Blog Trang 484

Thuốc ABCIXIMAB – TIÊM (ab-SIX-i-mab)

TÊN THUỐC GỐC: ABCIXIMAB – TIÊM (ab-SIX-i-mab)

TÊN THƯƠNG MẠI: Reopro

CÔNG DỤNG:

Abciximab là một loại thuốc “làm loãng máu” được sử dụng để ngăn ngừa cục máu đông trong các thủ thuật mở rộng mạch máu trong tim (ví dụ: nong mạch vành bằng bóng, đặt stent mạch vành, can thiệp mạch vành qua da – PCI). Thuốc thường được sử dụng cùng với heparin và aspirin. Abciximab hoạt động bằng cách ngăn chặn tiểu cầu trong máu dính vào nhau. Khi tiểu cầu dính vào nhau, chúng có thể hình thành cục máu đông, gây ra cơn đau tim hoặc khiến mạch máu đã được mở lại đóng lại.

CÁCH SỬ DỤNG:

Thực hiện tất cả các hướng dẫn về việc pha trộn và pha loãng đúng cách với các dịch truyền IV phù hợp. Nếu bạn có câu hỏi về cách sử dụng thuốc này một cách đúng đắn, hãy tham khảo ý kiến dược sĩ của bạn. Không được lắc thuốc. Trước khi sử dụng sản phẩm này, hãy kiểm tra nó bằng mắt để phát hiện các hạt hoặc sự đổi màu. Nếu có bất kỳ điều gì trong số đó, không sử dụng dung dịch này. Thuốc này được tiêm vào tĩnh mạch bởi một nhân viên y tế, thường là 10 đến 60 phút trước thủ thuật của bạn, sau đó được truyền chậm vào tĩnh mạch trong tối đa 12 giờ hoặc theo chỉ định của bác sĩ. Nếu bạn gặp phải cơn đau ngực không kiểm soát và thủ thuật của bạn không thể thực hiện ngay lập tức, thuốc này có thể được bắt đầu lên đến 24 giờ trước khi thủ thuật của bạn và tiếp tục cho đến 1 giờ sau khi thủ thuật hoàn tất. Liều lượng được dựa trên trọng lượng, tình trạng sức khỏe và phản ứng với điều trị. Sau khi thực hiện thủ thuật, bạn cần nằm rất im với đầu hơi nâng lên. Ống cho thủ thuật của bạn thường được đặt gần bẹn. Giữ cho chân (hoặc chi gần ống) thẳng để ngăn ngừa chảy máu từ khu vực ống. Áp lực sẽ được áp dụng vào khu vực đó (ví dụ: bằng một túi cát, băng áp lực đặc biệt). Bạn sẽ không được phép ra khỏi giường trong vài giờ sau thủ thuật.

TÁC DỤNG PHỤ:

Buồn nôn, nôn hoặc chảy máu/ kích ứng nhẹ tại vị trí tiêm có thể xảy ra. Nếu bất kỳ tác dụng nào trong số này kéo dài hoặc trở nên tồi tệ hơn, hãy thông báo cho bác sĩ hoặc dược sĩ ngay lập tức. Hãy nhớ rằng bác sĩ đã kê toa thuốc này vì ông ấy hoặc bà ấy đã đánh giá rằng lợi ích đối với bạn lớn hơn rủi ro tác dụng phụ. Nhiều người sử dụng thuốc này không gặp tác dụng phụ nghiêm trọng. Chảy máu nghiêm trọng là tác dụng phụ nghiêm trọng phổ biến nhất. Hãy báo cho bác sĩ ngay lập tức nếu bạn gặp bất kỳ dấu hiệu nào của chảy máu nghiêm trọng: chảy máu/ bầm tím/ sưng/ rỉ máu quanh khu vực ống thủ thuật, chảy máu mũi không kiểm soát, nhịp tim nhanh/ không đều, da nhợt nhạt/ xám/ xanh, nước tiểu màu hồng/ đỏ, phân có máu/ màu đen/ có nhựa đường, ho ra máu, nôn ra có màu giống như bã cà phê. Tìm kiếm sự chăm sóc y tế ngay lập tức nếu có bất kỳ dấu hiệu nào của chảy máu rất nghiêm trọng: đau ngực, vấn đề về thị giác, nhầm lẫn, nói lắp, yếu một bên cơ thể. Thuốc này có thể gây giảm đáng kể số lượng tiểu cầu trong máu (tiểu cầu giảm). Hãy báo cho bác sĩ ngay lập tức nếu bạn phát triển tình trạng dễ chảy máu/ bầm tím. Phản ứng dị ứng rất nghiêm trọng với thuốc này là hiếm. Tuy nhiên, tìm kiếm sự chăm sóc y tế ngay lập tức nếu bạn nhận thấy bất kỳ triệu chứng nào của phản ứng dị ứng nghiêm trọng, bao gồm: phát ban, ngứa/ sưng (đặc biệt là trên mặt/ lưỡi/ họng), chóng mặt nghiêm trọng, khó thở. Đây không phải là danh sách đầy đủ các tác dụng phụ có thể xảy ra. Nếu bạn nhận thấy các tác dụng khác không được liệt kê ở trên, hãy liên hệ với bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn.

THẬN TRỌNG:

Trước khi sử dụng abciximab, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết nếu bạn bị dị ứng với thuốc này; hoặc với protein từ chuột; hoặc nếu bạn có bất kỳ dị ứng nào khác. Thuốc này không nên được sử dụng nếu bạn có một số tình trạng y tế nhất định. Trước khi sử dụng thuốc này, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc dược sĩ nếu bạn có:

  • Chảy máu hiện tại
  • Chảy máu từ ruột hoặc bàng quang trong 6 tuần qua (ví dụ: chảy máu loét dạ dày)
  • Đột quỵ trong 2 năm qua
  • Tiền sử đột quỵ với các vấn đề tiếp diễn (ví dụ: nói lắp, yếu cơ, vấn đề về thị lực)
  • Phẫu thuật/chấn thương lớn/khác có chảy máu trong 6 tuần qua
  • Khối u não
  • Vấn đề mạch máu trong não (ví dụ: phình mạch, dị dạng AV)
  • Huyết áp rất cao không kiểm soát
  • Viêm mạch máu (vasculitis)

Trước khi sử dụng thuốc này, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết về tiền sử bệnh của bạn, đặc biệt là về:

  • Việc sử dụng thuốc này trong 30 ngày qua
  • Các vấn đề về dạ dày/ruột (ví dụ: loét dạ dày, bệnh viêm ruột)
  • Số lượng tiểu cầu thấp (tiểu cầu giảm)
  • Bệnh gan

Trong thời kỳ mang thai, thuốc này chỉ nên được sử dụng khi thật sự cần thiết. Hãy thảo luận về những rủi ro và lợi ích với bác sĩ của bạn. Chưa có thông tin rõ ràng về việc thuốc này có qua được sữa mẹ hay không. Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi cho con bú.

TƯƠNG TÁC THUỐC:

Bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn có thể đã biết về bất kỳ tương tác thuốc nào có thể xảy ra và có thể đang theo dõi bạn. Không bắt đầu, dừng hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ loại thuốc nào trước khi kiểm tra với bác sĩ hoặc dược sĩ trước.

Thuốc này không nên được sử dụng với các loại thuốc sau đây vì có thể xảy ra tương tác rất nghiêm trọng: dextran. Nếu bạn hiện đang sử dụng loại thuốc đã được liệt kê ở trên, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết trước khi bắt đầu sử dụng abciximab.

Trước khi sử dụng thuốc này, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết về tất cả các sản phẩm kê đơn và không kê đơn/các sản phẩm thảo dược mà bạn có thể sử dụng, đặc biệt là:

  • Các loại “thuốc làm loãng máu” khác (ví dụ: warfarin) đã sử dụng trong 7 ngày qua
  • NSAIDs (ví dụ: ibuprofen, naproxen)
  • Các loại thuốc chống tiểu cầu (ví dụ: dipyridamole, ticlopidine), tipranavir

Kiểm tra tất cả các nhãn thuốc kê đơn và không kê đơn cẩn thận vì nhiều loại chứa các thuốc giảm đau/giảm sốt (NSAIDs như ibuprofen, naproxen hoặc aspirin) tương tự như thuốc này. Abciximab thường được sử dụng với các loại “thuốc làm loãng máu” khác như aspirin, clopidogrel và heparin. Hãy chắc chắn kiểm tra với bác sĩ hoặc dược sĩ về các loại thuốc bạn cần dùng sau khi rời bệnh viện. Aspirin liều thấp nên được tiếp tục nếu bác sĩ kê đơn để phòng ngừa cơn đau tim hoặc đột quỵ (thường với liều 81-325 milligrams mỗi ngày). Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc dược sĩ để biết thêm chi tiết.

Tài liệu này không chứa tất cả các tương tác có thể xảy ra. Do đó, trước khi sử dụng sản phẩm này, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết về tất cả các sản phẩm bạn đang sử dụng. Giữ một danh sách tất cả các loại thuốc của bạn bên mình và chia sẻ danh sách đó với bác sĩ và dược sĩ.

GHI CHÚ:

Các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm và/hoặc các xét nghiệm y tế (ví dụ: thời gian chảy máu, số lượng tiểu cầu) nên được thực hiện định kỳ để theo dõi tiến trình của bạn hoặc kiểm tra các tác dụng phụ. Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để biết thêm chi tiết.

LIỀU THUỐC BỊ BỎ LỠ:

Nếu liều thuốc của bạn bị ngừng hoặc gián đoạn, hãy liên hệ ngay với bác sĩ để thiết lập một lịch trình/liều lượng mới.

BẢO QUẢN:

Bảo quản trong tủ lạnh ở nhiệt độ từ 36-46 độ F (2-8 độ C). Không được đông lạnh. Vứt bỏ bất kỳ dung dịch chưa sử dụng nào. Giữ tất cả thuốc xa tầm tay trẻ em và thú nuôi. Không xả thuốc xuống toilet hoặc đổ chúng vào cống trừ khi được hướng dẫn thực hiện. Vứt bỏ sản phẩm này đúng cách khi nó đã hết hạn hoặc không còn cần thiết nữa. Hãy tham khảo ý kiến dược sĩ hoặc công ty xử lý rác thải địa phương của bạn để biết thêm chi tiết về cách vứt bỏ sản phẩm một cách an toàn.

Khám lồng ngực trong bệnh tim mạch

Quan sát lồng ngực

Lồng ngực hình máng thường gặp trong sa van hai lá. Khí thũng phổi là nguyên nhân hay gây ra tâm phế mạn. Vùng trước tim bị nhô lên hay gặp ở trẻ bị bệnh tim bẩm sinh nặng có phì đại tâm nhĩ phải.

Trong hẹp quai động mạch chủ có thể thấy các động mạch liên sườn bị giãn, đập nếu bệnh nhân cúi ra trước và quan sát lưng dưới ánh sáng nghiêng. Có thể thấy các tĩnh mạch nông ở ngực bị giãn khi có chèn ép trung thất.

Quan sát mỏm tim

Mỏm tim đập là thành ngực hơi nâng lên ở thì tâm thu, có thể thấy ở khoảng liên sườn 5 bên trái, hơi ở phía trong đường giữa đòn. Dễ quan sát mỏm tim đập ở người gày, dưới ánh sáng nghiêng. Không thấy mỏm tim đập không có nghĩa là bị bệnh.

Mỏm tim đập được phân tích kỹ hơn ở phần dưới. Mỏm tim đập có thể cho biết:

  1. Lệch chỗ: có thể lệch sang trái trong phì đại tâm thất trái, tràn dịch màng phổi, tràn khí màng phổi phải hoặc dày dính màng phổi trái. Có thể lệch sang phải trong tràn dịch màng phổi hoặc tràn khí màng phổi trái hoặc dày dính màng phổi phải. Lệch xuống dưới mỏm ức do khí phế thũng nặng. Lệch sang phải ở các khoảng liên sườn 3 và 4 là do phì đại tâm thất phải.
  2. Lực: mỏm tim đập mạnh lên khi xúc cảm, khi gắng sức, ưu năng tuyến giáp hoặc dày thất trái (huyết áp cao, bệnh van hai lá hoặc van động mạch chủ).
  3. Có hai ổ đập: ngoài vùng mỏm còn có thể thấy chỗ đập thứ hai ở khoảng liên sườn 2 bên phải xương ức trong trường hợp bị phình động mạch chủ hoặc ở bên trái xương ức trong giãn động mạch phổi. Trong trường hợp bị phình thành trước rộng cũng có thể có hai ổ đập.
  4. Mỏm tim hạ thấp khi tâm thu (dấu hiệu Broadbent): chỗ mỏm tim đáng lẽ nâng lên khi tâm thu lại hạ xuống. Dấu hiệu này được cho là do bị viêm màng ngoài tim co thắt và do phì đại tâm thất phải nhiều. Tuy nhiên cũng có thể gặp ở người bình thường.

Nghe tim

Tình trạng của phổi được đánh giá bằng gõ, sờ và nghe theo các nguyên tắc khám bộ máy hô hấp.

Với tim, trước hết phải tìm các triệu chứng của ứ máu phổi hoặc tràn dịch màng phổi (thường ở bên phải nếu do nguyên nhân tại tim) Phải khám xem có bệnh phổi cấp tính không (nhồi máu phổi, viêm phổi) hoặc mạn tính (phế thũng, viêm phế quản mạn tính).

Bạch thược

Bạch thược
Bạch thược

Tên khác: Mẫu đơn trắng, thược dược

Tên khoa học: Paeonia lactiflora Pall.

Họ Mao lương (Ranunculaceae)

MÔ TẢ

Cây thảo có rễ củ mập, dài, ruột màu trắng hoặc hồng nhạt. Thân hình trụ, nhẵn, cao 40 – 60cm. Lá mọc so le, có cuống dài, chia 3 – 7 thuỳ hình mác, gốc và đầu thuôn, hai mặt nhẵn, mặt trên sẫm bóng, mặt dưới nhạt, mép nguyên.

Hoa to mọc đơn độc ở ngọn thân, cành, màu trắng, nhị vàng; lá đài 4, dai và tồn tại; cánh hoa 5 – 10, rộng và dài hơn lá đài; bầu có 3 – 5 noãn.

Quả gồm 3 – 5 đại chất dai; hạt nhiều, gần tròn.

Mùa hoa quả: Tháng 5 – 9.

PHÂN BỐ, NƠI MỌC

Bạch thược phân bố ở vùng ôn đới ấm thuộc châu Âu, nhất là ở vùng Địa Trung Hải. ở châu Á, có Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Triều Tiên.

Ở Việt Nam, cây được nhập từ Trung Quốc vào những năm 70 và trồng ở những vùng có khí hậu mát, lạnh như Sa Pa, Tam Đảo, Đà Lạt.

BỘ PHẬN DÙNG, THU HÁI, CHẾ BIẾN

Rễ được thu hái từ cây bạch thược 3 – 5 tuổi vào tháng 6 – 9. Đem về, rửa sạch đất, cắt bỏ phần đầu rễ và rễ con, cạo bỏ vỏ ngoài, ngâm nước sôi hoặc đồ chín, vốt ra, lăn sửa cho tròn và thẳng, rồi phơi hoặc sấy khô. Không phơi dược liệu dưới nắng to hoặc sấy ở nhiệt độ cao để tránh rễ bị nứt nẻ hoặc cong queo. Có khi còn xông diêm sinh cho rễ thêm trắng.

Khi dùng, ngâm dược liệu vào nước cho mềm, ủ đến khi trong ngoài ướt đều, thái phiến rồi sao vàng. Có thể tẩm dược liệu với rượu hoặc sao khô sém để dùng.

BẢO QUẢN:

Để nơi khô ráo, thoáng gió, đề phòng biến chất thành ra độc.

NGUỒN GỐC:

Đây là rễ khô của loài thược dược, họ cây mao cấn. Sản xuất chủ yếu ở Triết Giang, An Huy, Tứ Xuyên, Quí Châu, Sơn Đông V.V..

PHÂN BIỆT TÍNH CHẤT, HÌNH DẠNG:

Dược liệu là loại sơ chế thành miếng mỏng hình tròn hoặc bầu dục dày độ 1mm, bề mặt màu trắng hoặc màu nâu hồng nhạt, phẳng phiu hoặc có vân dọc, ngẫn rễ nhỏ, đây đó có vết tích của lớp vỏ ngoài màu nâu; mặt cắt phẳng bóng, màu từ trắng đến hồng nhạt, có vân vòng và vân tia hình tên bắn khá r,õ rệt. Khí nhẹ, vị hơi đắng, chua. Loại nào rễ to, cứng rắn, không có ruột trắng hoặc khe nứt là loại tốt.

THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Bạch thược chứa hoạt chất chủ yếu là paeoniflorin, oxypaeoniflorin, albiflorin, paeonolid, lactiflorin (vết); các hợp chất triterpen như acid oleanolic, acid betulinic; các hợp chất flavonoid như kaempferol glucosid.

TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Nước sắc từ rễ bạch thược có tác dụng ức chế ở nồng độ thấp và hưng phấn ở nồng độ cao; nếu thêm cam thảo, dung dịch lại gây kích thích ở liều thấp và ức chế ở liều cao. Nước sắc này còn có tác dụng kháng khuẩn đối với khuẩn trùng tả lỵ, tụ cầu, phế cầu, trực trùng bạch hầu.

Theo các công trình nghiên cứu hiện đại bạch thược có hàm chứa các chất phenol của vỏ rễ mẫu đơn, chất kích thích ngũ cốc B, chất dầu thăng hoa , mỡ cây, chất mềm da, chất đường, tinh bột, hợp chất dầu thơm, chất phối đường, thược dược, kiềm thược dược v.v… chất phối đường thược dược có tác dụng chống co giật khá tốt, đối với ruột và dạ dầy li thể của chuột và chuột bạch, cũng như sự vận động của cơ bình hoạt dạ con chuột, đều có tác dụng ức chế, lại có thể chống co thắt dạ con do các tác dụng của thôi sản tố sinh ra, đồng thời còn có tác dụng giảm đau, trấn tĩnh, chống viêm, chống loét, tăng cường khả năng lưu thông của động mạch vành và các mạch máu ở chi sau, đối với các thành phần hữu hiệu của cam thảo có tác dụng bồi bổ tăng hiệu lực trên nhiều mặt. Bạch thược còn có khả năng tăng cường hiệu lực chuyển hoá của tế bào hạch ở người khoẻ mạnh để nâng cao sức khoẻ, tăng cường khả năng chống ốm đau cho cơ thể.

CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Trong y học cổ truyền, bạch thược được dùng với tác dụng dưỡng huyết, điều kinh, giảm đau, tiêu viêm, làm mát, lợi tiểu, chữa đau bụng, đau ngực, chân tay tê mỏi, nhức đầu, choáng váng, thổ tả, kiết lỵ, kinh nguyệt không đều, bạch đới, ra mồ hôi trộm, đái khó.

Liều dùng hàng ngày: 5 – 10g dưới dạng nước sắc hoặc tán bột uống.

NHỮNG CẤM KỴ TRONG KHI DÙNG THUỐC:

VỊ thuốc này phản lê lô, không được cùng sử dùng.

Người bị hư hàn, đau bụng ỉa chảy khi dùng nên thận trọng.

BÀI THUỐC

  • Chữa kinh nguyệt không đều, băng huyết, rong kinh: Bạch thược (20g), lá trắc bá (12g, sao đen). Hai vị thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400 ml nước còn 100 ml, uống làm hai lần trong ngày (Nam dược thần hiệu).
  • Chữa đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, ù tai, bế kinh: Bạch thược (16g), đương quy (12g), thục địa (12g), xuyên khung (8g), sắc uống ngày một thang.
  • Chữa đau vùng thượng vị, đầy bụng, ợ hơi: Bạch thược (16g), sài hồ (12g), chỉ xác (8g), xuyên khung (8g), hương phụ (8g), thanh bì (8g), cam thảo (6g). Tất cả phơi khô, sắc uống trong ngày.
  • Chữa đau nhức,hai chân và đầu gối khó co duỗi, đau bụng, tiểu đường, háo khát: Bạch thược (16g), cam thảo (8g). Sắc hoặc tán bột uống.

CÁC PHƯƠNG THUỐC BỔ DƯỠNG THƯỜNG DÙNG:

Thược dược hoàng kỳ tửu (rượu thược dược hoàng kỳ)

Bạch thược 100g – Sinh địa 100g

Hoàng kỳ 100g – Lá ngải (sao) 30g

Nghiền thành bột thô, đựng trong túi vải, đặt trong bình sạch, đổ 1000ml rượu trắng, ngâm 7 ngày trở lên là có thể uống được. Uống mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 10ml.

Dùng cho phụ nữ kinh nguyệt quá nhiều, lại thêm ra khí hư màu đỏ, trắng.

Bạch thược linh chi ẩm (thuốc sắc linh chi thược)

Bạch thược 10g – Linh chi 10g

Sắc lấy nước, pha đường vừa phải vào uống.

Dùng cho người bị suy nhược thần kinh.

Bạch thược toan táo nhân thang (thang thuốc bạch thược, nhân toan táo)

Bạch thược 15g – Viễn chí 9g

Nhân toan táo 15g – Phục thần 10g

Ngày 1 thang chia 2 lần sắc uống vào buổi sớm và buổi tối.

Dùng cho người tâm can lưỡng hư, dẫn tới mất ngủ, tim đập hốt hoảng, hay bị kinh dị.

Bạch thược can khương tán (thuốc bột gừng bạch thược)

Bạch thược 60g – Gừng khô 20g

Nghiền chung thành bột mịn. uống ngày 1 lần, mỗi lần 6 – 10g.

Uống bằng rượu “hoàng tửu”, uống liền trong một tuần.

Dùng cho phụ nữ đau bụng khi hành kinh, ra khí hư màu trắng, đỏ kéo dài hàng năm không khỏi, cũng chữa cả cho người bị huyết khí công, đau tim, đau bụng sau khi đẻ.

Bạch thược cam thảo tán (thuốc bột bạch thược cam thảo)

Bạch thược 10 phân – Cam thảo 5 phân

Hoa phấn 10 phần

Nghiền chung thành bột mịn. sắc uống ngày 3 lần, mỗi lần 3g.

Dùng cho người miệng khát do âm thương hữu nhiệt, cũng trị cả bệnh đái đường.

Trấn kinh tức phong thang (thang trấn kinh tức phong)

Bạch thược 30g – Huyền sâm 15g

Long cốt tươi 30g – Thiên đông 25g

Con ha tươi 30g

Sắc uống ngay 1 thang, chia 2 lần sớm, tối.

Dùng cho người đầu váng mắt hoa do can âm bất túc, can dương cang thịnh sinh ra.

Bạch thược chỉ tả thang (thang bạch thược cầm ỉa chảy)

Bạch thược 12g – Trần bì 9g

Bạch truật 18g – Phòng phong 6g

Sắc uống ngày một thang, chia 2 lần.

Dùng cho người can uất dẫn tới sôi bụng, đau bụng, ỉa chảy.

Bạch thược thang (thang bạch thược)

Bạch thược 20g – Nhục Quế 5g

Nguyên hổ 9g – Hương phụ 12g Sắc uống ngày / 1 thang, chia làm 2 lần.

Dùng cho phụ nữ đau lườn, sưng vú.

Bạch thược theo “Dược phẩm vựng yếu”

Khí vị:

Vi đắng, chua, bình, tính hơi hàn, không độc, khí bạc, vị hậu, là âm dược, giáng xuống, vào Can kinh, ghét Thạch hộc, Mang tiêu, sợ Miết giáp, phản Lê lô, dùng Lôi hoàn làm sứ.

Chủ dụng:

Tả Can hỏa mà chủ về huyết nhiệt, chữa đau măt, đau hạ sườn, ức chế Can khí, thu liễm Can khí mà chủ về đầy bụng, đau bụng ỉa chảy, kiết lỵ, trừ chứng phiền, bổ khí, hay thu liễm Phế khí, mà đối tượng là ho hen, trướng nghịch, thu liễm Vị khí, làm kiên cố tấu lý, chuyển vào phần huyết của Tỳ kinh mà bổ hư lao, thoái nhiệt, liễm âm khí, chữa nục huyết, an thai và tất cả các bệnh đàn bà, thông huyết, bổ huyết, liễm Can huyết, là thuốc chủ yếu điều hòa trung tiêu, hay vào huyết hải, chữa các bệnh của phụ nhân, là một vị thuốc thu giáng rất tốt.

Hợp dụng:

Bạch truật bổ Tỳ dương, Bạch thược bổ Tỳ âm, dùng với Sâm, Kỳ thì bổ thêm phần khí, dùng với xuyên khung thì tả Can, dùng với Sài hồ, Mầu đơn, Sơn chi làm tá thời tả hỏa mà trừ nhiệt táo, dùng Khương, Quế làm tá thời gây ấm kinh mạch, để tán hàn thấp, bụng lạnh đau thời gia Quế, nóng đau thời gia Hoàng cầm, dùng chung với Sâm, Truật thời bổ trung ích khí, dùng chung với Thục địa thời bổ âm huyết. Tuy rằng người sản hậu và người huyết hư hàn đau bụng thì phải kiêng dùng là sợ cái hàn của nó, nhưng dùng Khương Quế làm tá và sao nó với Gừng, với Rượu thì còn hàn đâu mà sợ.

Cách chế:

Dùng với thuốc bổ Tỳ thì sao với Rượu, dùng với thuốc dưỡng huyết thời sao với Mật, với Nước, dùng để bình Can thì để sống.

Kỵ dụng:

Neu đau bụng không phải do huyết hư thì không được dùng lầm (Bởi vì mọi chứng đau bụng đều phải dùng thuốc tân tán, mà Bạch thược chỉ có chua và thu liễm). Bạch thược thu liễm, giáng xuống, chấp hành lệnh của mùa thu thuộc kim, về tính hàn thì còn thua Hoàng cầm, Hoàng liên, cổ nhân nói mùa rét phải giảm bớt Bạch thược để tránh bệnh trúng hàn, lại nói “Bệnh trúng hàn thuộc hư lạnh thì cấm dùng”, lai bảo “đàn bà đẻ chớ dùng”, đó là sợ Bạch thược làm tổn hại khí sinh hóa mà sinh biến chứng.

Nhận xét:

Người xưa bảo Bạch thược tả Can, an Tỳ, mà Đông Viên lại cho rằng chế bớt Can hỏa là hòa hoãn Trung tiêu, hòa hoãn Trung tiêu tức điều hòa khí là nghĩa làm sao. Là vì đang lúc âm tà của Can hỏa phạm vào Tỳ,Vị thì vị chua thu liễm được âm khí mà khỏi đau, mà kiện Tỳ, chứ không phải tả vào chính khí của Can, nếu Can khí bị ức chế bớt, huyết hư yếu bớt thời điều hòa được vinh vệ mà sinh huyết mới. Cho nên nói rằng mùa xuân đau bụng thì bội dùng Bạch thược vì nó hòa huyết, ức Can, trợ Tỳ, có khả năng tả Mộc trong Thổ, liễm tân dịch mà tăng vinh huyết để tả nhiệt tà.

GIỚI THIỆU THAM KHẢO

“Thương hàn luận”

Bài Thược dược cam thảo thang

Bạch thược 8-16g, Cam thảo 8-16g.

Sắc, chia uống ấm vài lần trong ngày.

Chữa các chứng đau rút cơ (nhất là ở chân), đau bụng, sỏi Mật, sỏi Thận, kiết lỵ, tiểu đau, co thắt ruột, đau thần kinh, đau cơ bụng, đau răng.. .Đối với trẻ em thì chữa kinh giật, đau bụng, khóc đêm.

“Hướng dẫn sừ dụng các bài thuốc”

Bài Ngũ tích tán

Trần bì, Bán hạ, Bạch linh đều 6g, Bạch truật 9-12g, Xuyên khung, Đương quy, Bạch thược, Hậu phác, Ma hoàng, Cát cánh, Quế chi, Bạch chỉ, Chi xác, Can khương, Đại táo, Hương phụ, Cam thảo đều 3-6g. sắc, chia uống 3 lần trong ngày.

Bài này hợp dụng bài Nhị trần tiêu đàm, bài Bình vị tiêu thực, Tứ vật bổ huyết, Quế chi, Bạch thược trị phong tà, Ma hoàng, Cát cánh trừ đàm.

Áp dụng: Hàn nhiệt, phong đàm thực gây nên những tích tụ trong người. Có 5 loại tích: tích do Tâm là phục lương ở xung quanh rốn; tích do Can là phì khí dưới sườn bên trái; Tỳ hư gây nên bỉ khí sinh hoàng đản; Phế sinh tức bồn dưới sườn bên phải, ngực đau, nóng rét, nôn ra máu, và bôn đồn có hình con Lợn con chạy chồm lên từng cơn do thần kinh Vị Trường co bóp mạnh.

Bài này áp dụng rộng rãi cho các rối loạn ở ố bụng, nửa người trên nóng, nửa dưới lạnh, viêm Dạ dày, Ruột, đau eo lưng, kinh nguyệt khó khăn, bạch đới, sản khí, các rối loạn tim mạch, cước khí, cảm mạo ở người già; cũng dùng chữa sưng khớp, thần kinh tọa.

“Hướng dẫn sử dụng các bài thuốc”

  • Bài Cánh thược bài nùng thang

Bạch thược 10g, Cát cánh 6g, Chỉ thực 10g, lòng đỏ trứng Gà 1 quả (khuấy vào nước thuốc).

Sắc, chia uống 2 lần trong ngày.

Trị khi huyết ngưng trễ, mụn không vở mũ hoặc không vít miệng trong các trường hợp mạn tính, mụn nhọt có tính hư.

  • Bài Đương quy thược dược thang

Đương quy 12g, Bạch thược 10g, Xuyên khung 6g, Trạch tả 8g, Bạch linh 8g, Bạch truật 8g. sắc, uống 2 lần trong ngày.

Thuốc vào huyết đạo, áp dụng phần nhiều cho phụ nữ.

Chữa người thiếu máu, huyết hư ứ trệ ở bụng dưới, phụ nữ khi mãn kinh hay sau khi sinh đẻ, sẩy thai bị chóng mặt, phù thũng, đau thắt lưng, chân tay lạnh, Tim đập nhanh.

Bệnh phụ khoa nên thêm Sài hồ, người Vị Tràng yếu nên thêm Nhân sâm. Những người bị ứ huyết bụng dưới, có đau bụng, có khi không đau đều có thể dùng bài này, nhưng nếu uống vào thấy không ăn ngon com thì không nên dùng tiếp.

“Hòa tễ cục phương”

Bài Bát vị tiêu giao tán

Đương quy, Bạch thược, Bạch truật, Bạch linh, Sài hồ đều 9g, Sinh Khương 6g, Cam thảo 4g, Bạc hà 3g. sắc, chia uống 3 lần trong ngày. Đây là bài thuốc cơ bản của phép hòa: nửa dưỡng khí, nửa dưỡng huyết, nửa ôn, nửa lương. Thuốc thường dùng cho phụ nữ huyết kém, rối loạn kinh nguyệt khi mãn kinh, đau mỏi, nóng rét thất thường, tinh thần bất an, rộp miệng lưỡi, hông sườn đau, đầu đau, núm vú sưng đau… Tóm lại bài này rất tốt cho người khí huyết hao mòn vì thực nhiệt âm ỉ hại đến Can, Tỳ gây nên nhiều bệnh tật. Người bệnh lười hồng nhat, mạch hư huyền.

– Bài Gia vị tiêu giao tán

Bạch linh 8g, Bạch truật 8g, Bạch thược 8g, Đương quy 8g, Sài hồ 8g, Đan bì 8g, Chi tử 8g, Cam thảo 4g, Can (hoặc sinh) Khương 2g, Bạc hà 4g (Bạc hà để riêng, khi thuốc sắc vừa xong thì cho vào). Sắc, chia uống vài lần trong ngày. (Là bài Bát vị tiêu giao thêm Đan bì, Chi tử)

Chủ trị: Thuốc chữa về huyết đạo của phụ nữ, rối loạn kinh nguyệt thời kỳ mãn kinh, nóng rét bất thường, máu dồn lên mặt, vai gáy tê đau, mất ngủ, chân lạnh, tinh thần bất an, đổ mồ hôi, bí đại tiện, các chứng này có tính chất hư.

Huyệt Giao Tín

Giao Tín

Tên Huyệt Giao Tín:

Giao = mối quan hệ với nhau. Tín = chắc chắn. Kinh nguyệt đến đúng kỳ gọi là tín. Huyệt có tác dụng điều chỉnh kinh nguyệt đúng chu kỳ và làm cho chu kỳ kinh nguyệt trở lại bình thường, vì vậy, gọi là Giao Tín (Trung Y Cương Mục).

Tên Khác:

Nội Cân.

Xuất Xứ:

Giáp Ất Kinh.

Đặc Tính Huyệt Giao Tín:

Huyệt thứ 8 của kinh Thận.

Khích huyệt của Âm Kiều Mạch.

Vị Trí Huyệt Giao Tín:

Trên huyệt Thái Khê 2 thốn, trước huyệt Phục Lưu 0, 5 thốn, cạnh bờ sau trong xương chầy.

Giải Phẫu:

Dưới da là khe giữa gân cơ gấp dài ngón chân cái và gân cơ gấp dài các ngón chân, mặt sau đầu dưới xương chầy.

Thần kinh vận động cơ là các nhánh của dây thần kinh chầy sau.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh L4.

Chủ Trị Huyệt Giao Tín:

Trị kinh nguyệt rối loạn, băng lậu, tiêu chảy, táo bón, cẳng chân sưng đau.

Phối Huyệt:

1. Phối Đại Cự (Tỳ 27) + Khúc Cốt (Nh.2) + Trung Đô (C.6) trị chứng hồ sán [sán khí] (Tư Sinh Kinh).

2. Phối Âm Cốc (Th.10) + Tam Âm Giao (Tỳ 6) + Thái Xung (C.3) trị phụ nữ bị lậu huyết (Tư SinhKinh).

3. Phối Hội Dương (Bàng quang.35) trị phụ nữ bị rong kinh, tiểu khó (Bách Chứng Phú).

Cách châm Cứu:

Châm thẳng 1 – 2 thốn. Cứu 3 – 5 tráng, Ôn cứu 5 – 10 phút.

Tham Khảo:“Bệnh ở mạch Xương Dương gây đau thắt lưng lan đến cổ và ngực, nếu bệnh nặng kèm cảm giác xương sống như gãy, lưỡi cứng, nói khó, mắt mờ, phải châm huyệt Giao Tín và Nhiên Cốc (Thiên ‘Thích Yêu Thống – Tố vấn.41, 12).

Thận khí hư

Chứng Thận khí hư là tên gọi chung cho nguyên khí trong Thận hư suy nên xuất hiện các chứng trạng về công năng của Thận bị giảm sút; Bệnh phần nhiều do tiên thiên bất túc, lao tổn quá độ, ốm lâu liên lụy đến Thận gây nên.

Lâm sàng biểu hiện chủ yếu là thính lực giảm, tai ù, choáng váng, lưng gối yếu mỏi, ban đêm hay tiểu tiện, hoạt tinh tảo tiết, lưỡi nhợt rêu lưỡi trắng, mạch Tế Nhược.

Chứng Thận khí hư thường gặp trong các bệnh Nhĩ minh, Nhĩ lung, Hư lao, Yêu thống, Dương nuy, Di tinh, Huyễn vậng.

Cần chẩn đoán phân biệt với các chứng Thận dương hư, Thận khí không bền và chứng thận không nạp khí.

Phân tích

Chứng Thận khí hư khi xuất hiện trong bệnh Yêu thống, đặc điểm biểu hiện có chứng trạng lưng đau mỏi dai dẳng không dứt, gặp mệt nhọc thì bệnh tăng, đi nằm thì đỡ đau. Phần nhiều do những nhân tố ốm lâu, tuổi cao và phòng dục hư tổn dẫn đến Thận khí hư suy. Mục Mạch yếu tinh vi luận sách Tố Vấn nói: “lưng là phủ của Thận, nếu xoay chuyển khó khăn là Thận sắp suy bại”. Điều trị nên bổ Thận mạnh lưng, chọn dùng bài Thanh nga hoàn (Cục phương) hợp với Tả qui hoàn (Cảnh Nhạc toàn thư).

Nếu trong các bệnh Nhĩ minh, Nhĩ lung và Huyễn vậng xuất hiện chứng Thận khí hư, có thể thấy các chứng trạng tai ù, tai điếc, hoa mắt, chóng mặt, tinh thần uỷ mị, lưng yếu mỏi. Thận chủ về tai, Thận hư thì tinh không dâng lên cho nên thính lực giảm. Trương Cảnh Nhạc nói “không hư thì không gây chóng mặt”. Thận hư thì thủy suy mà Mộc chao đảo, cho nên chóng mặt; Điều trị nên bổ Thận bổ hư, chọn dùng bài Nhĩ lung tả từ hoàn (Tiểu nhi dược chứng trực quyết)hoặc Hữu qui hoàn (Cảnh Nhạc toàn thư).

Trong bệnh D xuất hiện chứng Thận khí hư, thấy các chứng trạng liệt dương, di tinh tảo tiết, sinh lý giảm sút, tinh thần mệt mỏi, tay chân yếu, choáng váng; Bệnh phần nhiều do buông thả tình dục, phòng lao hại Thận gây nên, chọn dùng các bài Ban long hoàn (Y thống phương) Kim toả cố tinh hoàn (Y phương tập giải).

Trong bệnh Hư lao xuất hiện chứng Thận khí hư, có các chứng trạng choáng đầu, ù tai, giảm thính lực, lưng gối mỏi, hay tiểu tiện về ban đêm; điều trị nên đại bổ nguyên khí, cho uống bài Hà sa đại tạo hoàn (Y phương tập giải).

Những loại tật bệnh nói ở trên tuy đều có thể xuất hiện trong chứng Thận khí hư, nhưng biểu hiện lâm sàng có nặng nhẹ khác nhau, nên phân tích kỹ.

Chẩn đoán phân biệt

Chứng Thận dương hư với chứng Thận khí hư, cả hai đều thuộc Thận hư, nhưng chứng Thận khí hư lệ thuộc vào thận dương hư. Chứng Thận dương hư là do Thận khí hư phát triển thêm một bước mà thành. Nguyên nhân bệnh của hai chứng cơ bản giống nhau, như tiên thiên phú bẩm không đầy dủ, hoặc tuổi cao Thận khí suy dần, hoặc ốm lâu dai dẳng liên lụy đến Thận, hoặc lao thương quá độ, Thận nguyên suy hao, cũng có cả những chứng trạng cộng đồng; như Thận chủ về tai, Thận hư thì ù tai, thính lực giảm; Lưng là phủ của Thận. Thận khí bất túc thì lưng gối mềm yếu. Thận quản lý đại tiểu tiện, Thận hư thì Bàng quang co thắt kém cho nên ban đêm tiểu tiện nhiều lần và di tinh. Hai chứng khác nhau ở chỗ chứng Thận khí hư còn chưa đạt đến mức độ thương dương, cho nên nói chung chưa xuất hiện Thận dương hư hàn như sợ lạnh, tay chân lạnh, sắc mặt trắng nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch Trì v.v… căn cứ vào đó mà phân biệt.

Chứng Thận khí không bền với chứng Thận khí hư, cả hai đều có cơ chế bệnh Thận khí hư, khác nhau là ở chỗ chứng Thận khí không bền là do nhân tố nội thương hoặc bị ốm lâu khiến cho Thận khí bị hại. Thận chủ khí hoá mà chứa tinh, Thận khí hư tổn thì mất chức năng khí hoá; Thận khí mất sự kín đáo thì âm tinh tiết ra ngoài. Vì Thận khí hư không đầy đủ, cho nên chất lưỡi nhạt, mạch Trầm Tế nhất là ở bộ Xích có mạch Nhược đột xuất. Sách Nhân trai trực chỉ phương có nói: “Thận với Bàng quang đều hư, khí ở trong không dồi dào cho nên trong Phù có hiện tượng Hoạt, bài tiết nhiều mà sắc mặt nhợt, vì thế mà hiện tượng âm hư xảy ra nhiều về ban đêm”. Lại nói: “Hạ tiêu hư hàn không đủ sức ấm để khống chế thủy dịch, cho nên tiểu tiện không tự chủ” có thể thấy chứng Thận khí không bền lấy chứng trạng ở Hạ tiêu làm chủ yếu, rất ít có chứng trạng thanh dương không thăng ở Thượng tiêu. Nhưng chứng Thận khí hư thì không thế, chẳng những có các chứng trạng Thận khí không bền như đêm đi tiểu tiện nhiều lần, hoạt tinh tảo tiết, mà còn có cả các chứng trạng Thận khí không đủ ấm nuôi dưỡng não tủy như choáng váng, ù tai, tai điếc. Có thể thấy khá rõ ràng chứng Thận khí không bền có các chứng trạng ở Hạ tiêu khá đột xuất và khá nặng.

Chứng Thận không nạp khí với chứng Thận khí hư: Chứng Thận không nạp khí phần nhiều do mệt nhọc tình dục hại Thận, hoặc là sau khi ốm nặng, Thận khí tản mác, hoặc ho suyễn lâu ngày, bệnh Phế liên lụy tới Thận. Thận chủ về nạp khí, nguyên khí của Thận bị tổn thương, khí mất sự nhiếp nạ thì thở vào không về tới gốc, khí nghịch dồn lên mà thành suyễn. Biểu hiện lâm sàng có đặc điểm chứng trạng suyễn thở đoản hơi, hơi thở không tiếp nối, thở ra nhiều, hút vào ít, động làm thì suyễn nặng, thậm chí vã mồ hôi, tay chân lạnh, mặt tái, môi tím tái. Cơ chế bệnh của chứng Thận khí hư giới hạn ở nguyên khí chính tạng Thận hư yếu gây bệnh, không có tình trạng nguyên khí mất sự thu nạp dồn lên Phế gây nên chứng trạng khái suyễn.

Trích dẫn y văn

Thận chứa tinh. Tinh hợp với chí. Thận khí “hư” thì Quyết, “thực” thì trướng (Bản thần – Linh Khu).

Khó đại, tiểu tiện, ăn uống như thường, lưng và chân nặng nề, rốn và bụng đau, xem mạch tay tả và hữu, trong bộ Xích có mạch Phục và sắc, đó là bên dưới “Thực”. Đại, tiểu tiện khó, ăn uống lúc khá lúc kém, lưng và chân nặng nề, như ngồi trong nước, đi lại khó khăn, khí xông lên trên, mộng mị nguy hiểm, khám mạch trong bộ Xích hai tay tả và hữu thấy Hoạt và Sác, đó là bên dưới “Hư” (Trung Tàng Kinh).

Chẩn đoán ung thư phế quản nguyên phát

  1. Đại cương

Ung thư phế quản là một trong số các ung thư phổ biến nhất trên thế giới hiện nay với tần suất ngày một tăng.

Các yếu tố nguy cơ: Thuốc lá, thuốc lào, amiant, bụi nghề nghiệp (tiếp xúc chrom, sắt, arsenic, nickel, silic, chloro- methyl- ether, các hydrocarbure thơm đa vòng, bức xạ ion hoá); ô nhiễm không khí, nhiễm vi rút HPV, EBV; sau lao phổi, bệnh sacoit…

  1. Chẩn đoán

Chẩn đoán xác định

Lâm sàng

  • Có giá trị định hướng chẩn đoán và chỉ định các xét nghiệm tiếp theo.
  • Đôi khi không có triệu chứng lâm sàng mà chỉ tình cờ phát hiện trên X- quang phổi.
  • Các triệu chứng có thể gặp:
    • Ho, khạc đờm lẫn máu.
    • Đau ngực, khó thở.
    • Gầy sút cân, sốt nhẹ, mệt mỏi.
    • Hội chứng nhiễm trùng phế quản phổi cấp: viêm phổi hoặc áp xe phổi có thể xuất hiện sau chỗ hẹp phế quản do
    • Các dấu hiệu liên quan với sự lan toả tại chỗ và vùng của u phổi.
  • Chèn ép tĩnh mạch chủ trên: nhức đầu, tím mặt, phù, tĩnh mạch cổ, tĩnh mạch dưới lưỡi nổi, tĩnh mạch bàng hệ phát triển.
  • Chèn ép thực quản: nuốt khó, vướng, nghẹn đặc, sặc lỏng.
  • Chèn ép thần
    • Thần kinh quặt ngược trái: nói khàn, mất giọng, giọng đôi.
    • Thần kinh giao cảm cổ: đồng tử co lại, khe mắt nhỏ, mắt lõm sâu làm mi mắt như sụp xuống, gò má đỏ bên tổn thương (hội chứng Claude- Bernard-Horner).
    • Thần kinh giao cảm lưng: tăng tiết mồ hôi một bên.
  • Thần kinh phế vị: hồi hộp, tim đập
  • Thần kinh hoành: nấc đau vùng cơ hoành, khó thở do liệt cơ hoà
  • Đám rối thần kinh cánh tay: đau vai lan ra mặt trong cánh tay, có rối loạn cảm giác (hội chứng Pancoast-Tobias).
  • Chèn ép ống ngực: gây tràn dưỡng chấp màng phổi.
  • Tổn thương tim: tràn dịch màng tim, rối loạn nhịp
  • Xâm lấn vào màng phổi, thành ngực: đau ngực, tràn dịch màng phổi.
  • Hạch thượng đòn.
    • Các hội chứng cận ung thư:
  • Đầu ngón chân, ngón tay hình dùi trống, hội chứng (HC) Pierre Marie hay xương khớp phì đại.
  • Các HC nội tiết: HC Schwartz-Barter, HC Cushing, tăng calci máu, vú to ở nam giới, 1 hoặc 2 bên, giọng cao, teo tinh hoàn, HC cận ung thư thần kinh tự miễn (HC Lambert-Eaton) bệnh cảnh giả nhược cơ, HC cận ung thư huyết học; HC cận ung thư da liễu: Acanthosis nigrican, viêm da cơ…, sốt kéo dà

Cn lâm sàng

  • X-quang phổi: Là xét nghiệm rất quan trọng và không thể thiếu trong chẩn đoán ung thư phế quản:
    • Hình ảnh trực tiếp: u bên phải gặp nhiều hơn bên trái, thường có đường kính trên 3 cm, bờ không rõ, có múi, có ít khi có vôi hoá, nếu có, thường lệch tâm. Khi hoại tử có thể có hình hang thành dày, bờ bên trong gồ nghề.
    • Gián tiếp do u chèn ép vào đường thở: hình ảnh khí cạm, xẹp phổi, viêm phổi dưới chít hẹp, hoặc chèn ép thần kinh hoành gây liệt hoà..
  • Chụp cắt lớp vi tính ngực: thấy rõ u phổi, hạch trung thất, có thể thấy u xâm lấn các thành phần ở lồng ngực, tràn dịch màng phổi, huỷ xương sườn, cột sống, xẹp phổi, hoặc tổn thương phổi kẽ.
  • Các kỹ thuật khác:
    • Thăm dò chức năng hô hấp: đánh giá khả năng phẫu thuật cắt bỏ thùy hoặc cả bên phổi có u.
    • Siêu âm ổ bụng: xem có di căn các tạng trong ổ bụn
    • Định lượng các dấu ấn ung thư: CEA 19-9, Cyfra 21-1, NSE (các dấu ấn ung thư chủ yếu có giá trị tiên lượng, ít có giá trị chẩn đoán xác định).

Các k thut ly bnh phm chn đoán tế bào học, mô bệnh học

Cho phép chẩn đoán xác định: lựa chọn kỹ thuật đảm bảo nguyên tắc là lợi ích chẩn đoán tối đa và tai biến tối thiểu.

  • Xét nghiệm đờm tìm tế bào lạ.
  • Chọc hút, sinh thiết hạch thượng đòn.
  • Chọc hút dịch màng phổi tìm tế bào ung thư, sinh thiết màng phổi.
  • Soi phế quản tìm tế bào ung thư trong dịch phế quản, sinh thiết u trong lòng khí phế quản.
  • Chọc hút, sinh thiết xuyên thành ngực u phổi để làm tế bào học, mô bệnh học.
    • Chẩn đoán phân biệt
  • Lao phổi: bệnh nhân có ho, sốt về chiề X-quang phổi thấy hình hang, thường kèm theo thâm nhiễm nhu mô phổi xung quanh. Xét nghiệm đờm, và/hoặc dịch phế quản thấy trực khuẩn kháng cồn, kháng toan, PCR-MTB dương tính.
  • Viêm phổi: cần chụp lại phim phổi 1 tháng sau khi dùng kháng sinh.
  • áp xe phổi: ho, sốt, đau ngực, khạc đờm mủ. X-quang phổi: thấy hình mức nước hơi với thành đều, nhẵn, đồng tâm. Có thể thấy hình ổ áp xe giữa vùng đông đặc phổi xung quanh (viêm phổi áp xe hóa). Không thấy hình hạch trung thất.
    • Phân loại ung thư phổi

Bảng 25.1: Bảng phân loại mô bệnh học các u phổi, năm 1999 của TCYTTG:

  1. Ung thư biểu mô dạng biểu bì.
  2. Ung thư biểu mô tế bào nhỏ.
  3. Ung thư biểu mô tuyến.
  4. Ung thư biểu mô tế bào lớn.
  5. Ung thư biểu mô tuyến -dạng biểu bì.
  6. Ung thư biểu mô với các thành phần đa hình thể,
  7. U
  8. Ung thư biểu mô dạng tuyến nước bọt.
  9. Ung thư biểu mô không xếp loại.

Bảng 25.2: Phân loại TNM của tổ chức y tế thế giới về ung thư phổi, 2009

* T: U nguyên phát

  • Tis: Ung thư tại chỗ.
  • To: Không thấy u nguyên phát.
  • T1: U có kích thuớc lớn nhất ≤3 cm, được bao quanh bởi nhu mô phổi hoặc lá tạng màng phổi, không xâm lấn vào phế quản thùy.

+ T1a: U ≤2 cm.

+ T1b: U > 2 cm nhưng ≤3 cm.

  • T2: U > 3 cm nhưng ≤7 cm hoặc u có bất kỳ một trong các dấu hiệu sau: Xâm lấn vào lá tạng màng phổi, Xâm lấn vào phế quản gốc, nhưng cách carinia ≤2 cm, xẹp/viêm phổi do tắc nghẽn có thể lan đến rốn phổi nhưng không gây xẹp toàn bộ phổi.

+ T2a: U > 3 cm nhưng ≤5 cm.

+ T2b: Khối u > 5 cm nhưng ≤7 cm.

  • T3: U > 7 cm hoặc có xâm lấn trực tiếp vào thành ngực, cơ hoành, thần kinh hoành, màng phổi trung thất hoặc lá thành màng Hoặc u trong phế quản gốc cách carina < 2 cm; hoặc xẹp /viêm phổi do tắc nghẽn toàn bộ một phổi, hoặc có một u hoặc nốt riêng biệt cùng thùy.
  • T4: U kích thước bất kỳ nhưng có xâm lấn vào tim, mạch máu lớn, khí quản, dây thần kinh quặt ngược, thực quản, cột sống hoặc Hoặc có u, nốt riêng biệt khác thùy cùng bên.
    • N: Hạch vùng
  • No: Không có di căn vào hạch vùng.
  • N1: Di căn hạch cạnh phế quản cùng bên và/hoặc hạch rốn phổi bao gồm cả sự xâm lấn trực tiếp của u phổi vào các hạch đó.
  • N2: Di căn đến hạch trung thất cùng bên và/hoặc hạch dưới
  • N3: Di căn hạch trung thất đối bên, hạch rốn phổi đối bên, hạch cơ bậc thang cùng bên hoặc đối bên hoặc hạch thượng đòn.
    • M: Di căn
  • Mo: Không có di căn
  • M1a: Có các khối riêng biệt ở một thùy đối bên. Hoặc u có các khối ở màng phổi hoặc có các tổn thương ác tính ở màng phổi.
  • M1b: Di căn
    • Xếp giai đoạn theo TNM

Bảng 25.3: Phân giai đoạn TNM ung thư phổi

TT Dưới nhóm N0 N1 N2 N3
1

T1

T1a T1b Ia Ia IIa IIa IIIa IIIa IIIb IIIb
T2 T2a T2b Ib IIa IIa IIb IIIa IIIa IIIb IIIb
T3 T3 IIb IIIa IIIa IIIb
T4 IIIa IIIb IIIb IIIb
M1 IV IV IV IV
  1. Điều trị

Điều trị triệu chứng (tham khảo thêm bài hướng dẫn điều trị triệu chứng ung thư phổi):

  • Ho khan: Terpin codein 4 – 6 viên/ngày, ho có đờm: dùng các thuốc long đờm chứa acetylcystein 200 mg x 3 lần/ngày.
  • Ho máu
  • Ho ra máu nhẹ: lượng máu ho khạc < 50 ml/ngày. Nằm nghỉ, ăn lỏng, dùng thuốc giảm ho, an thần thuốc ngủ nếu không có chống chỉ định (có dấu hiệu co thắt phế quản, suy hô hấp).
  • Ho máu mức độ trung bình: lượng máu ho khạc 50-200 ml/ngày:
  • Chăm sóc chung: như trên
  • Transamin 250 mg x 4 ống/ngày tiêm hoặc pha truyền tĩnh mạc
  • Morphin 10 mg tiêm dưới da hoặc tĩnh mạch (thận trọng khi có suy hô hấp mạn).
  • Dùng kháng sinh cho tất cả các trường hợp ho máu từ mức độ trung bình trở lên để phòng nhiễm khuẩn.
    • Ho ra máu nặng: lượng máu ho khạc 200 – 500 ml/ngày.
  • Chăm sóc chung, morphin, các thuốc co mạch: như trên.
  • Truyền dịch,  truyền  máu  bồi  phụ  khối  lượng  tuần  hoàn  nếu  cần (Hb < 8 g/dl, HA hạ).
    • Ho máu rất nặng > 500 ml/ngày (thường ít gặp trong ung thư phổi):
  • Các biện pháp điều trị như ho máu mức độ nặng.
  • Có thể xem xét chỉ định đặt nội khí quản để hút bỏ máu đọng, chụp và nút động mạch phế quản hoặc phẫu thuật cắt thùy hoặc cả bên phổ
    • Đau ngực: cho các loại giảm đau, theo phác đồ bậc thang:
      • Bậc 1: Các thuốc giảm đau không có morphin
    • Nhóm paracétamol 0,5 g – 1 g x4 lần/ngày.
    • Salicylic: Aspirin 0,25-1 g x 4 lần/ngày.
    • Các thuốc giảm đau chống viêm không corticoid:
      • Piroxicam 20 mg x 1 viên/lần x 2-3 lần/ngày.
      • Piroxicam 20 mg x 1 ống/lần (tiêm bắp) x 1-2 lần/ngày.
        • Bậc 2: Các thuốc dạng morphin nhẹ kết hợp với các thuốc khác:
      • Codein: 30 – 120 mg + paracetamol 500 mg: uống 4-6 giờ/lần.
      • Dextropropoxyphen: 50  –  100  mg  +  Paracétamol  500  mg:  uống  4-6 giờ/lầ
        • Bậc 3:
      • Chỉ định khi các thuốc khác không có tác dụng, dùng đường uống, tiêm dưới da hoặc tĩnh mạc Dùng thêm thuốc nhuận tràng như lactulose hoặc peristatin đề phòng táo bón.
  • Liều dùng tăng dần tuỳ theo đáp ứng của bệnh nhân. Liều 10 – 120 mg/ngày.
    • Khó thở:
      • Oxy qua ống mũi 1- 3 l/phút.
      • Corticoid: Depersolon 30 mg x 2 – 3 ống/ngày hoặc solumedrol 40 mg x 2- 3 ống/ngày qua đường tĩnh mạch khi u lớn, chèn ép khí phế quản lớn, tĩnh mạch chủ trên (kết hợp thuốc chống đông).
      • Thuốc giãn phế quản nếu có co thắt phế quản lan toả.

Ch đnh điu tr ung thư phi (tham khảo thêm bài hướng dẫn điều trị hóa chất và bài hướng dẫn xạ trị ung thư phổi)

  • Phu thut:

* Chỉ định cho những trường hợp:

  • Thể trạng chung của người bệnh còn tốt: ít đau và chưa có giảm cân nhiề
  • Chức năng hô hấp: FEV1 > 1 lí
  • Tổn thương khu trú: dựa theo phân giai đoạn TNM. Chỉ định phẫu thuật cho những trường hợp UTPKTBN ở giai đoạn I đến giai đoạn
  • Theo tế bào học: thường chỉ định phẫu thuật cho những ung thư phổi không tế bào nhỏ bao gồm các trường hợp:
  • Ung thư tế bào vẩy (squamous cell carcinoma – SCC).
  • Ung thư biểu mô tuyến (adenocarcinoma).
  • Ung thư tế bào lớn (large cell carcinoma).
    • Các trường hợp nêu trên thường chiếm khoảng 80% các ung thư phổi có chỉ định phẫu thuật
  • Ung thư tế bào nhỏ (small lung cancer) thường lan tỏa nhanh và di căn sớm, tại thời điểm phát hiện thường đã lan tỏa do vậy thường chỉ áp dụng hóa trị liệu và xạ trị liệu, ít khi có chỉ định phẫu thuật

* Chống chỉ định của phẫu thuật:

Giai đoạn IIIb, IV

Di căn xa: khi có biểu hiện di căn phổi bên đối diện, phổi khác thùy, gan, xương, não: chống chỉ định

Tràn dịch màng phổi ác tính: chỉ còn chỉ định nội soi gây dính màng phổi nhằm ngăn ngừa tràn dịch màng phổi tái phát.

Hội chứng chèn ép tĩnh mạch chủ trên: không nên phẫu thuật khi có dấu hiệu tĩnh mạch cổ nổi, cổ to hay phù áo khoác.

Hội chứng Claude Bernard Horners (xụp mi, nhãn cầu nhỏ, tụt về phía sau, nửa mặt đỏ).

Liệt dây thanh âm gây nói khàn

Liệt dây thần kinh hoành

Chèn ép, thâm nhiễm thực quản gây khó nuốt, nuốt nghẹn

Ung thư phổi tế bào nhỏ.

Các chống chỉ định khác: BPTNMT nặng, rối loạn đông máu, suy tim

Điều trị hóa chất: xem bài hướng dẫn điều trị hóa chất cho ung thư phổi.

Xạ tr ung thư phổi: xem bài hướng dẫn xạ trị ung thư phổi.

Tài liệu tham khảo

  1. Demetri G., Elias , Gershenson D., et al. (1996), “NCCN Small- Cell Lung Cancer Practice Guidelines, The National Comprehensive Cancer Network”, Oncology, 10 (11); pp.179-194.
  2. Detterbeck C., Boffa D.J., Tanoue L.T. (2009), “The New Lung Cancer Staging System”, Chest, 136; pp.260-271.
  3. Godlstraw , Crowley J., Chanskey K., et al. (2007), “The IASLC Lung Cancer Staging Project: proposals for the revision of the TNM stage groupings in the forthcoming (seventh) edition of the TNM Classification of malignant tumours”, J Thorac Oncol, 2 (8); pp.706-714.
  4. Leslie T., Bonomi P.D. (2004), “Novel treatments in non-small cell lung cancer”, Hematol Oncol Clin North Am, 18 (1); pp.245-267.
  5. Mason R.J. (2010), “Neoplasms of the Lung”, Murray and Nadels Textbook of Respiratory Medicine,5th ed, Saunders, Elsevier.
  6. Minna J.D., Schiller J.H. (2008), “Harrison’s Principles of Internal Medicine”, 17thed, McGraw-Hill, pp.551-562.

Thuốc Alkindi Sprinkle có tác dụng gì?

Alkindi Sprinkle (hydrocortisone) là gì và có tác dụng gì?

Alkindi Sprinkle chứa một loại thuốc gọi là hydrocortisone. Hydrocortisone thuộc nhóm thuốc được gọi là corticosteroid. Đây là một phiên bản tổng hợp của hormone cortisol. Cortisol được sản xuất tự nhiên bởi các tuyến thượng thận trong cơ thể.

Alkindi Sprinkle là một loại thuốc theo đơn chứa hydrocortisone, còn gọi là corticosteroid. Thuốc này được sử dụng để thay thế cortisol của cơ thể khi các tuyến thượng thận không sản xuất đủ (thiếu hụt thượng thận) ở trẻ em từ lúc sinh đến 17 tuổi nhằm điều trị tình trạng thiếu hụt thượng thận.

Tác dụng phụ của Alkindi Sprinkle là gì?

CẢNH BÁO

Alkindi Sprinkle có thể gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng, bao gồm:

  • Vấn đề về tuyến thượng thận. Không cung cấp đủ Alkindi Sprinkle hoặc ngừng sử dụng Alkindi Sprinkle có thể gây ra các vấn đề nghiêm trọng và đe dọa tính mạng đối với tuyến thượng thận, bao gồm cả tử vong. Không ngừng cho trẻ dùng Alkindi Sprinkle mà không có lời khuyên từ bác sĩ. Hãy cho bác sĩ biết nếu trẻ có bất kỳ triệu chứng nào sau đây:
    • Mất cảm giác thèm ăn
    • Mệt mỏi
    • Yếu sức
    • Đau khớp
    • Buồn nôn
    • Nôn mửa
    • Đường huyết thấp
    • Cảm thấy nhẹ đầu hoặc chóng mặt
    • Mất nước

Bác sĩ sẽ điều chỉnh liều lượng tùy thuộc vào kích thước của trẻ. Trong các trường hợp nhiễm trùng cấp tính, phẫu thuật hoặc chấn thương lớn, bác sĩ có thể khuyên tăng liều Alkindi Sprinkle hoặc sử dụng các dạng corticosteroid tiêm thay thế.

  • Nguy cơ nhiễm trùng. Sử dụng quá nhiều Alkindi Sprinkle có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng. Hãy cho bác sĩ biết nếu trẻ có bất kỳ triệu chứng nào sau đây:
    • Sốt
    • Ho
    • Triệu chứng giống cúm
    • Đau bụng
    • Tiêu chảy
  • Tăng trưởng chậm ở trẻ em. Sử dụng quá nhiều Alkindi Sprinkle và sử dụng lâu dài có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ. Hãy cho bác sĩ biết nếu bạn lo lắng về sự phát triển của trẻ. Bác sĩ sẽ điều chỉnh liều lượng tùy thuộc vào kích thước của trẻ.
  • Hội chứng Cushing. Sử dụng quá nhiều Alkindi Sprinkle và sử dụng lâu dài có thể gây ra hội chứng Cushing. Hãy cho bác sĩ biết nếu trẻ có bất kỳ triệu chứng nào sau đây:
    • Tăng cân
    • Tăng trưởng chiều cao chậm
    • Đường huyết cao
    • Huyết áp cao
    • Sưng phù
    • Dễ bầm tím
    • Yếu cơ
    • Khuôn mặt tròn, đỏ
    • Cảm thấy trầm cảm
    • Thay đổi tâm trạng

Xương yếu, giòn hoặc mềm

Alkindi Sprinkle có thể ảnh hưởng đến xương của trẻ. Bác sĩ sẽ điều chỉnh liều lượng tùy thuộc vào kích thước của trẻ và sẽ theo dõi sự phát triển cũng như tình trạng xương của trẻ.

Thay đổi hành vi

Hành vi của trẻ có thể thay đổi sau khi bắt đầu hoặc trong quá trình điều trị bằng Alkindi Sprinkle. Hãy cho bác sĩ biết ngay nếu trẻ có bất kỳ thay đổi nào về hành vi, bao gồm:

  • Cảm giác hạnh phúc và phấn khích mạnh mẽ.
  • Vui vẻ quá mức và hoạt động quá mức.
  • Mất liên lạc với thực tế, có cảm giác không thực và nhầm lẫn tinh thần.
  • Trầm cảm.

Vấn đề về thị lực

Hãy cho bác sĩ biết nếu trẻ có triệu chứng mờ mắt hoặc các vấn đề về thị lực khác trong quá trình điều trị bằng Alkindi Sprinkle. Bác sĩ có thể yêu cầu trẻ đi khám bác sĩ mắt.

Vấn đề tiêu hóa

Alkindi Sprinkle có thể ảnh hưởng đến dạ dày hoặc ruột của trẻ. Hãy cho bác sĩ biết nếu trẻ có các bệnh lý tiêu hóa như loét dạ dày hoặc ruột, nhiễm trùng, hoặc đã từng phẫu thuật tiêu hóa.

Tác dụng phụ phổ biến nhất của Alkindi Sprinkle bao gồm:

  • Giữ nước trong cơ thể
  • Thay đổi hành vi và tâm trạng
  • Thay đổi khả năng dung nạp glucose
  • Tăng cảm giác thèm ăn và tăng cân
  • Tăng huyết áp

Đây không phải là tất cả các tác dụng phụ có thể xảy ra của Alkindi Sprinkle. Hãy gọi cho bác sĩ để nhận lời khuyên y tế về các tác dụng phụ.

Liều lượng cho Alkindi Sprinkle là gì?

Cần cá nhân hóa liều lượng cho từng bệnh nhân, sử dụng liều thấp nhất có thể. Liều bắt đầu thay thế được khuyến nghị là từ 8 đến 10 mg/m²/ngày. Liều cao hơn có thể cần thiết dựa trên tuổi của bệnh nhân và các triệu chứng của bệnh. Việc sử dụng liều bắt đầu thấp hơn có thể đủ cho những bệnh nhân còn sản xuất cortisol nội sinh nhưng đã giảm. Làm tròn liều đến 0,5 mg hoặc 1 mg gần nhất. Có thể cần nhiều hơn một viên nang để cung cấp liều cần thiết. Chia tổng liều hàng ngày thành 3 liều và dùng 3 lần mỗi ngày. Bệnh nhân nhi lớn tuổi có thể chia liều hàng ngày thành 2 liều và dùng hai lần mỗi ngày. Theo dõi bệnh nhân về các triệu chứng của việc điều trị quá ít và/hoặc điều trị quá nhiều, bao gồm các dấu hiệu và triệu chứng của thiếu hụt vỏ thượng thận, tăng trưởng chiều dài và tăng cân. Điều chỉnh liều lượng cho phù hợp. Trong các trường hợp bệnh sốt cấp tính, viêm dạ dày ruột, phẫu thuật hoặc chấn thương lớn, bệnh nhân có thể cần liều tăng lên.

Chuyển đổi từ các dạng hydrocortisone uống khác sang Alkindi Sprinkle

Khi chuyển bệnh nhân từ các dạng hydrocortisone uống khác sang Alkindi Sprinkle, sử dụng cùng tổng liều hydrocortisone hàng ngày. Theo dõi chặt chẽ bệnh nhân sau khi chuyển sang Alkindi Sprinkle để phát hiện các triệu chứng thiếu hụt vỏ thượng thận. Nếu có triệu chứng thiếu hụt thượng thận xảy ra sau khi chuyển đổi, hãy tăng tổng liều hàng ngày của Alkindi Sprinkle.

Hướng dẫn sử dụng

  • Alkindi Sprinkle là các hạt uống được chứa trong viên nang.
  • Không nuốt viên nang. Không nhai hoặc nghiền nát các hạt.
  • Không sử dụng hạt Alkindi Sprinkle trong ống thông mũi dạ dày hoặc ống dạ dày vì chúng có thể gây tắc nghẽn ống.
  • Mở viên nang và cho các hạt như sau:
    • Giữ viên nang sao cho sức mạnh in lên trên và gõ nhẹ để đảm bảo tất cả các hạt nằm ở nửa dưới của viên nang.

Bóp nhẹ phần dưới của viên nang và vặn để tháo phần trên của viên nang.

Các hạt có thể được cho vào miệng bằng cách đổ trực tiếp lên lưỡi của bệnh nhân, đổ hạt lên một thìa và đặt vào miệng bệnh nhân, hoặc rắc lên một thìa thực phẩm mềm lạnh hoặc ở nhiệt độ phòng (như sữa chua hoặc puree trái cây). Các hạt nên được dùng và nuốt trong vòng 5 phút để tránh vị đắng, vì lớp bọc che vị bên ngoài có thể tan.

Gõ nhẹ viên nang để đảm bảo tất cả các hạt đã được lấy ra. Tránh làm ướt viên nang bằng lưỡi hoặc thực phẩm mềm vì điều này có thể dẫn đến việc hạt còn lại trong viên nang.

Ngay sau khi sử dụng, hãy cho bệnh nhân uống chất lỏng như nước, sữa, sữa mẹ hoặc sữa công thức để đảm bảo tất cả các hạt được nuốt hết.

Không thêm các hạt vào chất lỏng vì điều này có thể dẫn đến giảm liều lượng được dùng và có thể gây vị đắng.

Hãy hướng dẫn bệnh nhân và/hoặc người chăm sóc liên hệ với bác sĩ nếu không thể dùng đủ liều (ví dụ: bị nôn hoặc trào ngược các hạt). Có thể cần phải dùng liều lặp lại để tránh thiếu hụt vỏ thượng thận.

Các loại thuốc nào tương tác với Alkindi Sprinkle?

Hãy cho bác sĩ biết về tất cả các loại thuốc mà trẻ đang dùng, bao gồm cả thuốc theo toa và thuốc không kê đơn, vitamin và thực phẩm chức năng thảo dược.

Một số loại thuốc, thực phẩm và đồ uống có thể ảnh hưởng đến cách mà Alkindi Sprinkle hoạt động và có thể yêu cầu bác sĩ điều chỉnh liều lượng của Alkindi Sprinkle cho trẻ.

Đặc biệt hãy cho bác sĩ biết nếu trẻ:

  • Dùng các loại thuốc điều trị nhiễm nấm như itraconazole, posaconazole và voriconazole.
  • Dùng các loại thuốc điều trị nhiễm khuẩn như rifampicin, rifabutin, erythromycin và clarithromycin.
  • Dùng các loại thuốc điều trị nhiễm virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV) và AIDS như ritonavir, efavirenz và nevirapine.
  • Dùng thuốc điều trị động kinh như phenytoin, carbamazepine, oxcarbazepine, phenobarbital và primidone.
  • Dùng estrogen.
  • Dùng warfarin.
  • Dùng thuốc kháng viêm không steroid như aspirin, ibuprofen.
  • Dùng cyclosporine.
  • Dùng thuốc điều trị tiểu đường.
  • Uống nước ép bưởi.

Biết các loại thuốc mà trẻ đang dùng. Giữ một danh sách các thuốc này để cho bác sĩ và dược sĩ xem khi trẻ bắt đầu dùng thuốc mới.

Thai kỳ và cho con bú

Chưa biết liệu Alkindi Sprinkle có gây hại cho thai nhi của trẻ hay không. Hãy nói chuyện với bác sĩ của trẻ nếu trẻ đang mang thai hoặc có kế hoạch mang thai, hoặc đang cho con bú hoặc có kế hoạch cho con bú. Chưa biết liệu Alkindi Sprinkle có đi vào sữa mẹ hay không. Bạn và bác sĩ của trẻ nên quyết định liệu trẻ có nhận Alkindi Sprinkle trong khi đang cho con bú hay không.

Tóm tắt

Alkindi Sprinkle (hydrocortisone) là một phiên bản tổng hợp của cortisol, một hormone được tiết ra bởi tuyến thượng thận giúp điều chỉnh phản ứng căng thẳng và các chức năng khác. Alkindi Sprinkle dành cho những người từ 17 tuổi trở xuống bị thiếu hụt vỏ thượng thận.

Hội chứng Tietze (hội chứng sụn-sườn, viêm sụn-sườn)

Tên khác: hội chứng sụn-sườn, viêm sụn-sườn. Căn nguyên: chưa biết. Triệu chứng: Sưng đau ở các khớp sụn-sườn trên cùng, với khởi phát âm ỉ, đau có thể lan lên vai, cổ, lan xuống cánh tay, đôi khi đau tăng lên khi ho, hắt hơi, hoặc thở sâu. Bệnh nhân không bị sốt, lớp da phủ bên ngoài khớp bình thường, tốc độ máu lắng bình thường. Bệnh khỏi tự phát trong vài tuần.

Chẩn đoán phân biệt với những bệnh sau

  • Những bệnh của nội tạng: bệnh động mạch vành, viêm màng phổi.
  • Những bệnh tại chỗ: hội chứng đau mũi ức (chèn ép mũi ức gây ra đau ở thành ngực trước và vùng thượng vị).
  • Hội chứng Pelford: đau ở điểm tiếp nối giữa các sụn sườn và các xương sườn thứ 7 tới 10, sau khi thực hiện những động tác cơ quá mạnh.

Điều trị: aspirin, paracetamol, phong bế corticoid tại chỗ.

Các Vitamin trong điều trị

Vitamin A (Retinol)

A313 ® (Pharmadevelopment) Arouit ® (Roche)

Avibon 0 (Théraplix)

Vitamin A Dulcis (Allergan) [MỠ mắt]

Vitamin A (Faure) [nhỏ mắt]

Cùng tên: axerophtol

Tính chất: vitamin tan trong mỗ có tác dụng chống bệnh khô mắt và chống sừng hoá da. Nhu cầu hằng ngày ước tính là 3000 UI.

Tương dương: 1 UI = 0,33μg

Chỉ định

Thiếu vitamin A: nồng độ trong huyết tương < 10pg/100ml (bình thường là 30-60|ig/100ml)

Thiếu trầm trọng gặp ở các nước còn có suy dinh dưỡng, khi kém hấp thu do rối loạn hấp thu mỡ; thiếu vitamin A không chỉ gây khô mắt (một nguyên nhân chính của mù) mà còn chậm lớn, chậm phát triển về trí tuệ, dị dạng xương và dễ nhiễm trùng.

Trong thiếu vitamin A, không đủ tiết dịch nhày và biểu mô bị keratin hoá, từ đó xuất hiện những biến chứng nguy hiểm khi bị bệnh sởi, đó cũng là một trong các nguyên nhân tử vong chính tại các nước đang phát triển.

Khô mắt: teo và khô giác mạc; các vết Bitot (tổn thương bề mặt giác mạc màu trắng hay xám)

Quáng gà: giảm thích ứng với bóng tối (mù lúc hoàng hôn)

Các dấu hiệu về da và niêm mạc: da và niêm mạc khô, các đám dát sừng hoá.

ở các nước công nghiệp hoá, phải nghĩ đến thiếu vitamin A trong các hội chứng kém hấp thu và bệnh ỉa chảy phân mỡ không phải thể nhiệt đói, khi điều trị cường cholesterol máu bằng cholestyramin hay khi dùng dầu paraíln vì nó làm giảm hấp thu vitamin A.

Liều dùng

Thiếu vừa phải: 5.000 – 10.000 Ul/ngày, trong vài tuần.

Thiếu trầm trọng, khô mắt (ở các nước đang phát triển): liều duy nhất 200.000 UI (66mg), không được nhắc lại trước 4 tháng.

Thận trọng

Không nên tự dùng thuốc do nguy cơ quá liều vitamin A; ở phụ nữ có thai hay trong tuổi sinh đẻ dùng liều cao của vitamin A có nguy cơ gây dị hình thai.

Chống chỉ định

Có thai: tác dụng gây quái thai ở liều cao (> l0000UI/ngày)

Cho con bú: nguy cơ ngộ độc ở nhũ nhi.

Quá liều: xem mục thừa vitamin A

Tương tác: với các carotenoid hay retinoid (nguy cơ thừa vitamin A)

Vitamin B1 (thiamin)

Bénerva © (Roche)

Bévitine © (Specia)

Cùng tên: aneurin

Tính chất: thiamin là một vitamin tan trong nước, khi thiếu vitamin này sẽ dẫn đến viêm đa dây thần kinh và các rối loạn về thần kinh; bệnh beri – beri là tên gọi chính của bệnh thiếu thiamin.

Tương đương: 1 UI = 3pg

Chỉ định

Điều trị bệnh thiếu vitamin Bl: bệnh beri – beri, viêm đa dây thần kinh do rượu, bệnh não Wernicke và hội chứng Korsakoff (đường tiêm)

Bệnh não Wernicke có thể là cấp tính hoặc bán cấp, và do dùng thừa glucid nhưng thiếu thiamin; người ta nhận xét thấy không chỉ ở người nghiện rượu mà cả ở nữ giới bị nôn khi có thai, trong chán ăn do tâm thần, và d những người đói lả nhưng chỉ cho ăn hydrat carbon mà không có thiamin.

Dự phòng thiếu thiamin trong nuôi dưỡng theo đường tiêm trong các chế độ ăn kiêng khem, nghiện rượu và hội chứng kém hấp thu.

Liều dùng

Theo đường uống

Liều điều trị: 10-20mg/ngày

Liều dự phòng: 2-3mg/ngày Theo đường tĩnh mạch

Theo dõi y tế nghiêm ngặt: 100mg/ngày khi thiếu trầm trọng

Chống chỉ định

Đã bị mẫn cảm với thiamin Tác dụng phụ

Rất hiếm thấy dị ứng

Hạ huyết áp động mạch đột ngột

Có thể bị sôc phản vệ khi tiêm tĩnh mạch

THUỐC TƯƠNG TỰ

Acetiamin

Algo – Névriton ® (Sciencex)

[+ aspirin]

Nên dùng cho các cơn đau do thấp khớp, đau do thần kinh, viêm đa dây thần kinh trong zona và nghiện rượu (hiệu quả không chắc chắn trừ với tình trạng thiếu thiamin)

Vitamin B2 (Riboflavin)

Beflavine ® (Roche)

Cùng tên: lactoflavin, vitaflavin

Tính chất: vitamin tan trong nước, có mặt trong nhiều loại men, được dùng trong bệnh thiếu riboflavin

Chỉ định: (thiếu riboflavin)

Tổn thương của mắt: sợ ánh sáng, cảm giác sạn trong mắt, viêm kết mạc

Tổn thương da: nẻ kẽ môi (chốc mép), viêm lưỡi, da tróc vảy mảnh, bong da quanh lỗ mũi.

Liều dùng

Người lớn: 10-40mg/ngày

Trẻ em: 10-20mg/ngày Tác dụng phụ

Đau tại chỗ tiêm

Nước tiểu màu vàng Vitamin B5 (Dexpanthenol)

Bépanthène ® (Roche)

Acid panthotenic là một thành phần của acetycoenzym A; được khuyên dùng cho chứng rụng tóc, các rối loạn về tạo móng và chuột rút khi có thai (hiệu quả cần khắng định thêm)

Liều dùng: 50-500mg bằng đường uống, tiêm dưới da hay tiêm bắp.

Vitamin B6 (Pyridoxin)

Bécilan ® (Specia)

Pyridoxin – tên thông dụng Vitamin B6 (Richard)

Tính chất: vitamin B6 tan trong nước, tác dụng như một coenzym trong nhiều phản ứng của men; nhu cầu hàng ngày là 2mg.

Chỉ định: thiếu pyridoxin luôn phối hợp với thiếu các chất khác trong

hội chứng suy dinh dưỡng và nghiện rượu; không có hình ảnh lâm sàng đặc hiệu của thiếu riêng pyridoxin; tình trạng này có trong các điều kiện rất khác nhau với các kết quả không chắc chắn; nó có thể có lợi trong một số dị thường di truyền về chuyển hoá (như homocystin niệu), trong bệnh lý về thần kinh do các thuốc đối vận của pyridoxin (isoniazid, cycloserin, hydralazin,       dihydralazin, penicillamin) và trong thiếu máu nguyên bào hồng cầu do thiếu sắt nhạy với pyridoxin.

Nên bôi tại chỗ (mỡ, thuốc nước): trong các bệnh tăng tiết bã nhờn ở mặt và da đầu (hiệu quả còn phải khẳng định thêm)

Liều dùng

Thiếu nhiều loại: 10-20mg/ngày, phối hợp với các vitamin khác

Thiếu do các thuốc đôi vận pyridoxin: uống 50-200mg/ngày.

Homocystin niệu: uống 500mg/ngày (tới 1200mg)

Thiếu máu nguyên hồng cầu do thiếu sắt: tiêm tĩnh mạch 50- 200mg/ngày

Tác dụng phụ: bệnh lý về thần kinh cảm giác với hiện tượng tê đầu chi ban đêm, được nhận thấy khi dùng liều trên 0,5g/ngày.

Tường tác: tránh dùng pyridoxin cho người bệnh điều trị với riêng levodopa mà không dùng chất ức chế decarboxylase.

Vitamin B12

HYDROXOCOBALAMIN

Cyanokit ® (Lipha Santé)

Dodécavit ® (L’Arguenon)

Hydroxo 5000 ®(Lipha Santé)

CYANOCOBALAMIN

Vitamin B12 (Aguettant)

Vitamin B12 mille Delagrange (Synthélabo)

Vitamin B12 Dulcis (Allergan) Vitamin B12 (Gerda)

Vitamin B12 Lavoisier (Chaíx et Du Marais)

Chỉ định

Thiếu hấp thu vitamin B12: thiếu máu nhược sắc (bệnh Biermer do thiếu yếu tố nội tại của dạ dày) và các thiếu máu khác do thiếu vitamin B12 (cắt dạ dày, kém hấp thu hồi tràng trong bệnh ỉa chảy mõ, chứng phân mỡ, hội chứng quai chột, bệnh sán bothriocephalus).

Thiếu cung cấp vitamin B12: ở các nước công nghiệp, chỉ ở người kiêng thực phẩm động vật.

Xơ cứng bán cấp phối hợp ở tuỷ (hội chứng thần kinh – thiếu máu)

Chẩn đoán thiếu máu ác tính (thử nghiệm Schilling)

Giảm thị lực do thuốc lá: những cải thiện đã được xác nhận

Các chỉ định không có bằng chứng hiệu quả: vitamin B12 hay được khuyên dùng như “thuốc bổ” hay “giảm đau” trong các bệnh lý thần kinh gây đau (viêm dây thần kinh, viêm đa dây thần kinh, cơn đau thần kinh, v.v…)

Liều dùng: (hydroxocobalamin tiêm bắp thịt)

Thiếu máu ác tính không có hội chứng bệnh lý thần kinh: ở người lớn, 100pg (0,lmg) dùng 1-3 lần/tuần cho tới khi cải thiện các dấu hiệu lâm sàng và huyết học; liều duy trì cả đòi là 100pg mỗi tháng hay 1000pg mỗi quý. Đường uống không có hiệu quả.

Thiếu máu cấp tính với các hội chứng về thần kinh: 1000pg (lmg) mỗi ngày tới khi hết các triệu chứng hay trong 1 tháng nếu không có cải thiện (điều trị quá chậm)

Những liều cao hơn, ví dụ như 5 tới 20mg cách 2-3 ngày đã được dùng trong các bệnh lý thần kinh gây đau (tác dụng còn phải khẳng định thêm)

Nhu cầu thường ngày về vitamin B12 là 3pg ở người lớn và trẻ niên thiếu và 4pg khi cho con bú và có thai.

Thận trọng: không được cho vitamin B12 trước khi xác lập chẩn đoán chính xác thiếu máu cấp hay thiếu vitamin B12 (nồng độ trong huyết tương bình thường là 147- 627pmol/lit; khi thiếu là dưới 35pmol/lit); thật vậy, dùng bừa bãi làm rối các dấu hiệu huyết học và làm cho chẩn đoán bệnh Biermer sau này khó khăn.

Tác dụng phụ

Các phản ứng dị ứng: mẩn ngứa, mày đay, có thể bị sốc phản vệ.

Đau tại chỗ tiêm.

Nhuộm đỏ nước tiểu

Nguy cơ bị trứng cá khi điều trị kéo dài.

Không có các biểu hiện đặc hiệu của quá liều.

Cobamamid

Cobanzyme ® (L’Arguenon). Dibencozan Fort ® (Houdé) Indusil T ® (Diamant)

Paxom ® (Centrapharm)

Cùng tên: coenzym B12

Cobamamid đã được khuyên dùng như một “thuốc giảm đau” trong các viêm thần kinh gây đau đớn, nhất là các bệnh lý dây thần kinh, viêm đa dây thần kinh, v.v. (hiệu quả cần khẳng dinh thêm)

Acid folic

Speciafoldine ® (Specia)

Cùng tên: acid pteroyl glutamic, vitamin B9

Tính chất: acid folic tham gia với vitamin B12 vào việc tổng hợp acid nucleic của hồng cầu. Nhu cầu hàng ngày về acid folic là 200-400pg. Việc dùng thường kỳ acid folic trong điều trị thiếu máu phải bị cấm do nó có thể che mất các dấu hiệu của thiếu máu ác tính bằng cải thiện các dấu hiệu về huyết học nhưng không bảo vệ người bệnh với tiến triển của hội chứng thần kinh. Chỉ được dùng cho phụ nữ có thai khi chứng minh được có thiếu.

Chỉ định: chữa thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ do thiếu acid folic; các chất bổ sung acid folic cho dùng trong thời tiền thụ tinh sẽ làm giảm nguy cơ bị khuyết tật ống thần kinh (tật nứt đốt sống, quái tượng không đầu).

Liếu dùng: uống 5-20mg/ngày (trong 3-4 tháng trong khi theo dõi đáp ứng tạo hồng cầu. Người ta khuyên liều thường nhật 0,4mg cho mọi phụ nữ mong muốn có thai từ một tháng trước và sau đó một tháng).

Chống chỉ định: thiếu máu ác tính; thật vậy, acid folic cho dùng đơn độc làm cải thiện thiếu máu nhưng không ngăn hội chứng thần kinh, thiếu máu liên quan đến thiếu vitamin B12 bị nặng thêm.

Tác dụng phụ: mẩn da

Tương tác: với methotrexat (tránh phối hợp); với pyrimethamin, trimetroprim và acid valproic (đối vận)

Acid folinic

FOLINAT CALCI

Elvorine ® (Lederle) [quay trái] Folinat calci – tên thông dụng Folinoral ® (Thérabel Lucien) Lederfoline ® (Lederle)

Osfolate ® (Asta)

Per folate ® (Asta)

Cùng tên:      leucovorin, yếu tố citrovorum

Tính chất:      trong cơ thể bình

thường, acid folinic tăng cường khử acid folic với sự có mặt của một men (khử dihidrofolat); nó gần như chuyển hoá hoàn toàn trong gan. Được dùng như một thuốc chống thiếu máu trong một số bệnh thiếu máu hồng cầu khổng lồ liên quan đến ức chế men khử dihydrofolat và như một thuốc giải độc các tác nhân kháng folinic (nhất là methotrexat).

Tai nạn quá liều methotrexat và các tác nhân kháng folinic khác: truyền tĩnh mạch một liều ban đầu có thể tới 75mg trong 12 giờ đầu, tiếp theo là 10mg cách 4 giờ bằng tiêm tĩnh mạch trong ít nhất    24        giờ       (tối       được 200mg/ngày). Việc điều trị chỉ có hiệu quả nếu tiến hành sớm.

Đề phòng các tai biến ngộ độc do methotrexat liều cao gây nên: 10-25mg/m2 theo đường uống cách quãng 6 giờ trong 72 giờ; việc cho dùng phải bắt đầu sau khi truyền methotrexat (khoảng cách không quá 24 giờ).

Cộng  hợp tác dụng của fluorouracil trong điều trị các ung thư đại tràng – trực tràng: folinat     calci     được cho trước fluorouracil trong tiêm tĩnh mach chậm hay truyền tĩnh mạch tuỳ theo phác đồ.

Sự phối hợp của folinat calci với methotrexat hay các kháng folic khác có vẻ đúng trong điều trị ung thư xương.

Thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ do điều trị (do pyrimethamin, trimethroprim, triamteren, phenytoin): uống 5- 15mg/ngày.

Dự phòng thiếu acid folic khi điều trị kéo dài với liều cao pyrimethamin: 3-5mg X 2 lần mỗi tuần.

Thuốc này không được dùng trong thiếu máu hồng cầu khổng lồ do thiếu acid folic đang được điều trị bằng acid folic theo đường uống.

Chống chỉ định: thiếu máu ác tính (cho dùng đơn lẻ, làm cải thiện thiếu máu nhưng không ngăn bị nặng thêm sau đó hội chứng thần kinh – thiếu máu do thiếu vitamin B12)

Ghi chú: các kháng folic được dùng trong hoá trị liệu ung thư và pyrimethamin ức chế chuyển acid folic thành acid folinic nhưng sự tương thích của nó với men khử folat lại cao hơn acid folic. Do vậy, ngay cả khi cho dùng liều cao acid folic, nó cũng không được chuyển thành acid folinic.

Vitamin C (Acid ascorbic)

ACID VÀ MUỐN NATRI

Laroscobine © (Roche)

Midy vitamin c (Smith-Kline Beecham)

Vitamin c (Aguettant)

Vitamin c Arkovital (Arkopharma)

Vitamin c (Faure)

Vitamin c (Inarva)

Vitamin c (Oberlin)

Vitamin c (P. Fabre)

Vitamin c (Upsa)

Vitascorbol © (Théraplix)

Tính chất: vitamin tan trong nước, có trong các quả (char.h, cam, cà chua v.v.) và trong thịt tươi, có tác dụng chống bệnh scorbut. Nhu cầu thường ngày 60mg.

Chỉ định

– Bệnh Scorbut ở trẻ em hay bệnh Barlow

Scorbut ở người lớn: chế độ ăn không đủ chất, những người chỉ ăn đồ hộp, ỉa chảy mạn tính hay bệnh ỉa chảy phân mõ.

Methemoglobin huyết, nước tiểu toan hoá, như một phụ gia cho deferoxamin trong ngộ độc sắt.

Liều dùng

Ớ trẻ nhủ nhi

Khi thiếu: 50 mg X 3-4 lần mỗi ngày

Dự phòng: 25mg mỗi ngày từ tuần thứ 2-3 tới 3 tháng tuổi

ở người lớn.

Dự phòng các tình trạng thiếu: 10-15mg/ngày, uống.

Methemoglobin: 500-1000mg mỗi ngày theo đường uống, tiêm tĩnh mạch hay tiêm bắp cho tối khi cải thiện các hội chứng (tối 3g/ngày)

Chống chỉ định: sỏi thận và oxalat niệu.

Tác dụng phụ: với liều trên lg/ngày tạo thuận lợi tạo sỏi oxalic và uric, có thể gây tan huyết khi thiếu G6PD.

Vitamin D2 (Ergocalciferol)

Stérogyl © (Roussel)

Uvestérol D ® (Crinex)

Zyma – D2 © (Zyma)

Cùng tên: ergosterol hoạt hoá, calciferol

Chỉ định: thuốc được dùng để phòng và điều trị thiếu vitamin D (còi xương, nhuyễn xương v.v.)

Dự phòng còi xương: ở nhũ nhi tới 18 tháng, cho dùng 400 UI/ngày

Dự phòng thiếu vitamin D và nhuyễn xương ở người lớn có nguy cơ (người có tuổi hay bất động, phụ nữ có thai hay cho con bú, khi kém hấp thu ở ruột do một số tổn thương về mật; điều trị chống động kinh, bệnh lý ruột liên quan gluten v.v.):        400

Ul/ngày hay 300.000 UI cách 6 tháng.

Chữa còi xương ở trẻ em: 4.000 –

Ui/ngày trong 3 tuần hay

UI rồi sang liều dự phòng

Chữa nhuyễn xương ở người lớn:

– 20.000 Ul/ngày hay

UI cách quãng 2 tuần cho tới khi khỏi về lâm sàng hay nồng độ calci và phosphat trong máu trở lại bình thường; theo dõi calci niệu để tránh quá liều.

Những người thường xuyên ra nắng không cần bù vitamin D

Vitamin D không dùng trong bệnh loãng xương, cường vitamin D làm tăng calci huyết và tăng tái hấp thu của xương

Thận trọng

Trong điều trị kéo dài và/hay với liều cao, theo dõi nồng độ calci trong máu và nước tiểu. Ngừng điều trị nếu có calci niệu là > 300mg/24 giờ è người lớn và là > 5mg/24 giờ ở trẻ em hay calci trong máu > 105mg/lit

Có thai và cho con bú: tránh liều cao (trên 400UI/ngày)

Chống chỉ định

Đã bị mẫn cảm với vitamin D

Cường calci huyết > 105mg/lit và/hay cường calci niệu trên 300mg/24 giờ

Bất động dài ngày.

Sỏi calci tiết niệu

Cường phó giáp trạng với viêm xương xơ nang

Tác dụng phụ

Nhũ nhi rất nhạy cảm với vitamin D và liều trên 400 UI mỗi ngày có thể gây ra cường calci huyết.

Quá liều: cho dùng liều cao kéo dài có nguy cơ thừa vitamin D, biểu hiện bằng cường calci niệu về lâm sàng là chán ăn, nôn và gầy sút, khát nước và đa niệu; ở mức nặng, bị suy thận gây ure calci hoá di căn có thể xuất hiện. Trong các trường hợp này nên dùng calcitonin hay corticoid trị liệu (làm giảm hấp thu calci ở ruột), cho uống nhiều nước, íurosemid và một chế độ ăn nghèo calci.

Vitamin D3 (Colecalciferol)

Adrigyl ® (Doms – Adrian)

Uvédose ® (Crinex)

Vitamin D3 Bon (Doms – Adrian)

Chỉ định: xem ở mục vitamin D2

Liều dùng

Dự phòng còi xươnệ (ở nhũ nhi cho tối 18 tháng, rỗi trong mùa đông ở trẻ nhỏ tới 5 tuổi): 200000 UI mỗi kỳ 6 tháng.

Dự phòng thiếu vitamin D và nhuyễn xương ở người lớn: người có tuổi và phải bất động dài ngày, phụ nữ có thai hoặc cho con bú, kém hấp thu ở ruột, điều trị chống động kinh, bệnh lý ruột liển quan gỉuten): 200.000 ỨI mỗi 6 tháng

Điều trị còi xương ở trẻ em:

Ui, lặp lại sau 1 tuần rồi chuyên sang liều dự phòng.

Điều trị bệnh nhuyễn xương ở người lớn: 200.000 UI lặp lại sau mỗi 2 tuần tới khi khỏi về lâm sàng và bình thường hoá calci và phosphat trong máu; theo dõi calci niệu để tránh quá liều.

Ghi chú: colecalciferol là vitamin tự nhiên do thức ăn mang lại (sữa, bơ, lòng đỏ trứng, dầu gan cá thu) và được sản xuất bằng quang tổng hợp tại da (200 UI mỗi ngày)

DẪN XUẤT HYDROXYL HOÁ CỦA VITAMIN D

Auacalcidol

Un – Alfa 0 (Leo)

Tiền chất tổng hợp của chất chuyển hoá có hoạt tính vitamin D (calcitriol)

Chỉ định

Loạn dưỡng xương do thận

Còi xương giả thiếu vitamin D

Còi xương, nhuyễn xương do giảm phosphat trong máu

Suy cận giáp và giả suy cận giáp

Liều dùng: 0,25 – 2ịig mỗi ngày theo liều tăng dần (tới 6pg/ngày), trẻ em nặng < 20kg: lpg/ngày

Thận trọng: theo dõi calci trong máu, calci niệu, phosphatase kiềm và phospho niệu.

Chống chỉ dịnh:  Xem mục Vitamin D2

Calcifediol

Dédrogyl ® (Roussel)

Calcifeđiol hay 25 – hydroxy- cholecalciferol hay 25 (OH) D3 là chất chuyển hoá hydroxyl hoá ở gan của vitamin D3.

Chỉ định

Hạ calci huyết ở trẻ sơ sinh

Loạn dưỡng xương do thận, thẩm phân máu

Còi xương đề kháng với vitamin

Còi xương và nhuyễn xương kèm hạ calci huyết.

Suy tuyến cận giáp.

Hạ calci huyết do điều trị corticoid hay điều trị chống co giật

Liều dùng: 0,50-100|ig mỗi ngày theo liều tăng dần.

Thận trọng: theo dõi đều calci huyết, calci niệu, phosphatase kiềm và phospho huyết

Chống chỉ định: xem vitamin D2

Calcitriol

Rocaltrol ® (Roche)

Tính chất:           calcitriol hay 1,25- dihydroxy cholecalciferol hay 1-25 (OH)2D3 tạo thuận lợi cho hấp thu calci ở ruột và điều chỉnh sự vô cơ hoá xương bằng kích thích hoạt động tạo xương và huỷ xương. Nó là chất chuyển hoá hoạt hoá của vitamin D3 và được tạo ra ở thận từ calciíediol hay 25 -xydroxy- cholecalciíerol hay 25 (OH)D3; sự chuyển dạng này nằm dưới sự kiểm soát của. hormon tuyến cận giáp.

Khi bị suy thận, việc sản xuất calcitriol nội sinh bị giảm hay chậm lại dẫn đến loạn dưỡng xương.

Chỉ định

Loạn dưỡng xương do thận, đặc biệt là ở người thẩm phân máu.

Còi xương và nhuyễn xương đề kháng với vitamin D

Suy tuyến cận giáp (tự phát hay hậu phẫu); giả suy tuyến cận giáp.

Liều dùng: Người lớn 0,5|i ngày, tới 2p ngày theo liều tăng dần; ở trẻ em 0,25pmỗi ngày tăng dần tới lpg mỗi ngày.

Chống chỉ định: cường calci huyết, có thai (tính vô hại chưa được xác minh), cho con bú.

Thận trọng

Theo dõi đều đặn calci huyết, calci niệu, phosphatase kiềm và phosphat niệu.

Cường calci huyết phối hợp với cường phosphat trong máu (> l,9mmol/lit) có thể dẫn đến vôi hoá những phần mềm (thấy được trên điện quang)

Vitamin E (Tocopherol)

Ephynal ® (Roche)

Tocaựa ® (Cipharm)

Toco 500 ® (Pharma 2000) Tocomine ® (Paillusseau)

Tương đương: 1 UI = lmg DL – a – tocopherol

Tính chất: vitamin E tan trong dầu, có mặt trong các dầu thực vật, thịt và gan bò và hạt ngũ cốc. Rất hiếm khi thiếu và không có biểu hiện đặc hiệu;

các mầm, hạt, lòng đỏ trứng và thịt có nhiều Vitamin E; nhu cầu hàng ngày ước tính là 10mg; chế độ ăn hợp lý đủ đáp ứng nhu cầu này.

Chỉ định: Nên dùng trong chứng mất tự chủ đường tiểu ở phụ nữ cũng như trong cận thị tiến triển và được dùng hỗ trợ trong điều trị tăng lipid huyết. Hiệu quả của Vitamin E trong các trường hợp đó và trong dự phòng bệnh mạch vành còn cần xác định thêm.

Vitamin H (Biotin)

Biotin (Roche)

Vitamin tan trong nước, có tác dụng như một Coenzyme của carboxylase, nên dùng trong bệnh rụng tóc và viêm da tiết bã với liều 10mg/ngày (hiệu quả cần xác định thêm)

Vitamin K1 (phytomenadion)

Vitamin K1 (Roche)

Tính chất: Vitamin tự nhiên, hiện đã sản xuất bằng tổng hợp hoá học, được dùng làm đối vận khi bị quá liều các thuốc chống đông coumarin và trong dự phòng hay điều trị các bệnh hạ prothrombin huyết do thiếu Vitamin K.

Chỉ định và liều dùng

– Chảy máu do quá liều các kháng Vitamin K (thuốc uống chống đông máu): tiêm tĩnh mạch chậm 10-20mg; kiểm tra tiến triển thời gian Quick; không tác dụng lên chảy máu do quá liều benarin (xem protamin Sulfat). Khi bị chảy máu cấp, đầu tiên truyền huyết tương của máu rồi phần yếu tố đông máu PPSB.

Hạ prothrombin huyết do thiếu vitamin K (tổn thương gan-mật hay ruột, dùng kháng sinh phổ rộng, latamoxef, cefoperazon, cefamandol,   phenytoin, salicylic): 10-20mg theo đường tĩnh mạch chậm; tác dụng tuỳ thuộc vào trạng thái của nhu mô gan; nếu tổn thương gan nặng thì vitamin K không có tác dụng. Chỉ tiêm bắp khi không thể tiêm tĩnh mạch.

Dự phòng hạ prothrombin huyết ở trẻ sơ sinh: khi người mẹ thiếu vitamin K, dùng liều duy nhất 5mg theo đường tĩnh mạch khi sinh (l-2mg/ngày trong điều trị); nói chung, các vitamin tan trong dầu khó qua hàng rào rau thai và có ít trong sữa mẹ.

Hẹp đường mật ở trẻ sơ sinh hay trẻ nhỏ: 10mg theo đường tĩnh mạch cách quãng mỗi 15 ngày.

Thận trọng

Tránh cho liều quá cao có thể làm cho người bệnh trơ quá lâu với các điều trị chống đông máu (theo dõi thường xuyên thời gian Quick).

Do nguy cơ sốc phản vệ, phải tiêm tĩnh mạch rất chậm (tối đa 1mg/phút) và hạn chế dùng cho những trường hợp có đáp ứng nhanh.

Tác dụng phụ

Đường bắp thịt hay dưới da: đau, chảy máu, phản ứng xơ cứng bì tại chỗ tiêm; đã thấy có sốc phản vệ.

Đường tĩnh mạch: xanh tím, hạ huyết áp, đôi khi sốc phản vệ chết người.

Vitamin pp (Nicotinamid)

Nicobion ® (Astra).

Cùng tên: niacinamid, amid của acid nicotinic, amid nicotinic, nicotylamid, vitamin B3.

Tính chất: vitamin tan trong nước, có trong thịt, cá và sữa; được tổng hợp trong cơ thể từ tryptophan; nhu cầu hàng ngày ước tính là 20mg.

Chỉ định: dịch bệnh pellagra địa phương hay lẻ tẻ, thiếu vitamin nhóm B trong nghiện rượu và chứng kém hấp thu.

Liều dùng: 0,5 – lg mỗi ngày tuỳ mức độ thiếu vitamin này, phối hợp với thiamin, riboflavin và pyridoxin khi thiếu nhiều loại vitamin.

Lỗ rò hậu môn

Định nghĩa: đường thông thương bất thường giữa ống hậu môn-trực tràng với mặt ngoài da của vùng cạnh hậu môn.

Căn nguyên: apxe quanh hậu môn dẫn lưu kém (do tụ cầu khuẩn, trực khuẩn coli, Proteus), bệnh Crohn, ung thư, phẫu thuật ở hậu môn- trực tràng, viêm trực-đại tràng loét- xuất huyết, bệnh lao.

Triệu chứng

  • Lỗ rò hậu môn:chảy mủ ở cạnh hậu môn thường xuyên hoặc từng lúc. Nếu đưa một thăm nhỏ và mềm vào lỗ ngoài của đường rò thì thường có thể phát hiện được lỗ bên trong.
  • Apxe cạnh hậu môn:đau ở hậu môn, sốt, sưng vùng quanh hậu môn.

Xét nghiệm bổ sung: chụp đường rò. Chỉ định thụt baryt và nội soi trực-đại tràng sigma để loại trừ khả năng ung thư, và những bệnh khu trú ở phía trên hậu môn, nhất là bệnh Crohn.

Điều trị: rạch và dẫn lưu apxe. Trong trường hợp lỗ rò đã hình thành thì chỉ điều trị ngoại khoa mới có hiệu quả.

Đái Tháo Nhạt và Hội Chứng SIADH (tăng tiết ADh không phù hợp)

Thùy thần kinh tuyến yên, hoặc thùy sau tuyến yên, sản xuất 2 hormon: (1) arginine vasopressin (AVP), còn được gọi là hormone chống bài niệu (ADH), và (2) oxytocin. Hoạt động của hormon AVP trên ống thận để giữ nước, dẫn đến cô đặc nước tiểu. Oxytocin kích thích sau sinh giúp tiết sữa. Vai trò sinh lý của nó trong quá trình mang thai là không có. Các hội
chứng lâm sàng có thể do thiếu hoặc dư thừa hormon AVP.

ĐÁI THÁO NHẠT

Nguyên Nhân

Đái tháo nhạt (DI) do vùng dưới đồi sản xuất thiếu AVP hoặc do suy giảm hoạt động hormon AVP ở thận. Khi thiếu AVP sẽ tăng bài tiết nước tiểu làm nước tiểu loãng. Trong đái tháo nhạt trung tâm, thiếu hụt AVP để đáp ứng với các kích thích sinh lý. Nguyên nhân bao gồm các rối loạn mắc phải (chấn thương đầu; u hoặc viêm ảnh hưởng đến vùng dưới đồi/thùy sau tuyến yên), bẩm sinh, và di truyền, nhưng gần một nửa số trường hợp là vô căn. Trong đái tháo nhạt khi mang thai, tăng chuyển hóa AVP huyết tương do aminopeptidase (vasopressinase) được sản xuất bởi nhau thai dẫn đến sự thiếu hụt tương đối AVP trong khi mang thai. Hội chứng uống nhiều tiên phát dẫn đến thiếu hụt AVP thứ phát do ức chế tiết AVP sinh lí bởi uống quá nhiều nước. Đái tháo nhạt do thận là do kháng hormon AVP ở thận; nó có thể là do di truyền hoặc mắc phải do tiếp xúc với thuốc (lithium, demeclocycline, amphotericin B), rối loạn chuyển hóa (tăng calci máu, hạ kali máu), hoặc tổn thương thận.

Đặc Điểm Lâm Sàng

Các triệu chứng bao gồm tiểu nhiều, khát nước quá mức, và uống nhiều, và lượng nước tiểu 24h >50 ml/kg/ngày và độ thẩm thấu nước tiểu thấp hơn so với huyết thanh (<300 mosmol/kg; trọng lượng riêng <1,010). DI có thể chỉ một phần hay hoàn toàn; trong trường hợp này, nước tiểu loãng tối đa (<100 mosmol/kg) và nước tiểu 24h có thể đến 10-20l. Có dấu hiệu mất nước trên lâm sàng hoặc trên xét nghiệm, trong đó có tăng natri máu, xảy ra chỉ khi bệnh nhân đồng thời có dị tật không uống được nước (không không phổ biến ở những bệnh nhân có bệnh thần kinh trung ương) hoặc không có nước uống.

Chẩn Đoán

Đái tháo nhạt phải chẩn đoán phân biệt với các nguyên nhân gây tiểu nhiều khác. Trừ khi nước tiểu loãng không thích hợp với tăng độ thẩm thấu huyết thanh, thì dùng nghiệm pháp cho nhịn uống nước để chẩn đoán đái tháo nhạt. Nên xét nghiệm vào buổi sáng, và cân nặng, độ thẩm thấu huyết tương, natri huyết thanh, thể tích và độ thẩm thấu nước tiểu nên được đo theo giờ. Nên dừng xét nghiệm nếu giảm 5% cân nặng hoặc độ thẩm thấu huyết tương hoặc natri vượt quá giới hạn trên của giá trị bình thường. Nếu độ thẩm thấu nước tiểu <300 mosmo/ kg và tăng độ thẩm thấu huyết thanh, desmopressin (0,03μg/kg tiêm dưới da) nên được dùng và đo lại độ thẩm thấu nước tiểu sau đó 1-2h.Nếu tăng >50% cho thấy bệnh đái tháo nhạt do tuyến yên nặng, trong khi nếu đáp ứng ít hơn hoặc không đáp ứng gợi ý bệnh đái tháo nhạt do thận. Đo nồng độ AVP trước và sau nhịn uống có thể được yêu cầu để chẩn đoán đái tháo nhạt một phần. Đôi khi, truyền muối ưu trương có thể được yêu cầu nếu nghiệm pháp nhịn uống không đạt được nồng độ cần của mất nước ưu trương, nhưng cần phải theo dõi cẩn thận.

ĐIỀU TRỊ Đái Tháo Nhạt

Đái tháo nhạt do tuyến yên có thể được điều trị bằng desmopressin (DDAVP) tiêm dưới da (1-2μg 1-2 lần/ngày), qua xịt mũi (10-20μg 2-3 lần/ngày), hoặc uống (100-400μg 2-3 lần/ngày), và uống khi khát nước. Các triệu chứng của đái tháo nhạt do thận có thể được cải thiện bằng cách điều trị với thuốc lợi tiểu thiazid và/hoặc amiloride kết hợp với chế độ ăn ít natri, hoặc với các thuốc ức chế tổng hợp prostaglandin (ví dụ, indomethacin).

HỘI CHỨNG TĂNG TIẾT ADH KHÔNG PHÙ HỢP (SIADH)

Nguyên Nhân

Sản xuất AVP quá mức hoặc không phù hợp ảnh hưởng đến hạ natri máu, phản ánh khả năng giữ nước. Các nguyên nhân gây ra SIADH bao gồm các khối u, nhiễm trùng phổi, rối loạn hệ thần kinh trung ương, và thuốc (Bảng 180-1).

Đặc Điểm Lâm Sàng

Nếu hạ natri máu tiến triển dần dần, nó có thể không có triệu chứng cho đến khi giai đoạn nặng. Tuy nhiên, nếu nó tiến triển cấp tính, các triệu chứng của ngộ độc nước có thể bao gồm đau đầu nhẹ, lú lẫn, chán ăn, buồn nôn, nôn, hôn mê và co giật. Xét nghiệm bao gồm ure nitrogen, creatinin, acid uric, và albumin thấp; Na huyết thanh <130 mEq/L và độ thẩm thấu huyết tương <270 mosmol/kg; nước tiểu không được pha loãng tối đa và thường huyết tương ưu trương, và Na nước tiểu thường > 20 mmol/L.

ĐIỀU TRỊ SIADH

Nên hạn chế uống nước ít hơn 500ml so với lượng nước tiểu. Bệnh nhân có các triệu chứng hoặc dấu hiệu nặng, nước muối ưu trương (3%) có thể được truyền tĩnh mạch ≤0.05 ml/kg/phút, và đo nồng độ natri mỗi giờ cho đến khi Na tăng 12meq/L hoặc nồng độ Na là 130meq/L, bất cứ chỉ số nào đạt được trước. Tuy nhiên, nếu các hạ natri máu xuất hiện >24-48h và được điều chỉnh quá nhanh, truyền muối có nguy cơ hủy myelin cầu não trung ương, biến chứng thần kinh nghiêm trọng, có thể tử vong do thay đổi thẩm thấu chất lỏng. Demeclocycline (150-300 mg uống 3 hoặc 4 lần/ngày) hoặc fludrocortisone (0,05-0,2 mg uống 2 lần/ngày) có thể được yêu cầu để kiểm soát SIADH mạn tính. Thuốc đối kháng vasopressin (conivaptan, tolvaptan) có thể dùng, nhưng kinh nghiệm điều trị thuốc này trong SIADH là hạn chế.

Bệnh xơ cứng động mạch và bệnh xơ vữa động mạch

Định nghĩa

XƠ CỨNG ĐỘNG MẠCH: thuật ngữ chung dùng để chỉ mọi trường hợp các động mạch bị cứng rắn (kém đàn hồi), thường được sử dụng như từ đồng nghĩa với xơ vữa động mạch.

XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH: bệnh động mạch mạn tính có đặc điểm là lipid lắng đọng trong lớp áo trong (nội mô) của các động mạch, dẫn tới hình thành những mảng màu vàng nhạt, gọi là mảng xơ vữa, tiếp sau đó là các sợi chun sinh sản, teo mô liên kết, và hiện tượng calci hoá. Quá trinh xơ vữa như trên có thể lan từ lớp áo trong tới lớp áo cơ của các động mạch.

Xơ vữa động mạch thường tác động tới những động mạch lớn và vừa (trung bình), và là nguồn gốc của phần lớn những bệnh mạch máu não, bệnh mạch vành, bệnh động mạch chủ, và những bệnh động mạch của chi dưới.

Giải phẫu bệnh

  • Mảng xơ vữa: mới đầu lớp áo trong (nội mô) bị thâm nhiễm khu trú bởi các sợi cơ trơn chứa nhiều lipid, rồi sau đó hình thành các mảng mô xơ nổi lên cao hơn bề mặt của lớp nội mô. Các mảng này có một nhân hợp bởi những tế bào thoái hoá, bao quanh bởi những sợi cơ trơn và sợi tạo keo. Mảng xơ vữa chứa nhiều cholesterol và acid linoleic. Tới giai đoạn cuối, thì các mảng xơ vữa bị claci hoá, loét ra và có huyết khối phủ trên bề mặt. Các cục huyết khối như vậy có thể làm nghẽn hoặc làm tắc lòng của động mạch.
  • Xơ cứng động mạch: xảy ra thứ phát sau tăng huyết áp động mạch, có đặc điểm là lớp áo trong (nội mạc) và lớp áo giữa (áo cơ) của các tiểu động mạch bị thoái hoá kính (thoái hoá trong), nhất là những tiểu động mạch ở thận.
  • Xơ hoá từng ổ Monckeberghoặc bệnh ngấm calci lớp áo giữa: có những ổ thoái hoá và calci hoá ở lớp áo giữa (áo cơ) của thành những động mạch cỡ trung bình, nhất là ở những động mạch của phần dưới thân thể. Xơ hoá từng ổ hay gặp bắt đầu từ tuổi 60, và thường kết hợp với xơ vữa động mạch, nhưng xơ hoá từng ổ cũng có thể phát triển ngay từ 40 tuổi ở những bệnh nhân đái tháo đường.

Sinh lý bệnh

Có nhiều lý thuyết giải thích bệnh sinh của bệnh xơ vữa.động mạch. Người ta cho rằng tổn thương đầu tiên là một tác động lý hoá tới lớp áo trong (nội mô): tác động của tăng huyết áp động mạch, các xoáy của dòng máu, tăng lipid huyết, tăng đường huyết. Tổn thương đầu tiên này tạo điều kiện cho các sợi cơ trơn của lớp áo giữa nằm ở phía ngoài tiếp xúc trực tiếp với máu tuần hoàn ở trong lòng động mạch. Một yếu tố của tiểu cầu cùng với sự tham gia của lipoprotein tỷ trọng rất thấp (VLDL) sẽ tạo ra sự di chuyển của những sợi cơ trơn vào lớp áo trong. Hoạt động chuyển hoá trong các sợi cơ trơn này được kích thích, chúng tích tụ các lipoprotein và tạo nên ở xung quanh chúng một mô nâng đỡ mới (sợi tạo keo và sợi chun).

Dịch tễ học

Bệnh xơ vữa động mạch là một nguyên nhân gây tử vong phổ biến nhất ở những nước công nghiệp, mặc dù hiện nay tỷ lệ tử vong do bệnh này đang trên đà giảm thiểu ở những nước châu Âu vì những lý do còn chưa được làm sáng tỏ. Trong chương về cơn đau thắt ngực, có trình bày một số dữ liệu thống kê về tỷ lệ bị bệnh, tỷ lệ tử vong, và khả năng gây tử vong của các bệnh tim do thiếu máu cục bộ (xem bệnh này).

Những yếu tố nguy cơ sinh xơ vữa

NHỮNG YẾU TỐ CÓ TẦM QUAN TRỌNG CHÍNH

  • Tăng hàm lượng cholesterol toàn phần: không có một ngưỡng mà ở dưới mức đó thì không có nguy cơ bị bệnh xơ vữa động mạch, tuy nhiên có những giá trị “tối ưu” đối với từng lớp tuổi và giới tính. Hàm lượng cholesterol trong máu phụ thuộc phần lớn vào mức hấp thu mỡ bão hoà có nguồn gốc động vật (thịt, sữa). Ở những xã hội công nghiệp, 40% tổng năng lượng (tổng lượng calo) là từ mỡ, nhất là mỡ bão hoà, trong khi mà đáng lẽ nguồn mỡ này chỉ nên chiếm khoảng 30%.
  • Những đối tượng có nguy cơ cao: tất cả những đối tượng có hàm lượng cholesterol toàn phần đạt mức hoặc vượt quá mức trên của giá trị tham khảo (giá trị chuẩn) (nói chung là nằm ở 90% bách phân vị, tức là nằm ở mức trên 90% của tất cả các giá trị trong quần thể “bình thường”), ví dụ ở mức 2,60 g/1 (6,7 mol/1) đối với một nam giới châu Âu tuổi trung niên (bớt đi 0,10-0,20 g/1 đối với phụ nữ).
  • Những đối tượng có nguy cơ trung bình: tất cả những người mà hàm lượng cholesterol toàn phần nằm ở giữa 75 và 90% bách phân vị.
  • Hàm lượng trong huyết tương của cholesterol – HDL (cholesterol – lipoprotein tỷ trọng cao) là một yếu tố tỷ lệ nghịch với tần suất các tai biến tim-mạch. Hàm lượng của cholesterol-HDL thấp dưới 0,9 mmol/l được coi như một yếu tố nguy cơ; khi hàm lượng này tăng lên thì nguy cơ xơ vữa động mạch giảm. Tỷ số giữa cholesterol toàn phần với cholesterol-HDL là một chỉ số tốt để dự đoán nguy cơ tim- mạch. Bình thường, tỷ số này thấp dưới 5 ở nam giới và dưới 4,4 ở phụ nữ.
  • Tăng hàm lượng apolipoprotein B trong máu là một nguy cơ sinh xơ vữa, dù là cholesterol tăng hoặc ở giới hạn chuẩn.
  • Tăng huyết áp động mạch: tăng huyết áp tâm thu (lên trên 140 mmHg) và huyết áp tâm trương (lên trên 90 mmHg) là những yếu tố nguy cơ độc lập với nhau. Những nghiên cứu dịch tễ học đã chứng minh rằng trong một quần thể nhất định, những đối tượng nào nằm trong số 20% trên của đường biểu diễn phân bố huyết áp động mạch thì có tỷ lệ tử vong do bệnh tim-mạch cao hơn gấp 4 lần so với tỷ lệ tử vong của những đối tượng nằm trong số 20% dưới của đường biểu diễn này.
  • Hút thuốc lá những người hút thuốc lá nặng ở tuổi 50 có tỷ lệ tử vong do tim-mạch cao gấp 3 lần tỷ lệ tử vong ở những người không hút thuốc lá. Đối với những phụ nữ cùng lứa tuổi, thì tỷ lệ chênh lệch này là gấp đôi. Nguy cơ tim mạch tỷ lệ với số lượng điếu thuốc và độ dài của thời gian đối tượng hút thuốc. Nguy cơ này hơi thấp hơn ở những người hút tẩu và hút xì- gà. Có khả năng là chất nicotin làm tổn thương nội mô các động mạch và tạo thuận lợi cho việc hình thành huyết khối. Chất nicotin làm tăng nhu cầu oxy của cơ tim và từ đó gây ra loạn nhịp thứ phát. Hút thuốc lá cũng tạo thuận lợi cho xơ vữa phát triển ở các động mạch ngoại vi, nhất là các động mạch của chi dưới.

NHỮNG YẾU TỐ NGUY CƠ KHÁC

  • Bệnh đái tháo đường (đường huyết lúc đói > 7 mmol/l): bệnh đái tháo đường làm tăng gấp đôi nguy cơ rối loạn mạch máu ngoại vi. Đái tháo đường cũng làm tăng nguy cơ bệnh tim do thiếu máu cục bộ tuy với mức độ thấp hơn. Kiếm tra nghiêm ngặt đường huyết có khả năng làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim-mạch.
  • Chứng béo phì: ở nam giới làm tăng nguy cơ bị bệnh tim do thiếu máu cục bộ và bị tai biến mạch máu não; còn ở phụ nữ thì làm tăng nguy cơ bị suy tim và bị tai biến mạch máu não, nhưng không làm tăng nguy cơ bị bệnh tim do thiếu máu cục bộ.
  • Trắc diện tâm thần: ở những cá nhân thuộc cả hai giới, stress, tham vọng, lo lắng tôn trọng giờ giấc, đều có nguy cơ làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim do thiếu máu cục bộ, độc lập đối với những yếu tố khác.
  • Cách sống ít hoạt động thể lực: là yếu tố làm tăng nhẹ tỷ lệ tử vong do tim-mạch ở cả hai giới. Hoạt động thể lực dù là hoạt động mạnh mẽ cũng chỉ có hiệu quả không nhiều lắm tối quá trình sinh xơ vữa.
  • Bệnh gút: chỉ riêng tăng acid uric huyết thì không làm tăng nguy cơ sinh xơ vữa, nhưng nguy cơ này đúng hơn là do những bệnh hay kết hợp vổi bệnh gút làm tăng, ví dụ: bệnh đái tháo đường, chứng béo phì, tăng cholesterol huyết.
  • Viên ngừa thai uống: làm tăng nguy cơ bệnh tim-mạch, nhất là ở phụ nữ trên 35 tuổi, và cũng do kết hợp với những yếu tố khác ( như chứng béo phì, bệnh tăng huyết áp động mạch, chứng tăng cholesterol huyết).
  • Ăn nhiều muối (ăn mặn); làm tăng nguy cơ sinh xơ vữa một cách gián tiếp thông qua tăng nguy cơ tăng huyết áp động mạch.
  • Uống rượu: nếu uống ít rượu (rượu nhẹ, lượng nhỏ) thì làm tăng phân đoạn HDL của cholesterol và hình như làm giảm nguy cơ bệnh tim-mạch. Ngược lại, nếu uống nhiều rượu thì lại làm tăng nguy cơ này.

NHỮNG YẾU TỐ NGUY CƠ KHÔNG LÀM THAY ĐỔI ĐƯỢC

  • Di truyền: có những gia đình có tố bẩm bị tai biến tim-mạch, đặc biệt là tố bẩm mắc những bệnh tim do thiếu máu cục bộ (cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim). Nếu một người có anh chị em ruột bị chết vì bệnh tim do thiếu máu cục bộ trước 60 tuổi, thì nguy cơ bị chết do bệnh động mạch vành ở người này lớn gấp đôi so với ở những người khác. Tuy nhiên, lý do di truyền có thể làm lu mờ những tập quán xấu của gia đình (ví dụ: chế độ ăn, hút thuốc lá, ít hoạt động thể lực).
  • Giới tính: tố bẩm bị bệnh xơ vữa động mạch ở nam giới cao hơn so với ở nữ giới.
  • Tuổi: khả năng bị tai biến tim- mạch tăng lên nhanh ở nam giới từ 45 tuổi trở lên, và ở nữ giới từ 55 tuồi trở lên.
  • Mãn kinh: ở cùng một lứa tuổi, những phụ nữ mãn kinh có nguy cơ bị xơ vữa động mạch cao hơn so với những người chưa mãn kinh.

Triệu chứng

Bệnh xơ vữa động mạch có thể biểu hiện bởi những triệu chứng của những bệnh huyết khối, nghẽn mạch, hẹp hoặc tắc mạch máu, phình động mạch. Các triệu chứng thường tiến triển dần dần, trừ trường hợp có một động mạch lớn bị tắc bởi một cục huyết khối, hoặc bởi nghẽn mạch.

Cụ thể, xem: tai biến mạch máu não, phình động mạch chủ, cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, suy động mạch cấp và mạn tính.

Phòng bệnh

SƠ CẤP: bao gồm việc phát hiện những cá nhân bị đe doạ mắc bệnh với một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ, và có biện pháp can thiệp trước khi bệnh xơ vữa động mạch có biểu hiện lâm sàng. Theo kinh nghiệm, thì làm thay đổi tập quán sống của một quần thể, và chống lại một số lợi ích kinh tế là điều rất khó khăn. Phải hành động rất sớm và trên nhiều bình diện để đạt được những kết quả nhất định. Những nghiên cứu dịch tễ học cho biết rằng điều trị chứng tăng cholesterol-huyết sẽ làm giảm tỷ lệ tử vong do bệnh tim- mạch khoảng 20%. Tuy nhiên, thật khó giải thích tại sao người ta thấy tỷ lệ tử vong tổng thể do bệnh tim- mạch vẫn không hề thay đổi.

Những nghiên cứu khác đã chứng minh rằng có thể giảm 16% tỷ lệ tử vong do bệnh tim-mạch trong một quần thể nhất định, nếu làm giảm cholesterol-huyết xuống thấp trung bình 5 mg /100 ml máu, giảm huyết áp động mạch tâm trương xuông trung bình 2 mm Hg và giảm mức hút thuốc lá xuống 20%. vẫn còn những quan niệm trái ngược nhau về các chương trình can thiệp và hiệu quả của các chương trình này. Những phương hướng chính của biện pháp can thiệp là:

  • Cảnh báo dân chúng về hàm lượng mỡ trong thực phẩm: động viên sử dụng các carbon hydrat phức hợp giàu sợi thực vật hơn là những sản phẩm chế biến từ thịt (xem: chế độ ăn trong những trường hợp tăng lipid huyết).
  • Phát hiện những người bị tăng huyết áp động mạch: trong xã hội công nghiệp tiên tiến, có từ 20-30% dân số bị tăng huyết áp động mạch. Điều trị bệnh tăng huyết áp động mạch trung bình (huyết áp tâm trương từ 105 đến 115 mmHg) và nặng (huyết áp tâm trương trên 115 mmHg) chắc chắn sẽ làm giảm tỷ lệ tử vong do bệnh tim-mạch. Nhiều người quan niệm là phải điều trị cả những trường hợp tăng huyết áp động mạch nhẹ nhất (huyết áp tâm trương từ 90 đến 105 mmHg).
  • Thuốc điều trị : có khả năng là một số hiệu quả không mong muốn dài hạn của những thuốc lợi niệu (làm tăng cholesterol toàn phần, tăng triglycerid, tăng đường huyết, tăng acid uric), của thuốc chẹn beta (làm giảm phân đoạn HDL của cholesterol, tăng glycerid) đã ít nhiều làm mất tác dụng hạ huyết áp động mạch có lợi của hai loại thuốc này.
  • Hút thuốc lá: những biện pháp điều trị cai hút thuốc lá dù thuộc kiểu nào, đều có một tỷ lệ phần trăm thành công cao vào lúc khởi đầu. Tuy nhiên, hay tái hút sau 3 tháng, và một năm sau thì chỉ còn 30% số người đã cai không bao giờ hút thuốc nữa. Hình như khác biệt về tỷ lệ tử vong của những bệnh tim do thiếu máu cục bộ chỉ có ý nghĩa vào thời gian 5-10 năm sau khi cai hút thuốc lá. Do đó, người ta cho rằng những nỗ lực vận động chống thuốc lá phải chủ yếu tập trung vào người lớn còn trẻ tuổi và vị thành niên.
  • Người ta không biết điều trị bệnh tăng huyết áp động mạch bằng biện pháp không thuốc (chế độ ăn, giảm cân nặng cơ thể, giảm ăn muối, thư giãn, tập luyện) liệu có làm giảm được nguy cơ bị bệnh tim-mạch hay không.

THỨ CẤP: phòng bệnh thứ cấp nhằm làm giảm nguy cơ tái phát của các bệnh tim-mạch do thiếu máu cục bộ (ví dụ: nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, tắc các động mạch ngoại vi). Những bệnh này vốn là hậu quả của những quá trình bệnh lý đã cũ và lan rộng, cho nên việc phòng ngừa tái phát là rất khó khăn và tốn phí. Nếu biện pháp phòng bệnh thứ cấp có thể cải thiện chất lượng đời sống cho những người đã bị các bệnh này, thì ảnh hưởng của phòng bệnh thứ cấp tối tỷ lệ tử vong tổng thể do tim-mạch trong một quần thể là khó đánh giá và cũng ít có ý nghĩa thống kê.

GHI CHÚ: Nghẽn mạch nhiều chỗ đó tinh thể cholesterol đôi khi gặp ở những bệnh nhân xơ vữa động mạch trên 50 tuổi. Những tinh thể cholesterol thường xuất phát từ những mảng xơ vữa bị vỡ ra ở thành của động mạch chủ hoặc một trong những nhánh của động mạch này (ví dụ động mạch cảnh, động mạch thận, động mạch chậu). Phẫu thuật ở động mạch chủ bụng, hoặc luồn Ống thông (catheter) để chụp động mạch, hoặc điều trị bằng thuốc chống đông máu có thể là nguyên nhân gây ra “đám mưa” những hạt tinh thể cholesterol dẫn tới những dấu hiệu ở da (thiếu máu cục bộ và đau ở một hoặc nhiều ngón chân, mảng tím xanh hình lưới xuất hiện ở phần dưới thân thể, nốt hoặc cục nhỏ xuất hiện ở chi dưới), dấu hiệu ở thận (suy thận muộn 2-3 tuần), và đôi khi cả dấu hiệu ở nhãn cầu (nhìn thấy những tinh thể nghẽn mạch khi khám đáy mắt). Cũng có thể phát hiện được những tinh thể cholesterol hình mũi mác khi làm sinh thiết da hoặc mô ở nơi khác.

Huyệt Khúc Tân

Khúc Tân

Tên Huyệt:

Huyệt theo đường kinh quay lên phía huyệt Suất Cốc làm thành 1 đường cong (Khúc) ở phía tóc mai (mấm = tân), vì vậy gọi là Khúc Tân (Trung Y Cương Mục).

Tên Khác:

Khúc Mấn, Khúc Phát.

Xuất Xứ:

Giáp Ất Kinh.

Đặc Tính:

Huyệt thứ 7 của kinh Đởm.

Huyệt hội với kinh Thủ + Túc Thái Dương.

Vị Trí huyệt:

Tại giao điểm của đường nằm ngang bờ trên tai ngoài và đường thẳng trước tai ngoài, trên chân tóc, sát động mạch thái dương nông.

Giải Phẫu:

Dưới da là cơ tai trên, cơ thái dương, xương thái dương.

Thần kinh vận động cơ là nhánh của dây thần kinh mặt, nhánh của dây thần kinh sọ não số V.

Da vùng huyệt chi phối bởi dây thần kinh sọ não số V.

Chủ Trị:

Trị đầu đau, cổ gáy cứng, co cứng hàm nhai, đau sưng vùng má và hàm trên.

Cách châm Cứu:

Châm xiên 0, 3 – 0, 5 thốn. Cứu 1 – 3 tráng – Ôn cứu 3 – 5 phút.

Phương pháp chữa bệnh Sốt rét không dùng thuốc

Sốt rét là một loại bệnh truyền nhiễm do cơ thể sau khi nhiễm phải vi trùng sốt rét gây nên, bệnh này thường phát sinh vào mùa hè và mùa thu. Người mắc bệnh sốt rét điển hình, thường chia ra ba giai đoạn rõ rệt:

  1. Thời kỳ phát lạnh: sợ rét, tuy đắp chăn rất dầy, nhưng vẫn rét run bần bật, mặt mũi tái xám, môi thâm, toàn thân lạnh toát, thời kỳ này kéo dài khoảng 10 phút đến 1 giờ sau đó nhiệt độ trong người đột ngột tăng lên và bước sang thời kỳ phát nhiệt.
  2. Thời kỳ phát nhiệt: sốt cao (39 – 41°C) mặt đỏ, nhức đầu, khát nước, hô hấp khó khăn. Giai đoạn này có thể kéo dài từ 4 đến 8 giờ.
  3. Giai đoạn ra mồ hôi: sau khi sốt cao, đột nhiên đổ mồ hôi, nhiệt độ trong người trở lại bình thường, mạch đập bình thường, cảm thấy dễ chịu đi vào giấc ngủ dễ dàng, giai đoạn này kéo dài từ 2 đến 3 tiếng.

Sốt rét ngoài việc dẫn tới thiếu máu, gan tỳ to ra còn có thể gây nên các kiểu sốt như sốt vì não, sốt vì phổi, sốt vì ruột, dạ dày.v.v… có thể nguy hiểm đến tính mạng.

Nội dung chữa bệnh

Áp dụng các biện pháp hữu hiệu, đề phòng muỗi đốt.

Chú ý nghỉ ngơi.

Ăn thức ăn lỏng, bảo đảm lượng nước trong cơ thể, kiêng ăn các thứ sống, lạnh và mỡ.

Thuốc chống sốt rét, nên uống trước khi sốt từ 30 phút đến 2 giờ.

Phụ nữ có thai bi sốt rét phải tích cực chữa bệnh, nếu sốt rét tái phát nhiều lần sẽ gây ra sẩy thai, đẻ non hoặc thai chết trong bụng mẹ.

Chữa bệnh triệt để, tránh tái phát.

Ngoài việc chống sốt rét triệt để ra, mà xuân năm sau lại chữa bệnh chống tái phát. Phương pháp và dược liệu cụ thể có hai nhóm dưới đây, chọn nhóm nào cũng được.

1) Cloquinolin: Ngày thứ nhất mỗi bữa cơm 4 viên, chỉ dùng một ngày; Paquinolin, mỗi ngày 4 viên sau bữa ăn, dùng liền 4 ngày.

2) Amintin B: Ngày thứ nhất và ngày thứ hai mỗi bữa cơm 50 miligam; Paquinolin, ngày 4 viên, sau bữa cơm. dùng liền 4 ngày.

Phương pháp chữa bệnh

Phương thuốc hiệu nghiệm

1) Hy thiêm thảo (cây cứt lợn) 30 gam sắc nước thay trà.

2) Tiên hac thảo 20 gam, sắc nước uống, ngày 2 lần.

3) Mà tiên tháo 30 đến 60 gam, nấu nước, uống trước khi sốt và sau khi sốt.

4) Địa cốt bì tươi 30 cam. lá chè 3 gam, nấu nước, uống trước khi lên cơn sốt khoảng 2 giờ.

5) Lưu ký nô 30 gam. nấu nước, uống trước khi sốt một giờ.

6) Uy linh sơn thanh hao. mỗi thứ 15 gam. sắc uống, ngày 2 lần.

7) Rễ cây cỏ bờm ngựa 120 gam, cô đặc, uống trước khi sốt 2 tiêng.

8) Cây sơn giới 15 gam. giã nhỏ. trước khi sốt 2 tiếng uống với nước nóng, uống liền trong ba ngày. Đáy là số lượng với người lớn.

9) Hà thủ ô 24 gam, cam thảo 3 gam, đun trong 2 giờ. mỗi ngày 3 lần. uống trước khi ãn cơm.

Phương pháp ăn uống

1) Trứng gà tươi 3 quả, dấm 120 gam, đập trứng gà vào dấm quây đều, cho dầu vào rán, ăn khi còn nóng.

2) Xương dê 150 gam, rửa sạch cho vào ninh, uống nước canh trước khi lên cơn sốt 3 giờ.

3) Rau muống 200 gam, một ít rượu trắng, rửa sạch rau muống, thái nhỏ, nấu lấy nước, cho rượu trắng vào, uống trước khi lên cơn sốt 30 phút. Uống liền 3 ngàv.

4) Lá lách lợn 1 chiếc, hồ tiêu, ngô thù du, gừng, mỗi thứ 6 gam. rửa sạch lá lách thái nhỏ, sào chín, ba VI thuốc nghiên thành bột, lấy môt nưa lá lách tâm với bột thuốc viên tròn nhỏ, nửa còn lại không tẩm thuốc cũng viên tròn lại. Viên có thuốc thì nuốt chửng, còn viên không có thuốc thì nhai ăn dần. Dùng cho người hàn nhiều nhiệt ít hoặc chỉ có hàn không có nhiệt.

5) Cá diếc 150 gam, lá tía tô 6 gam, xương bồ 3 gam, trần bì 3 gam. Rửa sạch cá, cùng nấu với các vị thuốc trên, cho thêm gia vị, ăn cả cái và nước.

6) Cá chép 1 con, hồng phạn đậu 100 gam, táo tàu 10 quá, gừng 30 gam, rửa sạch cá, bỏ hạt táo, cùng nấu VỚI đâu đỏ và gừng, cho thêm gia VI đế ãn, mỗi ngày một thang, ăn liền 3 ngày.

Chữa bệnh bên ngoài

  1. Một ít kim tiền thảo, vò thấy mùi thơm, vê thành hai viên, nhét vào hai lỗ mũi trước khi sốt.
  2. Một ít sunfât sắt sau khi nghiền nhỏ, tẩm với bông y tế. lấy vải màn gói chặt, trước khi lên cơn sốt nhét vào một lỗ mũi.
  3. Lấy một ít long não, xa tiền tử, đem xa tiền tử rang cháy nghiền thành bột, long não cũng nghiền thành bột, trộn hai thứ với nhau, lấy bông y tế gói chặt lại, trước khi lên cơn sốt 2 giờ, nhét vào một lỗ mũi.
  4. Lấy một ít xuyên khung, bạch chỉ, quế chi, thương thuật, nghiền thành bột, lấy ba phần, dùng bông gói lại, trước khi lên cơn sốt 2 giờ nhét vào lỗ mũi, 4 tiếng sau lại lấy ra.
  5. Một ít kim tiền thảo, về lại bằng hạt đậu tằm, trước khi lên cơn sốt 4-8 giờ, nhét vào một bên lỗ tai.
  6. Hùng hoàng, hồ tiêu mỗi thứ 1 gam giã nhỏ trộn với cơm tẻ thành bánh thuốc, trước khi lên cơn sốt 2 giờ đắp lên rốn, dùng túi chườm để giữ nhiệt.
  7. Một ít thanh hao tươi, giã nhỏ, trước khi lên cơn sốt 4 tiếng đắp vào rốn, lấy nilông và băng dính cố định lại, để túi chườm lên trên giữ nhiệt.
  8. Lá đào tươi giã nhỏ, đắp vào động mạch tay chỗ nổi lên, mỗi ngày thay một lần, đừng để da sây sát.
  9. Tỏi, lá khoai lang giã nhỏ, đắp vào động mạch tay chỗ nổi lên, đừng để da sây sát.

Những việc cần lưu ý.

  1. Khi uống kinôlin thì phải kiêng thức ăn chua như dấm, dưa chua cà muối và nước quả chua.
  2. Kinôlin có thể dẫn tới sẩy thai, phụ nữ có thai không được dùng, có thể thay băng…
  3. Paquinolin không dùng cho phụ nữ có thai, chỉ dùng làm thuốc chống tái phát sau khi sinh nở.
  4. Phải cảnh giác khi sốt ác tính dễ sinh ra bệnh calaaza (đặc trưng lâm sàng là: sốt cao, thiếu máu cấp tính, củng mạc, da và nước tiểu vàng, huyết sắc tố và thận tạng bị tổn hại). Nếu phát hiện đúng bệnh thì phải dừng ngay thuốc chống sốt, về sau cũng không được dùng loại thuốc này nữa. Đồng thời phải đi ngay bệnh viện cấp cứu.

Hiện nay Y học hiện đại đã có thuốc điều trị rất tốt bệnh sốt rét nên bệnh nhân cần tuân thủ phác đồ điều trị sốt rét để đạt hiệu quả cao bệnh nhân kết hợp thêm các phương pháp điều trị không dùng thuốc.

Xem tiếp

Phác đồ điều trị sốt rét mới nhất

Phác đồ điều trị sốt rét, sốt rét ác tính

Bệnh bạch cầu ác tính (Leukemia)

Bệnh bạch cầu ác tính (Leukemia) là 1 bệnh về máu có sự tăng sinh quá độ của tế bào máu chưa phân hóa hoặc phân hóa kém dẫn tới tử vong một cách nhanh chóng nếu không điều trị hữu hiệu.

PHÂN LOẠI BỆNH HỌC

Phân loại FAB :

Bạch cầu cấp nguyên bào limpho (ALL) ký hiệu là L, gồm 3 loại :

L1 : tế bào ác tính nguyên bào limpho nhỏ đồng dạng.

L2 : tế bào ác tính : tế bào nguyên bào, limpho trưởng thành, to hơn, đa dạng.

L3 : tế bào giống tế bào Burkitt.

Dòng tế bào limphô nhuộm PAS (+)

Bạch cầu cấp không liên quan đến dòng nguyên bào limpho : ký hiệu là M (dòng tủy)

Mo : Bạch cầu chưa biệt hóa

M1 : Nguyên tủy bào chưa trưởng thành

M2 : Nguyên tủy bào đã trưởng thành

M3 : Tiền tủy bào

M4 : hổn hợp nguyên tủy bào + nguyên bạch cầu đơn nhân

M5 : Nguyên bạch cầu đơn nhân

M6 : Nguyên tủy bào và tiền nguyên hồng cầu

M7 : Nguyên tủy bào và nguyên mẫu tiểu cầu.

Tế bào dòng tủy nhuộm sudan Black (+)

NGUYÊN NHÂN

Cho đến nay vẫn chưa biết nguyên nhân chính xác.

Yếu tố thuận lợi:

Nhiễm phóng xạ

Nhiễm hóa chất benzen, thuốc điều trị ung thư, thuốc diệt sâu rầy.

Rối loạn nhiễm sắc thể : Bệnh Down tỉ lệ bệnh bạch cầu cấp cao gấp 20 lần so với bình thường. Rối loạn nhiễm sắc thể (14, 18)

Nhiễm siêu vi nhất là RNA virus – HTLV1.

TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG :

Rất thay đổi : Bạch cầu cấp dòng limphô và Bạch cầu cấp dòng tủy có nhiều triệu chứng tương tự nhau.

Bệnh có thể khởi phát đột ngột với sốt cao, thiếu máu, xuất huyết hoặc có thể xảy ra từ từ với triệu chứng thiếu máu, sốt nhẹ, chảy máu chân răng , lở miệng.

Thiếu máu : xuất hiện từ từ và nặng dần lên.

Sốt là triệu chứng thường gặp nhất với biểu hiện ở tất cả kiểu sốt. Rất có thể có kèm 1 ổ nhiễm trùng răng miệng, lở loét miệng, nướu răng.

Xuất huyết : Thường là xuất huyết da – niêm, đôi khi có xuất huyết não, màng não, phổi.

Biến đổi hệ võng nội mô :

– Hạch to, hạch kích thước trung bình, đối xứng, di động, không dầy, phần lớn là hạch ngoại biên cổ, hay toàn thân.

– Gan có thể to.

– Lách to.

Đau nhức xương khớp.

Thâm nhiễm hệ thần kinh trung ương. Bệnh nhân có thể nhức đầu, ói, lồi mắt, mù, yếu liệt chi, tổn thương thần kinh sọ.

Thâm nhiễm u bướu vào da, mắt, xương

CẬN LÂM SÀNG :

Chủ yếu là công thức máu và tủy đồ

– Công thức máu :

Thiếu máu đẵng sắc, đẵng bào do giảm sản xuất.

Giảm tiểu cầu

Bạch cầu có thể bình thường, có thể giảm và có thể tăng.  Có thể tìm thấy bạch cầu ác tính trong phết máu ngoại biên.

– Tủy đồ :

Thường quá sản tế bào

Và tế bào ác tính tăng trên 30%

– Acid uric máu tăng cao do hũy nhiều tế bào ác tính.

– Nhiễm sắc thể : 90% thấy có bất thường nhiễm sắc thể với nhiều loại khác nhau.

CHẨN ĐOÁN :

Chẩn đoán xác định :

– Dựa vào bệnh cảnh lâm sàng

– Cận lâm sàng : Công thức máu

– Tủy đồ : Blast/tủy lớn hơn 30%.

Chẩn đoán phân biệt :

– Phản ứng giả bạch cầu : tăng bạch cầu già và trưởng thành do tình trạng nhiễm trùng tủy bị kích động mạnh.

– Quá trình phục hồi sau suy tủy thì thấy có tăng sinh bạch cầu đầu dòng.

BIẾN CHỨNG

– Nếu không điều trị bệnh nhân sẽ chết trong 1-3 tháng vì các biến chứng.

– Xuất huyết nặng : ở não, ở đường tiêu hóa.

– Ứ trệ bạch cầu ở não, phổi.

– Nhiễm trùng, choáng nhiễm trùng

– Suy kiệt

CÁC YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG

– Tuổi càng cao tiên lượng càng xấu

– Số lượng bạch cầu : càng tăng càng xấu

– Dòng tủy tiên lượng xấu hơn dòng limpho

– Rối loạn nhiễm sắc thể các rối loạn kiểu t (9 ; 22) (-5 , -7) có thể tiên lượng xấu.

– Số cơ quan bị tổn thương càng nhiều thì tiên lượng càng nặng.

Lỵ trực khuẩn cấp – Bệnh hay mắc nhiều biến chứng và dễ tử vong

Theo một thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, cứ 100 người mắc lỵ trực khuẩn cấp thì có 1-10 người bị tử vong, tỉ lệ tử vong cao hay thấp tuỳ theo sự phát triển về y tế của từng nước. Ở nước ta, lỵ trực khuẩn cấp và viêm gan virus là 2 bệnh có số người mắc nhiều nhất (năm 1999, tỉ lệ mắc bệnh lỵ trực khuẩn cấp chiếm tới 7,1/1 vạn dân, tỉ lệ tử vong là 0,001/1 vạn dân).

Lỵ trực khuẩn cấp tính thực chất là một viêm đại tràng cấp tính do trực khuẩn Shigella gây ra.

Shigella cũng có thể gây viêm dạ dày, tiểu tràng cấp tính, nhưng rất hiếm gặp ở người lớn mà chủ yếu xảy ra ở trẻ em dưới 3 tuổi. Các chủng vi khuẩn gây bệnh lỵ đều có nội độc tố, đáng chú ý là 2 chủng vi khuẩn Shigella shigae và Shigella schmitzii bởi chúng có thêm qả ngoại độc tố (khi chết hoặc khi bị tiêu diệt bởi thuốc kháng sinh, chúng phân huỷ tạo ra độc tố gây hại cho cơ thể). Nhưng nguy hiểm hơn cả là chủng vi khuẩn Shigella dysenteriae, vì nó dễ gây thành dịch lớn và kéo dài; kháng thuốc nhanh và phổ biến; gây bệnh nặng, kéo dài và nhiều biến chứng dễ dẫn tới tử vong.

Ở các nước xứ nóng như nước ta, bệnh xuất hiện quanh năm, nhưng thường trội lên và dễ gây thành dịch vào mùa nắng nóng. Nguồn bệnh chính là người mắc bệnh lỵ hoặc người lành mang trùng đào thải vi khuẩn ra môi trường theo phân. Trực khuẩn lỵ có thể sống trong điều kiện bình thường như rau sống, thức ăn từ 7- 10 ngày, sống trong đất từ 6-7 tuần lễ, nên rất dễ lây theo đường tiêu hoá qua thức ăn, nước uống bị nhiễm vi khuẩn.

Trực khuẩn lỵ Shigella
Trực khuẩn lỵ Shigella

Khi ăn phải thức ăn đồ uống có trực khuẩn lỵ Shigella theo đường tiêu hoá qua dạ dày, ruột non, tới đại tràng và xâm nhập niêm mạc đại tràng (chủ yếu ở phần cuối của đại tràng như đại tràng xuống, đại tràng xích-ma hoặc trực tràng). Bên cạnh việc phản ứng tự vệ tự nhiên của cơ thể nhằm đào thải vi khuẩn tại chỗ tổn thương, thì bản thân vi khuẩn gây tổn thương niêm mạc đại tràng trên diện rộng, gây loét nông, trường hợp nặng có thể loét sâu tới tận lớp cơ của đại tràng, thậm chí hoại tử, đồng thời tiết ra nội độc tố tác động lên hệ thần kinh vận động, hệ cảm giác và hệ thực vật nên người bệnh xuất hiện hàng loạt các triệu chứng như đau quặn, mót rặn; rối loạn các chức năng của ruột làm mất thăng bằng nước điện giải, mất thăng bằng kiềm toan.

Thường thì sau khi xâm nhập cơ thể từ 1-3 ngày, trực khuẩn lỵ có thể gây viêm niêm mạc đại tràng, gây xuất tiết, chảy máu, tiêu huỷ tế bào, đồng thời tiết ra nội độc tố (có thể ngoại độc tố) biểu hiện bằng hội chứng nhiễm trùng – nhiễm độc: Người bệnh đột ngột sốt 38-39 độ c, có cảm giác gai gai rét; nhức đầu, mệt mỏi, chán ăn, mất ngủ; xét nghiệm thấy bạch cầu ở máu ngoại vi tăng (ở những người có thể trạng yếu như người già, trẻ em suy dinh dưỡng… bạch cầu không những không tăng mà lại giảm). Kèm theo đó là hội chứng lỵ: Bệnh nhân đau bụng âm ỉ dọc theo khung đại tràng và vùng bụng dưới phía bên trái; mót đi ngoài, khi đi phải rặn nhiều; ban đầu phân sền sệt, sau đó phân nhầy máu mủ; máu mủ hoà lẫn không phân định rõ nên trong đỏ nhờ nhờ như máu cá hoặc nước rửa thịt. Trường hợp nhiễm trùng – nhiễm độc nặng, bệnh nhân thường có các triệu chứng như trên, nhưng bệnh cứ nặng dần lên, tình trạng chung xấu đi rất nhanh: Sốt cao trên 40 độ c, toàn trạng gầy sút, nét mặt phờ phạc, da xanh xám, môi khô mắt trũng, chân tay lạnh, mạch nhanh nhỏ, huyết áp hạ, tinh thần lơ mơ, có thể hôn mê, thậm chí tử vong nếu không được chăm sóc tốt và điều trị kịp thời.

Sự nguy hiểm của lỵ trực khuẩn cấp tính không những chỉ gây biến chứng nguy hiểm tại ruột (chảy máu ruột, hoại tử ruột, thủng ruột gây viêm phúc mạc…), gây bội nhiễm (viêm đường tiết niệu, viêm túi mật, viêm phổi…), gây biến chứng toàn thân (nhiễm độc thần kinh, truy tim mạch, viêm tắc động mạch, nhiễm khuẩn huyết, hội chứng tan máu – urê huyết, hội chứng Reiter với tam chứng viêm khớp – viêm niệu đạo – viêm kết mạc mắt có thể xảy ra đồng thời hoặc không đồng thời…) mà sau khi được điều trị ổn định có thể để lại di chứng viêm đại tràng mạn tính, làm hẹp đại tràng.

Việc điều trị lỵ trực khuẩn cấp tính không mấy đơn giản bởi hầu hết các loại thuốc như ampicillin, bactrim, sulfamid… đều bị đa số chủng vi khuẩn kháng lại. Vì vậy bên cạnh chế độ điều trị chung như chống mất nước điện giải bằng đường uống (dùng oresol) hoặc đường tiêm truyền (dung dịch mặn ngọt đẳng trương hoặc Ringer lactat); bổ sung kali, chống toan hoá máu; điều trị triệu chứng… việc lựa chọn một loại thuốc kháng sinh phù hợp đối với các trường hợp nặng là hết sức cần thiết. Kháng sinh thế  hệ mới được Tổ chức Y tế Thế giới khuyên dùng trong điều trị các trường hợp lỵ trực khuẩn cấp tính nặng là kháng sinh thuộc nhóm quinolon mới như ciprofloxacin, ofloxacin, enoxacin…

Điều đáng lưu ý là bệnh nhân lỵ trực khuẩn cấp tính phải được điều trị cách ly, chỉ được ra viện khi nào hết các triệu chứng lâm sàng từ 15-20 ngày, hoặc khi xét nghiệm phân 2 lần không còn thấy bài xuất vi khuẩn.

Để dự phòng tốt căn bệnh này, việc ăn chín uống sôi, dùng thực phẩm bảo đảm vệ sinh an toàn, làm tốt vệ sinh môi trường, diệt ruồi nhặng… là hết sức cần thiết.

Nguyên nhân, phân loại Bệnh trĩ trong Y học cổ truyền

Theo tài liệu cổ của y học Phương Đông bệnh trĩ được phát hiện rất sớm (trên 2000 năm trước). Qua các thời đại có nhiều nhà y học quan tâm nghiên cứu viết thành sách hoặc lưu truyền trong dân gian. Trong đó có y văn kinh  điển như: Nội kinh, Y tông kim giám, Thần nông bản thảo… Nhưng mãi đến năm 1400 Trần Trực Công là tác giả của cuốn ngoại khoa chính tông mới nêu lên phương pháp điều trị toàn diên của Y học cổ truyền Phương Đông – Hải Thượng Lãn Ông trong tác phẩm “Hành giả trân nhu” quyển đoản; “ Bách gia Trân tàng” quyển quí đã nói đến quan niệm nguyên nhân trĩ và phép điều trị. Theo Y học cổ truyền trĩ là chứng trong ngoài hậu môn mọc mụn. Mọc kín trong hậu môn là trĩ nội hoặc lồi ra ngoài hậu môn là trĩ ngoại. Nếu lở loét, chảy máu, mủ, nước hoặc mọc mụn có lỗ chảy nước độc không lúc nào ráo là lậu (rò) hay mạch lươn.

Nguyên nhân gây bệnh

Theo Y học cổ truyền đến nay có thể giải thích nguyên nhân gây ra trĩ: Do khí hư, khí trệ không thăng đề được, hiện tượng này xảy ra ở vùng đại trường làm cho cơ nhục yếu, giáng hạ mạch lạc tổn thương sinh ứ huyết, khí hư, khí trệ và huyết ứ lâu ngày làm mạch lạc giãn sa gây ra trĩ, huyết ứ lâu ngày gây ra chảy máu. Do nguyên nhân nào đó (có thể do táo nhiệt hoặc thấp nhiệt…) làm cho huyết hư, huyết ứ ở đại trường ảnh hưởng đến khí. Khí trệ và hư làm lạc mạch sa giãn gây ra trĩ, huyết ứ lâu ngày sinh nhiệt hoặc nguyên nhân là nhiệt, nhiệt xâm phạm vào huyết phận bức huyết vong hành cho nên kèm theo chảy máu. Có 4 nguyên nhân: phong, thấp, táo, nhiệt kết hợp gây bệnh phong táo có thể nội sinh (sau mắc bệnh ở các tạng phủ: tâm, can, tỳ, thận) có thể ngoại sinh (khí hậu địa phương) gây ra khí hư, huyết ứ (hành kinh, thai nghén, chửa đẻ, bệnh thuộc gia đình, u chèn ép vùng trực tràng hậu môn). Do táo nhiệt ngưng kết ở đại tràng làm khí hư, khí trệ, huyết ứ (táo bón kéo dài). Do thấp nhiệt uất kết ở đại tràng làm khí trệ huyết ứ (gặp trong các bệnh viêm đại tràng, ỉa chảy). Ăn uống thất thường, ăn các chất cay nóng (ớt, rượu) cao lương mỹ vị (các chất khó tiêu) sinh ra thấp nhiệt ở đại tràng, lao động quá sức, ngồi lâu hoặc phòng dục quá độ gây khí trệ huyết ứ dồn xuống dưới đại tràng, hậu môn.

Phân loại

Theo Y văn cổ, người ta chia trĩ ra làm nhiều loại. Sách Nội kinh chia 5 chứng tuỳ tình trạng có tên gọi khác nhau. Sách “ Thần nông bản thảo” chia 5 loại. Sách ngoại khoa “ Sào thị bệnh nguyên” chia 25 loại khác nhau

  • Tuệ Tĩnh phân chia làm 5 loại:
  • Trĩ ngoại: Đi ngoài máu ra trước phân.
  • Trĩ nội : Đi ngoài ra máu và lòi trôn trê.
  • Thử trĩ : Xung quanh hậu môn mụn mọc như đuôi chuột.
  • Nung sang: Đầu hậu môn lỗ thủng lở loét.
  • Trùng trĩ: Nhiều búi trĩ
  • Hải Thượng Lãn Ông phân chia bệnh trĩ làm 5 loại: Mẫn trĩ, tẫn trĩ, tửu trĩ, khí trĩ, huyết trĩ.
  • Ngoại khoa Đại thành (Kỳ khôn đời Càn Long) chia trĩ làm 24 loại [5]: Tạng ung trĩ, toả giang trĩ, phiếm hoa trĩ, liên hoa trĩ, trùng điệp trĩ, nội ngoại trĩ, đởm huyền trĩ, huyết tiễn trĩ, khí tráng trĩ, diên giang trĩ, giang mai trĩ, tử mẫn trĩ, thư hùng trĩ, lăng giác trĩ , bồ đào trĩ, hạnh đào trĩ, thạch lựu trĩ, anh đào trĩ, ngưu mẫn trĩ, kê quán trĩ, kê tâm trĩ, thử vĩ trĩ.
  • Trong YHCT dùng thuốc để điều trị trĩ nội, trĩ ngoại chia 4 loại:
  • Trĩ nội thể huyết ứ (trĩ có xung huyết): Búi trĩ không sa ra hậu môn, đại tiện ra máu tươi, có thể có táo bón. Phép điều trị: Hoạt huyết, lương huyết, chỉ huyết, thăng đề.
  • Trĩ nội thể thấp nhiệt (trĩ có bội nhiễm hoặc do viêm nhiễm gây nên). Búi trĩ sưng đỏ, loét nát, chảy mủ hoặc nước vàng, ngồi khó, có thể sốt, đại tiện táo, nước tiểu vàng. Phép điều trị: Thanh nhiệt, lợi thấp, hoạt huyết, chỉ huyết, hành khí, thăng đề.
  • Trĩ nội thể nhiệt độc: Trĩ ứ huyết lâu ngày nhiệt xâm phạm (giai đoạn đầu của viêm nhiễm). Búi trĩ sưng nóng đỏ, đau rát hậu môn chảy ra máu tươi, chảy mủ hoặc nước vàng. Phép điều trị: Thanh nhiệt giải độc, lương huyết, hoạt huyết, chỉ huyết.
  • Trĩ nội thể khí huyết hư: Trĩ lâu ngày hoặc do các bệnh lâu ngày, toàn thân gây nên trĩ sa ra ngoài, ra máu kéo dài, gầy yếu mệt mỏi, hoa mắt ù tai, sắc mặt xanh xao, đoản hơi, mạch trầm tế. Phép điều trị: Bổ khí huyết chỉ huyết, thăng đề.
  • Về trĩ ngoại có 3 thể:
  • Trĩ ngoại đơn thuần: Y học cổ truyền gọi là thể huyết ứ.
  • Trĩ ngoại nghẽn tắc: Y học cổ truyền gọi là thể thấp nhiệt.

Trĩ ngoại có biến chứng: Y học cổ truyền gọi là thể nhiệt độc

Sai lầm: người bị bỏng không được ngâm nước lạnh

Bị bỏng là bị thương do tai biến thường gặp. Nhất là các phụ nữ chủ gia đình thường bận rộn với các công việc ở bên cạnh bếp có đặt nồi nấu, vẫn không tránh khỏi có những lúc sơ ý bị nước sôi, canh đang sôi, cháo mối bắc ra làm bị thương gây bỏng. Các bà nội trợ chủ gia đình ở Trung Quốc thường có một câu nói lưu truyền từ rất lâu là sau khi bị bỏng lấy xì dầu bôi lên ngay trên mặt chỗ bị bỏng sẽ làm cho không bị nổi bọng nước hoặc ít nổi bọng nước, vết bỏng sẽ nhanh khỏi. Còn các bà nội trợ chủ gia đình ở các nước Âu – Mỹ cũng có một cách nói tương tự như vậy: nếu bị bỏng thì bôi lên đó dầu salad tốt hay dầu quả trám tốt. Cách nói của các bà nội trợ ở Trung Quốc cũng như ở Âu – Mỹ tuy có khác nhau, nhưng đều có một điểm chung là: Dù gì cũng không được nhúng ngâm chỗ bị bỏng vào trong nước lạnh, làm như vậy sẽ dễ nổi mọng nước, dễ bị cảm nhiễm !

Nhưng cho đến hôm nay, theo những điều các chuyên gia y học hiện đại mách bảo chúng ta thì hoàn toàn trái ngược lại với cách nói trên đây: Tuyệt đối không được nhúng chỗ bị bỏng vào các loại xì dầu hoặc các loại dầu ăn khác! Nếu bị bỏng ở tay thì cần lập tức ngâm chỗ tay bị bỏng đó vào trong nước lạnh; nếu là bị bỏng ở trên thân mình thì tưới nước lạnh vào chỗ bị bỏng càng nhanh càng tốt.Diện tích da của cơ thể dựa theo quy tắc số 9

Do vì da con người là vật dẫn nhiệt không tốt, cho nên ở nhiệt độ cao vẫn cần có thời gian nhất định mới có thể truyền vào tầng sâu của da cho nên khi vừa mới bị bỏng, da vẫn chưa mọc mọng nước, cũng chưa bị rách. Nếu lúc bấy giờ lập tức cho bộ vị bị bỏng ngâm trong nước lạnh thì có thể tranh thủ trước khi nhiệt lượng cao gây tổn hại ở tầng sâu làm cho nhiệt lượng đang ở lớp da ngoài cùng với nguồn nhiệt cao còn lại ở trên da bị nước lạnh nhanh chóng tản đi, nhiệt độ sẽ hạ thấp đột ngột, làm cho nhiệt lượng không kịp truyền đưa vào lớp da sâu bên trong. Phương pháp này trong y học gọi là “tán nhiệt cấp”. Trong y học gọi bỏng mới chỉ ở mức độ tấy đỏ, đau rát thôi là bỏng ở độ I; nếu sau khi bỏng đã mọc bọng nước thì căn cứ vào mức độ bọng nước to hay nhỏ, sâu hay nông mà phân chia thành bỏng ở độ II và bỏng ở độ III. Qua “xử lí lạnh” kịp thời như trên có thể làm cho mức độ bị phá hoại của tế bào da giảm đến mức thấp nhất, thường có thể không chế mức độ bỏng ở trong độ II, thậm chí ở trong độ I. Còn nếu bôi xì dầu, bôi các loại dầu ăn hoặc vội chạy vạy đi tìm mua cao chữa bỏng để về bôi, như vậy đều chỉ làm chậm lại thời gian “xử lí lạnh” và sẽ gây tổn hại càng sâu càng rộng vết tổn thương do bỏng.

Một trong những biện pháp cấp cứu bệnh nhân bỏng của Trung tâm cấp cứu bỏng của Mỹ là ngâm tắm lạnh người bị bỏng trong nước lạnh vô trùng. Tuy nước lạnh thông thường chưa qua tiêu độc, nhưng sau khi bị bỏng, chỉ cần da chưa bị rách nát, thì cần nhanh chóng không chút chậm trễ ngâm chỗ bị bỏng vào trong nước lạnh để xử lí tản nhiệt.

Thực tiễn điều trị y học đã chứng minh mức độ bị tổn thương do bỏng trong gia đình và mức độ hiệu quả trong chữa trị tốt hay xấu phần lớn quyết định chính là ở việc xử lí cấp cứu kịp thời sau khi bị bỏng có chính xác hay không. Hiện việc cấp cứu tản nhiệt bằng nước lạnh là phương pháp xử lí cấp cứu kịp thời có hiệu quả nhất, tiện lợi nhất. Nói chung, sau khi bị bỏng, càng sớm nhanh ngâm trong nước lạnh bao nhiêu, hiệu quả càng tốt bấy nhiêu; nhiệt độ nước lạnh càng thấp bao nhiêu hiệu quả càng tốt bấy nhiêu; nhưng không thể thấp dưới – 60°c được, nhiệt độ nước dùng để ngâm chỗ bị bỏng lí tưởng là từ – 60°c đến 12°C; thời gian ngâm chỗ bỏng trong nước lạnh là từ 20 đến 30 phút.

Nếu bị bỏng để quá lâu, không kịp xử lý, đã xuất hiện các bọng nước, khi đó mới ngâm trong nước lạnh thì hiệu quả sẽ rất kém, nhưng vẫn có tác dụng giảm nóng rát, đau đớn, giảm tiết ra chất dịch ở trong các tổ chức, ức chế các bọng nước phát triển, có tác dụng tích cực đối với việc hồi phục sau khi bị bỏng. Nhưng nếu các bọng nước đã bị vỡ loét ra, hoặc chỗ da bị bỏng cháy, thì không được ngâm trong nước lạnh, bởi vì khi đó da đã bị rách nát, các vi khuẩn trong nước sẽ xâm nhập vào cơ thể từ những chỗ rách nát đó, gây cảm nhiễm, hậu quả sẽ trở nên nghiêm trọng hơn.