do chấn thương có điểm Glasgow trên 12. Có quan điểm cho rằng liệu pháp thẩm thấu điều trị cho các bệnh nhân phù não do máu tụ hoặc nhồi máu não khi bệnh nhân còn tỉnh chỉ làm thay đổi không đáng kể áp lực tưới máu não trên hình ảnh cộng hưởng từ.
Trong thực tế, khó có thể tiên lượng trước một phù não có thể sẽ bắt đầu xảy ra vào thời điểm nào. Tụt huyết áp động mạch và thiếu oxy máu ở bệnh nhân chấn thương sọ não sẽ là nguồn gốc của sự tăng nặng các triệu chứng thần kinh là điều đã rõ ràng, song có rất ít bằng chứng để tiên lượng về một quá trình phù não. Nhưng dù sao chăng nữa, có một điều chắn chắn rằng khi có thiếu oxy máu nó sẽ làm xấu thêm tiên lượng về tổn thất thần kinh và làm phù não lan rộng hơn. Nếu ngay từ đầu đã có đè đẩy đường giữa cùng với áp lực nội sọ cao trên 20mmHg thì đó là yếu tố rõ ràng để tiên lượng sự nặng lên về tổn thương thần kinh thứ phát do phù não. Có thể nói, ngay từ đầu các dấu hiệu lâm sàng của tăng áp lực nội sọ, đè đẩy đường giữa trên phim chụp cắt lợp vi tính và áp lực nội sọ trên 20mmHg sẽ là các yếu tố khẳng định có phù não và cần phải điều trị ngay.

Các phương pháp điều trị dự phòng

1. Hạ thân nhiệt vừa phải

Thân nhiệt có vai trò quan trọng đối với áp lực nội sọ và tiên lượng thần kinh ở bệnh nhân phù não.

Cần nhớ rằng nếu thân nhiệt thấp vừa phải thì tạo được tiên lượng thuận lợi, nhưng thân nhiệt tăng sẽ ảnh hưởng xấu đến tiên lượng ở các bệnh nhân này. Vì vậy, vấn đề điều trị tăng thân nhiệt (điều trị sốt) ở các bệnh nhận có tổn thương thần kinh bằng các biện pháp vật lý và sử dụng paracetamol luôn luôn cần thiết

Có ý kiến cho rằng trong thực nghiệm các nghiên cứu đã chứng minh được tác dụng bảo vệ não của biện pháp hạ than nhiệt vừa phải (32 – 34°C). Quá trình hạ thân nhiệt được tiến hành trước hoặc ngay sau giai đoạn phù não đã cho thấy có hiệu quả trong tất cả các nghiên cứu thực nghiệm về tác dụng làm giảm sự lan rộng của các tổn thương thiếu máu não hoặc làm cải thiện chức năng thần kinh.

Cơ chế của tác dụng bảo vệ này hiện còn chưa được biết rõ, có thể tình trạng giảm chuyển hóa năng lượng đóng vai trò quan trọng (giống tác dụng của barbituric). Một so cơ chế khác như ức chế giải phóng glutamat, ức chế peroxyd hóa lipid và sự tích tụ các gốc tự do, ổn định hàng rào máu não và các tế bào não cũng được coi là có ý nghĩa làm tiên lượng thuận lợi hơn.

Trong thử nghiệm lâm sàng, tác dụng của hạ thân nhiệt tới áp lực nội sọ và tiên lượng thần kinh đã được đánh giá lại. Clipton và cs nghiên cứu trên 392 bệnh nhân, so sánh kết quả sau 6 tháng giữa nhóm đẳng nhiệt và nhóm hạ thân nhiệt (33°C) trong 24 giờ được bắt đầu sau chấn thương 4 giờ, nhận thấy mặc dù số bệnh nhân có áp lực nội sọ thấp hơn ở nhóm hạ thân nhiệt, nhưng không có sự khác nhau giữa hai nhóm về tỷ lệ tử vong (28 và 27%) cũng như là về tỷ lệ di chứng ở thời điểm này. Một nghiên cứu khác đã chứng minh rằng hạ thân nhiệt trong 24 giờ làm giảm áp lực nội sọ đi lOmmHg và khi ủ ấm bệnh nhân trở lại, áp lực nội sọ lại trờ lại giá trị ban đầu.

Như vậy giá trị của liệu pháp hạ thân nhiệt còn phải tiếp tục được khẳng định.

Một tác dụng nguy hiểm của hạ thân nhiệt vừa phải (32°C) đối với các tế bào thần kinh đệm đã được chựng minh trên thực nghiệm: hạ thân nhiệt sẽ ức chế enzym Na+/K+ – AỊPase của bơm màng tế bào, hoạt hóa các antiport Na+/H+. Điều đó dẫn đến tích tụ Na+ trong tế bào và phù các tế bào thần kinh đệm.

2. Tư thế đầu của bệnh nhân

Tư thế nằm đầu cao, tuy đơn giản nhưng trong nhiều trường hợp có thể đem đến hiệu quả đáng kể trong điều trị phù não. Cơ sở giải thích cho nằm đầu cao là giảm áp lực xoang tĩnh mạch dọc giữa dẫn đến máu tĩnh mạch não lưu thông nhanh vào trong các xoang tĩnh mạch, từ đó vào trong hệ tuần hoàn chung. Giảm thể tích máu tĩnh mạch não sẽ làm giảm phù nề não. Trong đa số các trường hợp nằm đầu cao có tác dụng giảm áp lực nội sọ, nhưng cũng cần lưu ý có khoảng 1/3 số bệnh nhân sẽ xuất hiện hiện tượng tăng áp lực nội sọ nghịch thường khi đầu giường được nâng cao do giảm áp lực tưới máu não, đặc biệt trong trường hợp huyêt áp động mạch thấp, thiếu khối lượng máu lưu hành.

Tư thế tối ưu là đầu bệnh nhân được nâng cao 30°, điều này có thể làm giảm áp lực nội sọ trung bình 7mmHg (có thể tới lOmmHg) mà không làm thay đổi lưu lượng tưới máu não.

3. Các thuốc gây ngủ

Chỉ định dùng barbituric: theo các chuyên gia hồi sức, chỉ dành cho các trường hợp phù não có tăng áp lực nội sọ hỗ trợ với điều trị thông thường. Barbituric làm giảm áp lực nội sọ bằng cách giảm chuyển hóa trong não, giảm sử dụng oxy, giảm lưu lượng máu não và giảm thể tích máu não. Các tác dụng này sẽ đạt mức tối đa khi điện não đồ trở thành đường đăng điện. Nhưng tác dụng quan trọng nhất của barbituric là phân phối lại máu từ khu vực não lành về khu vực não tổn thương (hiệu ứng đảo ngược thể tích hay hiệu ứng Robin Good), giảm tiết dịch não tủy, có tác dụng ổn định màng tế bào, tác dụng bẫy các gốc tự do và làm giảm peroxy hóa lipid.

Từ lâu người ta đã chứng minh được barbituric có tác dụng kiểm soát áp lực nội sọ. Mặc dù có các tác dụng có lợi trên áp lực nội sọ nhưng việc sử dụng barbituric cho các bệnh nhân phù não vẫn còn tiếp tục thảo luận vì chưa cỏ nghiên cứu lâm sàng nào chứng minh được một cách rõ ràng sự cải thiện của nó đối với tiên lượng của các bệnh nhân phù não.

Barbituric làm giảm áp lực nội sọ nhưng sẽ mất đi nhanh chóng nếu như tụt huyết áp động mạch xảy ra mà không được khắc phục. Barbituric gây tụt huyết áp là do vừa gây dãn mạch hệ thống vừa có tác dụng ức chế cơ tim, vì vậy, cần khôi phục đủ khối lượng tuần hoàn trước khi dùng barbituric.

Thông thường người ta dùng barbituric với liều ban đầu 5mg/kg tiêm tĩnh mạch trong vòng 5 đến 10 phút, tiếp theo truyền tĩnh mạch với liều 6mg/kg/giờ. cần giảm liều thuốc khi cơ thể bắt đầu bão hòa barbituric để tránh nguy cơ quá liều và trụy tim mạch. Không có quy tắc nào cho phép xác định chính xác liều này, có thể ghi điện não đồ hai lần/ngày để chỉnh liều barbitunc. Liệu pháp dùng thuốc ngủ không nên kéo dài quá 3 đến 5 ngày vì thuốc vẫn còn hiệu lực trong nhiều ngày sau ngừng thuốc.

4. Điều chỉnh huyết áp động mạch hệ thống

Huyết áp động mạch hệ thống (HAĐMHT) giữ vai trò quan trọng để duy trì lưu lượng tưới máu não. Nếu huyết áp không ổn định, sự thay đổi này có nguy cơ làm nặng thêm tình trạng phù não.

Duy trì một thể tích và khối lượng tuần hoàn đầy đủ là trụ cột của việc điều chỉnh HAĐMHT. Tăng HA thích ứng nhằm mục đích ổn định áp lực tưới máu não và lưu lượng máu não được coi như một mục đích điều trị chiến lược. Ngưỡng huyết áp tâm thu có thể chập nhận đựợc theo đa số các tác giả là 120 – 190mmHg (trung bình 150). Sau khi đã bù đủ khối lượng tuần hoàn, có thể dùng các thuốc nâng huyết áp để ổn định HAĐMHT. Trong việc duy trì HAĐMHT, kinh nghiệm sử dụng noradrenalin về thời điểm chỉ định, liệu lượng tùy theo từng cơ thể bệnh, điều chỉnh liều, dùng đơn độc hay kết hợp với dopamin là rất quan trọng. Dopamin ở liều 2g/kg/phút còn giúp dự phòng tổn thương thận nhờ tác dụng dãn mạch thận. Sự hỗ trợ này làm giảm các tác dụng phụ của các thuốc co mạch khác.

Việc khôi phục một tình trạng huyết động sinh lý, ổn định bằng truyền dịch khôi phục khối lượng tuần hoàn là cần thiết, dự phòng được tổn thương não do tụt huyết áp trong phù não sau chấn thương hoặc thiếu máu não. Chống tụt huyết áp là bắt buộc để không làm nặng thêm phù não.

Các thuốc điều trị

1. Mannitol

Một chất có tác dụng tạo sự chênh lệch về áp lực thẩm thấu để kéo nước ra khỏi nhu mô não, phải có trọng lượng phân tử thấp, trơ, không phản ứng, không độc, lợi tiểu và chỉ ở trong lòng mạch. Tiêu chuẩn này được biểu thị bằng hệ số thẩm thấu (a) đi từ 0 (qua lại màng một cách tự do) đến 1 (hoàn toàn không qua được).

Có 4 chất thẩm thấu thường được sử dụng trên lâm sàng: glycerol, urê, mannitol, huuyết thanh mặn ưu trương; trong đó mannitol đáp ứng tốt nhất với các tiêu chuẩn nêu trên.

Do hệ số thẩm thấu thấp (0,48) và tác dụng thứ phát gây tan máu nên glycerol ít được sử dụng.

Mannitol có 3 tác dụng: chống phù não, cải thiện tình tạng lưu huỵết và nâng huyết áp. Trong vòng 5 phút sau khi truyền mannitol, áp lực thẩm thấu (ALTT) của huyết tương tăng, gradient thầm thấu này sẽ kéo nước từ khoảng kẽ của bất kỳ cơ quan nào vào khu vực trong lòng mạch, làm giảm lượng nước tự do ở ngoài tế bào, điều này cũng kéo theo việc giảm độ nhớt của máu (giảm hematocrit). Máu sẽ dễ dàng lưu thông trong hệ thống mạch não, thúc ẩy sự trao đổi oxy với tế bào não. Hiện tượng chuyển dịch nước từ gian bào vào lòng mạch là một điều kiện rất thuận lợi để ổn định huyết áp động mạch hệ thống và làm tăng áp lực tưới máu não.

Rosner và Coley cho rằng áp lực nội sọ có đáp ứng tốt hơn với mannitol ở những bệnh nhân có áp lực tưới máu não thấp, điều này gợi ý rằng huyết áp tâm thu và áp lực tưới máu não cho phép co mạch não trực tiếp. Mannitol còn có tác dụng thứ phát là làm hạn chế sự tiết dịch não tủy từ đám rối màng mạch.

Mannitol thường được sử dụng với liều 0,25 – 0,5g/kg truyền tĩnh mạch cách 4 giờ một lần, dùng gián đoạn có hiệu quả hơn dùng liên tục. cần lưu ý ở những vùng não có tổn thương hàng rào máu não nặng, việc dùng mannitol liều cao và kéo dài sẽ có nguy cơ tích tụ thuốc ở khoang ngoài lòng mạch dẫn đến phù não xuất hiện nặng hơn (tác dụng nẩy lại – rebound effect). Mannitol còn có tác dụng lợi tiểu thẩm thấu, (trong trường hợp có kết hợp với lasix) thường gây ra nguy cơ mất nước điện giải, vì vậy, khi dùng nó cần chú ý bổ sung đủ khối lượng máu lưu hành, nếu điều trị bù dịch không đầy đủ có thể dẫn đến tổn thương ống thận. Khả năng độc tố của mannitol trên ống thận được tích lũy dần dần và đặc biệt ở các trường hợp có điều trị phối hợp với một số thuốc nâng huyết áp, kháng sinh nhóm aminoglucosid có thể dẫn tới hậu quả suy thận. Để tránh tổn thương thận thì áp lực thẩm thấu của huyết tương nên được duy trì trong phạm vi 310 – 320mOsmol.

2. Glucocorticoid

Glucocorticoid giảm nhanh chóng và đáng kể phù não xung quanh khối u và áp – xe; nhưng không có hiệu quả trong điều trị phù nề do nhồi máu não, xuât huyêt nội sọ, chảy máu màng não, hoặc do chấn thương. Các cơ chế chính giải thích tính hiệu quả trong phù não do mạch là ảnh hưởng trực tiếp bình thường hóa chức năng của tế bào nội mô và tính thâm khi quá trình được kích hoạt bởi sự giải phóng của các cytokin, các yếu tố tạo mạch, các phân tử kết dính mạch máu và các trung gian viêm khác.

Glucocorticoid tác dụng mạnh kéo dài được sử dụng rộng rãi nhất để điều trị phù do mạch liên quan đến khối u hoặc nhiễm trùng. Liều dùng thông thường của dexamethason lặ khởi đầu 10mg, sau đó là 4mg đến 6mg, bốn lần một ngày, tiếp theo đó tương đương với liều 400mg cortisol hàng ngày (lớn hơn khoảng 20 lần so với mức bình thường của sản xuất cortisol nội sinh của con người). Không có dữ liệu thuyết phục hoặc thử nghiệm lâm sàng, glucocorticoid có tác dụng mang lại lợi ích cho việc điều trị phù nề tế bào gây độc tế bào hoặc thẩm thâu bât kể nguyên nhân gì. steroid cũng cũng được sử dụng kèm theo phẫu thuật mở hộp sọ, mặc dù rất ít bằng chứng về hiệu quả của nó. Chỉ định hiếm gặp như viêm màng não tủy, viêm não tủy cấp tính sau nhiễm trùng, viêm mạch hệ thần kinh trung ương và sarcoidosis màng não.

3. Huyết thanh mặn ưu trương

Rất nhiều công trình đã đánh giá tác dụng của huyết thanh mặn ưu trương: đầu tiên là trong sốc mất máu, sau đó trong hồi sức thần kinh. Nếu người ta chấp nhận rằng vấn đề chủ yếu của liệu pháp thẩm thấu là phụ thuộc vào độ chênh lệch áp lực thẩm thấu được thiết lập ở hai phía của màng mao mạch, thì hiệu quả của từng chất thẩm thấu được đánh giá bằng khả năng thẩm thấu của nó.

Tác dụng có lợi của huyết thanh mặn ưu trương lên áp lực nội sọ rất rõ rệt, đặc biệt là ở các bệnh nhân có tăng áp lực nội sọ. Xuất phát từ nhận xét này, nhiều tác giả đã sự dụng huyết thanh mặn ưu trương trong các trường hợp tăng áp lực nội sọ hỗ trợ với điều trị bằng các biện pháp thông thường (mannitol, tăng thông khí, barbituric). Áp lực nội sọ sẽ được giảm từ 10 – 30mmHg trọng vòng từ 20 – 60 phút sau khi sử dụng 100ml huyết thanh mặn ưu trương 10%, 2ml/kg huyết thanh mặn ưu trương 7,5%, 30ml huyết thanh mặn ưu trương 23,4%. Sử dụng huyết thanh mặn 3% trong nhiều ngày đã được đề nghị để điều trị chống phù não. Nhưng tác giả nhận thấy rằng nó cũng không thay thế được hoàn toàn việc sử dụng các biện pháp điều trị tăng áp lực nội sọ khác.

Liệu pháp thẩm thấu tỏ ra có hiệu quả để làm giảm áp lực nội sọ và càng có hiệu quả khi áp lực nội sọ ban đầu càng cao, nghĩa là khi bệnh nhân nằm ở phần thẳng của đường cong áp lực/thể tích nội sọ. Người ta thấy cỏ giảm áp lực nội sọ >20mmHg khi áp lực nội sọ ban đâu >40 mmHg; ngược lại, chưa có nghiên cứu nào cho phép nói rằng liệu pháp thẩm thấu có thể dùng để dự phòng phù não.

Trong mọi trường hợp, áp lực thẩm thấu huyết tương không được vượt quá 320mOsm/kg vì có thể gây tổn thương thần kinh do tăng thẩm thấu. Việc đưa áp lực thẩm thấu huyết tương trở về bình thường cũng phải được tiến hành một cách từ từ.

Các phương pháp điều trị khác

1. Dẫn lưu dịch não tủy

Dần lưu dịch não tủy nhờ một catheter đặt vào não thất, ở nhiều trung tâm hồi sức người ta sử dụng hàng ngày thủ thuật này như là biện pháp can thiệp đầu tiên trong điều trị tăng tăng áp lực nội sọ ở bệnh nhân phù não, đặc biệt trong trường hợp khi mà các phương pháp khác không còn khả năng kiểm soát được ập lực nội sọ. Một nghiên cứu không ngẫu nhiên đã kết luận rằng tác dụng củạ dẫn lưu não thất trên áp lực nội sọ là có thể so sánh được với tác dụng của liều truyền trực tiếp (bolus) mannitol hoặc là với liệu pháp tăng thông khí. Hơn nữa, việc dẫn lưu não thất không đi kèm với khả năng bị tụt SP02 có thể gặp trong liệu pháp tăng thông khí. Áp lực nội sọ có thể giảm tới 4mmHg sau khi dẫn lưu 1,2 hoặc 3ml dịch não tủy; nhưng tác dụng này ngắn, chỉ kéo dài 10 phút. Một khó khăn của việc dẫn lưu dịch não tủy là khi não thất đã bị chèn ép nhỏ lại, lúc đó não thất sẽ đè ép catheter gây cản trở lưu thông của dịch. Vì vậy, dẫn lưu não thất bị giới hạn khi áp lực nội sọ tăng trên 30mmHg, dẫn lưu dịch não tủy có hiệu quả nhất khi áp lực nội sọ auy trì ở mức 25 – 30mmHg hoặc thấp hơn. Tóm lại, dẫn lưu não thất là một biện pháp có thể áp dụng, nhưng hiệu quả của nó còn hạn chế, nguy cơ lớn nhất là nhiễm trùng.

2. Mở hộp sọ giảm áp

Phẫu thuật này không thuộc nhóm các phẫu thuật lấy bỏ các khối choán chỗ nội sọ như là máu tụ, khối u, áp – xe. Tới nay còn ít các nghiên cứu lâm sàng đánh giá phẫu thuật mở sọ giải phóng chèn ép như là một biện pháp điều trị chống phù não. Phẫu thuật này lấy bỏ một mảnh lớn của xương hộp sọ và kèm theo việc mở rộng màng cứng. Có thể mở rộng hộp sọ và màng cùng một bên hoặc hai bên, thông thường là ở vùng trán – thái dương – đỉnh. Mục đích là để tăng kích cỡ vòm sọ, cung cấp khoảng trống cho việc mờ rộng các mô não bị phù và giảm thoát vị não trong nội sọ. Phẫu thuật này thường được sử dụng như một nỗ lực cuối cùng để kiểm soát tăng áp lực nội sọ, khi mọi biện pháp điều trị bảo tồn chống tăng áp lực nội sọ đều đã thất bại. Trong nghiên cứu của Ganh và cộng sự, 27 trong số 37 bệnh nhân được mổ để điều trị tăng áp lực nội sọ sau chấn thương đã hồi phục hoàn toàn hoặc một phần chức năng thần kinh sau một năm (73%). Một nghiên cứu khác, so sánh phẫu thuật với điều trị bảo tồn sau nhồi máu não diện rộng do tắc gốc động mạch não giữa, tỷ lệ tử vong là 76% ở nhóm không được mổ so với 34% ở nhóm được mổ. Gần đây người ta nhận thấy với phẫu thuật giảm áp ban đầu sẽ nâng cao kết quả điều trị và giảm thời gian nằm viện. Hiện tại, còn nhiều tranh cãi về vấn đề này, chưa thể kết luận về vị trí của phẫu thật mở hộp sọ giảm áp trong điều trị phù não.

3. Tăng thông khí vừa phải

Tăng thông khí luôn được đề nghị trong đa số các nghiên cứu như là biện pháp mũi nhọn để điều trị các cơn tăng áp lực nội sọ. Người ta thấy giảm 5mmHg PaCO2 sẽ làm giảm áp lực nội sọ từ 5 – 7mmHg. Tăng thông khí làm giảm áp lực nội sọ nhờ tác dụng làm co mạch não và giảm thể tích não. Tăng thông khí là hình thức điều trị hiệu quả tăng áp lực nội sọ và nó đang được thực hiện ở nhiều đơn vị hồi sức trên thế giới. Tăng thông khí được chỉ định bắt đầu ngay khi có dấu hiệu phù não và tăng áp lực nội sọ. Có 2 mức tăng thông khí: tăng thông khí vừa phải (FaCO2 – 30 – 35mmHg) và tăng thông khí mạnh (PaCO2 < 28mmHg).

Jennett và cộng sự thấy rằng khi so sánh những bệnh nhân được tăng thông khí với nhóm không được đặt ống nội khí quản, kết quả ở nhóm đầu tốt hơn rõ rệt. Ward và cộng sự gợi ý rằng những bệnh nhân được điều trị có mức PaCO2 giảm vừa phải có kết quả tốt hơn những bệnh nhân được điều trị mà mức PaCO2 cao.

Tuy nhiên, nhược thán (giảm CO2) quá mức (PaCO2 <28mmHg) sẽ có nguy cơ thiếu máu não do co thắt mạch máu. Biến chứng này có thể tránh được nhờ theo dõi độ bão hòa oxy ở tĩnh mạch cảnh (SP02) và mức chênh lệch oxy giữa máu động mạch – tĩnh mạch (a-vD02). Mực PaCO2 cần được điều chỉnh sao cho SP02 không thấp hơn 55% (dưới mức này là có thiếu máu não).

Tóm lại, tăng thông khí ở các bệnh nhân phù não nặng là một phương pháp hữu hiệu để kiểm soát áp lực nội sọ, tuy nhiên, khi phù não chưa có tăng áp lực nội sọ cần tránh biện pháp tăng thông khí.

Tăng thông khí lặ cần thiết trong thời gian ngắn khi có suy giảm thần kinh cấp tính hoặc trong thời gian dài nếu có tăng áp lực nội sọ khó kiểm soát. Không nên duy trì PaCO2 nhỏ hơn 30mmHg vì dưới mức này mạch máu não sẽ có nguy cơ co quá mức dẫn tới giảm tưới máu não.

Một số chỉ định điều trị phù não theo nguyên nhân

– Nhồi máu não: không có chỉ định dùng thuốc chống phù não trừ trường hợp nhồi máu rộng có nguy cơ tụt kẹt thì dùng mannitol hoặc muối ưu trương.

– Chảy máu não: 20% mannitol (1,4g/kg) phẫu thuật hoặc chọc hút dẫn lưu máu tụ.

– u não: dexamethason khởi đầu là 4 đến 10mg mỗi 6 giờ, phẫu thuật.

– Viêm não: dexamethason.

– Chấn thương sọ não: chưa chứng minh được hiệu quả của thuốc chống phù não, có thể phẫu thuật hoặc chọc hút dẫn lưu máu tụ.

– Xuất huyết dưới nhện: dung dịch muối ưu trương và hạ thân nhiệt có thể dùng.

– Áp – xe não: dexamethason.

– Phù não do độ cao: ngay lập tức hạ độ cao (600 đến 1.200m), acetazolamid 500mg mỗi 6 giờ, và cung cấp bổ sung oxy.

– Bệnh não gan: hạ thân nhiệt nhẹ đến trung bình (33°C) đã được chứng minh là có hiệu quả.

– Viêm màng não: corticoid, dẫn lưu não thất.

– Phù não sau lấy bỏ xơ vữa: hạ huyết áp (labetolol và nicardipine), magnesium sulfate bonus 4g tiếp theo là 10 đến 12g/h đã được chứng minh để cải thiện kết quả ở phụ nữ bị sản giật.

Biến chứng của điều trị phù não

Chủ yếu do sử dụng thuốc chống phù não gây nên.

Corticoid: loét dạ dày.

– Manitol: mất nước, suy giảm điện giải và suy thận, “hiệu ứng hồi phục“ áp lực nội sọ, phá vỡ hàng rào máu – não.

– Muối ưu trương: tăng áp lực thẩm thấu máu.

Huyệt Uyên Dịch

Uyên Dịch

Tên Huyệt:

Huyệt ở chỗ lõm (uyên) ở dưới nách (dịch) vì vậy gọi là Uyên Dịch.

Tên Khác:

Dịch Môn, Tuyền Dịch.

Xuất Xứ:

Thiên ‘Ung Thư’ (Linh khu.81).

Đặc Tính:

Huyệt thứ 22 của kinh Đởm.

Huyệt giao hội 3 kinh Cân Âm ở tay, nơi nhập của kinh Biệt Tâm, Phế, Tâm bào.

Vị Trí huyệt:

Dưới nếp nách trước 3 thốn, ở khoảng gian sườn 4, bờ trước cơ lưng to.

Giải Phẫu:

Dưới da là bờ trước cơ lưng to, cơ răng cưa to, các cơ gian sườn 4, phổi.

Thần kinh vận động cơ là các nhánh của đám rối thần kinh nách và dây thần kinh gian sườn 4. Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh D4.

Chủ Trị:

Trị màng ngực viêm, thần kinh gian sườn đau, hạch nách sưng.

Phối Huyệt:

1. Phối Chương Môn (C.13) + Chi Câu (Tam tiêu.6) trị nhọt ở cổ – mã đao, sưng loét (Giáp Ất Kinh).

2. Phối Chi Câu (Tam tiêu.6) + Ngoại Quan (Tam tiêu.5) + Túc Lâm Khấp (Đ.41) trị nhọt ở nách (Loại Kinh Đồ Dực).

3. Phối Chí Âm (Bàng quang.67) + Cư Liêu (Đ.29) + Triếp Cân (Đ.23) trị thần kinh gian sườn đau (Châm Cứu Học Thượng Hải).

Cách châm Cứu:

Châm xiên 0, 5 – 0, 8 thốn – Ôn cứu 3-5 phút.

Ghi Chú: Không châm sâu vì có thể đụng phổi.

Tham Khảo:

“Thiên ‘Thông Bình Hư Thực Luận’ ghi: “Nhọt phát ra ở nách, sốt cao, châm túc Thiếu Dương (Uyên Dịch, Triếp Cân), 5 nốt…”(Tố vấn 28, 51).

“Khi cánh tay rất đau nhức hoặc khi có cảm giác phong khí xâm phạm ngực (gây chướng ngại, đau âm ỉ, đè nén) pHải châm Tả Uyên Dịch. Khi Tả huyệt này có thể làm ngất do đột nhiên mất khí ở phần Vệ, pHải bổ ngay Túc Tam Lý là huyệt Hợp của kinh Vị, nhờ Vệ khí do huyệt tạo ra (Biển Thước Tâm Thư ).

Femara

Thuốc femara
Thuốc femara

FEMARA

NOVARTIS

viên bao 2,5 mg: hộp 30 viên.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Letrozole 2,5 mg

DƯỢC LỰC

Việc loại bỏ các tác dụng kích thích gián tiếp của estrogen là đòi hỏi đầu tiên phải giải quyết trong các trường hợp mà sự phát triển của các mô khối u phụ thuộc vào sự có mặt của các estrogen. Ở phụ nữ mãn kinh, estrogen chủ yếu do hoạt động của các men aromatase sinh ra, men này chuyển các hormon nam tính – trước hết là androstenedione và testosterone thành estrone (E1) và estradiol (E2). Việc ức chế sinh tổng hợp estrogen trong các mô ngoại vi và bản thân mô ung thư vú, do đó, có thể được thực hiện bằng cách ức chế men aromatase.

Letrozole là chất ức chế men aromatase không có cấu trúc steroid. Nó ức chế men aromatase bằng cách gắn với men sắc tố tế bào P450 của men, dẫn đến sự giảm sinh tổng hợp estrogen trong mọi mô.

Với phụ nữ mãn kinh khỏe mạnh, các liều duy nhất 0,1; 0,5 và 2,5 mg letrozole giảm estradiol trong huyết thanh tới 75-78%. Sự giảm tối đa đạt được trong 48-78 giờ.

Với bệnh nhân mãn kinh bị ung thư vú, liều hàng ngày từ 0,1 đến 5 mg làm giảm nồng độ estradiol, estrone và estrone sulfate trong huyết tương tới 75-95% ở mọi bệnh nhân được điều trị. Với liều 0,5 mg và cao hơn, nhiều giá trị estrone và estrone sulfate giảm tới dưới giới hạn có thể phát hiện được, cho thấy các liều này ức chế estrogen cao hơn. Việc giảm estrogen này được duy trì trong suốt thời kỳ điều trị.

Letrozole ức chế đặc biệt hoạt động của men aromatase. Không nhận thấy thuốc làm phương hại gì đến tuyến thượng thận sinh steroid. Cũng không thấy có sự thay đổi nồng độ nào của cortisol, aldosterone, 11-desoxycortisol, 17-hydroxyprogesterone và ACTH trong huyết tương hoặc hoạt động của résine huyết tương trong số các bệnh nhân sau kỳ mãn kinh được điều trị bằng letrozole với liều hàng ngày là 0,1 đến 5 mg. Việc kiểm tra sự kích thích của ACTH được thực hiện sau 6 và 12 tuần điều trị với các liều hàng ngày là 0,1; 0,25; 0,5; 1; 2,5 và 5 mg cho thấy thuốc không làm bất sản aldosterone hoặc cortisol. Do đó không cần bổ sung glucocorticoid và mineralocorticoid.

Không nhận thấy có sự thay đổi gì của nồng độ hormon nam tính trong huyết tương (androstenedione và testosterone) trong phụ nữ mãn kinh khỏe mạnh. sau khi dùng các liều duy nhất 0,1; 0,5 và 2,5 mg letrozole hoặc thay đổi nồng độ androstenedione ở bệnh nhân mãn kinh được điều trị với các liều hàng ngày từ 0,1 đến 5 mg, chứng tỏ việc phong bế sinh tổng hợp estrogen không dẫn tới sự tích tụ các androgens.

Nồng độ trong huyết tương của LH và FSH không bị ảnh hưởng bởi letrozole, chức năng tuyến giáp cũng vậy.

Trong một thử nghiệm lâm sàng được theo dõi kỹ càng, người ta thấy các bệnh nhân được điều trị bằng Femara, khối u giảm đi 23,6% so với 16,4% khi dùng megestrol acetate. So sánh các kết quả điều trị ta thấy liều 2,5 mg letrozole cho kết quả tốt nhất (p = 0,04).

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Hấp thu :

Letrozole được hấp thu nhanh chóng từ đường dạ dày ruột (tỷ lệ hấp thu tuyệt đối trung bình là 99,9%). Thức ăn có làm giảm nhẹ tỷ lệ hấp thu theo thời gian, nhưng tỷ lệ hấp thu cuối cùng không bị thay đổi. Do đó, letrozole có thể được uống bất kỳ lúc nào trong ngày.

Phân phối :

Letrozole được gắn với protein huyết tương với tỷ lệ xấp xỉ 60%, chủ yếu với albumin (55%). Nồng độ letrozole trong hồng cầu bằng khoảng 80% nồng độ trong huyết tương. Sau khi uống 2,5 mg letrozole có đồng vị 14C, xấp xỉ 82% của tính phóng xạ trong huyết tương, tương đương với hợp chất không thay đổi. Do đó, sự tiếp xúc toàn thân với các sản phẩm chuyển hóa là thấp. Letrozole được phân bổ nhanh chóng và rộng rãi tới các mô. Thể tích phân phối ở trạng thái bền vững là khoảng 1,87 +/- 0,47 l/kg.

Chuyển hóa và thải trừ :

Việc thải trừ bằng cách chuyển hóa thành một sản phẩm chuyển hóa không còn hoạt tính dược lực là cách thải trừ chính của letrozole (CLm = 2,1 l/giờ) nhưng tương đối chậm so với lượng máu chảy qua gan (khoảng 90 l/giờ). Các isoenzymes 3A4 và 2A6 của sắc tố tế bào P450 có khả năng chuyển letrozole thành sản phẩm chuyển hóa này. Sự hình thành ít ỏi các sản phẩm chuyển hóa không xác định được và việc thải trừ thuốc trực tiếp theo đường thận và phân chỉ đóng vai trò nhỏ trong việc thải trừ letrozole.

Sau khi uống hàng ngày 2,5 mg, nồng độ ổn định đạt được trong vòng 2-6 tuần và nồng độ này được giữ nguyên trong một thời gian tương đối dài nên có thể kết luận được là không xảy ra sự tích lũy thuốc.

Tuổi tác không ảnh hưởng tới dược động học của letrozole.

Nghiên cứu trên bệnh nhân bị bệnh gan, thận và ung thư vú. Với bệnh nhân bị kém chức năng thận khác nhau, sau khi uống một liều duy nhất 2,5 mg thuốc, không thấy có ảnh hưởng gì tới dược động học của letrozole.

Với bệnh nhân kém chức năng gan, mức độ hấp thu thuốc vẫn ở trong phạm vi hấp thu của những người bình thường.

Với bệnh nhân bị ung thư vú, nồng độ của letrozole không thấy bị ảnh hưởng.

Độ an toàn :

Nghiên cứu trên các loại động vật chuẩn, không thấy có độc tính toàn thân hay cơ quan đích. Đối với loài gậm nhấm, letrozole gây độc tính cấp với liều 2.000 mg/kg. Với chó, ta thấy các dấu hiệu của độc tính vừa phải khi dùng liều 100 mg/kg.

Dùng liều 0,3 mg/kg với cả hai loài, thuốc không có tác dụng phụ.

Trong một nghiên cứu 104 tuần về khả năng gây ung thư của thuốc, người ta không thấy có u nào có liên quan tới việc điều trị ở chuột đực cả.

Với chuột cái, người ta thấy letrozole làm giảm tỷ lệ u lành và độc tính của thuốc đối với sinh sản chưa được nghiên cứu đầy đủ.

CHỈ ĐỊNH

Điều trị ung thư vú tiến triển ở phụ nữ mãn kinh tự nhiên hay nhân tạo, trước đã được điều trị bằng các thuốc kháng estrogen.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Quá mẫn với hoạt chất hay với tá dược của thuốc. Thời kỳ nội tiết trước khi tắt kinh.

Phụ nữ có thai và cho con bú.

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG và THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Người ta chưa nghiên cứu Femara ở các bệnh nhân có thanh thải créatinine < 10 ml/phút. Do letrozole gắn yếu với protein huyết tương, người ta cho rằng thuốc có thể bị loại trừ khỏi hệ thống tuần hoàn bằng thẩm phân. Do đó, phải xem xét kỹ lợi, hại đối với các bệnh nhân này trước khi dùng Femara.

Lái xe và vận hành máy móc :

Femara không ảnh hưởng rõ tới những người lái xe và vận hành máy móc. Tuy nhiên, khi dùng Femara có thể thấy mệt mỏi và chóng mặt. Do đó, bệnh nhân dùng Femara cần được thông báo là khả năng thể lực và tinh thần đòi hỏi cho việc vận hành máy móc hoặc lái xe có thể bị ảnh hưởng.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Chưa có đầy đủ các dữ liệu về tái sinh sản trên động vật đối với letrozole, không được chỉ định Femara cho phụ nữ có thai và cho con bú.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Các nghiên cứu về tác dụng tương hỗ trên lâm sàng với cimetidine và warfarin cho thấy dùng Femara cùng các thuốc này không có tác dụng tương hỗ gì đáng kể. Bên cạnh đó, trong một thử nghiệm rộng hơn đối với các bệnh nhân dùng các thuốc khác (như benzodiazepine, barbiturate, furosemide, omeprazole) cũng không có tác dụng tương hỗ nào về lâm sàng. Hiện chưa có thử nghiệm lâm sàng về dùng Femara với các thuốc chống ung thư khác.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Trong các thử nghiệm lâm sàng, các tác dụng phụ thường nhẹ đến trung bình và hiếm có trường hợp nghiêm trọng để phải ngừng điều trị. Nhiều tác dụng phụ có thể có liên quan đến bản thân bệnh tật hoặc các hậu quả dược lý bình thường của việc thiếu estrogen (như đỏ nóng, thưa tóc).

Bảng dưới đây cho thấy theo trình tự giảm dần, tần số của các tác dụng phụ có thể liên quan tới thuốc, theo các nghiên cứu, đã được báo cáo là trên 2% (của Femara hoặc megestrol acetate) trong một thử nghiệm có kiểm soát với Femara (2,5 mg/ngày) và megestrol acetate (160 mg/ngày) trong 33 tháng.

 

Tác dụng phụ Femara (n = 174%) Megestrol acetate (n = 189%)
Nhức đầu 6,9 4,8
Buồn nôn 6,3 4,2
Phù ngoại vi 6,3 3,7
Mệt mỏi 5,2 6,3
Đỏ bừng 5,2 3,7
Thưa tóc 3,4 1,1
Ban(1) 3,4 0,5
Nôn 2,9 1,6
Khó tiêu 2,9 1,6
Tăng trọng 2,3 8,5
Đau cơ xương(2) 2,3 1,1
Chán ăn 2,3 1,1
Chảy máu âm đạo 1,7 3,2
Khí hư 1,7 2,6
Táo bón 1,7 2,1
Chóng mặt 1,1 3,7
Tăng ngon miệng 1,1 3,7
Tăng mồ hôi 1,1 2,1
Khản tiếng 0,6 5,8
Viêm tĩnh mạch huyết khối(3) 0,6 3,7
vết ở âm đạo 0,6 2,1
Cao huyết áp 0 2,6
Ngứa 0 2,6
  • Gồm: ban đỏ, rát sần.
  • Gồm: đau cánh tay, lưng, chân, xương.
  • Gồm: viêm tĩnh mạch huyết bề mặt và sâu.

Các tác dụng phụ khác được coi là có thể có liên quan tới thuốc và được báo cáo ít nhất ở 3 bệnh nhân được điều trị bằng Femara, với tần số dưới 2% gồm sút cân và phù.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Chỉ dùng cho người lớn. Bệnh nhân lớn và có tuổi :

Liều gợi ý là 2,5 mg một lần mỗi ngày. Không cần điều chỉnh liều lượng gì cho bệnh nhân lớn tuổi.

Bệnh nhân yếu gan hay thận :

Không cần điều chỉnh liều lượng gì nếu thanh thải créatinine >= 10 ml/phút (xem phần Dược động học).

QUÁ LIỀU

Không có kinh nghiệm gì khi dùng quá liều Femara. Hiện chưa có điều trị đặc hiệu nào khi dùng quá liều; chỉ áp dụng điều trị triệu chứng và hỗ trợ.

Nguyên nhân, chẩn đoán và điều trị đau ngực ở trẻ em

Đau ngực là một triệu chứng thường gặp ở các cơ sở khám, chữa bệnh, đặc biệt là các phòng khám chuyên khoa tim mạch.

Khác với người lớn, đau ngực do các bệnh tim thường chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong số các nguyên nhân gây đau ngực ở trẻ em. Người thầy thuốc khám bệnh cần phải nắm được các nguyên nhân gây đau ngực để chẩn đoán và thái độ xử trí thích hợp trước khi gửi trẻ đi khám tại các chuyên khoa sâu.

NGUYÊN NHÂN GÂY ĐAU NGỰC Ở TRẺ EM

Ba nguyên nhân chính gây đau ngực ở trẻ em là viêm sụn sườn, tình trạng bệnh lý của thành ngực (do chấn thương hoặc tình trạng căng cơ) và các bệnh đường hô hấp (chiếm 45-65%), trong khi đau ngực do các bệnh tim mạch chỉ chiếm khoảng dưới 4%. Đau ngực ở trẻ em thường thấy ở mọi lứa tuổi: trẻ dưới 12 tuổi đau ngực thường do các bệnh phổi (viêm phổi, viêm màng phổi, hen, ho kéo dài) và các bệnh tim (viêm màng ngoài tim, hở van động mạch chủ) đau ngực do căn nguyên tâm lý thường gặp ở trẻ trên 12 tuổi.

Bảng 2.4. Tần suất tương đối các nguyên nhân gây đau ngực ở trẻ em

Nguyên nhân Tỉ lệ (%)
Các yếu tố tự phát 12-45
Viêm sụn sườn 9-22
Chấn thương cơ xương 21
Viêm phổi, hen 15-21
Các yếu tố tâm lý 5-9
Các bệnh tiêu hóa 4-9
Các bệnh tim mạch 0-4
Cơn kịch phát bệnh tế bào hình liềm 2
Các nguyên nhân khác 9-21

CÁC BIỂU HIỆN LÂM SÀNG ĐAU NGỰC Ở TRẺ EM

Khoảng 12-45% trẻ em đau ngực không tìm thấy nguyên nhân, mặc dù đã được khám và thăm dò kỹ lưỡng. Số còn lại, đau ngực thường do các lý do:

Các nguyên nhân không do tim mạch

Phần lớn đau ngực ở trẻ em khởi nguồn từ các cơ quan khác mà không phải từ tim. Đau ngực không do tim chiếm tới 56%-86% các trường hợp đau ngực được ghi nhận.

Viêm sụn sườn

Thường đau ngực mức độ nhẹ hoặc vừa, đau chủ yếu bên tổn thương song đôi khi lan sang cả bên kia hoặc lan rộng ra sau lưng hoặc xuống bụng. Đau tăng lên khi vận động hay khi mắc thêm các bệnh đường hô hấp. Triệu chứng đau ngực có thể kéo dài nhiều tuần đến hàng tháng, thăm khám thấy đau nhói khi sờ nắn vào các điểm tiếp nối sụn-sườn hay sụn-ức. Hội chứng Tietze là một thể viêm sụn sườn hiếm gặp gồm có các triệu chứng: sưng dạng hình thoi tại điểm tiếp nối sụn-ức hoặc sụn-sườn của xương sườn thứ 2 hoặc thứ 3 và đau ngực lan rộng.

Đau ngực do nguyên nhân cơ xương

Thường đau vừa phải và kéo dài do sự căng quá mức của các cơ ngực, lưng, vai sau vận động hoặc chấn thương do đánh nhau, thể thao hoặc tai nạn. Một bệnh nhân có triệu chứng đau vùng ngực khi thăm khám có tiền sử vận động hay tập luyện quá sức, nâng các vật quá nặng hoặc chấn thương trực tiếp vào vùng ngực phải nghĩ tới nguyên nhân đau ngực do căng cơ hoặc do chấn thương. Các bất thường về cấu trúc lồng ngực, cột sống cũng có thể gây nên các triệu chứng đau ngực kéo dài.

Đau ngực do nguyên nhân hô hấp

Đây là hậu quả của sự gắng sức kéo dài của các cơ quan hô hấp (cơ thành ngực và cơ hoành) và sự kích thích màng phổi. Ở những bệnh nhân này, khai thác tiền sử thường có các đợt ho nhiều và kéo dài. Thăm khám có thể thấy sốt, thở nhanh, khò khè, rút lõm lồng ngực, ran ẩm ở phổi tràn dịch màng phổi hay gây đau ngực với tính chất đau khi hít sâu. Viêm phổi, hen, tràn khí màng phổi cũng là những bệnh gây đau ngực.

Đau ngực do nguyên nhân tiêu hóa

Một số bệnh tiêu hóa gây ra đau ngực ở trẻ em. Sự khởi đầu và kết thúc cơn đau liên quan tới bữa ăn hoặc chế độ ăn uống giúp thầy thuốc định hướng chẩn đoán. Nghi viêm thực quản khi thấy trẻ phàn nàn rằng có cảm giác đau rát vùng sau xương ức và đau hơn khi nằm hoặc sau khi ăn, uống một loại thức ăn nào đó. Trẻ em đôi khi nuốt phải các vật lạ hoặc uống phải các hóa chất chúng mắc lại ở phía trên thực quản hoặc gây bỏng toàn bộ thực quản. Những trường hợp như vậy phải khai thác kĩ tiền sử giúp ích rất nhiều cho việc xác định chẩn đoán.

Đau ngực do nguyên nhân tâm lý

Thường gặp ở tuổi vị thành niên, tỉ lệ nam nữ tương đương nhau. Cơn đau ngực thường đi kèm với các sang chấn tâm lý do nhiều lý do ví dụ: sự chết chóc, ly biệt của các thành viên trong gia đình, tình trạng bệnh tật nghiêm trọng, thi trượt, chuyển chỗ ở… Tuy nhiên để khẳng định đau ngực do các yếu tố tâm lý cần khai thác tiền sử thật kỹ lưỡng, phải thăm khám lâm sàng thật cẩn thận và toàn diện, đôi khi phải theo dõi bệnh nhân trong một thời gian đủ dài để chắc đoán loại trừ các bệnh thực tổn thương gây đau ngực. Việc hội chẩn với các nhà tâm thần, tâm lý học là cần thiết và thầy thuốc cần nghĩ tới yếu tố này.

Đau ngực do các nguyên nhân khác

– Chứng đau nhói vùng trước tim: còn gọi là đau nhói ngực Texidor hoặc kiểu đau ngực như kim châm, bệnh nhân thường đau một bên ngực, đau chỉ diễn ra trong vòng vài giây đến vài phút, thường đau trong tư thế khom người hoặc thõng vai. Triệu chứng đau sẽ bớt khi ngồi thẳng, thở nông vài nhịp hoặc hít sâu một cái. Trẻ bị đau ngực loại này thường dễ bị tái phát. Một số bệnh nhân triệu chứng đau kéo dài và chỉ hết đau sau nhiều tháng. Nguyên nhân của hiện tượng này hiện chưa được biết rõ.

  • Đau tuyến vú: một số trẻ tuổi vị thành niên đến các cơ sở khám phàn nàn đau ngực song thực chất là đau tuyến vú. Triệu chứng này có thể gặp ở cả hai giới, khám thấy có các cục nhỏ ở núm vú, cần xác định đó là các nang hay chỉ là triệu chứng của một giai đoạn phát triển bình thường của tuổi dậy thì.
  • Nhiễm virus Coxackie: bệnh nhân đau ngực và đau bụng đột ngột, dữ dội. Đây là nguyên nhân đau ngực hiếm gặp.
  • Herpes zoster: là một nguyên nhân hiếm gặp khác.
  • Tràn khí màng phổi, tràn khí trung thất tự phát: những trẻ bị hen, mắc chứng .. dễ có nguy cơ bị biến chứng này.
  • Nhồi máu phổi: hiếm gặp ở trẻ nhỏ song có thể gặp ở các trẻ gái sử dụng các thuốc tránh thai, các trẻ trai tuổi vị thành niên mới bị chấn thương ở chi dưới và ở một số trẻ nhỏ bị não úng thủy đã phẫu thuật dẫn lưu. Những bệnh nhân này thường khó thở, đau ngực, sốt và ho ra máu.

Các nguyên nhân đau ngực do tim

Đau ngực do tim có thể do rối loạn chức năng thất vì thiếu máu cục bộ (các bất thường về cấu trúc tim như hẹp van động mạch chủ (ĐMC), hẹp van động mạch phổi (ĐMP) nặng, bệnh cơ tim phì đại tắc nghẽn, hội chứng Eisenmenger…), sa van hai lá, các bất thường về động mạch vành (ĐMV) bẩm sinh hay mắc phải (bệnh Kawasaki, bệnh tế bào hình liềm), nghiện cocain; phình và bóc tách ĐMC (trong hội chứng Turner, Noonan, Marfan…); tình trạng viêm nhiễm như viêm màng ngoài tim (do virus, vi khuẩn, thấp tim), viêm cơ tim cấp tính hoặc mạn tính, hội chứng sau mổ cắt màng ngoài tim. Cơn đau ngực điển hình là đau vùng trước tim dưới xương ức lan tối cổ và xương hàm. Đau có thể lan ra một hoặc cả hai tay, có khi lan ra sau lưng hoặc bụng. Bệnh nhân thường có cơn đau như bị một vật nặng đè nén, cảm giác như bị ngạt thở. Vận động, lạnh, cảm xúc hoặc một bũa ăn thịnh soạn thường những yếu tố liên quan tới cơn đau; các loạn nhịp tim (cơn nhịp nhanh trên thất, ngoại tâm thu thất dày).

Rối loạn chức năng cơ tim do thiếu máu cục bộ

  • Các bệnh tim bấm sinh: các tổn thương tắc nghẽn nặng như hẹp van ĐMC, hẹp dưới van ĐMC, hẹp van ĐMP, bệnh tắc nghẽn mạch phổi, phức hợp Eisenmenger… có thể gây đau ngực, do trong các bệnh này nhịp tim hoặc huyết áp tăng làm tăng nhu cầu oxy của cơ tim (các hẹp nhẹ thường không gây đau ngực). Chính vì thế, đau ngực tăng khi vận động và cơn đau ngực rất điển hình là một đặc điểm của các bệnh này. Khám sẽ thấy tiếng thổi tâm thu (TTT) lớn ở phía trên bò trái hoặc bờ phải xương ức, sờ thường thấy rung miu. Điện tâm đồ (ĐTĐ) có dấu hiệu dày các thất, có hoặc không có dạng tăng gánh tâm thu. Xquang thấy các dấu hiệu bất thường về kích thước tim và tình trạng các mạch máu lớn. Siêu âm 2D và Doppler sẽ xác định chính xác và mức độ nặng của các tổn thương tắc nghẽn. Điện tâm đồ gắng sức, giúp ích trong việc đánh giá chức năng thất và mức độ nặng của bệnh.
  • Sa van hai lá: sa van hai lá hay gặp ở bệnh nhân bị hội chứng Đau ngực thường mơ hồ, đau không liên quan hằng định với vận động và cảm xúc, cơn đau ngắn và thường đau ở vùng mỏm tim. Triệu chứng đau ngực do tình trạng thiếu máu cục bộ ở các cơ nhú, ở cơ tim và nội mạc thất trái. Đôi khi, các cơn nhịp nhanh thất, trên thất, những dị dạng cột sống và lồng ngực cũng có thể gây ra đau ngực ở những bệnh nhân này. Khám tim thấy tiếng click giữa tâm thu kèm theo một tiếng thổi cuối tâm thu. Điện tâm đồ thấy sóng T đảo ngược ở một số chuyển đọan. Siêu âm thấy hình ảnh sa van hai lá.
  • Bệnh cơ tim: bệnh cơ tim giãn hoặc phì đại có thể gây đau ngực do thiếu máu cục bộ. Đau ngực thường liên quan với vận động hoặc do các rối loạn nhịp tim. Triệu chứng thực thể của bệnh thường nghèo nàn, ít giá trị chẩn đoán. Điện tâm đồ và Xquang thường thấy các dấu hiệu bất thường bắt buộc người thầy thuốc phải làm tiếp các xét nghiệm và thăm dò. Siêu âm rất có giá trị chẩn đoán.
  • Bệnh mạch vành: đau ngực do bệnh lí mạch vành thường hiếm gặp ở trẻ em. Các bất thường mạch vành ở trẻ xuất phát bất thường của ĐMV trái từ ĐMP, rò ĐMP, phình hoặc hẹp ĐMV trong bệnh Kawasaki, suy ĐMV thứ phát sau các phẫu thuật tim. Biểu hiện lâm sàng là cơn đau thắt ngực điển hình. Khám có thể thấy tiếng TTT do hở van hai lá, hoặc tiếng thổi liên tục do lỗ rò, song đa số không thấy dấu hiệu gì. Điện tâm đồ thấy hình ảnh ST chênh lên (thiếu máu cục bộ hoặc nhồi máu cơ tim cũ). Xquang tim phổi có thể thấy các dấu hiệu gợi ý tình trạng bệnh lý này. Điện tâm đồ gắng sức cho thấy hình ảnh thiếu máu cơ tim. Mặc dù siêu âm giúp ích rất nhiều song chụp ĐMV thường được chỉ định để xác định chẩn đoán.
  • Nghiện cocain: nghiện cocain có nguy cơ thiếu máu cục bộ hoặc nhồi máu cơ tim. Cocain ngăn cản sự tái hấp thu catecholamin ở hệ thống thần kinh trung ương và thần kinh giao cảm ngoại biên, tăng các sản phẩm giao cảm và mức catecholamin lưu hành, dẫn đến co thắt mạch vành. Cocain cũng làm tăng hoạt hóa tiểu cầu trong một số trường hợp. Tình trạng tăng nhịp tim, tăng huyết áp, tăng tiêu thụ oxy của cơ tim, tăng hoạt hóa tiểu cầu và những bất thường về điện học cơ tim sẽ góp phần gây triệu chứng đau ngực.
  • Phình hoặc tách động mạch chủ: những bệnh nhân bị hội chứng Marfan, Turner, Noonan có nguy co bị phình hoặc tách ĐMC, nhưng phình tách ĐMC gây đau ngực.

Bệnh cơ tim và màng ngoài tim

  • Viêm màng ngoài tim: viêm màng tim sẽ kích thích màng ngoài tim gây đau. Viêm màng ngoài tim có thể do vi khuẩn, virus hoặc do thấp tim. ở những bệnh nhân mới tiến hành phẫu thuật tim mở, đau ngực có thể là biểu hiện của hội chứng sau mổ màng ngoài tim. Những trẻ lớn bị viêm màng ngoài tim thường kêu đau nhói như dao đâm ở vùng trước tim, đau tăng khi nằm và giảm khi cúi người ra phía trước. Điện tâm đồ thấy điện thế QRS giảm, thay đổi sóng T và đoạn ST. Xquang cho thấy tim to với các mức độ khác nhau. Siêu âm sẽ cho chẩn đoán chính xác về mức độ tràn dịch và tình trạng có ép tim hay không.
  • Viêm cơ tim: viêm cơ tim cấp tính thường ảnh hưởng cả tối màng ngoài tim nên cũng có thể gây đau ngực. Khám bệnh thấy bệnh nhân sốt, suy thở, tiếng tim nghe xa xăm hoặc yếu, có thể có tiếng cọ nhẹ, triệu chứng suy tim (gan to, tĩnh mạch cổ nổi, phù), mạch đảo. Xquang, ĐTĐ, siều âm đều rất hữu ích để đi tới chẩn đoán.
  • Các loạn nhịp tim: nhiều loại loạn nhịp tim có thể gây đau ngực, đặc biệt là các loạn nhịp nhanh, kéo dài. Đau ngực thường do thiếu máu cục bộ cơ tim. Theo dõi ĐTĐ, đặc biệt là Holter 24 giờ là rất cần thiết cho chẩn đoán và xử trí.

TIẾP CẬN CHẨN ĐOÁN

Bệnh sử

Cần chú ý khai thác thật tỉ mỉ về tính chất cơn đau, các triệu chứng kết hợp, các yếu tố liên quan tới cơn đau. Điều này bước đầu giúp thầy thuốc định hướng nguyên nhân đau ngực. Một số vấn đề cần chú ý khi thăm khám và hỏi bệnh sử là:

  • Đau ngực thường xảy ra trong hoàn cảnh nào? (tập luyện, ăn uống, chấn thương, cảm xúc…).
  • Tính chất cơn đau ra sao? (như kim châm, như dao đâm, như bị đè nén).
  • Đau ở vị trí nào? Mức độ nặng nhẹ? Hướng lan? Thời gian đau trong bao lâu?
  • Đau có liên quan tới nhịp thở, tư thế không?
  • Đau lần đầu hay thường xuyên?
  • Có bị chấn thương không?
  • Có những triệu chứng gì phối hợp (sốt, ho, hồi hộp, chóng mặt, ngất).
  • Đã điều trị bằng thuốc gì?

Tiền sử

Sau khi thu được các thông tin về tính chất cơn đau, cần khai thác một vài chi tiết quan trọng về tiền sử của trẻ và gia đình. Các vấn đề này gồm có bị bệnh tật gì liên quan? (bệnh tim bẩm sinh, tim mắc phải, mổ tim, các nhiễm trùng phổi, hen), gia đình mới có người bị bệnh tim, đau ngực, hoặc mới chết vì bệnh tim, có dùng thuốc gì không (thuốc tránh thai, cocain, thuốc lá).

Thăm khám

Cần đánh giá tình trạng chung của trẻ trước khi khám chi tiết. Phải khám lâm sàng hết sức cẩn thận và hệ thống để tránh bỏ sót các nguyên nhân không do tim có thể gây đau ngực như chấn thương, bệnh cơ, xương, hô hấp, tiêu hóa… Khi không tìm thấy các nguyên nhân này cần tập trung vào các nguyên nhân do tim, chú ý các triệu chứng như loạn nhịp, các tiếng thổi ở tim, tiếng cọ màng ngoài ở tim, tiếng ngựa phi, tiếng tim mờ… cần chỉ định các xét nghiệm và thăm dò tim mạch cơ bản như ĐTĐ, Xquang… để định hướng chẩn đoán. Nếu không phát hiện được các bất thường về tim mạch, cần nghĩ tới các nguyên nhân tâm lý hoặc đau ngực tự phát và có thể giải thích cho gia đình bệnh nhân yên tâm. Tuy nhiên, đôi khi phải theo dõi tiếp trong một thời gian đủ dài để xác định nguyên nhân. Có thể làm các test sàng lọc ở một số trẻ thành niên để phát hiện sử dụng cocain.

ĐIỀU TRỊ

Đau ngực do nguyên nhân cơ xương hoặc không có tổn thương thực thể chỉ cần nghỉ ngơi giảm đau bằng acetaminophen hoặc các thuốc chống viêm không steroid. Nếu do các bệnh hô hấp cần điều trị bằng thuốc giảm đau kháng sinh, chống viêm hoặc phẫu thuật. Do các bệnh lý tim mạch, tùy từng trường hợp cần chỉ định phẫu thuật hoặc điều trị nội khoa. Các thuốc hay dùng là chẹn giao cảm beta, chẹn dòng calci (nifedipin, nitrendipin), nitrat và các thuốc chống đông. Việc chỉ định điều trị phải do các bác sĩ chuyên khoa tim mạch đảm nhiệm.

Ba bước tiếp cận chẩn đoán

Bước 1: Chú ý phát hiện ba nguyên nhân đau ngực thường gặp viêm sụn sườn, nguyên nhân cơ xương và các bệnh hô hấp chiếm 45-65% các trường hợp đau ngực trẻ em. Khai thác kỹ tiền sử khám lâm sàng cẩn thận có thể chẩn đoán được các nguyên nhân này.

Bước 2: Tìm các nguyên nhân tim mạch cần phối hợp khám lâm sàng với Xquang, ĐTĐ, siêu âm hoặc các thăm dò chuyên sâu.

Bước 3: Tìm các nguyên nhân đau ngực tâm lý hoặc tự phát.

Một số trường hợp cần phải gửi đến các cơ sở chuyên khoa tim mạch trẻ em

  • Có cơn đau thắt ngực điển hình, khám thấy các triệu chứng bất thường ở tim, Xquang và ĐTĐ có các dấu hiệu không bình thường. Loại được các tiếng thổi tâm thu cơ năng sẽ hạn chế được việc chuyển bệnh nhân tới các cơ sở chuyên khoa.
  • Gia đình có người bị mắc bệnh cơ tim, hội chứng QT dài, một số bệnh di truyền hay liên quan với tim bẩm sinh.
  • Cơn đau ngực mạn tính hay tái phát gia đình và bản thân trẻ quá lo sợ vì đau ngực.

Bạn có thể dự đoán giới tính của em bé không?

Khi bạn mang thai, có thể bạn sẽ nghe những điều như thế này – đôi khi từ những người hoàn toàn xa lạ: “Bạn mang bụng thấp. Chắc chắn bạn sắp có con trai.” Hoặc: “Nếu bạn bị ốm nghén cả ngày, chắc chắn là con gái.”

Có những huyền thoại kỳ lạ hơn để dự đoán giới tính của em bé. Một trong số đó gợi ý rằng bạn treo nhẫn cưới từ một sợi tóc của người cha trên bụng. Một cái khác cho rằng bạn trộn nước tiểu của mình với Drano; màu sắc sẽ được cho là một manh mối về giới tính của em bé.

Bây giờ công nghệ y tế đã giúp xác định giới tính của một em bé chưa sinh với độ chính xác gần như hoàn toàn, tại sao những câu chuyện cổ xưa này vẫn tồn tại?

Internet và mạng xã hội ít nhất cũng một phần phải chịu trách nhiệm cho vòng xoáy tin đồn mang thai đang diễn ra. Những huyền thoại lan truyền qua không gian mạng, nhảy từ bài viết này sang bài viết khác với tốc độ chóng mặt.

Những người đọc những bình luận ngẫu nhiên đó có thể hiểu sai và cho rằng chúng là sự thật y khoa. “Đôi khi, mọi người coi trọng những gì được nói trực tuyến hơn cả lời khuyên của bác sĩ,” Sharon Mass, MD, một bác sĩ sản phụ khoa ở Morristown, NJ, và trợ lý giảng viên lâm sàng tại Đại học Y tế và Nha khoa New Jersey, nói.

Có tin hay không? Mặc dù hầu hết những huyền thoại về việc đoán giới tính em bé là vô hại, “Lời khuyên y tế của tôi dành cho các bệnh nhân là: Hãy chắc chắn rằng bạn biết nguồn gốc của những gì bạn chú ý hoặc chia sẻ,” Mass nói.

Các bậc phụ huynh mới — đặc biệt là những người mang thai lần đầu — có thể dễ bị tổn thương trước những tin đồn về thai kỳ, Eileen Beard, cố vấn thực hành cao cấp cho Hiệp hội Y tá Sản phụ khoa Hoa Kỳ, cho biết. “Bạn rất lo lắng về việc làm đúng và nhận được tất cả thông tin. Tôi nghĩ điều đó khiến bạn trở nên rất dễ bị tổn thương. Ngay cả những người thường không tin vào huyền thoại cũng có thể dễ dàng bị ảnh hưởng hơn.”

Một lý do khác khiến những huyền thoại dự đoán giới tính tồn tại là đôi khi chúng có vẻ đúng. Khi bạn nhìn vào xác suất 50/50, những dự đoán sẽ đúng một nửa thời gian. Và bất ngờ, ít nhất một vài trong số những phương pháp này có một số bằng chứng hỗ trợ.

Dưới đây là ý kiến của các chuyên gia về một vài trong những tin đồn dự đoán giới tính em bé phổ biến nhất.

Huyền thoại dự đoán giới tính em bé #1: Mang bụng thấp

  • Huyền thoại: Nếu bụng của bạn treo thấp (hoặc ở phía trước), bạn sẽ có con trai. Nếu bụng cao (hoặc rộng ở giữa), bạn sẽ có con gái.
  • Thực tế: Đây hoàn toàn là một huyền thoại. “Cách bạn mang bụng chỉ liên quan đến độ săn chắc của cơ bắp và vị trí của em bé,” Beard nói. Những yếu tố này, cùng với hình dáng cơ thể của bạn và số cân nặng bạn tăng trong thai kỳ — không phải giới tính của em bé — sẽ quyết định bụng của bạn ngồi cao hay thấp.

Huyền thoại dự đoán giới tính em bé #2: Nhịp tim

  • Huyền thoại: Nếu nhịp tim của em bé đập nhanh hơn 140 nhịp mỗi phút, đó là con gái.
  • Thực tế: Đây là một huyền thoại mà Mass cho biết bệnh nhân của cô hỏi hàng ngày, và có thể thực sự có một chút sự thật trong đó. Một nghiên cứu năm 2006 không cho thấy sự khác biệt giới tính nào trong nhịp tim thai nhi trong ba tháng đầu, nhưng Mass nói rằng điều đó không có gì đáng ngạc nhiên, vì tim của các em bé đập nhanh hơn trong khoảng 28 đến 30 tuần đầu tiên của thai kỳ. Sự khác biệt rõ ràng hơn vào giai đoạn sau của thai kỳ. Một nghiên cứu năm 1999 cho thấy trước khi sinh, nhịp tim của em bé gái thực sự đập nhanh hơn em bé trai. Mass nói cô thấy một xu hướng tương tự ở những bệnh nhân của mình.

Huyền thoại dự đoán giới tính em bé #3: Kiểm tra nhẫn

  • Huyền thoại: Treo nhẫn cưới của bạn từ một sợi tóc của người cha trên bụng của bạn. Nếu nhẫn xoay tròn, đó là con gái. Nếu nó lắc qua lại, đó là con trai. Một phiên bản thay thế của huyền thoại này khuyên bạn nên treo một chiếc ghim trên cổ tay của mẹ.
  • Thực tế: Không có bằng chứng thực sự để xác nhận hay phủ nhận điều này. Mass không thấy bất kỳ cơ sở khoa học nào cho nó, nhưng cô nói rằng những người theo y học cổ truyền Trung Quốc có thể giải thích việc treo nhẫn (hoặc ghim) như bằng chứng về các lực lượng tự nhiên của cơ thể đang hoạt động.

Huyền thoại dự đoán giới tính em bé #4: Kiểm tra Drano

  • Huyền thoại: Khuấy một ít Drano vào nước tiểu của bạn. Nếu hỗn hợp chuyển sang màu xanh, đó là con trai. Những thay đổi màu sắc khác cũng đã được đề xuất cho huyền thoại này, nhưng màu xanh là một trong những màu phổ biến nhất.
  • Thực tế: Mass không biết có lý do y khoa nào cho rằng hỗn hợp Drano-nước tiểu có thể dự đoán giới tính em bé. “Không có thay đổi nào trong độ axit hoặc kiềm của nhiễm sắc thể con trai hay con gái,” cô nói.

Những nghiên cứu ít ỏi đã được thực hiện về chủ đề này cũng phủ nhận tuyên bố này. Vào đầu những năm 1980, các nhà nghiên cứu tại Đại học Wyoming đã thực hiện thử nghiệm này trên 100 phụ nữ mang thai và nhận thấy kết quả “xấp xỉ bằng việc tung đồng xu” để dự đoán giới tính. Một nghiên cứu của Canada năm 1999 đã cho kết quả tương tự.

Ngay cả khi phương pháp này hoạt động, Drano là một hóa chất caustic — không phải là thứ bạn muốn chơi đùa hoặc hít vào trong khi mang thai, Beard nói.

Huyền thoại dự đoán giới tính em bé #5: Thích ăn ngọt

  • Huyền thoại: Một người phụ nữ mang thai thích ăn ngọt đang mang con trai. Nếu họ thích thức ăn chua, họ đang mang con gái.
  • Thực tế: Con trai của bạn có thể lớn lên với sở thích ăn ngọt, nhưng khi chúng ở trong bụng bạn, chúng sẽ không khiến bạn khao khát một chiếc kem hoặc thanh kẹo. Nếu bạn thèm ăn ngọt (hoặc bất kỳ loại thực phẩm nào khác), có thể là do hormone của bạn đã thay đổi và tăng cường khả năng ngửi của bạn.

Huyền thoại dự đoán giới tính em bé #6: Buồn nôn

  • Huyền thoại: Nếu bạn bị ốm nghén cả ngày, đó là con gái.
  • Thực tế: Huyền thoại này có thể có một chút sự thật trong đó. Các nghiên cứu đã tìm thấy rằng phụ nữ bị ốm nghén nặng, gọi là hyperemesis gravidarum, có nhiều khả năng sinh con gái.
  • Lý do? Mức độ hormone mang thai hCG, kích thích ốm nghén, thường cao hơn ở các bà mẹ mang thai con gái.

Nhưng bất kỳ ai mang thai cũng có thể bị ốm nghén, ngay cả khi ốm nghén nặng, khi họ mang con trai. Vì vậy, không, bạn không thể dựa vào việc có ốm nghén nặng để xác định đó có phải là con gái hay không.

Huyền thoại dự đoán giới tính em bé #7: Nhìn vào lịch

  • Huyền thoại: Lịch âm lịch của Trung Quốc có thể dự đoán giới tính của em bé dựa trên độ tuổi của mẹ khi thụ thai và tháng thụ thai.
  • Thực tế: Lịch âm lịch Trung Quốc đã được phát hiện trong một ngôi mộ hoàng gia 700 năm tuổi, và nhiều phụ nữ mang thai đã sử dụng nó và khẳng định tính chính xác của nó. Liệu cổ vật này có thể có một số khoa học hiện đại đứng sau không? Không nhất thiết. Theo những nhà nghiên cứu Canada đã thực hiện thử nghiệm Drano, lịch âm lịch không chính xác hơn trong việc dự đoán giới tính em bé (50/50) so với một sự đoán ngẫu nhiên.

Cách thực sự tìm ra Nếu bạn tò mò về giới tính của em bé, bạn có thể thực hiện siêu âm, thường được thực hiện trong khoảng từ tuần 18 đến 20 của thai kỳ. Miễn là kỹ thuật viên siêu âm của bạn có được một cái nhìn tốt giữa hai chân của em bé, quy trình chẩn đoán hình ảnh này sẽ có thể cho bạn biết giới tính của em bé với độ chính xác khoảng 80% đến 90%.

Chọc ối và lấy mẫu màng đệm (CVS) cũng có thể xác định giới tính của em bé với độ chính xác cao, nhưng những xét nghiệm xâm lấn này thường được dành cho những tình huống mà em bé có thể có rối loạn di truyền hoặc bất thường nhiễm sắc thể, chẳng hạn như hội chứng Down.

Các xét nghiệm di truyền mà nhiều văn phòng bác sĩ cung cấp sau 9 tuần mang thai cũng xem xét các nhiễm sắc thể giới tính và kiểm tra giới tính của em bé với độ chính xác 99%.

Tắc nghẽn đường hô hấp trên (Tắc nghẽn đường dẫn khí trên)

Tắc nghẽn không hoàn toàn

Chèn ép từ bên ngoài: bướu cổ, u cạnh khí quản, viêm trung thất.

Tắc nghẽn do bệnh ở bên trong đường hô hấp trên:

+ Tắc nghẽn cấp tính: ở trẻ em: viêm sụn thanh thiệt, áp xe khoang sau họng (sau hầu), viêm thanh quản giả bạch hầu, áp xe quanh amiđan, phù thanh quản (bị ong vò vẽ đốt).

+ Tắc nghẽn mạn tính: ung thư thanh quản, nhuyễn thanh quản, hẹp khí quản, liệt dây thanh âm cả hai bên. Thông thường không chẩn đoán được nguyên nhân tắc nghẽn không hoàn toàn đường hô hấp trên, và thường cho là bệnh nhân bị hen hoặc viêm phế quản mạn tính. Có thể nghe thấy tiếng rít ở thì thở vào (tiếng rít âm sắc cao nghe thấy trong thì thở vào) và hiện tượng co kéo (các khoang gian sườn bị kéo lõm sâu xuống trong thì thở vào). Đôi khi thấy dấu hiệu giảm oxy- huyết và tăng khí carbonic- huyết, đường biểu diễn tỷ lệ lưu lượng/thể tích bị thay đổi không bình thường. Điều trị triệu chứng.

Tắc nghẽn hoàn toàn

Do hít phải dị vật, nhất là những thức ăn không nhai (mảnh bánh mì, miếng thịt). Mặc dù bệnh nhân đã gắng sức, nhưng không khí hoàn toàn không qua được thanh quản và lồng ngực không chuyển động. Có thể điều trị tai biến cấp cứu này bằng thủ thuật Heimlich (xem thủ thuật này) và/hoặc đập vào vùng gian xương bả vai của bệnh nhân (vùng lưng nằm giữa bờ trong của hai xương bả vai), trong tư thế để bệnh nhân nằm sấp và đầu dốc. Sau đó phải cố gắng lấy dị vật ra khỏi họng bệnh nhân. Tránh không làm hô hấp miệng-miệng (thổi vào miệng bệnh nhân) để khỏi làm tăng áp lực đẩy dị vật tiến sâu thêm và mắc kẹt vào trong phế quản.

Tăng áp động mạch phổi phối hợp với HIV

Tăng áp động mạch phổi là một bệnh nghiêm trọng ảnh hưởng đến tuổi thọ, lại thường xảy ở những người bệnh trẻ tuổi. Mối liên quan giữa nhiễm HIV và sự phát triển tăng áp động mạch phổi đã được chứng thực rõ ràng (Mette 1992, Simonneau 2004). Tuy nhiên, bệnh sinh của mối liên quan này vẫn còn chưa được biết rõ. Nếu tiên lượng của nhiễm HIV đã được cải  thiện bởi HAART, thì tình trạng tăng áp động mạch phổi nặng vẫn đang trở thành một yếu tố làm ngắn tuổi đời (Nunes 2002).

Nguyên nhân, bệnh sinh, phân loại

Tăng áp phổi có thể được gây nên bởi co thắt mạch, giảm tính đàn hồi của động mạch bởi sự tái cấu trúc của thành mạch, nghẽn tắc mạch máu, và tình trạng số lượng mạch máu trở nên ít hơn. Tất cả các thể loại đều cho thấy những biến loạn chức năng (co thắt mạch thuận nghịch) và những biến đổi cấu trúc (tái cấu trúc mạch máu), thường xảy ra phối hợp với huyết khối trong lòng mạch. Tăng hậu tải tâm thất phải gây nên dày và/hoặc là dãn thất phải.

Người ta sử dụng 5 nhóm để phân loại tăng áp phổi mạn tính theo phân loại do World Symposium on Primary Pulmonary Hypertension ( Hội nghị Thế giới về chuyên đề Tăng áp phổi nguyên phát) trình bày năm 1998 tại Evian (có sửa đổi tại Venice năm 2003). Tăng áp phổi phối hợp với HIV thuộc nhóm số một (PAH = tăng áp động mạch phổi):

Tăng áp động mạch phổi (PAH=TAĐMP)

  • Tăng áp phổi nguyên phát
  1. Rối loạn từng ca tản mạn
  2. Rối loạn mang tính gia đình
  • Phối hợp với
  1. Bệnh chất tạo keo mạch máu
  2. Shunt động mạch chủ-phổi (phải-trái) bẩm sinh
  3. Tăng áp cửa

Tăng áp phổi phối hợp với HIV

  1. Thuốc
  2. TAĐMP tồn tại kéo dài ở trẻ sơ sinh

Tăng áp phổi được phân chia thành 3 giai đoạn lâm sàng

Tăng áp phổi tiềm ẩn được nhận dạng khi áp lực động mạch phổi (ALĐMP) trung bình < 21 mmHg với một sự gia tăng do gắng sức lên đến các trị số > 30 mmHg. Bệnh nhân than khó thở khi gắng sức. Trong tăng áp phổi có biểu hiện lâm sàng, ALĐMP trung bình vượt quá 25 mmHg khi nghĩ ngơi. Bệnh nhân đã thấy khó thở khi làm việc nhẹ. Tăng áp phổi nặng là khi cung lượng tim đã giảm rất trầm trọng khi nghĩ ngơi, và không thể tăng lên khi hoạt động do tăng hậu tải tâm thất phải. Do vậy, bệnh nhân không thể thực hiện bất kỳ hoạt động thể lực nào mà không gây suy chức năng.

Chẩn đoán

Luồn catheter tim phải

Để chẩn đoán tăng áp phổi mạn, dùng catheter tim phải vẫn còn được xem là tiêu chuẩn vàng. Nó cho phép định giá được các thông số chủ yếu của huyết động mạch máu phổi. Thông số chính là sức kháng mạch phổi, có thể vẫn bất thường ngay khi áp lực động mạch không bị tác động gì. Nên làm test thử nghiệm tính phục hồi thuận nghịch của co mạch ở giai đoạn tăng áp phổi có biểu hiện lâm sàng, để nhận biết các bệnh nhân còn đáp ứng với trị liệu dãn mạch.

Những “người còn đáp ứng” này được nhận biết khi dùng phương pháp bơm ôxy vào hoặc dùng thuốc dãn mạch trong khi luồn catheter tim phải. Ví dụ, khi cho hít khí nitric oxid vào, những người bệnh này cho thấy có giảm áp lực động mạch phổi chừng 30% và đồng thời cung lượng tim bình thường hoá trở lại.

ECG

Những biến loạn ECG do tăng áp phổi gây nên sẽ hiện diện sau khi khối cơ tim phải tăng lên gấp 2 lần. Các dấu hiệu đặc thù là:

  • Trục lệch phải (trục QRS trung bình > + 110°)
  • Tỷ R/S ở chuyển đạo V6 < 1
  • sóng S ở chuyển đạo I và sóng Q ở chuyển đạo III
  • sóng S ở chuyển đạo I, II và III
  • tăng biên độ sóng P (không bắt buộc).

X quang phổi

Tăng áp phổi có thể suy ra từ các dấu hiệu X-quang phổi:

  • Nhánh xuống động mạch phổi dãn rộng (đường kính > 20 mm)
  • Dãn động mạch phổi vùng trung tâm, đối nghịch với những động mạch phân nhánh bị hẹp lại
  • Các mạch máu phổi ngoại biên bị cắt bớt
  • Đường kính ngang của tim lớn ra và tăng vùng tiếp xúc sau xương ức của tâm thất phải

Siêu âm tim

Siêu âm tim cho phép nhận diện được dãn thất phải và ước tính được áp lực tâm thu động mạch phổi. Các dấu hiệu đặc thù là:

  • dày khối cơ tâm thất phải
  • những cử động vách tim bất thường
  • những khoảng cách tâm thu bất thường
  • những kiểu cử động bất thường của van động mạch phổi
  • kiểu dạng dòng phụt của tâm thất phải bị biến loạn (siêu âm tim Doppler xuyên lồng ngực).

Hình quét phổi thông khí-tưới máu, chụp mạch phổi và cắt lớp vi tính

Những kỹ thuật điện quang này được dùng để nhận biết hay loại trừ tăng áp phổi do huyết khối tắc mạch mạn tính (CTEPH=chronic thromboembolic pulmonary hypertension) và có thể hướng dẫn điều trị phẫu thuật. CTPEH là một chẩn đoán gián biệt quan trọng ở những bệnh nhân HIV nghiện thuốc tiêm tĩnh mạch thường hay bị huyết khối thuyên tắc mạch tái đi tái lại (hình 1).

Điều trị

Điều trị chung

Người ta đã lập ra nhiều phương án điều trị chung để xử trí tăng áp phổi dựa vào các số liệu đã thử nghiệm. Đó là:

  1. Lợi tiểu

Ở những giai đoạn cuối của tăng áp phổi, ứ nước có thể gây ra một sự gia tăng rất lớn tiền tải tâm thất phải tiếp theo là gan to xung huyết, phù và hình thành báng bụng. Sự tích giữ khối lượng nước không phải chỉ do suy tim phải mạn tính gây nên mà còn do kích thích hệ thống renin-angiotensin và do dó nồng độ aldosterone tăng cao. Vì lý do này, một phối hợp giữa lợi tiểu quai (như furosemide 20-80 mg mỗi ngày) và kháng aldosterone (như aldactone 50-200 mg mỗi ngày) đã được chứng minh là có hiệu quả. Cũng cần phải chú ý đến những chống chỉ định thông thường, cũng như nguy cơ thiếu nước do giảm quá nhanh và nhiều tiền tải tâm thất phải. Cần có một tiền tải khoảng 6-10 mmHg để hoạt động thất phải là tối ưu.

  1. Digitalis

Việc sử dụng digitalis vẫn còn cần được bàn cãi nhiều hơn. Theo một thử nghiệm mù đôi có đối chứng bằng giả dược, chỉ những bệnh nhân đồng thời bị tâm phế mãn và giảm chức năng thất trái mới hưởng lợi từ thuốc digitalis. Tuy nhiên, dùng digitalis luôn luôn là hợp lý trong trường hợp rối loạn nhịp nhanh nhĩ. Cũng cần lưu ý là digitalis có một khả năng gây loạn nhịp rất cao khi cùng có mặt với thiếu ôxy máu, từ đó có thể dẫn đến những biến chứng nghiêm trọng.

  1. Chống đông

Sau khi xem xét các chống chỉ định, việc sử dụng heparin hay các thuốc chống đông uống như là phenprocoumon và warfarin đã được công nhận trong điều trị tăng áp phổi mạn tính. Điều trị chống đông kéo dài nhằm vào những khía cạnh sau đây của sinh lý bệnh học TALĐMP:

  • tăng nguy cơ huyết khối tại chỗ gây nên bởi dòng máu bị biến đổi trong các mạch máu phổi hẹp lại và biến dạng
  • tăng nguy cơ huyết khối do ứ trệ tĩnh mạch ngoại vi, dãn thất phải và giảm hoạt động thể lực
  • giảm nồng độ thrombin và các sản phẩm thoái hoá fibrinogen lưu thông trong máu, những chất này được cho là hoạt động như những yếu tố tăng trưởng trong các quá trình tái cấu trúc mạch máu.

Nên hiệu chỉnh liều thuốc chống đông để duy trì thời gian prothrombin ở mức tỷ lệ bình thường hoá quốc tế (INR) là 2.5.Thuật giải điều trị tăng áp phổi tuỳ theo độ nặng và tính phản ứng mạch

HÌNH 1. Thuật giải chẩn đoán và điều trị: gợi ý những phương pháp chẩn bệnh khi nghi ngờ có tăng áp phổi (phỏng theo Arbeitsgemeinschaft Pulmonale Hypertonie). LUFU: lung function test = tét chức năng phổi; ABG: arterial blood gases = khí máu động mạch;

DLCO: CO diffusion capacity = khả năng khuếch tán CO.

  1. HAART

HAART được xem là một điều trị chung đối với tăng áp phổi phối hợp với HIV. Theo phân loại của CDC, tăng áp phổi là một biến chứng có triệu chứng và do vậy được xếp loại vào nhóm B. Nó hoàn toàn độc lập với số lượng tế bào CD4 và tải lượng virus, và có chỉ định bắt buộc điều trị kháng retrovirus. Đã có bằng chứng cho rằng tiên lượng của tăng áp phổi phối hợp với HIV được cải thiện với kết quả khả quan của trị liệu kháng retrovirus (Zuber 2004). Hơn nữa, tình trạng miễn dịch của nhóm nguy cơ cao này cần phải được tái lập sự ổn định để phòng ngừa nhiễm trùng toàn thân, nhất là viêm phổi.

Điều trị đặc hiệu

Mục đích của điều trị đặc hiệu là làm giảm áp lực động mạch phổi, từ đó làm giảm hậu tải thất phải. Những chất hiện nay được dùng trong điều trị tăng áp phổi hoặc đã được thử nghiệm trong những nghiên cứu lâm sàng là:

  • Các chất ức chế kênh calci
  • Prostanoids (tĩnh mạch, hít, uống, dưới da)
  • Các chất đối kháng endothelin (chọn lọc, không chọn lọc)
  • Các chất ức chế phosphodiesterase-5

Cộng thêm tác dụng tức thời gây dãn cơ, một vài chất dãn mạch (đặc biệt là prostanoid và chất ức chế phosphodiesterase-5) có vẻ có một tác dụng chống tăng sinh được duy trì liên tục.

  1. Các chất ức chế kênh calci

Hiện nay nifedipine và diltiazem là các chất ức chế kênh calci thường được sử dụng nhất. Khoảng 5-10% bệnh nhân tăng áp phổi nguyên phát được xếp vào nhóm gọi là “có đáp ứng”. Đáp ứng đối với thuốc ức chế kênh calci nên được đánh giá trong khi luồn catheter tim.

Bất lợi chính của thuốc ức chế kênh calci uống là tác dụng của chúng trên hệ tuần hoàn toàn thân. Dãn mạch ngoại vi gây hạ huyết áp và tác dụng cường cơ (inotropic) âm tính của chất ức chế kênh calci dẫn đến giảm cung lượng tim. Hơn nữa, tác dụng dãn mạch không chọn lọc trên tuần hoàn phổi có thể có những tác dụng bất lợi lên trao đổi khí do làm tăng sự mất cân đối thông khí – tưới máu. Trong điều trị lâu dài, người ta dùng đến liều 250 mg nifedipine hoặc 720 mg diltiazem. Liều cần được tăng dần dần hàng tuần để chỉnh liều điều trị.

  1. Prostacyclin tĩnh mạch

Giảm tổng hợp prostacyclin nội mạc mạch ở trong tổ chức phổi đã được mô tả ở những bệnh nhân bị tăng áp phổi (Christman 1992, Tuder 1999). Do vậy, thay thế bằng prostacyclin tổng hợp ngoại sinh rõ ràng là một phương án điều trị được lựa chọn. Do đời sống ngắn của thuốc, iloprost được truyền tĩnh mạch liên tục bằng bơm tiêm điện qua một catheter tĩnh mạch hay một cổng vào tĩnh mạch. Liều tĩnh mạch của iloprost được tăng dần dần đến một liều thường dùng là khoảng từ 0,5 đến 2,0 ng/kg/phút.

Điều trị bệnh nhân ngoại trú với prostacyclin tĩnh mạch hiện nay đã là một điều trị được chấp nhận cho việc chữa trị lâu dài tăng áp phổi nặng (Barst 1996, Sitbon 2002). Điều trị kéo dài với prostacyclin tĩnh mạch tạo ra lợi ích được duy trì liên tục về mặt huyết động trong điều trị tăng áp phổi nguyên phát (ví dụ như tăng áp phổi phối hợp với HIV).

Những bất tiện của prostacyclin là:

  • các tác dụng phụ toàn thân của chất dãn mạch không chọn lọc, như là hạ huyết áp động mạch, hạ huyết áp tư thế đứng, sung huyết da, tiêu chảy, đau hàm và đau đầu
  • nguy cơ suy tim phải cấp mất bù do thất bại ứng dụng điều trị
  • khả năng nhiễm trùng catheter
  • phản vệ

Thường hay gặp phản vệ khi dùng prostacyclin lâu dài và cần phải có những liều cao.

Kết luận: những kinh nghiệm dùng prostacyclin ở tăng áp phổi phối hợp với HIV được dựa vào những thử nghiệm nhỏ, không có đối chứng. Tuy nhiên, những nghiên cứu này lại gợi ý một sự cải thiện dự hậu của những người mắc bệnh (Aguilar 2000, Cea-Calvo 2003).

  1. Prostanoids dạng hít

Nhiều bất lợi của việc sử dụng đường tĩnh mạch có thể được phòng tránh bằng cách dùng prostanoids khí dung (ví dụ như Ventavis™ , một loại prostanoid mới được chứng nhận gần đây). Lắng đọng trong phế nang của prostanoids kích thích một phản ứng chọn lọc tại phổi. Iloprost hít lập lại nhiều lần đã được chứng minh là có hiệu quả và an toàn ở những bệnh nhân HIV âm tính trong một thử nghiệm ngẫu nhiên, đa trung tâm, có đối chứng giả dược (Olschewski 2002). Những bệnh được điều trị với iloprost đã cho thấy một sự cải thiện đáng

kể trong khả năng gắng sức, đo lường bằng test đi bộ 6 phút, cũng như trong phân loại NYHA.

Tác dụng của kiểu điều trị này trên tăng áp phổi phối hợp với HIV cũng đã được chứng minh trong một thử nghiệm lâm sàng khác ở trung tâm của chúng tôi (Ghofrani 2004). Những bất lợi của kiểu điều trị này bao gồm kỹ thuật khí dung quá phức tạp, thời gian tác dụng ngắn sau một lần dùng (60-90 phút), đòi hỏi phải hít thường xuyên (6-9 lần mỗi ngày), và khoảng thời gian không được điều trị về ban đêm. Mỗi ngày, người ta dùng 25-75 µg iloprost chia trong 6-9 lần hít.

  1. Các chất ức chế thụ thể endothelin

Một vài thử nghiệm đã chứng tỏ hiệu quả của các chất đối kháng endothelin chọn lọc và không chọn chọn lọc. Một thử nghiệm ở pha III trên thuốc đối kháng endothelin uống là bosentan đã cho thấy một sự cải thiện trong khả năng gắng sức và một sự gia tăng thời gian sống sót không có biến chứng của những bệnh nhân TAĐMP (Rubin 2002). Những liều được sử dụng biến động giữa 62,5 và 125 mg, 2 lần/ngày. Tác dụng phụ chủ yếu của trị liệu này là tăng men gan. Do vậy, rất cần kiểm tra nghiêm ngặt men gan. Cần xem xét cẩn thận khi dùng bosentan ở bệnh nhân đồng nhiễm HBV hoặc HCV/HIV.

Dựa trên những dữ kiện này, bosentan đã được chứng nhận cho điều trị tăng áp động mạch phổi ở Châu Âu. Do khả năng gây tăng men gan, cần phải kiểm tra thường xuyên các men gan. Một nghiên cứu không có đối chứng đã báo cáo những kinh nghiệm ban đầu trong việc dùng bosentan để điều trị tăng áp phổi phối hợp với HIV (Sitbon 2004).

  1. Các chất ức chế phosphodiesterase-5 (PDE5)

Sildenafil (Revatio™) là chất ức chế PDE5 đầu tiên được chấp nhận cho điều trị tăng áp phổi. Revatio™ cũng được chứng nhận cho điều trị tăng áp phổi phối hợp với HIV, mặc dù người  ta không khuyến cáo phối hợp dùng chung với các chất ức chế protease vì có khả năng tương tác thuốc do có chung một con đường chuyển hoá (cytochrome P450 cyp 3A)..

Kết luận dành cho thầy thuốc

Bệnh nhân HIV than phiền vì khó thở khi gắng sức nên được kiểm tra tìm tăng áp phổi sau khi đã loại trừ những bệnh tim hay bệnh phổi khác (như các rối loạn thông khí do hạn chế hay do tắt nghẽn, viêm phổi, bệnh mạch vành). Tỷ lệ tăng áp phổi đã tăng lên gấp 1.000 lần ở những bệnh nhân HIV so với cộng đồng dân số chung, không tính đến con số ước tính những ca bệnh không được báo cáo.

Một chẩn đoán nghi ngờ tăng áp phổi có thể được chứng minh bằng những phương pháp chẩn đoán không xâm lấn (như siêu âm tim). Bởi vì ngày nay đã sẳn có nhiều lựa chọn điều trị mới, rất cần phải có chẩn đoán chính xác.

Nên thực hiện việc chẩn trị thêm nữa đối với những bệnh nhân bị mọi thể loại tăng áp phổi ở trong những trung tâm chuyên biệt có kinh nghiệm điều trị tăng áp phổi và nhiễm HIV.

Tác dụng chữa bệnh của Cỏ tranh, cỏ gianh

Cỏ tranh

Tên khác:

Cỏ tranh săng, nhả cà, lạc cà (Tày), gan (Dao)

Tên khoa học: Imperata cylindrica (L.) Beauv.

Họ Lúa                 (Poaceae)

MÔ TẢ

Cây thảo, sống dai, có thân rễ cứng phủ nhiều vảy. Thân trên không mọc thẳng, có lông cứng và nháp. Lá hình dải, hẹp ngang, rất dài, nháp và gợn ở mặt trên và ở mép, nhẵn hoặc có lông cứng ở mặt dưới, bẹ lá mảnh, lưỡi bẹ mềm có lông dài.

Cụm hoa là những bông màu trắng, thuôn dài, có lông tơ mịn, mày mềm màu lục nhạt, hoa có 2 nhị, bầu màu nâu.

Mùa hoa quả gần như quanh năm.

Vị thuốc bạch mao căn
Vị thuốc bạch mao căn – rễ cỏ gianh

PHÂN BỐ, NƠI MỌC

Trên thế giới, cỏ tranh phân bố rộng rãi ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đổi thuộc châu Á, châu Phi, châu Mỹ, châu Đại Dương, một phần của châu Âu. ở châu Á, cỏ tranh có ở Trung và Nam Á, Đông Nam Á và phía nam Trung Quốc.

ở Việt Nam, cỏ tranh mọc hoang khắp nơi từ đồng bằng, trung du đến miền núi cao, kể cả ở hải đảo. Thường gặp trên các sa van, bãi hoang rộng, đồi, nương rẫy.

BỘ PHẬN DÙNG, THU HÁI, CHẾ BIÊN

Thân rễ, thu hái quanh năm, chỉ lấy những đoạn mọc ngầm dưới đất, đem về, rửa sạch đất cát, tước bỏ rễ con, rồi phơi hoặc sấy khô.

THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Thân rễ cỏ tranh chứa đường các loại, chủ yếu là glucose, fructose, protein, vitamin A và c, các hợp chất phenol, chất sesquiterpen.

Đặc biệt, hàm lượng kali trong thân rễ rất cao.

TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Qua nhiều thí nghiệm, thân rễ cỏ tranh có tác dụng lợi tiểu rất rõ rệt. về cơ chế tác dụng, chính là do muối kali có trong thân rễ với hàm lượng cao.

Ngoài ra, thân rễ cỏ tranh còn có tác dụng cầm máu, kháng khuẩn, an thần, giải nhiệt và giảm đau.

CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Thân rễ cỏ tranh, tên thuốc trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian là bạch mao căn, được dùng với tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, chỉ huyết, chữa cảm, sốt, khát nước, tiểu tiện khó, đái buốt, đái ra máu, phù nề.

Liều dùng hàng ngày: 10 – 20 g dưới dạng thuốc sắc.

Đôi khi, hoa cỏ tranh cũng được dùng riêng với tác dụng cầm máu với liều lượng 9 – 15g một ngày, sắc uống.

BÀI THUỐC

  • Toa căn bản: Thân rễ cỏ tranh (8g), rau má (8g), nhọ nồi (8g), cỏ mần chầu (8g), cam thảo nam (8g), ké đầu ngựa (8g), lá muồng trâu (4g), củ sả (4g), vỏ quýt (4g), gừng tươi (2g). Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400 ml nước còn 100 ml, uống làm hai lần trong ngày.

Thuốc có 6 tác dụng chính là nhuận tiểu, nhuận gan, nhuận tràng, nhuận huyết, giải độc và kích thích tiêu hóa.

  • Chữa bệnh nhiệt, nóng trong, khát nước, tiểu tiện khó: Thân rễ cỏ tranh (30g), sắn dây (20g). Hai thứ thái nhỏ, phơi khô, sắc uống trong ngày.
  • Chữa đái ra máu: Thân rễ cỏ tranh (30g), hạt mã đề (20g), sắc nước, thêm đường uống, ngày một thang.

 

Viêm màng cơ nhiễm bạch cầu ưa acid

Tên khác: hội chứng Shulman.

Triệu chứng

Mô da bị viêm và bị cứng (giống xơ cứng bì) ở mặt trước các chi, cơ bị co cứng khi co mạnh và thường khu trú ở bàn tay, khuỷu tay và vai.

Xét nghiệm cận lâm sàng

Tốc độ máu lắng nhanh, tăng bạch cầu ưa acid và globulin miễn dịch trong máu tăng, không có các kháng thể kháng nhân và các yếu tố dạng khớp.

Xét nghiệm bổ sung: chẩn đoán xác định bằng sinh thiết da và cơ, màng xương dày lên và bị thâm nhiễm tế bào lympho, tương bào.

Điều trị

Corticoid (prednisolon 0,5 mg/kg/ngày). Có người khuyên dùng cimetidin và hydroxychloroquin.