Tên khác: hoại tử xương vô khuẩn vô căn ở thanh thiếu niên, hư xương sụn.
Định nghĩa
Nhóm bệnh xảy ra ở những đầu xương dài vào thời kỳ tăng trưởng nhanh của trẻ em và vị thành niên, biểu hiện bởi đau khi thực hiện những động tác hoặc khi đi bộ.
Phân loại
BỆNH PERTHES (coxa plana – chỏm xương đùi dẹt, bệnh Legg-Perthes- Calvé): hoại tử vô khuẩn đầu trên xương đùi, xảy ra ở trẻ em từ 4 đến 10 tuổi (nhất là ở trẻ em trai), đôi khi chỉ bị một bên. Có những dấu hiệu bệnh khớp mạn tính ở khớp hông như: đau, đi khập khiễng (cà nhắc), động tác hạn chế, teo các cơ ở đùi. Khám X quang thấy điểm cốt hoá phía trên của chỏm xương đùi dẹt, với hình ảnh bị chia cắt ra từng mảnh, thể hiện bởi những mảng sáng (kém cản quang) xen lẫn mảng đậm (cản quang nhiều). Những triệu chứng sẽ thuyên giảm trong 2-3 năm, nhưng có thể diễn biến tới hư khớp hông thứ phát.
Điều trị: chỉnh hình.
BỆNH OSGOOD-SCHLATTER (viêm xương sụn lồi củ trước xương chày): xảy ra từ 8-15 tuổi và có những đặc điểm là sưng đau ở lồi củ trước cả hai xương chày, diễn biến thành từng đợt. Về căn nguyên người ta cho rằng do chấn thương, gân bánh chè (phần gân cơ tứ đầu đùi kéo dài từ xương bánh chè tới lồi củ trước xương chày) kéo quá mạnh vào lồi củ trước ở giai đoạn lồi củ này còn đang phát triển. Khám X quang thấy những điểm cốt hoá của thân xương chày cách xa ra và các lồi củ của đầu trên có hình ảnh bị chia cắt thành các mảnh. Thông thường bệnh thuyên giảm tự phát trong vài tuần hoặc vài tháng, cần cho bệnh nhi nghỉ ngơi, đôi khi bất động bằng bột thạch cao hoặc cho corticoid để giảm đau.
BỆNH SEVER (viêm đầu xương gót): viêm ở đầu sau xương gót, hay thấy nhất là ở trẻ em trai từ 8 đến 14 tuổi. Bệnh biểu hiện bởi đau và sưng ỗ phần dưới của gân Achille và ở mặt sau của xương gót. Bệnh khỏi tự nhiên không để lại di chứng. Hiếm khi phải bất động bằng bột thạch cao.
BỆNH KÖHLER (viêm xương thuyền cô chân): xảy ra chủ yếu ở trẻ em trai từ 4 đến 9 tuổi. Bệnh biểu hiện bởi sưng đau bàn chân, khi bước đi thì đau nặng thêm. Khám X quang thấy hình ảnh xương thuyền mờ đục (cản quang hơn), dẹt, giảm kích thước, với đường viền không rõ nét và đứt đoạn ở giai đoạn bệnh đã muộn. Bệnh thường khỏi tự phát trong 1-2 năm.
BỆNH FREIBERG: viêm xương sụn tác động tối chỏm của đốt xương bàn chân thứ hai, nhất là ở phụ nữ trẻ tuổi (có thể nguyên nhân là do những chấn thương cực nhẹ hoặc vi chấn thương do đi giày cao gót). Bệnh biểu hiện bởi sưng đau tại chỗ và cũng khỏi tự nhiên.
BỆNH SCHEUERMANN (viêm đầu đốt sống tăng trưởng, gù hoặc tăng độ cong ra sau có đáu ở trẻ vị thành niên): bệnh tác động tới thân các đốt sống, hay xuất hiện nhất là ở nam vị thành niên, và thể hiện bởi chứng gù đốt sống ngực có đau (“lưng tròn”) và cứng khớp cột sống ngực-thắt lưng. Bệnh diễn biến chậm chạp, đau thuyên giảm, nhưng dị tật chiều cong cột sống thì vẫn tồn tại.
Khám X quang thấy một hoặc nhiều thân đốt sống biến dạng thành hình chêm (thường là các đốt sống ngực 7, 8, và 9) và các đĩa đệm có khuyết với đường viền rõ nét. Điều trị: thể dục, đeo yếm ngực, nằm giường cứng, hãn hữu cần đến phẫu thuật.
Bệnh König (viêm xương sụn tách ở khớp gối hoặc viêm xương khớp tách ở khớp gổỉ): bệnh tác động hạn chế ở các đầu xương làm phát sinh các mảnh xương chết ở dưới sụn khớp, tạo thành dị vật trong ổ khớp và dẫn tới hiện tượng khớp bị kẹt. Chụp X quang để chẩn đoán xác định.
HỘI CHỨNG JOHANSSON-LARSEN: viêm xương sụn hoặc nhuyễn sụn bánh chè (sụn khớp của xương bánh chè bị mềm ra), gặp ở vị thành niên với triệu chứng đau khi bệnh nhân lên, xuống thang gác.
BỆNH PANNER: viêm xương sụn ở lồi cầu xương cánh tay.
BỆNH BLOUNT (bán teo đầu trên xương chày bẩm sinh): một thể gối lệch trong (chân chữ bát) với đặc điểm là phần trên của thân xương chày gấp góc vào phía trong. Bệnh khởi phát từ tuổi trước học đường và có thể khỏi tự nhiên. Nếu biến dạng tồn tại thì cần phải điều trị bằng chỉnh hình.
Điều trị: khám chuyên khoa chỉnh hình, nằm nghỉ tại giường hoặc mang những thiết bị nâng đỡ tuỳ theo đau nhiều hay ít và đau ở vị trí nào.