Blog Trang 483

47 bài thuốc nam chữa vàng da – hoàng đản hiệu quả

  • Chữa Âm hoàng

Nhân trần 40g – Quế 8g
Thổ phục linh 20g – Củ sả 20g
Can khương 15g – Củ nghệ 20g

Các vị trên sắc với 3 bát nước, còn 1 bát mài Quế vào cho uống Tán bột mịn, sắc Nhân trần làm nước thang, mỗi lần cho uống 15-20gam.

* Nếu tiểu tiện không lợi gia Tỳ giải, Xa tiền

  • Chữa Dương hoàng

Rễ cỏ may 40g – Nhân trần 50g
Vỏ núc nác (Hoàng bá nam) sao nước gạo 30g
Quả hoặc lá Dành dành 30g

Sắc với 2 bát nước, còn 1/3 cho uống.

  • Chữa Dương hoàng

Cây và củ rau má 30g – Củ nghệ 20g
Nhân trần 40g – Tỳ giải 20g

Sắc với 2 bát nước còn 1/3 cho uống.

* Nếu đại tiện táo bón gia củ chút chít 20g

  • Chữa chung cả 2 thể bệnh Âm và Dương

Củ cây rau má 40g – Nhân trần 40g

Sắc với một bát rưỡi nước còn một nửa cho uống, nếu là âm hoàng thì sao củ rau má.

  • Nữ lao hắc đản

Phàm người bị hoàng đản, buổi chiều phát sốt sợ lạnh, đó là chứng sinh ra bởi nữ lao, bàng quang đau lói, bụng dưới đầy, khắp mình đều vàng, trên trán đen, dưới chân nóng vì thế thành chứng hắc đản, bụng trướng như có nước, đại tiện đen, không phải bệnh tích nước, trong bụng cảm thấy đầy, phèn chua, tán lấy cháo lúa mì hòa uống mỗi lần 1 thìa, bệnh theo hai đường đại tiện và tiểu tiện mà ra nước tiểu vàng phân đen là đúng.

  • Hoàng đản

Bố chính sâm 5 lạng (sao vàng)
Rau sam 5 lạng (lấy tất cả hoa, hột cành, rễ lá, để sống) Ngâm Rau sam 1 giờ trong nước muôi, bỏ vào với Bố chính sâm nấu nước uống mỗi ngày 3 lần sáng trưa tôi.

Phụ nữ có thai và người đi tiêu lỏng không ăn uống được, tiểu tiện vàng, nhọc mệt thì uống.

  • Vàng da mới phát

Cành liễu sắc lấy nước thật dặc, 1 lần uống 1/2 thăng.

  • Khắp mình, mặt mắt đều như giấy vàng

Nhân trần 1 nắm, Chi tử 24 quả, 2 bát nước, sắc còn 1/2 bát, bỏ bã. Thạch cao 1 cục nướng dỏ, bỏ vào trong nước thuốc cho tan mà uống nóng trùm chăn cho ra mồ hôi lại dùng phấn xoa khắp mình.
Chi tử bỏ vỏ, Chỉ thực bỏ ruột sao, 1 lần dùng 1 đồng cân, đậu xị 5 đồng cân, nước 1 bát, nấu sôi uống nóng
Gia thêm 2 đồng cân Cát căn, 5 phân Cam thảo nướng
Hạt củ cải sao tán, 1 lần uống 1 đồng cân với nước cơm, ngày 3 lần.

  • Chuyên trị mọi chứng vàng da hoặc đi tiểu luôn, hoặc đi tiểu ra máu đều dùng được

Mật ong 1/2 bát, gừng sống 5 lát.
Nước mới múc 1 bát, sắc uống ngày 2 lần, nước tiểu dần dần trong lại, hết vàng da.

  • Chuyên trị mọi chứng vàng da

Rễ bươm bướm, rửa sạch, 1 vài nắm, đổ nước sắc lấy 1/2 bát uống lúc đói.
Ốc nhồi, ngâm cho nhả bùn, nấu chín, lể lấy ruột ăn và uống cả nước, lại dùng vỏ ốc nung thành vôi tán, 1 lần uống 2 đồng cân với rượu.
Hạt Đình lịch, lót giấy trên nồi, bỏ hạt vào rang, Chi tử, Nhân trần, Hoàng cầm đều nhau, sắc uống.
Phương trên thêm Cam thảo, Chỉ thực mà không có Hoàng cầm.
Trứng gà 1 quả, để cả vỏ, nướng khô tán, hòa giấm uống nóng, thấy trùng trong mũi ra là công hiệu, bệnh dầu có vàng lắm uống 3 lần cũng khỏi.
Trứng gà, trộn gạo trần mễ, nấu cháo mỗi sáng ăn 1 quả, lâu ngày rất tốt.
Chẫu chàng 1 con, Phèn đen 3 đồng cân. Hai thứ cho vào mề con gà trông, nấu chín nhừ, bỏ chẫu chàng ăn mề gà, rất hay, không có phèn đen cũng được.

  • Thấp nhiệt da vàng như màu vàng thật

Rễ cây đào lấy lúc mờ sáng, đừng cho đàn bà, gà, chó thấy. Lấy rễ hướng đông, chọn thứ bó bằng chiếc đũa, 1 nắm xắt nhỏ, sắc 1 bát nước còn 1/2 bát, uống lúc đói sau 3-5 ngày, bớt vàng dần như mây tan, 100 ngày mới thật hết vàng, nên thường uống chung với 1 chén rượu cho dễ tan, nếu không thì chậm tan, kiêng ăn thức ăn nóng, thịt lợn, cá.
Dây nho, rửa sạch, giã nát vắt lấy nước cốt 1 thăng, uống, bệnh lâu năm thì ngày uống 2 lần là khỏi.
Rễ cỏ bấc 4 lạng, rượu và nước đều nhau, nấu 1/2 ngày, phơi sương một đêm uống.
Gừng sống, giã nát, thường mang theo tự xát vào mình, bệnh sẽ tự lui.
Phương trên thêm Nhân trần giã lẫn gừng mà xát.
Rễ Ý dĩ sắc uống hoặc giã vắt lấy nước hòa rượu uống.
Cuông dưa đá, Đinh hương mỗi thứ 49 cái, cho vào nồi, đốt tồn tính, tán, mỗi lần dùng 1 đồng cân, thổi vào mũi cho chảy nước vàng ra, hay xát vào răng cho chảy nước miếng ra cũng được.
Hạt Mã đề, tán hòa nước uống 3-5 ngày là khỏi, hoặc uống với nước cơm.

  • Vàng da vì thức ăn tích trệ

Xơ mướp để cả hạt, đốt tồn tính tán, 1 lần uống 2 đồng cân nếu vì ăn mì nhiều mà sinh bệnh thì uống với nước mì, nếu uống rượu mà sinh bệnh thì uống với rượu nóng, vài lần là khỏi.

  • Kinh gỉản, da vàng như vàng thật, ham ngủ, chảy nước miếng

Nhân trần, Bạch tiền bì, đều nhau, 1 bát nước sắc sôi vài dạo, uống ngày 2 lần.

  • Mọi chứng vàng da, mồ hôi vàng như nước Hoàng bá

Mỡ lợn 1 cân, rán lấy nước, ngày uống 2 lần, đại tiện ra được phân táo rắn thì thôi, công hiệu lắm.

  • Vàng da, tức thở, tiểu tiện tự lợi, không nên trừ nhiệt

Chế bán hạ, gừng sống, đều 1/2 cân, 7 thăng nước sắc còn 1 thăng rưỡi chia 2 lần uống, có người bị khí kết mà chết, nhưng tim còn nóng được đổ thuốc này vào miệng là sống lại.

  • Chuyên trị đau mới khỏi, da vàng, bụng trướng to, tiểu tiện không thông

Lá hẹ giã nát cùng với bã rượu và muối trộn đều, đặt vào rốn buộc lại là khỏi.

  • Thâm da đen (hắc đản)

Thiên hoa phấn 1 thăng giã nhỏ, vắt lấy nước cốt 6 cáp uống dần tiểu thấy ra nước vàng thì thôi, chưa ra nước vàng lại uống thêm.

  • Tích rượu, vàng khắp mình

Rễ hoa hiên, giã vắt lấy nước cốt uống
Nhân trần 4 gốc, Dành dành 7 quả, ốc nhồi 1 con cả vỏ, 3 thứ giã nát, nấu sôi 100 dạo, hòa 1 bát rượu, uống. Đây là thuốc bí truyền.
Nhân trần 1 lạng, rượu ngon 1,5 chén, sắc còn 8 phân, uổng nóng xa bữa ăn, vài lần là khỏi.

  • Bệnh hắc đản nguy ngặt

Qua lâu căn 1 cân giã vắt lấy nước, uống 1 lần cho hết thì nước vàng theo đường tiểu mà ra, nếu không thấy ra lại uống nữa.

  • Chữa 5 chứng vàng da

Rễ cỏ tranh tươi 1 nắm, giã nhỏ, lấy 1 cân thịt lợn nấu làm canh mà ăn.

Vị thuốc bạch mao căn
Vị thuốc bạch mao căn – rễ cỏ gianh
  • Chữa 5 thứ bệnh vàng da

Tần giao 1 lạng chia làm 2 gói, mỗi gói tẩm vào 1 thăng rượu, rồi ép lấy nước uống lúc đói, tiểu tiện được thì thôi, người uống được rượu thì mau khỏi hơn, thường dùng có công hiệu.

  • Chữa 5 thứ vàng da

Một quả trứng gà để cả vỏ, đốt ra tro, nghiền nát, lấy rượu 1 cáp hòa ra uống, nếu trong mũi ngứa ngáy có trùng bò là hay, chứng nặng thì chỉ uống 3 lần là khỏi.

  • Vàng da do thấp nhiệt

Sài hồ 1 lạng – Cam thảo 2,5 đồng cân
Rễ cỏ tranh 1 nắm Sắc uống.

  • Bệnh hoàng đản, vàng khắp trong ngoàỉ, nước tiểu đỏ, tâm phiền miệng khô

Tần giao 3 lạng, sữa bò 1 cân, sắc lên, chia 2 lần uống ấm hoặc gia Mang tiêu 6 đồng cân.

  • Hoàng đản, suyễn đầy, tiểu tiện nhiều, hoặc khí kết lại không tan được mà chết ngất, cần phải đắp giữ hơi nóng, sờ ngực tim còn hơi nóng, đổ cho 1 tí thuốc này vào miệng thì có thể sống lại

Bán hạ, gừng sống, mỗi vị nửa cân, sắc lên chia làm 2 lần uống.

  • Cốc đản vì thức ăn tích tu mà sinh ra, lao đản vì nhoc mà sinh ra

Khổ sâm 3 lạng, Long não làm viên. Mỗi lần uống 50 viên với nước cơm trước khi ăn.

  • Bệnh hoàng đản thuộc tỳ, tiểu tiện đỏ sẻn thì nên dùng

Thanh phàn 4 lạng, đốt chảy ra thành hạt, Đương quy 4 lạng, tẩm rượu 7 ngày, muội nồi 3 lạng, lấy thuốc đã tẩm rượu rồi, viên với hồ uống.

Hoặc dùng

Tạo phàn 4 lạng, trộn muội nồi, Ngũ bội tử, mỗi vị 1 lạng, Mộc hương 1 lạng, lấy rượu nấu Thần khúc làm hồ mà viên uống lúc đói với rượu.

  • Sắc da vàng như vàng (kỉm loạỉ) hay ngủ, mửa nưởc dãi

Nhân trần, Bạch tiền bì đều nhau sắc uống 2 lần
Bệnh thời khí sinh ra vàng da.
Trứng gà, ngâm vào rượu và giấm 1 đêm, nuốt lòng trắng vài quả.

  • Khắp mình vàng da

Nhân trần 1 nắm, cùng 1 miếng gừng tươi, giã nát ra, hàng ngày đem xát lên da.

  • Thương hàn vàng da, ngoài biểu nhiệt

Ma hoàng 1 nắm bỏ đốt, bọc vải, nấu với rượu nhạt uống cho ra mồ hôi, mùa xuân mùa hè sắc với nước lã.

  • Ngũ đản (5 chứng hoàng đản)

Cây cối tía thái nhỏ, nước 1 bát, nấu còn nửa. Uống thường xuyên.

  • Chữa Dương hoàng đản

Ma hoàng 12g – Sinh khương 8g
Nhân trần 12g – Rễ mướp đắng 10g

Chi tử 10g
Cam thảo 8g
Đậu đỏ 12g
Liên kiều 10g
Hoàng bá 10g
Đại hoàng 8g

* Cách bào chế và liều dùng:

– Lấy 7 bát nước tiểu trẻ em dưới 8 tuổi (hứng lấy đoạn giữa) cho Ma hoàng vào nước sắc sôi vài dạo gạt bỏ bọt, xong cho cả 9 vị thuốc vào sắc kỹ, lấy 3 bát uống mỗi ngày 3 lần, mỗi lần một bát, lúc thuốc còn hơi nóng.

* Kiêng kỵ: Kiêng ăn chất cay nóng.

  • Chữa Dương hoàng đản

Lá quít 16g
Tinh tre 16g
Nhân trần 16g
Bạch tiền bì 12g
Hạt quả Dành dành 12g
Phèn chua 4g
Long đởm thảo 8g
Hoàng liên 4g
Đại hoàng 8g

Cách sao chế và liều dùng:

Lá quít, Tinh tre, Bạch tiền bì sao qua

Hạt quả Dành dành, Nhân trần sao vàng

Phèn chua 1/2 phi, 1/2 để sống, Long đởm thảo tẩm nước Cam thảo sao, Đại hoàng sao nóng, Hoàng liên tẩm nước mật lợn sao, sao chế xong, các vị đều phơi khô, tán bột, cho vào lọ nút kín để dùng dần.

Liều dùng:
Người lớn ngày uống 2 lần, mỗi lần 2 thìa cà phê,
Trẻ em: 4 tuổi đến 7 tuổi: mỗi lần 1/2 thìa cà phê 8 tuổi đến 10 tuổi: 1 thìa cà phê,

11 tuổi đến 15 tuổi: 1 thìa cà phê vun, mỗi ngày uống 2 lần vào lúc bụng còn đói, uống với nước đun sôi để nguội, phụ nữ có thai vẫn dùng được.

  • Chữa Âm hoàng đản

Quế chi 8g

Nhân trần 16g

Hoàng kỳ 12g

Đảng sâm 12g

Bạch truật 12g
Chích cam thảo 8g
Can khương 8g
Chế phụ tử 4g Hoàng kỳ tẩm mật sao thơm

Bạch truật tẩm nước đất lòng bếp sao vàng Nhân trần sao vàng Can khương nướng sém

Cách dùng:
Các vi sắc với 4 bát nước lấy 1,5 bát chia uống 2 lần, lúc thuốc còn hơi ấm, uống lúc bụng còn đói trước hai bữa ăn.

– Trẻ em tùy lứa tuổi mà uống ít hơn liều người lớn.

* Kiêng kỵ: Kiêng ăn các thức lạnh, sống. Phụ nữ có thai không dùng.

  • Chữa chứng Tửu đản

Sinh địa 16g
Đan bì 8g
Bạch thược 8g
Nhân trần 16g
Chỉ thực 12g
Chi tử 12g
Đậu đỏ 24g
Trần bì 8g
Đại hoàng 4g
Cam thảo 4g
Cát căn 8g

* Cách chế và dùng

Nhân trần, Chi tử, đậu đỏ rang vàng, Trần bì nhúng nước cho mềm cạo bỏ lớp trắng trong vỏ, tất cả sắc với 4 bát nước lấy 2 bát, chia uống 2 lần trong ngày, uống lúc thuốc còn hơi ấm, lúc bụng còn đói.
Không ăn các thức ăn cay, nóng, khó tiêu, kiêng uống rượu, kiêng phòng sự.

  • Chữa bệnh Cốc đản

Sài hồ 12g
Bạch truật 12g
Nhân trần 12g
Chỉ thực 8g
Mật lợn (để ngoài) 1 cái
Cam thảo 4g
Chi tử 12g
Hoàng cầm 12g
Long đởm thảo 12g
Sinh khương 8g
Cách sao chế

– Long đởm thảo tẩm nước sắc, Cam thảo sao, Bạch truật tẩm nước, đất lòng bếp sao thơm, sắc với 3 chén nước chia uống 2 lần trong ngày, uống vào lúc bụng còn đói.

Kiêng kỵ: Không ăn các thứ cay, nóng, khó tiêu, không ăn đậu xanh, măng và rau muống.

  • Chữa chứng Cốc đản

Lá chanh 20g – Phèn chua 20g
Hạt quả Dành dành 40g – Tinh tre 20g
Nhân trần 20g – Long đởm thảo 20g

* Cách bào chế:

– Phèn chua, 1/2 phi, 1/2 để sống

Các vị đều phơi khô, tán bột cho vào lọ dùng dần
Liều dùng:
Người lớn uống mỗi lần 3 thìa cà phê
Trẻ em: 5-10 tuổi: uống mỗi lần 1 thìa cà phê,

11 tuổi đến 17 tuổi: uống 2 thìa cà phê, uống mỗi ngày 2 lần với nước sôi để nguội.

Kiêng kỵ: Không ăn các thức ăn cay, nóng.

  • Chữa bệnh Nữ lao đản

Sinh địa 12g
Đan bì 8g
Trạch tả 8g
Phục linh 8g
Phèn chua (phi) 8g
Qua lâu nhân 12g
Nhân trần 20g
Sơn thù 8g
Hoài sơn 12g
Thục địa 12g

Các vị thuốc trên, sắc với 4 bát nước lấy 2 bát, chia uống 3 lần trong ngày, uống lúc thuốc còn hơi ấm, bụng còn đói,

Kiêng phòng sự, không ăn các thức cay nóng. Nếu dùng thuốc hoàn tán thì cần gấp 2 lần liều lượng trên, tán bột, mỗi lần uống 12g với nước cháo lỏng.

  • Chữa bệnh Hắc đản

Rễ mướp đắng 400g – Nhân trần 160g

Hai vị trên đều dùng tươi, rửa sạch đập dập vắt lấy nước uống (có thể thêm nước sôi để nguội)

  • Chữa bệnh Cốc đản (Do chứng dương hoàng đản thất trị mà sinh ra)

Hoàng cầm 12g – Liên kiều 8g
Hoàng liên 4g – Sài hồ 12g
Chi tử 8g – Hoàng bá 6g
Bạch thược 8g

* Bào chế: sắc với 2 bát nước lấy 2/3 bát, uống vào lúc bụng còn đói, ngày uống 2 lần (trẻ em dùng liều lượng ít hơn)

  • Chữa bệnh Hắc đản (Do âm hoàng đản thất trị mà sinh ra)

Nhân trần (sao) 16g – Bạch truật 12g
Chích can khương 8g – Đảng sâm 12g
Chích cam thảo 8g – Chế phụ tử 8g

Bạch truật tẩm đất lòng bếp sao tất cả các vị sắc với 3 bát nước, lấy 2/3 bát, uống lúc thuốc còn hơi ấm, bụng còn đói.

* Kiêng kỵ: Không ăn các thức sống, lạnh, phụ nữ có thai không dùng.

Chữa ứ huyết

Xuyên quy 12g

Đào nhân 8g

Xuyên khung 12g

Xích thược 12g

Mang tiêu 8g

Quế chi 8g

Bạch truật 12g

Cam thảo 8g

Đào nhân bóc bỏ vỏ lụa,

Xuyên quy tẩm rượu sao khô,

Bạch truật tẩm đất lòng bếp sao,

Cam thảo nướng sém, Mang tiêu nghiền nhỏ, sắc với 6 bát nước lấy 2,5 bát, cho bột Mang tiêu vào đun lại cho sôi vài dạo, chia uống 3 lần vào lúc bụng còn đói, uống hết thuốc trong ngày.

* Kiêng kỵ: Không ăn các chất sống, lạnh, kiêng phòng sự.

  • Chữa bệnh Hoàng đản

Bạch truật 12g – Trần bì 8g
Nhân trần 12g – Hương phụ 20g
Chích cam thảo 8g – Hoàng kỳ 12g

Hoàng kỳ tán nhỏ, mật sao thơm, Bạch truật tẩm đất lòng bếp sao, Trần bì cạo bỏ lớp trắng bên trong sao thơm, Hương phụ giã nhỏ chia làm 4 phần

1 phần tẩm giấm thanh,
1 phần tẩm nước tiểu trẻ con,
1 phần tẩm nước muôi
1 phần tẩm nước vo gạo

Khi nước thấm ướt đều đem sao khô

Tất cả các vị sắc với 3 bát nước còn 2/3 bát, uống lúc thuốc còn hơi nóng, bụng còn đói, ngày uống 2 lần, đêm 1 lần.

  • Chữa bệnh Hoàng đản

Cây cối xay (tẩm mật sao) 12g – Chi tử (sao vàng) 16g
Nhân trần (sao vàng) 16g – Hạt Mã đề 12g
Trần bì (sao sém) 16g – Hương phụ (tứ chế) 20g

* Bào chế: sắc với 3 bát nước lấy 2/3 bát, chia làm 3 lần, ngày uống 2 lần, đêm uống một lần vào lúc bụng còn đói và thuốc còn hơi nóng.

Bản phụ lục

Trên mấy nghìn năm lịch sử, giới Đông y tiền nhân đã tập hợp ghi chép truyền lại trên sách vở nhiều kinh nghiệm chữa nhiều thể bệnh hoàng đản, đa số các y gia thường chia làm hai loại bệnh là dương hoàng và âm hoàng.

Vì vậy, chúng tôi trích đăng dưới đây một số bài thuốc cổ phương để trên lâm sàng, các bạn tùy phương mà áp dụng có sáng tạo, có tổng kết rút kinh nghiệm nâng cao chất lượng điều trị.

  • Dương hoàng đản

Nếu bệnh nhân mệt mỏi, không muôn ăn, lợm giọng buồn nôn, không khát nước, có thể dùng các bài thuốc Nhân trần Quất bì thang hoặc Nhân trần Ngũ linh tán.

  • Nhân trần Quất bì thang:

Nhân trần 12g – Bạch truật 8g
Trần bì 8g – Bán hạ chế 6g
Bạch linh 10g

Bào chế các vị trên, sắc với 2 bát nước lấy 2/3 bát chia uống 2 lần trong ngày.

  • Nhân trần Ngũ linh tán:

Nhân trần 12g – Quế chi 8g
Bạch linh 10g – Trư linh 8g
Trạch tả 8g – Bạch truật 10g

(Cách chế và dùng như bài trên)

Nếu bệnh nhân khát nước nhiều, rêu lưỡi vàng khô, tiểu tiện ít và đỏ là hiện tượng nhiệt nhiều hơn thấp có thể dùng bài Chi tử Bá bì thang.

Chi tử (bỏ vỏ) 12g – Hoàng bá 10g
Cam thảo 6g

(Cách chế dùng như bài trên)

Nếu người nóng, mệt mỏi, ngực tức, ít muôn nói, rêu lưỡi vàng

nhờn, tiểu tiện ít và đỏ là hiện tượng thấp và dùng bài Cam lộ tiêu độc đơn gia giảm.

Nhân trần 12g – Thạch xương bồ
Hoàng cầm 8g – Hoạt thạch 12g
Bạch đậu khấu 4g – Bạc hà 6g
Chỉ xác 6g – Hoắc hương 8g
Mộc thông 8g – Chi tử 8g

(Cách chế và dùng như các bài trên).

  • Âm hoàng đản

Bệnh này phần nhiều do hàn thấp thuộc chứng hư: chủ yếu là ôn vận tỳ dương mà lợi thấp là phụ, dựa theo chứng trạng có thể dùng bài Nhân trần phụ tử can khương thang hoặc Nhân trần tứ nghịch thang.

Nhân trần phụ tử can khương thang

Nhân trần 8g – Quất hồng bì 6g
Bào khương 6g – Trạch tả 8g
Bạch truật 12g – Chỉ thực (vắt cám sao) 4g
Bán hạ chế 6g – Thảo khấu (sao cháy) 8g
Bạch linh 8g – Phụ tử chế 6g
Gừng tươi 3 lát

Sắc với 5 bát nước lấy 1,5 bát chia 3 lần uống trong ngày (ngày 2 lần, đêm uống 1 lần)

Nhân trần tứ nghịch thang

Nhân trần 12g – Phụ tử chế 6g
Bào khương 6g – Chích cam thảo 4g

Các vị trên sắc với 2 bát nước lấy 2/3 bát, chia làm 2 uống trong ngày.

  • Vàng da rất nguy hiểm

Gà trống to, mổ trên lưng, để cả lông và huyết, nhân lúc còn nóng ấp vào ngực bệnh nhân, nguội thì làm con khác, ngày đổi 3-4 con thì hút hết tích độc ra, gà thì đem chôn, không được ăn rất độc.

Cách làm bánh đúc nhân mặn ngon tuyệt

Bánh Việt Nam thường được chế biến từ bột gạo. Gạo là loại lương thực chính của Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Người Việt Nam quan niệm gạo hay các món ăn chế biến từ gạo thì dễ tiêu, chắc bụng mà lại lành. Món bánh đúc được chế biến từ bột gạo, từ lâu đã thành một món ăn quen thuộc của người Việt Nam từ Bắc đến Nam, từ thành thị đến nông thôn. Tuy vậy, chiếc bánh đúc của miền Bắc cũng hơi khác với bánh đúc miền Trung và cũng không giống với chiếc bánh đúc của miền Nam. Món bánh đúc nhân mặn là món bánh miền Nam với hương vị béo, thơm quen thuộc của nước cốt dừa và các nguyên liệu phong phú khác tạo nên một món ăn hấp dẫn…

Nguyên liệu

150g bột gạo tẻ

20g bột năng

200g dừa nạo

50g thịt nạc dăm

50g tôm khô

100g củ sắn xắt sợi

Hành lá, ngò, chanh, ớt

Nước mắm, giấm, đường, nước dừa tươi, dầu ăn

Nguyên liệu làm bánh đúc
Nguyên liệu làm bánh đúc

Thực hiện

Thịt nạc, củ sắn cắt nhuyễn.

Tôm khô ngâm mềm, giã bông.

Dừa nạo vắt lấy 1 lít nước.

Trộn bột với nước cốt dừa. Nêm 1 muỗng cà phê muối, 1 muỗng xúp đường.

Củ sắn luộc, vắt ráo. Xào thịt, củ sắn, tôm khô. Nêm 1 muỗng cà phê đường.

Pha nước mắm: Nước mắm pha dùng để chấm bánh đúc có vị ngọt tự nhiên của nước dừa xiêm và vị chua nhẹ của chanh, được thực hiện với công thức sau: 3 muỗng canh nước mắm, 2/3 chén nước dừa xiêm cô đặc, 1 muỗng canh đường, 1 tép tỏi băm nhỏ, 1 muỗng cà phê nước cốt chanh. Hòa tan nước dừa, đường, nước mắm với nhau, khuấy cho tan đường. Vắt chanh và cho tỏi băm vào. Khi dọn ra mới cho ớt băm vào cho hấp dẫn.

Hấp bánh: Đặt xửng lên bếp, chờ nước trong xửng sôi. Khuôn thoa dầu, cho vào xửng. Cho 1/2 lượng bột vào khuôn. Hấp bột gần chín, cho một lớp nhân vào bánh. Tiếp tục hấp cho bánh chín kỹ. Cho tiếp lượng bột còn lại vào, tiếp tục hấp bánh cho chín.

Khi bánh đúc nhân mặn đã chín
Khi bánh đúc nhân mặn đã chín

Trình bày

Nhắc bánh ra khỏi xửng, để nguội, gắn lá ngò trên mặt bánh.

Thưởng thức thôi nào
Thưởng thức thôi nào

Bánh đúc được ăn với nước mắm pha bằng nước dừa xiêm. Khi ăn, cắt bánh thành miếng nhỏ, vừa ăn (vuông 3 đến 4 cm) xếp ra đĩa, sao cho phần nhân nổi rõ bên trên. Xếp vài lá ngò, ớt. Dọn kèm với nước mắm pha, dọn chung với nước mắm pha.

Cà phê có lợi hay có hại cho tim?

Cà phê là thức uống được nhiều người ưa thích thậm chí có người trở nên nghiện cà phê, không có ly cà phê thì lời văn, ý thơ không ra được, cuộc họp không sôi nổi, bạn bè kém vui khi gặp gỡ nhau…

Vậy trong cà phê có chất gì hấp dẫn đến thế! Trong cà phê có hoạt chất chính là cafein, chất này cũng có trong trà (chè), coca v.v… nhưng trong cà phê có nhiều hơn.

Cà phê có tác dụng kích thích hệ thần kinh trung ương khi nó đang bị ức chế, có người dùng cà phê để chữa đau dây thần kinh và suy nhược thần kinh. Người ta còn dùng cafein trong cà phê, trà để trợ tim và lợi tiểu trong các trường hợp suy tim, hay bị ngất, phù thủng ngoại vi, để làm giãn nở mạch máu trong bệnh co thắt mạch (như bệnh bán thiên đầu thống) và để giải độc trong các trường hợp bị độc thuốc mê, thuốc ngủ.

Tuy vậy cafein cũng có những nhược điểm riêng của nó. Cũng như các loại thuốc kích thích thần kinh khác, không được dùng nó trong các trường hợp thần kinh bị kích động mạnh, trong các trường hợp bị căng thẳng, mất ngủ liên tục, trong bệnh cao huyết áp, bệnh xơ vữa động mạch, trong các bệnh có tổn thương thực thể ở hệ thống tim mạch.

Tóm lại, cà phê là một loại đồ uống có lợi, nhưng bên cạnh đó cũng có những nhược điểm tai hại cho hệ thống tim mạch ở một số đối tượng, nhất là đối với người già. Chỉ nên uống vào buổi sáng với một số lượng vừa phải, tránh uống cà phê vào lúc sau giờ làm việc căng thẳng và vào buổi tối trước khi ngủ.

Bệnh Viêm họng đỏ ở trẻ em

Viêm họng đỏ thường gặp nhiều về mùa lạnh, thời tiết thay đổi. Bệnh thường gặp nhiều từ em bé đến người lớn.

Nguyên nhân do virút, vi khuẩn phế cầu, liên cầu tan máu bêta nhóm A gây nhiều biến chứng.

Triệu chứng toàn thân là bệnh xảy ra đột ngột, sốt cao, nhiệt độ 39-40°C, người ớn lạnh, nhức đầu, đau mình mây, mệt mỏi, kém ăn, ngủ kém.

Triệu chứng cơ năng là lúc đầu, bệnh nhi cảm giác khô, nóng, rát ở trong họng dần dần đau rát trong họng đặc biệt là khi nuốt, khi ho, khi nói thì đau nhói lên tai. Bệnh nhi ho khan, về sau ho từng cơn, có ít đờm nhầy. Giọng nói mất trong, có thể khàn nhẹ. Mũi chảy chất nhầy và tắc mũi.

Thăm khám phát hiện toàn bộ niêm mạc họng đỏ rực, tô chức bạch huyết sau họng đỏ mọng, có những mao mạch nôi gồ lên.

Hai amidan khẩu cái sưng to, đỏ, có lớp nhầy trắng như cháo phủ lên mặt amidan. Trụ trước cà trụ sau sưng to, đỏ. Hạch góc hàm sưng nhẹ, đau.

Mũi xung huyết, xuất huyết nhầy.

Bệnh kéo dài từ 3-5 ngày thì khỏi, các triệu chứng giảm. Song bệnh gây ra một số biến chứng đáng tiếc do không điều trị khỏi bệnh ngay từ đầu.

Viêm tai giữa cấp, viêm thanh khí phé quản cấp, viêm phổi, náu là liên cầu tan máu bêta nhóm A gây viêm nội tâm mạc, viêm khớp, viêm thận, nhiêm khuẩn huyết.

Phòng tránh lạnh, không ăn thức ăn lạnh, không ăn kem, không uống nước đá. Hằng ngày nên ăn chín, uống nước chín.

Nâng cao thể trạng bằng các loại thuốc tăng cường sức đề kháng cho cơ thể để chống tác nhân gây bệnh. Cho trẻ ăn nhiều dưỡng chất, vitamin và các loại quả chín cam, chanh, na, xoài, nhãn, măng cụt, dưa hấu, táo, lê…

Phát hiện bệnh và chữa khỏi dứt điểm đặc biệt là viêm long đường hô hấp trên.

Điều trị toàn thân bằng thuốc hạ nhiệt giảm đau bằng Paracetamol 0,05-0,25 mỗi lần uống, ngày uống hai lần. Chườm nước đá khi sốt cao.

Kháng sinh đủ liều, loại phổ rộng Cefixim 100mg mỗi lần, ngày hai lần, dùng năm ngày liền.

Súc họng bằng nước muối nhiều lần trong ngày và khí dung họng, mũi bằng bạc hà hay kháng sinh cho đến khi bệnh khỏi.

Nâng cao thể trạng cho bệnh nhi bằng các loại thuốc tăng cường sức đề kháng cho cơ thể, cho ăn chế độ dinh dưỡng, nhiều chất đạm, nhiều vitamin.

Bệnh diễn biến xấu hãy đưa trẻ đến bệnh viện thăm khám và điều trị theo nguyên nhân mới tìm.

Cấp cứu xuất huyết não

I. Nguyên nhân:

  • Do tăng huyết áp .
  • XH não sau nhồi máu não
  • Chấn thương đầu.
  • U não di căn
  • Bệnh lý rối loạn đông cầm máu hoặc do giảm số lượng tiểu cầu, do thuốc kháng đông, thuốc chống kết tập tiểu cầu.
  • Thuốc gây nghiện.
  • Dãn mao mạch
  • Dị dạng, vỡ túi phình, u mạch TM hang, dò động-tĩnh mạch màng cứng.
  • Bệnh mạch máu não: thoái hóa dạng bột, viêm động mạch não

II. Chẩn đoán:

1. Lâm sàng:

  • Xuất hiện đột ngột vài giây đến vài phút
  • Có thể có tiền triệu: đau đầu dữ dội, nôn ói
  • Rối loạn ý thức đột ngột và nhanh chóng đi vào hôn mê
  • Dấu hiệu thần kinh khu trú, hội chứng màng não nếu có xuất huyết não- màng não, phù não, rối loạn thần kinh thực vật.
  • Soi đáy mắt có thể có xuất huyết võng mạc, phù gai thị.
  • Chú ý các yếu tố nguy cơ: THA, ĐTĐ, tăng Lipid máu, bệnh cơ tim, bệnh van tim, NMCT, loạn nhịp tim, RL đông máu, bệnh lý tắc mạch máu ngoại biên…Giấy ra viện trước đây, các thuốc đang dùng (nếu có).

2.  Cận lâm sàng:

  • CT-scan, MRI đầu có giá trị chẩn đoán quyết định
  • XN chung: CTM, glycemie, ure, creatinin, ion đồ, Bilan lipid máu, TQ,

TCK, KMĐM, X-quang tim phổi, ECG, tổng phân tích nước tiểu, chọc dò dịch não tủy (nếu nghi ngờ xuất huyết dưới nhện mà CT âm tính).

III. Điều trị chung:

  1. Chăm sóc đường thở: giữ thông đường hô hấp
  • Nằm đầu cao 30° – Thở oxy 2-5l/ph
  • Duy trì PaCO2 30 – 35 mmHg- Xét chỉ định đặt NKQ
  1. Điều trị tăng thân nhiệt: duy trì T° < 38° C
  • Lau mát tích cực
  • Paracetamol 5 – 0.65g / 6h uống hoặc truyền 1g mỗi 6 giờ khi sốt .
  1. Kiểm soát đường huyết: theo phác đồ
  • Khi glycemie > 200 mg% (11.2 mmol/L) cần điều chỉnh bằng insulin
  • Duy trì glycemie 120 – 150 mg% ( 7 – 8 mmol/L)
  1. Dự phòng XHTH: thuốc ức chế bơm proton hoặc kháng H2 (khi cần)
  2. Nước điện giải, nuôi dưỡng và chăm sóc:
  • Truyền 1- 2l NaCl 0,9% trong 24 giờ, những ngày sau tùy theo lượng nước tiểu (không dùng dung dịch nhược trương và dung dịch có đường).
  • Điều chỉnh điện giải theo ion đồ, chú ý hạ kali máu (bù 20-40mmol/d)
  • Quan trọng là nuôi ăn qua đường dạ dày(1300-1500 kalo/ngày)
  • Xoay trở, vỗ lưng, chống loét, vệ sinh răng miệng. Tránh táo bón.

6.  Ổn định huyết áp

Duy trì HA tthu 160-180mmHg hay duy trì HA ĐMTB <130 mmHg

(100-120 mmHg) trong 3giờ đầu. Hạ HA từ từ (giảm 15% HA đmtb/6 giờ).

  • Nếu HA tâm thu > 200mmHg hoặc HA đmtb > 150mmHg:

+ Nicardipin 5-10mg/giờ (pha1 ống 50ml NaCl 0.9%, BTĐ 25 – 50ml/giờ)

+ Hoặc thuốc uống: ức chế men chuyển hoặc ức chế thụ thể Angiotensin, ức chế β, ức chế Canxi (không dùng Nifedipin nhỏ dưới lưỡi).

7.  Điều trị phù não và tăng áp lực nội sọ

  • Nâng cao đầu giường 30°.
  • An thần (Midazolam, Diazepam, Barbituric ) khi bệnh kích thích, vật vã.
  • Duy trì PaCO2 # 30-35
  • Mannitol 20% liều 5 g/kg trong 20-30 phút, mỗi 4-6 giờ

8.  Bảo vệ và dinh dưỡng tế bào thần kinh

– Cerebrolysin 10ml: 10-60ml/24 giờ (pha trong 50-100ml dung dịch muối đẳng trương và truyền chậm tối thiểu trong 20-50 phút). Sử dụng trong 10-20 ngày.

–  Choline alfoscerate (Gliatilin, Atelin) 1-2g TMC/ngày x 4 tuần.

IV. ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT:

a. Không chỉ định phẫu thuật:

  • Xuất huyết nhỏ hay thiếu sót thần kinh nhẹ.
  • Bệnh nhân có tình trạng hôn mê sâu (Glasgow <4điểm)
  • Bệnh RLĐM trầm trọng hay có những bệnh nội khoa khác trầm trọng.
  • Những bệnh nhân tuổi >75
  • Xuất huyết sâu (hạch nền, đồi thị).

b. Có thể có chỉ định phẫu thuật:

  • Những tổn thương có triệu chứng, với hiệu ứng choán chỗ, phù hay di lệch lớn (>1cm) đường giữa trên hình ảnh học.
  • Khối máu tụ kích thước vừa 30 cc ở bán cầu, 10cc ở bán cầu tiểu não.
  • Biểu hiện tăng áp lực nội sọ mặc dù đã điều trị (điều trị nội khoa thất bại)
  • Tình trạng bệnh xấu đi- Bệnh nhân còn trẻ
  • Vị trí phẫu thuật thuận lợi: Ở thùy não, tiểu não, bao ngoài, bán cầu không trội Chỉ định phẫu thuật cho xuất huyết dưới lều: khối máu tụ tiểu não> 3cm đường kính (không nên trì hoãn vì làm lâm sàng xấu đi nhanh chóng).

V. Yếu tố tiên lượng tử vong:

  • Tuổi > 60
  • Glasgow < 9 điểm (lúc nhập viện )
  • Ổ xuất huyết > 80ml
  • Xuất huyết não thất lượng nhiều
  • Huyết áp cao khó kiểm soát
  • Rối loạn hô hấp- Rối loạn thân nhiệt.

Nhân sâm – Những cách sử dụng nhân sâm bồi bổ cho cơ thể

Tên khác:

Thổ tinh, thần thảo, hoàng sâm, huyết sâm, bổng chuỳ, quỉ cái…

Nguồn gốc:

Đây là loại rễ khô của nhân sâm thuộc loài thực vật họ ngũ gia bì. Loại trồng gọi là Viên sâm, loại mọc hoang thì gọi là sơn sâm. Viên sâm phơi khô hoặc sấy khô rồi thì gọi là sinh sài sâm, sau khi chưng sây chế thành dược phẩm khô thì gọi là hồng sâm. Sơn sâm sau khi phơi thành dược phẩm khô thì gọi là sinh sái sơn sâm. Ở Trung Quốc, vùng sản xuất nhân sâm nhiều nhất là các vùng núi cao ở tỉnh Hắc Long Giang, Cát Lâm, Liêu Ninh và miền Bắc tỉnh Hà Bắc. Nhân sâm hiện nay phần nhiều đều là nhân sâm trồng (Viên sâm).

Nhân sâm vị thuốc Bổ khí trong Đông y
Nhân sâm vị thuốc Bổ khí trong Đông y

Phân biệt tính chất và hình dạng:

  1. Phần trên của thân rễ Viên sâm (gọi là lư đầu) chỉ có một phía có bạnh (gọi là lư uyên), lư thô và không có lư tròn, rễ cái dài, vân thô ăn ngang, không có hình xoắn ốc, các nốt sần trên rễ chùm nhỏ mà ít.
  2. Thân rễ(lư đầu) của dã sơn sâm phần trên bốn chung quanh mọc đầy lư uyển, phía dưới có lư tròn khá to hoặc hơi cong, vẫn quen gọi là “nhan bột lư”, đầu trên của rễ cái có vân xoắn ốc nhỏ, dầy đặc và khá sâu. Sơn sâm càng lâu năm thì vân xoắn càng sâu. Trên bộ rễ chùm có nhiều nốt sần, trụ gọi là “trân châu điểm”.
  3. Sinh sái sâm rễ cái hình trụ, bề mặt màu vàng xám, phần trên hoặc toàn bộ con sâm có vân ngang – thô – đứt đoạn – thưa, và vân nhăn dọc rõ rệt, phía dưới có từ hai đến ba rễ nhánh, mọc bộ rễ chùm có nhiều sợi dài và nhỏ, trên bộ rễ chùm thỉnh thoảng có các nốt sần nhỏ không rõ rệt lắm nổi lên. Ớ đầu mút của thân rể có nhiều hình thủ cong queo co quắp, có rễ phụ và những lư uyển thưa thớt. Chất sâm khá cứng, mặt cắt có màu trắng vàng nhạt, lộ rõ có tinh bột. Các lớp vòng tuổi có màu vàng nâu, lớp vỏ màu nâu vàng, đường dẫn nhựa cây lấm chấm đều khắp, có vết nứt hình tên bắn. Có mùi thơm nhẹ đặc biệt, vị hơi đắng, ngọt.
  4. Hồng sâm bề mặt màu nâu đỏ, nửa trong suốt, đôi chỗ có vân tối màu da lươn không thấu sáng, có rãnh dọc, vân nhăn và ngấn rễ nhỏ, phần trên có thể thấy đường vân vòng, phần dưới có 2-3 cái rễ nhánh. Phần gốc có ngân rề. Chất cứng mà giòn, mặt cắt bằng phẳng, có dạng vỏ sừng.
  5. Sinh sái sơn sâm rễ cái to mà ngắn, thường có hai nhánh rễ, xếp thanh hình chữ “nhân”. Bề mặt màu vàng xám, có vân dọc, đầu trên có vân ngang hình vòng nhỏ, dầy đặc mà ăn sãu. Rể chùm nhỏ mà dài, có những nốt sân nổi lên trên bộ rễ chùm rất rõ rệt (trân châu điểm).

Thân rễ nhỏ dài, thường thì dài bằng hoặc hơn rề cái, phía trên có ngán thân (lư uyển) dầy đặc. Rể phụ tương đôi to, thân rễ ở gần rể cái khá láng bóng và không có ngân rễ.

Sinh sái sâm, hồng sâm, sinh sái sơn sâm nếu được loại thân rễ to, chất cứng, lành lặn cả là tốt.

Nên ngâm Nhân sâm ngập trong mật ong là tốt nhất
Nên ngâm Nhân sâm ngập trong mật ong là tốt nhất

Tính vị và công hiệu:

Nhân sâm tính bình, vị ngọt, hơi đắng, lợi về các kinh tì, phế, tâm. Có thể bổ khí cố thoát, sinh ra nước bọt điều tiết cơn khát, ích trí an thần, kiện tỳ bổ phế, trấn tĩnh, giảm đau, chống mệt mỏi.

Chủ trị các bệnh nặng, suy nhược cơ thể do ốm lâu ngày, hư thoát sau khi mất nhiều máu, ra mồ hôi, chân tay giá lạnh, mạch yếu, tỳ vị hư nhược, cơ thể và chân tay mệt mỏi, kém ăn, phổi yếu, ho nhiều, thở hổn hển, nói như đứt hơi, khí huyết hư nhược, mất ngủ, chứng tim đập hồi hộp, đổ mồ hôi trộm, thương nhiệt đầy hơi, ra mồ hôi nhiều khát nước, khí đoản, tinh thần mệt mỏi v.v…

Theo các công trình nghiên cứu hiện đại, sản phẩm này có hàm chứa các chất nhờn nhân sâm, chất chua của nhân sâm, dần bay hơi, đường các loại, và các thành phần như Vitamin B1, Vitamin B2, Vitamin pp v.v…, có tác dụng điều tiết hai chiều đối với hệ thống thần kinh và các phản ứng của cơ thể, có thể tăng cường khả năng miễn dịch đối với cơ thể, nâng cao khả năng phòng bệnh và chống lại các bệnh tật của cơ thể người.

Bảo quản:

Đóng gói đựng trong hộp gỗ hoặc hộp giấy, cho thêm ít cây tế-tân đựng trong lọ có vôi để bảo quản, có thể phòng độc, phòng mọt.

Không đựng chung trong một thùng chứa có chất dễ bay hơi như băng phiến, long nảo, a ngụy v.v… hoặc đựng chung với các thứ thuốc khác.Nhân sâm

Các phương thuốc thường dùng.

  1. Nhân sâm thang: (thang nhân sâm)
  • Nhân sâm 3 – 5g – vỏ quất 10g
  • Đường cát 10g

Nhân sâm, vỏ quất sắc lên lấy nước, pha đường vào, uống thay trà, thích hợp với các chứng:

  • Tỳ khí hư nhược
  • Mỏi mệt mất sức
  • Ăn ít, nhiều đờm.
  • Tim đập nhanh không ổn định.
  1. Nhân sâm trà (Trà nhân sâm)
  • Sinh sái sâm 3g

Thái mỏng, bỏ vào cốc giữ nhiệt, đổ nước sôi vào ù trong nửa giờ.

Pha thêm nước sôi cho đủ ấm, uống lúc sáng sớm ngủ dậy, chưa ăn uống gì, hoặc buổi tối trước khi đi ngủ.

Uống lần đầu tiên trong hai – ba ngày liền.

+ Thích hợp với các chứng hư nhược trong cơ thể.

  • Là vị thuốc quí để kéo dài tuổi thọ.

Chú ỷ. Kiêng ăn hoặc uống các thứ sau để khỏi ảnh hưởng tác dụng của thuốc:

  • Củ cải – Cua
  • Đậu xanh – Nước chè đặc
  1. Nhân sâm chúc (cháo nhân sâm)

(1) – Nhân sâm 10g

  • Giới bạch 12 g
  • Trứng gà (bỏ lòng đỏ) 1 quả
  • Ngô 50 g
  • Nhân sâm sắc nhỏ lửa lấy nước
  • Cho ngô vào nấu cháo, gắn chín

Cho lòng trắng trứng gà và giới bạch vào, đun chín. Chia uống làm hai lần: Buối sớm và buổi tối.

+ Thích hợp với các chứng: Trung gió bán thân bất toại.

  • Bị cảm, buồn bực, bứt rứt
  • Chán ăn
  • Hoặc ngực đau, tê dại
  • Khí hư, mỏi mệt v.v…

(2) – Nhân sâm 10 g

  • Gừng sống 10g- Ngô 100 g

Cho nhân sâm, gừng Sống xay nát thành bột; cùng với ngô hẩm thành cháo loãng.

  • Ăn uống tuỳ ý.

+ Thích hợp với các chứng:

  • Tỳ hư khí nhược
  • Mệt mỏi toàn thân
  • Buồn nôn, chán ăn.
  1. Nhân sâm thăng ma chúc (cháo nhân sâm thăng ma)
  • Nhân sâm 5g – 10g – Thăng ma 3g
  • Gạo lức 30g

Cho nhân sâm vào thăng ma vào sắc lấy nước, hầm chung với gạo lức thành cháo. Ngày dùng một thang. Uống liên tục trong một tuần.

+ Chuyên trị các chúng

  • Khí hư, kinh nguyệt quá nhiều, màu nhạt, chất loãng, trong như nước.
  • Kinh kéo dài
  • Sắc mặt trắng nhợt.
  • Hụt hơi, ngại không muốn nói
  • Đánh trống ngực.
  • Chân tay mềm nhũn không có lực.
  1. Nhân sâm phục linh thang (thang nhân sâm phục linh)
  • Nhân sâm, Phục linh, hai vị lưọng bằng nhau.

Nghiền chung thành bột thó, sắc lảy nước uống thay trà.

Dùng cho người tỳ hư, phu nề, cước khí, phủ thũng .v.v…

  1. Nhân sâm càu kỷ thang (thang nhân sâm câu kỷ tử)
  • Nhân sâm 3g (hoặc đảng sâm 30g)
  • Câu kỷ tử 30g

Sắc uống ngay hai lần.

Dùng cho người khi tinh lưỡng hư sinh ra nhức đầu chống chếnh, mất hoa tai ù, lưng đau gối mỏi, chân tay lạnh giá v.v..

  1. Nhân sâm hoàng kỳ chúc (cháo nhân sâm hoàng kỳ)
  • Nhân sâm 5 g
  • Hoàng kỳ 20g
  • Gạo lức 80g
  • Đường trắng 5g
  • Bạch truật 10g

Nhân sâm, hoàng kỳ, bạch truật bỏ sạch cặn bẩn, gia công thành miếng, ngâm nước lả 40 phút cho nở, sau đó cho vào nồi đất sắc, đun sôi, sau đó đun nhỏ lửa sắc dặc, lấy các miếng thuốc ra: cho nước vào sắc lần 2, trộn lẫn 2 nước. Ngày 2 lần sớm tối, dùng nước thuốc ấy để nấu cháo gạo lức, cho đường trắng vào uống nóng. 5 ngày là 1 liệu trình.

Dùng cho người ngũ tạng hư suy.

  • Khí đoản, tự đổ mồ hôi
  • Tỳ hư ỉa chảy
  • Không thiết ăn uống
  • Khí hư sinh ra phủ nề v.v…
  1. Nhân sâm cáp đản thang (thang nhân sâm trứng chim câu
  • Nhân sâm 6g – Trứng chim câu 3 quả.

Nhân sâm sắc láy thang, trứng chim câu luộc chín. Uống

ngày ba lần, mỗi lần ăn một quả trứng chim, uống một phần thang nhân sâm.

+ Thích hợp với việc chữa ho và phục hồi sau khi dứt do.

  1. Nhân sâm chưng ỏ kê (Nhân sâm hầm gà đen)
  • Nhân sâm10g
  • Gà đen thịt bỏ hết lòng ruột 1 con
  • Một ít muốn tinh vừa phải.

Nhân sâm ngâm mềm, thái mỏng, bỏ vào bụng gà khâu lại, bỏ vào nồi đất, cho thêm muối, đun cách thuỷ cho gà chín nhừ, ăn thịt gà uống thang hầm gà, một ngày 2 – 3 lần.

Thích hợp trị các bệnh do khí hư sinh ra; đặc biệt thích hợp trị bệnh khí hư, kinh nguyệt trước ngày, lượng nhiều, mầu nhạt, chất trong hoặc loãng.

  1. Nhân sâm – Hạn liên thảo chúc (cháo nhân sâm – Hạn liên thảo)
  • Nhân sâm 9g
  • Hạn liên thảo 9g
  • Gạo lức 60g
  • Đường trắng vừa phải.

Sắc hạn liên thảo làm thang, sau đó bỏ bã, cho gạo lức vào cùng đường trắng nấu thành cháo.

Nhân sâm hầm riêng, được thì cho lẫn vào với cháo để uống.

Uống ngày một thang, liên tục trong một số ngày.

+ Thích hợp trị bệnh tử điển có tính chất phản ứng biến thái, do tình trạng khí không dưỡng huyết gây ra.

  1. Nhân sâm chưng kê (nhân sâm hấp gà)
  • Nhân sâm 30g
  • Gia vị thích hợp
  • Gà trống giò 1 con (khoảng 750g)

Cách làm:

  • Gà sau khi giết bỏ đầu, cổ, cánh.
  • Nhân sâm dùng nước ấm rửa sạch đất cát.

Dùng một chiếc liễn canh, bỏ nhân sâm và gà vào, thêm nước dùng muối tinh mì chính, rượu, gia vị, tiêu bột, đậy nắp, cho vào nồi chưng, hấp trong một giờ. Ăn thịt gà, uống thang.

+ Thích hợp trị các bệnh:

  • Huyết áp thấp
  • Suy dinh dưỡng
  • Thiếu máu
  • Tỳ hư thể nhược…

Đối với người già còn có tác dụng chống già yếu.

  1. Khai tâm phì kiện phương (phương thuốc khai tâm, béo, khoẻ)
  • Nhân sâm 150g – Mỡ lá lợn 2000g (2kg)

+ Cách làm: Xay nghiền nhân sâm thành bột, mỡ lá rán lấy mỡ để nguội cất đi mỗi lần uống 1 phần nhân sâm 10 phần mỡ. Uống bằng rượu gạo.

+ Thích hợp chữa trị bệnh mất ngủ, hay quên v.v… do thiếu cả khí lẫn huyết sinh ra.

  1. Nhân sâm cáp giới chúc (cháo nhân sâm tắc kè)
  • Tắc kè 2g
  • Bột nhân sâm 3g
  • Gạo nếp 50 – 100g,

Gạo nếp vo sạch nấu cháo loãng, sau đó cho bột tắc kè, bột nhân sâm vào, trộn đều, uống lúc nóng.

Dùng cho người tỳ thận lưỡng hư sinh ra ho lâu, hen suyễn, mặt phù chân thũng v.v…

  1. Sâm linh chúc (cháo nhân sâm phục linh)
  • Sinh sái sâm 10g
  • Bạch phục linh 15g
  • Gạo lức 100g

Sắc nhân sâm, phục linh lấy nước, cho gạo lức vào nấu cháo, ăn lúc đói.

Khi sắc nhân sâm có thể gói riêng, sắc xong lấy ra, có thể dùng như vậy được 3 lần liền.

+ Dùng để chữa các bệnh:

  • Khí hư ra mãi không cầm
  • Tỳ hư thấp thịnh
  • Hư doanh thiều khí
  • Khí hư trong, loãng
  • Đầy, trướng
  • Không thiết ăn uống
  • Lâu dần sinh ra gầy mòn.
  1. Nhân sâm tam thất thang (thang nhân sâm tam thất)
  • Hồng sâm 30g
  • Tam thất 30g

Nghiền chung thành bột mịn uống ngày 2 lần, mỗi lần l,5g. Uống bằng nước sôi nóng.

Dùng cho người bị đau ngực ở vùng tim, tim đập hốt hoảng, hụt hơi, hiện nay đa phần dùng để chữa bệnh cơ tim, cũng rất thích hợp với người trung niên và người già trong việc phòng bệnh cơ tim.

Những cấm kỵ trong khi dùng thuốc:

  1. Người nào có bệnh thực nhiệt và thấp nhiệt không nên dùng.
  2. Khi dùng nhân sâm phải bỏ phần hư đi, vì nó dễ gây nôn mửa.
  3. Kỵ dùng đồ sắt
  4. Khi pha chế thuốc cấm ky: phản lê lô, ác lai phục tử, sợ ngũ linh chi, không nên dùng chung.

Chân chim leo hoa trắng-Chân chim núi-Chân chim núi đá

Chân chim leo hoa trắng

Thường được sử dụng như các loài Chân chim khác. Trong Y học cổ truyền Thái Lan, lá tươi được dùng trị ho, trị nôn ra máu; dùng ngoài làm thuốc cầm máu và làm săn da.

Chân chim leo hoa trắng – Schefflera leucantha R. Vig. thuộc họ Nhân sâm – Araliaceae.

Mô tả: Cây bụi có thân trườn, ít nhánh. Lá kép với 5-7 lá chét; lá chét dài 8-9,5cm, rộng 1,7- 2,4cm, thon ngược hay thon, màu xám trắng tái; gân phụ lồi ở cả hai mặt thành mạng, cuống dài 5-7cm. Cụm hoa ở ngọn do 5-6 nhánh dài 4-6cm mang tán, cuống 4-6mm; nụ tròn tròn; cuống hoa ngắn; cánh hoa màu hồng nâu; bao phấn trắng. Quả có 5 (6) cạnh, màu cam, cao 5-6mm; cuống 2-4mm, hạt dài 0,7- 0,9mm. Ra hoa tháng 1-2, quả tháng 5.

Bộ phận dùng: Vỏ, lá – Cortex, Folium Schefflerae Leucanthae.

Nơi sống và thu hái: Loài phân bố ở Thái Lan, Việt Nam. Ở nước ta, cây mọc nhiều ở miền Bắc, tại Lạng Sơn, Vĩnh Phú.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Thường được sử dụng như các loài Chân chim khác. Trong Y học cổ truyền Thái Lan, lá tươi được dùng trị ho, trị nôn ra máu; dùng ngoài làm thuốc cầm máu và làm săn da.

Chân chim núi

Chân chim núi – Schefflera petelotii Merr., thuộc họ Nhân sâm – Araliaceae.

Mô tả: Cây nhỏ cao 4-5m; nhánh non có lông vàng; thân mang nhiều vết sẹo do cuống lá rụng để lại. Lá kép có 5 lá chét xoan rộng, dài đến 18 (30)cm, rộng 11cm; mép lá ở phía trên có ít răng to, mặt trên vàng bóng, mặt dưới màu vàng xỉn; gân phụ 5-6 cặp; cuống dài 20cm, có rãnh dọc mảnh. Cụm hoa ngọn nhánh, mang nhánh dài 10cm, có lông vàng, cuống tán dài 8-12mm, cuống hoa 4-5mm; nụ hoa nhỏ. Quả nhỏ, hình cầu. Hoa tháng 5-7.

Bộ phận dùng: Vỏ và lá – Cortex et Folium Schefflera Petelotii.

Nơi sống và thu hái: Cây mọc hoang ở núi đá, gặp ở những nơi từ Lai Châu tới Ninh Bình. Thường hay mọc xen với Bình vôi, Huyết giác. Thu hái vỏ cây quanh năm, tốt nhất khi sắp ra hoa; cũng chế biến như vỏ các loài Chân chim khác. Lá thu hái quanh năm, dùng tươi.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Vỏ cây cũng được sử dụng làm thuốc cường tráng và trị đau mình mẩy. Lá dùng bó gẫy xương. Người ta lấy 50-100g lá giã nát, đắp; dùng vỏ cây làm nẹp, băng lại.

Chân chim núi đá

Chân chim núi đá, Chân chim lớn, Đại đinh hai hột – Macropanax dispermus (Blume) Kuntze (M. oreophilusMiq.), thuộc họ Nhân sâm – Araliaceae.

Mô tả: Cây gỗ cao 12m, cành không lông. Lá mang (3) 5 (7) lá chét không lông, mép có răng, gân phụ mảnh, lá kèm dính vào cuống. Chuỳ mang tán ở ngọn to, có lông hình sao; hoa nhỏ, có đốt trên cuống, nơi đốt cuống phình ra như đĩa; đài không lông, cánh hoa 5; bầu 2 ô. Quả hạch cứng dẹp dẹp. Ra hoa tháng 7-9.

Bộ phận dùng: Rễ – Radix Macropanacis Dispermi.

Nơi sống và thu hái: Loài của Trung Quốc và Bắc Việt Nam. Ở nước ta, cây mọc trong rừng thường xanh lá rộng ở Ninh Bình (Cúc phương) đến Thừa Thiên, trên núi đá vôi.

Tính vị, tác dụng: Vị ngọt, hơi cay, tính bình; có tác dụng kiện tỳ lý khí, thư cân hoạt lạc.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Dân gian dùng làm thuốc trị hậu sản. Ở Trung Quốc (Vân Nam) rễ được dùng trị cam tích trẻ em, gân cốt đau nhức.

Phác đồ điều trị viêm gan C mạn tính

1. Định nghĩa:

Viêm gan mạn tính là bệnh gan có tổn thương hoại tử và viêm, có hoặc không có kèm theo xơ hóa, diễn ra trong thời gian trên 6 tháng.

2. Chẩn đoán:

Lâm sàng:

  • Các triệu chứng lâm sàng thường không đặc hiệu, có thể biểu hiện của đợt triến triển hoặc biến chứng xơ gan: Vàng da, cổ trướng…
  • Khai thác tiền sử vàng da, viêm gan, truyền máu, nghiện chích.

Xét nghiệm:

  • Siêu âm gan 6 tháng một lần.
  • Sinh thiết gan là chỉ định cần thiết để đánh giá truớc khi điều trị
  • SHM: TSH, ure, creatinin, glucose, GOT, GPT, Bilirubin, protid, Albumin, ĐGĐ, aFP, TPT nước tiểu
  • CTM, ĐMCB
  • Anti-HCV, định lượng HCV RNA, định týp HCV

Chẩn đoán xác định:

AntiHCV (+), có HCV RNA, tăng ALT

Chẩn đoán phân biệt: Với các nguyên nhân gây viêm gan mạn tính khác như: virus viêm gan B, tự miễn, do thuốc, rượu.

3. Điều trị:

  1. Chỉ định và chống chỉ định điều trị:

Chỉ định điều trị:

  • Bệnh nhân phát hiện có HCV RNA
  • Tuổi từ 18 trở lên
  • Có tăng ALT
  • Sinh thiết gan cho thấy có viêm gan mạn có xơ hóa đáng kể Metavir ³ 2 hoặc Ishak ³ 3
  • Bệnh gan còn bù: bilirubin toàn phần <1,5mg/dl; INR <1.5; Albumin >
  • 34g/l, tiểu cầu >75g/l, không có cổ trướng không có bệnh não do gan
  • Các chỉ số huyết học và sinh hóa: Hb >13g/l đối với nam và >12g/l đối với nữ bạch cầu trung tính > 1,5G/l, creatinin   bình thường
  • Sẵn sàng tuân thủ điều trị

Chỉ định điều trị tùy theo từng bệnh nhân cụ thể:

  • ALT thường xuyên bình thường
  • Xơ gan mất bù
  • Sinh thiết gan không có xơ hoặc xơ ít với Metavir < 2 hoặc Ishak < 3
  • Viêm gan virus c cấp tính
  • Nhiễm HIV
  • Tuổi <18
  • Hiện tại vẫn đang nghiện rượu
  • Trước đó đã thất bại với điều trị interferon đơn thuần hoặc phối hợp với ribavirin hoặc dùng peginterferon đơn thuần
  • Bệnh thận mạn tính có lọc máu hoặc không
  • Ghép gan.

Chống chỉ định điều trị :

  • Trầm cảm nặng, trầm cảm chưa điều trị được
  • Bệnh nhân ghép thận, tim phổi
  • Viêm gan tự miễn hoặc những bệnh có thể nặng lên do dùng interferon và ribavirin
  • Cường giáp chưa được điều trị.
  • Phụ nữ có thai hoặc không dùng biện pháp tránh thai
  • Bệnh nặng kèm theo: tăng huyết áp nặng, suy tim, bệnh mạch mạch vành nặng, đái tháo đường không kiểm soát tốt, bệnh phổi tắc nghẽn.
  • Trẻ <3 tuổi
  • Mẫn cảm với thuốc điều trị.
  1. Điều trị cụ thể:

Tốt nhất là dùng peginterferon phối hợp với ribavirin

  • Bệnh nhân genotype-1, 4 HCV: peginterferon phối hợp với ribavirin trong 48 tuần. Peginterferon alpha – 2a 180mg tuần dùng 1 lần tiêm dưới da hoặc  peginterferon alpha – 2b 1,5 mg/kg và ribavirin 1000mg/ngày đối người cân nặng ≤ 75 kg và 1200 mg/kg đối với người >75kg.
  • Đối với các genotype 2, 3:  peginterferon phối hợp với ribavirin trong 24 tuần. Peginterferon alpha – 2a 180mg  tuần dùng 1 lần tiêm dưới da hoặc  peginterferon alpha – 2b 1,5 mg/kg và ribavirin 800mg/ ngày.
  • Genotype 6 nên điều trị 48 tuần.

Các loại lựa chọn điều trị khác: phối hợp interferon alpha  và ribavirin

  • peginterferon alpha – 2b : 3 triệu đơn vị tiêm dưới da tuần dùng 3 lần
  • Peginterferon alpha – 2a : 3 triệu đơn vị tiêm dưới da tuần dùng 3 lần
  • Điều trị hỗ trợ:

4. Theo dõi và đánh giá kết quả điều trị:

  • Nếu sau 12 tuần điều trị nồng độ virus giảm < 102 copies/ml được coi là thất bại hoàn toàn và dừng thuốc.
  • Đối với trường hợp điều trị peginterferon phối hợp với ribavirin mà thất bại không có chỉ định tái điều trị kể cả khi thay loại peginterferon khác.

–   Xét nghiệm CTM, tỉ lệ prothrombin, TSH, GOT, GPT, Bilirubin, Albumin vào tuần 1, 2,4,8,12. Định lượng nồng độ virus vào tuần thứ 12, 24, 48. sau khi dừng thuốc 24 tuần cần định lượng lại nồng độ virus nếu vẫn âm tính được goi là điều trị có đáp ứng bền vững.

Cây thuốc bỏng

Cây thuốc bỏng
Cây thuốc bỏng

CÂY THUỐC BỎNG

Tên khác:

Cây sống đời, Diệp sinh căn, Thuốc bỏng, trường sinh, đả bất tử, tầu púa sung (Dao).

Tên khoa học: Kalanchoe pinata (Lam.) Pers., họ Thuốc bỏng (Crassulaceae).

Mô tả: Cây cỏ, sống lâu năm, cao 40 – 60cm. Thân tròn, nhẵn, có đốm tía. Lá mọc đối, nguyên hoặc xẻ 3 thùy, ít khi 5 – 7. Phiến lá dày, mọng nước, có răng cưa tròn ở mép. Hoa mọc thõng xuống, màu đỏ hoặc vàng cam tụ tập thành xim trên một cán dài ở ngọn thân. Quả gồm 4 đại.

Bộ phận dùng: Lá

Phân bố: Mọc hoang và được trồng làm cảnh ở nhiều nơi nước ta.

Thành phần hoá học: Acid hữu cơ : citric, isocitric, malic., flavonoid và một số hợp chất phenolic khác.

Công năng: Tiêu thũng, giảm đau, sinh cơ.

Công dụng: Kháng khuẩn, tiêu viêm. Dùng chữa bỏng, vết thương, lở loét, viêm tấy, đau mắt sưng đỏ, chảy máu, dùng làm thuốc giải độc.

Cách dùng, liều dùng: Dùng trong, ngày 20 – 40g giã tươi, thêm nước và gạn uống. Dùng ngoài, lấy lá tươi giã nhỏ, đắp hoặc chế thành dạng thuốc mỡ để bôi.

Bài thuốc :

– Chữa chấn thương do t ngã, đánh đập; bỏng do lửa hay nước sôi và bỏng do nóng: dùng lá sống đời tươi giã nhuyễn đắp lên.
– Viêm họng: ăn 10 lá sống đời, chia làm 10 lần trong ngày (sáng 4 lá, chiều 4 lá, tối 2 lá), nên nhai ngậm và nuốt cả bã, dùng khoảng 3 ngày.
– Chữa viêm loét dạ dày, viêm ruột, trĩ nội đi ngoài ra máu: lấy một nắm lá tươi (50g), vò lấy nước uống hoặc sắc uống.
– Mất sữa: sáng và chiều mỗi lần ăn 8 lá sống đời; người mất ngủ dùng đơn này, thì giấc ngủ sẽ đến sớm.
– Chữa kiết lỵ và bệnh trĩ: lá sống đời, rau sam mỗi thứ 20g nhai nuốt nước hay sắc uống; hoặc mỗi ngày ăn 20 lá sống đời (sáng 8 lá, chiều 8 lá, tối 4 lá), ăn khoảng 5 ngày.
– Giải rượu: khi say rượu ăn 10 lá sống đời, khoảng 10 phút có tác dụng giải rượu.
– Chữa viêm xoang mũi: giã nát 2 lá sống đời lấy nước thấm vào bông, nút lỗ mũi bên viêm, ngày 4-5 lần; nếu viêm cả 2 bên, thì sáng nút 1 bên, chiều nút 1 bên.
Cách này còn dùng cho người bị chảy máu cam.
– Chữa phong ngứa không rõ lý do: dùng lá sống đời, lá nghễ răm, lá k , lá bồ hòn, nấu nước xông và tắm; dùng thêm lá k đầu ngựa, sắc uống trong vài ngày.
Chú ý: Có thời gian người ta dùng lá cây này như là một loại thuốc chữa bách bệnh.

Bệnh lupus đỏ hệ thống ở trẻ em

Lupus ban đỏ hệ thống là bệnh tự miễn mạn tính gây tổn thương đa cơ quan, đặc trưng bởi viêm hệ thống và sự có mặt của kháng thể tự miễn trong máu. Trong đó, tổn thương thận là yếu tố chính quyết định tiên lượng, tử vong.

CHẨN ĐOÁN

Hỏi bệnh

  • Các yếu tố khởi phát: nhiễm trùng, stress, thuốc (sulfonamides, isoniazide, hydralazin…)
  • Tiền căn: xuất huyết giảm tiểu cầu, thiếu máu tán huyết miễn dịch, các bệnh thận như viêm cầu thận cấp, hội chứng thận hư…, gia đình có ai bệnh lupus?
  • Các triệu chứng: sốt, đau cơ, sưng khớp…

Thăm khám:

Khám toàn diện để đánh giá tổn thương các cơ quan ngoại vi cũng như nội tạng.

Thực hiện các xét nghiệm

Xét nghiệm giúp chẩn đoán

  • Công thức máu, VS, CRP, điện di đạm máu.
  • ANA, LE cell, C3 C4,
  • Các tự kháng thể khác: anti-Sm, anti-Ro, anti-dsDNA…

Xét nghiệm đánh giá tổn thương các cơ quan: Tùy cơ quan bị tổn thương

  • X quang phổi, ECG, Echo tim màu, Điện não đồ, chọc dò tủy sống, soi đáy mắt
  • Chức năng thận, tổng phân tích nước tiểu, cặn lắng nước tiểu
  • Sinh thiết thận: Các trường hợp có tiểu đạm, tiểu máu.

Chẩn đoán:

Chẩn đoán lupus ban đỏ hệ thống dựa vào tiêu chuẩn phân loại của hội thấp học Mỹ 1982 được xem xét và bổ sung lại năm 1997 .

Chẩn đoán Lupus ban đỏ hệ thống: Khi có ít nhất 4 trong 11 triệu chứng sau:

  1. Ban cánh bướm: Hồng ban phẳng hoặc gờ trên mặt da, đối xứng hai bên cánh mũi và xương gò má (giống hình cánh bướm).
  1. Ban dang đĩa: Mảng hồng ban gờ với thâm nhiễm sắc tố và nốt phỏng; sẹo mất sắt tố trong tổn thương kéo dài.
  2. Tăng cảm thụ với ánh sáng: Ban ở mặt khi tiếp xúc ánh nắng (thăm khám hoặc hỏi bệnh sử).
  3. Loét miệng: Loét miệng hoặc mủi họng, thường không đau
  4. Viêm khớp: tổn thương ≥ 2 khớp ngoại biên, đặc trưng bởi sưng, đỏ, phù nề và tràn dịch khớp
  5. Viêm màng phổi, viêm màng

Viêm màng phổi: Bệnh sử có đau và tiếng cọ màng phổi hoặc tràn dịch màng phổi.

Viêm màng ngoài tim: Tiếng cọ màng ngoài tim hoặc tràn dịch màng tim không tơ huyết (X-quang, siêu âm, điện tim).

  1. Tổn thương thận: Có thể gặp một hoặc nhiều biểu hiện sau:

+ Protein niệu dai dẳng > 0,5g/ngày hoặc > (+++) nếu không định lượng được.

+ Tế bào niệu: Hồng cầu niệu hoặc bạch cầu niệu (không có dấu hiệu của nhiễm trùng tiết niệu).

+ Trụ tế bào: Trụ hồng cầu, trụ hạt, trụ ống thận hay hỗn hợp.

  1. Tổn thương thần kinh
  • Co giật hoặc
  • Rối loạn tâm thần, rối loạn nhận thức, viêm đa dây thần kinh không do các nguyên nhân khác
    1. Rối loạn huyết học: Có thể gặp 1 trong các biểu hiện sau
  • Thiếu máu huyết tán tăng hồng cầu lưới hoặc
  • Giảm bạch cầu < 000/mm3hoặc giảm lymphocyte < 1.500/mm3 hoặc
  • Giảm tiểu cầu <000/mm3không do thuốc
    1. Rối loạn miễn dịch: có thể gặp
  • Kháng thể Anti-DsDNA dương tính hoặc

+ Xuất hiện các tự kháng thể: anti Sm, anti RNP, anti Rh, anti La hoặc

+ Kháng thể anti-phospholipid dương tính

  • Bất thường kháng thể IgG, IgM
  • Lupus anticoagulant dương tính.
  • Phản ứng giả giang mai (VDRL) dương tính kéo dài > 6 tháng.
    1. Kháng thể kháng nhân dương tính (ANA)

Chẩn đoán viêm thận lupus:

Khi bệnh nhân được chẩn đoán lupus có một trong các biểu hiện sau:

  • Protein niệu ≥0,3 g/ngày/ 1,73m2 hoặc Up/c ≥ 0,02 g/mmol
  • Đái máu đại thể hoặc vi thể.
  • Mức lọc cầu thận giảm (<90 ml/phút/1,73m2)

Bệnh nhân có viêm thận + không đủ tiêu chuẩn chẩn đoán Lupus, nhưng sinh thiết thận có lắng đọng đầy đủ các phức hợp miễn dịch (fullhouse) thì vẫn được chẩn đoán viêm thận Lupus.

SINH THIẾT THẬN VÀ PHÂN LOẠI MÔ BỆNH HỌC

  1. Chỉ định: Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán viêm thận
  2. Phân loại theo sinh thiết:

Phân loại mô bệnh học viêm thận do lupus theo phân loại của hiệp hội thận học quốc tế/hiệp hội mô bệnh học thận năm 2003 gồm 6 nhóm:

  • Nhóm I : Tổn thương gian mạch tối thiểu
  • Nhóm II : Viêm cầu thận tăng sinh gian mạch
  • Nhóm III : Viêm cầu thận tăng sinh cục bộ.
  • Nhóm IV : Viêm cầu thận tăng sinh lan tỏa
  • Nhóm V : Viêm cầu thận màng.
  • Nhóm VI : Xơ thận

ĐIỀU TRỊ

Biện pháp chung:

Nghỉ ngơi, dùng màn chắn nắng, giáo dục và tư vấn tình trạng bệnh, chủng ngừa, điều trị nhiễm trùng.

Điều trị tổn thương ngoài thận:

Điều trị nhóm triệu chứng ngoại biên: Da niêm, cơ, khớp:

  • Thuốc kháng viêm nonsteroid: dùng trong điều trị viêm khớp, đau khớp,đau cơ. Thuốc thường dùng là Ibuprofen (Naproxen R) liều 10-20 mg/kg/ngày chia 2 lần ngày, thời gian dùng có thể 2-3 tháng. Ngoài ra có thể dùng Aspirine. Thuốc kháng viêm nonsteroid nên tránh dùng khi bệnh nhi bị viêm thận.
  • Thuốc chống sốt rét (hydroxychloroquine hay chloroquine) điều trị tổn thương da, mệt mỏi, viêm khớp, đau khớ Liều dùng hydroxychloroquine 7mg/kg/ngày (liều tối đa 200mg) và chloroquine 4mg/kg/ngày. Thời gian dùng mỗi đợt ít nhất là 3 tháng. Chú ý tác dụng phụ lên võng mạc do đó nên khám mắt toàn diện trước khi dùng thuốc và định kỳ mỗi 6 tháng.
  • Có thể phối hợp với corticoid liều thấp trong điều trị viêm da, viêm khớp, viêm cơ nếu không đáp ứng với các thuốc điều trị trên. Liều prednisone thấp 0,35-0,5 mg/kg/ngày, thường điều trị đợt đầu tiên là 4 tuần sau đó sẽ giảm liều

Các biểu hiện ngoài thận nặng hơn:

Có thể đe dọa tính mạng như viêm khớp không đáp ứng với kháng viêm non steroid, viêm não hay tổn thương thần kinh trung ương, viêm đa màng thanh dịch, tổn thương ở phổi, thiếu máu tán huyết: dùng corticoid liều cao, có thể dùng đường uống 2mg/kg/ngày hay thường dùng methylprednisolon truyền tĩnh mạch 1000mg/1,73 m2 DTCT (tối đa1g/liều) 3 ngày và sau đó chuyển sang prednison uống 1 mg/kg/ngày. Thời gian tấn công tùy thuộc vào bệnh cảnh lâm sàng, đáp ứng lâm sàng cũng như xét nghiệm, Thường tấn công 4-6 tuần, sau đó giảm liều.

Thuốc độc tế bào:

Cyclophosphomide truyền tĩnh mạch chỉ định khi viêm mạch máu, xuất huyết phổi, bệnh lý thần kinh trung ương không đáp ứng sau 3 liều tấn công methyl prednisolone. Chú ý khi bệnh nhi có biểu hiện thần kinh phải loại trừ viêm màng não, lao màng não trước khi chẩn đoán do bệnh lupus đỏ hệ thống

Điều trị tổn thương thận do lupus:

Dựa vào kết quả sang thương giải phẫu bệnh và mức độ hoạt tính của bệnh trên lâm sàng:

Nhóm I: không điều trị đặc hiệu, điều trị các triệu chứng ngoài thận (viêm khớp, sốt, triệu chứng da, niêm mạc).

Nhóm II:

  • Protein niệu < 1g/ngày điều trị theo triệu chứng ngoài thận
  • Protein niệu > 3g/ngày: corticosteroid hoặc coiticoid và cyclosporine.

+ Prednisolon 0,5 – 1g/kg/ngày (tối đa 60mg) trong thời gian 1 – 3 tháng.

Sau đó tùy đáp ứng lâm sàng mà dùng liều 5 – 10mg trong 2 – 2,5 năm.

+ Cyclosporin 3 – 5mg/kg/ ngày cho 1 – 2 năm.

Nhóm III/IV có tổn thương hình liềm

Phác đồ kết hợp Corticoid và Mycophenolate-Calcineurin inhibitors – (CNI)

  • Corticosteroids:
    • Methylprednisolone tĩnh mạch trong 3 ngày/1 tháng x 6 tháng, liều 30 mg/kg/ngày hoặc 1g/1.73 m2DTCT (tối đa 1g).
    • Uống prednisolone liều bắt đầu 1,0 mg/kg/ngày (tối đa 60mg), và giảm 5mg/ngày/tháng sau mỗi liều methylprednisolone tĩnh mạch, tùy thuộc tình trạng bệnh
    • Giảm prednisolone nên tiếp tục hàng tháng trong 12 tháng, có thể chuyển uống cách nhật nếu protein niệu <0.3 g/ngày/1.73m2và xét nghiệm máu thuyên giảm (C3, C4 bình thường).
  • Mycophenolate mofetil (MPA)
    • Uống MPA bắt đầu cùng với methylprednisolone tĩnh mạch
    • Liều: 600mg/m2/12 giờ (15-23 mg/kg/12 giờ) x 2 lần /ngày. Tối đa 1g/12 giờ.
    • Theo dõi công thức máu hàng tháng. Ngừng thuốc nếu bạch cầu trung tính <1.5×109/L.
  • Calcineurin inhibitors (CNI) Cyclosporine A (CsA) và Tacrolimus (Tac)
    • Thêm CsA hay Tac nếu protein niệu dai dẳng (>1g/ngày/1.73m2) sau 3 tháng điều trị, với điều kiện creatinine hay mức lọc cầu thận bình thường
    • Liều:

+ CsA: 3-6 mg/kg/ngày chia 2 lần để đạt ngưỡng nồng độ điều trị 150-200 µg/L

+ Tac: 0.2 mg/kg/ngày chia 2 lần/ngày để đạt được ngưỡng nồng độ 8-10µg/L

– Có thể ngừng CNI sau khi điều trị 3-6 tháng nếu đạt được thuyên giảm

Phác đồ corticoid và cyclophosphamide tĩnh mạch (IVCYC) liều cao: Corticosteroids: (giống phần i)

Cyclophosphamide tĩnh mạch 500-1000 mg/m2 hàng tháng trong 6 tháng, sau đó duy trì:

  • Cyclophophamide tĩnh mạch 3 tháng/lần x 24 tháng hoặc
  • Uống azathioprine 2-2,5 mg/kg/ngày hoặc
  • Uống mycophenolate mofetil 600 mg/m2/1 lần x 2 lần/ngày (tối đa 1g/12 giờ)

Lọc huyết tương

  • Chỉ định: các bệnh nhân có biểu hiện bệnh huyết khối vi mạch
  • Liều: 5-10 lần phụ thuộc đáp ứng của bệnh nhân

+ Sự thuyên giảm của thiếu máu tan máu trong lòng mạch

+ Chỉ số hoạt động của SLE thuyên giảm

+ Hồi phục chức năng thận

Lọc huyết tương nên chỉ định đồng thời với phác đồ lựa chọn ức chế miễn dịch

Rituximab

  • Chỉ định trong bệnh nhân viêm thận lupus không cải thiện hoặc xấu đi sau 6 tháng của điều trị.
  • Liều: Rituximab 375 mg/m2/2 tuần trong 4 tuần
  • Uống co-trimoxazole 3mg/kg/liều cách nhật trong 6 tháng để phòng nhiễm pneumocystis

Nhóm III/IV không có tổn thương hình liềm

Điều trị giống phát đồ nhóm III/IV có tổn thương hình liềm, tuy nhiên liều methylprednisolone có thể ít hơn tùy theo đáp ứng lâm sàng và có thể sử dụng thêm phát đồ IVCYC liều thấp.

Nhóm V

  1. Phác đồ kết hợp Corticoid và mycophenolate – CNI:
  • Corticosteroids: (xem phần 1a), tuy nhiên liều Methylprednisolone tĩnh mạch có thể ít hơn 6 tháng phụ thuộc đáp ứng lâm sàng
  • Mycophenolate mofetil (MPA)

Uống MPA cùng với methylprednisolone tĩnh mạch.

Liều: 600mg/m2 /12 giờ (15-23 mg/kg/12 giờ) x 2 lần /ngày. Tối đa 1g /12 giờ.

  • Calcineurin inhibitors (CNI) (xem phần 1c)
  1. Phác đồ cyclophospamide liều cao Corticosteroids
  • Uống Prednisolon 1.0 mg/kg/ngày (tối đa 60mg/ngày).
  • Giảm 5 mg/ngày hàng tháng, phụ thuộc tình trạng bệnh đến liều thuốc tối thiểu kiểm soát bệnh

Cyclophosphamide tĩnh mạch 500-1000 mg/ m2/1 tháng x 6 tháng, sau đó:

  • Uống azathioprine 2mg/kg/ngày hoặc
  • Uống mycophenolate mofetil 600 mg/m2/1 lần x 2 lần/ngày (tối đa 1g/12 giờ)
  1. Nhóm VI: điều trị triệu chứng ngoài thận và điều trị thay thế thận

Điều trị hỗ trợ

Hydroxychloroquin

  • Liều: 5 mg/kg/ngày (tối đa 300 mg)
  • Chống chỉ định: Bệnh nhân thiếu G6PD vì nguy cơ tan máu
  • Sàng lọc bệnh lý võng mạc hàng năm:

Bất thường thị lực, màu sắc, nhìn mờ, quáng gà.

Bệnh sắc tố võng mạc có thể hồi phục nếu phát hiện sớm.

Điều trị protein niệu

  • Bệnh nhân với protein niệu ≥ 5 g/ngày/1.73m2 nên được điều trị ức chế men chuyển (ACEI) và /hoặc ức chế thụ thể angiotensin (ARB)
  • Chống chỉ định ở phụ nữ có thai

Kiểm soát huyết áp

  • Kiểm soát huyết áp tốt là cần thiết để làm chậm tiến triển bệnh thận mạn.
  • Mục tiêu của kiểm soát huyết áp:

+ Tuổi <18: <90 đơn vị bách phân <50 đơn vị bách phân nếu protein niệu >1 g/ngày/1.73m2

+ Tuổi ≥18: <130/80 mmHg < 125/75 mmHg nếu protein niệu >1g/ngày/1.73m2

  • Kiểm soát tăng lipid máu

Statin nên chỉ định ở những bệnh nhân có LDL cholesterol >3.36 mmol/L Lựa chọn loại Statins: Lovastatin hoặc atorvastatin hoặc simvastatin (lưu ý nguy cơ tiêu cơ, đặc biệt nếu dùng cùng CNI).

  • Tránh dùng thuốc kháng viêm non-steroid nếu chức năng thận giảm (mức lọc cầu thận dưới 90ml/phút/1.73m2

Dị vật đường ăn

Mở đầu

  • Dị vật đường ăn là những vật mắc lại trên đường ăn từ họng xuống đến tâm vị.
  • Là cấp cứu thường gặp trong Tai mũi họng Việt Nam.
  1. Đặc điểm dịch tễ học.
  • Là cấp cứu thường gặp trong Tai mũi họng.

Tỷ lệ tử vong gặp hàng thứ 2 sau biến chứng nội sọ do tai.

  • Tuổi: chủ yếu gặp ở người lớn, cứ 2 người lớn 1 trẻ em.
  • Giới: Nam gặp 57,5%, nhiều hơn nữ 42,5%.
  • Tỷ lệ đến muộn: sau 7 ngày 27%(Võ Thanh Quang – Luận văn nội trú 1987).
  • Bản chất dị vật:
    • Hữu cơ
    • Vô cơ.
    • Nguyên nhân
  1. Giải phẫu bệnh học:
    • Năm chỗ hẹp tự nhiên:
    • Những biến đổi của thực quản khi có dị vật.
  1. Lâm sàng:

3.1. Giai đoạn đầu

  • Không sốt
  • Cơ năng
  • Thực thể

Lọc cọc thanh quản – cột sống có thể giảm hoặc mất.

  • X quang:
    • Phim cổ nghiêng.
    • Phim phổi thẳng.

* Hướng xử trí.

  • Nội soi thực quản gắp dị vật.
  • Chống nhiễm trùng chống viêm.

Phòng biến chứng.

3.2. Giai đoạn biến chứng.

3.2.1. Viêm tấy hoặc áp xe thành thực quản.

– Xuất hiện sau 24 – 48h.

  • Toàn thân.
  • Cơ năng.
  • Thực thể. Mất lọc cọc thanh quản – cột sống.
  • X quang: Phim cổ nghiêng.
  • Hướng xử trí.

– Nội soi thực quản gắp dị vật + Hút mủ. – Đặt sonde thực quản: chống viêm + nuôi dưỡng – Chống nhiễm trùng + chống viêm.

3.2.2. Viêm tấy hoặc áp xe quanh thực quản.

  • Toàn thân
  • Thực thể:
  • X quang: Phim phổi thẳng: trung thất giãn rộng hình ống khói.
  • Hướng xử trí: Xquang Phim phổi thẳng
    • Áp xe thực quản cổ: Mở cạnh cổ.
    • Áp xe trung thất.

Hồi sức tốt. Mở dẫn lưu áp xe, lấy dị vật bằng nội soi hoặc mở lồng ngực.

Chống Shock, chống viêm, chống nhiễm trùng, nâng cao thể trạng tích cực.

3.3. Các thể lâm sàng.

– Dị vật xuyên ra ngoài thực quản.

Dị vật trên bệnh nhân hẹp thực quản.

  1. Biến chứng
  • Viêm tấy mô liên kết lỏng lẻo ở cổ.
  • Viêm trung thất.
  • Viêm phế mạc mủ.
  • Thủng động mạch cảnh
  1. Phòng bệnh
    • Tuyên truyền cộng đồng.
    • Y tế cơ sở.
    • Y tế tuyến chuyên khoa.

Phù trong bệnh thận – tiết niệu

Định nghĩa

Tăng thành phần ngoài mạch của dịch ngoại tế bào. Về biểu hiện lâm sàng: phù là hiện tượng dịch kẽ thâm nhập vào các mô, đặc biệt là mô liên kết dưới da của các phần thấp. Phù toàn thân thường có cổ trướng, tràn dịch màng phổi và đôi khi cả tràn dịch màng ngoài tim.

Sinh lý bệnh

Dịch ngoại bào gồm hai phần (các dịch và chất điện giải): huyết tương (1/4) và dịch kẽ tế bào (3/4), được ngăn cách bởi một màng bán thấm.

Có hai lực đối nhau ở hai bên màng: áp suất thuỷ tĩnh ở trong lòng mạch và áp suất keo của dịch kẽ có xu hướng làm nước đi từ trong mạch ra khoảng kẽ tế bào.

Ngược lại, áp suất thuỷ tĩnh của các mô và áp suất keo bên trong lòng mạch có xu hướng làm nước từ khoảng kẽ đi vào trong lòng mạch.

Ngoài ra, dịch kẽ có thể vào lại lòng mạch qua hệ bạch huyết.

Tất cả các yếu tố trên luôn luôn ở trạng thái cân bằng động. Chỉ cần một trong các yếu tố này bị rối loạn cũng đủ để gây phù.

GIẢM ÁP SUẤT KEO CỦA HUYẾT TUƠNG: áp suất thẩm thấu do các chất keo (áp suất keo) được tạo ra chủ yếu bởi các albumin, là các phân tử nhỏ hơn các phân tử globulin: về phương diện thẩm thấu, 1 g albumin tương đương với 4 g globulin. Ngoài ra, nồng độ các albumin trong huyết tương cao hơn nồng độ globulin 2-3 lần. Giảm các protein trong huyết tương, nhất là albumin, sẽ làm mất cân bằng thẩm thấu và làm cho nước từ mạch đi vào các mô.

Các nguyên nhân gây giảm protein huyết:

  • Mất quá nhiều: protein niệu cao, hội chứng thận hư, bệnh lý của ruột có tiết dịch rỉ viêm.
  • Tổng hợp giảm: bệnh gan, nhất là xơ gan.
  • Cung cấp thiếu: đói, rối loạn hấp thu.

ÁP SUẤT TĨNH MẠCH TĂNG: làm tăng áp suất trong mao mạch và nước đi vào mô.

  • Tăng toàn bộ áp suất tĩnh mạch: suy tim, viêm màng ngoài tim co thắt, ứ nước và natri.
  • Tăng áp suất tĩnh mạch cục bộ: viêm tắc tĩnh mạch, chèn ép tĩnh mạch.

Ứ NƯỚC VÀ MUỐI NATRI: tăng dịch ngoại bào gây ra hậu quả là làm tăng áp suất tĩnh mạch và làm nước đi từ mao mạch ra mô. Trong suy thận cấp và mạn tính, khả năng đào thải natri của thận bị giảm.

RỐI LOẠN TUẦN HOÀN BẠCH HUYẾT: nếu tuần hoàn bạch huyết bị cản trở, nồng độ protein trong dịch kẽ tăng và hậu quả là làm tăng áp suất keo của dịch kẽ. Nước bị kéo từ mao mạch ra.

TĂNG TÍNH THẤM MAO MẠCH: yếu tố này khó xác định nhưng có vai trò trong phù dị ứng và phù do viêm.

GIẢM ÁP SUẤT THỦY TĨNH Ở MÔ: có vai trò phân bố phù, làm phù xẩy ra ở các mô lỏng lẻo nhất (ví dụ, mi mắt). Yếu tố này có thể có vai trò ở các bệnh nhân bị suy kiệt hay tuổi cao.

Căn nguyên

PHÙ THẬN

  • Viêm cầu thận cấp.
  • Hội chứng thận hư.

PHÙ TIM: xem suy tim.

PHÙ GAN: xem xơ gan.

NGUYÊN NHÂN KHÁC: nội tiết (hội chứng căng thẳng tiền mãn kinh, có thai), thuốc (ví dụ, các estrogen), suy kiệt, bị đói lâu ngày.

Chẩn đoán lâm sàng: dấu hiệu đầu tiên của phù được phát hiện ở mặt trong xương chầy, dùng ngón tay cái ấn vào da nơi đó trong 10-20 giây: nếu có vết lõm tồn tại lâu là có phù. Nói chung, phù rõ hoặc phù toàn thân cho thấy có ứ khoảng >3 lít nước. Trong trường hợp này bao giờ cũng phải tìm xem có tràn dịch màng phổi, màng tim, cổ trướng không.

Phân bố phù

PHÙ KHU TRÚ: phù khu trú chỉ ở một chi là hậu quả của viêm tắc tĩnh mạch, chèn ép tĩnh mạch hay phù bạch huyết. Phù này thường có tổn thương da đi kèm (loét, viêm da, eczema). Phù do viêm có đỏ và nóng. Phù thoáng qua ở mặt đôi khi lan xuống lưỡi và niêm mạc mũi-họng là điển hình của phù dị ứng còn gọi là phù Quincke. Phù ” áo choàng ” gặp trong chèn ép tĩnh mạch chủ trên còn chèn ép tĩnh mạch chủ dưới gây phù chi dưới.

PHÙ TOÀN THÂN

  • Phù tim nặng lên vào buổi chiều tối ở các phần thấp và có xu hướng giảm vào ban đêm. Kèm theo có khó thở, khó thở khi nằm do ứ huyết phổi và tĩnh mạch.
  • Phù thận (hội chứng thận hư, albumin niệu rất cao) hay do protein huyết thấp thường rõ hơn vào buổi sáng ở mặt và ở mi mắt.
  • Phù mặt trong viêm màng ngoài tim co thắt, thấy trong lúc ngủ vì bệnh nhân có thể nằm (không có khó thỏ khi nằm).
  • Trong xơ gan thường có cổ trướng và phù ở chi dưới, bìu.

Dạng phù: phù mới, mềm và có dấu hiệu “cái chén” (dấu hiệu gô đê – godet) còn phù mạn tính và phù đã lâu trở nên rắn và khó lõm.

  • Phù do tắc mạch bạch huyết không lõm và có thể rất rắn.
  • Phù có xanh tím tại chỗ thường là do tắc tĩnh mạch.
  • Phù tim thuồng có xanh tím toàn thân.
  • Phù trong hội chứng thận hư hay do protein huyết thấp là phù trắng và mềm.
  • Phù niêm (thiểu năng tuyến giáp) không phải là phù thực sự mà là toàn bộ da bị dầy lên, da lạnh, thô ráp và khô.

Điều trị: điều trị phù trước hết là phải điều trị nguyên nhân.

Điều trị viêm tụy cấp

Vũ Văn Đính

Đại cương

  • Đặc điểm:
  • Cần được vận chuyển bằng xe cấp cứu tới khoa Hồi sức cấp cứu vì hay có truỵ mạch và rối loạn hô hấp.
  • Các biểu hiện lâm sàng chỉ có giá trị định hướng nghi ngờ vicm tụy cấp, xét nghiệm cận lâm sàng có giá trị quyết định chẩn đoán.
  • 90% cần hồi sức nội khoa, 10% phải phẫu thuật vì biến chứng.
  • Nguyên nhân: sỏi mật người nghiện rượu thường gặp nhất.
  • Chẩn đoán:

Lâm sàng: Chỉ nghi ngờ. cần phân biệt với nhồi máu cơ tim thành sau dưới.

Đau thượng vị dữ dội, đau xuyên ra sau lưng, thường xảy ra sau khi ăn no rượu say, đôi khi có phản ứng thành bụng nhưng lại không sốt, đôi khi có các vết tím, điểm sườn thắt lưng đau. Thăm trực tràng: bình thường không đau.

Thường có sốc.

Cận lâm sàng:

  • Amylase máu tăng ít nhất trên 4 lần bình thường, nhưng có thể bình thường. Amylase niệu tăng.
  • X quang:

Chụp phổi tìm ARDS, tràn dịch màng phổi và loại trừ viêm phổi.

Chụp bụng không chuẩn bị: Có hình ảnh tắc ruột do liệt ở hạ sườn trái.

Siêu âm tuỵ và đường mật để loại trừ viêm túi mật.

CT Scan có giá trị quyết định.

XỬ TRÍ

  1. Tại chỗ

Nếu có sốc:

  • Đặt kim tĩnh mạch ngoại biên, truyền dịch, tiêm thuôc giảm đau (Spasfon 1 ống, tiêm tĩnh mạch).
  • Vận chuyển sớm đến khoa Hồi sức cấp cứu.
  1. Tại khoa Hồi sức cấp cứu

  • Đặt ống thông dạ dày, hút dịch vị.
  • Đặt catheter TMTT hồi phục thể tích máu.
  • Truyền dịch.

Ngày 1: Huyết tương 1500 ml + máu nếu cần

Glucose 5% 2500 ml + 10 g NaCl + 1 g CaCỈ2 Natri bicarbonat 1,4% 1000 ml

Cho thêm kali chlorua 1 g/1 nếu bệnh nhân đái được 1 lít.

Ngày 2: Huyết tương 1000 ml + máu nếu cần

Glucose 5% 2000 ml + 8 g NaCl + 1 g CaCl Natribicarbonat 1,4% 500 ml + 4 g KCl cho mỗi lít nước tiểu.

Ngày 3: Huyết tương 500 ml + máu nếu cần

Glucose5% và natri bicarbonat 1,4% như ngày 2.

Các ngày sau:

Truyền dịch theo yêu cầu dựa theo áp lực TMTT và huyết áp, nước tiểu. Lượng máu và huyết tương bằng 10 – 20% tổng sô’ dịch.

  • Chống sốc bằng dopamin, dobutamin, noradrenalin.
  • Giảm đau bằng: Spasíon 3 – 4 ống/ngày tĩnh mạch.

Visceralgin tĩnh mạch theo yêu cầu

  • Theo dõi các biến chứng:

+   Áp xe, XHTH, PPC, suy đa phủ tạng, hoại tử tuỵ.

+   Ổ mủ trong phúc mạc: siêu âm, CT Scanner

  • Phẫu thuật:

+   Nếu có biến chứng ổ bụng: Thủng, nhiễm khuẩn…

+   Cắt cơ tròn Oddi bằng nội soi để lấy sỏi.

  • Kháng sinh

Tiếp tục nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch khi amylase máu trở lại bình thường nhưng chưa có dấu hiệu nhu động ruột.

Chứng Hư lao trong đông y và điều trị

“Hư lao” là tên gọi chung của “ngũ lao”, “thất thương” và “lục cực”. Sách “Nam kinh” có nói về chứng hư tổn và định cách chữa chứng này. Sách “Kim quỹ yếu lược” đem chứng này đặt thành một thiên riêng, lại còn bàn rộng, đã có một hướng mới thêm về cách phân biệt mạch chứng và lập phương dùng thuốc thì gọi kim nguyên thì Lý Đông Viên, và Chu Đan Khê đều có ý kiến độc đáo về chứng “lao quyện”, “độc thương”. Đông Viên sở trường dùng thuốc cam ôn để bổ trung khí, Đan Khê giỏi dùng thuốc tư âm để giáng hoả. Sau đó lại xuất hiện rất nhiều sách vở, như thời Nguyễn thì có sách “Thập thần thư” của Cát Khả Cửu, đời Kim thì có sách “Lý thư nguyên giám” của Ý Thạch, đời Thanh thì có “Bất cự lập” của Ngô Trừng làm cho lý luận và cách chữa “hư lao” càng thêm phong phú.

  1. NGUYÊN NHÂN

Bệnh “hư lao” tuy có nhiều nguyên nhân nhưng quy nạp lại thì không ngoài hai loại lốn là: Bẩm sinh không được đầy đủ, và lao thương quá độ.

  • Bẩm sinh không đầy dủ

Khi thụ thai do cha mẹ tuổi già sức yếu, tinh huyết kém hoặc khi có thai không được điều dưỡng giữ gìn, sự dinh dưỡng thai nhi bị kém. Sách hư lao tâm truyền của Hà Thị đã nêu câu: ” Có trẻ em bị chứng hư lao là vì bẩm thụ tiên thiên bất túc, nhưng do ở bẩm khí của mẹ nhiều hơn” là nói chứng trẻ em do tiên thiên bất túc thì thường thường trong quá trình phát dục có xuất hiện ra các hiện tượng xương mềm, liệt yếu, nếu không chữa sớm có thể phát triển thành chứng hư lao.

  • Lao thương quá độ

“Ngũ lao” thất thường, tích luỹ lâu ngày thành ra. Như thiên “Tuyên mình ngũ khí”, sách “Nội kinh” nói: nhìn lâu hại huyết, nằm lâu hại khí, ngồi lâu hại thịt, đứng lâu hại xương, đi lâu hại gân, đó là bị thương tổn về ngũ lao. Sách “Thiên kim yếu” bàn về “thất thương”, bao gồm cả nội nhân và ngoại nhân cho là ăn no quá thì tổn thương tỳ, giận quá khí xốc lên thì tổn thương can, gắng sức mang nặng quá, ngồi lâu ở chỗ cát ướt thì tổn thương thận, để thân thể bị lạnh và uống thứ lạnh thì tổn thương phế, buồn rầu lo nghĩ thì tổn thương tâm, mưa gió rét nắng thì tổn thương hình thể, khiếp sợ quá không tiết chế được thì tổn thương ý chí, gọi là “thất thương”. Sách “Chư bệnh nguyên hậu luận” của Sào Thị thì “ngũ lao” lại là tâm lao, can lao, tỳ lao, phế lao, thận lao; “lục cực” là khí cực, tâm cực, cơ nhục cực, cốt cực, huyết cực; “thất thương” nói chung là tổn thương về thất tình. Những lời trên đã bổ xung cho thuyết của người xưa. Sách “Y gia yếu” chép:” Chứng “ngũ lao”, “thất thương” và “lục cực” đều căn cứ ở ngũ tạng mà ra, như vậy là đã nắm được chỗ mấu chốt.

Nói tóm lại lúc bé nhỏ bị chứng hư lao, nguyên nhân chính là do tiên thiên, tuổi thanh niên về sau bị chứng hư lao phần nhiều thuộc về thể chất vốn hư yếu và ăn uống, lao thương mà thành ra.

Sách “Y tông kim giám” đem nguyên nhân bệnh “hư lao” tổng hợp vào câu: “dương hư lạnh ở ngoài thì tổn thương phế kinh, âm hư nóng ở trong thì tổn thương thận tạng, ăn uống, nhọc mệt thì tổn thương tỳ kinh”. Mấy câu trên có thể giúp cho việc nhận thức và phân biệt bệnh này.

  1. BIỆN CHỨNG

Chứng hậu của “hư lao” rất nhiều, trong các sách “Nội kinh”, “Nạn kinh” và thiên “Huyết tý hư lao” trong sách “Kim quỹ yếu lược” đều có ghi chép, đời sau trên cơ sở các chứng hậu hư lao đó, lại có phát huy thêm. Nay đem các chứng hậu chủ yếu thường thấy trong lâm sàng, chia ra từng điều nói rõ thêm giúp cho sự phân biệt.

  • Khi rét, khi nóng, tự ra mồ hôi, ra mồ hôi trộm, vệ khí

Hư thì rét ở bên ngoài, dinh huyết kém thì thường thường hiện ra chứng tay chân buồn nóng mà về chiều thì thân mình phát nóng (như nước thủy triều lên xuống đúng lúc).

Tự ra mồ hôi lúc tỉnh, phần nhiều thuộc khí dương bị hư không bảo vệ vững chắc được bên ngoài, ra mồ hôi trộm là ra mồ hôi trong lúc ngủ, tỉnh dậy thì thôi, phần nhiều thuộc âm huyết hư phần không giữ được ở trong, nhưng cũng có dương hư nữa. Còn như sách “Kim quỹ yếu lược” nói “mạch hư nhược tế vì hay đổ mồ hôi trộm” là thuộc về âm và dương đều hư.

  • Choáng váng tai ù, tai điếc

Choáng váng tai ù trong bệnh hư lao đều thuộc về hư cả trên và dưới như thiên “Hải luận” trong “Nội kinh” nói: bể tủy không đầy đủ thì long óc ù tai”, tinh bị thoát thì tai ù.

  • Kinh hãi, hồi hộp, hay quên, mất ngủ, hay chiêm bao.

Kinh hãi hay phát sinh ở người bị bệnh can và tâm hư. Kinh hãi là ý nói tim rung động. Hồi hộp thì mức độ lại nặng hơn kinh hãi.

Hay quên, mất ngủ, mộng nhiều, phần nhiều do tâm và thận đều hư, mà trên dưới không giao tiếp với nhau, thần trí không yên cũng có khi do can và đởm đều hư mà thiên về phần âm hư, Sách “Kim quỹ yếu lược” nói: “Chứng hư lao bực dọc không được dùng bài Toan táo thang làm chủ, tức là chỉ vào chứng không ngủ thiên về âm hư có nhiệt.”

  • Ho ra huyết, khí đoản, suyển thở, khô họng, mất ngủ

Khí của phổi xốc lên ho sặc đường lạc của phổi tổn thương thì khạc ra huyết chủ yếu là phổi bị hư tổn. Khí đoản, suyễn nặng hơn khí đoản.

Cuối cùng âm dịch khô cạn sẽ làm cho họng khô mất tiếng, như chuông vỡ không kêu.

  • Ản ít, đại tiện sệt sệt, đau bụng

Bụng dưới đau, tỳ và vị hư lạnh thì ăn ít, đại tiện sệt sệt, nặng thì chân hỏa của thận cũng suy, đi ỉa ra nước và nguyên thức ăn, bụng dưới đau gấp so với các chứng đi đại tiện sệt sệt thì nặng hơn.

  • Eo lưng đau, di tinh, liệt dương

Eo lưng là ngoại phủ của thận, eo lưng đau do nội thương phần nhiều thuộc về thận hư. Di tinh thì phần nhiều tâm và thận đều hư, có mộng tinh là do tinh không kín đáo, liệt dương thì chân dương của thận suy.

  • Mất máu

Da dẻ nổi vẩy, gầy mòn, ra máu quá nhiều gọi là mất máu, lâu mà không bình phục, cũng thành chứng hư lao. Da dẻ nổi vẩy là chỉ vào da dẻ khô ráo, nặng thì giống như vẩy cá, đồng thời da thịt gầy mòn, là nói rõ huyết dịch không nuôi dưỡng được da thịt mà gây nên. Sách “Kim quỹ yếu lược” nói người huyết khô cạn thì da dẻ nổi vẩy, hai mắt đen tôi, chỉ vào hiện tượng kiêm có huyết ứ đình lại ở trong.

Càn cứ các chứng kể trên (bao gồm cả 5 tạng bị hư lao cùng toàn thân suy nhược) có thể quy nạp làm 4 loại, khí hư, huyết hư, dương hư, âm hư.

Khí hư: Sắc mặt vàng úa, người mệt mỏi, lúc rét, lúc nóng, tự ra mồ hôi. đoản hơi, suyễn thở, mạch nhuyễn nhược, nếu khí hư đến cực độ (tức là dương hư), thì mạch thường chuyển sang trầm tế.

Huyết hư: sắc mặt trắng nhợt không sáng, mắt hoa, đầu choáng, kinh hãi, hồi hộp, da thịt khô ráp, lưỡi nhạt, mạch tế, huyết hư nhiều thì mạch khâu, về phụ nữ thì có những chứng kinh nguyệt khô sáp mà ít, kinh bế tắc.

Dương hư: sắc mặt xanh bợt, đầu choáng mắt hoa, mỏi mệt ít hơi, ngại nói, ăn ít, đại tiện sệt sệt, sđ lạnh chân tay thường không ấm, dương suy, lưỡi trắng nhợt, mạch vi nhược hoặc trầm trì.

Âm hư: có khi gò má đỏ, nóng nẩy hay giận, mất ngủ, ho mất tiếng, nóng có cơn ra mồ hôi trộm, lưỡi ráo họng khô, chất lưỡi đỏ hoặc có rêu xanh, miệng lưỡi nứt đau, hoặc sinh lở miệng, đại tiện táo kết, phần nhiều thấy những chứng mất huyết, di tinh, mạch tế sác hay huyền sác.

Trương Cảnh Nhạc nói: “Phàm tổn thương về thể chất, đều gọi là âm hư”, lại nói “phàm bệnh hóa bệnh thủy nhiều, mà thấy dinh vệ ráo, tân dịch khô, tức là chứng âm hư”. Tân dịch tinh huyết trong thân thể đều thuộc phạm vi âm dịch vì thế mà chứng “âm hư” là bao gồm những chứng “huyết hư” ở trong, cùng chứng tân dịch trong thân thể khô ráo, âm tinh hao tổn do tân dịch không đầy đủ, hư hỏa bốc lên. Chứng “dương hư” là bao gồm khí hư ở trong, nhưng dương hư nặng hơn khí hư. Do đó mà có thể phân biệt được nông, sâu, nặng, nhẹ.

Nói tóm lại “hư lao” tuy có nhiều biện chứng, nếu đem những chứng hư của âm dương khí huyết, chứng hư của ngũ tạng làm cương lĩnh, thì tự nhiên có thể hiểu được đại khái về chững hư lao. Đến giai đoạn cuối cùng của chứng “hư lao” phần lớn là âm dương đều hư, mà âm hư tổn liên cập đến dương thì thường thấy nhiều. Gọi là âm hư tổn liên cập đến dương thì trước tiên là chứng hậu âm hư, rồi sau nhân đó mà khí dương phù việt, đô mồ hôi, da lạnh hoặc chân nguyên muốn tuyệt, ỉa lỏng, suyễn xốc lên, đó là khí hư muốn thoát nguy cấp lắm rồi, cần phải cấp cứu chân dương sắp thoát, nếu chân dương phục hồi mà ra mồ hôi thì lại nên gìn giũ lấy chân âm sắp tuyệt.

Bàn về vong âm, vong dương, Từ Linh Thai nói mồ hôi ra quá nhiều thì khí âm bị kiệt ở trên mà hỏa ở thận (long lôi hỏa theo thủy đưa lên). Nếu dùng thuốc hàn lương để tả hoả, thì hỏa lại càng mạnh, chỉ nên dùng tế sâm phụ liều lượng nhiều, dùng đồng tiện, mẫu lệ làm tá để thuốc dẫn xuống hạ tiêu, đưa chân dương giáng xuống thì hỏa ở thấp trở về vị trí của nó mà mồ hôi cầm ngay. Đó là đã nêu lên nguyên nhân của mồ hôi do vong dương. Cách chữa lại rất thích hợp với chứng hư thoát nguy cấp do chân âm hao tổn liên cập đến chân dương. Còn sự khéo léo linh hoạt trong khi vận dụng thì thường cần phải để ý đến hội chứng trong thực tiễn lâm sàng.

Dự đoán về chứng “hư lao” thì sách “Nạn kinh” nói: ” một là thương tổn ô da và lông, da nhăn mà lông rụng; hai là thương tổn ở mạch máu, mạch máu hư nếu không tưới nhuần được ngũ tạng lục phủ; ba là thương tổn ở cơ thịt, bốn là thương tổn ở gân, gân giãn ra không tự co lại dược, năm là thương tổn ở xương, xương mềm yếu không dạy được khỏi giường. Tổn thương từ trên xuống dưới thì xương mềm yếu không dậy được khỏi giường là chết, tổn từ dưới lên trên thì da nhăn mà lông rụng là chết.

Lưu Hà Giang nói ” Tổn từ trên xuống dưới đã qua vị thì không chữa được, tổn từ dưới lên trên đã qua tỳ thì không chữa được”.

Chứng “hư lao” chú trọng nhất ở khí trung tiêu của tỳ và vị, đã bại thì dự đoán về sau không lành, về mặt trị liệu nên căn cứ vào tình hình cụ thể mà quyết định chứng hư thì nên bổ, nếu hư mà bổ không chịu như chứng hư lao khản tiếng, suyễn thở gấp, gầy mòn đến nỗi bắp thịt tiểu róc hết thì phần nhiều khó chữa, về mạch thì Trương cảnh Nhạc nói “không kể mạch phù trầm, đại tiểu, dần dần thấy mạch hoãn thì có cơ sống được, nêu mạch càng huyền thì bệnh tất nhiên nặng, mạch càng sác thì bệnh tất nhiên nguy” đó là nói rõ mạch huyền sác là hiện tượng nghiêm trọng.

  1. CÁCH CHỮA

Nguyên tắc chữa bệnh “hư lao” thì sách “Nội kinh” nói: “hư tổn thì bổ thận, lao thì ôn dương, sách “Nam kinh” nói: “ Phổi bị tổn thì bổ thêm phần khí, tim bị tổn thì điều hoà dinh vệ, tỳ bị tổn thì điều hoà ăn uống, ấm lạnh vừa phải, gan bị tổn thì điều hoà trung khí, thận bị tổn thì bổ tinh”. Đó là phương pháp lón để chữa chứng “hư lao”. Thiên “Hư lao” trong sách “Kim quỹ yếu lược” thì ngoài việc bổ hư, còn nêu ra phép khu trục ngoại tà chữa huyết bị khô, như thế lại càng đầy đủ hơn. Nay căn cứ vào sự phân biệt về cách chữa dưới đây:

  • Bổ khí

Khí hư thì dùng bài Tứ quân tử (1) gia vị, khí hư bị hãm xuống dưới thì dùng bài Bổ trung ích khí thang (2), biểu hư ra mồ hôi thì nên dùng bài Mẫu lệ tán (3).

  • Dường huyết

Dưỡng huyết thì dùng bài Tứ vật thang (4), ích khí sinh huyết thì dùng bài Đương quy bổ huyết thang (5), bổ cả khí và huyết thì dùng bài Nhân sâm dưỡng vinh thang (6).

  • Tư âm thoái nhiệt

Dùng bài Dưỡng âm lý lao thang (7), Hoàng kỳ miết giáp thang (8)…

  • Phù dương bổ khí

Dùng bài Chứng dương lý lao thang (9), dẫn hỏa quy nguyên thì dùng bài Kim quỹ thận khí hoàn (10).

  • Bổ thận ích tinh

Dùng các bài Lục vị địa hoàng hoàn (11) gia vị, Tả quy hoàn (12), Cảnh Nhạc Đại bổ nguyên tiễn (13)…Nếu thận hư chân liệt dùng bài Hà xa đại tạo hoàn (14).

  • Bổ thận trợ dương

Dùng các bài Hữu quy hoàn (15), Quy lộc nhị tiên giao (16). Bụng dưới căng cứng, cửa tinh không kín đáo thì dùng các bài Quế chi gia Long cốt, Mẫu lệ thang (17), bài Kim toả cố tinh hoàn (18)…

  • Bổ tỳ kiên vị

Làm ấm trung tiêu khỏi đau, dùng bài Tiểu kiến trung thang (19) gia vị. Nuôi dưỡng phần âm của dạ dày dùng bài: Diệp thị dưỡng vị phương (20), tỳ hư tiết tả dùng bài Sâm linh bạch truật tán (21).

  • Bổ phế tư âm

Nhuận phế khỏi ho, dùng bài Tử uyển thang (22), ho ra huyết, phổi bị thương dùng bài Bách hợp cô kim thang (23), ho lâu không khỏi dùng bài Quỳnh ngọc cao (24).

  • Bổ âm an thần

Người bệnh hay quên không ngủ được dùng bài Thiên vương bổ tâm đan (25), mất ngủ thiên về âm hư dùng bài Toan táo nhân thang (26), thiên về huyết hư dùng bài Quy tỳ thang (27), tim đập mạnh hồi hộp, mạch kết đại, dùng bài Chích cam thảo thang (28).

  • Bổ can dưỡng huyết

Dùng bài Đương quy bổ huyết thang (5) gia những vị thuốc về huyết nhục của động vật.

  • Phù chính khu tà

Người bệnh hư lao, dễ cảm ngoại tà, hại đến chính khí dùng thuốc bổ phải kiêm cả đuổi tà, sách “Kim quỹ yếu lược” chép: mọi chứng hư lao bất túc các bệnh về phong khí, dùng Thự dụ viên là bài thuốc bổ hư đuổi tà.

  • Hoạt huyết thông ứ

Huyết khô không trừ đi thì làm trở ngại huyết mái mà nguồn sinh hóa không điều hòa, sách “Kim quỹ yếu lược” chép: 5 chứng lao, hư, cực, gầy mòn, bụng đầy không ăn uống được, thương tổn vì ăn, thương tổn vì lo nghĩ, thương tổn vì uống, thương tổn vì phòng thất, thương tổn vì đói, thương tổn vì mệt nhọc, thương tổn vì khí của kinh lạc vinh vệ, trong người có huyết khí, da đỏ nổi vẩy, hai mắt thâm quầng thì nên điều hòa trung tiêu, bổ hư dùng Đại hoàng giá trùng hoàn (30) làm chủ yếu, dùng vị thuốc nhu nhuận hoạt huyết làm cho kinh lạc, vinh vệ khí huyết lưu thông thì ứ huyết tự nhiên thông. Bài Trần đại phu bách lao hàn (31) ở mục tiểu phẩm phương trong sách Thiên kim yếu phương cũng phỏng theo ý đó lại chữa cả chứng kinh bế của đàn bà.

  1. TÓM TẮT

Chứng “hư lao” thì lấy nguyên khí hao tổn làm đặc trưng. Trương Cảnh Nhạc nói: Chỉ thương tổn nguyên khí thì tức là bệnh hư tổn, hư tổn tức là hư lao.

Nguyên nhân “hư lao”: tuy có liên quan đến tiên thiên mạnh hay yếu nhưng ăn ở có giữ gìn cẩn thận được hay không là có tác dụng quyết định. Bệnh này phần nhiều vì nội nhân gây ra. Còn về ngoại nhân do ngoại cảm rồi dần dần thành hư lao thì Ngô Trừng gọi là “ngoại tổn”.

Khí hư, huyết hư, dương hư, âm hư bao gồm cả hư tổn của ngũ tạng là cương lĩnh biện chứng của bệnh hư lao. Nội thương hiệp ngoại cảm, hiệp huyết ứ, khi biện chứng cũng nên chú ý.

Sách “Nội kinh” đã nêu ra phương hướng chữa chứng hư tổn, sách “Kim quỹ yếu lược” nói về cách chữa bổ hư, chuyên về dương hư, khí hư nhiều hơn, lại nêu ra cách chữa khu tà hành huyết ứ. Đời sau về phương diện chữa âm hư thì lại có thành tựu nổi bật hơn.

Phương pháp chữa hư lao rất nhiều, không thể căn vào 1 thuyết của nhà nào được, cốt xét rõ bệnh cơ nguyên nhân chứng trạng mà chữa, phương pháp không thiếu gì, không nên ỷ lại riêng vào thuốc, nên phối hợp sử dụng cách tập luyện khí công, châm cứu, xoa bóp, mà việc điều hòa sinh hoạt hàng ngày ảnh hưởng đến hiệu quả chữa bệnh, nắm vững phương pháp bổ hư và thời cơ là mấu chốt để chữa chứng hư lao.

  1. PHỤ PHƯƠNG

  1. Tứ quân tử thang: Nhân sâm, bạch truật, phục linh, cam thảo.
  2. Bổ trung ích khí thang: Hoàng kì, bạch truật, trần bì, thăng ma, sài hồ, đảng sâm, chích thảo, quy thân.
  3. Mẩu lệ tán: Mẫu lệ, hoàng kỳ, ma hoàng căn, phù tiểu mạch.
  4. Tứ vật thang: Đương quy, xuyên khung, bạch thược, thục địa (hoạt huyết thì dùng xích thược).
  5. Đương quy bổ huyết thang: Đương quy, hoàng kỳ.
  6. Nhân sâm dưỡng vinh thang: Nhân sâm, hoàng kỳ, bạch truật, đương quy, chích thảo, quế tâm, trần bì, thục địa, ngũ vị tử, phục linh, viễn chí, bạch thược, can khương.
  7. Dưỡng âm lý lao thang: Nhân sâm, mạch đông, ngũ vị tử, đương quy, bạch thược, sinh địa, quy bản, nữ trinh tử, ý dĩ nhân, quất hồng, đan bì, liên tử, bách hợp, chích thảo. Nhiều mồ hôi không ngủ được thì thêm táo nhân, có táo đờm thêm tang bì, bối mẫu, có thấp đờm thêm phục linh, bán hạ, ho khạc ra huyết thêm a giao, nóng trong xương thêm địa cốt bì.
  8. Hoàng kỳ miết giáp thang: Hoàng kỳ, miết giáp, thiên đông, địa cốt bì, tần giao, phục linh, sài hồ, tứ uyển, bán hạ, tri mẫu, sinh địa, bạch thược, tang bì, chích thảo, nhân sâm, nhục quế, cát cánh thêm gừng sắc.
  9. Chứng dương lý lao thang: Nhân sâm, chích thảo, hoàng kỳ, bạch truật, trần bì, nhục quế, đương quy, ngũ vị tử, sợ lạnh thêm phụ tử; đi tả thêm kha tử, nhục khấu, mộc hương.
  10. Kim quỹ thận khí hoàn: Xem số 6 phụ phương mục suyễn háo.
  11. Lục vị địa hoàng hoàn: Thục địa, sơn thù, sơn dược, đan bì, phục linh, trạch tả, để thu liễm phế khí khỏi ho thêm mạch môn, ngũ vị tử gọi là bát tiên trường thọ hoàn, tướng thịnh vượng thêm tri mẫu, hoàng bá, gọi là tri bá bát vị hoàn. Mắt hoa, đầu choáng, sắc mặt kém, thêm câu kỉ tử, cúc hoa, gọi là Kỉ cúc địa hoàng hoàn. Phần huyết của can hư, thêm đương quy, bạch thược gọi là Quy thược địa hoàng hoàn, thấy có cả phế hư thêm nhân sâm, mạch đông gọi là Sâm mạch lục vị hoàn. Hợp với sinh mạch tán gọi là Sinh mạch địa hoàng thang.
  12. Tả quy hoàn: Tức là Hữu quy hàn bỏ phụ tử, nhục quế, đương quy, đỗ trọng gia cao, quy bản, phục linh, ngưu tất.
  13. Đại bổ nguyên tiễn: Nhân sâm, sơn dược, thục địa, đỗ trọng, đương quy, sơn thù du, câu kỷ tử, chích thảo.
  14. Hà xa đại tạo hoàn: Tử hà xa, đẳng sâm ,thục địa, đỗ trọng, ngưu tất, thiên môn đông, mạch đông, quy bản, hoàng bá phục linh.
  15. Hữu quy hoàn: Cao gạc hươu, câu kỷ tử, thỏ ty tử, thục địa, sơn dược, sơn thù, đỗ trọng, đương quy, phụ tử, nhục quế.
  16. Quy lộc nhị tiên giao: Gạc hươu, mai rùa, câu kỷ tử, nhân sâm.
  17. Quế chi gia long cốt mẫu lệ thang: quế chi, thược dược, cam thảo, sinh khương, đại táo, long cốt, mẫu lệ.
  18. Kim toả cố tinh hoàn: Khiếm thực, liên tu, bạch tật lê, long cốt, mẫu lệ, liên tử, dùng hồ làm viên.
  19. Tiểu kiến trung thang: Quế chi, thược dược, cam thảo, sinh khương, đại táo, di đường, vệ khí hư thêm hoàng kỳ, dinh huyết hư thêm đương quy.
  20. Diệp thị dưỡng vị phương: Mạch đông, sinh biển đậu, ngọc trúc, cam thảo, tang diệp, sa sâm, trong phương này có thể thêm những vị cốc nha sống, trần bì, bạch truật, sa nhân, thạch hộc, tri mẫu; táo lắm thì thêm cam gia trấp (nước mía).
  21. Sâm linh bạch truật tán: Nhân sâm, phục linh, bạch truật (thổ cao), trần bì, sơn dược, chích thảo, sao biển đậu, sao liên nhục, xa nhân, ý dĩ nhân, cát cánh.
  22. Tứ uyển thang: Nhân sâm, tử uyển, tri mẫu, cát cánh, xuyên bối, phục linh, a giao, ngũ vị tử, chích thảo.
  23. Bách hợp cố kim thang: Sinh địa, mạch đông, bối mẫu, bách hợp, đương quy, thược được, cam thảo, huyền sâm, cát cánh.
  24. Quỳnh ngọc cao: Địa hoàng 4 cân, phục linh 12 lạng, nhân sâm 6 lạng, bạch truật 2 cân, trước hết đem địa hoàng nấu bỏ bã, cho mật vào cô đặc, lại đem bột nhân sâm, phục linh tán nhỏ hoà vào, đóng vào lọ sành bịt kín để nước nấu nửa ngày dùng nước sôi hoà tan uống. Cù tiên gia thêm hổ phách, trầm hương, mỗi thứ 5 đồng cân.
  25. Thiên vương bổ tâm đan: Sinh địa, (rửa rượu) nhân sâm, huyền sâm, đan sâm, phục linh (có phương lại dùng phục thần), cát cánh, viễn chí, toan táo nhân, bá tử nhân, thiên đông, mạch đông, đương quy, ngũ vị tử, viên với mật to bằng viên đạn, châu sa làm áo, khi đi ngủ uống 1 viên với nước đăng tâm (có phương lại có vị xương bồ).
  26. Toan táo nhân thang: Toan táo nhân, tri mẫu, xuyên khung, phục linh, cam thảo.
  27. Quy tỳ thang: Nhân sâm, bạch truật (thổ sao), phục thần, táo nhân (sao), long nhãn, chích hoàng kỳ, đương quy, viễn chí, mộc hương, chích thảo, khương, táo.
  28. Chích cam thảo thang: Chích cam thảo, Nhân sâm quế chi, a giao, sinh địa, ma nhân, sinh khương, đại táo.
  29. Thự dự viên: Thự dự 30 phân, đương quy, quế chi, thần khúc, can địa hoàng, đậu hoàng quy, đều 10 phân, cam thảo 2 phân, Nhân sâm 7 phân, khung cùng, thược dược, bạch truật, sài hồ, mạch đông, hạnh nhân, đều 6 phân, cát cánh, phục linh đều 5 phân, a giao 7 phân, can khương ba phân, bạch liên 2 phân, phòng phong 8 phân, đại táo 100 quả, 20 vị trên tán bột, luyện mật làm viên to bằng viên đạn, mỗi lần uống 1 viên với rượu khi đói bụng.
  30. Đại hoàng giá trùng hoàn: Đại hoàng 10 phân chưng lên, hoàng cầm hai lạng, cam thảo 3 lạng, đào nhân 1 lạng, hạnh nhân 1 lạng, xích thược dược 4 lạng, can địa hoàng 10 lạng, ngưu tất 1 lạng, mạch trùng 1 lạng, thủy điệt 100 gam, tế tân 1 lạng, giá trùng 1/2 thang, 12 vị trên tán nhỏ luyện mật làm viên to bằng bột đậu nhỏ, mỗi lần uống 5 viên với rượu ngày uống 3 lần.
  31. Trần đại phu bách lao hoàn: cẩm vân đại hoàng 4 đồng cân, nhũ hương, một dược, đương quy, đều 2 đồng. Nhân sâm 2 đồng, đào nhân (bỏ vỏ và đầu nhọn) nghiền bét như bùn, giá trùng, thủy điệt đều 14 con sao, các vị trên tán bột nhỏ luyện mật làm viên to bằng hột ngô đồng.

Ung thư biểu mô tế bào đáy: Nguyên nhân và điều trị

Carcinoma tế bào đáy

Carcinoma tế bào đáy là gì?

Carcinoma tế bào đáy là một loại ung thư phát triển trên các phần da tiếp xúc nhiều với ánh nắng mặt trời. Thật tự nhiên khi cảm thấy lo lắng khi bác sĩ thông báo bạn mắc phải căn bệnh này, nhưng hãy nhớ rằng đây là loại ung thư da ít nguy hiểm nhất. Miễn là bạn phát hiện sớm, bạn có thể được chữa khỏi.

Các khối u bắt đầu dưới dạng những cục u nhỏ, bóng, thường xuất hiện trên mũi hoặc các phần khác của khuôn mặt. Nhưng bạn có thể gặp chúng ở bất kỳ phần nào trên cơ thể, bao gồm thân, chân và tay.

Loại ung thư này khó có khả năng di căn từ da đến các phần khác của cơ thể, nhưng nó có thể xâm lấn vào xương hoặc các mô khác dưới da. Nhiều phương pháp điều trị có thể ngăn điều đó xảy ra và loại bỏ ung thư.

Carcinoma tế bào đáy thường phát triển rất chậm và thường không xuất hiện trong nhiều năm sau khi tiếp xúc mạnh hoặc lâu dài với ánh nắng mặt trời. Bạn có thể mắc phải căn bệnh này ở độ tuổi trẻ hơn nếu bạn tiếp xúc nhiều với ánh nắng mặt trời hoặc sử dụng giường tắm nắng. Nếu bạn có làn da sáng, bạn có nguy cơ cao hơn.

Khác biệt giữa melanoma và carcinoma tế bào đáy

Carcinoma tế bào đáy bắt đầu từ phần sâu nhất của lớp ngoài da, gọi là biểu bì. Melanoma bắt đầu từ các tế bào gọi là melanocyte, chúng tạo ra melanin, sắc tố mang lại màu sắc cho da. Melanin cũng là hàng rào bảo vệ tự nhiên của cơ thể chống lại việc ánh nắng làm hại các lớp da sâu hơn. Melanoma ít phổ biến hơn carcinoma tế bào đáy, nhưng có nguy cơ cao hơn bị di căn nếu không được điều trị.

 

Carcinoma tế bào đáy thường bắt đầu dưới dạng một khối u nhẵn với những mạch máu nhỏ, thường ở mũi của bạn. Nó có thể xuất hiện khác nhau trên các màu da khác nhau. Đây là dạng ung thư da ít nguy hiểm nhất, nhưng việc điều trị là quan trọng để ngăn nó lan rộng.

Triệu chứng carcinoma tế bào đáy

Carcinoma tế bào đáy có thể có nhiều hình dạng khác nhau. Dưới đây là năm dấu hiệu cảnh báo bạn nên chú ý:

  1. Một vết thương hở không lành. Nó có thể tiết dịch hoặc máu hoặc hình thành vảy. Nó có thể biến mất rồi lại xuất hiện.
  2. Một vùng da đỏ, nhìn có vẻ bị kích ứng. Điều này có thể xuất hiện trên khuôn mặt, ngực, vai, cánh tay hoặc chân. Nó có thể không gây khó chịu cho bạn. Hoặc nó có thể ngứa hoặc hình thành vảy.
  3. Một cục u bóng. Trên da trắng, nó có thể xuất hiện như ngọc trai, trong suốt, hồng, đỏ hoặc trắng. Trên da tối màu, nó có thể là nâu, đen hoặc nâu nhạt. Nếu bạn có làn da tối màu, bạn có thể nhầm nó với một nốt ruồi.
  4. Một sự phát triển nhỏ màu hồng với mép hơi nhô lên và một vết lõm có vảy ở giữa. Bạn có thể thấy những mạch máu nhỏ trên bề mặt.
  5. Một vùng da trông như sẹo. Nó có thể trắng, vàng hoặc bóng. Da có thể sáng bóng và căng. Vùng này có thể không có biên giới rõ ràng.

Điều gì xảy ra nếu bạn gãi một carcinoma tế bào đáy?

Carcinoma tế bào đáy rất mỏng manh và có thể chảy máu dễ dàng.

Nguyên nhân của carcinoma tế bào đáy

Carcinoma tế bào đáy là loại ung thư da phổ biến nhất, chiếm 90% ung thư da tại Hoa Kỳ. Nó do tổn thương da do ánh nắng mặt trời gây ra. BCC gây ra những cục u nhỏ và đôi khi là các vết thương hở trên da. Nó phát triển chậm và nếu không được loại bỏ có thể xâm lấn vào các mô bên dưới.

Tia cực tím (UV) từ ánh nắng mặt trời hoặc từ giường tắm nắng trong nhà là nguyên nhân chính gây ra carcinoma tế bào đáy.

Khi tia UV chiếu vào da bạn, theo thời gian, chúng có thể gây tổn thương DNA trong các tế bào da. DNA chứa mã cho cách các tế bào này phát triển. Theo thời gian, tổn thương DNA có thể gây ra ung thư. Quá trình này mất nhiều năm.

Yếu tố nguy cơ của carcinoma tế bào đáy

Biết các yếu tố nguy cơ của bạn có thể giúp bạn tránh xa carcinoma tế bào đáy hoặc phát hiện sớm nếu bạn có. Một số điều có thể làm tăng nguy cơ của bạn bao gồm:

  • Tiếp xúc với tia UV, từ ánh nắng mặt trời hoặc giường tắm nắng trong nhà
  • Tiền sử ung thư da, bao gồm các loại khác như carcinoma tế bào vảy và melanoma
  • Độ tuổi. Những người trên 50 tuổi thường mắc carcinoma tế bào đáy nhiều hơn.
  • Da sáng. Ai cũng có thể mắc carcinoma tế bào đáy. Nhưng nguy cơ cao hơn nếu bạn có làn da dễ bị cháy nắng hoặc có tàn nhang.
  • Là nam hoặc được chỉ định là nam khi sinh. Phụ nữ hoặc những người được chỉ định là nữ khi sinh ít có khả năng mắc carcinoma tế bào đáy hơn.
  • Các bệnh nhiễm trùng và viêm da kéo dài do bỏng, sẹo hoặc các vấn đề khác.

Chẩn đoán carcinoma tế bào đáy

Bác sĩ sẽ kiểm tra da bạn để tìm các khối u. Bạn có thể phải trả lời các câu hỏi như:

  • Bạn có dành nhiều thời gian ở ngoài nắng trong khi lớn lên không?
  • Bạn có từng bị bỏng nắng phồng rộp không?
  • Bạn có sử dụng kem chống nắng không?
  • Bạn có từng sử dụng giường tắm nắng trong nhà không?
  • Bạn có từng có những đốm chảy máu bất thường trên da mà không lành không?

Bác sĩ sẽ lấy mẫu, hoặc sinh thiết, của khối u. Điều đó có nghĩa là gây tê khu vực đó và lấy một phần da. Sau đó, mẫu sẽ được gửi đến phòng thí nghiệm để kiểm tra tế bào ung thư.

Câu hỏi cho bác sĩ của bạn

  • Bạn đề xuất những loại điều trị nào?
  • Có thuốc nào giúp điều trị tình trạng của tôi không?
  • Tôi có cần phẫu thuật không?
  • Làm thế nào tôi có thể tránh bị ung thư da lần nữa?

Điều trị carcinoma tế bào đáy

Mục tiêu là loại bỏ ung thư trong khi để lại sẹo càng nhỏ càng tốt. Để chọn phương pháp điều trị tốt nhất, bác sĩ sẽ xem xét kích thước và vị trí của ung thư, cũng như thời gian bạn đã mắc bệnh. Sức khỏe tổng thể của bạn cũng sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch điều trị.

Dưới đây là một số phương pháp điều trị mà bác sĩ có thể đề xuất:

  • Cắt bỏ khối u. Bác sĩ có thể gọi đây là “cắt bỏ.” Đầu tiên, họ sẽ gây tê khối u và da xung quanh. Sau đó, họ sẽ nạo khối u bằng một thiết bị hình thìa. Tiếp theo, họ sẽ cắt bỏ khối u và một vùng nhỏ da bình thường xung quanh nó và gửi đến phòng thí nghiệm.

Nếu kết quả xét nghiệm cho thấy có tế bào ung thư trong khu vực xung quanh khối u của bạn, bác sĩ có thể cần phải loại bỏ thêm da của bạn.

  • Nạo bỏ khối u và sử dụng điện để tiêu diệt tế bào ung thư. Bạn có thể nghe bác sĩ gọi đây là “nạo và làm khô.” Đầu tiên, bác sĩ sẽ gây tê da bạn. Sau đó, họ sử dụng một dụng cụ nạo, có hình dạng như cái thìa, để nạo bỏ khối u. Bác sĩ sẽ kiểm soát việc chảy máu và tiêu diệt bất kỳ tế bào ung thư nào khác bằng một cây kim điện.
  • Đóng băng các tế bào ung thư của bạn. Điều này được gọi là “phẫu thuật lạnh.” Bác sĩ của bạn sẽ tiêu diệt các tế bào ung thư bằng cách làm đông chúng bằng nitrogen lỏng.
  • Xạ trị. Phương pháp điều trị này sử dụng tia X để tiêu diệt các tế bào ung thư của bạn. Nó được thực hiện trong vài tuần.
  • Phẫu thuật Mohs. Đây là một kỹ thuật được đặt theo tên bác sĩ đã phát minh ra nó. Bác sĩ phẫu thuật sẽ loại bỏ khối u của bạn và sau đó kiểm tra từng lớp mô để đảm bảo không còn tế bào ung thư nào còn lại. Nếu có, bác sĩ sẽ loại bỏ thêm mô cho đến khi họ không còn thấy tế bào ung thư.

Tiên lượng và biến chứng

Nếu bạn được phát hiện sớm và điều trị, tiên lượng thường rất tốt. Nhưng nếu không được điều trị, carcinoma tế bào đáy có thể xâm lấn vào các mô và xương khác dưới da. Hầu như tất cả mọi người mắc phải carcinoma tế bào đáy đều sống sót sau khi được điều trị. Tuy nhiên, nếu bạn đã có một khối u, bạn có nguy cơ cao mắc phải các khối u khác trong tương lai. Do đó, hãy thực hiện kiểm tra da thường xuyên và tìm kiếm sự giúp đỡ từ bác sĩ nếu bạn có bất kỳ lo ngại nào.

Phòng ngừa carcinoma tế bào đáy

Một số biện pháp bạn có thể thực hiện để ngăn ngừa carcinoma tế bào đáy bao gồm:

  • Tránh tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, đặc biệt là từ 10 giờ sáng đến 4 giờ chiều.
  • Mặc quần áo che phủ và sử dụng kem chống nắng mỗi khi bạn ra ngoài.
  • Tránh sử dụng giường tắm nắng.
  • Kiểm tra da của bạn thường xuyên để tìm các dấu hiệu của ung thư da, như nốt ruồi hoặc vết thương bất thường.

Những điều này có thể giúp bạn duy trì làn da khỏe mạnh và bảo vệ bạn khỏi nguy cơ mắc phải carcinoma tế bào đáy và các loại ung thư da khác.

Thăm Dò Chức Năng Gan

Gan có chức năng dự trữ rất lớn và có thể tới 80% số tế bào nhu mô gan hay tế bào gan bị tổn thương mới có triệu chứng lâm sàng.

Chức năng của các tế bào gan rất phức tạp và bao gồm: sản xuất mật, tổng hợp lipid và các lipoprotein huyết thanh, albumin, urê, một số yếu tố đông máu, điều hoà chuyển hoá cholesterol, điều hoà đông máu và chuyển hoá glucid (tạo đường mới và phân giải glycogen), khử độc các thuốc và các chất ngoại lai.

Các tế bào Kupffer thuộc hệ võng-nộimạc, có nguồn gốc từ tuỷ xương và thực bào các hạt ngoại lai, trung hoà các nội độc tố và có vai trò trong điều hoà đáp ứng miễn dịch.

Các test gan tương đối ít đặc hiệu và chủ yếu chỉ là những xét nghiệm để phát hiện. Các test này cho phép đánh giá tiến triển bệnh về gan và hiệu quả điều trị. Để đánh giá mức độ nặng và lan toả của bệnh gan thì các test này kém tin cậy.

Các acid mật

Nồng độ bình thường trong huyết thanh là vào khoảng 5 μmol/l. Nồng độ các muối mật tăng trong các mô là nguyên nhân gây ngứa trong ứ mật. Nồng độ giảm trong muối mật và trong ruột gây hấp thu lipid kém (phân có mỡ), hấp thu các vitamin tan trong mỡ (A,D,K) kém.

Alanin aminopeptidase (AAP):

Nồng độ enzym này tăng trong ứ mật ngoài gan và trong gan. Giá trị tham chiếu: 60 – 130 u/l

Alpha-foetoprotein: nồng độ tăng trong ung thư tế bào gan (tới 4000 ng/ml) và đôi khi trong viêm gan virus cấp (tái tạo).

Về chi tiết xem alpha foetoprotein.

Ammonium

Ammonium vào hệ tuần hoàn theo tĩnh mạch cửa và nếu chức năng gan bình thường thì nhanh chóng được chuyển thành urê. Nồng độ ammonium máu tăng trong viêm gan tối cấp, bệnh não do gan và ngộ độc một số chất độc với gan.

Các kháng thể

CÁC KHÁNG THỂ VIÊM GAN VIRUS

– Kháng thể anti – HA: kháng lại kháng nguyên của virus viêm gan A. Có kháng thể anti – HA thuộc loại IgM cho thấy đang bị nhiễm hoặc mới bị nhiễm virus viêm gan B và kháng thể anti – HA thuộc loại IgG có trong nhiễm virus viêm gan A mạn tính.

  • Kháng thểanti – HBs: kháng thể kháng lại kháng nguyên HBsAg xuất hiện 2-6 tháng sau khi bị viêm gan B cấp tính và ở một số lớn trường hợp sẽ tồn tại mãi mãi.
  • Kháng thể anti – HBc:kháng thể kháng lại phần trung tâm của virus viêm gan B. Có kháng thể anti – HBc thuộc loại IgM cho thấy đang bị nhiễm hoặc mối bị nhiễm virus viêm gan B và kháng thể anti – HBc thuộc loại IgG có trong viêm gan virus B mạn tính.
  • Kháng thể anti- HBe: kháng nguyên HbeAg gắn liền với việc nhân lên rất mạnh của virus viêm gan B còn kháng thể anti – HBe lại gắn liền với việc virus không nhân lên nữa và được phát hiện vào cuối giai đoạn cấp tính.
  • Kháng thể and – HC:kháng thể kháng laị protein của virus viêm gan c, xuất hiện 3 – 6 tháng sau khi bắt đầu bị viêm gan C. Có trong phần lớn các bệnh nhân bị viêm gan c mạn tính.
  • Kháng thể and- d:kháng nguyên d và kháng thể anti – d khó phát hiện; có trong viêm gan D ở người có mang kháng nguyên HBsAg. Có kháng thể anti – d thuộc loại IgM cho thấy mới bị mắc hoặc đang bị mắc và kháng thể anti – d thuộc loại IgG cho thấy trước đây đã bị nhiễm virus viêm gan D.

TỰ KHÁNG THỂ

  • Kháng thể kháng ty lạp thể:80-90% số trường hợp bị xơ hoá đường mật bẩm sinh và 15 – 25% số trường hợp bị viêm gan mạn tính đang hoạt động hoặc xơ gan sau hoại tử là có các kháng thể này. Tuy vậy, các kháng thể này không đặc hiệu cho cơ quan và không có mối tương quan giữa nồng độ kháng thể với mức độ nặng của bệnh.
  • Kháng thể kháng cơ trơn:các kháng thể này kháng actin và thuộc loại IgG; hiệu giá > 1/160 là điển hình cho viêm gan tự miễn mạn tính đang hoạt động nhưng cũng có trong bệnh Hodgkin, một số ung thư và bệnh nhiễm khuẩn.
  • Kháng thể kháng nhân:các kháng thể này có thể có trong viêm gan mạn tính hoạt động, nhất là các thể không phải thứ phát của viêm gan B. Tuy nhiên, các kháng thể này không đặc hiệu cho bệnh và còn được thấy trong nhiều bệnh tự miễn.
  • Kháng thể kháng microsom:có trong các bệnh viêm gan tự miễn, nhất là do thuốc.

Bilirubin (chi tiết: xem bilirubin huyết và vàng da).

  • Bình thường, bilirubin toàn phần trong huyết thanh là 5 -17 μmol/l, chủ yếu dưới dạng không kết hợp. Dạng kết hợp < 4 μmol/l.
  • Bilirubin kết hợp (trực tiếp) tăng trong vàng da do tế bào gan (viêm gan virus hay do thuốc, xơ gan) hay trong tắc đường mật chính (sỏi, ung thư).
  • Bilirubin tự do (gián tiếp) tăng trong tan huyết, nhất là vàng da huyết tán và trong bệnh

BSP (thải brom-sulfon-phtalein)

Test không đặc hiệu thăm dò chức năng gan.

Trước đây dùng để phát hiện tổn thương tế bào gan. Hiện chỉ dùng để chẩn đoán hội chứng Dubin-Johson (nồng độ ở phút 45 phút cao hơn là nồng độ ở phút 15).

Về chi tiết: xem bromsulfonphtalein.

Cholesterol toàn phần và các lipid khác trong máu

  • Bệnh gan cấp tính: alpha 1 lipoprotein giảm tạm thời, triglcerid tăng.
  • Tắc mật mạn tính: cholesterol tăng (tạo thành các u vàng). Trong viêm gan cấp tính do rượu, cholesterol và các triglycerid có thể tăng tạm thời.
  • Bệnh gan mạn tính ở giai đoạn nặng: cholesterol huyết giảm nếu kém ăn và suy dinh dưỡng.

Điện di protein huyết thanh

  • Albumin giảm: xơ gan nặng, do giảm tổng hợp ở gan và / hoặc phân bố lại protein trong dịch ngoại bào (phù, cổ trướng).
  • Gamma globulin tăng vừa phải: viêm gan cấp, xơ gan hay xơ đường mật.
  • Gamma globulin tăng cao rõ rệt: viêm gan mạn, nhất là viêm gan mạn đang hoạt động. Có thể tăng rất cao với các thể tự miễn. Có tăng IgM trong xơ mật nguyên phát.
  • Giảm alpha 1 globulin: là dấu hiệu của giảm alpha 1 chymotrypsin trong viêm gan ở trẻ sơ sinh, xơ gan, khí thũng phổi.

Gamma – glutamyltransferase (transpeptidase, gamma-GT)

Nồng độ chất này là chỉ điểm nhậy cho biết chức năng gan có toàn vẹn không. Trong ứ mật, chất . này tăng rất cao, song song với phosphatase kiềm nhưng tăng sớm hơn.

Về chi tiết: xem glutamyltransferase.

Xét nghiệm máu

  • Bệnh gan cấp tính: thiếu máu đẳng sắc vừa phải do tuỷ bị ức chế hay do thiếu máu dung huyết chưa rõ về lâm sàng. Thiếu máu thiểu sản nặng là biến chứng hiếm gặp của viêm gan Hội chứng Zieve (xem hội chứng này) được gặp nhiều trong viêm gan do rượu. Hội chứng đông máu nội mạch rải rác có thể làm cho hoại tử gan nặng lên.
  • Bệnh gan mạn tính: thiếu máu trong xơ gan.

5’ Nucleotidase: enzyme thuộc loại phosphatase, khi tăng cũng có ý nghĩa như tăng phosphatase kiềm nhưng không liên quan gì tới bệnh ở xương.

Tăng cao trong ứ mật.

Phosphatase kiểm: tăng rất cao trong ứ mật ngoài gan (tắc đường mật chính) hay ứ trong gan (xơ đường mật nguyên phát ở giai đoạn đầu, ứ mật do thuốc) và trong một số ung thư gan nguyên phát hoặc thứ phát. Test này không đặc hiệu (xem phosphatase kiềm).

Prothrombin: giống các yếu tố khác, trừ yếu tố VIII, prothrombin do gan tổng hợp với sự có mặt của vitamin K. Do đó, có thể bị thiếu hụt khi mắc bệnh gan, hấp thu mỡ kém làm giảm hấp thu vitamin K (tan trong mỡ). Giảm prothrombin huyết (thời gian Quick giảm) được gặp trong các bệnh gan sau:

  • Vàng da do ứ mật: dùng vitamin K theo đường tĩnh mạch hoặc tiêm bắp làm nồng độ prothrombin trở về bình thường trong 3 ngày (test Kohler) nếu tắc mật chưa làm tổn thương tế bào gan.
  • Tổn thương tế bào gan: dùng vitamin K không làm prothrombin huyết tăng rõ. Prothrombin giảm kéo dài là dấu hiệu có tổn thương tế bào gan.

Phân

BỊ tắc mật hoàn toàn: phân mất màu, không mật, trắng như mát tít. Do thiếu mật nên phân có mỡ. Nếu phân thay đổi màu theo ngày thì có tắc mật không hoàn toàn. Nên tìm máu trong phân, nếu có thì có thể có nguyên nhân là bệnh não do gan. Tìm ký sinh trùng trong phân nếu nghi gan bị nhiễm ký sinh trùng.

Transaminase

Định lượng 2 loại transaminase trong huyết thanh:

  • Transaminase glutamo-oxalo-acetic hoặc aspartat – aminotransferase (SGOT hoặc AST).
  • Transaminase glutamo-pyruvic hoặc alanin-amino-transferase (SGPT hoặcALT)

Các transaminase tăng rõ rệt khi có hoại tử tế bào gan trong viêm gan virus cấp, do thuốc hay do ngộ độc. về chi tiết, xem transaminase.

Phospholipid

Yếu tố không thể thiếu cho chuyển hoá lipoprotein, đòi hỏi có lecithin-cholesterol-acyltransferase (LCAT); thiếu chất này sẽ có tăng cholesterol huyết và tăng triglycerid huyết. Phospholipid huyết tăng gặp trong viêm gan có ứ mật, tắc mật và tăng lipid huyết typ II và typ III. Phospholipid tăng trong hạ lipid huyết có tính gia đình.

Hút tá tràng

Cho phép thu các loại mật:

  • Mật A hay mật của ống mật chủ.
  • Mật B hay mật túi mật: thu được sau khi uống sulfat magiê 15 phút; có 80% là muối mật, 15% là lecithin, 5% là
  • Mật c hay mật gan: thu được sau khi uống sulfat magiê 30 phút.

Nước tiểu

  • Bilirubin: có bilirubin trong nước tiểu chứng tỏ một phần đáng kê bilirubin ở dạng kết hợp, hoà tan và do đó được thận lọc, tức là có bệnh về gan mật. Vàng da không có bilirubin trong nước tiểu cho thấy có tăng bilirubin không kết hợp trong máu (tan huyết, rối loạn di truyền về chuyển hoá bilirubin, giảm tạo hồng cầu).
  • Urobilinogen: được tạo thành trong ruột non từ bilirubin do vi khuẩn lên men. Bình thường trong nước tiểu chỉ có vết. Trong vàng da, nếu hoàn toàn không có urobilinogen trong nước tiểu trên 1 tuần liền thì rất có thể là bị tắc mật hoàn toàn. Nếu trong nước tiểu có urobilinogen tăng cao, không có bilirubin thì rất có thể là bị tan huyết.

Bất thường hormon giáp không do tuyến giáp

Bất kỳ bệnh nặng cấp tính nào cũng có thể gây ra những bất thường nồng độ hormone tuyến giáp hoặc TSH trong máu, ngay cả trong trường hợp không có bệnh tuyến giáp tiềm ẩn. Do đó, việc kiểm tra định kỳ chức năng tuyến giáp nên tránh ở những bệnh nhân bị bệnh cấp tính, trừ trường hợp nghi ngờ nhiều bị bệnh tuyến giáp.

Các Rối Loạn Tuyến Giáp

Hay gặp nhất trong hội chứng bệnh gây giảm hormon tuyến giáp mà chức năng giáp bình thường là giảm nồng độ T3 toàn phần và tự do, nồng độ TSH và T4 bình thường. Đây được xem là một phản ứng thích nghi với trạng thái dị hóa. Những bệnh nhân nặng hơn có thể giảm nồng độ T4 toàn phần, nồng độ T4 tự do bình thường. TSH có thể dao động từ <0,1 đến > 20 mU/L, và trở về bình thường sau khi hồi phục. Sinh bệnh học của tình trạng này không được hiểu đầy đủ nhưng có thể liên quan đến gắn T4 với protein huyết tương TBG và ảnh hưởng của nồng độ glucocorticoid và cytokine cao. Trừ khi có bằng chứng lâm sàng rõ ràng hoặc tiền sử bị suy giáp, hormon tuyến giáp không nên dùng và xét nghiệm chức năng tuyến giáp nên được làm lại sau khi hồi phục.

AMIODARONE

Amiodarone là thuốc chống loạn nhịp tim type III có một số cấu trúc tương tự với hormon tuyến giáp và có hàm lượng iốt cao. Điều trị amiodarone dẫn đến quá tải iốt đáng kể và kết hợp với (1) ức chế chức năng tuyến giáp thoáng qua, cấp tính (2) suy giáp, hoặc (3) nhiễm độc giáp. Các ảnh hưởng này chỉ là một phần của tình trạng quá tải iốt. Suy giáp xảy ra ở bệnh nhân bị bệnh tuyến giáp từ trước, mà không có khả năng thoát khỏi tác dụng ức chế của iốt dư thừa. Bệnh nhân bị suy giáp có thể kiểm soát dễ dàng bằng điều trị thay thế levothyroxin, mà không cần phải dừng amiodarone. Có hai type chủ yếu của nhiễm độc giáp do amiodarone (AIT). AIT type 1 kết hợp với bất thường tuyến giáp tiềm ẩn (bệnh Graves tiền lâm sàng hoặc bướu tuyến giáp thể nhân). Tổng hợp hormone tuyến giáp quá mức là do tăng tiếp xúc với iốt. AIT type 2 xảy ra ở bệnh nhân không có bất thường về tuyến giáp nội tại và do viêm tuyến giáp phá hủy. Phân biệt AIT type 1 và type 2 có thể khó khăn vì lượng iốt cao cản trở xạ hình tuyến giáp. Nên ngừng thuốc, nếu có thể, mặc dù điều này thường rất khó để đạt được mà không ảnh hưởng đến kiểm soát rối loạn nhịp tim. Amiodaron có thời gian bán thải sinh học dài, và ảnh hưởng của nó vẫn tồn tại trong nhiều tuần sau khi ngừng điều trị. Điều trị AIT type 1 bao gồm thuốc kháng giáp liều cao, nhưng hiệu quả có thể hạn chế. Trong AIT type 2, natri ipodate (500 mg/ngày) hoặc natri tyropanoate (500mg, 1-2 liều/ngày) có thể được dùng để nồng độ hormone tuyến giáp giảm nhanh. Kali perchlorate (200mg mỗi 6h) có thể được dùng để làm giảm iod của tuyến giáp, nhưng dùng lâu dài có nguy cơ mất bạch cầu hạt. Glucocorticoid liều cao có hiệu quả một phần. Lithium được dùng để ngăn giải phóng hormone tuyến giáp. Trong một số trường hợp, cắt bán phần tuyến giáp có thể cần thiết để kiểm soát nhiễm độc giáp.

BỆNH BƯỚU CỔ KHÔNG ĐỘC

Bệnh bướu cổ là do phì đại tuyến giáp (>20-25g), có thể lan toả hoặc thể nhân. Bướu cổ phổ biến ở phụ nữ hơn so với nam giới. Những khiếm khuyết trong sinh tổng hợp, thiếu iốt, bệnh tự miễn, chế độ ăn uống giàu chất sinh bướu goitrogen (cải bắp, sắn), và các bệnh nhân giáp có thể dẫn đến bệnh bướu cổ. Trên thế giới, thiếu iốt là nguyên nhân phổ biến nhất của bệnh bướu cổ. Bướu cổ đa nhân không độc là phổ biến ở cả hai trường hợp thiếu iod và đủ iod, với tỷ lệ lên đến 12%. Các nguyên nhân, khác với tình trạng thiếu iốt, thường không được biết đến và có thể là đa yếu tố. Nếu chức năng tuyến giáp không bị ảnh hưởng, thì hầu hết bướu cổ không có triệu chứng. Bướu giáp dưới xương ức có thể cản trở phía trên ngực và nên đánh giá với các phép đo lưu lượng hô hấp và CT hoặc MRI ở bệnh nhân có dấu hiệu hoặc triệu chứng tắc nghẽn (khó nuốt, chèn ép khí quản, hoặc tình trạng đa huyết). Xét nghiệm chức năng tuyến giáp nên được thực hiện ở tất cả các bệnh nhân bị bướu cổ để loại trừ nhiễm độc giáp hoặc suy giáp. Siêu âm thường không được chỉ định để đánh giá bướu cổ lan tỏa, trừ khi sờ thấy nhân trên khám lâm sàng.

Điều trị thay thế hormon tuyến giáp hoặc iod làm thoái triển bệnh bướu cổ do thiếu iốt. Điều trị thay thế hormone tuyến giáp hiếm khi hiệu quả trong giảm kích thước đáng kể bướu cổ đơn thuần mà không phải là do thiếu iốt hoặc khiếm khuyết trong sinh tổng hợp. Iod phóng xạ làm giảm kích thước bướu cổ khoảng 50% ở phần lớn các bệnh nhân. Phẫu thuật hiếm khi được chỉ định cho những bệnh bướu cổ lan tỏa nhưng có thể được yêu cầu để làm giảm chèn ép ở những bệnh nhân bị bướu cổ đa nhân không độc.

Tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm HIV

I. CÁC PHƯƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN NHIỄM HIV HIỆN NAY

hình ảnh virus hiv
hình ảnh virus hiv
  1. Chẩn đoán nhiễm HIV

Do tính chất quan trọng về tính trầm trọng (không chữa được, chắc chắn tử vong) cho cá nhân cũng như nguy hiểm cho cộng đồng, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống bệnh nhân về mặt thể chất cũng như tâm lý, ảnh hưởng đến uy tín cá nhân và danh dự gia đình, chúng ta phải hết sức thận trọng khi kết luận một người nhiễm HIV. Chỉ định và kết quả xét nghiệm còn tùy giai đoạn của bệnh nhân.

1.1 Xét nghiệm phát hiện kháng thể

Là các xét nghiệm đang được sử dụng phổ biến ở nước ta. Các xét nghiệm nầy không phát hiện được HIV ở giai đọan sơ nhiễm. Vì vậy khi âm tính, phải khuyên bệnh nhân xét nghiệm lần 2, sau 3 tháng không có tiếp xúc với nguồn lây nhiễm nào khác. Nếu vẫn âm tính mới có quyền kết luận là không nhiễm.

Ngược lại, ở trẻ < 1 tuổi, mẹ HIV (+), nếu xét nghiệm dương tính, vẫn không kết luận được cháu bị nhiễm, vì đó là kháng thể kháng HIV của mẹ truyền qua. Do đó phải xét nghiệm lại trong những năm sau từ 18 tháng tuổi trở lên.

Có ba lọai xét nghiệm phát hiện kháng thể kháng HIV đang dùng ở nước ta:

Test Serodia : độ nhạy thấp, nhưng độ đặc hiệu cao. Chỉ có giá trị sàng lọc ban đầu. Những người Serodia (+) là những người thể nhiễm, cần xác định thêm bằng các xét nghiệm khác trước khi khẳng định. Ngược lại, người Serodia (-) thì rất ít có nguy cơ nhiễm HIV.

Test ELISA : phát hiện một lọai kháng thể tùy theo kit chọn trước. Phản ứng nầy có độ nhạy cao, > 90%. Độ nhạy và độ đặc hiệu càng cao với các thế hệ XN sau. Tuy nhiên vẫn không chắc chắn 100%.

Test Western – Blot : Kết luận chỉ chắc chắn 100% khi người bệnh có xét nghiệm HIV (+) với phương pháp Western – Blot. Phương pháp nầy phát hiện một loạt nhiều kháng thể đặc hiệu chống nhiều lọai kháng nguyên khác nhau của virus HIV. Do đó lọai trừ được phản ứng dương tính giả.

Tuy nhiên do xét nghiệm Western-blot rất đắt tiền, không thể xử dụng đại trà mà số người nhiễm HIV ở nước ta ngày càng cao, hiện nay ngành Y tế quy định : Vẫn xem như là (+) những trường hợp ELISA (+) 2 lần với 2 lọai kit khác nhau (phát hiện 2 kháng thể kháng HIV khác nhau ). Xác suất dương tính giả khi xét nghiệm 2 lần với 2 lọai kháng nguyên khác nhau hết sức thấp nên hiếm khi gặp sai  lầm trong thực tế.

1.2. Xét nghiệm tìm trực tiếp virus hay các sản phẩm virus

Người ta có thể phát hiện trực tiếp sự hiện diện của virus trong máu hay dịch cơ thể bằng phương pháp khuyếch đại gen (PCR), phương pháp dùng gen mồi thăm dò. Các phương pháp này đặc hiệu, cho phép phát hiện ngay cả trong giai đọan sơ nhiễm. Ngòai ra, còn dùng để đánh giá hiệu quả của các thuốc kháng virus (đo nồng độ virus trong máu), phát hiện trẻ sơ sinh có nhiễm HIV hay không. Tuy nhiên do kỹ thuật phức tạp và đắt tiền, hiện nay chỉ xử dụng ở các trung tâm nghiên cứu quốc gia, chưa áp dụng đại trà.

Các kỹ thuật tìm các protein virus như p24 (Hiện nay test ELISA thế hệ 4 vừa cho phép phát hiện kháng thể, vừa phát hiện KN p24) có tính đặc hiệu, nhưng không hằng định.

Phân lập virus HIV : chính xác và có thể khảo sát được nhiều đặc tính của virus.

Nhưng chưa thực hiện được ở nước ta.

  1. 2. Chẩn đoán giai đoạn của bệnh

Mặc dầu tiến triển về mặt sinh lý bệnh có 4 giai đoạn, nhưng trên thực tế lâm sàng, biểu hiện bệnh do nhiễm HIV rất phong phú và đa dạng. Do đó, nhiều phương pháp xếp loại được đề nghị phù hợp hơn với lâm sàng và dịch tễ học.

Trên thực tế lâm sàng, người ta thường chẩn đoán giai đoạn nhiễm HIV dựa vào một trong những cách xếp loại được công nhận rộng rãi.

Nổi tiếng nhất là cách xếp loại của CDC 1993 dành cho người lớn nhiễm HIV

Số tế bào T CD4+ /mm3 hay tỷ % A B C
> 500 (>29%) A1 B1 C1
200 – 499 (14-28%) A2 B2 C2
< 200 ( <14%) A3 B3 C3

Bảng 9: Cách xếp loại của CDC 1993

Những bệnh nhân thuộc vào nhóm C và/hay có chỉ số 3 được xếp vào giai đoạn AIDS.

Do khuôn khổ có hạn, chúng tôi không trình bày các bệnh cụ thể các triệu chứng và bệnh được xếp vào các nhóm. Người đọc có thể tìm đọc dễ dàng trong rất nhiều tài liệu liên quan đến phân loại giai đoạn nhiễm HIV trên các sách Y học và trên các trang Web liên quan đến lâm sàng và dịch tễ nhiễm HIV.

Những bệnh nhân đã xếp vào nhóm thấp hơn, dù sau đó có cải thiện lâm sàng, vẫn không chuyển nhóm.

Phương pháp xếp loại nầy có ưu điểm dễ theo dõi, tiên lượng và dễ cân nhắc xử dụng thuốc kháng virus HIV cũng như thuốc dự phòng một số bệnh cơ hội. Tuy nhiên tiêu chuẩn đếm số tế bào T CD4+ khó thực hiện ở đa số các nước nghèo (như Việt nam). Các phương pháp tính gián tiếp số tế bào T CD4+ qua số lượng tế bào lympho ngoại vi, qua các phản ứng bì, được ứng dụng ở một số nơi nhưng kết quả không thống nhất nên chưa được công nhận rộng rãi

Vì thế, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) giới thiệu một cách xếp loại khác, trong đó không xử dụng số lượng tế bào T CD4+ mà thay thế bằng mức độ sinh họat của bệnh nhân trong ngày. Cách chia của WHO chỉ có 4 giai đoạn. Chúng tôi không trình bày đầy đủ bảng xếp loại theo WHO ở đây vì khuôn khổ bài học .

Các xếp loại của Tổ chức Y tế Thế giới dễ dàng cho các nước nghèo, thuận tiện cho dịch tễ học. Tuy nhiên, nó không giúp nhiều cho các nhà lâm sàng quyết định dùng thuốc kháng HIV hay cho thuốc phòng một số bệnh cơ hội.

Đối với trẻ em, do các đặc thù riêng, được có một bảng xếp loại khác của CDC 1993.

Có thể tham khảo trong bài nhiễm HIV ở trẻ em.