Blog Trang 552

Tiêm ngoài màng cứng – Phong bế ngoài màng cứng

Mục đích

Phong bế ngoài màng cứng là đưa thuốc vào khoang ngoài màng cứng, có tác dụng chống viêm, giảm đau thắt lưng và đaụ thần kinh hông to. Thủ thuật tiêm steroid vào khoang ngoài màng cứng đã được thông báo lần đầu tiên vào năm 1952.

Chỉ định

Thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng.

Hội chứng thắt lưng – hông do thoái hoá cột sống.

Chống chỉ định

Các bệnh lý toàn thân nặng.

Nhiễm khuẩn tại chỗ vùng da làm thủ thuật.

Bệnh nhân bị dị ứng với thuốc novocain hoặc lidocain.

Kỹ thuật

Chuẩn bị

Bệnh nhân: xét nghiệm thường quy, máu đông – máu chảy, thử phản ứng novocain. Bệnh nhân được giải thích về mục đích của thủ thuật.

Dụng cụ:

+ Săng có lỗ: 1 cái.

+ Gạc vô trùng, bông cồn iod, cồn trắng.

+ Một khay men vô trùng và một khay men hữu trùng.

+ Kim chọc ống sống thắt lưng cỡ 22 hoặc 25.

+ Bơm tiêm 10ml.

+ Thuốc gây tê novocain 1%, 3% hoặc 0,25%, 5ml.

+ Hydrocortison 125mg, ống 5ml.

+ Một số thuốc cấp cứu.

Tiến hành kỹ thuật

Tư thế BN nằm nghiêng, cổ gập vào ngực, cẳng chân gấp vào đùi và đùi gấp vào bụng.

Y tá tiến hành vô trùng tại vị trí chọc kim bằng cồn iod và cồn trắng tại khe liên đốt L4 – L5 hoặc L5 – S1.

Thầy thuốc trải săng vô trùng và tiến hành thủ thuật. Đưa kim vào khoang ngoài màng cứng, bơm thử không khí thấy nhẹ tay hoặc bơm một giọt novocain ở đốc kim, nếu mũi kim đã ở khoang ngoài màng cứng thì áp lực âm tính trong khoang sẽ hút giọt nước vào.

Pha 2ml hydrocortison với 3ml novocain, bơm vào trong khoang ngoài màng cứng.

Rút kim, băng vô trùng.

+ Yêu cầu bệnh nhân nằm nghỉ tại gưỡng.

Tư thế bệnh nhân sau khi tiêm

Sau khi tiêm bệnh nhân phải nằm nghiêng, bên đau ở dưới; nếu bệnh nhân đau 2 bên thì tư thế nằm ngửa.

Tai biến

Đưa kim vào khoang dưới nhện, DNT chảy ra. Xử trí như đối với bệnh nhân sau chọc ống sống thắt lưng (cho bệnh nhân nằm sấp, đầu thấp từ 2 – 4 giờ).

Áp – xe khoang ngoài màng cứng do không đảm bảo vô khuẩn trong quá trình thủ thuật.

+ Chảy máu tại vùng chọc kim do chọc vào mạch máu.

Triệu chứng và dự phòng bệnh Đái tháo đường type 1

PHÂN LOẠI

Có nhiều cách phân loại cho các dưới nhóm của bệnh đái tháo đường type 1.

Phân loại theo hình thái miễn dịch

type 1a: Chiếm 80%, thể này có các loại tự kháng thể kháng tế bào đảo thoáng qua ngay từ lúc khởi đầu của bệnh. Loại này ít khi kết hợp với bệnh tự miễn dịch nào khác, thường có các typ HLA – B15, HLA – DR4. Thường xảy ra sau khi bị nhiễm virus gây phá huỷ tế bào beta.

Typ1b: Các kháng thể kháng tế bào đảo dai dẳng với hàm lượng cao. Thường kết hợp với các rối loạn miễn dịch khác như bệnh lý tuyến giáp; bệnh tuyến vỏ thượng thận; giảm năng tuyến sinh dục, thiếu máu ác tính. Đa số người bệnh là nữ giới có typ HLA – B8 và HLA – DR3.

Phân loại theo diễn biến lâm sàng.

  • Đái tháo đường type 1 (tựmiễn dịch),gồm hai dưới nhóm:

Đái tháo đường type 1 thể không phụ thuộc insulin – giai đoạn này chỉ thoáng qua.

Đái tháo đường phụ thuộc insulin.

  • Đái tháo đường không do nguyên nhân tự miễn (typ 2),lại gồm ba dưới nhóm:

Đái tháo đường typ 2 phụ thuộc insulin – giai đoạn này cũng chỉ thoáng qua.

Đái tháo đường typ 2, không phụ thuộc insulin.

Đái tháo đường thể MODY.

  • Thể đặc biệt: Đái tháo đường type 1 không qua trung gian miễn dịch

Đây là những trường hợp đái tháo đường thiếu insulin nhưng không có bằng chứng tự miễn. Thể bệnh này có yếu tố di truyền rất rõ. Đặc điếm lâm sàng là có những đợt thiếu insulin xen những giai đoạn bình thường. Vì vậy người bệnh có những đợt cần insulin, xen lẫn những đợt không cần insulin để điểu chỉnh lượng glucose trong máu .

TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG

Triệu chứng lâm sàng

  • Đái nhiều.
  • Uống nhiều.
  • Gầy nhiều.
  • Dị cảm: Phản ánh tình trạng chức năng của thần kinh cảm giác ngoại vi.
  • Khi thiếu insulin nặng dẫn đến các triệu chứng nhiễm toan ceton nặng như : Mất nước, chán ăn, buồn nôn và nôn.
  • Khi áp lực thẩm thấu > 330 mOsm/l (bình thường áp lực thẩm thấu máu 285 – 295 mOsm/l), sẽ gây mất ý thức; nếu pH < 7,1 sẽ có các triệu chứng về rối loạn hô hấp như thở nhanh, thở sâu (kiểu Kussmaul) lúc này suy tuần hoàn có thể xảy ra.

Dấu hiệu lâm sàng

  • Tuỳ theo mức độ nhiễm toan ceton mà có tình trạng mất ý thức tương ứng.
  • Nôn: Thực ra nôn là dấu hiệu phản ứng lại tình trạng nhiễm toan ceton.
  • Trạng thái lơ mơ, ngủ gà, sững sờ, thậm chí hôn mê sẽ xảy ra. Các dấu hiệu mất nước ở người bệnh ngủ gà, nhịp thở nhanh sâu, hơi thở có mùi ceton, là những triệu chứng nhiễm toan ceton của người bệnh đái tháo đường.
  • Hạ huyết áp tư thế chứng tỏ sự suy giảm thể tích huyết tương, còn hạ huyết áp tư thế nằm là dấu hiệu nguy hiểm đến tính mạng người bệnh.
  • Mất mỡ dưới da, teo, nhẽo cơ là tình trạng thiếu insulin tịnh tiến lâu ngày.
  • Nếu khám có gan to, có các mảng u vàng ở bề mặt cơ gấp của chi, ở trên mông và tăng lipid huyết biểu hiện ở võng mạc, chứng tỏ thiếu insulin mạn tính đã gây hậu quả tới quá trình chuyển hóa chylomicron máu, làm tăng triglycerid trong tuần hoàn (>2000mg/dl).

Dấu hiệu cận lâm sàng

  • Xét nghiệm máu

Glucose máu tăng cao, thường trên 13,9mmol/l.

pH máu động mạch < 7,2.

Bicacbonat (huyết tương) <15mg/l.

Ceton máu tăng.

Tuỳ theo mức độ, nếu cơ thể bị nhiễm toan ceton có thể có cả ceton máu tăng cao, ceton niệu dương tính.

  • Xét nghiệm nước tiểu

Ceton niệu dương tính.

Tế bào niệu, nếu cần thiết phải cấy vi khuẩn niệu.

DỰ BÁO VÀ DỰ PHÒNG BỆNH

Dự báo bệnh

Dự phòng thành công tuỳ thuộc vào khả năng dự báo chính xác thời điểm phát sinh và phát triển của bệnh. Điều này có nghĩa là phụ thuộc vào việc phát hiện sớm các dấu hiệu chỉ điểm mà theo đó có thể nhận biết được mỗi giai đoạn của quá trình phát triển đái tháo đường type 1A.

Dự báo nguy cơ phát triển của bệnh đái tháo đường type 1A có thể được xem xét trước hoặc sau khi có khởi phát của quá trình tự miễn với tế bào beta. Trước khi các tự kháng thể phát triển, các yếu tố di truyền là phương tiện duy nhất hiện nay để đánh giá nguy cơ tiềm tàng.

Hiểu biết về tiền sử gia đình là có ích, nhưng chỉ một tỷ lệ nhỏ các trường hợp xảy ra trong gia đình có họ hàng thế hệ thứ nhất hoặc thứ hai bị đái tháo đường. Các hiểu biết ngày càng sâu về hệ thống HLA và khả năng định typ chính xác dựa vào PCR, cho phép người ta ngày nay đã có thể dự báo trên thực nghiệm chính xác hơn về nguy cơ xuất hiện bệnh.

Người ta cũng dựa trên những hiểu biết về một số haplotyp nhất định có tác dụng bảo vệ như (DQB10602), để phát triển những hướng phòng bệnh mới như tìm cách phát triển vaccin phòng bệnh đái tháo đường type 1.

Cũng dựa vào những nghiên cứu thực nghiệm, người ta còn tiến hành nghiệm pháp gây sốc, tạo ra những phản ứng kiểu như “sốc phản vệ” để phục hồi lại chức năng của tế bào beta trong điều trị bệnh đái tháo đường type 1A.

Sàng lọc di truyền trước khi các tự kháng thể phát triển

Trong số một số các vị trí di truyền có ảnh hưởng gây nguy cơ đái tháo đường type 1A, chỉ có các vị trí trên HLA là được mô tả đầy đủ đặc tính, để người ta có thể sử dụng cho các mục đích dự báo.

Deschamps và cộng sự, xem xét giá trị dự báo của định typ HLA trong một nghiên cứu gồm 536 anh chị em ruột của những người bị đái tháo đường ở Pháp. Nguy cơ đái tháo đường type 1A sau 8 năm, ước tính bằng phân tích dạng tồn tại cho thấy:

  • 10% đối với anh chị em ruột có HLA giống hệt với người bệnh đái tháo đường.
  •  Từ 3% đến 4% đối với anh chị em ruột có DR3 hoặc DR4;
  • 16% đối với những người có DR3/DR4 dương tính.

Kết quả này so sánh với 56% những người có ICA trên 4 đơn vị và 70% đối với những người có tổ hợp ICA và typ HLA nguy cơ cao nhất- tức là có DR3/DR4.

Trong những nghiên cứu khác, định typ phân tử phát hiện rằng haplotyp HLA DQA1*0102, DQB1*0602 có khả năng được xem là có khả năng “bảo vệ mạnh” cá thể khỏi mắc bệnh đái tháo đường type 1A theo kiểu trội.

Có những dữ liệu dựa trên quần thể tích luỹ về nguy cơ tuyệt đôi, đối với các typ HLA đặc biệt về phát triển tự miễn tế bào beta. Có ít nhất là trên 3 nghiên cứu hiện đang khảo sát vấn để này ở trẻ em được theo dõi từ khi sinh ra. Đó là nghiên cứu DAISY; nghiên cứu Colorado; nghiên cứu BABY-DIAB ở Đức và nghiên cứu Phần Lan (DIPP).

  1. Nghiên cứu DAISY theo dõi 2 thuần tập trẻ em có họ hàng thế hệ thứ nhất bị đái tháo đường type 1A và trẻ em mới sinh có họ hàng tương tự nhưng với các typ HLA nguy cơ cao hoặc trung bình.
  2. Nghiên cứu BABY-DIAB theo dõi con cái của những người bệnh bị đái tháo đường type 1A và
  3. Nghiên cứu Phần Lan theo dõi trẻ em có nguy cơ cao do typ HLA.

Tất cả các nghiên cứu đánh giá sự phát triển của các tự kháng thể tại các lần khám định kỳ, cũng như các phơi nhiễm môi trường (dinh dưỡng và nhiễm trùng).

Các dữ liệu sơ bộ từ DAISY và BABY-DIAB chỉ ra rằng trẻ em có typ HLA nguy cơ cao DR3/4(DQB1*0302) và những họ hàng thế hệ thứ nhất bị đái tháo đường type 1A có nguy cơ 20 – 40% phát triển tự kháng thể đến tuổi thứ 4.

Tỷ lệ những trẻ em có tự kháng thể dương tính sẽ phát triển đái tháo đường lâm sàng còn chưa được biết, nhưng phân tích dạng tồn tại ban đầu từ nghiên cứu DAISY cho thấy nó có thể cao đến 70% trong vòng 3 năm sau xuất hiện kháng thể đối với những họ hàng có DR3/4 (DQB1*0302).

Sàng lọc miễn dịch học

Sàng lọc miễn dịch có thể bao gồm các test cho cả miễn dịch qua trung gian tế bào (tế bào T) và miễn dịch qua trung gian kháng thể (tế bào B).

Người ta đều nhận thấy rằng, nếu tìm cách nào đó để tìm thấy sự có mặt của các dòng tế bào T đặc hiệu với tiểu đảo, thì có thể nhận diện được quá trình tự miễn ở giai đoạn sớm hơn xét nghiệm kháng thể. Tuy nhiên, cho đến nay kỹ thuật này chưa đủ hoàn thiện để trỏ thành một phương pháp dự báo tin cậy áp dụng vào lâm sàng. Mặt khác các test kháng thể hiện nay được mô tả đặc tính và chuẩn hóa tương đối tốt. Định lý Bayes phát biểu rằng một test sàng lọc sẽ có giá trị chuẩn đoán dương tính thấp hơn trong quần thể chung so với một nhóm được chọn lọc với tỷ lệ hiện mắc bệnh cao hơn, như họ hàng thế hệ thứ nhất, khi cho rằng độ đặc hiệu của test là như nhau ở hai quần thể.

Cho đến rất gần đây, nhiều phòng xét nghiệm đặt chỉ tiêu đánh giá nguy cơ đái tháo đường dựa trên test ICA bào tương, một xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang sử dụng các lát cắt tụy đông lạnh. Đã có nhiều hội thảo quốc tế nhằm xây dựng test chuẩn hóa này, test cũng đã được chuẩn hoá theo một đơn vị đo lường chung (JDF) để tiện so sánh giữa các phòng xét nghiệm. Test đã được sử dụng để xác định khả năng được chọn trong tất cả các thử nghiệm can thiệp ngẫu nhiên lớn về đái tháo đường type 1 được bắt đầu vài năm trước và hiện đang được sử dụng trên toàn thế giới. Sau đó người ta cũng đã phát hiện một số kháng nguyên tế bào tiểu đảo chính yếu bao gồm insulin, GAD và ICA512/IA-2, các xét nghiệm phóng xạ miễn dịch hiện nay nhạy hơn, đặc hiệu hơn test ICA (bảng 5.4).

Bảng 5.4. Dự báo đái tháo đường type 1A bằng các xét nghiệm tự kháng thể

Nghiên cứu dịa điểm Số người tham gia Test sử dụng Kết quả Ghi chú
Tiến cứu; Anh 101 họ hàng thế hệ cận kề; ICA >10JDF ICA, IAA, GAD, 37/40kd Ags Nguy cơ 10 năm của đái tháo đường: nếu > 2 thêm tư KT: 88% Đối tương đươc chon trên cơ sở ICẤ+
Bệnh chúng; Thuỵ điển 491 trẻ em mới CH đái tháo đường tuổi < 15; 415 trẻ em chứng ghép cặp GAD, IAA, ICA Độ nhạy của 3 tự KT: 24% Định typ HLA DQ cũng được làm; không cải thiện giá trị chẩn đoán
Bệnh chứng; Italy và Anh 100 case mới tuổi 1 – 40, 27 họ hàng thế hệ cận kề trước khỏi phát ICA, GAD, 37/40 kd Ags, carboxypeptidase, H, ICA 69 Kết hợp GAD + 37/40 kd nhận diện 90% case tương lai
Tiến cứu; Boston/Denver 882 họ hàng thế hệ c ận kề tuổi 0,1-77 (50 phát triển đái tháo đường type 1); 208 chứng tuổi 0,4 – 67,5 882 họ hàng thế hệ 1: 45 bệnh nhân mới khởi phát; 217 chứng ICA512bdc GAA, IAA (RIA); ICA (IIF) ICA512bdc, GAA, IAA Nguy cơ 5 năm đái tháo đường: test RIA

ằ 1 tư KT: 46%; > 2 tư KT: 68%

> 3 tư T: 100%; nếu ICA > 20 JDF đv: 51%

Họ hàng: nguy cơ 5 năm

0 tự KT: 0%

1 tự KT + : 15%;

2 tự KT +: 44%;

3 tự KT +: 100%; Bệnh: 76% +

về 2 tự KT; 98% + về 1 tự KT; Chứng: 0% + về > 1 tự KT

Trung vị theo dõi 2 năm tối đa 11,3 năm; ước tính nguy cơ dựa trên số tự KT, không bị ảnh hưởng khi đưa tuổi hoặc kết quả ICA, nhưng tăng lên bởi FPIRthấp

Điểm cắt: phân vị thứ 99 của nhóm chứng

Bệnh chứng; Oxford 256 cas mới khởi phát tuổi 0,7 – 20,7; 2.855 trẻ em hoc sinh tuổi 9 – 13,8 ICA, GAD, IA-2, IAA Bệnh tuổi >10: 89% + về > 2 tư KT. Chứng : 0,7% + về > 2 tự KT.

Nguy cơ 10 năm:

ICA + 7%; GAD + 7%

IA-2 + 6%;

IAA + 5%;

> 2 tự KT + 71%

Điểm cắt của xét nghiệm : 97,5 phân vị. Thừa nhận mức tự KT dạng cao nguyên đến tuổi 10
Bệnh chứng/tiến cứu; Bỉ 474 cas mới khởi phát tuổi 0 -39; 482 chứng; 481 anh chị em ruột ban đầu không bị đái tháo đường (4 phát triển đái tháo đường ) IA-2, ICA, GAD, IAA Bệnh:

+ > 1 tự KT 92%; + > 2 tự KT 81%. Trong NC tiến cứu, giá trị dự báo của IA-2: 57%

Định typ HLA-DQ cũng được làm; Theo dõi anh chị em ruột 6 -70 tháng

Bảng 5.4 tóm tắt giá trị chẩn đoán của sàng lọc miễn dịch học ở các nhóm họ hàng khác nhau hoặc thành viên của quần thể chung. Có hai cách tiếp cận chung đối với những nghiên cứu này:

  • Phương pháp thứ nhất sử dụng các nghiên cứu “bệnh – chứng”, trong đó những người mới được chẩn đoán đái tháo đường (nhóm bệnh) được xét nghiệm để xác định xem có bao nhiêu tự kháng thể có mặt trong huyết thanh của họ so với nhóm chứng không bị đái tháo đường. Vì tỷ lệ mắc mới đái tháo đường type 1 thấp trong quần thể chung, nghiên cứu bệnh chứng có thể là cách duy nhất khả thi để có được ước tính nguy cơ gián tiếp kết hợp với các tự kháng thể. Người ta theo dõi tỷ lệ tự kháng thể ở thời điểm sàng lọc và sau những thời gian nhất định, nhất là khi đái tháo đường được phát hiện trên lâm sàng. Các nghiên cứu bệnh chứng cũng có ích để làm sáng tỏ việc sử dụng những test như thế trong chẩn đoán lâm sàng đái tháo đường type 1A.
  • Phương pháp thứ hai sử dụng các nghiên cứu dọc – tiến cứu trong đó các đối tượng được sàng lọc về các tự kháng thể trước khi họ phát triển đái tháo đường và sau đó được nghiên cứu xem bao nhiêu người và khi nào sẽ phát triển thành đái tháo đường lâm sàng. Phương pháp này thích hợp cho các quần thể có nguy cơ cao hơn, ví dụ như ở họ hàng thế hệ cận kề của người mắc bệnh đái tháo đường .

Từ một số nghiên cứu có thể rút ra kết luận chắc chắn là nếu các test đa kháng thể được thực hiện, giá trị chẩn đoán của tổ hợp các test lớn hơn so với các test đơn độc. Các tổ hợp của các test đa kháng thể có sẵn hiện nay có giá trị dự báo cao sự phát triển đái tháo đường type 1A, đặc biệt ở lớp họ hàng thế hệ thứ nhất, trong đó có thể thu được giá trị chẩn đoán trên 90% trong 5 năm theo dõi nghiên cứu. Nhưng cho đến nay không có một trình tự chuẩn nào để đánh giá sự phát triển của các tự kháng thể trong quá trình tự miễn của tế bào beta, xảy ra trước khi đái tháo đường type 1 xuất hiện trên lâm sàng. Người ta chú ý nhiều đến các kháng thể khởi đầu, trong đó GAD và IAA được xem là tiêu biểu trong đáp ứng kháng thể có thể phát hiện được .

Thêm vào quá trình sàng lọc miễn dịch học, một số nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm dự báo chuyển hóa để ước tính thời gian phát triển đái tháo đường. Một mô hình đã được áp dụng để phân tích hai bộ dữ liệu độc lập từ những người bệnh ở ơoslin và Melburn, nhưng những kết quả thu được chưa đồng nhất.

Cho đến nay, ưu điểm duy nhất của sự hiểu biết về tăng nguy cơ bệnh là ngăn chặn tỷ lệ đau ốm và tử vong lúc khởi phát bệnh nhò những dự báo trước. Trong tương lai, khi những biện pháp can thiệp có hiệu quả đã sẵn sàng, thì việc tìm ra các biện pháp sàng lọc nhạy và đặc hiệu sẽ là khâu hết sức quan trọng trong việc thiết kế các chương trình phòng chống bệnh đái tháo đường, hạn chế tỷ lệ mắc mới.

Dự phòng

Tiến bộ trong nhận diện những người có nguy cơ phát triển bệnh đái tháo đường type 1A đã làm cho việc thiết kế các thử nghiệm dự phòng trở thành hiện thực. Hiện tại, những thử nghiệm dự phòng ở người chủ yếu dựa trên các quan sát thực nghiệm. Một thử nghiệm dự phòng thiết kê tốt có thể sử dụng kết quả cuối cùng là chẩn đoán bệnh đái tháo đường hoặc có thể đánh giá các kết quả khác, như sự phát triển của các tự kháng thể chẳng hạn. Khi thiết kế một chiến lược can thiệp đặc biệt, những điểm quan trọng là phải xem xét thời gian phòng bệnh, hiệu quả của liệu pháp, độc tính tiềm tàng hoặc tác dụng phụ, sự phức tạp của chế độ dự phòng và chi phí.

Theo quan điểm hiện nay các thử nghiệm dự phòng cho người đái tháo đường type 1 có thể chia ra 3 cấp:

  • Cấp một (tiền tự miễn);
  • Cấp hai (sau tự miễn, tiền đái tháo đường);
  • Cấp ba (khi đái tháo đường lâm sàng đã xuất hiện).

ở đây chỉ xin bàn đến dự phòng cấp 1 và cấp 2, còn dự phòng cấp 3, trong thực tế là dự phòng biến chứng sẽ được nói tới ở những mục khác.

Các thử nghiệm dự phòng cấp một

Vì sự giới hạn của hiểu biết về các cơ chế khởi phát của tự miễn và thiếu khả năng nhận diện các yếu tố nguy cơ di truyền đối với sự phát triển của bệnh tự miễn, chỉ mối có một số ít các thử nghiệm nhằm vào việc ngăn chặn sự phát triển của quá trình tự miễn. Những thử nghiệm được dự định bao gồm sự loại bỏ các yếu tố tiềm tàng gây đái tháo đường trong thời kỳ thơ ấu.

Ví dụ, vì có giả thuyết cho rằng các protein có trong sữa bò như albumin huyết thanh bò (BSA) có thể làm khởi phát quá trình tự miễn với tế bào beta ở thời kỳ nhũ nhi, một thử nghiệm tránh dùng sữa bò đang được tiến hành ở Phần Lan cho những người con của những người bệnh được chọn ngẫu nhiên. Những trẻ này nhận một chế độ ăn không có sữa bò sau khi dừng sữa mẹ.

Những thử nghiệm vaccin miễn dịch để dự phòng tự miễn kháng tiểu đảo cũng đang được thiết kế. Những nghiên cứu về insulin và các peptid của insulin, tương tự như những nghiên cứu trên các mô hình động vật cũng là những tiêu điểm đang được quan tâm.

Các thử nghiệm dự phòng cấp 2

Bảng liệt kê các thử nghiệm thăm dò được tiến hành ở người, bao gồm 3 loại tác nhân: cyclosporin, insulin và nicotinamid.

  • Người ta dùng phương pháp kết hợp insulin tĩnh mạch và dưới da để phòng ngừa bệnh đái tháo đường, trong 3 nghiên cứu thăm dò nhỏ. Các kết quả đã gợi ý có một tác động hạn chế phát triển bệnh đái tháo đường ở mức vừa phải, nhưng tác dụng của nó kéo dài đến tận năm theo dõi thứ năm. Ví dụ, sau 3 năm, hiệu quả ở thử nghiệm Boston vẫn còn là 80% và ở thử nghiệm Munich là 50%. Thử nghiệm ngẫu nhiên với cỡ mẫu lớn về dự phòng đái tháo đường bao gồm cả đường tĩnh mạch, đường uống cũng như một thử nghiệm qua đường mũi ở Phần Lan.
  • Những lý thuyết về tác động có thể có của nicotinamid, một dẫn suất của acid nicotin vitamin B3 quay lại vai trò của nó như một chất ức chế tổng hợp poly-adenosin diphosphat (ADP)-ribose và tác động của nó như một chất thu nạp các gốc tự do. Nó có thể kìm hãm sự huỷ hoại tế bào beta bởi đại thực bào đã được hoạt hóa và kìm hãm sự cảm ứng cytokin của các các kháng nguyên lớp II trên tế bào beta. sử dụng nicotinamid được thử nghiệm trong một thử nghiệm không đối chứng ở 3 cá thể mà tất cả họ sau này đều phát triển đến đái tháo đường. Một thử nghiệm nhỏ về nicotinamid đã chứng minh nó có khả năng bảo vệ các tế bào beta, khi sử dụng các nhóm nghiên cứu từ các châu lục khác nhau. Hai thử nghiệm ngẫu nhiên về nicotinamid ở những họ hàng thế hệ thứ nhất [Nghiên cứu can thiệp bằng nicotinamid ở Đức (DENIS) và thử nghiệm nicotinamid của châu Âu] đã được tiến hành, nhưng kết quả còn gây nhiều tranh cãi.

Như vậy các nghiên cứu đang tiến hành về các yếu tố di truyền và diễn biến tự nhiên của đái tháo đường type 1A đã bắt đầu cung cấp những thông tin cần thiết cho phép thiết kế những thử nghiệm ngăn chặn sự xuất hiện của quá trình tự miễn, nhằm ngăn chặn đái tháo đường type 1A phát triển.

Bảng 5.5. Các thử nghiệm có đối chứng để dự phòng đái tháo đường type 1 trong các quần thể người.

Sô tư liệu NC Địa điểm Người tham gia Can thiệp Ghi chú
1 Pháp và Boston Họ hàng thế hệ thứ 1; ICA > 20 JDF; FPIR thấp ; IGT

Điều trị: 6

Chứng: 9

Cyclosporin 7,5mg/kg 2l/ngày Không ngẫu nhiên
2 Boston và Denver (A) Họ hàng thế hệ 1, tuổi 7 – 40; IAẦ và ICA + FPIRthấp

Điều trị: 4 (tuổi 7-14)

Chứng: 7 (tuổi 7 – 36)

Insulin tĩnh mạch đợt 5 ngày mỗi 9 tháng; insulin dưới da hàng ngày, 2 liều Không ngẫu nhiên
3 Boston và Denver (B) Tiếp tục Boston và Denver (A) Điều trị thêm: 5 Chứng: 1 Giống như Boston và Denver (A) Ngẫu nhiên
4 Munich Họ hàng thế hệ 1; ICA > 20 JFD; FPIR thấp; OGT bình thường

Điều trị: 7

Chứng: 7

Insulin tĩnh mạch, đợt 7 ngày mỗi 12 tháng; insulin dưới da hàng ngày trong 6 tháng Ngẫu nhiên
5 Denver và Aukland Trẻ em < 16 tuổi; IGA > 80IU; HbA1c bình thường

Điều trị: 4 Denver, 10 Aukland

Chứng: 8 Denver

Nicotinamid 150 – 300mg/năm tuổi/ngày, 2 liều Không ngẫu nhiên
6 Aukland Trẻ em từ quần thể chung tuổi 5-8

Chon ngẫu nhiên vào nhóm điều trị: 33.658

Điều trị nếu ICA > 10 và đồng ý

Nhóm chúhg (48.335) không xét nghiệm, không điều trị

Nicotinamid uống 1g/ngày, 2 liều (1,5g nếu trên 10 tuổi)

Điều trị dừng nếu ICA <10 u sau 2,5 năm

Chọn ngẫu nhiên theo trường học, các truởng chứng không đuọc theo dõi

Các trường hợp đái tháo đường được khẳng định bằng đăng ký ở cộng đồng

DPT1- tiêm (đang tiến hành) USA Họ hàng thế hệ 1 tuổi 4 – 45 ;

Họ hàng thế hệ 2 tuổi 4 – 20;

ICA > 10 JDF; FPIR thấp; OGT bình thường; không DQB1*0602

Insulin tĩnh mạch 4 ngày, mỗi 12 tháng trong 3 – 5 năm, insulin dưới da 2l/ngày Ngẫu nhiên không mù
DPT1- uống (đang tiến hành) USA Giống như nhánh tĩnh mạch trừ FPIR thấp tuổi >3 Insulin uống, 5mg/ngày Ngẫu nhiên, mù
Endit

(đang tiến hành)

Châu Âu, Canada, USA Họ hàng thế hệ 1 tuổi < 40; ICA > 20 JDF ■ Nicotinamid uống Ngẫu nhiên, mù
DENIS

(kết thúc không hiệu quả)

Đức Họ hàng thế hệ 1 tuổi 3-12; ICA + Nicotinamid uống Ngầu nhiên mù

Kết luận

Đái tháo đường type 1A là một bệnh tự miễn mạn tính thường gặp. Bệnh gây ra những thương tổn nặng nề cho mỗi cá nhân về cả khía cạnh vật chất cũng như tinh thần, bệnh là một gánh nặng thật sự cho nền kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Sự phát triển và diễn biến của đái tháo đường type 1A rất phức tạp, người ta đã tạm chia ra một số giai đoạn với mục đích để nhận ra các mốc có thể can thiệp, nhằm ngăn chặn sự phát triển của giai đoạn tiếp theo.

Một số chiến lược dự phòng trên thực nghiệm đã chứng minh có thể thay đổi diễn biến tự nhiên của bệnh, những tiến bộ về công nghệ gen, các allel DQ và DR có thể được xét nghiệm nhanh chóng theo sự khuếch đại ADN bằng PCR từ một lượng rất nhỏ của máu hoặc chất dịch quệt từ miệng, đã giúp cho việc thiết lập các mẫu động vật thực nghiệm trở nên đơn giản hơn. Dựa vào sự phát triển của các liệu pháp dự phòng, ví dụ như phân tầng di truyền, có thể giúp thiết kế những thử nghiệm dự phòng về qui mô cộng đồng. Bước đầu những nghiên cứu này đã thu được những kết quả đáng khích lệ.

Dự báo miễn dịch học đái tháo đường type 1A cũng được cải thiện rất nhiều nhờ những tiến bộ trong kĩ thuật thăm dò, đặc biệt là phát triển các xét nghiệm phóng xạ các tự kháng thể kháng tiểu đảo và nuôi cấy dòng các kháng nguyên đặc hiệu. Xét nghiệm ICA đã tạo thuận lợi cho việc nhận diện những cá thể có nguy cơ cao và hình thành cơ sở cho hầu hết các thử nghiệm dự phòng hiện thời. ICA tỷ giá cao là một chỉ số có ích, phản ánh rõ ràng sự tiến triển đến đái tháo đường trong quần thể. Tuy nhiên, với việc sử dụng một loạt 3 tự kháng thể (các tự kháng thể phản ứng với GAD65, insulin và ICA512/IA-2) khả năng dự báo nguy cơ đái tháo đường trong những người họ hàng thuộc thế hệ cận kề của người mắc bệnh đái tháo đường đã tăng lên rõ rệt.

Hiện thời, yếu tố dự báo tốt nhất của đái tháo đường type 1A tương lai là biểu lộ đa tự kháng thể được xác định bằng phương pháp hóa sinh. Nhưng điểm đáng lưu ý là khoảng 90% trẻ em phát triển đái tháo đường type 1 không có họ hàng thế hệ thứ nhất bị mắc bệnh này. Vì thế câu hỏi ai là người được tiến hành sàng lọc miễn dịch vẫn luôn là một thách đố; bởi vì chúng ta không thể và không bao giờ có thể tiến hàng sàng lọc ở tất cả các trẻ em.

Sự phát triển của các xét nghiệm hóa sinh trong tìm kiếm các tự kháng thể cũng góp phần làm tăng khả năng dự báo đái tháo đường trong quần thể. Bằng cách đặt điểm cắt lớn hơn phân vị thứ 99 của nhóm chứng bình thường, khoảng 3% cá thể trong quần thể chung có biểu lộ một tự kháng thể (GAD65, insulin hoặc ICA512/IA-2); khoảng 1/300 cá thể trong quần thể chung biểu lộ > 2 tự kháng thể. Trong số những người bệnh với đái tháo đường type 1 mới khởi phát, 80% biểu lộ > 2 trong số các tự kháng thể đã kể trên. Như thế khi sàng lọc quần thể chung, nếu một cá thể có > 2 tự kháng thể (hoặc IAA, GAA, ICA512/IA- 2) sẽ đảm bảo độ đặc hiệu về bệnh cao, với độ nhạy khoảng 80%.

Phương thức chủ yếu để đánh giá nguy cơ chuyển hóa đối với sự tiến triển đến đái tháo đường type 1A là test dung nạp glucose đường tĩnh mạch. Bài tiết insulin pha đầu thấp, thường được định nghĩa là từ phân vị thứ 10 đến thứ 1 của nhóm chứng bình thường. Dấu hiệu này có trước khi đái tháo đường type 1A có biểu hiện lâm sàng thường từ 1 – 5 năm. Nếu nghiên cứu được tiến hành ở những người họ hàng của người mắc bệnh đái tháo đường mà lại có biểu lộ một tự kháng thể duy nhất được xác định bằng phương pháp hóa sinh, thì nguy cơ tiến triển đến đái tháo đường là trên 90% trong 3 năm sau đó.

Nhưng ngay trong số những người họ hàng thế hệ cận kề có biểu lộ đa tự kháng thể, thì khả năng bài tiết insulin vẫn còn được bảo tồn trong suốt thời gian bệnh không có biểu hiện lâm sàng. Như vậy, ngoài việc đánh giá khả năng bài tiết insulin ở pha đầu, các nồng độ tự kháng thể kháng insulin cũng được sử dụng như một chỉ số dự báo thời điểm khởi phát của bệnh đái tháo đường. Người ta cũng đã chứng minh được nồng độ kháng thể kháng insulin thường là cao nhất so với các loại tự kháng thể khác ở những trẻ em bị mắc bệnh đái tháo đường type 1A dưới 5 tuổi.

Bố trí môi trường chơi an toàn cho trẻ để tránh nguy hiểm

Môi trường của trẻ ở bên ngoài ngôi nhà sẽ khó kiểm soát hơn so với không gian bên trong, do đó bạn cần luôn luôn theo dõi, giám sát trẻ để đảm bảo sự an toàn cho con.

Khi con đi ra ngoài, luôn nhớ thoa kem chống nắng với chỉ số chống nắng (SPF) lớn hơn 30 cho bé, và phải thoa trong vòng ít nhất là từ 15-30 phút trước khi cho bé ra khỏi nhà, cũng như đều đặn thoa lại sau đó. Bạn nên cho bé mặc những loại quần áo thoải mái, với chất vải nhẹ che toàn thân bé, và đội mũ để che đầu và tai cho bé. Ngoài ra bạn cũng có thể cho bé đeo kính chống nắng để bảo vệ bé khỏi tia tử ngoại.

Sân vườn

Ngay khi con bạn đã đủ lớn để có thể chơi ngoài trời, bạn cũng nên thiết kế sân chơi để đảm bảo an toàn cho bé như đã làm với ngôi nhà của mình.

  • Nếu sân nhà bạn không có hàng rào, hãy dạy cho bé nhận biết những ranh giới mà bé không được vượt qua, đồng thời luôn luôn phải có người có trách nhiệm canh chừng bé.
  • Khi bạn nấu đồ ăn ngoài trời, luôn có lồng bảo vệ lò để bé không sờ vào được, và giải thích cho bé hiểu chiếc lò này cũng nóng như bếp trong phòng bếp. Các loại lò dùng khí propane phải được cất cẩn thận khi không sử dụng để bé không nghịch được các núm vặn bếp, còn phần thân sau khi dùng xong phải được làm nguội hoàn toàn trước khi đổ bỏ.
  • Kiểm tra trong sân có loại cây nào có độc hay không, đồng thời các loại nấm, những thường xuân độc và các loại cây có nguy cơ gây hại khác cũng cần phải được nhổ bỏ. Bạn cần dạy cho trẻ rằng không được ăn bất kì thứ gì mà trẻ tìm thấy trong vườn, trừ khi bạn nói rằng thứ đó an toàn. Những loại cây có độc hay xuất hiện trong vườn và sân của các gia đình gồm có cây hoa mao lương vàng (buttercups), củ của cây thủy tiên, cây thường xuân của Anh, cây nhựa ruồi, cây tầm gửi, lá của cây cà chua, phần thân bò của dây khoai tây, cây họ đỗ quyên và lá cây đại hoàng. Các loại dâu có màu sáng và sặc sỡ thường đặc biệt hấp dẫn trẻ em, song lại có rất nhiều loại dâu có độc, do đó bạn cần luôn luôn để mắt đến trẻ để chúng không cho những loại này vào miệng.
  • Hãy dạy cho trẻ cách nhận biết và tránh xa thường xuân độc, cây sồi và cây sumac.
  • Nếu bạn sử dụng thuốc trừ sâu hoặc thuốc diệt cỏ cho vườn hoặc bãi cỏ nhà mình, hãy đọc kĩ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng. Nếu bạn hoặc hàng xóm nhà bạn dùng các sản phẩm này, hãy luôn giữ trẻ chơi trong nhà khi đang phun thuốc. Còn khi bạn đang cắt cỏ, tốt nhất là cũng không cho trẻ ra ngoài.
  • Không bao giờ cho trẻ chơi một mình ở gần đường giao thông, và không cho phép trẻ tự sang đường, thậm chí cả khi đó chỉ là sang đường để đi lên xe buýt trường học đang đến đón.

Sân chơi và các thiết bị đồ chơi ngoài trời

  • Không nên để trẻ dưới 5 tuổi chơi chung với các trẻ lớn hơn khi chơi các thiết bị đồ chơi ngoài trời.
  • Hãy đảm bảo rằng ở bên dưới các loại xích đu, bập bênh và các thiết bị đồ chơi vận động và leo trèo luôn có một lớp đệm bằng cát, hoặc bằng mảnh gỗ vụn hay bằng cao su với một độ dày nhất định và thường xuyên được bảo dưỡng.
  • Các kết cấu bằng gỗ phải được làm từ loại gỗ bền chắc dưới mọi điều kiện thời tiết và bạn nên thường xuyên kiểm tra bề mặt của chúng để đảm bảo chúng luôn trơn láng. Các kết cấu bằng kim loại có thể trở nên đặc biệt nóng trong các tháng mùa hè.
  • Luôn cho trẻ đi giày khi chơi trên sân chơi.
  • Nên kiểm tra định kỳ các thiết bị đồ chơi để phát hiện kịp thời nếu có những chỗ bị lỏng khớp nối, những chỗ mắt xích bị hở làm cho xích bị lỏng ra, hoặc những chỗ móc bị rỉ sét. Bên cạnh đó, những bộ phận bị chìa ra cũng cán phải được phát hiện và sửa lại để không làm quần áo trẻ bị móc vào đó, những chỗ đinh vít bị phơi ra ngoài trời hay bị rỉ cũng cần được bọc bằng cao su bảo vệ. Nếu bạn phát hiện ra sự xuống cấp có thể dẫn đến nguy hiểm của các thiết bị này ở nơi công cộng, hãy báo cho nhà chức trách có trách nhiệm.
  • Các xích đu luôn phải nhẹ nhưng chắc chắn, với chỗ ngồi được lót nệm cao su hoặc nhựa, và xung quanh phải có hàng rào để ngăn không cho trẻ nhỏ chạy vào gần xích đu.
  • Không để trẻ nhỏ dưới 4 tuổi trèo lên các thiết bị leo trèo có chiều cao lớn hơn chiều cao của trẻ mà không có sự giám sát chặt chẽ của người lớn.
  • Không để trẻ trèo lên phần máng trượt của cầu trượt, thay vào đó hãy yêu cầu các bé phải đi lên ở phía có bậc thang, và phải ra khỏi vị trí cầu trượt ngay khi trượt xuống dưới đáy.
  • Không nên để trẻ trong độ tuổi từ 3-5 chơi bập bênh, trừ khi bé chơi trò này với trẻ có cùng cân nặng và ở cùng độ tuổi.
  • Không nên để trẻ nhỏ chơi trò nảy trên mâm nảy. Hàng năm có khoảng 100.000 trẻ em Mĩ bị thương khi chơi trò này, trong đó nhiều em bị gãy xương, chấn thương đầu, chấn thương tủy sống và bong gân. Những trẻ lớn hơn có thể chơi khi đã tham gia các chương trình huấn luyện cho các trò thể thao thi đấu như thể dục dụng cụ hoặc lặn, và chỉ chơi khi có sự giám sát của các chuyên gia.Bố mẹ cần chú ý gì khi cho trẻ em đi xe đạp

Khi ở trong xe ôtô

Hàng năm, có hơn 5.000 người Mĩ gồm trẻ em, vị thành niên dưới 21 tuổi bị chết trong các vụ đâm xe ô tô. Số trẻ em bị thương còn nhiều hơn con số này, và trong 18 ca phải nhập viện và 400 ca phải điều trị y tế, thì lại có một ca tử vong. Để phòng tránh những thương tích không đáng có, các bậc cha mẹ cần chú ý áp dụng đúng những chỉ dẫn an toàn sau cho trẻ.

Ngay khi sinh ra, trẻ đã nên được chuẩn bị sẵn một chiếc ghế an toàn để ngồi trên xe ô tô đáp ứng mọi tiêu chuẩn hiện hành. Ngoài ra, hãy luôn ghi nhớ những điều sau để giữ an toàn cho trẻ khi ngồi trong xe:

  • Luôn để trẻ dưới 13 tuổi ngồi ở hàng ghế sau, vì đó là vị trí an toàn nhất cho trẻ.
  • Luôn tuân thủ đúng theo các hướng dẫn của nhà sản xuất khi lắp ghế ngồi ô tô cho trẻ nhỏ, và phải kiểm tra để đảm bảo ghế đã được lắp chắc chắn vào xe. Kiểm tra bằng cách lắc thử chiếc ghế, nếu dây an toàn của xe vẫn lỏng và khiến ghế có thể dịch chuyển sang hai bên hoặc từ trước ra sau một khoảng hơn 2,5 cm, thì ghế chưa được lắp đủ chắc. Đồng thời, luôn kiểm tra để đảm bảo ghế đã được neo chắc chắn vào dây an toàn hoặc hệ thống neo và đai an toàn phía dưới dành cho trẻ nhỏ của ô tô (LATCH) trước khi khởi hành. Nếu bạn làm mất sách hướng dẫn hoặc cần tìm hiểu thêm thông tin về các loại ghế đã bị thu hồi, hãy liên hệ với nhà sản xuất, hoặc bạn có thể tải các hướng dẫn lắp đặt ghế từ các trang web điện tử của nhà sản xuất.
  • Tất cả trẻ em phải được đặt ngồi và thắt đai an toàn đúng cách trong ghế ngồi ô tô cho trẻ nhỏ, hoặc trên ghế nâng (với trẻ lớn hơn), hay với đai an toàn của xe thắt ở cả vai và bụng (với trẻ đã đủ chiều cao và cân nặng để ngồi được ghế của xe), tùy theo độ tuổi và kích thước cơ thể trẻ.
  • Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ (cho đến khi được ít nhất là 2 tuổi hoặc cho đến khi đã có chiều cao và cân nặng chạm mốc lớn nhất mà nhà sản xuất đưa ra – thường là trẻ sẽ đạt được khi được 2 tuổi) cần được đặt trong ghế ngồi cho trẻ nhỏ loại quay ngược lại với chiều của ghế xe, và phải được cài đầy đủ đai an toàn của ghế. Đây là cách ngồi tốt nhất cho trẻ, do đó trẻ nên được đặt ngồi theo cách này càng lâu càng tốt. Những trẻ có chiều cao và cân nặng vượt mức cho phép để ngồi ghế xe loại này có thể vẫn tiếp tục được đặt ngồi quay ngược lại với hàng ghế của xe trong loại ghế có thể đảo chiều.
  • Khi kích thước của trẻ đã quá lớn so với loại ghế ngồi cho trẻ nhỏ loại quay ngược lại với chiều của ghế xe, bạn nên mua ghế ngồi cho trẻ nhỏ loại cùng chiều với ghế xe, kèm theo bộ đai của ghế và trẻ nên ngồi trong loại ghế này cho đến khi chiều cao và cân nặng đã đủ để thay loại ghế khác theo chỉ định của nhà sản xuất. Các dòng ghế loại này gồm có ghế có thể đảo chiều, ghế 3 trong 1, hoặc loại ghế chỉ có thể lắp cùng chiều với ghế của xe, hoặc ghế đa năng. Bạn có thể xin ý kiến tư vấn từ bác sĩ nhi hoặc một kỹ thuật viên an toàn hành khách trẻ em (Child Passenger Safety Technician – CPST (Mĩ)) để có được sự lựa chọn tốt nhất cho trẻ và phù hợp nhất với xe của bạn. Bạn có thể tìm cho mình một CPST gần khu vực sinh sống bằng cách truy cập vào trang web điện tử.
  • Khi trẻ đã đạt đủ chiều cao và cân nặng theo số chỉ định của nhà sản xuất, trẻ có thể dùng loại ghế nâng lắp cố định vào ghế xe bằng dây đai an toàn, và sẽ dùng chúng cho đến khi vòng bụng và vai của trẻ đủ lớn để khớp với các dây an toàn cho vai và bụng của xe. Khi đó, nếu đặt trẻ ngồi trong ghế bình thường của xe, thì dây đai chéo của xe sẽ nằm vắt ngang phần vai, chứ không phải phần cổ của trẻ, và phần đai bụng sẽ vừa khít với phần hông phía dưới. Đa số trẻ sẽ đạt được các yêu cầu này khi tới tầm 8-12 tuổi, và chiều cao của trẻ vào khoảng l,5m.
  • Luôn nhắc mọi người ngồi trên xe phải thắt dây an toàn để làm gương và tạo thói quen tốt về lâu dài cho trẻ.
  • KHÔNG BAO GIỜ được để trẻ mới sinh, trẻ sơ sinh, hoặc trẻ nhỏ ở một mình trong xe, vì chỉ cần một khoảnh khắc ngắn ngủi cũng đủ để trẻ tự khóa cửa xe từ phía trong, sang sổ xe, nhả phanh khẩn cấp, tự làm bỏng bằng bật lửa trên xe, hoặc bị quá nhiệt. Nếu bạn thấy có trẻ nhỏ ở một mình trong xe, hãy gọi hỗ trợ khẩn cấp, vì bé có thể bị quá nhiệt rất nhanh và tử vong vì bị tăng thân nhiệt ngay cả khi nhiệt độ ngoài trời khá mát mẻ.

Xe đẩy

Một chiếc xe đẩy chắc chắn thật sự rất có giá trị. Bạn nên chú ý đến các đặc điểm an toàn của xe khi mua như phần đế chắc chắn sẽ giúp xe không bị lật, cũng như loại có đai ở 5 điểm sẽ giúp trẻ được an toàn hơn. Ngoài ra, hãy tuân theo các chỉ dẫn sau:

  • Luôn dùng phanh chốt xe khi bạn dừng và phải đảm bảo trẻ không với tới bộ phận nhả phanh được. Loại xe có phanh hai bánh sẽ giúp tăng thêm độ an toàn.
  • Luôn giữ khoảng cách an toàn với trẻ trong khi bạn đóng, mở xe và phải đảm bảo xe được chốt ở vị trí mở hoàn toàn khi đặt trẻ vào trong, vì trẻ có thể bị kẹp ngón tay vào phần khớp nối của xe, làm cả xe và bánh xe bị gập lại.
  • Không nên treo các loại túi xách ở phần tay cầm của xe, vì chúng có thể làm xe bị nặng và lật.
  • Nếu bạn dùng xe đẩy đôi, hãy mua loại có phần để chân nối liền giữa hai xe, vì loại rời sẽ có thể làm chân trẻ bị mắc vào khoảng hở ở giữa.
  • Nếu bạn mua loại xe đẩy có chỗ cho trẻ lớn ngồi ở phía sau, hãy luôn chú ý đến những chỉ dẫn về trọng lượng và trông chừng để các bé không quá nghịch ngợm dẫn đến làm xe bị lật.

Bể bơi và an toàn dưới nước

Nước là một trong những mối nguy hiểm lớn mà trẻ sẽ phải đối mặt. Đuối nước là nguyên nhân gây ra tử vong do chấn thương phổ biến thứ hai ở trẻ em trong độ tuổi từ 1 -14 tuổi tại Mĩ, trong đó nhóm có nguy cơ cao nhất là trẻ từ 1-4 tuổi. Đuối nước không tử vong có thể khiến trẻ phải nhập viện và gặp phải những tổn thương não vĩnh viễn.

Do đuối nước thường xảy ra rất nhanh và không gây nhiều tiếng động, nên những chú ý về an toàn khi ở gần môi trường nước là tối quan trọng. Mọi người đều nên học để biết bơi và biết các nguyên tắc an toàn cơ bản.

Nước là một môi trường nguy hiểm nên Viện Hàn lâm Nhi khoa Mĩ tin rằng các bậc cha mẹ không bao giờ, dù là chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, được để trẻ ở một mình gần những khu chứa nước dạng mở như hổ, bể bơi, hoặc gần những chỗ có nước ở trong nhà như bồn tắm, bể bơi đặt trong sân nhà, và bồn tắm thư giãn (spa). Người lớn khi có trách nhiệm trông trẻ phải tuân theo qui tắc “giám sát trong tầm tay” (tức là không để trẻ ra xa khỏi bạn một khoảng cách lớn hơn chiều dài một cánh tay trẻ) bất kể khi nào trẻ nhỏ ở trong, hoặc gần chỗ có nước. Các bậc cha mẹ đều nên học thủ thuật hồi sinh tim-phổi (CPR), và luôn đặt các thiết bị cấp cứu như phao cứu sinh và điện thoại ở gần bể bơi. Sau đây là một vài lời khuyên về an toàn dưới nước cho trẻ:

  • Không nên ngộ nhận rằng trẻ cứ biết bơi là hoàn toàn được an toàn khi ở dưới nước.
  • Trẻ em khi đi thuyền phải mặc áo phao đạt chuẩn vẽ an toàn trong mọi lúc, kể cả lúc ngủ.
  • Không cho trẻ sơ sinh vào bể cho đến khi trẻ có thể tự điều khiển được đầu của mình, cũng như không được để trẻ sơ sinh bị ngập hoàn toàn trong nước. Trẻ nhỏ nếu liên tục bị nhấn vào nước có thể sẽ nuốt phải quá nhiều nước, dẫn đến bị nhiễm độc nước và hậu quả là trẻ có thể bị co giật, sốc, hoặc thậm chí tử vong.
  • Tất cả trẻ em đều nên được học bơi. Viện Hàn lâm Nhi khoa Mĩ có hỗ trợ các lớp học bơi chính thức cho trẻ từ 4 tuổi trở lên, và cho trẻ từ 1-3 tuổi đã sẵn sàng cho việc học bơi. Mỗi trẻ có một tốc độ phát triển riêng, do đó cha mẹ nên cân nhắc đến các yếu tố như mức độ liên tục tiếp xúc với nước, mức độ phát triển tâm lý, khả năng phối hợp các bộ phận cơ thể, và các vấn đề sức khỏe khác liên quan tới việc bơi (như nuốt phải nước, phơi nhiễm với các hóa chất trong bể bơi) khi quyết định cho con mình học bơi. Mặc dù một số chương trình dạy bơi khẳng định rằng họ có thể dạy các kĩ năng sống sót dưới nước cho trẻ sơ sinh dưới 12 tháng, song đã có các bằng chứng cho thấy các chương trình này không có tác dụng đối với việc phòng ngừa đuối nước cho trẻ. Những bài học bơi không hề có tính chất “chống đuối nước” cho trẻ ở bất kì độ tuổi nào, vì thế cha mẹ vẫn luôn phải giám sát trẻ chặt chẽ, cũng như trang bị đủ các lớp phòng hộ cần thiết cho trẻ.
  • Luôn cảnh giác với những vật chứa nước có kích thước nhỏ như đài phun nước, chậu nước hay thùng đựng nước mưa. Do đầu của trẻ nhỏ thường to và nặng, các bé sẽ không thể tự nâng đầu lên khỏi mặt nước khi bị mất thăng bằng và rơi vào các đồ chứa này. Bởi vậy, hãy luôn nhớ đổ hết nước trong các đồ đựng nước khi bạn đã dùng xong để đảm bảo an toàn cho trẻ.
  • Luôn đảm bảo rằng trẻ được giám sát chặt chẽ khi đang bơi, và tốt hơn hết là người giám sát là người được trang bị các kỹ năng CPR.
  • Không cho phép trẻ chạy nhảy, chơi đùa hoặc đạp xe ở gần bể bơi, cũng như không cho phép trẻ mang các loại bát đĩa bằng thủy tinh hoặc bằng chất liệu dễ vỡ vào trong khu vực bể.
  • Luôn chọn loại bể có các ranh giới độ sâu được đánh dấu rõ ràng khi cho trẻ vào bơi, và không để trẻ lặn kể cả ở chỗ bể nông.
  • Không cho trẻ vào trong các bể thư giãn (spa) hoặc bồn tắm nước nóng.
  • Luôn cho trẻ mặc áo phao bất kể khi trẻ đi bơi hay ngồi trên thuyền. Trẻ dưới 5 tuổi nên đeo phao cổ để giúp đầu trẻ luôn được giữ thẳng và mặt trẻ luôn được nhô lên khỏi mặt nước.
  • Người lớn khi trông chừng trẻ chơi gần khu vực có nước cần tránh bị xao nhãng bởi các yếu tố như dùng đồ uống có cồn, nói chuyện điện thoại, hoặc làm việc trên máy vi tính.

Bể bơi gia đình

  • Dùng rào chắn với chiều cao ít nhất khoảng lm để quây bể, nhằm tách biệt không gian giữa bể và phần còn lại của sân. Nên dùng loại cổng tự khóa và tự chốt, đồng thời luôn khóa cổng vào mọi lúc, kể cả trong mùa đông.
  • Bạn nên cân nhắc đặt thêm một lớp bảo vệ bên ngoài, như nắp cứng để đóng miệng bể, hoặc thiết bị báo động bể bơi. Tuy nhiên, không nên coi những thiết bị này như vật thay thế cho hàng rào bảo vệ mà chúng chỉ mang tính chất tăng cường thêm.
  • Bạn nên luôn mang theo người một chiếc điện thoại cầm tay hoặc điện thoại di động khi ở gần bể bơi.
  • Luôn đặt cạnh bể bơi một bộ gồm phao cứu hộ, dây thừng kéo và sào cứu hộ không dẫn điện.
  • Tháo cạn nước khỏi bể, hoặc dùng tấm nắp đậy kín bể khi không sử dụng.
  • Học cách thao tác CPR. Các nghiên cứu cho thấy những trường hợp bị tai nạn về nước nếu được thực hiện CPR ngay lập tức sau khi đưa lên khỏi bể sẽ có khả năng được cứu sống cao, ngay cả khi các thao tác này chưa được thực hiện chính xác.
  • Chỉ dùng đài hoặc các thiết bị chạy pin khi ở gần bể, vì các thiết bị sử dụng điện luôn gây nguy hiểm nếu đặt gần khu vực có nước.

Đề phòng trẻ bị động vật tấn công

Trẻ em thường dễ bị các loại động vật cắn hơn là người lớn, vì thế bạn cần đặc biệt cẩn trọng khi đưa trẻ mới sinh từ viện về nhà nếu gia đình bạn có thú nuôi. Trong 2-3 tuần tuổi đầu bạn cũng không được để trẻ ở một mình với động vật và phải giám sát cẩn thận các con vật nuôi trong nhà – chúng có thể sẽ thấy sợ hãi hoặc ghen tị với thành viên mới, song cảm giác này cần được xóa bỏ để chúng dần quen với mối quan hệ mới. Trường hợp bạn có trẻ nhỏ trong nhà và đang có kế hoạch mua một con vật nuôi, tốt nhất là hãy đợi cho đến khi trẻ đủ lớn để có thể điều khiển và chăm sóc được chúng (thường là đến khi trẻ được 5-6 tuổi).

  • Nên chọn những con vật có tính khí hiền lành, tốt nhất nên chọn những con đã lớn, vì chó con và mèo con thường hay thích chơi đùa bằng cách cắn. Tuy nhiên, không nên chọn những con trước đó đã được nuôi lộn trong nhà không có trẻ nhỏ.
  • Dạy trẻ cách vuốt ve chó và mèo nhẹ nhàng vào lưng chúng, thay vì đùa giỡn với phần mặt và đầu hoặc đuôi chúng. Không để trẻ trêu chọc các con vật bằng cách kéo đuôi hoặc giấu đồ chơi hay khúc xương ưa thích của chúng.
  • Nghiêm khắc qui định trẻ không được quấy rầy vật nuôi khi chúng đang ăn hoặc đang ngủ.
  • Không để trẻ nhỏ ở một mình với vật nuôi, vì chúng chưa đủ khả năng nhận biết được trạng thái bực bội hoặc phấn khích của con vật.
  • Cho thú nuôi tiêm phòng dại và các bệnh khác.
  • Luôn tuân thủ luật “dùng dây dắt vật nuôi ở nơi công cộng” và luôn kiểm soát chặt chẽ vật nuôi của bạn.
  • Dạy cho trẻ không được tiếp cận các con vật khác không phải là thú nuôi của nhà, bởi vì chúng có thể không muốn bị người lạ vuốt ve ngay cả khi có sự cho phép của người chủ.
  • Nhắc nhở trẻ không được bỏ chạy, đạp xe, hoặc đá hay có những cử chỉ đe dọa khi bị một con chó lạ tới gần hoặc khi chúng sủa về phía trẻ. Thay vào đó, hãy hướng dẫn trẻ nhìn thẳng vào chúng rồi từ từ lùi lại phía sau cho đến khi thoát khỏi chú chó.
  • Dạy trẻ biết giữ khoảng cách an toàn khi quan sát các con thú hoang, vì chúng có thể mang trong người những mầm bệnh nguy hiểm có thể lây lan sang cho người. Bạn không nên lại gần một con thú hoang khi chúng bị thương hoặc bị bệnh, có thái độ lạ hoặc quá vồ vập.

Thay vào đó, hãy gọi cho trung tâm kiểm soát động vật địa phương hoặc cơ quan về sức khỏe ở địa phương.

Chứng ăn vô độ

Bệnh gặp chủ yếu ở phụ nữ trẻ; có các thời kỳ bị các cơn ăn ngấu nghiến không cưỡng lại được một số thức ăn mặc dù không có cảm giác đói và không có cảm giác khoan khoái do ăn; thường có tâm lý phạm tội đi kèm.

Tiếp theo các cơn ăn vô độ có thể có các hành vi nhằm tránh lấy lại cân nặng (tự gây nôn, dùng thuốc nhuận tràng, lợi tiểu và/ hoặc thuốc gây chán ăn). Chứng ăn vô độ có thể dẫn đến giãn dạ dày; tự gây nôn có thể gây viêm thực quản, có khi gây viêm phổi do hít phải chất nôn.

Dùng thuốc nhuận tràng hoặc thuốc lợi tiểu có thể gây hạ kali huyết.

Phân loại

  1. Hội chứng ăn vô độ – chán ăn: có sự xen kẽ giữa các thời kỳ nhịn ăn khổ hạnh với thời kỳ hám ăn, tiếp theo là có hành vi để không tăng cân. Bệnh nhân bị ám ảnh về các vấn đề ăn uống và thân thể của mình. Chi tiết -> xem chán ăn do nguyên nhân tâm lý.
  2. Hội chứng ăn vô độ: có các thời kỳ hám ăn tái phát (2 lần mỗi tuần trong ít nhất là 3 tháng), có hoặc không có các hành vi nhằm tránh tăng cân trở lại tiếp theo đó (gây nôn, nhuận tràng, lợi tiểu và / hoặc sử dụng thuốc gây chán ăn). 1/3 số trường hợp có trầm cảm kèm theo. Nguy cơ bị hạ kali huyết, nhiễm kiềm chuyển hoá và loạn nhịp tim.

Chứng ăn vô độ có thể là nguyên nhân gây béo phì (xem bệnh này).

Điều trị

Tâm lý liệu pháp. Thuốc chống trầm cảm nếu bị trầm cảm (ví dụ, fluoxetin hoặc fluvoxamin).

GHI CHÚ – người ta đã mô tả hội chứng ăn nhiều về đêm, có mất ngủ và chán ăn buổi sáng.

Nhũ hương

Tên La tinh là Mastic hay Olibanum là chất nhựa dầu lấy ở cây Nhũ hương ( Boswellia Carteni Birdw cũng có tên La tinh là Pistica lenticus L) thuộc họ Đào lộn hột ( Anacardiaceae), sản xuất từ một số nước ven bờ Địa trung hải. Còn có tên là Hắc lục hương, Thiên trạch hương, Địa nhũ hương.

Thành phần chủ yếu:

Trong Nhũ hương có 90% hỗn hợp acid mastixic C20H32O2, acid masticolic, một ít masticaresen, có khoảng 2% tinh dầu mùi long não trong đó chủ yếu là dipinen.

Khí vị:

Khí thơm, vị đắng, tính hơi ấm, không có độc, vào 3 kinh Túc thái âm, Thủ thiếu âm và Túc quyết âm, chữa được các bệnh thuộc 3 kinh ấy.

Liều dùng:

Thuốc uống cho vào thuốc thang, liều dùng từ 3 – 10g.

Chú ý lúc dùng: thuốc cho vào thang làm nước thuốc đục, uống dễ gây nôn, nên người đau bao tử dùng lượng nhỏ hơn, và không dùng lâu.

Không dùng cho người bệnh có thai.

Chủ dụng:

Chữa mọi thứ ác sang, thũng độc, đột nhiên đau ở các kinh, bụng dạ đau thắt, 9 loại đau nhức, kiết lỵ, ác chứng, đau phong như nạo trong ruột, tác dụng bảo hộ Tâm, thông huyết mạch, giải độc, sinh cơ. Công dụng của Nhũ hương là sinh huyết mà chủ về Tâm. Công dụng của Một dược chuyên tán huyết mà chủ về Can.

Vị thuốc Nhũ hương
Vị thuốc Nhũ hương

Cách chế:

Để trên viên ngói nung đỏ để khử dầu, cùng nghiền với Đăng tâm thì không bết.

GIỚI THIỆU THAM KHẢO

“Y lâm tập yếu”

Chữa di mộng tinh dùng Nhũ hương một cục bằng ngón tay cái, nằm nhai, nuốt dần, ngậm đến canh 3 thì nuốt đi, làm như thế 3-4 lần là khỏi.

“Thiên gia diệu phương”

Bài Nhũ liệt cao (thuốc bôi ngoài)

Đương quy 10g, Sinh địa 10g, Đại bối 10g, Bạch chỉ 10g, Một dược 10g, Nhũ hương 10g, Tử thảo 6g, Hương du 30g, Hoàng lạp 12g. Trước hết cho dầu thơm vào chảo đun nóng, tiếp đến cho từng vị thuốc vào sao cháy đen; sau cùng cho Hoàng lạp (sáp ong) vào chế thành cao, cất vào lọ kín, bảo quản, dùng dần. Chữa đầu vú rạn nứt. Rất hay.

“Y tông kim giám”

Bài Xương bồ hoàn Nhân sâm 8g, Xuyên khung 8g, Thạch xương bồ 8g, Đương quy 8g, Mạch môn 8g, Nhũ hương 4g, viễn chí 8g, Chu sa 4g. Cùng tán nhỏ, thêm Hồ làm hoàn, liều uống 1-2g.

Chữa trẻ ẹm 4-5 tuổi vẫn chưa biết nói, thuộc chứng ngũ trì.

“Danh y loại án”

Bài Thất ly tán

Huyết kiệt 40g, Nhũ hương 6g, Hồng hoa 6g, Nhi trà 6g, Xạ hương 1,2g, Băng phiến 1,2g, Một dược 4,8g, Chu sa 4,8g. Cùng tán nhỏ, liều uống 0,2 đến 1g, ngày 2 lần. Có thể tẩm Rượu đắp ngoài. Có tác dụng tán ứ, cầm huyết, chỉ thống.

Trị chấn thương phần mềm, gãy xương, huyết ứ đau nhức. Chủ ỷ: Bài này tính dược mạnh không dùng lâu được.

“Thiên gia diệu phương”

Bài Hoạt lạc tiêu ứ thang

Chỉ xác 12g, Xích thược 30g, Bạch thược 30g, Đan sâm 15g Đương quy 9g, Nhũ hương 3g, Một dược 3g, Cam thảo 3g, Xương bồ 9g, Sinh địa 18g, Xuyên khung 9g, Sinh Bồ hoàng 9g, Sài hồ 9g, Hổ phách 9g (uống với nước thuốc).

Sắc, chia uống sau bữa ăn, giai đoạn đầu có thể uổng mồi ngày 2 thang, sau giảm dần. Có tác dụng hoạt huyết hỏa ứ, thông khiếu, an thần. Chữa nghẽn mạch não.

“Hòa tễ cục phương”

Bài Tiểu hoạt lạc đan

Xuyên ô, Thảo ô, Địa long, Nam tinh, Nhũ hương, Một dược. Các vị bằng nhau, thêm Hồ làm hoàn, mồi hoàn 4g. uống 1 hoàn trước bữa ăn với Nước hoặc Rượu, ngày 2 lần.

Trị phong thấp, đờm ứ, các chứng tỷ ngăn trở kinh lạc, gân xương đau nhức, các ngón chân tê, mất cảm giác, các khớp khó co duỗi. Người bệnh lưỡi tím nhạt, rêu lưỡi trắng.Trên lâm sàng thường dùng trị phong thấp, các khớp viêm, đau quanh vai, cánh tay, chấn thương té ngã, bong gân, trật khớp.

 

Tật phình thành tim (Phình buồng tim) – phình tâm thất

Tên khác: phình tâm thất

Định nghĩa: giãn khu trú của cơ tim, ở nơi mà thành tim bị xơ hoá và bị yếu.

Căn nguyên: phình buồng tim thường hình thành sau giai đoạn cấp tính của cơn nhồi máu cơ tim trên diện rộng, và được phục hồi bằng mô sẹo xơ. Hãn hữu cũng có phình buồng tim hình thành sau chấn thương cơ tim hoặc sau apxe cơ tim.

Triệu chứng: có hoặc không có rối loạn nhịp tim, nhưng đôi khi thấy lưu lượng tim giảm thấp. Vị trí nơi sờ thấy mỏm tim đập ở trên ngực thường thay đổi, có thể rộng ra, hoặc cảm giác va chạm hai lần trong mỗi nhát đập của tim. Tiếng tim nghe thấy nhỏ. Hay có nhịp ngựa phi.

Xét nghiệm bổ sung

  1. X quang: cho thấy tim hoạt động yếu và bóng mờ của tim có chỗ phồng lên đặc biệt. Cung dưới trái của đường viền tim có thể có chỗ gấp khúc hoặc là một đường thẳng không bình thường.
  2. Điện tâm đồ . có dâu hiệu của nhồi máu cơ tim trên diện rộng. Trục điện tim có thể bị lệch nhiều sang phải hoặc sang trái. Đoạn S-T nhô cao hơn 2-3 mm, đôi khi tiếp sau bởi sóng T âm, sâu, tồn tại dai dẳng trong nhiều tháng là những dấu hiệu đặc biệt của bệnh.
  3. Siêu âm tim, chụp tâm thất qua chụp động mạch hoặc bằng chất đồng vị phóng xạ cho phép xác định chẩn đoán. Phân đoạn tông đẩy (xem thuật ngữ này) nói chung giảm thấp.

Tiên lượng: phình buồng tim thường hay có biến chứng là rối loạn nhịp tim, suy tim, hoặc huyết khốỉ thành tim với những biểu hiện nghẽn mạch hệ thống.

Chẩn đoán phân biệt: phình buồng tim “thật sự” cần chẩn đoán phân biệt với “giả phồng” mà thực chất là một thể vỡ thành tâm thất, đã được bịt lại bởi ngoại tâm mạc và một cục máu đông tổ chức hoá. cần can thiệp ngoại khoa để sửa chữa, nhằm ngăn chặn khỏi bị vỡ lại.

Điều trị: có thể phẫu thuật để cắt phình buồng tim nếu tổn thương phình có giới hạn rõ rệt, khá lớn, nhưng còn đủ mô cơ bình thường của tâm thất trái để hoạt động, cắt phình buồng tim có thể được bổ trợ bởi phẫu thuật bắc cầu động mạch chủ-vành. Cho thuốc chống đông máu trong 3-6 tháng trong trường hợp có huyết khối thành tim. Thuốc tan huyết khối (xem thuốc này).

Biện pháp hữu hiệu để phòng sâu răng

Đề phòng sâu răng có rất nhiều phương pháp, ở đây giới thiệu cho mọi người một biện pháp mới dự phòng răng mọt của thanh thiếu niên.

Kĩ thuật bịt kín ổ rãnh. Kỉ thuật này có khả năng phòng ngừa răng sâu ở mức tối đa và đã trở thành một trong những phương pháp hữu hiệu nhất phòng ngừa răng mọt của thanh thiếu niên.

Bịt kín ổ rãnh chính là dùng chất kết dính tổng hợp giữa vật liệu hữu cơ cao phân tử Methacrylate với Bisphenol A, đem che phủ kín kẽ nứt ô rãnh dễ bị sâu trên răng cho phủ kín lại, sau khi vật liệu đóng rắn dính chặt lại với vách ổ rãnh, giữa ổ rãnh với khoang miệng hình thành một tấm lá chắn, ngăn chặn một cách có hiệu quả vi khuẩn và cặn bã thức ăn chui vào trong ổ rãnh, từ đó mà đạt được mục đích ngăn ngừa phát sinh sâu răng. Lứa tuổi đẹp nhất để bịt kín ổ rãnh là 6 đến 12 tuổi. Sau khi áp dụng biện pháp này, bệnh sâu răng xảy ra trong một năm hạ thấp được 82%.

Thuốc amphotericin B deoxycholate là gì?

Tên chung: Amphotericin B deoxycholate

Tên thương mại và các tên khác:Amphotericin B thông thường, Fungizone

Nhóm thuốc: Kháng nấm, Toàn thân

Amphotericin B deoxycholate là gì và được sử dụng để làm gì?

Amphotericin B deoxycholate là một loại thuốc kháng nấm được sử dụng để điều trị các nhiễm trùng nấm hệ thống xâm lấn ở người lớn và trẻ em. Amphotericin B deoxycholate chỉ được sử dụng để điều trị các nhiễm trùng nấm nghiêm trọng và có khả năng đe dọa tính mạng, do độc tính đáng kể của nó. Amphotericin B deoxycholate có thể tiêu diệt (fungicidal) hoặc ức chế (fungistatic) sự phát triển của nấm men và nấm mốc, tùy thuộc vào nồng độ của thuốc và độ nhạy cảm của nấm. Amphotericin B không có hiệu quả đối với vi khuẩn, virus và rickettsiae.

Amphotericin B deoxycholate thuộc nhóm thuốc kháng nấm polyene và là dạng bào chế thông thường đầu tiên. Các dạng bào chế mới hơn của amphotericin B được bao bọc trong một lớp mỡ (liposomal), giúp cung cấp thuốc hiệu quả hơn với ít độc tính hơn đối với thận, so với amphotericin B deoxycholate. Amphotericin B gắn vào ergosterol, một thành phần quan trọng của thành tế bào nấm, làm thay đổi tính thấm của thành tế bào, dẫn đến sự rò rỉ nội dung tế bào của nấm.

Amphotericin B deoxycholate được sử dụng trong điều trị các nhiễm trùng nấm khuếch tán, bao gồm:

  • Coccidioidomycosis
  • Cryptococcosis (torulosis)
  • Nhiễm trùng nấm Candida khuếch tán
  • Histoplasmosis
  • Leishmaniasis Nam Mỹ
  • Blastomycosis Bắc và Nam Mỹ
  • Mucormycosis (phycomycosis) do các loài thuộc chi Mucor, Rhizopus, Absidia, Entomophthora, và Basidiobolus gây ra
  • Sporotrichosis (Sporotrichum schenckii)
  • Aspergillosis (Aspergillus fumigatus)
  • Viêm màng não cryptococcal ở bệnh nhân nhiễm virus suy giảm miễn dịch ở người (HIV)

Các chỉ định ngoài nhãn bao gồm:

  • Viêm não amip (Naegleria fowleri)
  • Aspergillosis mắt
  • Viêm bàng quang do nấm Candida
  • Viêm màng não nghiêm trọng (truyền trong khoang)
  • Viêm khớp do coccidioidal (tiêm trong khớp hoặc tiêm bắp)

Amphotericin B deoxycholate có hiệu quả đối với một số lượng lớn các loài nấm và động vật nguyên sinh, bao gồm:

Histoplasma capsulatum, Coccidioides immitis, các loài Candida, Blastomyces dermatitidis, Rhodotorula, Cryptococcus neoformans, Sporothrix schenckii, Mucor mucedo, Aspergillus fumigatus, các loài Rhizopus, Leishmania brasiliensis, Leishmania donovani, các loài Trypanosoma, và Trichomonas vaginalis.

Một số chủng của Coccidioides immitis, các loài Candida, Pseudallescheria boydii và các loài Fusarium kháng lại amphotericin B deoxycholate.

Cảnh báo

Không sử dụng amphotericin B deoxycholate ở những bệnh nhân có tiền sử phản ứng dị ứng với amphotericin B hoặc bất kỳ thành phần nào của công thức, trừ khi nhiễm trùng nấm là đe dọa tính mạng và chỉ có thể điều trị bằng amphotericin B.

Sử dụng amphotericin B chỉ cho những nhiễm trùng nấm xâm lấn tiến triển, có khả năng gây tử vong do nấm nhạy cảm. Không sử dụng để điều trị các nhiễm trùng nấm không nghiêm trọng như nấm miệng, nhiễm nấm Candida âm đạo hoặc nhiễm nấm Candida thực quản ở những bệnh nhân có số lượng bạch cầu trung tính bình thường. Cân nhắc các rủi ro và lợi ích trước khi bắt đầu điều trị amphotericin B, do tác dụng phụ nghiêm trọng của nó.

Amphotericin B deoxycholate chỉ nên được dùng dưới sự giám sát chặt chẽ của nhân viên y tế có chuyên môn.

Hãy cẩn thận để tránh quá liều, quá liều amphotericin B có thể có những hậu quả chết người, bao gồm ngừng tim hoặc ngừng tuần hoàn tim phổi.

Các phản ứng cấp tính với amphotericin B deoxycholate bao gồm sốt, ớn lạnh, huyết áp thấp (hạ huyết áp), mất cảm giác thèm ăn (chán ăn), buồn nôn, nôn, đau đầu và thở nhanh (tăng nhịp thở), thường bắt đầu trong vòng 1 đến 3 giờ sau khi bắt đầu truyền tĩnh mạch. Những phản ứng này thường nặng hơn với vài liều đầu tiên và thường giảm dần với các liều tiếp theo.

Truyền amphotericin B deoxycholate từ từ trong thời gian khuyến nghị. Truyền nhanh có thể gây hạ kali máu (hypokalemia), huyết áp thấp (hạ huyết áp), rối loạn nhịp tim (arrhythmia) và sốc, đặc biệt ở những bệnh nhân suy thận.

Đã có những phản ứng phổi cấp tính ở những bệnh nhân đã trải qua truyền bạch cầu (leukocyte). Tách biệt truyền bạch cầu và truyền amphotericin B càng xa càng tốt và theo dõi chức năng phổi ở những bệnh nhân như vậy.

Sử dụng amphotericin B với sự cẩn thận khi kết hợp với các thuốc khác được biết đến là gây hạ kali máu.

Điều trị amphotericin B ở những bệnh nhân đã nhận xạ trị toàn thân có liên quan đến leukoencephalopathy, một bệnh ảnh hưởng đến chất trắng của não.

Sử dụng amphotericin B deoxycholate với sự cẩn thận ở những bệnh nhân có chức năng thận suy yếu và thường xuyên theo dõi chức năng thận. Liều lớn trong thời gian dài có thể gây tổn thương thận vĩnh viễn.

Nếu cần thiết, đảm bảo bù nước và điện giải natri trước khi bắt đầu điều trị để giảm nguy cơ độc tính thận.

Cân nhắc dùng thuốc kiềm bổ sung để giảm các biến chứng toan hóa ở thận.

Không trì hoãn điều trị nếu nguy cơ nhiễm trùng lớn hơn rủi ro độc tính thận.

Bất cứ khi nào điều trị amphotericin B bị ngắt quãng lâu hơn 7 ngày, hãy bắt đầu lại với liều thấp nhất được khuyến nghị và tăng dần.

Thường xuyên theo dõi chức năng gan và thận, mức điện giải, số lượng tế bào máu và nồng độ hemoglobin trong khi bệnh nhân đang điều trị bằng amphotericin B.

Việc dùng corticosteroid trước khi điều trị có thể giảm các phản ứng sốt đối với truyền amphotericin B. Giữ liệu trị corticosteroid ở mức tối thiểu. Nếu bệnh nhân có phản ứng truyền nghiêm trọng, hãy ngừng điều trị và bắt đầu lại sau 15 phút nếu bệnh nhân hồi phục, hoặc tiếp tục vào ngày hôm sau.

Điều trị kéo dài bằng amphotericin B deoxycholate có thể dẫn đến thiếu máu normocytic, normochromatic có thể đảo ngược, có thể cần truyền máu.

Những tác dụng phụ của amphotericin B deoxycholate là gì?

Các tác dụng phụ phổ biến của amphotericin B deoxycholate bao gồm:

  • Sốt
  • Ớn lạnh
  • Cảm thấy mệt mỏi (malaise)
  • Giảm cân
  • Đỏ bừng mặt
  • Buồn nôn
  • Nôn
  • Tiêu chảy
  • Chứng khó tiêu (dyspepsia)
  • Đau bụng vùng thượng vị (cramping epigastric pain)
  • Mất cảm giác thèm ăn (anorexia)
  • Độc tính gan
  • Rối loạn chức năng gan
  • Vàng da
  • Suy gan cấp tính
  • Phân có màu đen (melena)
  • Viêm dạ dày ruột xuất huyết
  • Đau toàn thân
  • Đau cơ
  • Đau khớp
  • Đau đầu
  • Rối loạn máu bao gồm:
    • Giảm hemoglobin và hematocrit mà không thay đổi kích thước và màu sắc của tế bào máu đỏ (thiếu máu normochromatic và normocytic)
    • Rối loạn đông máu (coagulation)
    • Giảm số lượng tiểu cầu (thrombocytopenia)
    • Giảm số lượng bạch cầu (leukopenia)
    • Tăng số lượng bạch cầu quá mức (leukocytosis)
    • Số lượng tế bào miễn dịch hạt thấp (agranulocytosis)
    • Tăng bạch cầu ái toan (eosinophilia)
  • Độc tính thận
  • Rối loạn thận bao gồm:
    • Giảm chức năng thận
    • Tăng sản phẩm thải như creatinine và nitrogen urê trong máu (azotemia)
    • Nhiễm toan ống thận
    • Tổn thương thận do calcium (nephrocalcinosis)
    • Suy thận
    • Giảm sản lượng nước tiểu (oliguria)
    • Không có sản lượng nước tiểu (anuria)
    • Đái tháo nhạt do thận (nephrogenic diabetes insipidus)
    • Hạ kali máu (hypokalemia)
    • Tăng kali máu (hyperkalemia)
    • Hạ magnesi trong máu (hypomagnesemia)
  • Độc tính tim mạch
  • Tăng huyết áp (hypertension)
  • Hạ huyết áp (hypotension)
  • Sốc
  • Rối loạn nhịp tim (arrhythmia)
  • Co thắt thất không đều (ventricular fibrillation)
  • Suy tim
  • Ngừng tim
  • Khó thở (dyspnea)
  • Co thắt phế quản
  • Phù phổi không do tim
  • Viêm phổi do quá mẫn
  • Mất thính lực
  • Nghe thấy tiếng ù (tinnitus)
  • Chóng mặt thoáng qua
  • Nhìn đôi (diplopia)
  • Nhìn mờ
  • Bệnh thần kinh ngoại biên (neuropathy)
  • Tổn thương não (encephalopathy)
  • Co giật
  • Phản ứng trên da bao gồm:
    • Phát ban với tổn thương nổi và phẳng (maculopapular rash)
    • Ngứa (pruritus)
    • Lột da (exfoliation)
    • Hoại tử biểu bì độc (toxic epidermal necrolysis)
    • Hội chứng Stevens-Johnson
    • Phản ứng dị ứng
    • Phản ứng dị ứng nghiêm trọng (anaphylactoid)

Hãy gọi bác sĩ ngay lập tức nếu bạn gặp bất kỳ triệu chứng hoặc tác dụng phụ nghiêm trọng nào trong khi sử dụng thuốc này:

  • Các triệu chứng tim nghiêm trọng bao gồm nhịp tim nhanh hoặc đập mạnh, cảm giác lồng ngực rung, khó thở và chóng mặt đột ngột;
  • Đau đầu nghiêm trọng, nhầm lẫn, nói ngọng, yếu đuối nghiêm trọng, nôn mửa, mất phối hợp, cảm giác không vững vàng;
  • Phản ứng hệ thần kinh nghiêm trọng với cơ bắp rất cứng, sốt cao, đổ mồ hôi, nhầm lẫn, nhịp tim nhanh hoặc không đều, run và cảm giác như có thể ngất xỉu; hoặc
  • Các triệu chứng mắt nghiêm trọng bao gồm nhìn mờ, nhìn hầm hố, đau hoặc sưng mắt, hoặc nhìn thấy quầng xung quanh ánh sáng.

Đây không phải là danh sách đầy đủ tất cả các tác dụng phụ hoặc phản ứng bất lợi có thể xảy ra từ việc sử dụng thuốc này. Hãy gọi cho bác sĩ để nhận được lời khuyên về các tác dụng phụ nghiêm trọng hoặc phản ứng bất lợi.

Liều dùng của amphotericin B deoxycholate là gì?

Bột tiêm

  • 50 mg / lọ

Người lớn:

Nhiễm trùng nấm toàn thân

  • Liều thử: 1 mg trong 20 mL dung dịch dextrose 5% tiêm tĩnh mạch (IV) trong 20-30 phút; cần ghi lại nhiệt độ, nhịp tim, nhịp thở và huyết áp của bệnh nhân mỗi 30 phút trong 2 đến 4 giờ.
  • Liều tải ở những bệnh nhân đã dung nạp tốt liều thử và có chức năng tim-thận tốt: 0.25 mg/kg IV mỗi ngày một lần.
  • Nhiễm trùng nấm nghiêm trọng và tiến triển nhanh: 0.3 mg/kg IV mỗi ngày một lần.
  • Chức năng tim-thận suy yếu hoặc phản ứng nghiêm trọng với liều thử: Bắt đầu điều trị với liều hàng ngày nhỏ hơn, tức là 5 – 10 mg.
  • Duy trì: Tùy thuộc vào tình trạng tim-thận của bệnh nhân, liều có thể dần dần tăng lên từ 5 đến 10 mg mỗi ngày để đạt liều hàng ngày cuối cùng từ 0.5 đến 0.7 mg/kg.
  • Chưa có đủ dữ liệu để xác định yêu cầu liều tổng thể và thời gian điều trị cần thiết để tiêu diệt các bệnh nấm cụ thể; liều tối ưu chưa biết; liều tổng hàng ngày có thể lên tới 1.0 mg/kg/ngày hoặc lên tới 1.5 mg/kg khi dùng vào các ngày thay phiên nhau.
  • Sporotrichosis: Thời gian điều trị có thể kéo dài tới 9 tháng với tổng liều lên tới 2.5 g.
  • Aspergillosis: Thời gian điều trị có thể kéo dài tới 11 tháng với tổng liều lên tới 3.6 g.

Suy thận

  • Độ thanh thải creatinine (CrCl) dưới 10 mL/phút: 0.5-0.7 mg/kg IV mỗi 24-48 giờ một lần.
  • Cân nhắc các tác nhân kháng nấm khác có thể ít độc cho thận hơn.
  • Lọc máu định kỳ: 0.5-1 mg/kg IV mỗi 24 giờ sau khi kết thúc phiên lọc máu.
  • Liệu pháp thay thế thận liên tục: 0.5-1 mg/kg IV mỗi 24 giờ.

Các chỉ định và sử dụng khác

  • Aspergillosis, cryptococcosis, blastomycosis, candidiasis toàn thân, coccidioidomycosis, histoplasmosis, zygomycosis, sporotrichosis, leishmaniasis (không phải là thuốc được chọn).
  • Nhiễm trùng do các loài Mucor, Rhizopus, Absidia, Conidiobolus, Basiobolus.
  • Ngoài chỉ định: viêm màng não amip (Naegleria fowleri); aspergillosis mắt; viêm bàng quang do nấm; viêm màng não nghiêm trọng (trong tủy); viêm khớp do coccidioid (trong khớp hoặc tiêm bắp [IM]).

Trẻ em:

Nhiễm trùng nấm toàn thân

  • Liều thử: 0.1 mg/kg IV, không vượt quá 1 mg; truyền trong 20-60 phút.
  • Liều khởi đầu: 0.25 mg/kg/lần IV mỗi ngày một lần hoặc mỗi ngày cách một lần.
  • Duy trì: Tăng 0.25 mg/ngày theo mức độ dung nạp đến 1-1.5 mg/kg/ngày.

Candida auris (Ngoài chỉ định)

  • CDC khuyến nghị amphotericin B deoxycholate như là điều trị ban đầu được lựa chọn cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ dưới 2 tháng tuổi: 1 mg/kg/ngày IV.

Quá liều

Quá liều amphotericin B deoxycholate có thể dẫn đến ngừng tim hoặc ngừng tuần hoàn tim phổi có khả năng gây tử vong. Nếu nghi ngờ có quá liều, ngay lập tức ngừng amphotericin B deoxycholate và tiến hành chăm sóc hỗ trợ, bao gồm theo dõi chức năng tim phổi, gan và thận, các thông số máu và mức điện giải. Sửa chữa các mất cân bằng điện giải và đảm bảo bệnh nhân ổn định trước khi bắt đầu lại điều trị.

Những thuốc tương tác với amphotericin B deoxycholate là gì?

Thông báo cho bác sĩ của bạn về tất cả các loại thuốc bạn đang sử dụng, để họ có thể tư vấn cho bạn về bất kỳ tương tác thuốc nào có thể xảy ra. Không bao giờ bắt đầu dùng, ngừng đột ngột hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ loại thuốc nào mà không có sự hướng dẫn của bác sĩ.

Các tương tác nghiêm trọng của amphotericin B deoxycholate bao gồm:

  • Amikacin
  • Cidofovir
  • Chất cản quang (iod hóa)
  • Cyclosporine
  • Ioversol
  • Neomycin (đường uống)
  • Streptozocin
  • Tacrolimus
  • Teicoplanin

Amphotericin B deoxycholate có các tương tác nghiêm trọng với ít nhất 23 loại thuốc khác nhau. Amphotericin B deoxycholate có các tương tác vừa phải với ít nhất 32 loại thuốc khác nhau. Amphotericin B deoxycholate có các tương tác nhẹ với ít nhất 30 loại thuốc khác nhau. Các tương tác thuốc nêu trên không phải là tất cả các tương tác hoặc tác dụng phụ có thể xảy ra. Để biết thêm thông tin về các tương tác thuốc, hãy truy cập vào công cụ Kiểm tra Tương tác Thuốc của RxList.

Điều quan trọng là luôn thông báo cho bác sĩ, dược sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn về tất cả các loại thuốc kê đơn và thuốc không kê đơn mà bạn sử dụng, cũng như liều lượng cho mỗi loại, và giữ một danh sách thông tin này. Kiểm tra với bác sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về loại thuốc này.

Mang thai và cho con bú

Các nghiên cứu về khả năng sinh sản trên động vật sử dụng amphotericin B deoxycholate trong thai kỳ không cho thấy bất kỳ tổn hại nào cho thai nhi. Một vài phụ nữ mang thai bị nhiễm nấm toàn thân đã được điều trị thành công.

Hiện không có các nghiên cứu đầy đủ và được kiểm soát tốt về việc sử dụng amphotericin B deoxycholate ở phụ nữ mang thai. Amphotericin B deoxycholate chỉ nên được sử dụng trong thai kỳ với sự thận trọng nếu rõ ràng cần thiết.

Chưa rõ liệu amphotericin B deoxycholate có hiện diện trong sữa mẹ hay không, tuy nhiên, nhiều loại thuốc được bài tiết qua sữa mẹ. Quyết định nên được đưa ra để ngừng cho con bú hoặc điều trị amphotericin B deoxycholate dựa trên tầm quan trọng của thuốc đối với người mẹ, do tiềm năng xảy ra các phản ứng phụ nghiêm trọng ở trẻ sơ sinh đang bú mẹ.

Tóm tắt

Amphotericin B deoxycholate là một loại thuốc chống nấm được sử dụng để điều trị các nhiễm trùng nấm hệ thống xâm lấn ở người lớn và trẻ em. Amphotericin B deoxycholate chỉ được sử dụng để điều trị các nhiễm trùng nấm nghiêm trọng và có khả năng đe dọa tính mạng, do độc tính đáng kể của nó. Các tác dụng phụ phổ biến của amphotericin B deoxycholate bao gồm sốt, ớn lạnh, cảm thấy không khỏe (mệt mỏi), giảm cân, đỏ bừng mặt, buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy, khó tiêu (dyspepsia), đau vùng thượng vị co thắt, chán ăn (anorexia), độc tính gan, bất thường chức năng gan, vàng da và nhiều tác dụng khác.

Cách làm miến xào cua

Miến là món đổi bữa thông dụng của người miền Bắc, theo cách gọi của người miền Nam, miến là bún tàu. Món miến xào cua là món khô, không có nước nhưng rất hấp dẫn vì chế biến với thịt cua thơm ngon. Có thể chỉ xào miến với cua là đủ, nhưng cũng có thể phối hợp thêm vài loại rau củ cho món ăn thêm phong phú và đầy đủ chất.

Miến xào cua
Miến xào cua

Nguyên liệu món ăn

100g thịt cua

200g miến khô

Miến khô
Miến khô

5 tai nấm mèo

30g củ hành tím

Dưa leo, hẹ

Gia vị

Hành ngò, chanh, ớt

Bột ngọt

Cách làm miến xào cua

Ướp thịt cua với tiêu và chút bột ngọt.

Nấm mèo ngâm nở, xắt chỉ, dưa leo xắt sợi, hẹ cắt khúc ngắn.

Miến ngâm rửa sạch, cắt ngắn bớt. Hấp sơ cho miến mềm.

Đặt chảo lên bếp, cho dầu vào phi hành cho thơm, cho thịt cua vào xào với nấm mèo, dưa leo, hẹ. Cho miến vào đảo đều.

Cách làm miến xào cua
Cách làm miến xào cua

Trình bày

Xúc miến ra đĩa, múc thịt cua bày lên trên, thêm hành ngò, hành phi, tiêu.

Miến xào cua
Miến xào cua

Dọn ăn nóng với nước mắm và chanh ớt xắt lát.

Thuốc hít Budesonide

Tên chung: Budesonide (hít)

Tên thương mại: Pulmicort Respules, Pulmicort Flexhaler

Nhóm thuốc: Corticosteroid, Thuốc hít

Budesonide hít là gì và được sử dụng để làm gì?

Budesonide hít là một loại thuốc corticosteroid được FDA phê duyệt để điều trị phòng ngừa và duy trì bệnh hen suyễn, và cũng được sử dụng ngoài chỉ định cho việc duy trì điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD). Thuốc này có dạng huyền phù hoặc bột, được dùng qua đường hít bằng thiết bị hít. Budesonide là một thuốc chống viêm mạnh, giúp giảm viêm ở phế quản và làm giảm các triệu chứng hen suyễn.

Các corticosteroid hít, bao gồm budesonide, tác động lên nhiều loại tế bào miễn dịch như tế bào mast, bạch cầu ái toan, bạch cầu ưa bazơ, lymphocyte, đại thực bào và bạch cầu trung tính trong đường hô hấp. Budesonide hít tác động tại chỗ trong đường dẫn khí phế quản và giảm tính thấm của mao mạch, ngăn ngừa sự di chuyển của các tế bào miễn dịch gây viêm tới mô đường hô hấp. Budesonide cũng ngăn các tế bào miễn dịch này giải phóng các chất gây viêm như histamine, leukotrienes, cytokines và eicosanoids, vốn gây ra tình trạng viêm liên quan đến hen suyễn.

Các tác dụng chống viêm của budesonide hít ức chế các phản ứng quá mẫn trong đường hô hấp, giảm tiết dịch nhầy trong hệ hô hấp và giảm các triệu chứng hen suyễn như co thắt phế quản, khò khè và ho.

Chỉ định sử dụng budesonide hít:

Được FDA phê duyệt:

  • Bột hít: Phòng ngừa và điều trị duy trì bệnh hen suyễn ở bệnh nhân người lớn và trẻ em từ 6 tuổi trở lên.
  • Huyền phù hít: Phòng ngừa và điều trị duy trì bệnh hen suyễn ở trẻ em từ 12 tháng đến 8 tuổi.

Ngoài chỉ định (ở người lớn):

  • Duy trì điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD).
  • Viêm thực quản ái toan (sử dụng dạng huyền phù uống).

Cảnh báo

  • Không sử dụng budesonide hít như là phương pháp điều trị chính cho các cơn hen suyễn cần biện pháp điều trị mạnh, chẳng hạn như cơn hen cấp tính, hoặc trạng thái hen suyễn nặng (status asthmaticus), là tình trạng hen suyễn kéo dài và nghiêm trọng cần cấp cứu y tế.
  • Không sử dụng budesonide hít cho bệnh nhân có dị ứng với protein sữa hoặc bất kỳ thành phần nào trong công thức budesonide hít.
  • Hít budesonide có thể gây nhiễm trùng nấm Candida albicans tại miệng và họng. Bất kỳ nhiễm trùng nào nên được điều trị thích hợp, có thể bao gồm tạm ngừng hoặc ngừng sử dụng budesonide nếu cần. Khuyên bệnh nhân súc miệng sau khi sử dụng budesonide.
  • Budesonide không phải là thuốc giãn phế quản và không được sử dụng trong cơn co thắt phế quản cấp tính hay các cơn hen suyễn, tình trạng có thể yêu cầu corticosteroid đường uống.
  • Budesonide hít có thể gây phản ứng dị ứng như co thắt phế quản, phù mạch, phản ứng da và phản ứng dị ứng nặng (sốc phản vệ). Ngừng thuốc nếu xảy ra các phản ứng này.
  • Corticosteroid, bao gồm budesonide hít, ức chế hệ miễn dịch, làm tăng nguy cơ nhiễm trùng. Các bệnh như thủy đậu và sởi có thể trở nên nghiêm trọng hoặc thậm chí gây tử vong ở những người suy giảm miễn dịch. Bệnh nhân chưa bị nhiễm hoặc không được tiêm chủng đầy đủ nên tránh tiếp xúc, và nếu tiếp xúc, cần điều trị ngay lập tức.
  • Tránh sử dụng budesonide hít hoặc sử dụng rất thận trọng đối với bệnh nhân có bệnh lao đường hô hấp hoạt động hoặc tiềm ẩn, nhiễm trùng hệ thống chưa điều trị (nấm, vi khuẩn, virus hoặc ký sinh trùng), hoặc nhiễm herpes simplex mắt.
  • Chuyển từ corticosteroid đường uống sang corticosteroid hít cần thực hiện bằng cách giảm dần liều thuốc đường uống và theo dõi chặt chẽ bệnh nhân. Ngừng đột ngột corticosteroid toàn thân có thể gây suy tuyến thượng thận, có thể dẫn đến tử vong.
  • Mặc dù corticosteroid hít ít gây hội chứng cường vỏ thượng thận và suy tuyến thượng thận hơn so với thuốc toàn thân, nhưng sự hấp thu toàn thân có thể dẫn đến các tác dụng này ở một số bệnh nhân, đặc biệt khi dùng liều cao hoặc lâu dài, và trong các tình huống căng thẳng như phẫu thuật. Theo dõi bệnh nhân và giảm dần budesonide hít nếu xảy ra tác dụng phụ này.
  • Sử dụng corticosteroid hít lâu dài có thể giảm mật độ khoáng của xương. Theo dõi và điều trị thích hợp cho bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ như tiền sử gia đình bị loãng xương, chế độ dinh dưỡng kém, sử dụng các thuốc làm giảm mật độ xương hoặc liệt giường kéo dài.
  • Budesonide hít có thể ức chế sự phát triển ở trẻ em. Theo dõi sự phát triển của trẻ và sử dụng liều tối thiểu có hiệu quả.
  • Đục thủy tinh thể, tăng áp lực nội nhãn và glaucom đã được báo cáo khi sử dụng corticosteroid hít lâu dài. Theo dõi chặt chẽ những bệnh nhân có thay đổi về thị giác và những bệnh nhân có nguy cơ mắc các bệnh này.
  • Thuốc điều trị hen, bao gồm budesonide hít, có thể gây co thắt phế quản nghịch lý có thể đe dọa tính mạng. Nếu bệnh nhân phát triển co thắt phế quản nghịch lý, ngừng ngay budesonide hít và điều trị bằng thuốc giãn phế quản tác dụng nhanh nhóm beta-2.
  • Hiếm khi, bệnh nhân sử dụng corticosteroid hít có thể phát triển các tình trạng hệ thống eosinophilic như viêm mạch (vasculitis) tương tự hội chứng Churg-Strauss, mặc dù chưa có mối quan hệ nhân quả với budesonide hít. Theo dõi bệnh nhân với các triệu chứng toàn thân của eosinophilia, tổn thương thần kinh, bệnh tim mạch, triệu chứng phổi xấu đi và phát ban viêm mạch.
  • Sử dụng đồng thời với các thuốc ức chế mạnh CYP3A4 như ketoconazole, ritonavir và những thuốc khác có thể làm tăng sự hấp thu toàn thân và tác dụng phụ của budesonide hít. Cần thận trọng khi sử dụng.

Tác dụng phụ của budesonide hít là gì?

Các tác dụng phụ thường gặp của budesonide hít bao gồm:

  • Nhiễm trùng đường hô hấp
  • Viêm mũi (rhinitis)
  • Viêm mũi dị ứng
  • Viêm mũi họng (viêm mũi họng)
  • Tắc nghẽn mũi
  • Âm thanh rít khi thở (khò khè)
  • Chảy máu mũi (chảy máu mũi)
  • Nhiễm trùng đường hô hấp trên do virus
  • Nhiễm trùng tai giữa (viêm tai giữa)
  • Nhiễm trùng tai ngoài (viêm tai ngoài)
  • Đau tai (otalgia)
  • Viêm màng mắt (viêm kết mạc)
  • Nhiễm trùng mắt
  • Nhiễm trùng do virus
  • Nhiễm nấm Candida albicans trong miệng (nấm miệng)
  • Nhiễm trùng Herpes simplex
  • Buồn nôn
  • Nôn mửa
  • Tiêu chảy
  • Đau bụng
  • Viêm dạ dày ruột do virus
  • Chứng khó tiêu (dyspepsia)
  • Rối loạn vị giác (dysgeusia)
  • Khô miệng (khô miệng)
  • Mất cảm giác thèm ăn (chán ăn)
  • Đau ngực
  • Ngất xỉu (syncope)
  • Các triệu chứng giống cúm
  • Yếu ớt
  • Mệt mỏi
  • Cử động quá mức (hyperkinesia)
  • Căng cơ quá mức (hypertonia)
  • Đau khớp (đau khớp)
  • Đau lưng
  • Đau cổ
  • Gãy xương
  • Đau cơ (myalgia)
  • Mất ngủ
  • Thay đổi tâm trạng (tính khí thất thường)
  • Sưng hạch bạch huyết ở đầu và cổ (hạch bạch huyết cổ)
  • Tăng cân

Các tác dụng phụ ít gặp của budesonide hít bao gồm:

  • Suy tuyến vỏ thượng thận
  • Mức cortisol (hormone căng thẳng) bất thường cao hoặc thấp (hội chứng cường vỏ thượng thận hoặc hội chứng suy vỏ thượng thận)
  • Đục thủy tinh thể
  • Tăng áp lực nội nhãn
  • Glaucoma, một tình trạng làm tổn thương thần kinh thị giác
  • Viêm xoang (viêm xoang)
  • Viêm họng (viêm họng)
  • Viêm phế quản (viêm phế quản)
  • Ho
  • Kích ứng họng
  • Rối loạn giọng nói (rối loạn thanh quản)
  • Đau đầu
  • Sốt
  • Đau
  • Phản ứng dị ứng bao gồm:
    • Sưng dưới da và niêm mạc (phù mạch)
    • Phản ứng dị ứng nặng (sốc phản vệ)
    • Co thắt phế quản
  • Phản ứng da bao gồm:
    • Phát ban
    • Phát ban mụn mủ
    • Mày đay (nổi mẩn đỏ)
    • Chàm
    • Viêm da tiếp xúc
    • Ngứa (pruritus)
    • Bầm tím (purpura)
    • Kích ứng da mặt
  • Mất mật độ khoáng của xương (loãng xương)
  • Chết mô xương (hoại tử vô mạch) của đầu xương đùi
  • Ức chế sự phát triển ở trẻ em
  • Cáu kỉnh
  • Phản ứng hung hãn
  • Lo âu
  • Lo lắng
  • Bồn chồn
  • Trầm cảm
  • Tâm thần phân liệt

Gọi bác sĩ ngay lập tức nếu bạn gặp bất kỳ triệu chứng hoặc tác dụng phụ nghiêm trọng nào khi sử dụng thuốc này:

  • Các triệu chứng tim nghiêm trọng bao gồm nhịp tim nhanh hoặc đập mạnh, cảm giác rối loạn nhịp tim, khó thở và chóng mặt đột ngột;
  • Đau đầu nghiêm trọng, lú lẫn, nói khó, yếu nghiêm trọng, nôn mửa, mất phối hợp, cảm giác không vững vàng;
  • Phản ứng thần kinh nghiêm trọng với cơ bắp cứng nhắc, sốt cao, đổ mồ hôi, lú lẫn, nhịp tim nhanh hoặc không đều, run rẩy và cảm giác như bạn có thể ngất xỉu;
  • Các triệu chứng mắt nghiêm trọng bao gồm nhìn mờ, nhìn hầm hố, đau mắt hoặc sưng, hoặc nhìn thấy quầng sáng xung quanh đèn.

Đây không phải là danh sách đầy đủ tất cả các tác dụng phụ hoặc phản ứng bất lợi có thể xảy ra khi sử dụng thuốc này. Hãy gọi cho bác sĩ của bạn để được tư vấn y tế về các tác dụng phụ nghiêm trọng hoặc phản ứng bất lợi.

Liều dùng của budesonide hít là gì?

Dung dịch cho máy phun sương (nebulizer):

  • 0.25 mg/2 mL
  • 0.5 mg/2 mL
  • 1 mg/2 mL

Bột hít:

  • 90 mcg/lần hít
  • 180 mcg/lần hít

Điều trị bệnh hen suyễn

Điều trị duy trì

  • Người lớn:
    • Bột hít: 360 mcg một lần mỗi 12 giờ; đối với một số bệnh nhân, có thể bắt đầu với 180 mcg mỗi 12 giờ; không vượt quá 720 mcg mỗi 12 giờ.
  • Trẻ em:
    • Dung dịch phun sương:
      • Trẻ dưới 1 tuổi: Chưa có dữ liệu về độ an toàn và hiệu quả.
      • Trẻ từ 1-8 tuổi (đã dùng thuốc giãn phế quản đơn thuần): 0.5 mg một lần mỗi ngày hoặc chia thành hai lần mỗi 12 giờ; không vượt quá 0.5 mg/ngày.
      • Trẻ từ 1-8 tuổi (đã dùng corticosteroid hít): 0.5 mg một lần mỗi ngày hoặc chia thành hai lần mỗi 12 giờ; không vượt quá 1 mg/ngày.
      • Trẻ từ 1-8 tuổi (đã dùng corticosteroid đường uống): 1 mg một lần mỗi ngày hoặc chia thành hai lần mỗi 12 giờ; không vượt quá 1 mg/ngày.
      • Trẻ có triệu chứng không đáp ứng với điều trị không steroid: Có thể bắt đầu với 0.25 mg một lần mỗi 12 giờ.
    • Bột hít:
      • Trẻ dưới 6 tuổi: Chưa có dữ liệu về độ an toàn và hiệu quả.
      • Trẻ trên 6 tuổi: 180 mcg một lần mỗi 12 giờ đối với một số bệnh nhân, có thể bắt đầu với 360 mcg mỗi 12 giờ; không vượt quá 360 mcg mỗi 12 giờ.

Cách sử dụng:

Dung dịch phun sương cần được sử dụng qua máy phun sương jet kết nối với máy nén khí có đủ lưu lượng không khí và có miệng ngậm hoặc khẩu trang phù hợp; không sử dụng máy phun sương siêu âm.

Quá liều:

Nguy cơ tác dụng độc cấp tính từ việc quá liều budesonide hít là thấp. Tuy nhiên, việc sử dụng lâu dài với liều cao của budesonide hít có thể dẫn đến tác dụng phụ của corticosteroid toàn thân như tiết cortisol quá mức từ tuyến thượng thận (hội chứng cường vỏ thượng thận) và ức chế tăng trưởng ở trẻ em.

Các thuốc tương tác với budesonide hít

Hãy thông báo cho bác sĩ của bạn về tất cả các loại thuốc mà bạn đang sử dụng, bác sĩ sẽ tư vấn về những tương tác thuốc có thể xảy ra. Không bắt đầu dùng, đột ngột ngừng, hoặc thay đổi liều thuốc nào mà không có sự chỉ định của bác sĩ.

Tương tác nghiêm trọng của budesonide hít:

  • aldesleukin
  • desmopressin
  • fexinidazole
  • axit fusidic
  • loxapine

Tương tác nghiêm trọng của budesonide hít:

  • Các chất ức chế mạnh CYP3A4

Tương tác vừa phải của budesonide hít:

  • clofazimine
  • cosyntropin
  • Các chất ức chế CYP3A4 vừa phải
  • nirmatrelvir
  • ritonavir
  • thuốc lá khói

Budesonide hít không có tương tác nhẹ đã được biết với các thuốc khác.

Danh sách tương tác thuốc trên không phải là tất cả các tương tác hoặc tác dụng phụ có thể xảy ra. Để biết thêm thông tin về tương tác thuốc, hãy tham khảo công cụ Kiểm tra Tương tác Thuốc của RxList.

Lưu ý quan trọng:

Hãy luôn thông báo cho bác sĩ, dược sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn về tất cả các thuốc theo toa và không theo toa mà bạn sử dụng, cùng với liều lượng của mỗi thuốc, và lưu lại danh sách thông tin này. Nếu có bất kỳ câu hỏi nào về thuốc, hãy kiểm tra với bác sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn.

Mang thai và cho con bú

Hiện tại, chưa có đủ các nghiên cứu kiểm soát tốt về việc sử dụng budesonide hít trong thai kỳ, tuy nhiên, các nghiên cứu đã công bố không cho thấy có bằng chứng về sự tổn thương thai nhi do sử dụng budesonide hít trong thời gian mang thai. Budesonide hít chỉ nên được sử dụng ở phụ nữ mang thai khi thật sự cần thiết.

Hen suyễn không được kiểm soát có thể ảnh hưởng xấu đến khả năng sinh sản, điều này có thể cải thiện khi điều trị đầy đủ bằng corticosteroid hít. Việc điều trị không nên dừng lại đối với các bệnh nhân có kế hoạch mang thai; nên sử dụng liều thấp nhất cần thiết để duy trì kiểm soát hen suyễn.

Hen suyễn không kiểm soát tốt hoặc kiểm soát vừa phải trong thời gian mang thai có thể làm tăng nguy cơ tiền sản giật ở mẹ và sinh non, cân nặng thấp khi sinh và bé nhỏ hơn so với tuổi thai ở trẻ sơ sinh.

Kiểm soát hen suyễn cần được theo dõi chặt chẽ trong suốt thai kỳ và điều trị cần được điều chỉnh phù hợp để đạt được kiểm soát tối ưu.

Trẻ sơ sinh sinh ra từ những bà mẹ điều trị bằng budesonide hít trong thai kỳ có thể phát triển suy vỏ thượng thận và cần được theo dõi các dấu hiệu và triệu chứng.

Hiện tại chưa có các nghiên cứu kiểm soát tốt về việc sử dụng budesonide hít trong quá trình chuyển dạ và sinh nở.

Budesonide có mặt trong sữa mẹ. Quyết định cho con bú nên dựa trên nhu cầu lâm sàng của mẹ đối với budesonide hít, lợi ích của việc cho con bú đối với trẻ sơ sinh, và nguy cơ tiềm ẩn đối với trẻ sơ sinh từ việc tiếp xúc với thuốc hoặc tình trạng mẹ.

Những điều cần biết thêm về budesonide hít

  • Sử dụng budesonide hít đúng theo hướng dẫn của bác sĩ.
  • Sử dụng đều đặn theo chỉ định và liên hệ với bác sĩ nếu triệu chứng của bạn không cải thiện trong 1-2 tuần hoặc trở nên nghiêm trọng hơn.
  • Budesonide hít có thể gây nhiễm trùng tại chỗ trong miệng và họng (nấm miệng). Hãy súc miệng sau khi hít budesonide. Nếu bạn phát triển nhiễm trùng tại chỗ, hãy liên hệ với bác sĩ để điều trị.
  • Budesonide được dùng để điều trị duy trì và không dùng cho các cơn hen cấp. Hãy sử dụng thuốc giãn phế quản theo chỉ định hoặc liên hệ với bác sĩ.
  • Ngừng sử dụng budesonide hít và thông báo cho bác sĩ ngay lập tức nếu bạn có các triệu chứng dị ứng như phát ban, sưng, co thắt phế quản hoặc khò khè.
  • Tránh tiếp xúc với bệnh thủy đậu và sởi nếu bạn đang dùng liều immunosuppressant của budesonide. Liên hệ với bác sĩ ngay nếu bạn bị phơi nhiễm.
  • Sử dụng budesonide hít lâu dài có thể làm tăng nguy cơ vấn đề về mắt. Đừng bỏ qua các cuộc kiểm tra mắt định kỳ và tham khảo ý kiến bác sĩ nếu bạn có vấn đề về mắt.
  • Corticosteroid hít có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng ở trẻ em. Theo dõi sự phát triển của trẻ và thông báo cho bác sĩ nhi nếu bạn nhận thấy sự chậm phát triển.
  • Cất giữ budesonide hít và các thiết bị hít/nebulizer xa tầm tay trẻ em.
  • Trong trường hợp quá liều, hãy tìm sự trợ giúp y tế hoặc liên hệ với Trung tâm Chống độc.

Tóm tắt

Budesonide hít là một loại thuốc corticosteroid được FDA phê duyệt để phòng ngừa và điều trị duy trì bệnh hen suyễn, và cũng được sử dụng ngoài nhãn để điều trị duy trì bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD). Các tác dụng phụ phổ biến của budesonide hít bao gồm nhiễm trùng đường hô hấp, viêm mũi (viêm mũi dị ứng), viêm mũi họng, tắc nghẽn mũi, tiếng rít khi thở, chảy máu mũi, viêm tai giữa, nhiễm trùng mắt, và các vấn đề khác. Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ nếu bạn đang mang thai hoặc cho con bú.

Ung thư thận ở trẻ nhỏ

Tên khác; u nguyên bào thận, u Wilms, ung thư bào thai thận.

Giải phẫu bệnh; u phôi thận, gồm những thành phần của trung bì (cơ trơn, cơ vân, sụn, xương, mô mỡ), tiểu cầu và ống thận phôi thai. Khối u di căn sớm vào gan, phổi và não. Có thể mắc cả chứng Down, không có mống mắt, dị tật đường niệu – dục.

Triệu chứng: u phôi thận xuất hiện trong thời gian còn là thai và có thể yên lặng trong nhiều năm. Chiếm 20% các bệnh vế u ở trẻ trước 5 tuổi và hiếm khi xuất hiện sau 10 tuổi. Các triệu chứng lâm sàng là sờ nắn vào .vùng thận thấy có khối u, đau bụng, sốt, buồn nôn và nôn, đôi khi có huyết áp cao. Hay bị thiếu máu; có thể có đái ra máu.

Xét nghiệm bổ sung: chụp siêu âm thấy có một khối rắn. Chụp đường niệu qua tĩnh mạch cho thấy bất thường ở bờ thận và các đài thận-bể thận. Chụp cắt lớp cho phép đánh giá mức độ phát triển của khối u.

Chẩn đoán: dựa vào việc sờ thấy khối u thận ở trẻ dưới 10 tuổi có tình trạng toàn thân kém. Chẩn đoán phân biệt với các khối u thận khác ở trẻ: ứ nước ở thận mắc phải hay bẩm sinh, thận đa nang, u phôi thần kinh (u ác tính hệ thần kinh giao cảm, phát triển phụ thuộc vào tủy thượng thận, bài tiết ra các catecholamin).

Tiên lượng: phẫu thuật kết hợp với xạ trị và đa hoá trị liệu đã cải thiện tiên lượng bệnh. Nếu chưa có di căn thì tỷ lệ khỏi bệnh là 80%.

Điều trị: cắt thận rộng, kết hợp với đa hoá trị liệu (vincristin, doxorubicin, actinomycin D).

Huyệt Tiền Cốc

Tiền Cốc

Tên Huyệt:

Huyệt ở phía trước (tiền) xương cuối ngón tay út (xương cao như cái hang = cốc) vì vậy gọi là Tiền Cốc.

Xuất Xứ:

Thiên ‘Bản Du’ (Linh khu.2).

Đặc Tính:

Huyệt thứ 2 của kinh Tiểu Trường.

Huyệt Vinh của kinh Tiểu Trường, thuộc hành Thuỷ .

Vị Trí huyệt:

Huyệt ở chỗ lõm nơi khớp xương ngón tay thứ 5 về phía xương trụ, khi nắm tay lại huyệt ở trước lằn chỉ tay ngón út và bàn, nơi tiếp giáp da gan và mu tay.

Giải Phẫu:

Dưới da là chỗ bám của cơ dạng ngón thứ 5 và cơ gấp ngắn ngón 5, bờ trong đầu trên đốt 1 xương ngón 5.

Thần kinh vận động cơ là các nhánh của dây thần kinh trụ.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh D1.

Chủ Trị:

Trị cánh tay đau, ngón tay tê, mắt đau, tai ù, sốt cao, tiểu nóng đỏ.

Phối Huyệt:

1. Phối Kinh Cốt (Bàng quang.64) trị mắt có màng trắng (Thiên Kim Phương).

2. Phối Nhiên Cốc (Th.2) + Trung Phong (C.4) trị họng sưng không nuốt được (Thiên Kim Phương).

3. Phối Dương Khê (Đại trường.5) + Hậu Khê (Tiểu trường.3) trị cánh tay sưng, khuỷ tay co rút (Thiên Kim Phương).

4. Phối Hậu Khê (Tiểu trường.3) + Thiên Lịch (Đại trường.6) trị tai ù (Tư Sinh Kinh).

5. Phối Ngân Giao (Đc.28) trị mũi nghẹt (Tư Sinh Kinh).

6. Phối Uỷ Trung (Bàng quang.40) trị tiểu khó, tiểu gắt (Tư Sinh Kinh).

Cách châm Cứu:

Châm thẳng 0, 3 – 0, 5 thốn. Cứu 3 – 5 tráng, Ôn cứu 5 – 10 phút.

Tham Khảo:

“Sau khi sinh không có sữa: dùng Tiền Cốc” (Thần Cứu Kinh Luân).

Chức Năng Hô Hấp Và Các Phương Pháp Chẩn Đoán Bệnh Phổi

CHỨC NĂNG HÔ HẤP

Các nhóm bệnh phổi chủ yếu bao gồm bệnh phổi tắc nghẽn (ví dụ: hen, COPD, giãn phế quản), bệnh phổi hạn chế (vd: bệnh phổi kẽ, bất thường thành ngực, bệnh thần kinh cơ). Hệ thống hô hấp bao gồm không chỉ phổi mà còn cả thành ngực, tuần hoàn phổi, và hệ thần kinh trung ương. Có 3 typ rối loạn chính về sinh lý bệnh hệ hô hấp, chúng thường kết hợp với nhau tạo nên các bệnh phổi khác nhau: chức năng thông khí, tuần hoàn phổi và trao đổi khí.

Rối Loạn Chức Năng Thông Khí

Thông khí bao gồm quá trình vận chuyển khí tới phế nang. Các test chức năng phổi được sử dụng để đánh giá chức năng thông khí. Phân loại về thể tích phổi, được định lượng qua đánh giá chức năng phổi, được biểu diễn trên Hình. 137-1. Hô hấp ký bao gồm việc thở ra gắng sức từ dung tích toàn phổi (TLC) tới thể tích cặn (RV); chỉ số chính trong phế dung đồ là thể tích thở ra trong 1s (FEV1) và dung tích sống gắng sức (FVC). Tốc độ lưu lượng dòng thở ra có thể được đánh dấu dựa trên đường cong lưu lượng- thể tích. Đỉnh của đường cong hít vào trên vòng lưu lượng-thể tích gợi ý sự tắc nghẽn đường thở lớn ngoài lồng ngực, trong khi đỉnh của đường cong thở ra gợi ý sự tắc nghẽn đường thở lớn trong lồng ngực. Các thể tích phổi khác bao gồm TLC và RV, được đánh giá ở điều kiện ổn định sử dụng cả heli pha loãng hoặc thể tích ký thân. Tốc độ thể tích và lưu lượng phổi được so sánh với giá trị bình thường của quần thể đánh giá theo tuổi, cân nặng, giới, và chủng tộc.Phế dung đồ

HÌNH 137-1 Phế dung đồ minh họa dung tích sống thở chậm mô tả các loại thể tích khác nhau.

Có hai khía cạnh chính về bất thường chức năng thông khí được phát hiện qua kiểm tra chức năng phổi: hạn chế và tắc nghẽn (Bảng 137-1137-2). Sự hiện diện của tắc nghẽn được xác định bằng sự giảm tỉ lệ FEV1/

FVC (sự bất thường được xác định với ngưỡng < 0.7), và mức độ tắc nghẽn được xác định qua mức giảm FEV1. Khi tắc đường dẫn khí, TLC có thể bình thường hoặc tăng, và RV thường tăng. Khi tắc nghẽn nặng, FVC thường giảm.

Sự hiện diện của bệnh phổi hạn chế được xác định bởi sự giảm thể tích phổi, đặc biệt là TLC. Khi nhu mô phổi là nguyên nhân gây hạn chế, RV cũng giảm, nhưng FEV1/FVC thì bình thường. Khi nguyên nhân ngoài nhu mô gây tổn thương thông khí hạn chế, ví dụ như yếu thần kinh cơ hoặc bất thường về lồng ngực, tác động lên RV và FEV1/FVC là khác nhau. Yếu cơ hô hấp có thể được đánh giá bằng việc đo lường áp lực lớn nhất khi hít vào và thở ra.

BẢNG 137-1 PHÂN LOẠI CHẨN ĐOÁN CÁC BỆNH HÔ HẤP THƯỜNG GẶP

Tắc nghẽn

Hen

Giãn phế quản

COPD

Bệnh xơ nang

Giãn phế nang

Hạn chế – Nhu mô

Sarcoidosis

Bệnh bụi phổi

Xơ hóa phổi tự phát

Viêm phổi kẽ bong vảy

Bệnh phổi kẽ do thuốc hoặc tia xạ

Bệnh phổi amiăng

Hạn chế – Ngoài nhu mô

Thần kinh cơ

Yếu/liệt cơ hoành

Nhược cơ

Hội chứng Guillain Barre

Loạn dưỡng cơ

Chấn thương cột sống cổ

Xơ cứng cột bên teo cơ

Thành ngực

Tràn dịch màng phổi mạn tính

Viêm cột sống dính khớp

Gù-vẹo cột sống

Béo phì

Bệnh mạch phổi

Nhồi máu phổi

Tăng áp động mạch phổi

Ác tính 

Ung thư biểu mô phế quản (tế bào nhỏ hoặc không tế bào nhỏ)

Ung thư di căn phổi

Bệnh viêm nhiễm

Viêm phổi

Viêm khí quản

Viêm phế quản


BẢNG 137-2 SỰ THAY ĐỔI TRONG CHỨC NĂNG THÔNG KHÍ THEO TỪNG BỆNH PHỔI KHÁC NHAU

BẢNG 137-2 SỰ THAY ĐỔI TRONG CHỨC NĂNG THÔNG KHÍ THEO TỪNG BỆNH PHỔI KHÁC NHAU

Viết tắt: Bt: bình thường;

Rối Loạn Tuần Hoàn Phổi

Hệ mạch phổi bình thường điều tiết cung lượng thất phải  (~5 L/phút) với áp lực thấp. Áp lực động mạch phổi (PAP) trung bình khoảng 15 mmHg. Khi cung lượng tim tăng, trở kháng mạch phổi (PVR) thường giảm, dẫn đến PAP trung bình tăng rất ít.

Đánh giá hệ mạch phổi cần áp lực mạch phổi và cung lượng tim để tính được PVR. PVR tăng khi oxy máu hạ (vì co mạch), huyết khối nội thành mạch (vì diện tích chiều ngang bị thu hẹp do tắc nghẽn), hoặc phá hủy các mao mạch phổi (vì thành phế nang bị phá hủy hoặc mất).

Tất cả các bệnh thuộc hệ hô hấp gây hạ oxy máu đều có khả năng gây tăng áp phổi. Tuy nhiên, bệnh nhân hạ oxy máu kéo dài liên quan đến COPD, bệnh phổi kẽ, bệnh thành ngực, và giảm thông khí do béo phì/ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn đều gây tăng áp phổi. Khi mạch máu phổi bị ảnh hưởng trực tiếp, với huyết khối tái diễn ở phổi, sự giảm diện tích cắt ngang hệ mạch phổi là cơ chế chính gây PVR hơn là hạ oxy máu.

Các Rối Loạn Trao Đổi Khí

Chức năng chính của hệ hô hấp là loại bỏ CO2 từ máu ra tuần hoàn phổi và cung cấp O2 tới máu tự hệ mạch phổi. Vt bình thường khoảng 500ml và tần số thở bình thường khoảng 15 nhịp/phút, dẫn tới thông khí phút khoảng 7.5 L/phút. Do có khoảng chết giải phẫu, thông khí phế nang khoảng 5L/phút. Trao đổi khí phụ thuộc vào thông khí phế nang hơn là thông khí phút.

Áp lực riêng phần CO2 trong máu động mạch tỉ lệ thuận với lượng  CO2 thải ra mỗi phút (V˙co2) và tỉ lệ nghịch với thông khí phế nang(V˙A)

Paco2 = 0.863 × V˙co2/V˙A

Sự trao đổi khí hợp lý giữa phế nang và mao mạch phổi bằng cách khuếch tán là yêu cầu cho sự trao đổi khí bình thường. Khuếch tán khí có thể được kiểm tra bằng việc đo lường dung tích khuếch tán của phổi với nồng độ CO thấp (và an toàn) (Dlco) trong 10s ngừng thở. Đo Dl phản ánh chính xác nồng độ Hb của bệnh nhân. Bất thường về khuếc tán khí hiếm khi là nguyên nhân của hạ oxy máu lúc nghỉ ngơi nhưng có thể gây hạ oxy máu lúc gắng sức. Thông khí hạn chế cùng Dlco giảm gợi ý bệnh nhu mô phổi. Bệnh nhân có dung tích phổi bình thường, thể tích phổi bình thường, Dlco giảm cân nhắc bệnh mạch phổi. Sự trao đổi khí phụ thuộc vào sự phù hợp giữa thông khí và khuếch tán.

Đánh giá trao đổi khí thường thông qua khí máu, nó cung cấp thông số áp lực riêng phần của O2 CO2.

Lượng O2 thực tế trong máu được xác định bởi cả Po2 và nồng độ Hb. Sự khác biệt O2 phế nang-động mạch [(A − a) gradient] có thể cung cấp thông tin hữu ích khi đánh giá bất thường trao đổi khí.

(A − a) gradient bình thường  <15 mmHg ở người dưới 30 tuổi nhưng tăng lên theo tuổi. Để tính toán (A − a) gradient, Po2 (Paco2) phế nang được tính theo công thức:

Pao2 = Fio2 × (PB − PH2O) − Paco2/R

trong đó Fio2 = nồng độ O2 trong hỗn hợp khí thở vào (0.21 trong trường hợp hít khí trời), PB = áp suất khí quyển (760 mmHg ở mực nước biển), PH2O = áp lực hơi nước (47 mmHg khi không khí bão hòa ở37°C), và R = thương số hô hấp (tỉ lệ  CO2 sinh ra và sự tiêu thụ O2, thường được thừa nhận là 0.8). Giảm oxy máu động mạch nặng hiếm khi xảy ra vì giảm thông khí phế nang trong khi hít thở không khí tại mực nước biển.  (A − a) gradient được tính toán bằng cách trừ bớt Pao2 đo được từ Pao2 tính được.

Tính thích hợp trong việc đào thải  CO2 được phản ánh trong việc định lượng áp lực riêng phần CO2 trong khí máu động mạch. Máy đo oxy dựa vào mạch đập là một công cụ giá trị, được sử dụng rộng rãi và không xâm nhập để đánh giá độ bão hòa oxy, nhưng nó không cung cấp thông tin về Paco2. Những hạn chế khác của máy đo oxy dựa vào mạch đập bao gồm tính không nhạy tương đối với sự thay đổi oxy khi Pao2>60 mmHg, các vấn đề khi gặp phải dấu hiệu tương ứng khi tưới máu da giảm, và không có khả năng phân biệt oxyhemoglobin với các dạng hemoglobin khác, ví dụ như carboxyhemoglobin và methemoglobin.

Cơ Chế Sự Bất Thường Về Chức Năng Hô Hấp

Bốn cơ chế cơ bản gây hạ oxy máu là (1) giảm Po2 hít vào,  (2) giảm thông khí, (3) shunt, và (4) mất tương xứng giữa thông khí/tống máu. Giảm Po2 hít vào (ví dụ: độ cao) và giảm thông khí (đặc trưng bởi tăng Paco2)  cả hai trường hợp giảm oxy máu động mạch gây nên bởi giảm oxy phế nang; vì vậy,  (A − a) gradient vẫn bình thường. Dòng shunt (ví dụ, dòng shunt ở tim) gây hạ oxy máu bằng cách đi vòng quanh các mao mạch phế nang. Dòng shunt được đặc trưng bởi sự tăng (A − a) gradient và khó hồi phục khi bổ sung O2. Mất tương xứng giữa thông khí/tống máu là nguyên nhân hay gặp nhất gây hạ oxy máu, nó liên quan tới sự tăng (A − a) gradient, nhưng sự bổ sung O2 đáp ứng lại sự thiếu oxy bằng cách tăng thể tích oxy máu từ những vùng có tỉ lệ thông khí/tưới máu thấp. Một sơ đồ tiếp cận bệnh nhân hạ oxy máu được trình bày tại Hình. 137-2.

Tăng CO2 máu gây nên bởi sự thông khí phế nang không thích hợp. Các yếu tố gây tăng CO2 bao gồm:(1) tăng sản xuất CO2, (2) giảm điều khiển thông khí, (3) suy chức năng bơm hô hấp hoặc tăng kháng trở đường thở, và (4) trao đổi khí không hiệu quả (tăng khoảng chết hoặc mất tương xứng giữa thông khí/tống máu).

chẩn đoán bệnh nhân hạ oxy máu

HÌNH 137-2 Sơ đồ tiếp cận chẩn đoán bệnh nhân hạ oxy máu. COPD, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính

Mặc dù những bất thường về khuyếch tán khí hiếm khi gây nên hạ oxy máu khi nghỉ ngơi, việc đo Dlco có thể được sử dụng để xác định chức năng của màng phế nang-mao mạch. Các bệnh chỉ tác động lên đường thở không gây giảm Dlco. Dlco giảm trong bệnh phổi kẽ, khí phế thũng, và bệnh mạch máu phổi. Dlco có thể tăng trong trường hợp xuất huyết phế nang, hen và suy tim sung huyết.

PHƯƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN

PHƯƠNG PHÁP KHÔNG XÂM LẤN

Nghiên Cứu Về Xquang Ngực

Xquang ngực (CXR), bao gồm tư thế trước sau và tư thế nghiêng, thường là phương tiện chẩn đoán đầu tay ở các bệnh nhân có các triệu chứng hô hấp. Với một số loại trừ (ví dụ: tràn khí màng phổi), Xquang ngực thường không đủ đặc hiệu để xác định chẩn đoán; thay vì đó Xquang ngực phục vụ cho việc nhận biết bệnh, đánh giá độ ác tính và hướng tới những hướng chẩn đoán xa hơn. Với bệnh phổi lan tỏa, Xquang ngực có thể phát hiện ở mức phế nang, kẽ hoặc nốt. Xquang ngực cũng có thể phát hiện tràn dịch màng phổi và tràn khí màng phổi, cũng như những bất thường về rốn phổi và trung thất. Tư thế nằm nghiêng có thể được sử dụng để ước lượng mức độ tràn dịch màng phổi tự do.

CT ngực được sử dụng rộng rãi để làm sáng tỏ những bất thường trên Xquang ngực. Những ưu điểm của CT ngực so với Xquang ngực bao gồm (1) khả năng phân biệt được các cấu trúc bên trên do có hình ảnh cắt ngang theo vùng. ; (2) đánh giá tỉ trọng của mô, cho phép nhận định chính xác kích thước và tỉ trọng các nốt ở phổi và nhận diện những bất thường liền kề với thành ngực, ví dụ như bệnh màng phổi; (3) với việc tiêm cản quang tĩnh mạch, khả năng phân biệt các cấu trúc thuộc mạch máu và không thuộc mạch máu, điều này đặc biệt hữu ích trong việc đánh giá bất thường ở rốn phổi và trung thất; (4) với CT mạch máu, có thể nhận biết được nhồi máu phổi; và (5) vì các chi tiết có thể nhìn thấy được nên làm tăng sự nhận diện các bệnh nhu mô và đường thở, bao gồm khí phế thũng, giãn phế quản, carcinoma bạch huyết và bệnh phổi kẽ.

Các kĩ thuật chẩn đoán hình ảnh khác ít được sử dụng hơn trong việc đánh giá bệnh hô hấp. Chụp cộng hưởng từ MRI ít được dùng hơn so với CT trong việc đánh giá hệ hô hấp nhưng có thể hữu ích như là một công cụ không có tia xạ để hỗ trợ đánh giá bệnh tim mạch trong lồng ngực và để phân biệt các cấu trúc thuộc mạch máu và không thuộc mạch máu mà không cần tiêm cản quang. Siêu âm không hữu ích trong đánh giá nhu mô, nhưng có thể phát hiện được bất thường về màng phổi và giúp hướng dẫn chọc dịch màng phổi. Chụp mạch phổi có thể đánh giá hệ mạch phổi trong trường hợp có huyết khối tĩnh mạch nhưng đã được thay thế bởi CT mạch.

Y Học Hạt Nhân Hình Ảnh

Chụp hình sự thông khí – tưới máu phổi có thể được dùng để đánh giá huyết khối ở phổi nhưng đã được thay thế bởi CT mạch. Ghi hình bằng bức xạ positron (PET) là sự đánh giá và phân tích sự chuyển hóa của glucose đã được đánh dấu bức xạ.

Vì các tổn thương ác tính thường tăng hoạt động chuyển hóa, chụp PET, đặc biệt khi kết hợp với CT tạo thành PET/CT, rất hữu dụng khi đánh giá các nốt ở phổi để đánh giá sự ác tính và giai đoạn ung thư phổi. PET bị hạn chế khi tổn thương có đường kính <1 cm; sự sàng lọc sẽ âm tính với những tổn thương có sự chuyển hóa kém, ví dụ như ung thư biểu mô tế bào tiểu phế quản phế nang. Các dấu hiệu dương tính giả trên PET có thể nhận thấy trong trường hợp viêm, ví dụ như viêm phổi.

Xét nghiệm đờm

Đờm có thể có thể lấy được bằng cách khạc tự nhiên, hoặc sau hít hóa chất từ bình phun như hypertonic saline. Đờm được phân biệt với nước dãi bởi sự hiện diện của tế bào biểu mô và đại thực bào phế nang trái ngược với tế bào biểu mô vảy. Xét nghiệm đờm bao gồm sự xem xét có mặt của máu, màu sắc, mùi, cũng như nhuộm Gram và nuôi cấy vi khuẩn thông thường. Nuôi cấy vi khuẩn từ đờm khạc ra có thể bị nhầm lẫn vì nhiễm hệ vi khuẩn chí từ họng miệng. Bệnh phẩm đờm có thể đánh giá được nhiều nguyên nhân khác, như mycobacteria, nấm và virus. Bệnh phẩm đờm sau khi hít hypertonic saline có thể nhuộm để xác định sự có mặt của Pneumocystis jiroveci. Xét nghiệm tế bào từ bệnh phẩm đờm có thể được áp dụng như một test sàng lọc ban đầu về bệnh ác tính.

PHƯƠNG PHÁP XÂM NHẬP

Nội soi phế quản

Nội soi phế quản là một phương pháp cung cấp cái nhìn trực tiếp cây khí phế quản, đặc biệt là phân mức thứ bậc. Nội soi huỳnh quang được dùng trong hầu hết trường hợp, nhưng nội soi ống cứng lại có giá trị trong các trường hợp đặc biệt, bao gồm trường hợp chảy máu ồ ạt và để loại bỏ dị vật. Nội soi huỳnh quang ống mềm cho phép quan sát đường thở; nhận diện được các bất thường trong phế quản, bao gồm khối u và vị trí chảy máu; và giúp lấy bệnh phẩm để chẩn đoán bằng cách rửa, chải, sinh thiết. Rửa phế quản nhờ muối saline vô trùng nhỏ giọt qua ống nội soi vào bề mặt tổn thương; một phần saline sẽ quay trở lại qua ống nội sôi và được xét nghiệm tế bào và vi sinh. Chải phế quản có thể chạm tới bề mặt tổn thương phế quản hoặc từ một khối xa hơn hoặc một khối thâm nhiễm (dưới sự hướng dẫn của nội soi huỳnh quang) giúp nghiên cứu về tế bào học và vi sinh học. Kim sinh thiết có thể được dùng để sinh thiết tổn thương trong phế quản hoặc đi xuyên qua nhu mô phế nang quanh phế quản (thường dưới hướng dẫn của nội soi huỳnh quang) để sinh thiết xuyên phế quản với nhu mô phổi ở phía xa hơn. Sinh thiết xuyên phế quản đặc biệt hữu dụng trong chẩn đoán viêm nhiễm lan tỏa, sự lan rộng khối u theo đường bạch mạch và các bệnh u hạt. Các biến chứng của sinh thiết xuyên phế quản bao gồm chảy máu và tràn khí màng phổi.

Rửa phế quản phế nang (BAL) phụ thuộc vào nội soi huỳnh quang, cho phép lấy tế bào và dịch từ khoảng không phía xa. Sau khi đưa ống nội soi vào đường thở, saline sẽ được nhỏ và sau đó quay trở lại ống nội soi để tiến hành phân tích, bao gồm tế bào học, vi sinh và đếm số lượng tế bào. BAL đặc biệt hữu dụng trong chẩn đoán viêm phổi do P. jiroveci và một vài bệnh viêm nhiễm khác.

Nội soi phế quản lấy bệnh phẩm từ các khu vực gần khí quản hoặc từ các phế quản lớn làm tế bào học đánh giá độ ác tính bao gồm kim chọc hút xuyên phế quản (TBNA). TBNA có thể được hỗ trợ cùng với siêu âm xuyên phế quản (EBUS), cho phép hướng dẫn sự chọc hút các hạch lympho ở rốn phổi và trung thất.

Kim Chọc Hút Phổi Dưới Da

Kim có thể đưa xuyên qua thành ngực và đưa vào tổn thương phổi để lấy bệnh phẩm làm xét nghiệm tế bào học và vi sinh học. Kim chọc hút dưới da thường được dùng dưới sự hướng dẫn của CT. Do kích thước nhỏ của bệnh phẩm lấy được, các lỗi của bệnh phẩm là hạn chế của phương pháp này.

Chọc Hút Màng Phổi

Chọc hút màng phổi nên được sử dụng như là bước đầu tiên trong quá trình đánh giá dịch màng phổi chưa rõ nguyên nhân. Phân tích dịch màng phổi có thể xác định được nguyên nhân của tràn dịch. Chọc hút dịch màng phổi số lượng lớn có thể là liệu pháp điều trị giúp làm giảm khó thở.

Nội Soi Trung Thất

Sinh thiết nhu mô các khối ở trung thất hoặc hạch lympho thường được thực hiện để chẩn đoán ung thư và giai đoạn của ung thư. Nội soi trung thất được thực hiện phía trước xương ức, và ống nội soi cứng được đưa vào để sinh thiết. Hạch lympho ở khu vực phổi- động mạch chủ yêu cầu cần phải mở trung thất cạnh xương ức mới có thể sinh thiết.

Phẫu Thuật Lồng Ngực Có Video Hỗ Trợ

Phẫu thuật lồng ngực có video hỗ trợ (VATS), hay còn gọi là nội soi lồng ngực, được sử dụng rộng rãi trong chẩn đoán tổn thương màng phổi cũng như tổn thương thâm nhiễm nhu mô ngoại vi và hạch. VATS, đòi hỏi bệnh nhân chịu được thông khí phổi đơn độc trong suốt thủ thuật, đưa một ống soi cứng cùng camera qua một troca vào khoang màng phổi; thiết bị có thể được đưa vào và thao tác qua lỗ rạch ở khoang liên sườn. VATS đã thay thế “sinh thiết mở” – can thiệp cần phải mở lồng ngực.

Bài thuốc chữa bệnh trĩ hiệu quả – bổ trung ích khí gia tam thất

Xuất xứ về bài thuốc bổ trung ích khí gia tam thất

Thành phần vị thuốc trong bài thuốc bổ trung ích khí gia tam thất được xây dựng từ bài “Bổ trung ích khí thang” còn gọi là “Điều trung ích khí thang” nằm trong “Tỳ vị luận” của Lý Đông Viên, một danh y Trung quốc đời Kim thế kỷ XIII. Dựa trên cơ sở lý luận và kinh nghiêm thực tiễn của mình ông cho rằng trong ngũ tạng lục phủ thì tỳ vị đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động chức năng của các tạng phủ trong cơ thể con người. Ông đưa ra nhận định là trăm bệnh đều do tỳ vị bị tổn thương. Trong bài, các vị thuốc có tác dụng: “Ôn bổ tỳ vị, thăng cử trung khí” giúp cho điều trị mọi chứng sa, khí hư hạ hãm có hiệu quả tốt

Hải Thượng Lãn Ông sử dụng bài thuốc này điều trị các bệnh về hậu thiên trong quyển I “Khôn hoá thái chân”. Mục đích chủ chốt của bài này là “thăng đề dương khí” điều trị chứng tỳ khí hư hạ hãm gây sa nội tạng như sa dạ dầy, sa sinh dục, sa trực tràng, trĩ

Nội dung bài thuốc bao gồm:

Đảng sâm                       16g

Trích hoàng kỳ              12g

Xuyên qui                      12g

Bạch truật                      12g

Thăng ma                       12g

Sài hồ                                      10g

Trần bì                           08g

Trích cam thảo               06g.

Công dụng:

ích khí thăng dương, điều bổ tỳ vị.

ứng dụng lâm sàng

  • Chữa tỳ vị khí hư, ăn kém mệt mỏi, tự ra mồ hôi hoặc thấy phát sốt, mạch hữu vô lực.
  • Chữa chứng tỳ khí hư hạ hãm gây sa nội tạng như : Sa dạ dầy, sa sinh dục, sa trực tràng, trĩ.
  • Chữa các chứng chảy máu kéo dài do rong kinh, rong huyết, do tỳ khí hư không nhiếp huyết.
  • Chữa sốt kéo dài, người mệt mỏi, chân tay vô lực, bụng đầy khát, đại tiện lỏng hay nôn.

Phân tích bài thuốc

Trong bài lấy Hoàng kỳ, Đảng sâm là bộ phận cấu tạo chủ yếu của bài thuốc, dùng 2 vị với tính vị cam ôn để ích khí. Trong đó, lấy Hoàng kỳ, Đảng sâm làm chủ dược có công dụng thăng bổ, phối ngũ với Thăng ma,Sài hồ để thăng đề dương khí. Đặc điểm phối ngũ của bài thuốc chính là sự kết hợp giữa các vị thuốc thăng đề cới các vị thuốc bổ khí. Bạch truật, Trần bì, Xuyên quy, Cam thảo dùng để kiện tỳ, lý khí dưỡng huyết, hoà trung. Tác dụng của bài thuốc là điều bổ tỳ vị, thăng dương ích khí mà chữa được chứng khí hư hạ hãm

Trong điều trị trĩ nội chảy máu kết hợp thêm tam thất nhằm mục đích chỉ huyết, khứ ứ, tiêu viêm.

Công năng, tác dụng, tính vị qui kinh của các vị thuốc :

Đảng sâm (codoropsinsp): Còn có tên là phòng đảng sâm, lộ đảng sâm, xuyên đảng sâm, đông đảng sâm, rầy cáy, mần cáy.

* Bộ phận dùng: Rễ củ phơi khô của cây đảng sâm họ hoa chuông (câmpnulaccae)

* Thành phần hoá học: Trong đảng sâm có Saponin, đường, chất béo

* Tác dụng dược lý cho chất đảng sâm làm tăng lượng huyết đường, hạ huyết áp, tăng hồng cầu, hạ bạch cầu.

* Tính vị quy kinh: Vị  ngọt, tính bình vào kinh tỳ phế.

* Công năng: Bổ trung ích khí, sinh tân, chỉ khát, an thần

* Trên lâm sàng dùng chữa tỳ hư, ăn không tiêu, chân tay yếu mỏi, phế hư sinh ho, phiền khát, mất ngủ

* Liều lượng: 8-20g/ngày

Hoàng kỳ ( Radix Astragali Membranacei):

Là rễ phơi khô của cây Hoàng kỳ họ Đậu (Leguminae) là một trong các vị thuốc chuyên về bổ khí.

  • Thành phần hoá học: có astragalus, acetyl lastragaloside I, calycosin, saccharose, glucose tinh bột, chất nhầy, cholin, betain, nhiều loại acid amin, calycosin
  • Tác dụng dược lý: Hoàng kỳ làm tăng cường sức đề kháng của cơ thể, tăng co bóp cơ tim, giãn mạch ngoại vi, lợi liệu chống viêm.
  • Tính vị quy kinh: vị ngọt, tính hơi ấm vào kinh Tỳ, Phế.
  • Công năng: Bổ trung, ích khí, ích vệ, cố biểu, lợi thuỷ, tiêu thũng, khứ độc, sinh cơ.
  • Hoàng kỳ là vị thuốc sử dụng trên lâm sàng trong các trường hợp như tỳ, phế khí hư, trung khí hư hạ hãm, vệ khí hư gây tự hãm, khí hư thuỷ thấp không vận hoá làm phù mặt, khí huyết bất túc làm cho các vết thương lâu lành. Ngoài ra còn điều trị các chứng, khí huyết lưỡng hư, tứ chi tê mỏi, trúng phong gây bán thân bất toại, khí hư làm bí đại tiện, tiêu khát
  • Như vậy: Hoàng kỳ và Nhân sâm là hai vị thuốc bổ khí tốt hay phối ngũ với nhau nhưng Nhân sâm sinh tân dịch và huyết dịch thiên về bổ chân âm, Hoàng kỳ ôn dưỡng tỳ dương kiêm bổ vệ khí thiên về bổ chân dương của ngũ tạng.

Bạch truật ( Rhizoma Atractylodis Macrocephalae):

Còn gọi là Đồng truật, Cống truật, Triết truật, U truật , thân rễ phơi khô của cây Bạch truật Atractylodes Macrocephala Koidz, họ Cúc (Asteraceae), có chứa 1,4% tinh dầu gồm: atractylol, atractylenolid I, II, III, eusdesmol và vitamin A .

  • Tác dụng dược lý: Bạch truật làm cường tráng cơ thể, lợi niệu, chống đông máu, bảo vệ gan, chống khối u, kháng khuẩn.
  • Tính vị quy kinh: Vị đắng, ngọt, tính ấm, vào kinh tỳ vị.
  • Công năng: Bổ khí, kiện tỳ, sinh huyết, táo thấp, lợi thuỷ, cố biểu, chỉ hãn, an thai. Đây là vị thuốc được sử dụng trên lâm sàng trong các trường hợp như tỳ khí hư nhược,rối loạn tiêu hoá, đoản khí, mệt mỏi, thuỷ thũng do tỳ hư, thấp thịnh, khí hư, đại tiện bí, thấp tỳ mà lưng gối đau, biểu hư tự hãn, thai động do khí hư.
  • Liều dùng: 12-16g/ngày.

Đương quy (Radix angelicae sinensis): Rễ cây phơi khô của cây Đương quy Angelica sinensis (Olive) diels, họ Hoa tán (Apiaceae).

  • Thành phần hoá học: Trong Đương quy có tinh dầu 0,2% ( 40% acid tự do, ligustilide, nbutyliden, phthalide, bergapten, sesquiterpen dodecanol, tetradecanol, safrol, p.cymen, carvacrol, cadinen, vitamin B120,25- 0,40%, acid folimic, biotin)
  • Tác dụng dược lý: Đương quy chống thiếu máu, giảm mỡ máu, điều tiết, trấn tĩnh hệ thống thần kinh, tăng tốc độ lưu huyết, cải thiện lưu lượng máu, nuôi dưỡng cơ tim, chống loạn nhịp tim, tăng khả năng nhận oxy của hồng cầu, ức chế kết tụ tiểu cầu, chống hình thành đông máu, tăng co bóp cơ trơn bàng quang và ruột non .
  • Tính vị quy kinh: Vị ngọt, cay, đắng, tính ấm vào kinh can, tâm, tỳ, phế.
  • Công năng: Bổ huyết điều kinh, hoạt huyết chỉ thống, trừ độc , sinh cơ, chỉ khái bình suyễn

Đây là vị thuốc thường được sử dụng trên lâm sàng trong các trường hợp như huyết hư, sắc mặt xanh nhợt, móng tay móng chân nhợt, kinh nguyệt không đều, bế kinh, thống kinh, kinh quá nhiều, băng kinh, sản hậu, chấn thương gây ứ huyết, đau mỏi, tê chân tay, trúng phong, bán thân bất toại, lở loét ngoài da, khái suyễn, tâm huyết bất túc dẫn đến hồi hộp đánh trống ngực , mất ngủ, hay quên

  • Liều dùng: 12-24g/ngày.

Thăng ma (Rhizoma cimicifugae):

Còn gọi là Đông bắc thăng ma, Hưng an thăng ma, Đại tam diệp thăng ma. Thân rễ phơi khô của cây Thăng ma Cimicifuga dahusica (Turer) Maxim, họ Mao lương ( Ranunculaceae).

  • Thành phần hoá học: Thăng ma có chứa cimicifugol, cimigol, cimicifugenol, 25 ometylcimigenol tanin và acid béo.
  • Tác dụng dược lý: Thăng ma có thể kháng viêm, chống đau, kháng vi khuẩn.
  • Tính vị quy kinh: Vị cay ngọt, tính hơi hàn vào kinh tỳ, phế, vị, đại trường.
  • Công năng: Thanh nhiệt, giải độc, giải biểu , thấu chẩn, thăng dương.

Thăng ma là vị thuốc thường được sử dụng trên lâm sàng trong các trường hợp như: Đau đầu do phong nhiệt dương minh, nhiệt thịnh, đau đầu, viêm họng lở loét họng lưỡi, khí hư hạ hãm, đoản khí, sa tạng phủ (sa dạ dày, sa sinh dục, sa trực tràng…)

  • Liều dùng: 6-12g/ngày.

Sài hồ (Radix bupleuri) :

Còn gọi là Bắc sài hồ, Sài hồ diệp, rễ phơi khô của cây Sài hồ họ Hoa tán (Apiaceae)

  • Thành phần hoá học: Có 0,5% saponin, spinasterol, stigmast – 7- enol, 1 chất rượu là bupleurumola C37H48O2 và tinh dầu.
  • Tác dụng dược lý: Sài hồ làm hạ nhiệt, giảm đau, chống viêm, chống loét, giảm cholesterol máu, ức chế vi khuẩn, tăng cường khả năng miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào.
  • Tính vị quy kinh: Vị cay đắng, tính hơi hàn, vào kinh can, đởm.
  • Công năng: Giải biểu , hạ nhiệt, sơ can, thăng đề dương khí.

Đây là vị thuốc được sử dụng trên lâm sàng trong các trường hợp như ngoại cảm phát sốt, hàn nhiệt vãng lai, can khí uất trệ dẫn tới đau tức ngực sườn, ở phụ nữ kinh không đều, thống kinh, khí hư hạ hãm, sa trực tràng

  • Liều dùng: 8-16g/ngày.

 Trần bì (Peiricarpium Citri Reticulatae):

Còn gọi là Hoàng quyết, là vỏ của cây quýt Citrus deliciosa Tenore, họ Cam quýt ( Rutaceae)  càng để lâu năm càng tốt.

  • Thành phần hoá học: Có tinh dầu 3,8% hesperidin C50H6O27, vitamin A,B và 0,8% tro.
  • Tác dụng dược lý: Tinh dầu kích thích tiêu hóa dạ dầyvà đại tràng có khả năng điều trị cảm giác đầy chướng trong bệnh ruột và đại tràng mạn tính, tăng tiết dịch dạ dày, chống viêm giãn phế quản, cắt cơn hen.
  • Tính vị quy kinh: Vị cay, đắng, tính ấm vào kinh tỳ, phế.
  • Công năng: Lý khí hòa trung, táo thấp hóa đàm.
  • Đây là vị thuốc thường dùng trên lâm sàng trong các trường hợp như bụng đầy trướng, thấp trở ở tỳ,vị, nôn do vị hàn khí nghịch, khí hư gây đại tiên bí, ho nhiều đờm, đau ngực.
  • Liều dùng: 4-8 g/ngày.

Cam thảo (Radix Glycyrrhizae Uralensis):

Còn gọi là Quốc lão hoặc Bắc cam thảo là rễ hoặc thân phơi khô của cây Cam thảo Glycyrrhizae uralenses  Fish, họ Cánh bướm ( Fabaceae).

  • Thành phần hoá học: Trong Cam thảo có thấy glucid 4,7 – 10,97%, tinh bột 4,77 – 5,92% hoạt chất thuộc nhóm saponoid là glycyrrhizin huộc nhóm flavonoid là liquirtin, giquiritigenin licurazid, isoquiritin, isoliquiritigenin,neoliquiritin, neoisoliquiritin.
  • Tác dụng dược lý: Cam thảo có tác dụng giống hormon của vỏ thượng thận giữ muối và nước, chống viêm, chống dị ứng, chống co thắt, chống loét, giải độc, trừ ho, long đờm, giảm mỡ máu, ổn định thần kinh tiền đình.
  • Tính vị quy kinh: Vị ngọt, tính bình, vào kinh tỳ, phế, vị, tâm.
  • Công năng: Bổ trung ích khí, trừ đàm, chỉ thống, tiêu thũng, giải độc, làm hòa hoãn dược tính của các vị thuốc, điều tiết acid bảo vệ dạ dày.
  • Đây là vị thuốc sử dụng trên lâm sàng trong các trường hợp như tỳ vị hư, khí hư, huyết thiếu, hồi hộp, tự hãn, mồ hôi ra quá nhiều, ho, khó thở, bụng và tứ chi đau, loét ở miệng lưỡi, ung nhọt, làm điều hòa các vị thuốc và một số bệnh nội tiết.
  • Liều lượng dùng : 4-6/ ngày.

Tam thất (Panax Pseudo – ginseng)

Là rễ phơi khô của cây tam thất thuộc họ ngũ gia bì (Araliaceae).

Thành phần hoá học: Trong tam thất có 2 chất saponin: ArasaponinA và ArasaponinB.

  • Tác dụng dược lý: Tăng sức đề kháng của cơ thể, có khả năng kháng lại hiện tượng giảm Prothrombin trong máu thỏ và giảm khả năng máu đông gây thực nghiệm với dicuma-rol.

Tính vị quy kinh: Ngọt, đắng, ấm và kinh can, vị.

Công năng: Khứ ứ chỉ huyết, tiêu viêm, chỉ thống.

Dùng vị thuốc sử dụng trên lâm sàng trong các trường hợp sau:

Chảy máu do ứ huyết, ho ra máu, nôn ra máu, lỵ, rong kinh, rong huyết, sau khi đẻ bị rong huyết, làm mất cơn đau do sưng huyết: Ngã sưng đau, mụn nhọt sưng đau, đau dạ dày, thống kinh, đau do khí trệ, đau khớp.

Ngoài ra, tại chỗ chữa các vết thương chảy máu bằng cách rốc bột tam thất.

Liều dùng: 1,5g –  6g/ 1 ngày

Khái quát chung, các vị thuốc tạo thành bài “Bổ trung ích khí” có tác dụng tăng cường chức năng tiêu hoá tiếp thu, tiêu viêm và cầm  máu, phù hợp để điều trị trĩ nội xuất huyết. Bổ trung ích khí đã được bậc tiền bối gia tam thất nhằm tăng cường khả năng chỉ huyết và nâng cao sức khoẻ toàn thân, ứng dụng điều trị trĩ càng phù hợp hơn.

Thái sơn bàn thạch tán – Bài thuốc an thai

Thành phần

Nhân sâm 3-5g, Chích Hoàng kỳ 15g, Đương qui 8g, Xuyên Tục đoạn 5g, Hoàng cầm 5g, Bạch thược (sao rượu) 6g, Bạch truật (sao) 10g, Thục địa 10g, Xuyên khung 4g, Chích Cam thảo 4g, Sa nhân 4g, Gạo nếp 1 nắm 5g.

Nhân sâm vị thuốc Bổ khí trong Đông y
Nhân sâm vị thuốc Bổ khí trong Đông y

Cách dùng

Nước một bát rưỡi, sắc 7 phần, uống xa bữa ăn. Nhưng có thai, 3-5 ngày thường uống 1 lần, sau 4 tháng, không lo nữa. Hiện nay một tễ sắc 3 lần uống lức bụng rỗng sáng trưa tối.

Tác dụng

Bổ khí kiện tỳ, dưỡng huyết an thai.

Chủ trị

Phụ nữ có thai, khí huyết lưỡng hư. Thai động không yên hoặc liên tiếp trụy thai, mắc mặt trắng nhạt, mệt mỏi vô lực, không muốn ăn uống, lưỡi chất nhạt, rêu trắng mỏng, mạch hoạt vô lực hoặc trầm nhược.

Phương giải

Phương này là phương tễ an thai, trên cơ sở bát trân thang bỏ đi Phục linh, thêm xuyên Tục đoạn, Hoàng cầm, Sa nhân, ngạnh mễ mà thành. Từ điểm này lý giải trong bổ trung ích khí của “bổ khí” tại sao bỏ Phục linh, ở đây tại sao bỏ Phục linh? Vì cần an thai. Vì khí huyết hư, bản thân thai không đủ nên cố gắng tránh thuốc thẩm thấp. Do đó trong khí dùng Phục linh đều cần xem xét đến tác dụng hai mặt, tức bổ khí tâm tỳ, còn thẩm thấp hạ hành. Khi an thai cần khí đủ, cần khiến thai ổn cố, thì không thể dùng thuốc hạ hành. Ngoài ra, trên cơ sở bát trân thang thêm Hoàng kỳ, Sa nhân, Tục đoạn, Hoàng cầm, ngạnh mễ. Ở đây đưa ra vấn đề Hoàng cầm và Bạch truật là “ thánh dược an thai”. Vì thường nói, trị bệnh phụ khoa “ tiền sản nghi lương, hậu sản nghi ôn”, (trước đẻ nên lương, sau đẻ nên ôn), vì thuốc quá nhiệt không lợi cho sự an tịnh phát dục của thai, thai dễ động. Cần để thai cố thể vững chỗ, có thể phát dục rất tốt, thì cần dựa vào khí huyết cơ thể mẹ. Khí huyết cơ thể mẹ chủ yếu dựa vào hậu thiên mà ra, nên dùng Bạch truật để kiện tỳ, thêm tác dụng mạnh tỳ. Đồng thời phối hợp Hoàng cầm thanh nhiệt, như vậy có thể kiện tỳ lại có thể thanh nội nhiệt, như vậy có thể khiến thai bình an trưởng thành, nên nói nó là thánh dược an thai, thì đảm bảo có thể bảo vệ thai, đây là không đúng. Đồng thời thông qua vấn đề này cũng nói rõ an thai là an thế nào, an thai cũng không chỉ là dùng thuốc lương, khi khí huyết đại hư mà hư hàn, ôn dược thích hợp cũng cần dùng, ví dụ phương tễ này chính là như vậy.

Ở đây còn đưa ra vấn đề ngạnh mễ. Ngạnh mễ không chỉ dưỡng khí tỳ vị, còn bổ phế khí. Nên trước đây phương tễ bổ phế dùng ngạnh mễ, trong phương tễ bổ vị dùng ngạnh mễ.

Tục đoạn có thể bổ can thận. Bởi có tên tục đoạn chính là vì bổ can thận thì có thể nối liền gân cốt. Vì can chủ cân, thận chủ cốt, sau khi bổ can thận thì có thể thúc đẩy sự sinh trưởng, mạnh lên của gân cốt. Ngoài ra, Tục đoạn còn có 1 tác dụng chính là thông lợi huyết mạch do đó trong phối ngũ dùng để an thai, cần chú ý phối ngũ với thuốc bổ khí. Vì nó tuy là bổ can thận nhưng nó lại thông lợi huyết mạch. Ở đây là muốn an thai nếu dùng quá nhiều thì mâu thuẫn với mục đích cần nhất là an thai. Do đó trong điều trị phụ khoa bệnh kinh nguyệt có đau lưng, trong thời kỳ kinh nguyệt đối với lượng dùng Tục đoạn cũng cần chú ý. Vì Tục đoạn bổ mà thông, thực tế lâm sàng chúng ta thích dùng Đỗ trọng, Tang kí sinh hơn, để an thai mà dùng tốt hơn Tục đoạn. Đặc biệt là khi thai động không yên, có ra máu lượng ít, bỏ Xuyên khung thêm Đỗ trọng thán. Nhưng với sảy thai liên tiếp, không có dấu hiệu báo sảy thai thì thái sơn bàn thạch tán trên cơ bản là dùng được, vì cô ta còn chưa phát hiện dấu hiệu báo trước sảy thai chỉ là do mấy lần có bầu đều xảy ra xảy thai, có thể dùng phương này sau khi có thai dùng uống khi còn chưa có hiện tượng sảy thai, tăng cường tác dụng an thai.

Cách chữa trẻ con bị ỉa chảy tại nhà

Ỉa chảy là một loại bệnh do chức năng dạ dày và đường ruột rối loạn gây nên thường thấy ở trẻ con, đặc trưng lâm sàng của bệnh này là, số lần đi ỉa tăng lên nhiều, phân loãng hoặc như bọt lòng đỏ trứng gà và kèm theo cặn bã khác.

Bệnh này vào mùa hè và mùa thu trẻ con mắc nhiều, nhất là trẻ con trong vòng 2 tuổi, dễ làm cho trẻ con mất nước, bị choáng. Mắc bệnh nhiều lần sẽ dẫn tới suy dinh dưỡng, ảnh hưởng rất lớn tới sức khoẻ của trẻ con. Nguyên nhân thường thấy ở bệnh này là ăn uống không hợp vệ sinh, bị nhiễm lạnh hoặc bị nhiễm vi rút V. V…

Nội dung chữa trẻ con bị ỉa chảy

Tìm ra nguyên nhân gây bệnh, tìm phương pháp chữa bệnh đúng nguyên nhân gây bệnh.

Điều chỉnh và hạn chế ăn uống, giảm bớt gánh nặng cho đường ruột và dạ dày. Trẻ mới bắt đầu bị nặng, nên nhịn ăn từ 8 – 24 giờ, đồng thời cho uống nước muối, đường nhạt. Căn cứ vào bệnh tình mà tăng dần mức ăn uống của trẻ. Tăng thức ăn mới cũng phải dần dần.

Thức ăn và bát đĩa đều phải chú ý khử trùng. Thức ăn ướp lạnh không được quá 2 ngày, trước khi ăn cũng phái hâm nóng hoặc nấu chín.

Động viên mẹ cho con bú, không nên thôi cho con bú vào mùa hè.

Cách chữa ỉa chảy do rối loạn cơ năng
Cách chữa ỉa chảy do rối loạn cơ năng

Phương pháp trị bên trong

Phương thuốc hiệu nghiệm.

  1. Hoa lựu 25 gam, ngó sen, 4 đoạn, mạch nha 10 gam, sắc uống, ngày 2 lần.
  2. Rau dền 15 gam, kim anh tử 15 gam, cỏ bờm ngựa 10 gam, sắc uống, ngày 2 lần.
  3. Thương truật, bạch truật, trạch tả, phòng phong, cam thảo, mỗi thứ 3 gam, trần bì, hậu phác, phục linh, trư linh, thăng ma. nhục đậu khấu mỗi thứ 6 gam, sắc uống ngày 2 lần. Dùng cho trẻ hư hàn tả (triệu chứng: phân loãng, không thối, chân tay không ấm).
  4. Sơn tra, thần khúc, chế bán hạ, hạt cải củ, trần bì mỗi thứ 6 gam, mạch nha, phục linh, mỗi thứ 9 gam, liên kiều 5 gam, sắc uống, ngày 2 lần. Dùng cho trẻ thương thực tả (triệu chứng: phân dẻo dính, chua thối, nôn mửa v.v…)
  5. Cát căn 9 gam, xa tiền tử 9 gam, trạch tả, phục linh, mỗi thứ 9 gam, hoàng cầm, thần khúc, mỗi thứ 6 gam, xuyên phác, cam thảo, mỗi thứ 3 gam. Xuyên liên 2 gam, sắc uống, ngày 2 lần. Dùng cho trẻ thấp nhiệt tả (triệu chứng: phân màu vàng lục, ỉa như rót nước, đít nóng).
  6. Đẳng sâm, phục linh, bạch truật, ý dĩ, mỗi thứ 9 gam, cam thảo, trần bì, cát cánh, sa nhân mỗi thứ 3 gam, sơn dược, hạt sen mỗi thứ 12 gam, đậu ván 5 gam. Sắc uống, ngày 2 lần. Dùng cho trẻ tỳ hư tả (triệu chứng: phân màu nhạt, không thối, người gầy mặt vàng, thích ngủ không muốn ăn)

    Cây ý dĩ thân thảo, có dáng gần giống cây ngô
    Cây ý dĩ thân thảo, có dáng gần giống cây ngô

Chữa bệnh bằng ăn uống.

  1. Táo 1-2 quả, bó ruột giã nhỏ, ăn làm nhiều lần.
  2. Củ cải đường 250 gam, sắc lấy nước đặc, uống làm vài lần
  3. Gạo tẻ 50 gam, hoài sơn dược 60 gam, nấu cháo ăn.
  4. Đậu ván 60 gam, sắc lấy nước đặc, uống vài lần.

Chữa bệnh bên ngoài

  1. Ngô thù du 10 gam, nghiền nhỏ, hoà với dấm thành hồ đắp vào rốn, lấy vải màu buộc lại.
  2. Xa tiền tử 6 gam, bột lục vị 10 gam, cùng nghiền nhỏ đắp vào rốn, mỗi ngày 1 lần. Dùng cho trẻ thấp nhiệt tả.
  3. Cao thương thấp giảm đau hoặc cao tiêu viên giảm đau dán vào rốn, sau khi ngừng ỉa chảy vẫn dán tiếp 2 ngày.
  4. Muối ăn 50 – 100 gam, rang nóng cho vào túi vải, chườm vào rốn, không bỏng là được, mỗi ngày 3 – 5 lần, mỗi lần 20 phút. Dùng cho trẻ hư hàn tả.
  5. Để bàn tay vào bụng trẻ, lấy rốn làm trung tâm, xoa tròn theo chiều kim đồng hồ, khoảng 10 phút.

Các phương pháp khác

  1. Phương pháp ngâm chân: Cát căn 50 gam, bạch đậu ván (đậu ván trắng) 100 gam, xa tiền thảo 150 gam nấu nước ngâm chân. Dùng cho trẻ thấp nhiệt tả.
  2. Uống nước chè: Trong thời gian không cho trẻ ăn, cho trẻ uống nước chè mỗi giờ một lần, mỗi lần 3 thìa canh.
  3. Ngâm thuốc: Gừng sống 15-30 gam, nấu nước, cho trẻ ngâm vào nước gừng 15-30 phút.
  4. Đeo túi thuốc: Lá ngải 40 gam, đại hồi hương, vỏ thông 20 gam, tế tập, nhục quế, ngô thù du, bạch chỉ, gừng khô, hạt tiêu, mỗi thứ 15 gam, cũng nghiền nhỏ, cho vào túi vải, đeo vào bụng trẻ con. Dùng cho trẻ hư hàn tả.

Trẻ con bị ỉa chảy cần lưu ý.

  1. Trẻ con về mùa thu và mùa đông bị ỉa chảy vì nhiễm vi rút và do nhiễm lạnh, tiêu hoá không tốt, phản ứng thức ãn v.v… nếu lạm dụng thuốc kháng sinh sẽ có hại không có lợi. Chỉ khi nào do vi rút gây nên thì mới được dùng kháng sinh.
  2. ỉa chảy và nôn mửa nghiêm trọng, có thể dẫn tới mất nước mất a xít, trúng độc triệu chứng: lượng nước tiểu giảm rõ rệt, mệt mỏi, khóc không có nước mắt, hốc mắt lõm xuống nếu xử lí không kịp thời, sẽ gây hậu quả nghiêm trọng, vì vậy phải đưa bệnh viện chữa bệnh.
  1. Không nên lạm dụng thuốc ỉa chảy (như thuốc phục tả định) đặc biệt là trong thời kỳ cấp tính.

Loét miệng nối sau phẫu thuật dạ dày – tá tràng

Loét miệng nối dạ dày – tá tràng (Ulcere gastro – jejunale) là một dạng loét thứ phát gặp sau phẫu thuật cắt dạ dày kiểu Billroth I hoặc Billroth II. Loét miệng nối có thể gặp sau nối vị – tràng kết hợp cắt dây thần kinh X hoặc sau cắt dây X kết hợp mở thông môn vị.

1.   Sự thường gặp:

+ Sau nối vị – tràng:

  • Thế giới gặp 30 – 35%.
  • Việt nam gặp 20%.

+ Sau cắt 2/3 dạ dày: 2-3% (Lê Sĩ Liêm 1988).

+ Sau cắt dạ dày và cắt dây X: 1%.

+ Sau cắt dây X, nối vị tràng hoặc mở thông môn vị: 5 – 10%.

2.   Nguyên nhân:

  • Do cắt đoạn chưa đủ 2/3 dạ dày mà còn để lại nhiều phần dạ dày tiết
  • Do cắt không hết được 2 thân dây X sau cắt dây X và cắt hang vị.
  • Do u Adenome của tuyến tuỵ (hội chứng Zollinger Ellison): loại u này gây tăng tiết gastrin, còn u tuỵ thì còn loét tái phát.
  • Do chỉ cắt bỏ ổ loét nhưng còn để lại phần niêm mạc hang vị (còn niêm mạc hang vị thì còn tiết gastrin kích thích tiết HCl+Pepsin ).

3.   Bệnh sinh:

Do phần hang vị cắt chưa hết nên còn tiết gastrin, kích thích tiết HCl+Pepsin tác động trực tiếp vào niêm mạc gây loét.

Điều đó có căn cứ :

  • HCl mất đi sau mổ, thường chỉ xuất hiện lại sau 3 tháng, phù hợp với thời gian xuất hiện của loét.
  • Biến chứng này hay gặp ở bệnh nhân loét hành tá tràng.
  • Thường xảy ra ở quai đi (quai tới vì có nhiều dịch tá tràng mang tính chất kiềm nên ít xảy ra loét).

4.   Giải phẫu bệnh lý:

ổ loét thường ở quai đi, cách miệng nối chừng l-2cm, ít khi có ở miệng nối hoặc ở quai tới. Có thể 1-2 ổ loét. Tổ chức xung quanh phù nề, xơ cứng làm miệng nối hẹp lại, quai tới giãn ra.

5.    Triệu chứng:

Xuất hiện muộn sau mổ từ 3 tháng tới 1 năm, có khi 20-30 năm sau.

+ Đau: do loét miệng nối có đặc điểm:

  • Đau tăng hơn trước khi mổ.
  • Đau khu trú bên trái đường trắng giữa, ngang rốn hoặc thấp hơn.
  • Đau nhiều hơn khi ấn vào vùng ngang rốn phía bên trái.

+ Nôn: thường đi kèm với đau tính chất nôn gần giống như trong hẹp môn vị.

+ Nội soi bằng ống soi mềm: thấy tổn thương loét ở vùng miệng nối.

6.   Tiến triển, biến chứng:

  • Diễn biến nặng dần.
  • Biến chứng: Chảy máu, thủng,

Sau khi thủng có thể gây viêm phúc mạc khu trú hoặc rò vào đại tràng.

7.   Điều trị:

  • Nếu đau không ảnh hưởng nhiều tới sinh hoạt, công tác thì điều trị nội khoa (như loét hành tá tràng).
  • Nếu trước đây nối vị – tràng thì mổ lại cắt 2/3 dạ dày.
  • Nếu đã cắt 2/3 dạ dày thì mổ cắt lại kết hợp cắt 2 nhánh thần kinh X đi vào dạ dày.

Điều trị hóa chất trong bệnh ung thư

Vai trò của điều trị hóa chất trong ung thư

Điều trị hóa chất (Chemotherapy) là phương pháp sử dụng các thuốc gây độc tế bào nhằm tiêu diệt các tế bào ác tính trong cơ thể người bệnh ung thư.

Điều trị hóa chất bắt đầu có từ những năm 1860 khi Asenitkali được sử dụng để điều trị bệnh bạch cầu, lúc đó kết quả điều trị chưa tới mức gây được sự chú ý.

Trong những năm 1940, cùng với sự phát triển của các thuốc như actinomycin, nitrogen mustard, các corticosteroid, Điều trị hóa chất đã và đang trở thành một vũ khí quan trọng trong điều trị ung thư và cấu thành một bộ phận của ngành nội khoa.

Với hơn 60 năm được sử dụng trong lâm sàng, việc áp dụng Điều trị hóa chất trong ung thư trên thế giới đã có nhiều tiến bộ đáng kể và ngày càng được nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Nhiều thuốc mới được ra đời với tác dụng chống ung thư ngày càng hiệu quả và tác dụng phụ được hạn chế tới mức tối đa, cùng với nhiều phác đồ phối hợp thuốc có hiệu quả cao được xây dựng để điều trị đặc hiệu cho từng loại bệnh cụ thể và một số phác đồ trở thành kinh điển như phác đồ MOPP, ABVD trong bệnh Hodgkin, CHOP trong bệnh u lympho ác tính không Hodgkin.

Thuốc hóa chất có tác dụng chống lại hầu hết các loại ung thư. Tuy vậy mỗi loại ung thư có sự nhạy cảm với hóa chất riêng biệt. Xét một cách tổng quát, ngày nay khả năng Điều trị hóa chất ở các bệnh khác nhau được liệt kê ở bảng dưới đây:

Các bệnh ung thư hóa chất có khả năng chữa khỏi:

Bang 8: Kết quả điều trị hóa chất trên các loại ung thư

+ Bệnh bạch cẩu limphô cấp ở trẻ em

+ u limphô Burkitt

+ Ung thư nhau thai

+ Bệnh Hodgkin

+ u Wilms

+ Ung thư cơ vân thể bào thai ở trẻ em

Các loại ung thư hóa chất có khả năng kéo dài thời gian sống cho người bệnh:

+ Ung thư biểu mô tuyến vú

+ Bệnh bạch cầu limphô mãn

+ u Iimphô ác tính không Hodgkin

+ Ung thư biểu mô buồng trứng

+ Ung thư phổi tế bào nhỏ

+ u quái tinh hoàn

+ Ungthư vùng đầu-mặt-cổ

+ Bệnh bạch cầu tủy cấp

Các loại ung thư ít nhạy cảm hơn với hóa chất, hóa chất cải thiện được thời gian sống thêm cho người bệnh:

+ Saccôm xương

+ Đa u tủy

+ Ung thư phần mềm

+ Ung thư dạ dày

+ Ung thư bàng quang

+ Ung thư tuyến tiền liệt

+ Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ

+ Ung thư đại trực tràng

Các loại ung thư rất ít nhạy cảm với hóa chất:

+ Ung thư tụy

+ Ung thư hắc tố

+ Ung thư biểu mô tế bào thận

Tuy nhiên, việc phân loại nói trên có tính tương đối. Sự phát triển không ngừng các thuốc mới với khả năng tiêu diệt tế bào u mạnh mẽ có thể làm các bệnh ít nhạy cảm với hoá chất trong thời gian này trở thành những bệnh rất nhạy cảm với thuốc trong tương lai.

Cơ chế của điều trị hóa chất

Để hiểu rõ cơ chế của Điều trị hóa chất trong ung thư, ta cần nhắc lại một số khái niệm về sự phát triển của tế bào và tác động của thuốc lên tế bào khối u sau đây:

1. Chu kỳ tế bào: gồm 4 giai đoạn hay 4 pha.

Pha S: giai đoạn tổng hợp axit nucleic.

Pha M: giai đoạn phân chia tế bào.

Pha GI và G2: các hoạt động về sinh hoá học nhưng tế bào không thay đổi về mặt hình thái học

Pha Go: tế bào không tham gia vào quá trình phân chia.

Thuốc tác dụng đến tế bào dù tế bào đang trong giai đoạn nào, kê cả giai đoạn Go được gọi là thuốc hoạt động không phụ thuộc các chu kỳ (non – cycle action drugs).

Thuốc chỉ tác dụng trên tế bào khi tế bào đang ở giai đoạn nào đó gọi là thuốc đặc hiệu cho từng giai đoạn (phase – speciíic drugs).

Thuốc chỉ có tác dụng khi tế bào đang trong chu kỳ phân chia, nhưng không đặc hiệu cho từng giai đoạn, được gọi là thuốc đặc hiệu cho chu kỳ (cycle – specific drugs). Sơ dồ 1: Thuốc hoấ chất tác dộng theo các pha của chu kỷ tế bào.

 

Sơ đồ 1: Thuốc hóa chất tác động theo các pha của chu kỳ tế bào.

2. Động học tế bào u

2-1. Quần thể tế bào trong khối u:

Khối u thường không thuần nhất, đựơc tạo bới hỗn hợp các tế bào ở các giai đoạn khác nhau. Có 3 nhóm được mô tả:

Các tế bào tham gia vào các giai đoạn phân chia tức là tế bào trong chu kỳ tế bào.

Các tế bào có khả năng tham gia các giai đoạn phân chia nhưng chưa phân chia tức là tế bào trong giai đoạn Go.

Các tế bào được loại ra sau mỗi chu kỳ tế bào và không thể quay trở lại chu kỳ tế bào được gọi là các tế bào chết tự nhiên.

Số lượng tế bào thuộc một trong 3 nhóm trên thay đổi tuỳ từng khối u, từng loại bệnh ung thư và từng cá thể người bệnh. Phần tế bào nằm trong chu kỳ phân chia còn được gọi là phần phát triển (growth fraction).

2-2- Thời gian nhân đôi

Thời gian nhân đôi của một ung thư là thời gian cần cho một khối u gấp đôi về số lượng tế bào. Thời gian này không giống như thời gian của một chu kỳ tế bào trừ khi phần phát triển chiếm 100% khối u. Nghiên cứu invitro cho thấy thời gian này dao động từ 15h đến 72h.
Bảng 9: Thời gian nhân đôi một số loại ung thư

u Thời gian nhân đôi (ngày)
u lympho Burkitt 1.0
Ung thư nguyên báo thai 1,5
Bạch huyết cấp thể lympho 3-4
Hodgkin 3-4
u quái tinh hoàn 5-6
ung thưvú 60
ung thư đại tràng 80
ung thư phổi không phải tế bào nhỏ 100

3. Kích thước khối u:

Thành phần chính của khối u là các tế bào u. Số lượng tế bào càng nhiều, kích thước khối u càng lớn. Khi khối u lớn, việc Điều trị hóa chất bị hạn chế vì:

Một số lượng lớn các tế bào nằm trong thời kì Go.

Hệ mao mạch nuôi dưỡng u không đồng nhất, một số vùng thiếu nuôi dưỡng hoặc hoại tử, thuốc hoá chất khó vào.

Một số lượng lớn tế bào sẽ đòi hỏi phải điều trị nhiều đợt, hình thành sự kháng thuốc.

Chính vì các nguyên nhân trên, nên ở một số trường hợp như ung thư buồng trứng người ta tiến hành phẫu thuật công phá u tối đa (debulking surgery) để tạo tiền đề cho Điều trị hóa chất.

4. Thời gian điều trị

Khi đưa thuốc ở liều điều trị vào cơ thể, khối u được tiếp xúc với thuốc nhưng chỉ có một tỷ lệ nhất định tế bào u bị tiêu diệt. Việc sử dụng lặp lại liều điều trị là cần thiết để giảm tiếp số lượng tế bào u.

 Mối liên quan giữa số lượng tế bào ung thư và các đợt điều trị
Mối liên quan giữa số lượng tế bào ung thư và các đợt điều trị

Sơ đồ 2: Mối liên quan giữa số lượng tế bào và các đợt điều trị

Qua sơ đồ trên chúng ta thấy một phác đồ điều trị có tác dụng khi số lượng tế bào ung thư bị tiêu diệt bởi hóa chất nhiều hơn số tế bào phát triển trở lại. Thời gian giữa các đợt không không nên quá xa làm cho các tế bào còn lại nhân lên với số lượng lớn. Tuy vậy, các thuốc hóa chất tác động lên cả các mô lành, cần phải có khoảng nghỉ cần thiết để cơ thể hồi phục. Số đợt điều trị (cũng là tổng thời gian của quá trình điều trị) cũng quan trọng. Nếu số đợt quá ít, các tế bào ung thư còn lại nhiều sẽ phát triển trở lại. Tuy vậy, những vấn đề về độc tính, kháng thuốc, thể trạng chung của người bệnh không cho phép chúng ta kéo dài thời gian điều trị.

5. Mối liên quan giữa tế bào u còn sống sót và liều lượng thuốc

Mối liên quan này được biểu diễn bằng công thức:

N = Noe-K (D-Do)

Trong đó:

N: Số lượng tế bào của khối u

D: Liều lượng thuốc

e: Cơ số tự nhiên

o: Chỉ liều lượng thuốc và số lượng tế bào u ban đầu

K: Số hằng định (khác nhau tuỳ loại thuốc)

Dựa vàc công thức này, sau khi tính toán ta thấy: giảm liều lượng thuốc 50%, dẫn đến tăng 98% tế bào sống sót.

Sự kháng thuốc

Sự kháng thuốc của ung thư có thể phân ra làm 2 loại:

Kháng tự nhiên: là hiện tượng không đáp ứng vốn có của loại ung thư với một thuốc nào đó.

Kháng mắc phải: là hiện tượng không đáp ứng mới phát sinh của ung thư với một thuốc nào đó mà trước đó điều trị thành công.

Có 3 nguyên nhân cơ bản gây nên sự kháng thuốc:

  • Nguyên nhân về động học tế bào

Quần thể tế bào: số lượng tế bào càng lớn khả năng kháng thuốc càng cao.

Khối u phát triển ở giai đoạn đỉnh cao, phần phát triển chỉ chiếm phần nhỏ, nhiều tế bào ở thời kỳ Go sẽ ít nhạy cảm với các thuốc đặc biệt là các thuốc chống chuyển hoá.

Khối u ở vị trí không thuận lợi cho điều trị: các vị trí thuốc không tới được (nhiều thuốc không qua được hàng rào máo-não) hoặc ở xa mạch nuôi dưỡng.

  • Nguyên nhân về sinh hoá

Mất khả năng chuyển hoá thuốc thành dạng có hoạt tính.

Tàng các chất trong đó có các men gây bất hoạt thuốc.

Giám khả năng đưa thuốc vào trong tế bào.

Tăng khả năng đẩy thuốc ra ngoài tế bào. Hiện tượng này có thể gây kháng một thuốc nhưng cũng có thể kháng đa thuốc sau khi tiếp xúc chỉ một loại thuốc.

  • Nguyên nhân về dược động học

Giảm hoặc thay đổi hấp thu thuốc vào cơ thể.

Tăng thải trừ hoặc giáng hoá thuốc.

Tương tác với các thuốc khác.

Giảm vận chuyển thuốc tới khối u.

Độc tính của hóa chất

Đa số các thuốc hoá chất gây độc tế bào có tác dụng không đặc hiệu. Các thuốc không chỉ làm tổn hại tế bào ung thư mà còn gây tổn thương các tế bào lành đặc biệt các tế bào phân chia nhanh như tủy xương, biểu mô đường tiêu hóa. Hầu hết các phác đồ Điều trị hóa chất đều có tác dụng phụ không mong muốn. Thầy thuốc lâm sàng nên biết trước các tác dụng phụ này để phòng ngừa và kiểm soát sớm, do vậy sẽ giảm thiểu được sự mệt mỏi, suy sụp về thể chất, tinh thần của bệnh nhân hoặc các biến chứng nguy hiểm tới tính mạng người bệnh. Buồn nôn và nôn là các biểu hiện hay gặp nhất đối với độc tính của thuốc trên đường tiêu hóa. Rụng tóc là do sự tạm ngừng phát triển nang lông. Giảm bạch cầu, tiểu cầu hoặc hồng cầu do ức chế tuỷ xương. Nếu suy tuỷ nặng, bệnh nhân có thể bị nhiễm trùng, chảy máu. Việc sử dụng các thuốc chống nôn, kháng sinh, truyền máu và các sản phẩm của máu cũng như các cytokine của hệ tạo máu đóng vai trò quan trọng trong Điều trị hóa chất.

Một số thuốc có những độc tính đặc trưng như độc với tim của các anthracycline, viêm bàng quang chảy máu của cyclophosphamide và ifosfamide, bệnh thần kinh ngoại vi của các vinca alcaloid, cisplatin và paclitaxel, độc với thận của cisplatin và ifosfamide, độc với tai của cisplatin và bệnh về đông máu của L-asparaginase.

Một số thuốc có độc tính tích luỹ tức là độc tính xuất hiện sau nhiều lần dùng thuốc với tổng liều nhất định. Các thuốc anthracycline gây độc với tim, bleomycin gây độc với phổi là các ví dụ về độc tính tích luỹ.

Phân nhóm thuốc

1. Nhóm Alkyl hoá:

Là nhóm gồm nhiều thuốc có khả năng tạo các liên kết phân tử với các nucleic acid, protein và nhiều phân tử trọng lượng thấp khác. Tác dụng gây độc tế bào của các thuốc alkyl hoá là các tác dụng trên DNA với các phản ứng thay thế, phản ứng liên kết chéo hoặc các phản ứng làm gãy chuỗi. Các thông tin mã hoá trên DNA bị thay đổi dẫn đến ức chế sự sao mã hoặc sao mã không chính xác gây đột biến hoặc làm chết tế bào.

2. Chống chuyển hoá:

Để chỉ các loại thuốc có cấu trúc hoặc chức năng tương tự như các chất chuyển hoá bình thường của quá trình tổng hợp acid nucleic. Khi vào cơ thể thuốc gây ứcchế các enzym quan trọng của quá trình tổng hợp acid nucleic hoặc kết hợp vào acid nucleic tạo nên các mã sai lạc. Cả hai quá trình đều dẫn đến ức chế tổng hợp DNA và cuối cùng làm chết tế bào.

3. Các kháng sinh chống u:

Là các kháng sinh ban đầu được dùng để chống vi khuẩn nhưng về sau được phát hiện có tác dụng gây độc tế bào. Cơ chế tác dụng của các kháng sinh chống u là ức chế sự tống hợp và chức năng của các acid nucleic.

4. Các alkaloid dừa cạn:

Các thuốc trong nhóm này được chiết xuất từ cây dừa cạn (Catharanthus roscus). Thuốc tác dụng trên protein của vi quản dẫn đến giữ tế bào ớ hậu kỳ và ức chế phân bào.

5. Các taxane:

Là sản phẩm tự nhiên hoặc bán tổng hợp từ cây thông đỏ (có nơi gọi là cây thuý tùng). Các thuốc trong nhóm này có tác dụng làm ổn định quá trình polymer thành các vi quan, ứcchế sự gián phân tế bào nhưng khác với các alcaloid dừa cạn.

6. Các chất ức chế topoisomerase I:

Các thuốc có trong nhóm này có tác dụng ứcchế topoisomerase I, một men cần thiết trong quá trình tháo chuỗi DNA, tiền để cho các quá trình phiên mã và sao chép. Hiện nay, các thuốc trons nhóm này được chiết xuất từ cây Camptotheca accuminata.

7. Các chất ức chế topoisomerase II:

Các thuốc trong nhóm này là các podophvllotoxin bán tổng hợp có nguồn 2ốc từ cây Podophytỉum peỉtatum. Men topoisomerase II cũng cần thiết trong quá trình sao chép cứa DNA. Các thuốc ức chế men nàv làm gãy chuồi DNA và giữ tế bào ớ cuối pha s và dầu pha G2.

8. Men:

Asparaginase là một ví dụ về thuốc thuộc nhóm men. Men này xúc tác quá trình thủy phân asparagine trong huyết thanh thành acid aspartic và amoniac. Asparagine là acid amin cần thiết cho các tế bào bệnh bạch cầu nhưng các tế bào này không tự tổng hợp được. Các tế bào lành có thể tự tổng hợp được asparagine.

9. Các thuốc khác:

Các thuốc không xếp được nhóm và loại như muối arsen, thuốc ức chế vỏ thượng thận v.v. được liệt kê trong bảng 10.

Bảng 10: Phân loại các nhóm thuốc hoá chất

Nhóm và loại                                  Thuốc

Alkyl hoá

  – Mù tac ni-tơ – Mechlorethamine, chlorambucil, cỵclophosphamide, ifofamide, melphalan
– Dẫn chất ethỵlenimine – Thiotepa
– Alkyl sulfonate – Busulían
– Triazine – Dacarbazine
– Nitrosourea – Carmustine, lomustine, streptozocin
– Muối kim loại – Cisplatin, carboplatin, oxalfplatin
Chống chuyển hoá

– Chất tương tự folic acid

 

– Methotrexate

– Chất tương tự purine – Mercaptopurine, thioguanine, pentostatin, cladribine, íludarabine
– Chất tương tự pyrimidine – 5 Auorouracil, capecitabine, cytarabine, íloxuridine, gemcitabine
Các kháng sinh chống u Bleomycin, dactinomycin, daunorubicin, doxorubicin, epirubicin, idarubicin, mitomycin, mitoxantrone
Alcaloid dừa cạn – Vincristine, vinblastine, vindesine, vinorelbine
Các taxane Paclitaxel, docetaxel
Các chất ức chế topoisomerase I Irinotecan, topotecan
Các chất ức chế topoisomerase II Etoposide, teniposide
Men Asparaginase
Các thuốc khác

– Dẫn chất methylhydrazine

 

– Procarbazine

– Melamine thay thế – Altretamine
– Urê thay thế – Hydroxyurea
– ức chế vỏ thượng thận – Mitotane
– Muối arsen – Arsenic trioxide
– Chất tương tự somatostatin – Octreotide

6. Các nguyên tắc điều trị hóa chất

Bên cạnh khả năng có thể chữa khỏi được một số loại ung thư, hóa chất có thể kéo dài thời gian sống thêm cũng như cải thiện được chất lượng sống cho người bệnh. Đa số ung thư mắc ở người có tuổi nên việc chữa trị kéo dài thời gian sống cũng rất có ý nghĩa mặc dù không loại bỏ hoàn toàn được bệnh.

Hai nguyên lý cơ bản của Điều trị hóa chất cho bệnh nhân ung thư là:

Điều trị hóa chất có thể được sử dụng rất hiệu quả để giảm các triệu chứng của bệnh nhưng độc tính của thuốc cần được lưu ý.

Luôn luôn cân nhắc mọi khía cạnh của điều trị. Bệnh nhân cần được điều trị một cách toàn diện. Trên thực tế nhiều bệnh nhân ƯT có các bệnh khác kèm theo như bệnh tim mạch, đái tháo đường, viêm phế quản mãn, viêm khớp… Thầy thuốc không chỉ quan tâm đến bệnh ung thư mà khi điều trị cần cân nhắc tới các bệnh này.

Với bất kỳ loại ung thư nào, việc Điều trị hóa chất phải được xem xét dựa trên các nguyên tắc sau đây:

1. Lựa chọn thuốc thích hợp

Cần lựa chọn các loại thuốc thích hợp nhất cho mỗi tình huống lâm sàng cụ thể. Người thầy thuốc chuyên khoa cần nắm vững được dược động học, cơ chế tác dụng, liều lượng, cách dùng, tác dụng phụ không mong muốn của thuốc. Trước khi được đưa vào sử dụng chính thức trên lâm sàng, thuốc được thử nghiệm kỹ càng trên động vật và trên các pha làm sàng.

2. Liều và liệu trình điều trị

Liều và liệu trình Điều trị hóa chất có ảnh hưởng sâu sắc đến kết quả điều trị. Mặt trái của thuốc chống ung thư là độc tính của chúng, đặc biệt tiêu diệt cả các tế bào lành đang phân chia nhanh của cơ thể. Nếu tăng liều điều trị sẽ tăng khả năng diệt tế bào ung thư nhưng nếu vượt quá mức liều “tốt nhất” thì không những không cải thiện được kết quả điều trị mà còn gây hậu quả trái ngược. Trên lâm sàng, liều thuốc được lựa chọn là liều tối đa có thể gây ra độc tính nhưng hồi phục được ở đa số bệnh nhân. Đối với các thuốc có độc tính tích luỹ, cần lưu ý tới tổng liều dùng. Các nghiên cứu thực nghiệm và lâm sàng đều cho thấy việc sử dụng hóa chất liều thấp liên tục không hiệu quả bằng điều trị liều cao ngắt quãng với khoảng thời gian thích hợp cho các tổ chức lành hồi phục. Khi điều trị liều thấp, nồng dộ thuốc sẽ không đủ cao để thâm nhập vào (vùng sâu, vùng xa) trong khối u dẫn đến hiện tượng kháng thuốc. Hơn nữa, việc điều trị như vậy sẽ không lợi dụng được sự khác nhau về động học khối u và các tổ chức lành phân chia nhanh.

Cơ sở của điều trị liều cao ngắt quãng là phá hủy một số lượng tế bào u càng nhiều càng tốt sau mỗi lần tiếp xúc với thuốc, đánh đổi bằng độc tính thoáng qua hồi phục được.

Để một khối u có thể phát hiện được trên lâm sàng, u cần phải có kích thước 109-10m tế bào. Nếu sau khi điều trị, u chỉ còn dưới 109– 1010 tế bào thì không thể phát hiện được và được coi là đáp ứng hoàn toàn. Như vậy, dù “đáp ứng hoàn toàn” cũng không đảm bảo được rằng tế bào u đã bị loại bỏ hoàn toàn. Trong thực tế, nhiều ung thư vẫn tái phát sau điều trị triệt để bởi vẫn còn một số tế bào u sống sót. Vì vậv trong một số bệnh như bệnh bạch cầu, sau khi được Điều trị hóa chất với liều mạnh “điều trị tấn công” đạt được lui bệnh hoàn toàn, người ta vẫn điều trị với phác đồ hóa chất liều thấp hơn, liệu trình thưa hơn “điều trị duy trì”. Ý nghĩa của việc làm này là kéo dài thời kỳ lui bệnh hoàn toàn và giảm thiểu các tác dụng phụ của hóa chất.

3. Phối hợp hóa chất

Cùng với tiến bộ trong phát hiện ra cơ chế của thuốc tác dụng trên tế bào, việc phối hợp các thuốc có cơ chế khác nhau có thể làm tăng kết quả điều trị. Các nghiên cứu thực nghiệm đã khẳng định giả thuyết này và đã được áp dụng trên lâm sàng. Trong một số nghiên cứu, phối hợp vincristine và prednisone để điều trị tấn công bệnh bạch cầu limphô cấp đã làm tâng ti lệ đáp ứng hoàn toàn từ 20- 30% lên 80-90%.

Phối hợp mù-tạc ni-tơ, vincristin, procarbazine và prednisone đạt được đáp ứng hoàn toàn ở 80% bệnh nhân Hodgkin trong khi dùng đơn chất chỉ đạt được lui bệnh không quá 20%. Trong hơn 40 năm qua, việc điều trị phối hợp hóa chất đã được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các loại ung thư. Tuy nhiên, không nên cho rằng việc phối hợp thuốc luôn tạo thuận lợi trong điều trị. Một số thuốc khi phối hợp với nhau sẽ gây ra hiện tượng tranh chấp, ức chế lẫn nhau. Các nguyên tắc chung cho phối hợp hóa chất được đưa ra như sau:

Mồi thuốc trong phác đồ phối hợp đã được chứng minh có tác dụng chống ung thư khi dùng đơn thuần.

Không nên phối hợp các thuốc có cùng cơ chế tác dụng.

Các độc tính chủ yếu của các thuốc phối hợp càng khác nhau thì càng tốt.

Có một số trường hợp ngoại lệ là thêm thuốc thứ hai để giảm sự đào thải hoặc thay đổi độc tính của thuốc thứ nhất. Ví dụ: dùng acid folinic cùng với methotrexate nhằm mục đích phòng ngừa độc tính quá mức của methotrexate.

Khi sử dụng thuốc phối hợp, không phải luôn luôn tránh được độc tính chồng chéo. Vì vậy mỗi thuốc trong phác đồ điều trị phối hợp có thể có liều thấp hơn khi dùng đơn độc.

4. Phối hợp điều trị đa phương pháp

Trước đây, Điều trị hóa chất thường được sử dụng để điều trị bệnh giai đoạn muộn đã trải qua phẫu thuật và tia xạ trước đó. Sau này người ta ngày càng quan tâm nhiều đến điều trị phối hợp cả ba vũ khí trong một kế hoạch hoàn chỉnh. Trong điều trị phối hợp đa phương thức, hóa chất có vai trò hoặc để giảm thể tích u trước phẫu thuật cắt bỏ hoặc xạ trị tại chỗ, hoặc điều trị sau các phương pháp nhằm ngăn ngừa sự phát triển các vi di căn (Điều trị hóa chất bổ trợ).

Điều trị phối hợp đa phương thức được áp dụng cho nhiều bệnh. Điều trị ung thư vú là một ví dụ điển hình cho việc phối hợp hóa chất cả trước và sau điều trị tại chỗ. Các ung thư ở trẻ em như u Wilms, saccôm Ewing khi được điều trị bổ trợ bằng hóa chất kết quả cho thấy tỉ lệ sống thêm sau 5 năm, 10 năm tăng lên rõ rệt.

5. Các vị trí ẩn của tế bào ung thư

Các tế bào ung thư có thể đi cứ tới những bộ phận của cơ thể mà thuốc không thể phân bổ tới một cách hiệu quả. Các vị trí này được gọi là vị trí ẩn về dược lý học. Ví dụ bệnh bạch cầu limphô cấp, sau khi được điều trị thành công bằng hóa chất phối hợp để kiểm soát bệnh toàn thân, người ta thấy mặc dù đã đạt lui bệnh hoàn toàn và thời gian sống thêm tăng nhưng bệnh vẫn tái phát với bệnh bạch cầu màng não. Điều này được qui cho các tế bào ung thư ở hệ thần kinh trung ương đã không được tiếp xúc với các tác dụng của hóa chất đưa tới bằng đường máu. Sự trở ngại này sẽ giải quyết được bằng cách dùng thuốc trực tiếp tại vị trí ẩn đó theo đường nội tủy sống.

Methotrexate và cytosine arabinoside là các thuốc có thể dùng theo đường này và không phải tất cả các thuốc hóa chất đều có thể dùng một cách an toàn qua đường nội tủy sống. Vì vậy nếu hiện tượng ẩn trong hệ thần kinh xảy ra ở một số loại ung thư khác thì tế bào ác tính có thể thoát khỏi sự kiểm soát của thuốc.

Các vị trí ẩn khác được biết đến là tinh hoàn, các khối u lớn. Trên thực tế lâm sàng, việc cắt bỏ tinh hoàn, phẫu thuật công phá khối u “debulking surgery” trong ung thư buồng trứng là những cách loại trừ vị trí ẩn.