Ho là triệu chứng thường gặp ở trẻ, trẻ dễ bị ho do dễ bị viêm nhiễm đường hô hấp, dễ bị các bệnh tai mũi họng đưa đến cơ quan thụ cảm ho bị kích thích. Việc sử dụng thuốc trị ho cho trẻ là việc cần quan tâm để đạt được hiệu quả, an toàn.
Trước hết ta cần biết ho là một phản xạ sinh lý có tính bảo vệ cơ thể. Chính nhờ ho biểu hiện bằng sự thở ra rất mạnh giúp làm sạch đường thở, tống xuất đàm, dịch tiết hoặc vật lạ lọt vào đường hô hấp, giúp nhung mao hô hấp hoạt động tốt. Có một số trường hợp như bị nén phế quản, viêm phế quản cấp, cần ho để tống xuất đàm nhớt mà lại dùng thuốc ức chế phản xạ ho là không có lợi, chỉ có hại. Ở trẻ chỉ nên dùng thuốc trị ho khi trẻ ho khan, ho quá mức, gây mệt, gây nôn ói, mất ngủ.
Thứ đến, ta cần nên biết, ho là một triệu chứng của khá nhiều nguyên nhân bệnh, đặc biệt là các bệnh có ảnh hưởng đến hệ hô hấp như viêm nhiễm đường hô hấp trên, đường hô hấp dưới, bị viêm phế quản, bị hen suyễn, bị viêm nhiễm, bị viêm xoang, viêm tai giữa v.v… Ho nhiều hay ít ở đây không nói lên mức độ nặng nhẹ của bệnh, nặng hay nhẹ tùy thuộc vào nguyên nhân gây bệnh ho. Điều trị chủ yếu nhằm vào điều trị nguyên nhân, còn thuốc trị ho chỉ dùng khi thật cần thiết và chỉ có tác dụng phụ trợ.
Ở trẻ, cần lưu ý trẻ có thể bị ho do “hút thuốc lá thụ động” tức do trẻ hút khói thuốc lá người lớn hút (đặc biệt do các ông bố hút phà khói đầy trong nhà) mà sinh ra ho. Như thống kê cho thấy khoảng 40% trẻ có cha hay mẹ hút thuốc lá mà lại phà khói trước mặt trẻ, trẻ sẽ mắc chứng ho và từ đó dễ mắc các bệnh về đường hô hấp. Người lớn chúng ta xin nỗ lực không hút thuốc nơi công cộng để không gây cảnh “hút thuốc thụ động” đặc biệt đối với trẻ.
Trẻ cũng có thể bị ho do cảm lạnh, nhất là vào mùa mưa. Trường hợp bị cảm lạnh, thậm chí bị viêm họng (viêm họng ở trẻ em có thể do nhiễm siêu vi) gây ho, có lời khuyên không cần dùng thuốc trị ho mà chỉ cần chăm sóc đúng cách: giữ ấm, nghỉ ngơi, dinh dưỡng đầy đủ chất, cho uống nước nhiều hơn (đặc biệt cho uống nước cam, nước chanh), trẻ có thể tự khỏi sau 1-2 tuần và không ảnh hưởng nhiều đến trẻ, nhưng nhiều bậc phụ huynh thường lo lắng, quan tâm khi thấy trẻ ho, cho trẻ dùng thuốc trị ho ngay.
thuốc trị ho cho trẻ
Về sử dụng thuốc trị ho cho trẻ, ta nên lưu ý mấy điều như sau:
Loại thuốc trị ho hay được dùng là thuốc kháng histamin, có tác dụng chống dị ứng nhưng cũng có tác dụng làm dịu, giảm ho. Thuốc dùng cho trẻ có dạng sirô hoặc thuốc nước. Thuốc chỉ chứa một hoạt chất kháng histamin có thể kể: sirô Phénergan, sirô Théralène. Còn thuốc chứa nhiều thành phần giảm ho, trong đó thành phần là kháng histamin và thuốc ức chế ho là dextromethorphan, có thuốc nước Pulmofar, sirô Toplexil, sirô Atussin v.v… Đặc biệt, thuốc trị ho chứa hoạt chất chứa kháng histamin có tác dụng phụ là gây buồn ngủ. Rất đáng tiếc là có một số bậc phụ huynh lạm dụng tác dụng phụ gây buồn ngủ cho trẻ uống sirô Phénergan hay sirô Théralène giống như thuốc ngủ để trẻ không quấy, không khóc đêm và dùng vài ngày, từ tháng này sang tháng kia (!). Xin lưu ý, dùng như thế rất có hại cho sức khỏe của trẻ. Không chỉ có thuốc loại này, mà bất cứ loại thuốc nào, nếu không có sự chỉ định của bác sĩ điều trị, ta không bao giờ cho trẻ dùng dài ngày, từ tháng này sang tháng kia. Xin lưu ý thêm, loại thuốc kháng histamin trị ho này không nên dùng trong trường hợp ho có đàm như bị hen suyễn, viêm nhiễm đường hô hấp dưới vì thuốc làm khô quánh đàm, giảm ho nên khó tống đàm có thể làm tắc đàm.
Cần phải đặc biệt chú ý, có loại thuốc viên trị ho trong thành phần chứa CODEIN chỉ dành cho người lớn, không được dùng cho trẻ. Đã có trẻ nhũ nhi ngộ độc thuốc codein bị ngủ lịm, ngừng thở.
Để trị ho có đàm đặc, khó khạc, có loại thuốc làm loãng đàm tức làm giảm độ quánh đặc của đàm nhầy trong phế quản như: Mucomyst, Exomuc…
Có một số trường hợp, ta thấy bác sĩ điều trị ho cho trẻ có dùng kháng sinh do đã xác định ho là triệu chứng nhiễm khuẩn đường hô hấp hoặc xác định sẽ có bội nhiễm. Có khi bác sĩ có cho trẻ dùng thuốc loại corticoid (như prenisone, prednisolone) khi trẻ bị viêm đường hô hấp nặng (viêm phổi). Đặc biệt, mùa mưa là mùa trẻ con thường bị viêm nhiễm đường hô hấp. Nếu nghi con mình bị viêm nhiễm đưa đến ho, nhất thiết phải đưa trẻ đi khám bệnh ở bác sĩ. Bởi vì chỉ có bác sĩ khám mới biết trẻ bị viêm nhiễm ở đâu (viêm hầu họng hay viêm phế quản, viêm phổi), có khi bác sĩ sẽ cho làm xét nghiệm để biết vi khuẩn gây viêm nhiễm là loại nào, từ đó lựa chọn kháng sinh thích hợp. Đặc biệt khi bị viêm nhiễm nặng, bác sĩ phải kết hợp cho dùng 2 kháng sinh, chứ dùng một kháng sinh bệnh không dứt có thể trở thành nguy hiểm. Đối với kháng sinh có thể gây độc tính, bác sĩ cho điều chỉnh liều tùy theo tuổi của bệnh nhi. Có một số kháng sinh, trẻ quá nhỏ tuổi không được dùng như: tetracyclin, cloramphemicol, các quinolon,… Đối với trẻ dưới 7 tuổi, không được dùng thuốc tetracyclin vì kháng sinh này ảnh hưởng đến mầm răng đang phụ thuộc, làm răng sau này bị nhuộm màu vàng xám vĩnh viễn. Đối với trẻ con còn phụ thuộc chiều cao (ở một số nước, thậm chí dưới 18 tuổi) được khuyên tránh dùng thuốc fluoroquinolon (ofloxacin, norfloxacin, perfloxacin…) vì loại kháng sinh này gây loạn dưỡng sụn, làm xói mòn sụn ở súc vật (chuột) còn non khi thử nghiệm nghiên cứu thuốc.
Rõ ràng trong nhiều trường hợp khi trẻ bị ho, cần xác định được khi nào chỉ dùng thuốc loãng đàm hoặc khi nào dùng thuốc trị ho khan, khi nào dùng thuốc kháng sinh, phối hợp với thuốc corticoid và nhiều loại thuốc khác, chỉ có thầy thuốc khám bệnh trực tiếp mới chỉ định dùng thuốc đúng đắn.
Xin các bậc phụ huynh lưu ý, khi thấy trẻ ho và đã cho dùng một số thuốc trị ho thông thường như sirô chống dị ứng trị ho kể ở trên dăm ba ngày không thấy đỡ, hoặc thấy trẻ ho mà cách thở, nhịp thở bất thường như: thở nhanh từ 50 lần/phút trở lên, thở khó, lõm ngực khi hít vào hoặc thở khó khăn kiểu suyễn, nên đưa trẻ đi khám bệnh ngay để được điều trị kịp thời.
Tóm lại, ho là triệu chứng do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra, có khi là phản ứng có lợi cho cơ thể trẻ. Điều trị ho cho trẻ do đó có khi không đơn giản, phải nhắm vào điều trị nguyên nhân. Thuốc trị ho chỉ có tác dụng phụ trợ, chỉ dùng khi cần thiết trong thời gian ngắn. Nếu ho ở trẻ có nguy cơ kéo dài hoặc có gì đáng ngờ, tốt nhất ta nên đưa trẻ đi khám để chẩn đoán chính xác và để điều trị đúng đắn, kịp thời.
3 = Đáp ứng không đặc hiệu, không nhất thiết với yêu cầu
Mở mắt tự nhiên
4 = Mở mắt bình thường mà không có yêu cầu
ĐÁP ỨNG VẬN ĐỘNG
Không đáp ứng
1 = Bất kỳ kích thích đau nào, chi mềm nhẽo
Duỗi cứng
2 = Vai và bả vai xoay và duỗi
Co cứng
3 = Đáp ứng co lại
Rụt chi khi gây đau
4 = tay rụt lại trước các kích thích đau,
Đáp ứng có định khu
5 = Tay có xu hướng gạt bỏ áp lực trên nhãn cầu và trên ngực
Thực hiện yêu cầu
6 = theo các yêu cầu đơn giản
ĐÁP ỨNG VỎ NÃO
Không đáp ứng
1 = Không đáp ứng với bất kỳ kích thích nào
Khó hiểu
2 = Rên, kêu, không nói
Không phù hợp
3 = Câu không rõ rang
Lôn xộn
4 = Thoại nhưng lộn xộn, không định hướng
Có định hướng
5 = Thoại có định hướng
Tổng (3-15)
THANG ĐIỂM HÔN MÊ GLASGOW SỬA ĐỔI Ở TRẺ EM
Khái quát: Một trong những thành phần của thang điểm hôn mê Glasgow được sử dụng để đánh giá thương tổn dưới vò ở trẻ nhỏ. Thang điểm được sửa đổi từ thang điểm hôn mê Glasgow ban đầu được tạo ra để dánh giá trẻ quá nhỏ không thể nói được
Các thông số đánh giá:
(1) Mở mắt
(2) Đáp ứng lời nói hoặc không lời nói tốt nhất
(3) Đáp ứng vận động tốt nhất
Mở mắt
Điểm
Tự nhiên
4
Kích thích Ioi noi
3
Kích thích đau
2
Không đáp ứng
1
Trẻ chưa nói được
Đáp ứng của trẻ nói được (Thang diem Glasgow)
Điểm
Cười, định hướng tới âm thanh, nhìn theo vật thể, tương tác
Có định hướng và nhận thức
5
mất định hướng
4
từ ngữ không thích hợp
3
Âm thanh khó hiểu
2
Không đáp ứng
1
Đáp ứng vận động
Điểm
Làm theo lệnh
6
Định khu khi gây đau
5
Phản xạ cơ chi
4
Co cứng không thích hợp
3
Duỗi cứng
2
Không đáp ứng
1
+ Các yếu tố tiên lượng khác:
(1) Các phản xạ dưới vỏ (tất cả trẻ mất toàn bộ phản xạ đều tử vong, 50% trẻ có phản xạ bất thường tử vong, 25% trẻ có phản xạ bình thường tử vong).
(2) Phản xạ đồng tử bất thường (77% trẻ có bán manh 2 bên và dãn đồng tử bị tử vong).
(3) Áp lực nội sọ (Áp lực nội sọ > 40mmHg hoặc điểm Glasgow 3,4,5 đều tử vong)
Ý nghĩa:
– Điểm Glasgow thấp nhất là 3 điểm, nghĩa là tiên lượng xấu nhất.
– Điểm Glasgow cao nhất là 15 điểm, tiên lượng tốt nhất
– Điểm Glssgow > 7 có khả năng hồi phục tốt.
– Điểm Glasgow 3-5 điểm nguy cơ tử vong rất cao, đặc biệt khi có các dấu hiệu đi kèm dãn đồng từ, mất phản xạ dưới vỏ, gia tăng áp lực nội sọ.
– Trẻ em dưới 5 tuổi có thể điểm Glasgow thấp hơn người lớn vì đáp ứng lời nói và vận động đều giảm.
THANG ĐIỂM ĐÁNH GIÁ TIÊN LƯỢNG GLASGOW
Điểm Mô tả
1 Tử vong
2 Tình trạng thực vật, không có biểu hiện chức năng vỏ não
3 Tàn tật nặng (còn ý thức nhưng tàn tật), phụ thuộc người khác để duy trì cuộc sống hang ngày do tàn phế về thể Chất hoặc tinh thần hoặc cả hai
4 Tàn tật mức độ vừa (tàn tậ nhưng không phụ thuộc người khác). Không phải phụ thuộc người khác trong hoạt động hàng ngày. Các tàn tật phát hiện thấy gồm có: nói khó, thất ngôn, thất điều, biến đổi tính cách, suy giảm trí nhớ hay sa sút trí tuệ
5 Hồi phục tốt. khôi phục các hoạt động bình thường hang ngày mặc dù có vài khiếm khuyết thần kinh và tâm thần nhẹ
TỔNG ĐIỂM
THANG ĐIỂM ĐÁNH GIÁ TIÊN LƯỢNG GLASGOW MỞ RỘNG
Thang điểm tiên lượng Glasgow mở rộng được phate triển để khắc phục các hạn chế của thang điểm tiên lượng Glasgow ban đầu Với mỗi câu hỏi, hãy lựa chọn câu trả lời đúng nhất, Người trả lời có thể là người bệnh, người bệnh cùng với người nhà và người chăm sóc hoặc chỉ là người nhà hay người chăm sóc người bệnh
SỰ THỨC TỈNH
1. Người bị chấn thương sọ não xó thể lảm theo lệnh đơn giản, hoặc nói bất kỳ từ nào? Có □ Không □
SỰ ĐỘC LẬP TRONG GIA ĐÌNH
2a. Sự giúp đỡ của người khác là cần thiết cho các hoạt động hang ngày trong cuộc sống? Có □ Không □
(Cậu trả lời “Không” có nghĩa là người bệnh có thể tự chăm sóc bản thân suốt 24 giờ nếu cần thiêt. Độc lập ở đây còn bao gôm khả năng lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động sau: tự giặt quân áo, chuẩn bị đồ ăn, trả lời điên thoại, làm các công việc nội trợ nhẹ nhàng)
2b. Bạn cần sự trợ giúp thường xuyên hoặc ai đó xung quanh hầu hết thời gian? Có □ Không □
(Câụ trả lời “Không” có nghĩa là người bệnh có thể tự chăm sóc bản than suốt 8 giờ mà không cần trợ giúp)
2c. Cần thiết có sự trợ giúp ở nhà trước khi bị bệnh? Có □ Không □
SỰ ĐỘC LẬP NGOÀI XÃ HỘI
3a. Bạn có thể đi mua sắm đồ mà không cần trợ giúp? Có □ Không □
(Bao gồm cả khả năng lên kế hoạch mua sắm, quản lý tiền bạc vả cư xử đúng mực tại nơi công cộng)
3b. Bạn có thể mua sắm đồ không cần trợ giúp trước khi bị bệnh? Có □ Không □
ĐI LẠI
4a. Bạn có thể đi lại trong đia phương không cần trợ giúp? Có □ Không □
(Có thể lái xe hoặc sử dụng phương tiện giao thông công cộng để đi lại)
4b. Bạn có thể đi lại trong địa phương không cần trợ giúp trước khi bị bệnh? Có □ Không □
CÔNG VIỆC
5a. Hiện tại bạn có thể làm khối lượng công việc như trước? Có □ không □
(Nếu trước đó họ đang làm việc, khối lượng công việc hiện tại phải tương đương. Nếu trước đó họ thất nghiệp, chấn thương không làm ảnh hưởng đến khả năng thực hiện khối lượng công việc mà họ có thể đảm đương. Nếu người bệnh là sinh viên, chấn thương không ảnh hưởng đến hoạt động nghiên cứu của họ)
5b. Có những trở ngại gì? a) □ b) □
a. Giảm khối lượng công việc
b. Chỉ có thể làm công việc trong nhà xưởng, công việc không cạnh tranh hoặc hiện tại không thể làm việc
5c. Họ đang làm việc hay tìm kiếm việc làm trước chán thương (Trả lời “Có”) hay họ không làm gì (Trả lời “Không”) Có □ Không □
HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI VÀ GIẢI TRÍ
6a. Họ có thể khôi phục các hoạt động xã hội và giải trí ngoài trời Có □ Không □
6b. Cái gì là những trở ngại cho hoạt động xã hội và giải trí của họ?
a. ít tham gia hơn: chỉ được 1 nửa so với trước chấn thương
b. Không tham gia mấy: không được 1 nửa so với trước kia
c. Không thể tham gia: hiếm khi, nếu có, chỉ đến dự cho có mặt
6c. Họ có gắn bó với các hoạt động xã hội và giải trí ngoài trời trước chân thương?
Có □ Không □
GIA ĐÌNH VÀ BẠN BÈ
7a. Bạn có vấn đề gì về sức khỏe tâm thần gây trở ngại đến quan hệ gia đình và bạn bè? Có □ Không □
(Thay đổi tính cách sau chấn thương điển hình: dễ nổi nóng, ngại ngùng, thiếu nhạy cảm với người khác, thay đổi tâm trạng thường xuyên, trầm cảm hoặc hành xử trẻ con)
7b. Mức độ của các trở ngại đó : a) □ b) □ c) □
a. Thỉnh thoảng – ít hơn 1 lần 1 tuần
b. Thường xuyên – hơn 1 lần 1 tuần
c. Hàng ngày
7c. Bạn có vấn đề với gia đình hoặc bạn bè trước chấn thương? Có □ không □
(Nếu có vài vấn đề trước chấn thương nhưng sau chấn thương trở nên tệ hơn thi trả lời “Không “)
ĐỘNG KINH
7d. Từ khi chấn thương bạn có bị động kinh? Có □ Không □
7e. Bạn có được thông báo về nguy cơ mắc động kinh? Có □ Không □
KHÔI PHỤC CUỘC SỐNG BÌNH THƯỜNG
8a. Còn vấn đề gì liên quan chấn thương ảnh hưởng cuộc sống của bạn? Có □ Không □
(Những triệu chứng điển hình sau chấn thương: Đau đầu, chóng mặt, mệt, nhạy cảm với tiếng ồn và ánh sang, suy giảm trí nhớ và khả năng tập trung)
8b. Các vấn đề có giống như trước phẫu thuật? Có □ Không □
(Nếu có vài vấn đề trước chấn thương nhưng sau chấn thương trở nên tệ hơn thi trả lời “Không “) Vậy đâu là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng tiên lượng?
Ảnh hưởng của chấn thương?
Ảnh hưởng của bệnh tật đến phần khác của cơ thể?
Sự phối hợp của các vấn đề trên?
CHỈ SỐ BARTHEI
Hướng dẫn sử dụng chỉ số Barthei:
1. Chỉ số này được sử dụng để ghi lại những gì bệnh nhân làm được, không phải những gì bệnh nhân có thể làm
2. Mục tiêu chính là thiết lập mức độ độc lập từ bất kỳ trợ giúp nào, thể lực hay lời nói dù nhỏ nhất vì bất kỳ lý do gì
3. Sự cần thiết có người giám sát bệnh nhân không có sự tự lập
4. Các hoạt động của người bệnh phải có bằng chứng rõ ràng
5. Hoạt động của bệnh nhân từ 24 – 48 tiếng là quan trọng, nhưng khoảng thời gian lâu hơn cũng không kém
6. Bằng chứng bệnh nhân đã sử dụng 50 phần trăm nỗ lực nảm than
7. Các phương tiện hỗ trợ cho phép
HOẠT ĐỘNG
Ăn uống
0 = không có khả năng.
0 = cần trợ giúp để cắt thức ăn, phết bơ hoặc yêu cầu chế độ ăn kiêng 10 = độc lập
Tắm giặt
0 = phụ thuộc
0 = độc lập (hoặc tắm vòi sen)
Chải chuốt
0 = cần sự trự giúp
5 = độc lập trong việc đánh răng, chải tóc Mặc quần áo
0 = phụ thuộc
5 = cần sự trợ giúp nhưng có thể làm được một nửa 10 = độc lập (bao gồm cả việc đóng cúc, kéo khóa zip)
Đại tiện
0 = phụ thuộc (cả việc thụt tháo)
5 = thỉnh thoảng có sự cố 10 = độc lập Tiểu tiện
0 = không tự đi, cần thông tiểu hoặc không thể tự chủ 5 = cần trợ giúp nhưng có thể tự đứng tiểu 10 = độc lập
Vệ sinh
0 = phụ thuộc
5 = cần sự trợ giúp nhưng có thể làm được một nửa 10 = độc lập (bao gồm cả việc mặc quần áo, trang điểm)
Di chuyển (từ giường tới xe ghế và ngược lại)
0 = phụ thuộc
5 = cần trợ giúp cảu 2 người, có thể tự ngồi 10 = cần trợ giúp nhỏ (lời nói hoặc thể lực)
15 = độc lập
Đi lại (cùng 1 mặt bằng)
0 = không thê di chuyển hoặc di chuyển < 50 thước 5 = tự di chuyển bằng xe lăn, bao gồm cả góc nhà, > 50 thước 10 = đi bộ với sự trợ giúp của người khác, > 50 thước 15 = độc lập nhưng có thể dung phương tiện hỗ trợ như gậy, > 50 thước Cầu thang
0 = không thể leo cầu thang 5 = cần trợ giúp 10 = độc lập
TÔNG ĐIỀM
Điểm tối đa: 100 điểm
Điểm càng cao nghĩa là sự độc lập càng cao
Hội chứng liên quan tới tăng tiết aldosteron mà nguyên nhân nằm ở ngoài tuyến vỏ thượng thận, có biểu hiện là tăng aldosteron và tăng hoạt tính của renin trong huyết tương.
Căn nguyên
Tăng tiết aldosteron thứ phát do tăng chế tiết renin tự phát có nguồn gốc ngoài tuyến thượng thận và không nằm trong cơ chế điều hoà trợ động (điều hoà phản hồi) tuyến yên-tuyến thượng thận. Người ta gặp rối loạn này trong những trường hợp sau:
Tình trạng phù nề: do xơ gan, suy tim, thận hư. Trong những bệnh này thì cả quá trình dị hoá của aldosteron cũng bị giảm.
Hẹp động mạch thận: trong chứng xơ cứng động mạch thận, tăng huyết áp do mạch máu thận.
U bài tiết renin: là loại u thận rất hiếm gặp, chế tiết ra
Tăng bài tiết renin và aldosteron thứ phát: xem hội chứng Bartter ở phần dưới.
Điều trị bằng thuốc lợi tiểu.
Triệu chứng
Các triệu chứng phụ thuộc vào bệnh gốc. Nói chung không tăng huyết áp động mạch trừ trường hợp tăng huyết áp có nguồn gốc mạch máu thận.
Xét nghiệm cận lâm sàng
Sldosteron và hoạt tính của renin trong huyết tương đều tăng. Giảm kali huyết về nguyên tắc bao giờ cũng xảy ra.
Chẩn đoán phân biệt: với tăng huyết áp kèm theo giảm kali huyết và nhiễm kiềm chuyển hoá do khối u chế tiết desoxycorticosteron (DOCA). Trong trường hợp này thì aldosteron và hoạt tính renin trong huyết tương vẫn bình thường hoặc giảm.
Điều trị
Điều trị nguyên nhân gây ra tăng aldosteron thứ phát.
Hội chứng Bartter (tăng renin huyết nguyên phát): các mạch máu không đáp ứng với tác động của angiotensin (do đó không tăng huyết áp), tăng sản tổ chức cạnh cầu thận, tàng tiết rennin và tăng tiết aldosceron thứ phát. Mất nước,
mất natri và mất kali do thận (đa niệu, giảm thể tích máu), nhiễm kiềm chuyển hoá, tăng kali niệu. Điều trị: điều trị bổ sung kali, cho thuốc ức chế tổng hợp các prostaglandin (indometacin). Trẻ em mắc hội chứng Bartter thể di truyền nhiễm sắc thể thân kiểu lặn đều bị chậm phát triển tầm vóc cơ thể và tinh thần.
Có một thể lành tính gặp ở người lớn được mô tả dưới tên gọi là hội chứng Gitelman.
GHI CHÚ: sử dụng quá nhiều cam thảo có thể gây ra giải phóng acid glycyrrethic (acid này có cấu trúc tương tự với cấu trúc của những khoáng corticoid), và do đó gây ra hội chứng giả tăng tiết aldosteron, với các triệu chứng tăng huyết áp động mạch, giảm kali huyết, tăng kali niệu, nhưng hàm lượng aldosteron và hoạt tính renin huyết tương đều giảm.
Tá dược: croscarmellose sodium, gelatin, lactose, cellulose vi tinh thể, tinh bột đã gelatin hóa
DƯỢC LỰC
Cơ chế tác dụng
Fexofenadine, chất chuyển hóa của terfenadine, là một chất kháng histamine có tác dụng đối kháng chọn lọc ở thụ thể H1 ngoại biên. Fexofenadine ức chế sự co phế quản gây nên do kháng nguyên ở chuột lang nhạy cảm, và ức chế sự tiết histamine từ dưỡng bào màng bụng của chuột cống. Trên động vật thí nghiệm, không thấy có tác dụng kháng cholinergic hoặc ức chế thụ thể a 1-adrenergic.
Hơn nữa, không thấy có tác dụng an thần hoặc các tác dụng khác trên hệ thần kinh trung ương. Nghiên cứu trên loài chuột cống về sự phân bố ở mô của fexofenadine có đánh dấu, cho thấy thuốc này không vượt qua hàng rào máu-não.
Dược lực
Mề đay và phản ứng ban đỏ
Nghiên cứu mề đay và phản ứng ban đỏ do histamine gây nên ở da người sau khi uống liều duy nhất và liều 2 lần mỗi ngày 20 mg và 40 mg fexofenadine chlorhydrate, nhận thấy thuốc có tác dụng kháng histamine sau 1 giờ, đạt hiệu lực cao nhất sau 2-3 giờ, và tác dụng vẫn còn sau 12 giờ. Không thấy có dấu hiệu lờn thuốc sau 28 ngày dùng thuốc.
Tác dụng trên khoảng QTc
Ở loài chó (10 mg/kg/ngày, uống trong 5 ngày) và loài thỏ (10 mg/kg tiêm tĩnh mạch trong 1 giờ), Fexofenadine không kéo dài khoảng QTc với nồng độ trong huyết tương gấp 28 lần (ở chó) và 63 lần (ở thỏ) so với nồng độ điều trị ở huyết tương người (dựa vào liều 60 mg 2 lần mỗi ngày). Không ghi nhận tác dụng của thuốc này trên dòng điện qua kênh Ca2+ và kênh K+, hoặc không ghi nhận ảnh hưởng đến sự kéo dài hiệu điện thế tác dụng ở tế bào cơ chuột lang, hoặc tới dòng Na+ ở tế bào cơ của chuột cống mới sinh, hoặc tới kênh K+ ở tim người với nồng độ tới 1 x 10-5 M Fexofenadine. Nồng độ này ít nhất gấp 32 lần nồng độ trong huyết tương có tác dụng điều trị ở người (dựa vào liều fexofenadine chlorhydrate 60 mg, 2 lần mỗi ngày).
Nhận xét trên 714 người bệnh viêm mũi dị ứng uống viên nang fexofenadine chlorhydrate với liều 60-240 mg, uống 2 lần mỗi ngày trong 2 tuần liền, hoặc trên 40 người khỏe mạnh tình nguyện uống thuốc này (dạng dung dịch) với liều lên tới 400 mg, 2 lần mỗi ngày, trong 6 ngày, không thấy có sự gia tăng có ý nghĩa thống kê của khoảng QTc so với placebo.
Nghiên cứu lâm sàng
Trong 3 thử nghiệm, kéo dài 2 tuần lễ, đa trung tâm, theo phương pháp ngẫu nhiên, mù kép, có kiểm soát placebo, ở người bệnh 12-68 tuổi có viêm mũi dị ứng (n = 1634), thấy fexofenadine chlorhydrate, uống 60 mg 2 lần mỗi ngày, làm giảm rõ rệt tổng số điểm của các triệu chứng (tổng số các điểm của mỗi triệu chứng hắt hơi, chảy nước mũi, ngứa mũi, ngứa vòm miệng và họng, mắt ngứa đỏ, chảy nước mắt) so sánh với placebo.
Có giảm rõ rệt có ý nghĩa thống kê điểm của các triệu chứng dị ứng sau khi uống liều đầu tiên 60 mg, với tác dụng duy trì suốt 12 tiếng. Nói chung, tổng số điểm các triệu chứng không giảm thêm nếu có tăng liều Fexofenadine tới 240 mg 2 lần mỗi ngày. Mặc dù số đối tượng trong một số phân nhóm nghiên cứu còn ít, không có khác biệt đáng kể về tác dụng của fexofenadine chlorhydrate giữa các nhóm nghiên cứu theo giới tính, tuổi, chủng tộc.
Cho bệnh nhân viêm mũi dị ứng đã tiếp xúc với phấn cỏ lưỡi chó uống liều duy nhất 60 mg fexofenadine chlorhydrate, thời gian bắt đầu có tác dụng làm giảm tổng số điểm các triệu chứng, trừ triệu chứng nghẹt mũi, là 60 phút so với placebo.
DƯỢC ĐỘNG HỌC
Ở những người đàn ông tình nguyện khỏe mạnh, sau khi uống liều duy nhất 2 viên 60 mg, fexofenadine chlorhydrate được hấp thu nhanh với thời gian trung bình để đạt nồng độ tối đa trong huyết tương là 2,6 giờ. Ở những người khỏe mạnh, sau khi uống liều duy nhất dung dịch chứa 60 mg, nồng độ trung bình trong huyết thanh là 209 ng/ml. Khi người tình nguyện khỏe mạnh dùng nhiều liều liên tiếp fexofenadine chlorhydrate (dung dịch uống 60 mg, mỗi 12 giờ, và uống 10 liều như vậy), nồng độ đỉnh của thuốc trong huyết tương là 286 ng/ml. Uống liều 120 mg mỗi lần, dùng 2 lần mỗi ngày, thì Fexofenadine sẽ có dược động học tuyến tính. Mặc dù độ sinh khả dụng tuyệt đối của viên nang fexofenadine chlorhydrate chưa rõ, nhưng viên nang có độ sinh khả dụng tương đương với dung dịch uống. Thời gian bán hủy trung bình của Fexofenadine là 14,4 giờ sau khi uống 60 mg, 2 lần mỗi ngày, ở người tình nguyện bình thường. Những nghiên cứu ở người cho thấy sau khi uống fexofenadine chlorhydrate đánh dấu bằng 14C, tìm thấy khoảng 80% trong phân và 11% trong nước tiểu. Khoảng 5% tổng liều được chuyển hóa. Vì chưa xác định được độ sinh khả dụng tuyệt đối của fexofenadine chlorhydrate, nên chưa rõ thành phần thải trừ qua phân là thuốc không được hấp thu hay là do sự thải qua mật.
Dược động học của fexofenadine chlorhydrate ở người bệnh viêm mũi dị ứng cũng giống như ở người khỏe mạnh. Nồng độ đỉnh của Fexofenadine trong huyết tương giống nhau ở thiếu niên (12-16 tuổi) và người trưởng thành.
60-70% Fexofenadine gắn vào protein huyết tương, chủ yếu gắn vào albumin và a1-acid glycoprotein.
Những đối tượng đặc biệt
Cho uống liều duy nhất 80 mg fexofenadine chlorhydrate, và so sánh dược động học của thuốc này ở những đối tượng đặc biệt (về tuổi tác, suy gan, suy thận) với những người bình thường khỏe mạnh. Trong khi thể trọng tương đối đồng đều giữa các nhóm, thì các đối tượng đặc biệt lại già hơn những người tình nguyện trẻ, khỏe mạnh nhiều. Vì lẽ đó, tác động của tuổi tác có thể làm sai lệch sự khác biệt về dược động học ở một số đối tượng đặc biệt.
Ảnh hưởng của tuổi tác
Ở người cao tuổi (>= 65 tuổi), 99% có nồng độ đỉnh của Fexofenadine trong huyết tương cao hơn ở người tình nguyện bình thường (< 65 tuổi). Thời gian bán hủy trung bình giống như ở người tình nguyện khỏe mạnh.
Người suy thận
Ở những người suy thận nhẹ (độ thanh thải creatinine 41-80 ml/phút) tới nặng (độ thanh thải creatinine 11-40 ml/phút) nồng độ đỉnh của Fexofenadine trong huyết tương lớn hơn (87% và 111%) so với ở người tình nguyện khỏe mạnh ; thời gian bán hủy trung bình ở những đối tượng suy thận trên cũng dài hơn (59% và 72%) so với người khỏe mạnh.
Nồng độ đỉnh của Telfast trong huyết tương người thẩm phân (độ thanh thải creatinine < 10 ml/phút) cao hơn (82%) và thời gian bán hủy dài hơn (31%) so với ở người tình nguyện khỏe mạnh. Dựa vào sự tăng độ khả dụng sinh học và thời gian bán hủy, nên dùng liều duy nhất 60 mg/24 giờ, lúc khởi đầu dùng thuốc ở người suy thận (xin đọc phần “Liều lượng và cách dùng”).
Ngườisuy gan
Dược động học của fexofenadine chlorhydrate ở người suy gan không khác nhiều so với ở người khỏe mạnh.
Ảnh hưởng của giới tính
Qua nhiều thử nghiệm, không có khác biệt giữa giới nam và nữ về dược động học của Fexofenadine.
CHỈ ĐỊNH
Điều trị các triệu chứng viêm mũi dị ứng ở người lớn và trẻ em = 12 tuổi.
CHỐNG CHỈ ĐỊNH
Đã biết có tăng cảm với bất cứ thành phần nào của thuốc. Trẻ em 12 tuổi.
THẬN TRỌNG LÚC DÙNG
Tác dụnggâyung thư, biến dị, ảnh hưởng đến sự sinh sản
Tiềm năng gây ung thư và độc tính trên sự sinh sản của fexofenadine chlorhydrate được đánh giá bằng cách dùng những nghiên cứu về terfenadine với sự tiếp xúc Fexofenadine thích hợp (dựa vào giá trị “diện tích dưới đường cong” (AUC) trong huyết tương). Không thấy có tác dụng gây ung thư ở chuột nhắt và chuột cống uống liều hàng ngày 50 và 150 mg/kg terfenadine trong 18 và 24 tháng: những liều này phản ánh giá trị AUC trong huyết tương của Fexofenadine gấp 4 lần giá trị điều trị trên người (dựa vào liều fexofenadine chlorhydrate 60 mg, 2 lần mỗi ngày).
Thử nghiệm in-vitro (dùng test CHO/HGPRT gây đột biến trội, hoặc thử nghiệm về sự sai lạc nhiễm sắc thể của lympho bào chuột cống và thử nghiệm in-vivo (thử nghiệm vi nhân của tủy xương chuột nhắt), không thấy fexofenadine chlorhydrate gây biến dị.
Trong những nghiên cứu trên khả năng sinh sản của chuột cống, sự giảm thụ tinh (phụ thuộc liều lượng) và tăng thất thoát sau khi thụ tinh được nhận thấy qua liều uống >= 150 mg/kg terfenadine ; những liều này tạo giá trị AUC trong huyết tương của Fexofenadine >= 3 lần so với giá trị điều trị ở người (dựa vào liều Fexofenadine mỗi lần 60 mg, dùng 2 lần/24 giờ).
Có thai
Tác dụnggâyquái thai: Loại C. Không thấy terfenadine gây quái thai ở chuột cống và thỏ uống liều tới 300 mg/kg. Liều này tạo giá trị AUC của Fexofenadine trong huyết tương gấp 4 và 37 lần giá trị điều trị ở người (dựa vào liều fexofenadine chlorhydrate 60 mg, 2 lần mỗi ngày).
Chưa có nghiên cứu thích hợp và có kiểm soát chặt trên phụ nữ mang thai. Khi mang thai chỉ nên dùng fexofenadine chlorhydrate nếu lợi ích điều trị hơn hẳn những nguy cơ có thể gặp đối với thai.
Tác dụng không gây quái thai
Liều >= 150 mg/kg terfenadine làm giảm sự tăng cân chó con, giảm tỷ lệ sống ở chuột cống. Với liều này, giá trị AUC của Fexofenadine trong huyết tương >= 3 lần giá trị điều trị ở người (dựa vào liều fexofenadine chlorhydrate 60 mg, 2 lần mỗi ngày).
Thời kỳ cho con bú
Chưa có nghiên cứu thích hợp và có kiểm soát chặt trên phụ nữ cho con bú. Vì có nhiều thuốc được bài tiết qua sữa người, nên cần thận trọng khi dùng fexofenadine chlorhydrate ở phụ nữ cho con bú.
Dùng cho trẻ em
Chưa xác định được độ an toàn và hiệu lực của Telfast ở bệnh nhi dưới 12 tuổi. Qua thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát chặt chẽ ở bệnh nhân viêm mũi dị ứng, tổng số 205 bệnh nhân tuổi 12- 16, uống liều 20 mg-240 mg, 2 lần mỗi ngày trong 2 tuần. Những tác dụng không mong muốn ở nhóm này cũng tương đương với ở nhóm trên 16 tuổi.
Dùng cho người cao tuổi
Thử nghiệm so sánh với placebo, 42 bệnh nhân, tuổi 60-68, uống liều 20 mg – 240 mg Fexofenadine, 2 lần mỗi ngày, trong 2 tuần liền. Những tác dụng không mong muốn ở nhóm này tương đương với ở nhóm dưới 60 tuổi.
TƯƠNG TÁC THUỐC
Ở 2 nghiên cứu riêng rẽ, uống fexofenadine chlorhydrate 120 mg 2 lần mỗi ngày (gấp đôi liều khuyến cáo) phối hợp với erythromycine 500 mg mỗi 8 giờ hoặc ketoconazole 400 mg liều duy nhất trong 24 giờ ở điều kiện ổn định trên người tình nguyện bình thường khỏe mạnh (n = 24 ở mỗi nghiên cứu). Kết quả không nhận thấy có sự khác biệt về tác dụng có hại hoặc về khoảng QTc ở điện tim ở người dùng Fexofenadine đơn thuần hoặc phối hợp với erythromycin hoặc ketoconazole.
Bảng sau đây tóm tắt các kết quả nghiên cứu kể trên:
Tác dụng trên dược động học của Fexofenadine ở trạng thái ổn định sau 7 ngày dùng phối hợp với Fexofenadine Chlorhydrate 120 mg mỗi 12 giờ (gấp đôi liều khuyến cáo) trên người tình nguyện khỏe mạnh (n = 24)
Thuốc phối hợp
Cmax (Nồng độ đỉnh trong huyết tương)
Diện tích dưới đường cong (0-12 giờ) (nới rộng sự tiếp xúc tổng thể)
Erythromycin (500 mg
mỗi 8 giờ)
+82%
+109%
Ketoconazole (400mg một lần mỗi ngày)
+135%
+164%
Chưa rõ cơ chế của những tương tác trên, và tiềm năng tương tác với các thuốc chống nấm khác nhóm azole hoặc với kháng sinh nhóm macrolid chưa được nghiên cứu. Những thay đổi về nồng độ trong huyết tương này đều nằm trong giới hạn của nồng độ trong huyết tương đạt được trong những thử nghiệm lâm sàng thích hợp và có kiểm soát tốt.
Fexofenadine không có ảnh hưởng trên dược động học của erythromycin hoặc của ketoconazole.
Thuốc kháng acid chứa gel aluminium hay magnesium làm giảm độ sinh khả dụng của fexofenadine chlorhydrate.
Không có tương tác giữa Fexofenadine và omeprazole.
TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN
Thử nghiệm trên lâm sàng có so sánh với placebo, gồm 2461 bệnh nhân uống fexofenadine chlorhydrate với liều 20 mg-240 mg, 2 lần mỗi ngày, thấy những phản ứng có hại tương đương ở nhóm uống thuốc và nhóm placebo. Những phản ứng gặp phải, kể cả buồn ngủ, không phụ thuộc liều lượng và cũng tương tự giữa các phân nhóm được chia theo giới tính, tuổi và dân tộc. Tỷ lệ phần trăm bệnh nhân bỏ thuốc sớm vì tác dụng ngoại ý là 2,2% đối với fexofenadine chlorhydrate so với 3,3% đối với placebo. Tất cả những tác dụng ngoại ý được ghi nhận ở hơn 1% bệnh nhân uống fexofenadine chlorhydrate với liều mỗi ngày được khuyến cáo (60 mg, 2 lần mỗi ngày) và thuờng gặp ở nhóm dùng Fexofenadine hơn là ở nhóm dùng placebo ; những tác dụng này được liệt kê ở bảng sau:
Những tác dụng không mong muốn ghi nhận trong những thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát dùng placebo ở bệnh nhân viêm mũi dị ứng với tỷ lệ hơn 1%
Tác dụng không mong muốn
Fexofenadine 60 mg Uống 2 lần/24 giờ (n=679)
Placebo Uống 2 lần/24 giờ (n=671)
Nhiễm virút (cảm, cúm)
2,5%
1,5%
Buồn nôn
1,6%
1,5%
Đau bụng kinh
1,5%
0,3%
Buồn ngủ
1,3%
0,9%
Khó tiêu
1,3%
0,6%
Mệt mỏi
1,3%
0,9%
Hơn 1% bệnh nhân uống fexofenadine chlorhydrate (60 mg 2 lần mỗi ngày) có tác dụng phụ, nhưng thường gặp hơn ở nhóm placebo, bao gồm nhức đầu và ngứa họng.
Tần số và mức độ của những bất thường trong xét nghiệm tương đương giữa hai nhóm bệnh nhân dùng fexofenadine chlorhydrate và placebo.
LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG
Liều khuyến cáo cho Telfast là 60 mg mỗi lần, uống 2 lần mỗi ngày cho người lớn và trẻ em >= 12 tuổi.
Liều khởi đầu cho người suy thận là một lần duy nhất 60 mg/24 giờ (xin đọc phần “Dược lực”). Không cần giảm liều ở người già và bệnh nhân suy gan.
Dùng cách xa 2 giờ đối với các thuốc kháng acid có chứa gel aluminium hay magnesium.
QUÁ LIỀU
Thông tin về quá liều cấp tính chỉ được giới hạn qua những kinh nghiệm từ những thử nghiệm lâm sàng thực hiện trong thời gian triển khai Telfast. Dùng liều một lần duy nhất 800 mg fexofenadine chlorhydrate (ở 6 người tình nguyện khỏe mạnh) và liều 690 mg, 2 lần mỗi ngày, dùng 1 tháng liền (3 người tình nguyện khỏe mạnh), đã không thấy tác dụng ngoại ý đáng kể trong lâm sàng.
Trong trường hợp quá liều, dùng những biện pháp cơ bản để loại phần thuốc chưa được hấp thu.
Cũng cần điều trị triệu chứng và điều trị hỗ trợ.
Thẩm phân lọc máu không loại được tốt Fexofenadine khỏi máu (chỉ loại khoảng 1,7%) sau khi uống terfenadine.
Cho uống fexofenadine chlorhydrate với liều tới 5000 mg/kg không gây tử vong cho chuột nhắt (gấp 170 lần liều uống tối đa hàng ngày ở người, dựa vào mg/m2) và liều tới 5000 mg/kg ở chuột cống cũng không gây tử vong (gấp 330 lần liều uống tối đa hàng ngày ở người, dựa vào mg/m2).
Hơn nữa, không gặp dấu hiệu lâm sàng về độc tính hoặc những biểu hiện bệnh lý rõ ràng. Trên chó, không thấy dấu hiệu lâm sàng về độc tính khi cho uống tới 2000 mg/kg (gấp 450 lần liều uống tối đa hàng ngày ở người, dựa vào mg/m2).
Máu phụt ngược từ tâm thất phải lên tâm nhĩ phải trong thì tâm thu.
Căn nguyên
Hở chức năng:tất cả các bệnh gây tăng huyết áp động mạch phổi và làm giãn thất phải đều có thể dẫn tới hở van ba lá chức năng (suy tim trái, tật van hai lá và van động mạch chủ, bệnh cơ tim, thiếu máu cục bộ thất phải).
Bệnh thấp khớp cấp:hở van ba lá đôi khi kết hợp với tổn thương van hai lá.
Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn: nhất là ở những đối tượng tiêm chích ma tuý.
Tật van ba lá bẩm sinh: hở van ba lá liên kết với bệnh Ebstein hoặc với tật thông liên nhĩ kiểu lỗ nguyên phát (ostium primum).
Hội chứng carcinoid.
Sinh lý bệnh
Tăng áp suất trong tâm nhĩ (nội tâm nhĩ) phải, với sung huyết (ứ máu) tĩnh mạch ở phía nguồn (ở các tĩnh mạch đổ máu về tâm nhĩ phải) và suy thất phải.
Triệu chứng
TRIỆU CHỨNG CƠ NĂNG: khó thở khi gắng sức (không khó thở khi nằm, hở van ba lá làm nhẹ gánh nặng ở tuần hoàn phổi), chóng mệt, đau vùng gan, buồn nôn, nôn.
TRIỆU CHỨNG THỰC THỂ: các tĩnh mạch cảnh ứ máu, nảy lên theo mạch ở thì tâm thu (sóng “v” rộng), gan to, phù, cổ chướng (dịch thấm trong ổ phúc mạc).
Nghe tim thấy tiếng thổi toàn thì tâm thu, êm, nghe thấy rõ hơn ở phía trái của mũi ức, cường độ tăng lên trong thì thở vào (dấu hiệu Rivero-Carvallo).
Xét nghiệm bổ sung
X QUANG: dấu hiệu phì đại nhĩ và thất phải (tâm nhĩ phải rất to), đôi khi làm cho bóng mờ của tim trở thành hình tam giác, giống như trường hợp viêm ngoại tâm mạc. Tĩnh mạch chủ trên giãn rộng.
SIÊU ÂM TIM: siêu âm Doppler xung ngắt quãng làm rõ lượng máu trào ngược qua van ba lá, tình trạng các lá van, và tổn thương sùi nếu có.
ĐIỆN TÂM ĐỒ: bao giờ cũng có dấu hiệu rung nhĩ. Có những dấu hiệu phì đại thất phải, đôi khi sóng p rộng và nhọn thể hiện quá tải của tâm nhĩ phải.
Chẩn đoán
Tiếng thổi do hở van ba lá có thể khó phân biệt với tiếng thổi do hở van hai lá.
Siêu âm tim hai chiều với tiêm đồng thời một chất màu đặc biệt vào máu cho phép phát hiện được trào ngược máu qua lỗ van ba lá. Thông tim và chụp động mạch có độ tin cậy thấp. Tâm thanh ký nội-tim (trong buồng tim) phát hiện thấy tiếng thổi tâm thu trong tâm nhĩ phải là dấu hiệu duy nhất khẳng định chứng hở van ba lá.
Điều trị
Điều trị suy tim, đặc biệt là bằng thuốc lợi tiểu.
Điều trị tật của van hai lá hoặc van động mạch chủ nếu có, trong trường hợp hở van ba lá chức năng.
Thay van ba lá giả: đôi khi được chỉ định trong những trường hợp bệnh thấp tác động tới nhiều van tim, và trong trường hợp tổn thương van do viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn (van giả sinh học).
Protein là thành phần quan trọng của mọi tế bào. Giúp cho cơ thể chống lại bệnh tật. (Nó là một thành phần của các kháng thể). Nếu thiếu protein, trẻ không thể lớn lên và khoẻ mạnh được.
Protein cung cấp năng lượng, được xem là chất cơ bản của sự sống. Nó còn là thành phần của các chất điều tiết mọi hoạt động sinh lý của cơ thế (men, hoocmôn…).
Protein được cấu thành bởi các chất axít amin khác nhau. Trong đó có 8 axít – amin mà cơ thể con người không thể tự tổng hợp được, cho nên phải cung cấp từ thức ăn. Protein có nhiều trong thức ăn động vật: thịt, cá, trứng, sữa, tôm, cua, ngô, khoai, các loại đậu, lạc, vừng…
Nhu cầu về protein trong từng giai đoạn của trẻ nhỏ cũng khác nhau:
Trẻ dưới 3 tháng cần 2,5g/kg/ngày
Trẻ từ 3 – 5 tháng cần 1,9g/kg/ngày
Trẻ từ 6 – 8 tháng cần 1,7g/kg/ngày
Trẻ từ 9 – 12 tháng cần 1,5g/kg/ngày
Trẻ từ 1 tuổi trở lên cần 1,5g/kg/ngày.
Viện dinh dưỡng quốc gia Việt Nam đã tính toán và đưa ra nhu cầu về protein của trẻ em Việt Nam như sau:
Trẻ dưới 1 tuổi cần 23g protem/ngày.
Trẻ 1 – 3 tuổi cần 26g protein/ngày
Trẻ 4 – 6 tuổi cần 30g protein/ngày.
Cách bổ sung protein.
Protein động vật có tỷ lệ cân đối các axít – amin, có nhiều axít – amin cần thiết hơn mà trẻ nhỏ lại rất dễ tiếp thu. Vì thế, cần chú ý và ưu tiên cho trẻ ăn thức ăn động vật.
Tuổi càng nhỏ, nhu cầu cần Protein càng nhiều
Trẻ em còn bú thì lượng protein chủ yếu được cung cấp từ sữa mẹ.
Đối với trẻ em lớn hơn phải ăn theo chế độ bổ sung thì cần cho trẻ ăn thịt, cá, trứng, sữa, tôm, cua, đậu đỗ, ngũ cốc… Vì đó là nguồn cung cấp protein dồi dào.
Tuy nhiên, cần chú ý chỉ cho trẻ ăn đậu, lạc, vừng khi trẻ bắt đầu ăn bột. Nếu quấy bột thì trộn 2 phần gạo, 1 phần đậu. Nếu nấu cháo cũng cho ăn bột lạc rang trộn hoặc nấu với các loại thức ăn hoặc nấu cháo.
Trẻ dưới 12 tháng tuổi, mỗi ngày có thể cho trẻ ăn từ 20 – 30g bột lạc rang.
Có thể tăng nguồn protein theo tiêu chuẩn như sau:
Đậu lạc, vừng các loại: 15 – 34% trong 100g
Các loại cá: 10 – 20% trong 100g
Các loại trứng: 10 – 20% trong 100g.
Ngoài ra, protein có trong gạo là tốt nhất. Cho nên, trong bữa ăn hàng ngày của trẻ ngoài gạo là chủ yếu nên có thêm thức ăn giàu protein động vật, các thứ rau giàu vitamin, muôi khoáng.
Tốt nhất nên kết hợp bổ sung nguồn protein thực vật và protein động vật nhằm bổ sung các axít – amin cần thiết.
* Những chú ý về protein trong khi nuôi trẻ nhỏ.
– Protein cực kỳ quan trọng đối với sự sống, đặc biệt cần thiết phát triển của trẻ nhỏ. Cho nên trong ăn uống không có nghĩa là chỉ cần đủ protein là được.
Sau đây là bảng ghi lượng chất protein chứa trong 100g thức ăn:
Tên thức ăn
Hàm lượng g
Ghi chú
– Gạo
6,5-8,5
– Gạo trắng quá chỉ còn 3 – 4g
– Ngô các loại
8-9
– Khoai các loại (tươi)
1-1,5
– Nếu mốc hoặc mục thì protein không còn mà còn có chứa chất độc nữa.
– Rau ngót
5,3
– Rau lá càng xanh chất protein và vitamin càng nhiều.
– Rau rút
5,1
– Rau muống
3,2
– Rau dền
3,0
– Rau mọc hoang dại (dền cơm) càng có nhiều protein.
– Rau thơm các loại
2-3
– Các loại rau xanh khác
1,2-1,5
– Các loại rau củ, quả
1,2-2,0
– Đậu
22-35
– Ăn đậu, lạc, vừng còn cho thêm chất béo.
– Lac
28
-Vừng
20
– Thịt nạc (bò, chó, dê, cừu, lợn nái…)
18-20
– Thịt càng già, hàm lượng protein càng cao nhưng khó tiêu hoá hơn thịt non.
– Thịt gia cầm
20-22
– Ếch, nhối, cá lươn…
15-20
– Protein từ thuỷ sản dễ tiêu và hấp thu.
– ốc
10
– Protein trong trứng, sữa rất dễ tiêu đối với trẻ em.
– Tôm, tép
12-15
-Trứng gà, vịt
12-14
– Sữa tươi
4-7
– Có chế độ ăn hợp lý. Nhiều người vì quá để cao protein động vật mà cho trẻ ăn quá nhiều thịt, cá, trứng vì cho rằng chỉ có những thứ đó mới bổ dưỡng, nhưng thực tế thì đứa trẻ đó lại còi cọc. Nguyên nhân là do chế độ ăn của trẻ không hợp lý (thiếu cơm, thiếu các vitamin) làm cho cơ thể của trẻ không đủ năng lượng. Khi thiếu năng lượng, dù chất protein ăn vào quá nhiều chỉ đáp ứng cung cấp năng lượng chứ không làm tròn các chức năng khác.
Ví dụ: Cho trẻ ăn 200g thịt thì có 40g protein nhưng nếu không ăn cơm, không ăn các thứ khác,
trẻ sẽ thiếu năng lượng. Vì lượng protein đó chỉ cung cấp được khoảng 500kcal/ngày, không thể đủ cho 1 đứa trẻ nặng 10kg phát triển trong khi chúng cần cung cấp một lượng năng lượng xấp xỉ 1000kcal/ngày.
Nếu ăn quá nhiều thịt cá mà ốn ít cơm, ít rau và nhiều loại thức ăn khác trong thời gian dài sẽ đem lại hiệu quả là: Trẻ thường xuyên bị mất cân đốì các chất dinh dưỡng, nhất là thiếu vitamin và chất khoáng cần thiết cho cơ thể. Cho nên, trẻ sẽ còi cọc, chậm lớn.
Tuy nhiên, nhu cầu protein như trên vừa nói chỉ có giá trị khi trẻ ăn đủ nhu cầu năng lượng. Ngược lại sẽ không có tác dụng nếu chưa đủ ! năng lượng.
Nếu trẻ ăn quá nhiều protein sẽ dẫn đến khó tiêu hoá, khó bài tiết các chất chuyển hoá nên gây gánh nặng cho cơ thể, nhất là đối với trường hợp uống ít nước. Tốt nhất tỷ lệ năng lượng cung cấp cho trẻ là 14% – 15% protein.
Cơ thể của trẻ luôn cần giữ một lượng protein để cấu tạo tổ chức mới cho sự lớn vì cân bằng chất protein không có ở trẻ em. Vì vậy, chế độ ăn giàu chất protein và có sự tương quan nhất định với các chất dinh dưỡng khác là hết sức cần thiết cho sự phát triển cơ thể. Ngược lại, thiếu protein trẻ sẽ kém phát triển, cơ thể dẫn đến suy nhược, gây rối loạn sự trao đổi chất. Thiếu protein trong một thời gian dài, trẻ sẽ bị suy dinh dưỡng nặng.
Như vậy, protein chính là nền tảng cho sự tăng trưởng của trẻ.
Bệnh viêm thấp mạn tính xảy ra chủ yếu ở những khớp của cột sống và ở khớp cùng chậu, đặc hiệu bởi cứng cột sống tiến triển nặng dần đưa tới dính cứng hoàn toàn.
Căn nguyên: chưa rõ. Mặc dù về mặt mô học, viêm màng hoạt dịch trong bệnh viêm cột sống dính khớp cũng giống như viêm màng hoạt dịch trong bệnh viêm đa khớp dạng thấp, nhưng người ta vẫn nhận thấy có một số khác biệt làm cho phải nghĩ rằng bệnh sinh của hai bệnh này là khác nhau. Những khác biệt đó là: trong huyết thanh bệnh nhân bị viêm cột sống dính khớp không có yếu tố bệnh thấp, bệnh xuất hiện sớm hơn (lúc bệnh nhân 20-30 tuổi), tỷ lệ mắc bệnh trội hơn ở nam giới, bệnh có thể kết hợp với viêm mống mắt và hở van động mạch chủ. Bệnh viêm cột sống dính khớp cũng có thể kết hợp với bệnh vảy nến, hội chứng Reiter, các bệnh ruột mạn tính (viêm đại trực tràng chảy máu, bệnh Crohn, bệnh Whipple). Kháng nguyên HLA-B27 có trong 90% số trường hợp bệnh viêm cột sống dính khớp (trong khi chỉ phát hiện được trong 6-8% dân chúng nói chung), điều này cho phép nghĩ tới tố bẩm di truyền. Theo một số thống kê tỷ lệ mới mắc bệnh thay đổi từ 0,5 đến 2 người trong một ngàn người.
Giải phẫu bệnh
Những tổn thương khởi đầu ở những khớp cùng chậu (viêm khớp cùng chậu), thuộc cùng một typ với tổn thương của bệnh viêm đa khớp dạng thấp (xem bệnh này), ở những khớp của cột sống, viêm màng hoạt dịch cũng kèm – theo tăng sản, thâm nhiễm lympho bào, calci hoá (vôi hoá) các dây chằng gian đốt sống và dính cứng khớp. Người ta còn thấy hiện tượng viêm ở những vị trí bám của các gân cơ (viêm chỗ bám gân hoặc còn gọi là “bệnh bám gân”).
Triệu chứng
Bệnh xuất hiện chủ yếu ở nam giới trẻ từ 20-30 tuổi (tỷ lệ mắc bệnh nam/nữ: 9/1). Điều rất quan trọng là phải chẩn đoán bệnh trước khi những tổn thương không còn phục hồi được nữa.
KHỞI PHÁT: âm ỉ, bởi triệu chứng đau phần dưới thắt lưng, đôi khi đau dọc theo đường đi của dây thần kinh hông to (thần kinh toạ). Đau bắt đầu ở một bên, rồi chuyển sang bên đối diện: kiểu đau ‘Túc lắc” (luân chuyển hai bên), trội về ban đêm, và cảm giác cột sống bị cứng vào buổi sáng sớm rồi giảm đi khi hoạt động chính là những đặc điểm của bệnh. Vào giai đoạn khởi đầu này thường hay xảy ra cả đau phần trước lồng ngực. Bệnh nhân đôi khi cũng kêu đau ở gót chân (chứng đau gót). Trong 25% số trường hợp bệnh viêm cột sống dính khớp đi kèm với viêm khớp ngoại vi, thường hay xảy ra ở khớp vai, khớp gối, và khớp cổ chân, ở những thể thanh thiếu niên, (xuất hiện trước 20 tuổi) cũng hay thấy viêm xương cụt. Đau ngực có thể là do các khớp và các cơ của lồng ngực cũng bị viêm.
KHÁM THỰC THỂ: động tác gấp cột sống về phía trước kém hơn: bệnh nhân không thể cúi xuống để chạm bàn tay tới mặt đất., và trong thử nghiệm này thày thuốc nhận thấy cột sống thắt lưng bị cứng và các cơ cũng co cứng. Khi làm thử nghiệm Schober (xem thử nghiệm này), thì cột sống không dài thêm ra được quá 3 cm. Khi gõ vào những mỏm gai và làm chuyển động các khớp cùng chậu sẽ làm cho bệnh nhân đau. Ngay từ những tháng đầu tiên bị bệnh, mức giãn nở của lồng ngực đã giảm.
THỜI KỲ TOÀN PHÁT: bệnh càng diễn biến tiếp tục, thì tác động càng lan rộng hơn trên các đoạn khác nữa của cột sống. Lúc này, sẽ xuất hiện đau ở cột sống ngực (lưng) và cứng đau ở gáy. Nếu không được điều trị, cột sống sẽ ngay đơ ở tư thế tăng gù đoạn ngực (tăng độ cong lồi ra sau ở đoạn cột sống lưng) Độ ưỡn của đoạn cột sống thắt lưng mất đi. Đau dây thần kinh toạ (thần kinh hông to) hoặc hội chứng đuôi ngựa xuất hiện chính là hậu quả của các biến chứng: rễ dây thần kinh sống bị chèn ép, bán trật khớp đốt sống hoặc gãy đốt sống.
DIỄN BIẾN: bệnh diễn biến thành từng đợt đôi khi có sốt. Trong vòng vài năm toàn bộ các khớp đốt sống sẽ bị dính cứng. Động tác của lồng ngực giảm dần và lồng ngực gần như cố định ở thì thở ra. Do các khớp bị gắn chặt nên cột sống rất dễ bị chấn thương. Tuy nhiên, viêm các khớp ngoại vi thì có tiên lượng tốt hơn so với trong bệnh viêm đa khớp dạng thấp. Tối giai đoạn muộn nữa thì bệnh nhân không thể ngồi được, khi đi lưng bị còng và bước đi ngắn, đầu gần như cố định.
NHỮNG TỔN THƯƠNG NGOÀI KHỚP
Viêm mống mắt cấp tính (viêm phần trước màng mạch):khá hay xảy ra trong quá trình diễn biến của bệnh (20% trường hợp). Những đợt viêm màng mạch tái phát có thể gây ra rối loạn thị giác đôi khi nặng.
Viêm động mạch chủ: thấy trong 2% số trường hợp bệnh, thường là hở van động mạch chủ do đoạn lên của động mạch này bị giãn.
Những tổn thương khác nữa: loạn nhịp tim (rối loạn dẫn truyền thần kinh tim), thoái hoá dạng tinh bột, xơ phổi, hội chứng
đuôi ngựa.
CÁC THỂ THÔ SƠ: bệnh có thể chỉ biểu hiện bôi viêm một khớp hoặc viêm ít khớp ở chi dưới hoặc bởi chứng đau gót hai bên, làm cho chẩn đoán trở nên khó khăn.
Xét nghiệm cận lâm sàng
Tốc độ máu lắng tăng trong thời kỳ bệnh đang diễn biến.
Thiếu máu nhược sắc (hay xảy ra).
Yếu tố bệnh thấp và kháng thể kháng nhân trong huyết thanh: không thấy trong 85% số trường hợp.
Dịch não tuỷ: tăng protein (trong 50% số trường hợp).
Kháng nguyên HLA-B27 dương tính trong 90% số trường hợp.
Xét nghiệm X quang
Khớp cùng chậu (viêm khớp cùng chậu):hình ảnh tổn thương xuất hiện sớm, cả hai bên cùng một lúc, và thường xảy ra trước những tổn thương ở cột sống. Hình ảnh khởi đầu bằng khe khớp bị mờ, tiếp theo là khoảng gian khớp rộng ra, về phía diện khớp của xương chậu có hình ảnh xương bị ăn mòn (hoặc bị trợt) và bị đặc.
Cốt hoá dây chằng:là những tổn thương đặc biệt của bệnh, bao gồm calci hoá (vôi hoá) rồi cốt hoá các bó sợi hình vòng ở phần ngoại vi của đĩa gian đốt sống (phải phân biệt với hình ảnh gai xương). Các dây chằng bị cốt hoá ở khắp chu vi của các đốt sống, chúng vây chặt lấy những đĩa gian đốt sống và sau 5-10 năm diễn biến thì tạo nên hình ảnh “thân cây tre” (cả cột sống cứng đơ cổ những đốt lồi ra giống thân cây tre).
Thông thường cả những khớp gian mỏm đốt sống cũng bị bệnh
Những biến đổi khác:xảy ra ở khớp bán động mu, những khớp chậu đùi (khớp hông, khớp háng) và khớp vai-cánh tay (khớp vai). Khác với những biến đổi của các khớp ngoại vi trong bệnh viêm đa khớp dạng thấp vì viêm các khớp ở chi trong bệnh viêm cột sống dính khớp không đối xứng và mức độ loãng xương địa phương và xương bị ăn mòn (hoặc xương bị trợt) tương đối kém nghiêm trọng hơn.
Chẩn đoán
Đau vùng thắt lưng dai dẳng, trội về ban đêm xuất hiện ở đối tượng trẻ tuổi, cứng cột sống vào buổi sáng sớm và giảm dần khi hoạt động. Biên độ động tác gấp cột sống ra phía trước (cúi) bị giảm.
Tốc độ máu lắng tăng.
Hình ảnh X quang của những khớp cùng chậu bị biến đổi.
Chẩn đoán phân biệt
Viêm đa khớp dạng thấp: trong bệnh này, nếu cột sống bị tác động thì cũng chỉ giới hạn ở đoạn cổ. Các khớp cùng chậu không bao giờ bị bệnh tác động. Còn trong bệnh viêm cột sống dính khớp thì các khớp nhỏ ở bàn tay và bàn chân lại không bị bệnh, cũng không có các nốt (cục) dưới da.
Thoát vị đĩa đệm: bệnh (đau) khu trú ở những đốt sống thắt lưng dưới cùng (L4 và L5), không có các triệu chứng toàn thân, tốc độ máu lắng bình thường.
Viêm đặc xương chậu: có các dấu hiệu xơ hoá mào chậu, những xương không bị ăn mòn (không bị trợt), xảy ra chủ yếu ở phụ nữ.
Viêm đốt sống do lao (lao đốt sống): nếu có biến đổi ở khớp cùng chậu thì thường nhất chỉ ở một bên.
Đau vùng thắt lưng sau chấn thương.
Những bệnh cột sống khác: bệnh thấp vảy nến, viêm khớp trong những bệnh ruột, hội chứng Reiter, viêm đa khớp thanh thiếu niên mạn tính, hội chứng Behqet.
Bệnh Still-Chauffard.
Tiên lượng
Nếu không được điều trị, bệnh diễn biến thành từng đợt xen kẽ với những thời kỳ thuyên giảm, tới khi toàn bộ cột sống bị dính cứng. Tiên lượng sống còn là tốt, nhưng thường hay bị mất chức năng, nhất là khi những khớp chậu đùi (khớp hông) bị dính cứng.
Điều trị
CÁC BIỆN PHÁP TOÀN THÂN: tập luyện thích hợp là rất quan trọng để tránh biến dạng, gù và để duy trì biên độ thở.
THUỐC: thuốc chống viêm không steroid (xem thuốc này), đặc biệt là indometacin, diclofenac, naproxen. Chỉ sử dụng phenylbutazon trong trường hợp những thuốc khác không có hiệu quả, Sulfasalazin 2-3 g / ngày. Không cho corticoid, trừ trường hợp có biến chứng viêm mống mắt cấp tính. Muối vàng và những thuốc chống sốt rét không có hiệu quả. Sulfasalazin có thể có ích trong trường hợp các khớp ngoại vi bị bệnh tác động.
PHONG BẾ TẠI CHỖ: corticoid, tiêm chất phóng xạ vào trong khớp.
GHI CHÚ: hội chứng SAPHO
(viêm màng hoạt dịch, trứng cá, mụn mủ, dày xương, viêm xương) là sự kết hợp của những bệnh sau đây: viêm đốt sống, dày xương ức-sườn- đòn, trứng cá kết tụ (thể trứng cá loét), và mụn mủ gan bàn tay bàn chân. Điều trị: thuốc chống viêm không steroid.
Tại Mỹ (1997), tử vong do ung thư đứng hàng thứ hai sau tai nạn và đứng trước dị tật bẩm sinh.
Trong nhóm bệnh lý toàn thân, được kể đến là: ung thư máu (leukemia) và ung thư lymphome (lymphoma). Trong nhóm ung thư máu (leukemia) chú ý nhóm thường gặp là bạch cầu cấp dòng lympho và bạch cầu cấp dòng tủ Trong ung thư lymphom (lymphoma) đựợc chia thành nhóm Hodgkin và không Hodgkin.
Trong nhóm bướu đặc (solid tumors), hay nói khác đi là nhóm hệ cơ quan, xuất độ thường gặp theo trình tự là: hệ thần kinh trung ương, nguyên bào thận, nguyên bào thần kinh, bướu tế bào mầm, sarcom cơ vân,…Chúng ta cần lưu ý đến lứa tuổi, vị trí, xếp giai đoạn, giải phẫu bệnh và điều trị đa mô thức (phẫu trị, hóa trị, xạ trị…).
Xếp giai đoạn trong ung bướu nhi và hướng điều trị tùy theo quan điểm của từng nhóm nghiên cứu quốc tế như: SIOP: Societe Internationale D’oncologie pediatrique (1971), UKCCSH: United Kingdom Children’s Cancer Study Group, COG: Children’s Oncology Group, GPOH… Trong thực tế lâm sàng, để dễ nhớ, có thể dựa vào hệ thống phân loại T, N, M (1943-1952) của Pierre Denoix (1912-1990).
Cần lưu ý các bệnh và hội chứng di truyền có liên quan đến việc tầm soát, theo dõi và tiên lượng các loại ung thư liên
II. BÊNH VÀ HỘI CHỨNG DI TRUYỀN
Hội chứng Beckwith – Wiedemann (rộng khóe miệng, lưỡi to, tạng lớn, khiếm khuyết thành bụng). Hội chứng này thường kết hợp với bệnh lý bướu có nguồn gốc phôi như bướu Wilms, bướu nguyên bào Gien bị đột biến trong hội chứng này là p57KIP2, ở vị trí nhiễm sắc thể 11p15.5.
Bệnh đa polyp gia đình: Kingston lần đầu tiên mô tả sự kết hợp giữa bệnh đa polyp gia đình và bướu nguyên bào gan (1982). Tác giả ghi nhận bướu nguyên bào gan xảy ra ở cùng lúc anh em ruột với hội chứng này. Gien bị đột biến là gien APC (Adenomatous Polyposis Coli) ở vị trí nhiễm sắc thể 5q21.22.
Bướu nguyên bào gan kết hợp với hội chứng Li – Fraumeni với gien TP 53, vị trí 17p13, hay hiếm gặp hơn với hội chứng Praderwilli, Aicardi,
Denys – Drash (viêm vi cầu thận cấp, hội chứng thận hư, lưỡng giới giả, Wilms).
III. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG
Tình huống cấp cứu
+ Biểu hiện lâm sàng: trong bệnh lý bướu trung thất ở trẻ em hội chứng tĩnh mạch chủ trên và hội chứng trung thất thường gặp trong cấp cứu ung thư. Tràn dịch màng phổi và màng tim cũng được phát hiện trong bệnh lý này.
+ Xuất huyết nội do bướu vỡ: chảy máu cấp do bướu gan, neuroblastoma, bướu Wilms vỡ. Chảy máu rỉ rả trong lymphoma mạc treo, bướu buồng trứng vỡ.
+ Tắc ruột do dính trong lymphoma.
+ Yếu và liệt chi, liệt các dây thần kinh sọ, tăng áp lực nội sọ là biểu hiện của bướu hệ thần kinh trung ương.
– Triệu chứng thực thể
+ Bướu: vị trí, mật độ, kích thước, xâm lấn chung quanh, độ di động và từ đó liên hệ tới cơ quan tương xứng. Khi khám phải nhẹ nhàng và phải nhớ dạng nguyên bào là một khối bướu, đặc, hay vừa nang vừa đặc, hoại tử, xuất huyết
+ Hạch vùng: phải chọn lọc hạch được sinh thiết để có thể cho kết quả đúng. Tiêu chuẩn chọn hạch:
Hạch lớn hoặc vẫn lớn sau khi điều trị kháng sinh 2 – 3 tuần
Những hạch không lớn nhưng không giảm kích thước sau 5 – 6 tuần hoặc sau 10 – 12 tuần không trở về bình thường, đặc biệt những hajch có kèm triệu chứng toàn thân như sốt không giải thích được, sụt cân, gan to lách to.
Những hạch lớn kèm bất thường trên phim chụp ngực
Giá trị chẩn đoán xác định ung thư trẻ em tăng cao khi bệnh nhi có kèm thêm các triệu chứng hay dấu hiệu toàn thân như sốt, thiếu máu, gan lách to hay bất thường trên phim XQ ngực. Vùng hạch được chọn ưu tiên dọc theo cơ ức đòn chũm (dọc theo bó mạch cảnh) nhóm cao hay vừa, hoặc cũng có nhóm trên đòn. Hạch nách, bẹn được lựa chọn sau, chỉ chọn khi lâm sàng nghĩ đến khả năng ác tính cao .
+ Biểu hiện nội tiết: bướu nội tiết chiếm khoảng 4-5% tổng số bướu tân sinh ở trẻ em. Bướu tuyến thượng thận cũng nằm ở vị trí trên thận nhưng hiếm gặp và cần phải khảo sát sự liên quan chặt chẽ với các hormon như aldosterone (mineralocorticoid), glucocorticoid, androgen, catecholamin, ACTH. Bướu buồng trứng liên quan nội tiết nam hay nữ.
o Một số dấu hiệu khác: cao huyết áp, thiếu máu, nhược cơ, tân sinh hậu nhãn cầu, xuất huyết âm đạo, tiểu máu, dãn tĩnh mạch thừng tinh một bên …
IV. DẤU ẤN SINH HỌC
AFP(aFoeto – protein):
AFP là a1 – globulin được sản xuất từ túi noãn hoàng và sau đó là tế bào gan và ống tiêu hóa. Thời gian bán hủy của AFP từ 5 – 7 ngày. Nồng độ AFP tăng trong thời kỳ thai và cao nhất từ tuần 12 – 14 của thai kỳ . Nồng độ AFP sẽ giảm dần theo thời gian và dưới 10mg/dl ở người trưởng thành hay trẻ em 1 tuổi. Theo Wu.J.T và Sudar K (1981) với trên 193 bệnh nhi, đã đưa ra số liệu bình thường sau: trẻ 2 tháng tuổi 30 – 400ng/ml; 6 tháng: < 30ng/ml; 12 tháng < 15ng/ml.
+ aFP tăng cao 80 – 90% ở bướu nguyên bào gan, khoảng 60% ở trẻ bị HCC và rất có giá trị trong bướu tế bào mầm. Tuy nhiên aFP có thể tăng ít trong bướu máu hay hamartoma gan
β – hCG (human Chorionic Gonadotropin):
+ hCG bản chất là glycoprotein, bao gồm hai đơn vị là α,β.
hCG được tổng hợp bởi hợp bào nuôi của nhau nhằm duy trì sự sống của hoàng thể trong thời gian mang thai
+ α – hCG là chuỗi peptid giống như các hormon khác như LH, FSH, TSH và không có ý nghĩa trong BTBMTE
+ β – hCG, nồng độ thấp < 5mIU/ ml, T bán hủy 24h – 36h. β – hCG tăng cao biểu hiện sự hiện diện của clon hợp bào nuôi tiết hCG. Bệnh lý thường gặp là ung thư tế bào nuôi, tế bào khổng lồ hợp bào nuôi, embryonal và được phát hiện qua nhuộm peroxidase.
+ β – hCG và AFP đều tăng gặp trong polyembryoma và trong embryonal carcinoma buồng trứng, germinoma (seminoma, dysgerminoma)
+ β – hCG tăng sau hóa trị do diệt tế bào ung thư.
– Dấu ấn sinh học khác:
+ LDH huyết thanh được dùng đánh giá sự phân hủy tế bào bướu.
+ PLAP (placental alkaline phosphatase) tăng cao trong seminoma.
+ CA – 125 (carbohydrate antigen) tăng cao trong nhóm biểu mô.
+ CA-19-9, và nhóm máu Lewis – A cũng được đề cập trong nhóm teratoma nhưng có vai trò chưa rõ.
V. CHẨN ĐOÁN HÌNH ẢNH
Siêuâm:
+ Có vai trò chẩn đoán ban đầu.
+ Có vai trò giới hạn trong việc khảo sát ranh giới khối u, số lượng ổ và cấu trúc liên quan.
CT, MRI:
+ Đánh giá chính xác số ổ, ranh giới, hạch vùng và cấu trúc lân cận.
+ Khảo sát ba thì: động mạch, tĩnh mạch, thì nhu mô với thuốc cản quang.
+ Dynamic CT: so sánh khả năng bắt thuốc của bướu và của chủ mô.
VI. XẾP GIAI ĐOẠN
Xếp giai đoạn được thực hiện sau phẫu thuật hay hóa trị lần đầu. Phẫu thuật viên thường chọn theo POG dễ nhớ, hoặc theo SIOP nếu hóa trị trước. Do đặc điểm riêng của mỗi nhóm bệnh lý, việc xếp giai đoạn và chọn phác đồ điều trị sẽ theo tiêu chuẩn quốc tế.
VII. GIẢI PHẪU BỆNH VÀ SINH HỌC PHÂN TỬ
Chẩn đoán giải phẫu bệnh căn cứ vào quan sát dưới kính hiển vi về hình thái tế bào và cấu trúc mô học tế bào. Tham khảo thêm về đặc điểm đại thể, dấu ấn sinh học… được phẫu thuật viên ghi chép cẩn thận trong phiếu giải phẫu bệnh.
Tuy nhiên, có những trường hợp khó khăn trong chẩn đoán, các nhà bệnh học phải dùng đến kỹ thuật hóa mô miễn dịch như Cytokeratin, Epitheial membrane antigen, Vimentin, Desmin…
Sinh học phân tử cũng có ý nghĩa quan trọng trong bệnh lý leukemia, giúp đánh giá tiên lượng, lựa chọn phác đồ điều trị thích hợp và theo dõi điều trị.
VIII. CHIẾN LƯỢC ĐIỀU TRỊ
Ung thư có thể được điều trị bằng phẫu trị, hóa trị, xạ trị, miễn dịch hay các phương pháp khác. Việc chọn lựa phương pháp điều trị phụ thuộc vào vị trí của khối bướu, giai đoạn của bệnh, và phác đồ điều trị cụ thể sẽ theo tiêu chuẩn của mỗi nhóm nghiên cứu quốc tế.
1. Phẫu trị
Phẫu thuật là phương pháp được lựa chọn trong việc giải quyết yếu tố tại chỗ và tại vùng trong ung thư. Phẫu thuật tận gốc là phẫu thuật triệt mạch máu trước rồi cắt bỏ khối bướu và mô tế bào mỡ, hạch chung quanh thành một khối. Lưỡi dao mổ phải luôn đi trong ranh giới mô lành và không được làm rách vỏ bao giả hoặc làm vỡ bướu.
Sinh thiết bướu hay hạch di căn giúp xác định nguồn gốc ung thư và xếp giai đoạn.
Phẫu thuật cấp cứu trong những tình huống khẩn cấp như xuất huyết, khó thở, tắc ruột, chèn ép não đe dọa tụt não… nhưng phải cân nhắc và có hướng chẩn đoán xác định đặc tính của từng loại ung thư, đánh giá có đáp ứng với hóa trị hay không vì phần lớn nhóm bướu nguyên bào trẻ em đáp ứng tốt với hóa trị. Phẫu thuật viên ung thư cần cân nhắc thêm chỉ định tùy vào tình huống cụ thể và khả năng hồi sức tại cơ sở điều trị.
Phẫu thuật nhằm giảm tổng khối tế bào bướu sau đó hóa trị hay xạ trị phối hợp chỉ nhằm kéo dài thêm thời gian sống. Các kỹ thuật diệt tế bào ung thư như nhiệt lạnh, nhiệt độ cao, hay thuyên tắc mạch máu chỉ được dùng khi không thể thực hiện được các cách điều trị theo kinh điển.
2. Hóa trị
Ngày nay, hóa trị liệu đã có những thành tựu vượt bậc trong điều trị ung thư bằng thuốc với khả năng tiêu diệt chọn lọc trên tế bào ung thư và giảm thiểu nguy cơ tổn thương trên những tế bào lành. Chúng can thiệp vào chu kỳ tế bào theo các cách khác nhau nên hai hay nhiều thuốc thường được kết hợp cùng lúc với nhau làm tăng hiệu quả diệt tế bào ung thư. Hình thức này được gọi là “hóa trị phối hợp” hay đa hóa trị.
Đa hóa trị cũng giúp ngăn chận tính kháng thuốc của tế bào ung thư.
Hóa trị trong ung thư trẻ em có hiệu quả trong việc làm giảm thể tích bướu, giảm lượng máu nuôi bướu và tiêu diệt các ổ di căn xa tạo thuận lợi cho phẫu thuật trong quan điểm điều trị đa mô thức.
Sau mỗi đợt điều trị cần đánh giá lại hiệu quả điều trị và độc tính của thuốc.
3. Xạ trị
Xạ trị liệu là sử dụng một dạng năng lượng (gọi là phóng xạ ion hoá) để diệt tế bào ung thư và làm teo nhỏ khối u. Xạ trị được sử dụng để giải quyết yếu tố tại chỗ và tại vùng trong ung thư.
Nguyên tắc chung điều trị tia xạ:
+ Chỉ điều trị tia xạ khi có chỉ định, chẩn đoán xác định, giải phẫu bệnh và xếp giai đoạn.
+ Xác định tổng thể phương án điều trị, vai trò và vị trí của tia xạ.
+ Chọn mức năng lượng, chùm tia thích hợp cho từng vị trí, xác định tổng liều, phương thức trải liều.
+ Xác định thể tích tia chính xác và mối quan hệ với các cơ quan phụ cận qua chụp X-quang, CT scan, MRI và qua máy mô phỏng.
+ Nghiên cứu cho liều xạ tối ưu giữa tổ chức lành và tổ chức bệnh.
+ Kiểm tra trường chiếu trên máy điều trị.
+ Đánh dấu các điểm, góc chiếu quan trọng so với mặt phẳng bàn điều trị.
+ Cố định bệnh nhân tốt, theo dõi bệnh nhân trong quá trình tia xạ thông qua hệ thống camera.
+ Chăm sóc da và niêm mạc vùng chiếu và toàn trạng bệnh nhân.
IX. KẾT LUẬN
Y học ngày nay ngày càng có nhiều tiến bộ trong nhiều lĩnh vực như hồi sức, dụng cụ phẫu thuật, máy xạ trị, và các thuốc hóa trị.
Ý thức xã hội về bệnh ung thư cũng thay đổi theo hướng tốt hơn.
Siêu âm là phương tiện rẻ tiền, dễ sử dụng trong việc tầm soát ung thư.
Phát hiện ung thư sớm, phối hợp điều trị đúng đã góp phần cải thiện tiên lượng sống và chất lượng sống cho bệnh nhi.
TÊN KHÁC: hormon hướng giáp, thyreotrophin. (Viết tắt tiếng Anh: TSH: Thyroid-Stimulating-Hormone – Hormon kích thích tuyến giáp).
NGUÔN GÔC: có khả năng do những tế bào ưa base (ưa kiềm) delta của thuỳ trước tuyến yên chế tiết.
TÁC DỤNG VÀ ĐIỂU HOÀ
Kích thích tuyến giáp tổng hợp các hormon giáp trạng, tăng gắn iod, hình thành dịch keo và tăng sản tế bào tuyến giáp.
Quá trình bài tiết thyreostimulin (TSF) được kích thích bởi vùng dưới đồi thị qua trung gian là protirelin hoặc TRH (Thyrotropin-Releasing Hormone – hormon giải phóng thyrotropin).
Ngoài ra, còn có một cơ chê điều hoà trợ động (điều hoà phản hồi) tuyến yên-tuyến giáp: ngay khi hàm lượng triiodothyronin (T3) và thyroxin (T4) trong huyết tương giảm xuõng thì sẽ tăng tiết TSH, và ngược lại.
Sử dụng lâu dài các hormon tuyến giáp sẽ ức chế bài tiết TSH. Bình thường, tác dụng ức chế này hết đi 3 – 4 tuần sau khi ngừng sử dụng hormon tuyến giáp.
HÀM LƯỢNG CỦA THYREOSTIMULIN TRONG HUYẾT TƯƠNG (ĐỊNH LƯỢNG SIÊU NHẠY): bình thường là 0-5 mU/l. Hàm lượng này giảm trong trường hợp phù niêm do tuyến yên (nguồn gốc trung ương) và trong những trường hợp ưu năng tuyến giáp. Ngược lại, hàm lượng thyreostimulin tăng trong trường hợp phù niêm nguyên phát (nguồn gốc tuyến giáp).
GIẢM BÀI TIẾT, xem: nhược năng tuyến giáp trạng do tuyến yên.
TĂNG BÀI TIẾT: ưu năng tuyến giáp thứ phát. Chứng lồi mắt ác tính đã được cho là do quá thừa thyreostimulin , nhưng cũng có khả năng chứng này là do một yếu tố lồi mắt độc lập.
THỬ NGHIỆM TEST KÍCH THÍCH BẰNG PROTIRELIN (TRH): cho phép định lượng được mức dự trữ TSH của tuyến yên. Tiêm 0,2 mg protirelin sẽ làm tăng hàm lượng TSH trong huyết tương hơn 2 μU/ml trong trường hợp nhược năng tuyến giáp do nguồn gốc tuyến giáp (cấp nguyên phát hoặc cấp tại chỗ) hoặc do nguồn gốc dưới đồi thị (cấp thứ ba hoặc cấp trung ương), nhưng không phải giảm năng giáp trạng do nguồn gốc tuyến yên (cấp thứ phát hoặc cấp trung gian hoặc cấp thứ hai). Protirelin cũng kích thích giải phóng prolactin (xem: tăng prolactin huyết). Chống chỉ định: có-thai.
Biểu hiện lâm sàng: U não bất kỳ loại nào có thể biểu hiện triệu chứng tổng quát/khu trú. Những triệu chứng tổng quát không đặc hiệu gồm đau đầu, nhận thức khó khăn, thay đổi tính tình, và rối loạn dáng đi. Nhức đầu điển hình rõ ràng vào buổi sáng và cải thiện trong ngày, nhưng thực sự nhức đầu gặp ở một phần nhỏ bệnh nhân. Phù gai thị gợi ý tăng áp lực nội sọ. Các triệu chứng khu trú gồm liệt nửa người, mất ngôn ngữ, hay giảm thị trường là điển hình của bán cấp và tiến triển. Co giật thường biểu hiện, xuất hiện khoảng 25% bệnh nhân di căn não hay u thần kinh đệm ác tính.
Đánh giá: U não nguyên phát không có đặc trưng huyết thanh như bệnh ác tính gồm tăng ESR, kháng thể khối u đặc hiệu, không giống di căn. MRI não cản quang được xem là test chẩn đoán cho bất kỳ bệnh nhân nghi ngờ khối u não; CT nên dành cho bệnh nhân không thực hiện MRI được. U não ác tính điển hình tăng đậm độ với cản quang và có thể có vùng hoại tử trung tâm; nó đặc trưng được bao quanh bởi khối chất trắng. U thần kinh đệm cấp thấp điển hình không tăng đậm độ. Những test khác gồm mạch máu não đồ, EEG, hay chọc dịch não tuỷ ít khi được chỉ định hay có ích.
ĐIỀU TRỊ Khối U Hệ Thần Kinh
ĐIỀU TRỊ TRIỆU CHỨNG
• Glucocorticoids (dexamethasone 12–16 mg/ngày PO hay IV) để giảm triệu chứng phù nề
• Thuốc chống co giật (levetiracetam, topiramate, lamotrigine, valproic acid, hay lacosamide) cho bệnh nhân co giật; không có vai trò phòng co giật.
• Heparin liều thấp dưới da dành cho bệnh nhân không di chuyển được
ĐIỀU TRỊ CUỐI CÙNG
• Dựa trên các loại khối u cụ thể và bao gồm phẫu thuật, xạ trị, hoá trị.
U NGUYÊN PHÁT NỘI SỌ
U Tế Bào Hình Sao
U thâm nhiễm với nguồn gốc có thể từ tế bào thần kinh đệm. Ung thư nội so nguyên phát phổ biến nhất. Chỉ biết những yếu tố nguy cơ gồm tia xạ ion hoá và hội chứng di chứng không phổ biến (u sợi thần kinh, xơ cứng củ). Thâm nhiễm dọc con đường chất trắng thường cản trở cắt bỏ toàn bộ. Hình ảnh (Hình 201-1) không chỉ được độ lớn khối u. Khối u cấp 1 (u sao bào lông) là khối u phổ biến nhất của tuổi trẻ, điển hình ở tiểu não; có thể cứu chữa nếu cắt bỏ hoàn toàn. U tế bào hình sao cấp 2 thường biểu hiện co giật ở người lớn trẻ; nếu có thể nên phẫu thuật cắt bỏ. Xạ trị và hoá trị như temozolomide được sử dụng nhiều và có thể hiệu quả. Cấp 3 (u sao bào giảm biệt hoá) và cấp 4 (u nguyên bào sao) được điều triệu tương tự với đại phẫu cắt bỏ an toàn sau đó xạ trị đồng thời với temozolomide hay riêng rẻ. Tỉ lệ sống trung bình của u nguyên bào sao là 12-15 tháng. U nguyên bào sao luôn tái dịch và lựa chọn điều trị gồm tái phẫu, cấy carmustine wafer, và phát đồ hoá trị gồm bevacizumab. Yếu tố tiên lượng xấu quan trong của u tế bào hình sao là lớn tuổi, bệnh sử đặc trưng của u nguyên bào sao, tình trạng hoạt động yếu kém, và khối u không thể cắt bỏ.
U Thần Kinh Đệm Ít Nhánh
Nhìn chung đáp ứng điều trị hơn và có tiên lượng tốt hơn so với khối u tế bào hình sao đơn thuần. Thường không tăng đậm độ, và vôi hoá một phần. Phẫu thuật, xạ trị, hoá trị nếu cần thiết. Thời gian sống trung bình hơn 10 năm. Hoá trị cải thiện khi có đột biến mất đoạn 1p và 19q.
U Màng Não Thất
Bắt nguồn từ tế bào màng não tuỷ. Vị trí ống tuỷ hơn là nội sọ ở người lớn. Nếu có thể cắt bỏ toàn bộ, thì có thể cứu chữa. Cắt bỏ một phần khối u sẽ tái phát và cần xạ trị.
Lymphoma Hệ Thần Kinh Trung Ương Nguyên Phát
Tế bào B ác tính; xuất hiện ở hầu hết bệnh nhân suy giảm miễn dịch (ghép tạng, AIDS). Có thể biểu hiện sang thương khối đơn độc hay nhiều khối hay bệnh màng não. Đáp ứng mạnh, thoáng qua với glucocorticoid. Do đó bất cứ khi nào steroids có thể nên được giữ lại đến khi khối u được sinh thiết. Bệnh nhân nên được kiểm tra HIV và mức độ bệnh đánh giá bằng thực hiện PET, MRI cột sống, phân tích CSF, và khám thị giác. Ở bệnh nhân miễn dịch bình thường, liều cao liệu pháp methotrexate giúp thời gian sống trung bình lên đến 50 tháng, có thể tăng với xạ trị toàn bộ não đồng thời và kết hợp thêm chất hoá trị khác như cytarabine hay rituximab. Với bệnh nhân suy giảm miễn dịch, tiên lượng xấu và điều trị với liều cao methotrexate, xạ trị toàn bộ não, và với HIV, liệu pháp kháng retrovirus.
HÌNH 201-1 MRI T1 sau tiêm gadolin của u nguyên bào sao thuỳ trán trái nang lớn
U Nguyên Bào Tuỷ
Khối u não ác tính phổ biến nhất của thời thơ ấu. Một nửa ở hố sọ sau; có nguồn gốc từ tế bào tiền thần kinh. Phẫu thuật, xạ trị, hoá trị. Gần 70% bệnh nhân có thời gian sống lâu nhưng thường bị suy giảm nhận thức thần kinh rõ rệt.
HÌNH 201-2 MRI T1 sau tiêm gadolin xác định đa u màng não dọc liềm não và vỏ thuỳ đỉnh trái.
U Màng Não
U não nguyên phát phổ biến nhất. Khối ngoài trục gắn với màng cứng; chẩn đoán dựa vào đậm độ và độ đồng nhất (Hình 201-2). Phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ u màng não lành tính có triệu chứng và lớn thì có thể cứu chữa. Cắt bỏ một phần, xạ trị vùng giảm tái phát. U màng não nhỏ, không triệu chứng có thể theo dõi hình ảnh học mà không phẫu thuật. Điều trị u màng não tiến triển với cắt bỏ và xạ trị.
U Tế Bào Schwann
U tế bào schwann tiền đình biểu hiện mất thính giác một bên không giải thích và tiến triển. MRI cho thấy đậm độ và đồng nhất của khối u ở gốc tiểu não-cầu não. Phẫu thuật cắt bỏ có thể bảo tồn thính giác.
U DI CĂN ĐẾN HỆ THẦN KINH
Lây truyền qua đường mấy phổ biến nhất. Di căn sọ ít xâm lấm hệ thần kinh trung ương; có thể chèn ép não kế cận hay thần kinh sọ hay tắc nghẽn xoang tĩnh mạch nội sọ. Khối u nguyên phát mà di căn chủ yếu đến hệ thần kinh được liệt kê ở Bảng 201-1. Di căn não được phân định bởi MRI và cản quang với gadolin. Vòng nhẫn không đặc hiệu, những chẩn đoán phân biệt gồm áp xe não, hoại tử tia xạ, toxoplasma, granuloma, lao, sarcoidosis, sang thương thoái hoá myelin, u não nguyên phát, CNS lymphoma, đột quỵ, chảy máu hay chấn thương. Tầm soát ung thư tiềm ẩn: khám da và tuyến giáp; CEA máu và kiểm tra chức năng gan; CT ngực, bụng và chậu. Gần 10% bệnh nhân, ung thư hệ thống có thể biểu hiện với di căn não; sinh thiết u nguyên phát hay di căn não có thế tiếp cận thì cần cho kế hoạch điều trị. Điều trị với glucocorticoids, thuốc chống co giật, xạ trị, phẫu thuật. Xạ trị toàn bộ não thường thực hiện vì lắng đọng nhiều khối u vi thể ở khắp não; xạ phẫu đích thì có lợi với bệnh nhân di căn nhiều được xác định trên MRI. Nếu đơn di căn, có thể phẫu thuật cắt bỏ sau đó xạ trị toàn bộ não. Hoá trị triệu chứng có thể đáp ứng mạnh trong các trường hợp hiếm của loại khối u nhạy hoá trị cao như u tế bào mầm.
BẢNG 201-1 TẦN SUẤT DI CĂN HỆ THẦN KINH TRUNG ƯƠNG TỪ KHỐI U NGUYÊN PHÁT PHỔ BIẾN
Biểu hiện nhức đầu, bệnh đại não, triệu chứng thần kinh sọ hay đa rễ thần kinh. Chẩn đoán bằng tế bào học dịch não tuỷ, MRI (lắng đọng nốt u màng não hay tăng đậm độ màng não lan toả), hay sinh thiết màng não. Liên hệ với não úng thuỷ do tắc nghẽn dịch não tuỷ. Điều trị giảm nhẹ, thường với xạ trị hay hoá trị.
Chèn Ép Tuỷ Sống Từ Di Căn
(Xem Chương 21) Độ rộng của di căn thân đốt sống vào sau khoang ngoài màng cứng gây chèn ép tuỷ. Những khối u nguyên phát phổ biến là phổi, vú, hay tuyến tiền liệt. Đau lưng (>90%) có trước khi yếu, mất cảm giác, hay tiêu tiểu không tự chủ. Cấp cứu nội khoa; sớm phát hiện sắp chèn ép tuỷ sống để tránh di chứng. MRI cột sống để chẩn đoán.
BIẾN CHỨNG CỦA XẠ TRỊ
Ba kiểu tổn thương tia xạ sau xạ trị hệ thần kinh trung ương:
Cấp tính – nhức đầu, buồn ngủ, khiếm khuyết thần kinh trong suốt hay ngay lúc xạ trị. Ít khi thấy thể thức hiện tại. Có thể vừa phòng ngừa và điều trị với glucocorticoid.
Xuất hiện sớm – buồn ngủ (trẻ em), dấu Lhermitte; trong vài tuần đến vài tháng xạ trị. Tăng tín hiệu T2 và đôi khi tăng cường độ trên MRI. Tự giới hạn và cải thiện với glucocorticoid.
Xuất hiện muộn – sa sút trí tuệ hay khiếm khuyết thần kinh tiến triển khác; điển hình vài tháng đến vài năm sau xạ trị. Bất thường chất trắng trên MRI (bệnh não chất trắng) hay khối vòng nhẫn (hoại tử tia xạ). PET có thể phân biệt hoại tử chậm từ khối u tái phát. Hoại tử tia xạ tiến triển được điều trị giảm nhẹ tốt nhất với phẫu thuật cắt bỏ trừ khi nó có thể quản lí bằng glucocorticoid. Tổn thương tia xạ của động mạch lớn tăng cường xơ vữa động mạch, tăng nguy cơ đột quỵ sau xạ trị. Rối loạn chức năng nội tiết do tổn thương hạ đồi hay tuyến yên có thể do hiệu ứng muộn của xạ trị. Phát triển ung thư thứ phát sau xạ trị cũng là nguy cơ sau tiếp xúc.
Trẻ chập chững biết đi thường có bụng phệ (nghĩa là vòng bụng to phình ra) cân xứng với phần lưng cong (nghĩa là lưng dưới cong vòng vào phía trong). Điều này là hoàn toàn bình thường. Tuy nhiên, khi được 3 tuổi, nhìn bé sẽ dài và gọn gàng hơn. Bé sẽ có phần bụng phẳng, lưng thẳng và chân dài, thon thả hơn. Nếu bạn cảm thấy dáng vẻ của con mình có vấn đề, hoặc bạn lo lắng rằng bé không phát triển bình thường, hãy kiểm tra lại với bác sĩ nhi.
Sưng quanh rốn
Nếu rốn của con bạn trông như thể nó bị đẩy từ trong ra khi bé khóc, bé có thể bị thoát vị rốn. Tình trạng này xuất hiện khi các mô ruột phình ra qua một điểm yếu nhỏ trên
thành cơ bụng; áp lực trong bụng tạo thành chỗ phình. Thoát vị rốn không nghiêm trọng và thường đóng lại khi bé ở khoảng giữa 3 và 4 tuổi. Khi tình trạng này không tự liền, bác sĩ nhi có thể khuyên nên hội chẩn với một bác sĩ phẫu thuật.
Gọi ngay cho bác sĩ nhi nếu:
Chỗ sưng bụng của con bạn cứng và đau
Bé bị nôn và tiêu chảy hoặc táo bón nặng
Nhiệt độ của bé cao hơn 101°F (38,3°C).
CẢNH BÁO!
Chỗ sưng ở bụng của bé có thể là dấu hiệu của một vấn đề trong đường tiêu hóa hoặc các bộ phận khác. Nguyên nhân của nó có thể là tích nước hoặc khí, hoặc một chỗ tắc trong ruột.
MỐI BẬN TÂM CỦA BẠN
NGUYÊN NHÂN CÓ THỂ CÓ
HÀNH ĐỘNG CẦN THỰC HIỆN
Con bạn chì bị táo, còn lại thì khỏe mạnh.
Táo bón.
Hãy đảm bảo bé uống đủ nước và ăn đủ chất xơ. Nếu vấn đề sức khỏe này kéo dài, hãy nói chuyện với bác sĩ nhi.
Con bạn bị chướng bụng, đau rất nhiều và đột ngột xuất hiện.
Tắc ruột.
Hãy gọi cho bác sĩ nhi, họ sẽ khám cho con bạn, yêu cầu xét nghiệm và bắt đầu điều trị để loại bỏ chỗ tắc.
Phân của con bạn nhợt nhạt, to và mùi hôi bất thường. Con bạn xì hơi thường xuyên và ho không dứt. Bé thiếu cân và da có vị mặn.
Vấn đề hấp thu kém, ví dụ như rối loạn tiêu hoá; xơ nang (một bệnh di truyền ảnh hưởng tới các tế bào sản sinh chất nhầy, mồ hôi và dịch tiêu hoá, gây ra các vấn đề về phổi).
Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ nhi, họ sẽ khám cho bé và yêu cầu xét nghiệm.
Sử dụng các kết quả, bác sĩ nhi có thể khuyến nghị một chương trình điều trị và giới thiệu bạn đến một chuyên gia dinh dưỡng để hướng dẫn cách áp dụng chế độ ăn cho trẻ.
Gần đây con bạn bị nhiễm khuẩn liên cầu như viêm họng hoặc chốc lở (một bệnh dễ lây nhiễm ở da). Nước tiểu của bé có màu khói hoặc nâu đỏ nhạt. Mặt bé phù và bé bị đau đầu hoặc sốt.
Viêm cầu thận cấp sau nhiễm liên cầu (viêm thận).
Hãy gọi ngay cho bác sĩ nhi. vấn đề về thận này có thể xuất hiện sau khi nhiễm khuẩn liên cầu và có thể dẫn tới bệnh thận mãn tính nếu không được điều trị ngay lập tức.
Bên cạnh hiện tượng sưng bụng, con bạn nhìn chung bị sưng phù, nhất là quanh mắt và khuôn mặt. Nước tiểu bé trông bình thường nhưng lượng rất ít.
Hội chứng thận hư (hiện tượng rối loạn thận khiến cơ thể bài tiết quá nhiều protein qua nước tiểu).
Hãy nói chuyện ngay với bác sĩ nhi. vấn đề về thận này (hay gặp ở bé trai trong khoảng 1 đến 6 tuổi) có thể trở thành mãn tính, cần chẩn đoán và điều trị lập tức.
Hiện tượng sưng của con bạn rất dễ nhận thấy ở vùng bụng trên. Con bạn cũng có những vết bám không giải thích được và bị sốt. Bé sụt cân.
Aminophylline là gì và cơ chế hoạt động của nó là gì?
Aminophylline là một loại thuốc giãn phế quản methylxanthine được cấu thành từ theophylline (Respbid, Slo-Bid, Theo-24, Theolair) và ethylenediamine. Cơ chế hoạt động của aminophylline vẫn chưa được hiểu đầy đủ. Theophylline giúp thư giãn cơ trơn trong đường hô hấp và ức chế các kích thích đường thở. Theophylline cũng tăng cường sự co bóp của cơ hoành bằng cách tăng cường hấp thụ canxi qua các kênh hóa học.
Các tên thương mại nào có sẵn cho aminophylline?
Norphyl, Phyllocontin, Truphylline.
Aminophylline có sẵn dưới dạng thuốc generic không?
Có.
Tôi có cần đơn thuốc cho aminophylline không?
Có.
Các tác dụng phụ của aminophylline là gì?
Các tác dụng phụ của aminophylline bao gồm:
Kích thích hệ thần kinh trung ương
Đau đầu
Mất ngủ
Cáu kỉnh
Bồn chồn
Co giật
Buồn nôn
Nôn mửa
Tiêu chảy
Tăng tiểu tiện
Run tay
Nhịp tim không đều
Tăng nhịp tim
Da có vảy
Liều lượng cho aminophylline là gì?
Liều dùng dựa trên trọng lượng cơ thể lý tưởng của bệnh nhân. Ở người lớn, liều khởi đầu là 5.7 mg/kg được tiêm tĩnh mạch trong 30 phút, sau đó là một đợt duy trì liên tục 0.5 mg/kg/giờ cho những người không hút thuốc dưới 60 tuổi và 0.38 mg/kg/giờ cho những người từ 60 tuổi trở lên.
Các loại thuốc hoặc thực phẩm chức năng nào tương tác với aminophylline?
Aminophylline (hoặc theophylline) không nên được sử dụng với các loại thuốc như cimetidine (Tagamet), erythromycin, interferon, enoxacin, thiabendazole và tacrine (Cognex) vì chúng làm chậm quá trình chuyển hóa theophylline, dẫn đến mức theophylline trong máu tăng cao đáng kể.
Aminophylline (hoặc theophylline) cũng không nên được sử dụng với các loại thuốc như carbamazepine, phenobarbital và rifampin vì chúng làm tăng tốc độ chuyển hóa theophylline, dẫn đến mức theophylline trong máu giảm đáng kể.
Hút thuốc làm tăng sự phân hủy theophylline, giảm mức theophylline trong máu.
Aminophylline có an toàn khi tôi mang thai hoặc cho con bú không?
Theophylline được bài tiết vào sữa mẹ và có thể gây ra sự kích thích hoặc các dấu hiệu khác của tình trạng độc tính nhẹ ở trẻ sơ sinh đang bú mẹ. Do đó, thuốc này không nên được sử dụng cho các bà mẹ đang cho con bú hoặc chỉ nên sử dụng với sự cẩn trọng cao dưới sự giám sát y tế.
Còn điều gì khác tôi cần biết về aminophylline?
Các dạng chuẩn bị aminophylline nào có sẵn?
Aminophylline có sẵn dưới dạng 25 mg/ml dùng một lần, chai 10 ml (250 mg) và 20 ml (500 mg).
Tôi nên bảo quản aminophylline như thế nào?
Bảo quản aminophylline ở nhiệt độ từ 20 °C đến 25 °C (68 °F đến 77 °F), bảo vệ khỏi ánh sáng.
Tóm tắt:
Tiêm aminophylline (Norphyl, Phyllocontin, Truphylline) là một loại thuốc giãn phế quản được sử dụng để quản lý tình trạng cấp tính của bệnh hen suyễn hoặc COPD. Các tác dụng phụ, tương tác thuốc, liều lượng và thông tin an toàn khi mang thai nên được xem xét trước khi sử dụng thuốc này
Bệnh cơ tim phì đại (HCM) liên quan đến sự dày lên của cơ tim, thường xảy ra ở vách ngăn giữa hai tâm thất, dưới van động mạch chủ. Điều này có thể dẫn đến sự cứng lại của các thành tim và chức năng van tim động mạch chủ và van tim hai lá bất thường, cả hai đều có thể cản trở dòng máu bình thường thoát ra khỏi tim.
Các Triệu Chứng Của Bệnh Cơ Tim Phì Đại Là Gì?
Nhiều người mắc Bệnh cơ tim phì đại không có triệu chứng hoặc chỉ có triệu chứng nhẹ và sống một cuộc sống bình thường. Những người khác phát triển triệu chứng, có xu hướng tiến triển và xấu đi khi chức năng tim suy giảm.
Triệu chứng của Bệnh cơ tim phì đại có thể xuất hiện ở bất kỳ độ tuổi nào và có thể bao gồm:
Đau ngực hoặc cảm giác áp lực (thường xảy ra khi tập thể dục hoặc hoạt động thể chất, nhưng cũng có thể xảy ra khi nghỉ ngơi hoặc sau bữa ăn)
Khó thở (dyspnea), đặc biệt là khi gắng sức
Mệt mỏi (cảm thấy quá mệt mỏi)
Ngất xỉu (do nhịp tim không đều, phản ứng bất thường của mạch máu trong khi tập thể dục, hoặc không tìm ra nguyên nhân)
Tim đập nhanh (cảm giác hồi hộp trong ngực) do nhịp tim bất thường (rối loạn nhịp tim), như rung nhĩ hoặc nhịp tim nhanh thất
Tử vong đột ngột (xảy ra ở một số ít bệnh nhân mắc HCM)
Bệnh Cơ Tim Phì Đại
Nguyên Nhân Gây Ra Bệnh Cơ Tim Phì Đại Là Gì?
HCM có thể di truyền trong gia đình, nhưng tình trạng này cũng có thể phát triển như một phần của quá trình lão hóa hoặc do huyết áp cao. Trong những trường hợp khác, nguyên nhân không rõ.
Bệnh Cơ Tim Phì Đại Được Chẩn Đoán Như Thế Nào?
HCM được chẩn đoán dựa trên tiền sử bệnh (triệu chứng và tiền sử gia đình của bạn), khám sức khỏe, và kết quả siêu âm tim. Các xét nghiệm bổ sung có thể bao gồm xét nghiệm máu, điện tâm đồ, chụp X-quang ngực, xét nghiệm gắng sức, thông tim, CT scan và MRI.
Bệnh Cơ Tim Phì Đại Được Điều Trị Như Thế Nào?
Điều trị Bệnh cơ tim phì đại phụ thuộc vào việc có sự thu hẹp trong đường dẫn máu rời khỏi tim (được gọi là đường thoát) hay không; cách thức hoạt động của tim; và nếu có rối loạn nhịp tim hay không. Mục tiêu điều trị là ngăn ngừa triệu chứng và biến chứng và bao gồm việc xác định các yếu tố rủi ro và theo dõi định kỳ, thay đổi lối sống, thuốc men và các thủ thuật khi cần thiết.
Những Thay Đổi Lối Sống Nào Được Khuyến Nghị Để Điều Trị Bệnh Cơ Tim Phì Đại?
Chế độ ăn uống: Duy trì sự cung cấp nước đầy đủ, trừ khi bác sĩ của bạn đang hạn chế chất lỏng (hạn chế chất lỏng và muối có thể cần thiết cho một số bệnh nhân nếu có triệu chứng suy tim). Hãy hỏi bác sĩ về các hướng dẫn cụ thể về chất lỏng và chế độ ăn uống, bao gồm thông tin về đồ uống có cồn và các sản phẩm có caffeine.
Tập thể dục: Bác sĩ sẽ cho bạn biết liệu bạn có thể tập thể dục hay không. Hầu hết những người mắc bệnh cơ tim có thể thực hiện các bài tập aerobic không cạnh tranh. Tuy nhiên, bác sĩ có thể yêu cầu bạn không tập thể dục, dựa trên triệu chứng và mức độ nghiêm trọng của bệnh. Không nên tập thể dục với tạ nặng.
Khám định kỳ: Bệnh nhân mắc Bệnh cơ tim phì đại nên có cuộc hẹn tái khám hàng năm với bác sĩ tim mạch để theo dõi tình trạng của họ. Các cuộc hẹn tái khám có thể thường xuyên hơn khi Bệnh cơ tim phì đại lần đầu được chẩn đoán.
Thuốc Nào Được Sử Dụng Để Điều Trị Bệnh Cơ Tim Phì Đại?
Các loại thuốc thường được sử dụng để điều trị triệu chứng và ngăn ngừa các biến chứng của HCM. Thuốc có thể giúp thư giãn tim và giảm mức độ cản trở để tim có thể bơm hiệu quả hơn. Thuốc chẹn beta và thuốc chẹn kênh canxi là hai loại thuốc có thể được kê đơn. Nếu bạn có rối loạn nhịp tim, bác sĩ có thể kê thuốc để kiểm soát nhịp tim của bạn hoặc giảm tần suất xảy ra rối loạn nhịp tim.
Bạn có thể được khuyên tránh một số loại thuốc, chẳng hạn như nitrates, vì chúng làm giảm huyết áp, hoặc digoxin, vì nó làm tăng lực co bóp của tim.
Cả triệu chứng Bệnh cơ tim phì đại tắc nghẽn và không tắc nghẽn đều có thể được điều trị bằng thuốc. Nếu xảy ra suy tim, điều trị sẽ được nhắm đến việc kiểm soát nó thông qua thuốc điều trị suy tim và thay đổi chế độ ăn uống.
Bác sĩ của bạn sẽ thảo luận về những loại thuốc nào là tốt nhất cho bạn.
Các Thủ Tục Nào Được Sử Dụng Để Điều Trị Bệnh Cơ Tim Phì Đại?
Các thủ tục được sử dụng để điều trị Bệnh cơ tim phì đại bao gồm:
Cắt bỏ vách ngăn: Trong thủ thuật phẫu thuật này, bác sĩ phẫu thuật sẽ cắt bỏ một phần nhỏ của vách ngăn dày của tim để làm rộng đường thoát (đường mà máu đi) từ tâm thất trái đến động mạch chủ.
Phá hủy bằng ethanol: Đầu tiên, một bác sĩ tim mạch sẽ thực hiện một thủ thuật thông tim để xác định động mạch vành nhỏ cung cấp máu cho vách ngăn. Một ống thông bóng được chèn vào động mạch và được bơm phồng. Một chất cản quang được tiêm vào để xác định vách ngăn sưng mà làm hẹp lối đi từ tâm thất trái đến động mạch chủ. Khi khu vực bất thường được xác định, một lượng nhỏ rượu ethanol tinh khiết được tiêm qua ống thông. Rượu sẽ giết chết các tế bào ngay khi tiếp xúc, gây ra một cơn “nhồi máu tim” nhỏ và “có kiểm soát”. Vách ngăn sẽ thu nhỏ lại về kích thước bình thường hơn trong vài tháng tiếp theo, mở rộng lối đi cho dòng máu.
Máy khử rung tim cấy ghép (ICD): ICD được đề xuất cho những người có nguy cơ bị rối loạn nhịp tim nguy hiểm đến tính mạng hoặc tử vong đột ngột. ICD liên tục theo dõi nhịp tim. Khi nó phát hiện nhịp tim rất nhanh và bất thường, nó sẽ cung cấp năng lượng cho cơ tim để làm cho tim đập lại nhịp bình thường.
Bệnh Cơ Tim Phì Đại, Tử Vong Đột Ngột và Viêm Nội Mạc Tim
Một số ít người mắc Bệnh cơ tim phì đại có nguy cơ tăng cao về tử vong đột ngột. Những người có nguy cơ bao gồm:
Những người có thành viên trong gia đình đã từng tử vong đột ngột
Những người trẻ tuổi mắc Bệnh cơ tim phì đại đã từng có nhiều lần ngất xỉu
Những người có phản ứng huyết áp bất thường khi tập thể dục
Người lớn có tiền sử rối loạn nhịp tim với nhịp tim nhanh
Những người có triệu chứng nặng và chức năng tim kém
Nếu bạn có hai hoặc nhiều yếu tố rủi ro cho tử vong đột ngột, bác sĩ có thể điều trị cho bạn bằng thuốc để ngăn ngừa rối loạn nhịp tim hoặc với một ICD. Hầu hết mọi người mắc Bệnh cơ tim phì đại có nguy cơ thấp về tử vong đột ngột. Hãy nói chuyện với bác sĩ về bất kỳ lo ngại nào mà bạn có.
Làm Thế Nào Để Ngăn Ngừa Viêm Nội Mạc Tim?
Người mắc Bệnh cơ tim phì đại tắc nghẽn có thể có nguy cơ tăng cao về viêm nội mạc tim, một tình trạng có thể đe dọa tính mạng. Hãy hỏi bác sĩ xem bạn có cần thực hiện các biện pháp phòng ngừa viêm nội mạc hay không, bao gồm:
Thông báo cho tất cả bác sĩ và nha sĩ của bạn rằng bạn có HCM. Họ có thể kê đơn kháng sinh để ngăn ngừa nhiễm trùng trước khi thực hiện bất kỳ thủ tục nào trên bạn có thể gây chảy máu (các thủ tục nha khoa, hô hấp và tiêu hóa).
Gọi cho bác sĩ nếu bạn có triệu chứng của một nhiễm trùng.
Bột pha tiêm bắp, tĩnh mạch và tiêm truyền tĩnh mạch 1 g: hộp 1 lọ bột.
THÀNH PHẦN
cho 1 lọ
Ceftazidimepentahydrate tínhtheo lượng khan
1 g
(Na)
(53 mg)
DƯỢC LỰC
Ceftazidime là một kháng sinh diệt khuẩn thuộc họ cephalosporine, đề kháng với hầu hết các b- lactamase và có tác động chống lại nhiều vi khuẩn gram âm và gram dương.
Thuốc được chỉ định cho điều trị nhiễm khuẩn do một hay nhiều vi khuẩn nhạy cảm. Do có phổ kháng khuẩn rộng, ceftazidime có thể được dùng đơn độc như một thuốc đầu tay, trong khi chờ đợi kết quả của các thử nghiệm tính nhạy cảm. Trong viêm màng não, nên làm xét nghiệm về tính nhạy cảm trước khi quyết định dùng ceftazidime như một tác nhân duy nhất. Thuốc có thể dùng cho các nhiễm khuẩn do các vi khuẩn đề kháng với các kháng sinh khác bao gồm các aminoglycoside và nhiều céphalosporine. Tuy nhiên, nếu được, thuốc có thể được dùng một cách an toàn khi kết hợp với một aminoglycoside hay các kháng sinh b-lactam khác, như trong trường hợp có giảm bạch cầu trung tính nặng, hay với một kháng sinh có tác động chống lại các vi khuẩn kỵ khí khi nghi ngờ có sự hiện diện của Bacteroides fragilis (xem Chú ý đề phòng).
Vi khuẩn học: ceftazidime có tính diệt khuẩn, tác động lên protéine của màng tế bào đích và gây nên sự ức chế tổng hợp màng tế bào. Nhiều chủng và mẫu phân lập gây bệnh do sự nhiễm khuẩn trong bệnh viện có nhạy cảm với ceftazidime in vitro, bao gồm những chủng đề kháng với gentamicine và các aminoglycoside khác. Hoạt chất bền vững cao với hầu hết các b- lactamase quan trọng trên lâm sàng do các vi khuẩn cả gram dương và gram âm sản sinh ra và do đó, có hoạt tính lên nhiều chủng đề kháng ampicilline và c falotine. Ceftazidime có tác động nội tại cao in vitro và tác động trong một mức độ MIC hẹp với hầu hết các nhóm vi khuẩn với những thay đổi tối thiểu trên MIC ở các mức độ chất cấy truyền khác nhau. Ceftazidime cho thấy có tác động in vitro chống lại các vi khuẩn sau :
Gram âm: Pseudonomas aeruginosa, Pseudonomas sp (các loại khác), Klebsiella pneumoniae, Klebsiella sp (các loại khác), Proteus mirabilis, Proteus vulgaris, Morganella morganii (trước kia là Proteus morganii), Proteus rettgeri, Providencia sp., Escherichia coli, Enterobacter sp, Citrobacter sp, Serratia sp, Salmonella sp, Shigella sp, Yersinia enterocolitica, Pasteurella multocida, Acinetobacter sp, Neisseria gonorrhoeae, Neisseria meningitidis, Haemophilus influenzae (bao gồm các chủng đề kháng ampicilline), Haemophylus parainfluenzae (bao gồm các chủng đề kháng ampicilline).
Các chủng kỵ khí: Peptococcus sp, Peptostreptococcus sp, Streptococcus sp, Propionibacterium sp, Clostridium perfringens, Fusobacterium sp, Bacteriodes sp (nhiều chủng của Bacterium fragilis bị đề kháng). Ceftazidime không có hoạt tính in vitro với các staphylocoque đề kháng méticilline, Streptococcus faecalis và nhiều Enterococcus khác, Listeria monocytogenes, Campylobacter sp hay Clostridium difficile.
In vitro, hoạt tính của phối hợp ceftazidime và các kháng sinh aminoglycoside đã cho thấy ít nhất có tác động hỗ trợ; có bằng chứng của sự hiệp đồng trên một vài chủng được xét nghiệm. Tính chất này có thể quan trọng trong việc điều trị bệnh nhân bị sốt giảm bạch cầu.
CHỈ ĐỊNH
Nhiễm khuẩn toàn thân trầm trọng: nhiễm khuẩn huyết, viêm phúc mạc, viêm màng não, nhiễm khuẩn ở bệnh nhân ung thư máu hay tạng đặc có suy giảm miễn dịch, và trên bệnh nhân đang được cấp cứu với các bệnh đặc hiệu như phỏng nhiễm khuẩn.
Nhiễm khuẩn đường hô hấp: viêm phổi, phế quản phế viêm, viêm màng phổi nhiễm khuẩn, viêm màng phổi mủ, abcès phổi, dãn phế quản bội nhiễm, viêm phế quản và trong nhiễm khuẩn phổi trong bệnh xơ nang.
Nhiễm khuẩn tai mũi họng: viêm tai giữa, viêm tai ngoài ác tính, viêm xương chũm, viêm xoang và các nhiễm khuẩn tai và họng nặng khác.
Nhiễm khuẩn đường tiểu: viêm thận-bể thận cấp và mãn, viêm bể thận, viêm tuyến tiền liệt, viêm bàng quang, viêm niệu đạo (chỉ viêm niệu đạo nhiễm vi khuẩn), abcès thận và các nhiễm trùng đi kèm với sỏi bàng quang và sỏi thận.
Nhiễm khuẩn da và mô mềm: viêm quầng, abcès, viêm tế bào, phỏng và vết thương nhiễm trùng, viêm vú, loét da.
Nhiễm khuẩn đường tiêu hóa, mật và bụng: viêm đường mật, viêm túi mật, mủ túi mật, abcès ổ bụng, viêm phúc mạc, viêm túi thừa, viêm kết tràng, các bệnh nhiễm trùng hậu sản và vùng chậu.
Nhiễm khuẩn xương và khớp: viêm xương, viêm xương cơ, viêm khớp nhiễm khuẩn, viêm bao hoạt dịnh nhiễm khuẩn.
Thẩm phân: nhiễm trùng do thẩm phân máu và phúc mạc và thẩm phân phúc mạc lưu động liên tục (CAPD).
Phòng ngừa trong phẫu thuật tiền liệt tuyến (qua niệu đạo).
CHỐNG CHỈ ĐỊNH
Quá mẫn đã biết với các kháng sinh céphalosporine.
CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG
Giống như những kháng sinh b-lactam, trước khi dùng ceftazidime, nên kiểm tra cẩn thận về tiền sử phản ứng quá mẫn với ceftazidime, céphalosporine, pénicilline hay những thuốc khác. Chỉ nên dùng ceftazidime một cách thận trọng với bệnh nhân có phản ứng quá mẫn loại I hay quá mẫn tức thời với p nicilline. Ngưng thuốc nếu xảy ra phản ứng dị ứng với ceftazidime. Các phản ứng quá mẫn trầm trọng có thể cần dùng tới épinéphrine (adrénaline), hydrocortisone, kháng histamine hay các biện pháp cấp cứu khác.
THẬN TRỌNG LÚC DÙNG
Nên dùng thận trọng các kháng sinh céphalosporine ở liều cao cho bệnh nhân đang được điều trị đồng thời với các thuốc gây độc trên thận, như các aminoglycoside hay các thuốc lợi tiểu mạnh, như furos mide, do có nghi ngờ rằng các kết hợp này tác động có hại lên thận.
Kinh nghiệm lâm sàng sử dụng ceftazidime cho thấy rằng hầu như thuốc không gây nguy hại với liều điều trị được khuyến cáo. Không có bằng chứng rằng ceftazidime có tác động ngoại ý lên thận với liều điều trị thông thường; tuy nhiên, do phần lớn thuốc được đào thải qua đường thận, cần giảm liều tùy theo mức độ của suy giảm chức năng thận để tránh các hậu quả lâm sàng của việc gia tăng các nồng độ kháng sinh như co giật (xem phần liều lượng trong trường hợp suy thận trong phần Liều lượng).
Ceftazidime không can thiệp vào các xét nghiệm dựa trên cơ sở men tìm glucose niệu. Có thể quan sát được sự can thiệp yếu vào các phương pháp khử đồng (các test Benedict, Fehling, Clinitest). Ceftazidime không làm ảnh hưởng thử nghiệm picrate kiềm tìm créatinine.
Kết quả dương tính trong test Coombs đi kèm với sự sử dụng ceftazidime trong khoảng 5% bệnh nhân có thể can thiệp vào các xét nghiệm máu chéo.
Giống như những kháng sinh phổ rộng khác, sử dụng kéo dài ceftazidime có thể đưa đến bội nhiễm các vi khuẩn không nhạy cảm (như Candida, các Enterococcus) có thể cần gián đoạn việc điều trị hay áp dụng các biện pháp thích hợp. Cần thiết lập lại việc kiểm tra tình trạng bệnh nhân.
LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ
Không có bằng chứng trên thí nghiệm về tác động gây bệnh ở phôi hay sinh quái thai được quy cho ceftazidime. Tuy nhiên, cũng giống như mọi thuốc khác, nên dùng cẩn thận trong những tháng đầu thai kỳ và cho trẻ vừa mới sanh. Chỉ sử dụng trong thai kỳ khi đã cân nhắc giữa lợi ích và những nguy cơ có thể xảy ra. Ceftazidime được bài tiết qua sữa mẹ ở nồng độ thấp và do đó, nên cẩn thận khi dùng ceftazidime cho người mẹ nuôi con bú.
TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN
Kinh nghiệm trong các thử nghiệm lâm sàng cho thấy rằng ceftazidime nói chung được dung nạp tốt. Các tác dụng không mong muốn ít xảy ra, bao gồm :
Tại chỗ: viêm tĩnh mạch hay viêm tĩnh mạch huyết khối khi tiêm tĩnh mạch; đau và/hoặc viêm sau khi tiêm bắp.
Quá mẫn: dát sần hay nổi ban, mày đay, sốt, ngứa ngáy và rất hiếm khi phù mạch và phản vệ (co thắt phế quản và/hoặc tụt huyết áp).
Tiêu hóa: tiêu chảy, buồn nôn, nôn mửa, đau bụng và rất hiếm khi bị tưa miệng hay viêm kết tràng.
Các tác dụng không mong muốn có thể liên quan đến ceftazidime hay có bệnh căn học không chắc chắn bao gồm :
Tiết niệu: bệnh candida, viêm âm đạo.
Hệ thần kinh trung ương: nhức đầu, chóng mặt, dị cảm và mất vị giác. Đã có một vài báo cáo về co giật xảy ra cho bệnh nhân bị suy thận mà không giảm liều ceftazidime thích hợp.
Các thay đổi trên xét nghiệm cận lâm sàng được ghi nhận xảy ra thoáng qua trong quá trình điều trị với ceftazidime bao gồm: giảm bạch cầu trung tính, phản ứng dương tính với test Coombs không có lọc máu, tăng tiểu cầu và gia tăng nhẹ một hay nhiều men gan, ALT (SGPT), AST (SGOT), LDH, GGT và phosphatase kiềm.
Giống như những c phalosporine khác, đôi khi quan sát được sự gia tăng thoáng qua của urê huyết, BUN và/hoặc créatinine huyết thanh. Rất hiếm khi gặp chứng giảm bạch cầu, giảm bạch cầu trung tính, giảm tiểu cầu và tăng lympho bào thoáng qua.
LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG
Khuyến cáochung: ceftazidime được dùng theo đường tiêm, liều lượng tùy thuộc vào mức độ trầm trọng, tính nhạy cảm và loại nhiễm trùng; tuổi tác, trọng lượng và tình trạng hoạt động chức năng thận của bệnh nhân.
Người lớn: liều ceftazidime thường được dùng là 1-6 g/ngày: chẳng hạn 500 mg, 1 g hay 2 g mỗi 12 hay 8 giờ theo đường tiêm tĩnh mạch hay tiêm bắp. Trong các nhiễm trùng đường tiểu và nhiều nhiễm trùng khác kém trầm trọng hơn, thường chỉ dùng 500 mg hay 1 g mỗi 12 giờ là đủ. Trong đa số trường hợp nhiễm trùng, nên dùng 1 g mỗi 8 giờ hay 2 g mỗi 12 giờ. Trong những nhiễm trùng rất trầm trọng, đặc biệt ở bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch, bao gồm người bị giảm bạch cầu trung tính, nên dùng 2 g mỗi 8 hay 12 giờ.
Bệnh xơ nang: ở người lớn bị xơ nang có chức năng thận bình thường bị nhiễm trùng phổi pseudomonas, nên dùng liều cao 100-150 mg/kg/ngày chia làm 3 lần. Liều 9 g/ngày đã được dùng một cách an toàn cho người lớn có chức năng thận bình thường.
Trẻ em và trẻ sơ sinh: liều thông thường cho trẻ em trên 2 tháng tuổi là 30-100 mg/kg/ngày, chia làm 2 hay 3 lần.
Các liều lên đến 150 mg/kg/ngày cho tới tối đa 6 g mỗi ngày có thể được dùng cho trẻ nhiễm trùng bị suy giảm miễn dịch hay bị bệnh xơ nang hay trẻ bị viêm màng não.
Trẻ sơ sinh và trẻ dưới 2 tháng tuổi: trong khi kinh nghiệm lâm sàng vẫn còn giới hạn, một liều 25-60 mg/kg/ngày chia làm 2 lần đã cho thấy hữu hiệu. Ở trẻ sơ sinh, thời gian bán hủy trong huyết thanh của ceftazidime có thể dài hơn 3-4 lần so với người lớn.
Liều lượng trong trường hợp suy thận: ceftazidime được đào thải qua thận hầu như chủ yếu do lọc ở cầu thận. Do đó, ở bệnh nhân suy thận, nên giảm liều ceftazidime để bù vào sự đào thải chậm của nó, ngoại trừ trường hợp suy thận nhẹ, nghĩa là tốc độ lọc cầu thận (GFR- glomerular filtration rate) lớn hơn 50 ml/phút. Trên bệnh nhân nghi ngờ là có suy thận, có thể dùng liều tấn công khởi đầu 1 g ceftazidime. Nên khảo sát GFR để xác định liều duy trì thích hợp.
Liều duy trì được khuyến cáo: Bảng 1
Liều duy trì khuyến cáo của ceftazidime trong suy thận
Thanhthải créatinine (ml/phút)
Créatininetrungbìnhtronghuyếtthanhmol/l (mg/dl)
Liều đơn vị ceftazidime được khuyến cáo (g)
Khoảng cách dùng thuốc (giờ)
50-31
150-200
1,0
12
(1,7-2,3)
30-16
200-350
1,0
24
(2,3-4,0)
15
350-500
0,5
24
(4,0-5,6)
< 5
> 500
0,5
48
(> 5,6)
Các giá trị này chỉ là hướng dẫn và có thể không tiên đoán chính xác tình trạng chức năng thận ở mọi bệnh nhân đặc biệt ở người già khi mà creatinine huyết thanh có thể dẫn đến sự đánh giá quá mức chức năng thận.
Ở bệnh nhân nhiễm trùng trầm trọng, đặc biệt ở người bị giảm bạch cầu trung tính thường sử dụng 6 g ceftazidime mỗi ngày, nếu suy thận, đơn vị liều lượng ở Bảng 1 có thể gia tăng 50% hay rút ngắn khoảng cách dùng thuốc một cách hợp lý. Ở những người này, nên kiểm tra nồng độ ceftazidime trong huyết thanh và nồng độ tối thiểu không nên vượt quá 40 mg/l.
Khi chỉ có giá trị créatinine trong huyết thanh, có thể dùng công thức sau (đẳng thức Cockcroft) để ước lượng thanh thải créatinine. Mức độ créatinine huyết thanh nên đại diện cho một tình trạng ổn định chức năng thận:
Nam :
Thanh thải créatinine (ml/phút) =
khối lượng (kg) x (140 – tuổi tính bằng năm) / 72 x cr atinine huyết thanh (mg/dl). Nữ: 0,85 x giá trị ở nam.
Để chuyển créatinine huyết thanh từ mmol/l thành mg/dl, chia cho 88,4.
Ở trẻ em, nên điều chỉnh thanh thải créatinine theo diện tích bề mặt cơ thể hay khối cơ thể không có mỡ và giảm khoảng cách dùng liều trong trường hợp suy thận như đối với người lớn. Thời gian bán hủy trong huyết thanh của ceftazidime trong quá trình lọc máu trong khoảng 3-5 giờ. Nên lặp lại liều duy trì thích hợp sau mỗi lần làm thẩm phân.
Liều lượng dùng khi thẩm phân phúc mạc: cũng có thể dùng ceftazidime trong thẩm phân phúc mạc và thẩm phân phúc mạc lưu động liên tục (CAPD). Cũng như khi dùng ceftazidime tiêm tĩnh mạch, có thể phối hợp thuốc với dịch thẩm phân (thường 125-250 mg cho 2 lít dung dịch thẩm phân).
Cách dùng: ceftazidime có thể được dùng tiêm tĩnh mạch hay tiêm bắp sâu vào khối cơ lớn như phần tư trên ngoài của mông hay hai bên đùi.
Hướng dẫn pha thuốc: xem Bảng 2 về thể tích thêm vào và nồng độ các dung dịch, điều này có thể rất hữu ích khi cần dùng các liều được chia nhỏ.
Hướng dẫn thể tích dung môi dùng để pha
Kíchcỡ lọ thuốc
Thể tích dung môi* phải thêm vào (ml)
Nồng độ trung bình (mg/ml)
1 g IM
3,0
250
IV
10,0
90
* Thường là nước cất pha tiêm.
Tất cả mọi cỡ lọ được cung cấp đều ở dưới áp suất giảm. Khi hòa tan thuốc, khí carbone dioxide được giải phóng và phát sinh một áp lực dương. Để dễ dàng sử dụng, nên áp dụng kỹ thuật pha như sau :
Lọ 500 mg IM/IV, 1 g IM/IV và 2 g IV bolus: đâm kim qua nắp lọ và bơm vào thể tích dung môi được khuyến cáo. Chân không trong lọ có thể giúp dung môi đi vào dễ dàng hơn. Rút kim ra. Lắc để hòa tan: carbone dioxide được giải phóng và thu được một dung dịch trong suốt trong khoảng 1-2 phút.
Dốc ngược lọ. Với ống tiêm đã được nén chặt, đâm kim qua nắp lọ và rút toàn bộ thể tích dung dịch và bơm tiêm (áp lực trong lọ có thể hỗ trợ cho việc rút thuốc). Cần bảo đảm rằng kim phải ở trong phần dung dịch và không đi ra ngoài phần không khí ở trên. Dung dịch được rút ra có thể chứa các bóng khí carbone dioxide nhỏ; có thể bỏ qua không để ý đến chúng.
Lọ tiêm truyền tĩnh mạch 2 g: có thể pha lọ thuốc này để tiêm truyền ngắn hạn (như đến 30 phút) như sau: đâm kim qua nắp lọ và bơm vào 10 ml dung môi. Chân không có thể giúp dung môi đi vào dễ dàng. Lấy kim ra.
Lắc để hòa tan; carbone dioxide được giải phóng và thu được một dung dịch trong suốt trong khoảng 1-2 phút.
Đâm kim thông khí qua nắp lọ để giải phóng áp suất bên trong, và với sự thông khí đã sẵn sàng, thêm 40 ml dung môi. Lấy kim thông khí và kim bơm tiêm ra; lắc lọ và bắt đầu tiêm truyền như bình thường.
Ghi chú: để bảo đảm tính tiệt trùng của chế phẩm, điều quan trọng cần chú ý là không đâm kim thông vào nắp lọ trước khi hòa tan thuốc.
Các dung dịch này có thể tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch hay đưa vào ống của bộ dây tiêm truyền nếu bệnh nhân đang dùng các dịch tiêm truyền. Ceftazidime tương hợp với hầu hết các dịch truyền tĩnh mạch thông dụng.
Chú ý khi dùng :
Các lọ thuốc tiêm Fortum không chứa chất bảo quản và nên được dùng như chế phẩm dùng liều duy nhất.
Để giữ cho việc thực hành về dược khoa tốt, nên dùng dung dịch thuốc tiêm Fortum vừa mới pha. Nếu không thể thực hiện được, dược tính thỏa đáng của thuốc được duy trì trong 18 giờ ở nhiệt độ phòng (dưới 25oC) hay 7 ngày nếu để trong tủ lạnh khi pha trong nước cất pha tiêm hay với một trong các thuốc tiêm sau: với nồng độ ceftazidime trong khoảng 1 mg/ml và 40 ml: thuốc tiêm 0,9% NaCl, M/6 Lactate natri, phối hợp Lactate natri (dung dịch Hartmann), 5% dextrose, 0,225% NaCl và 5% dextrose, 0,45% NaCl và 5% dextrose, 0,9% NaCl và 5% dextrose,
0,18% NaCl và 4% dextrose, 10% dextrose, dextran 40 trong 0,9% NaCl, dextran 40 tỉ lệ 10% trong 5% dextrose, dextran 70 tỉ lệ 6% trong 0,9% NaCl, dextran 70 tỉ lệ 6% trong 5% dextrose, (ceftazidime ít bền vững trong dung dịch Natri bicarbonate hơn các dịch tiêm tĩnh mạch khác ; không khuyến cáo dùng dung môi này).
Với nồng độ trong khoảng giữa 0,05 mg/ml và 0,25 mg/ml trong dịch thẩm phân phúc mạc (Lactate) BPC 1973. Khi pha để tiêm tĩnh mạch, dùng thuốc tiêm 0,5% hay 1% lignocaine chlorhydrate. Khi trộn lẫn với nồng độ 4 mg/ml với các chất sau, cả hai THÀNH PHẦN đều duy trì được hoạt tính của chúng: hydrocortisone (hydrocortisone natri phosphate) 1 mg/ml trong thuốc tiêm 0,9% NaCl hay 5% dextrose, cefuroxime (cefuroxime natri) 3 mg/ml trong thuốc tiêm 0,9% NaCl, cloxacilline (cloxacilline natri) 4 mg/ml trong thuốc tiêm 0,9% NaCl, héparine 10 mg/ml hay 50 mg/ml trong thuốc tiêm 0,9% NaCl, kali chlorure 10 mEq/l hay 40 mEq/l trong thuốc tiêm 0,9% NaCl.
Thuốc chứa trong lọ 500 mg được pha với 1,5 ml nước cất pha tiêm, có thể được thêm vào với thuốc tiêm métronidazole (500 mg trong 100 ml) và cả hai đều duy trì được hoạt tính. Không nên trộn ceftazidime và aminoglycoside trong một bộ tiêm truyền hay trong một bơm tiêm.
Các dụng dịch có màu vàng nhạt đến hổ phách tùy theo nồng độ, dung môi và điều kiện bảo quản được dùng.
Nếu làm đúng theo những khuyến cáo trên thì tác dụng của thuốc không bị ảnh hưởng bởi những thay đổi về màu sắc.
Tránh ánh sáng.
Đã xảy ra trường hợp kết tủa khi hòa vancomycin vào dung dịch ceftazidime. Vì vậy nên thận trọng xả sạch dụng cụ tiêm truyền khi sử dụng hai thuốc này.
QUÁ LIỀU
Nồng độ trong huyết thanh của ceftazidime được làm giảm bằng cách thẩm phân.
BẢO QUẢN
Nên bảo quản các lọ thuốc Fortum ở nhiệt độ dưới 25oC. Đôi khi việc bảo quản ở nhiệt độ không cao hơn 30oC đến 2 tháng cũng không làm hại đến chế phẩm.
Chứng Phế âm hư là tên gọi tóm tắt cho những biểu hiện lâm sàng do tân dịch bị tiêu hao, Phế mất nh dưỡng, âm dịch bất túc, sự tuyên giáng giảm sút, hư nhiệt từ trong sinh ra Phần nhiều do ốm lâu bị suy hao, lao thương quá độ gây nên.
Chứng trạng chủ yếu của chứng này là ho khan, ít đờm mà dính, hoặc trong đờm có lẫn máu, họng khô, khàn tiếng, thể trạng gầy còm, về chiều sốt từng cơn, ngũ tâm phiền nhiệt, mồ hôi trộm, gò má đỏ, lưỡi đỏ ít rêu, mạch Tế Sác.
Chứng Phế âm hư thường gặp trong các bệnh Khái thấu, Phế lao, Khái huyết và Phế nuy.
Cần chẩn đoán phân biệt với các chứng Táo tà Phạm Phế, chứng Phế khí âm đều hư và chứng Phế Thận âm hư.
Chứng Phế âm hư có thể nhiều loại tật bệnh, biểu hiện lâm sàng đều có đặc điểm riêng và phép chữa cũng không hoàn toàn giống nhau.
Trong bệnh Khái thấu gặp trong chứng Phế âm hư, phần nhiều biểu hiện có đặc điểm là Hư khái như ho khan ít đờm, hoặc trong đờm có lẫn máu, họng khô, nóng từng cơn, gò má đỏ; Đây là do âm suy hư, Phế mất sự nhu nhuận mà hư nhiệt từ trong sinh ra, Phế khí nghịch lên gây nên; Điều trị nên tư âm dưỡng Phế, làm mát Phế trừ ho, cho uống bài Sa sâm mạch đông thang (Ôn bệnh điều biện) gia giảm.
Nếu trong bệnh Phế lao gặp chứng Phế âm hư, biểu hiện lâm sàng phần nhiều có đặc trưng “ho kéo dài hư tổn”, có các chứng ho khan ít đờm hoặc trong đờm có lẫn máu, đau ngực, triều nhiệt gò má đỏ, ra mồ hôi trộm, và có hiện tượng truyền nhiễm; Đây là do lao trùng gậm nhấm Phế, tân dịch phần Âm bị hao tổn, mất chức năng thanh túc, Phế khí nghịch lên gây nên bệnh; Điều trị nên dưỡng Âm thanh Phế, sát trùng chỉ khái, chọn dùng bài Bách hợp cố kim thang (Y phương tập giải) linh động thêm các vị Bách lộ, Thập đại công lao diệp
Chứng Phế âm hư gặp trong bệnh Khái huyết, biểu hiện lâm sàng thường thấy khái thấu ít đờm, trong đờm lẫn máu, sắc máu đỏ tươi,ực, sốt từng cơn, ra mồ hôi trộm, gò má đỏ, miệng khô họng ráo; đây là do Phế âm bất túc, sự thanh túc bị hạn chế hỏa hun đốt Phế lạc gây nên; Điều trị nên tư âm nhuận Phế, mát huyết chỉ huyết, cho uống bài Bách hợp cố kim thang (Y phương tập giải) hợp với Tứ sinh hoàn (Phụ nhân lương phương).
Nếu trong bệnh Phế nuy gặp chứng Phế âm hư biểu hiện lâm sàng là ho nhổ ra bọt rãi đục chất dính, khó khạc, tiếng ho khó khăn, thở gấp suyễn gấp, thể trạng gầy còm, lông tóc úa khô, miệng ráo họng khô; đây là do Phế âm bất túc, hư hỏa hun đốt ở trong, tân dịch phần Âm khô cạn, Phế khí nghịch lên gây nên; Điều trị nên tư âm nhuận Phế thanh nhiệt, chọn dùng bài Mạch môn đông thang (Kim Quỹ yếu lược) gia vị; hoặc dùng bài Thanh táo cứu Phế thang (Y môn pháp luật). Tóm lại chứng Phế âm hư tật bệnh khác nhau, biểu hiện lâm sàng đều chẩn đoán đặc điểm riêng, có thể dựa vào đó mà phân tích.
Chứng Phế âm hư thường gặp trong những trường hợp ốm lâu thể lực yếu, vì âm hư hỏa vượng cho nên thể trạng gầy còm, gò má đỏ, phát sốt về buổi chiều, mồ hồi trộm và ngũ tâm phiền nhiệt. Chứng này bệnh trình thường nặng hơn vào mùa Thu táo, đa số những người ốm lâu không khỏi và thể trạng tổn thương bệnh càng nặng.
Phế là tạng non nớt, chủ về trị tiết, bên ngoài hợp với bì mao, dễ hàn dễ nhiệt. Chứng Phế âm hư trong quá trình biến hóa cơ chế bệnh, thường gặp ba tình huống sau đây: Một là Phế âm hư tổn, ốm lâu không khỏi, ảnh hưởng tới cơ năng bảo vệ bên ngoài cơ thể, dễ cảm nhiễm ngoại tà, mà xuất hiện ngoại cảm biểu chứng như s lạnh, phát sốt, đau đầu tắc mũi, ho khan ít đờm, và đau họng. Hai là do Phế âm hư tổn, con trộm khí của mẹ, Tỳ Vị bị xuất hiện các chứng kém ăn, bụng trướng, đại tiện lỏng,dần dần dẫn đến thể trạng gầy còm. Ba là Phế âm bất túc, âm hư hỏa vượng, hỏa làm thương Phế lạc, nên có các chứng trạng hư tổn như khái thấu khạc ra máu, triều nhiệt, gò má đỏ
Chẩn đoán phân biệt
Chứng Táo tà phạm Phế với chứng Phế âm hư: Mùa Thu là thời lệnh chủ yếu ca Táo tà, dễ thương tân dịch, ngoại cảm táo tà thì tạo nên chứng Táo tà phạm Phế.
Chứng này từ ngoài xâm nhập, biểu hiện lâm sàng phần nhiều có chỗ ngờ ngợ giống với Âm hư Phế táo như có các chứng ho khan ít đàm hoặc trong đàm có lẫn huyết, khó ho, họng khô, tâm phiền. Nhưng hai loại này, về bệnh nhân và bệnh cơ trên lâm sàng có chỗ biểu hiện không giống nhau. Chứng táo tà phạm Phế là thuộc cảm thụ ngoại tà gây nên, tất phải có các biểu chứng như phát sốt, hơi sợ phong hàn, đau đầu, không có hoặc có ít mồ hôi, miệng mũi khô ráo, mạch Phù. Còn chứng Phế âm hư là do Phế âm suy hao, tân dịch bất túc, hư nhiệt từtrong ra, thường vì nội thương gây nên, cho nên không kiêm biểu chứng mà thường có biểu hiện sốt cơn về chiều, ngũ tâm phiền nhiệt, mồ hôi trộm, gò má đ thuộc loại âm hư hỏa vượng, như vậy có thể làm cơ sở để chẩn đoán phân biệt.
Chứng Phế khí âm đều hư với chứng Phế âm hư, cả hai vừa có mối liên hệ nhất định về bệnh nhân và cơ chế bệnh, vừa hỗ khác nhau. Chứng Phế khí âm đều hư đã có thể do diễn biến của chứng Phế âm hư, âm hao tổn liên lụy đến dương mà hình thành, cũng có thể do chứng Phế khí hư, ra mồ hôi quá nhiều, hoặc uống quá nhiều thuốc ôn nhiệt, hỏa nhiệt cướp Âm mà phát triển nên. Lâm sàng ngoài những chứng trạng biểu hiện về Phế âm hư, như ho khan ít đờm, trong đờm lẫn máu, miệng ráo họng khô và khàn tiếng, còn đồng thời có các chứng của Phế suyễn khái đoản hơi, tiếng nói nhỏ khẽ, tự ra mồ hôi sợ gió, dễ bị cảm mạo, có thể chẩn đoán phân biệt dễ dàng.
Chứng Phế Thận âm hư với chứng Phế âm hư: Thận chứa tinh, là thủy tạng, vị trí ở Hạ tiêu; Phế chủ khí, là hoa cái của năm Tạng sáu Phủ, vị trí ở Thượng tiêu. Trong ngũ hành, Phế thuộc Kim mà Thận thuộc Thủy, kim thủy tương sinh, ảnh hưởng lẫn nh. Vì vậy, Phế âm khuy tổn dằng dai không khỏi, kim không sinh thủy, “bệnh mẹ liên lụy đến con”, ốm lâu liên lụy đến Thận, Thận âm bị hư hao có thể hình thành chứng Phế Thận âm hư. Mà Thận âm suy tổn, mệt nhọc quá độ, Thận âm suy kiệt, âm hư hỏa vượng, hư hỏa hun đốt Phế có thể dẫn đến chứng Phế Thận âm hư.
Chứng Phế Thận âm hư ngoài những biểu hiện lâm sàng đầy của chứng Phế âm hư còn kiêm thêm các chứng trạng của Thận âm hư như hễ động làm thì suyễn thở càng nặng, xương nóng âm ỉ ra mồ hôi trộm, lưng đùi ê mỏi, tâm phiền mất ngủ, nam giới thì mất tinh, nữ giới thì kinh nguyệt không đều, đó là những biểu hiện của chứng Thận âm hư, có thể phân biệt rõ ràng với chứng Phế âm hư đơn thuần.
Trích dẫn y văn
Bệnh ở Phế thì ho có đờm hoặc ho khan, thì khí nghị suyễn thở, là trong mũi có hơi nóng, là gò má đỏ thổ ra máu, đổ máu mũi, nặng hơn thì mửa ra bọt rãi trắng, ngủ không ngon, đau họng và khàn tiếng (Hư lao luận – !!!!Ngô ỵ vặng giảng).
Buổi sáng mà ho nhiều là thuộc Vị hỏa, nên uống Cầm, Liên, Chi, Bá, Tri Mẫu, Thạch cao; Buổi chiều và cả bị ho nặng hơn, phần nhiều là Âm hư, nên uống Ngũ vị, Mạch đông, Tri mẫu, Tứ vật…
Cây cà phê thuộc loại thân gỗ nhỏ, mọc thành bụi, nhánh ngang, thõng xuống, lá to dài. Cụm hoa mọc ở nách lá, có màu trắng thơm. Quả hạch, lúc non có màu xanh, khi chín có màu đỏ, thường có hai hạt. Quả cà phê cho hạt để pha uống và làm thuốc chữa bệnh.
Loài cây của Abyssini (Bắc Phi), Tây Nam Ethiôpi và Bắc Xu Đăng, được thuần hoá ở các xứ Ả rập, nhiệt đới Phi Châu, Brazin. Ở nước ta có trồng, kể cả Cà phê Mokka – var. Mokka Cram, có quả nhỏ hơn. Ở nước ta cũng trồng khá nhiều cây Cà phê vối hay Cà phê Robusta – Coffea carephora Pierre ex Froehner var. robusta (Lind. ex Willd.) Chev., gốc ở Tây Phi, có kích thước lớn hơn, cao đến 8-12m, lá có phiến dài 10-13cm, có nhiều hoa hơn, hạt cỡ trung bình. Loài Cà phê mít hay Cà phê excelsa – Coffea dewevrei Willd. et Dur var. excelsa Chev. có kích thước lớn hơn, cao tới 15-20m, lá cũng dài hơn, tới 40cm.
Quả cà phê cho hạt để pha uống và làm thuốc chữa bệnh.
Có thể thu hái hạt Cà phê quanh năm, đem chà vỏ và lấy hạt đem phơi khô.
Thành phần hóa học
Hạt cà phê xanh giàu glucid (hơn 50%, phần lớn là các polysaccharid) và lipid (10 đến 15%) cả protein (10 đến 15%) và acid hữu cơ (đặc biệt là các acid Cà phêylquinic hay acid chlorogenic. Hàm lượng về Cafein thay đổi, từ 0,5 đến 1,8% ở Cà phê arabica (trung bình là 1-1,3%) và từ 1,3 đến 5,2% ở Cà phê vối (trung bình 2-3%), một phần của Cafein thường kết hợp với acid chlorogenic. Cà phê rang lên có những chất thơm, gọi chung là Cà phêol (acid Cà phêic, oleic, linoleic, palmitic) khoảng 0,05%, nhưng đồng thời lại tạo ra một yếu tố phức hợp độc là Cà phêotoxin (0,07%).
Từ tháng 5 năm 1975, người ta đã biết được 468 chất của cà phê, ngày nay đã biết hơn 600 chất.
Tác dụng dược lý
Cà phê có thể làm người ta thấy hưng phấn là do chứa các hợp chất mà thành phần cơ bản là Cafein, với hàm lượng 0,7- 2%, ít hơn so với trà (chè) ở mức 2-3%. Tuy nhiên, một ly cà phê có tác dụng kích thích mạnh hơn trà vì sử dụng đến 10-15g bột cà phê chứa khoảng 100mg Cafein, còn một ấm trà có ít Cafein hơn. Cafein có tác dụng kích thích hệ thần kinh trung ương, làm cho tỉnh táo, kích thích khả năng làm việc, nhất là làm việc bằng trí óc, tăng cường hoạt động cơ và sự phối hợp hoạt động. Cho nên chúng ta thích uống Cà phê trong những lúc buồn ngủ hay vào mỗi buổi sáng là như vậy.
Cà phê còn được sử dụng là thành phần trong các loại thuốc giảm đau, kích thích…thuốc trị cảm, đau nhức, giúp tăng cường tác dụng giảm đau của paracetamol, aspirin hoặc làm giảm tác dụng gây buồn ngủ của thuốc kháng histamine trị dị ứng. Không những thế một số hợp chất tìm thấy trong Cà phê có tác dụng làm giảm các tác hại do bệnh béo phì gây ra.
Cà phê còn là thứ đồ uống đem lại giá trị dinh dưỡng cao nhiều nhất là hợp chất kali và magie còn lại là 12% lipit (chất béo), 12% protit (chất đạm), 4% chất khoáng. Uống Cà phê vào mỗi buổi sáng cũng đem lại cho bạn nhiều năng lượng cho một ngày mới, đặc biệt khi bạn uống Cà phê với sữa thì sẽ tốt hơn và nhiều chất dinh dưỡng hơn.
Cà phê có chứa Cafein tác động lên hệ thần kinh và tim mạch nên người bị bệnh tim mạch không nên sử dụng cà phê. Cafein có tác dụng lợi tiểu, nếu uống ban đêm thì ngoài khó ngủ do bị kích thích lại phải thức giấc đi tiểu đêm. Cafein có tác dụng kích thích làm tăng tiết axit dịch vị. Vì vậy tránh uống cà phê vào lúc bụng trống để bảo vệ niêm mạc dạ dày, nhất là những người đã sẵn yếu dạ dày. Ngoài ra Cafein còn có tác dụng gây nghiện thuộc loại nhẹ và chỉ gây tác dụng tâm lý, nghiện cà phê tới cữ mà không có cà phê uống sẽ cảm thấy khó chịu, uể oải, bần thần, thậm chí mệt mỏi… tuy nhiên không gây hại.
Trong càphê, lượng cafein giúp ích cho con người tỉnh táo, sảng khoái hơn khi mệt mỏi. Càphê được coi là một thứ nước uống có tác dụng tích cực chống stress, khi bạn quá mệt mỏi, không còn tỉnh táo. .. Theo AP: Tại Luân Đôn, người ta cho rằng nếu uống mỗi ngày một tách càphê, thậm chí tới 6 cốc có thể làm giảm các cơn đau tim.
Theo Đông y, quả cà phê có vị đắng, chát, tính âm. Tác dụng kích thích thần kinh và tâm thần, làm tăng hoạt động của tim, co mạch trung ương, co mạch ngoại vi, lợi tiểu, làm khoan khoái cơ thể, kích thích tiêu hóa. Cà phê dùng nhiều có thể gây say. Người cao huyết áp, phụ nữ có thai, trẻ em không được dùng.
Thuốc ứng dụng chữa bệnh của quả Cà phê:
Bài 1. Thuốc chữa bệnh tiêu hóa kém
+ Bột hạt cà phê 10g
+ Đường đỏ 5g
Thuốc pha lọc uống, ngày 2 lần, mỗi lần 60ml, uống trước khi ăn 30 phút, cần uống trong nhiều ngày, không nên uống trước lúc đi ngủ.
Bài 2. Thuốc chữa thần kinh mỏi mệt
+ Bột cà phê 15g
+ Đường trắng 5g
Cà phê bột pha mỗi lần với 60ml nước sôi cùng đường trắng, uống ngày 2 lần, vào buổi sáng và buổi trưa.
Rất nhiều người đều cho rằng sau một ngày làm việc khẩn trương, tắm nước nóng một lúc là người dễ chịu, tiêu trừ được mệt mỏi. Đó là một nhận thức sai lầm.
Trước hết cần nói rõ một chút, “nước nóng” nói ở đây là chỉ “nước nóng” hơi cao hơn nhiệt độ cơ thể 2-3°C, là “nước nóng” cao khoảng 40°c. Đối với những người thích tắm nước nóng, thì nước nóng họ tắm thường là cao tới trên 50°c, có người còn thích ngâm mình trong nước mà bản thân cảm thấy nóng bỏng.
Sự mệt mỏi của con người ta có hai mặt: Một là mệt mỏi ở lớp da thịt bên ngoài chân tay, thân mình. Cơ bắp da thịt sau khi vận động thu co trong thời gian dài sẽ có co giật cơ bắp ở mức độ nhất định và sẽ sản sinh ra hiện tượng lactate lắng đọng ở trong tế bào cơ bắp. Những trường hợp sau khi lao động và vận động mạnh mẽ mà cơ bắp cảm thấy đau mỏi, đó chính là do lượng lớn lactate lắng đọng lại. Còn một loại mệt mỏi khác là chỉ sự mệt mỏi ở các cơ quan nội tạng trong cơ thể và ở hệ thần kinh đại não. Sự mệt mỏi này có quan hệ đến sự thay thế chuyển hóa của oxy, sự cân bằng giữa acid và kiềm, sự chênh lệch điện thế giữa trong và ngoài tế bào, đó là một quá trình sinh lí phức tạp. Còn sự uy hiếp của mệt mỏi ở các cơ quan nội tạng trong cơ thể và ở hệ thần kinh đại não đối với sức khỏe cơ thể vượt rất xa mệt mỏi cơ bắp lớp ngoài của tay chân và thân thể.
Nước nóng già dùng để tắm cũng như để ngâm mình trong đó thì sẽ làm cho huyết quản mao dẫn của thân mình, tay chân mở rộng ra. Khi tắm, nếu ngâm mình một lát trong nước nóng, da người sẽ đỏ rực lên, đó chính là do huyết quản mao dẫn ở mặt ngoài cơ thể vốn thu co bịt kín lại nay sinh mở rộng ra. Ngoài ra, dưới sự kích thích của nước nóng, tim sẽ đập nhanh có tính phản xạ, vì thế lượng máu chảy ở tay chân và thân thể tăng nhiều lên, chảy nhanh hơn. Những biểu hiện đó có lợi cho việc giải trừ co giật cơ bắp, giảm thiểu lắng đọng lactate trong tế bào cơ bắp.
Tắm lạnh cũng là một biện pháp giữ gìn sức khoẻ
Song, tổng lượng huyết dịch trong cơ thể là có hạn, huyết dịch chảy vào tầng lớp ngoài của tay chân và thân mình tăng nhiều lên, tất nhiên sẽ làm cho lượng huyết dịch cung cấp cho các cơ quan nội tạng và tổ chức não giảm thiểu. Hơn nữa, nhiệt độ nước quá cao sẽ làm cho mồ hôi toát ra tăng nhiều rõ rệt, vì thế, tổng lượng huyết dịch có phần giảm thiểu, như vậy sẽ giảm thiểu lượng cung cấp máu cho nội tạng và đại não. Điều này rất bất lợi đối với việc tăng nhanh sự tiêu trừ trạng thái mệt mỏi.
Không những như vậy, khi nước nóng quá nhiệt độ cơ thể nhiều tất nhiên làm cản trở sự phát tán nhiệt lượng sản sinh ra trong việc thay thế chuyển hóa trong nội bộ cơ thể, dẫn tới nhiệt độ cơ thể tăng cao, sự phân giải, chuyển hóa tăng lên, lượng tiêu hao oxy trong cơ thể tăng lên, nhiệt sản ra càng nhiều, làm cho nhiệt độ cơ thể ngày càng tăng thêm, hình thành tuần hoàn ác tính. Nhiệt độ cơ thể quá cao lại có thể làm tổn thương màng tế bào hoặc kết cấu trong tế bào, đồng thời có thể ảnh hưởng đến công năng tán nhiệt của con người. Khi tắm nước quá nóng, thường người ta sẽ cảm thấy tức ngực, thở ngắn, váng đầu, tim đập mạnh, hồi hộp. Đó là hiện tượng cơ thể thiếu oxy. Tim đập nhanh do hiện tượng nhiệt sản sinh ra thường sẽ làm cho tim đập tăng lên đến mỗi phút 100-120 lần, thậm chí còn nhanh hơn nữa, vượt quá xa con số 60-80 lần mỗi phút lúc bình thường. Điều này rõ ràng là đã tăng thêm gánh nặng làm việc cho các cơ quan nội tạng như tim.
Những trường hợp thiếu máu, thiếu oxy và tăng thêm gánh nặng cho các cơ quan nội tạng và đại não đều tất sẽ làm cho trạng thái vốn mệt mỏi sẵn càng tăng thêm độ trầm trọng hơn. Rất nhiều người sau khi tẩm nước quá nóng xong mặc dù cảm giác mệt mỏi tay chân có giảm nhẹ đi, nhưng lại có cảm giác toàn thân mệt mỏi, tinh thần không được sảng khoái, váng đầu, buồn ngủ. Nghĩ rằng tắm nước nóng để giải trừ mệt mỏi ở cơ bắp tay chân và thân thể nhưng lại tăng nặng thêm trạng thái mệt mỏi ở các cơ quan nội tạng và ở hệ thần kinh của đại não.
Như vậy là đã vứt bỏ cái gốc, cái cơ bản để truy tìm lấy cái ngọn, cái không phải cơ bản, cái được nhỏ không bù lại được cái mất lớn, có hại nhiều đối với sức khỏe.
Ngoài ra, nước tắm quá nóng sẽ làm cho tinh trùng (tức tế bào sinh sản của nam giới) gặp trở ngại về phát dục, làm cho số lượng tinh trùng, khả năng vận động và khả năng xuyên thủng trứng của tinh trùng hạ thấp rõ rệt, hơn nữa sự tổn thất này có thể kéo dài trong suốt thời gian rất dài về sau. Có những nhà nghiên cứu thực nghiệm của nước ngoài đã từng có báo cáo khoa học: Nếu tắm nước nóng trong bồn tắm trong 1 giờ có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh dục của nam giới một thời gian 6 tuần sau. Tắm nước nóng làm cho tim đập nhanh, huyết áp tăng cao, làm cho đại não và động mạch vành thiếu máu, thiếu oxy, điều này đối với những người trung lão niên bị các bệnh về tim mạch lại càng cực kì nguy hại hơn.
Vậy thì nhiệt độ nước tắm nên thế nào thì vừa độ? Các nhà y học đã chỉ ra: Nhiệt độ nước tắm nên lấy độ nóng không gây cho tim người ta đập nhanh hơn là vừa, nói một cách cụ thể hơn là nhiệt độ nước tắm chỉ cao hơn nhiệt độ cơ thể tí chút từ 38°C-40°C. Trong sinh hoạt hàng ngày, phương pháp đo độ nóng đơn giản dễ làm là lấy tay cho vào nước tắm, nếu thấy nước hơi ấm hơn đôi chút, vừa không cao hơn nhiệt độ cơ thể rõ rệt mà cũng không cảm thấy lạnh là được. Tắm trong bể nước tắm ở độ nóng đó sẽ có ích nhất chống mệt mỏi, làm cho cơ thể khỏe thêm ra.