Blog Trang 558

Chỉ định điều trị suy thở bằng máy thở ở trẻ em

Điều trị suy thở bằng máy thở hiện đang được áp dụng rộng rãi trong các trung tâm hồi sức cấp cứu (ICU).

CHỈ ĐỊNH CHUNG

Có 4 loại chỉ định chính:

  • Cơn ngừng thở kéo dài (>15 giây) và liên tiếp.
  • Ngừng thở hoàn toàn với những nguyên nhân khác nhau.
  • Trạng thái suy thở nặng được đánh giá trên lâm sàng mà các biện pháp trước thở máy đều tỏ ra vô hiệu (liệu pháp oxy đơn giản, nội khí quản, Ambu, CPAP) mà PaC02 > 50mmHg, Pa02 < 50mmHg, SAT < 70%.
  • Thở máy còn được chỉ định trong phẫu thuật gây mê hồi sức, dùng thuốc chống co giật, an thần liều cao, thuốc giãn cơ…

PHÂN LOẠI SUY THỞ

Trong hồi sức cấp cứu chỉ cần phân ra làm hai loại chính:

Suy thở do giảm thông khí phế nang

Gồm các tình trạng bệnh lý mà phổi vẫn hoàn toàn bình thường, song khả năng thông khí rất kém (chẳng hạn: trung tâm hô hấp bị ức chế, tắc nghẽn đường thở, dị vật đường hô hấp, tổn thương dị dạng bẩm sinh đường hô hấp trên…).

  • Oxy máu giảm.
  • C02 máu tăng.
  • Hai thông số này luôn có tương quan nghịch.
  • Hiện tượng giảm oxy máu trơ (suy thở do giảm khuếch tán oxy vào máu)
  • Tổn thương phổi nặng, chủ yếu tổn thương màng mao quản phế nang. Vì vậy khả năng khuếch tán oxy vào máu giảm nặng mặc dù thông khí vẫn bình thường.
  • Pa02 giảm rất nặng nhưng PaC02 có thể bình thường hoặc đôi khi giảm. Điều đáng quan tâm là tình trạng giảm Pa02 máu trơ bởi vì dù có thông khí tốt oxy 100% song Pa02 máu vẫn không có khả năng cải thiện.

PHƯƠNG PHÁP THÔNG KHÍ NHÂN TẠO BẰNG MÁY THỞ:

Có hai phương pháp:

Thở máy kiểm soát

(Control Respiration), phương pháp này áp dụng cho những bệnh nhân ngừng thở hoàn toàn hoặc các cơn ngừng thở dài liên tiếp.

Thở máy hỗ trợ

  • Thường được áp dụng cho các loại suy thở mà bệnh nhân vẫn còn những nhịp tự thở. Hiện nay hầu hết các loại máy thở đều được cấu tạo thích hợp với cả hai phương pháp nói trên.
  • Việc chuyển đổi từ phương pháp thở kiểm soát sang phương pháp thở hỗ trợ nhờ một bộ phận tự động (gọi là Triger)…

CÁC KIỂU THỞ

Trong hai phương pháp thở máy nói trên đều có thể áp dụng các kiểu thở khác nhau. Dưới đây là 3 kiểu thở hay gặp.

Thở máy với áp lực dương tính ngắt quãng (IPPV)

Phương pháp này hiệu quả đối với tất cả các trường hợp suy thở do giảm thông khí phế nang (áp lực thở vào P1 dương, áp lực thở ra Pj = 0).

Thở máy áp lực dương cuối thì thở ra (PEEP)

  • Phương pháp này áp dụng cho tất cả các trường hợp suy thở nặng mà Pa02 giảm nghiêm trọng do oxy không khuếch tán được qua màng mao quản phế nang mặc dù thông khí qua phổi tốt (hiện tượng giảm oxy máu trơ).
  • Phương pháp PEEP có nghĩa là Pj dương và PE cũng dương (đơn vị bằng cm H20).
  • Trị số PE bằng bao nhiều thì đó là trị số của PEEP (xem bài thở máy với phương pháp PEEP và PEEP với tần số cao).

Thở máy áp lực dương tính liên tục với tần số cao HF/PEEP

Được áp dụng ở những trường hợp thở PEEP mà hiệu quả vẫn kém.

Thở máy cưỡng chế

 

NHỮNG THÔNG SỐ TRONG THỞ MÁY

Cần phải hiểu thông thạo.

  • Thể tích khí lưu thông Vtol = lít/phút (theo tuổi, cân nặng hoặc diện tích da).
  • Tần số thở/phút F = lần/phút (theo tuổi).
  • Áp lực thở vào Pj = cm H20 (theo tuổi và tình trạng bệnh lý).
  • Thời gian thở vào Ti % (của chu chuyển thỏ, bình thường = 25%).
  • Thời gian thở ra TE % (của chu chuyển thở, bình thường 65%).
  • Thời gian nghỉ Tpause% (của chu chuyển thở, bình thường = 10%).
  • Tỷ số T/Te là: hư số thay đổi theo chỉ định của bác sĩ bình thường = 1/4.
  • Nồng độ oxy khí thở F!02%.

+ Theo chỉ định của bác sĩ.

+ Thở máy kéo dài » 45%

  • Áp lực làm việc của máy Pempty cm H20 thường được cố định vào khoảng gấp 2 lần Pị.

+ Đối với người lớn đặt 70-80cm H20.

+ Trẻ lớn – trẻ nhỏ đặt 60cm H20.

+ Sơ sinh đặt 50cm HaO.

10 thông số nêu trên luôn được điều chỉnh trong quá trình thở máy. Nếu điều chỉnh không tốt dễ có tai biến.

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ THỞ MÁY

Lâm sàng

Tình trạng suy thở cải thiện rõ rệt (không tím, môi, đầu chi hồng, lồng ngực di động lên xuống đều đặn, thông khí hai phổi tốt, chỉ số huyết động bình thường, bệnh nhân nằm yên phối hợp tốt với máy).

Các chỉ số sinh học bình thường

Pa02 > 95mmHg, PaC02 < 40mmHg, SAT > 95%, BE = 0 ± 3 pH » 7.40 ± 0.05.

NHỮNG BIẾN CỐ HAY GẶP

  • Tắc nghẽn đường thở do đờm dãi, dễ gây xẹp phổi cần hút đờm dãi.
  • Tuột NKQ (đặt lại) cần phải phát hiện kịp thời.
  • Vỡ phế nang gây tràn khí màng phổi, tràn khí trung thất.
  • Thông khí quá mức và thông khí không đủ (điều chỉnh lại các thông SỐ VTũl, F Fi02, Tị, TE…).
  • Các rối loạn về nước, điện giải (điều chỉnh bằng liệu pháp truyền dịch).
  • Hiện tượng chống máy (cho an thần).
  • Biến động về tim mạch (do tăng áp lực tiểu tuần hoàn trong thở PEEP, cho trợ tim digitoxin).

CÁC XÉT NGHIỆM CẦN ĐÁNH GIÁ

  • Đo khí máu 1 lần/ngày và có thể hơn khi cần.
  • Điện giải 1 lần/ngày.
  • Đường máu 1-3 ngày/lần.
  • Cấy máu, cấy dịch NKQ khi cần.
  • Chụp Xquang phổi khi cần và nghi có biến cố.

Cách Ngủ Ngon Hơn Với Rung Nhĩ

Rung nhĩ là một loại nhịp tim không đều. Nếu bạn có tình trạng này, bạn có thể có nguy cơ cao hơn về cục máu đông, đột quỵ, suy tim và các vấn đề tim mạch khác. Nó cũng liên quan đến khó ngủ. Có được một giấc ngủ ngon là điều quan trọng cho sức khỏe của bạn, vì vậy hãy đảm bảo thực hiện các bước để đảm bảo nghỉ ngơi và thư giãn.

Các Bước Bạn Có Thể Thực Hiện Để Ngủ Ngon Hơn Với Rung Nhĩ

Mỗi người đều khác nhau, nhưng hầu hết người lớn từ 18 đến 64 tuổi cần 7-9 giờ ngủ mỗi đêm. Nếu bạn từ 65 tuổi trở lên, bạn có thể thấy rằng bạn cần hơi ít hơn.

Bạn có thể làm gì để đảm bảo rằng bạn có đủ giấc ngủ khi bạn bị rung nhĩ?

Hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn nếu bạn nghi ngờ mình có chứng ngưng thở khi ngủ hoặc một rối loạn hô hấp liên quan đến giấc ngủ khác. Mối liên hệ giữa rung nhĩ và ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn là rất mạnh đến nỗi các bác sĩ đang tranh luận liệu tất cả mọi người bị rung nhĩ có nên được xét nghiệm ngưng thở khi ngủ hay không.

Nếu bạn có ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn, bạn có thể cần ngủ với mặt nạ hoặc sử dụng máy CPAP để đảm bảo bạn nhận đủ oxy vào ban đêm.

Tư thế ngủ của bạn có thể là một phần của vấn đề nếu bạn bị rung nhĩ cơn. Một nghiên cứu cho thấy rằng những người ngủ nghiêng bên trái có nhiều triệu chứng hơn. Tư thế này có thể gây thêm áp lực lên tim của bạn.

Những gì bạn ăn và uống – và khi nào – có thể ảnh hưởng đến giấc ngủ của bạn với rung nhĩ. Một số gợi ý:

  • Giới hạn rượu. Một ly cho phụ nữ và hai ly cho nam giới được coi là sử dụng rượu “hợp lý”. Rượu có thể kích hoạt rung nhĩ.
  • Giới hạn caffeine. Chất kích thích này có thể làm trầm trọng thêm triệu chứng của bạn và can thiệp vào giấc ngủ. Nó có thể làm rối loạn đồng hồ sinh học của bạn, khiến bạn có ít giấc ngủ hơn. Và nó có thể làm cho giấc ngủ mà bạn có được ít nghỉ ngơi hơn.
  • Tập thể dục thường xuyên giúp bạn ngủ ngon hơn và tốt cho sức khỏe tim mạch. Tuy nhiên, bạn có thể lo lắng về việc tập luyện khi bạn bị rung nhĩ. Đúng là một số loại bài tập sẽ làm tăng adrenaline trong cơ thể bạn, điều này có thể làm trầm trọng thêm triệu chứng rung nhĩ. Bạn cần chọn bài tập của mình cẩn thận. Hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn trước khi bắt đầu một chương trình tập luyện. Thời gian bạn tập luyện có thể ảnh hưởng đến giấc ngủ của bạn. Một số người thấy rằng tập thể dục quá gần giờ đi ngủ giữ họ tỉnh táo.

Một số thay đổi lối sống cơ bản có thể giúp bạn ngủ ngon hơn và quản lý rung nhĩ:

  • Nếu bạn hút thuốc, hãy bỏ thuốc. Một nghiên cứu cho thấy rằng những người bị rung nhĩ bỏ thuốc lá đã giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch và đột quỵ. Hút thuốc cũng liên quan đến mất ngủ và các vấn đề giấc ngủ khác.
  • Duy trì trọng lượng khỏe mạnh. Giảm chỉ 10% trọng lượng cơ thể của bạn có thể giảm triệu chứng ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn.
  • Quản lý căng thẳng, điều này được biết đến là làm trầm trọng thêm triệu chứng rung nhĩ và góp phần vào giấc ngủ kém. Các nghiên cứu đã phát hiện rằng chỉ cần biết bạn bị rung nhĩ đã liên quan đến lo âu và căng thẳng tăng cao và, trong một số trường hợp, ý tưởng tự tử. Các biện pháp bạn có thể xem xét bao gồm liệu pháp, bài tập thở, yoga hoặc châm cứu.

Rung Nhĩ Có Vai Trò Gì Trong Giấc Ngủ?

Rung nhĩ và các vấn đề giấc ngủ có mối liên hệ chặt chẽ, mặc dù mối quan hệ chính xác giữa hai điều này rất phức tạp. Liệu các rối loạn giấc ngủ có gây ra rung nhĩ? Hay rung nhĩ là nguyên nhân gây ra các rối loạn giấc ngủ? Các nghiên cứu đã mâu thuẫn. Hai tình trạng này có thể hỗ trợ lẫn nhau.

Một rối loạn mà các nhà nghiên cứu đã xem xét liên quan đến rung nhĩ là ngưng thở khi ngủ. Khi bạn bị ngưng thở khi ngủ, hơi thở của bạn ngừng lại và bắt đầu lại liên tục trong khi bạn đang ngủ. Có hai loại chính:

  • Ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn xảy ra khi đường thở của bạn đóng lại nhiều lần trong khi bạn đang ngủ. Điều này có thể do béo phì, amidan lớn hoặc sự thay đổi trong mức hormone – chẳng hạn, trong thời kỳ mãn kinh. Đây là loại phổ biến nhất.
  • Ngưng thở khi ngủ trung ương xảy ra khi não của bạn không gửi tín hiệu cần thiết cho cơ thể bạn để thở đều đặn.

Nghiên cứu đã liên kết các vấn đề hô hấp khi ngủ khác, được gọi là rối loạn hô hấp khi ngủ hoặc SDB, với rung nhĩ. Các loại rối loạn hô hấp khi ngủ này bao gồm:

  • Rối loạn hypoventilation liên quan đến giấc ngủ dẫn đến mức carbon dioxide cao trong cơ thể bạn. Điều này là do phổi của bạn không di chuyển đủ không khí vào và ra trong khi bạn ngủ. Nguyên nhân có thể bao gồm béo phì, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), các vấn đề sức khỏe khác hoặc thậm chí là thuốc bạn đang dùng cho các bệnh khác.
  • Rối loạn hypoxia liên quan đến giấc ngủ gây ra mức oxy thấp trong cơ thể bạn. Điều này thường liên quan đến một tình trạng phổi.

Các nghiên cứu đã phát hiện rằng nếu bạn có cả ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn và rung nhĩ dai dẳng, các phương pháp điều trị cho tình trạng tim của bạn ít có khả năng hiệu quả hơn. Dù bạn dùng thuốc hay có một thủ tục sốc tim trở lại nhịp điệu, rung nhĩ của bạn có khả năng tái phát cao hơn nếu bạn có ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn.

Thực Hành Vệ Sinh Giấc Ngủ Tốt

Một số thói quen trước giờ đi ngủ có lợi cho mọi người, không chỉ những người có rung nhĩ hoặc có nguy cơ phát triển nó. Chúng bao gồm:

  • Đặt giờ đi ngủ nhất quán.
  • Giữ cho phòng ngủ của bạn yên tĩnh, tối và mát mẻ.
  • Tắt các thiết bị điện tử ít nhất 30 phút trước khi đi ngủ.
  • Đừng đi ngủ trừ khi bạn cảm thấy buồn ngủ.
  • Nếu bạn không ngủ được sau 20 phút, hãy dậy và làm một hoạt động yên tĩnh.
  • Giới hạn lượng chất lỏng bạn uống trước khi đi ngủ

Chẩn đoán và điều trị Sa sút trí tuệ người già

CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán xác định

Ngày nay, chỉ có một cách để chẩn đoán xác định chứng sa sút trí tuệ là tìm mảng tinh bột và sợi rối trong các tế bào não. Tuy nhiên, để tìm ra nguyên nhân bằng cách này thì người thầy thuốc phải chờ tới khi mổ tử thi sau khi bệnh nhân tử vong. Vì thế, thầy thuốc chỉ có thể chẩn đoán “có thể bị sa sút trí tuệ khi bệnh nhân còn sống.

Chứng sa sút trí tuệ được chẩn đoán khi có từ hai chức năng của não trở lên bị rối loạn. Các rối loạn đó bao gồm:

  • Rối loạn ngôn ngữ.
  • Rối loạn trí nhớ.
  • Dễ xúc động hoặc rối loạn nhân cách.
  • Rối loạn khả năng nhận thức (khả năng tính toán, suy nghĩ trừu tượng, phán đoán, nhận thức về không gian).

Hay quên là triệu chứng xuất hiện đầu tiên trong chứng sa sút trí tuệ. Những triệu chứng khác có thể chỉ được phát hiện ra khi có sự kiểm tra về thần kinh hoặc sử dụng các test kiểm tra nhận thức.

Sa sút trí tuệ không phải là dấu hiệu bình thường của tuổi già
Sa sút trí tuệ không phải là dấu hiệu bình thường của tuổi già

Một số công cụ để giúp cho quá trình chẩn đoán bao gồm:

  • Câu hỏi về tình trạng sức khỏe chung của người bệnh, những vấn đề về sức khỏe trước đây và khả năng thực hiện các hoạt động thường ngày.
  • Các test kiểm tra trí nhớ, giải quyết vấn đề, sự chú ý, tính toán và ngôn ngữ.
  • Các xét nghiệm như: xét nghiệm máu, nước tiểu, dịch não tủy.
  • Chụp cắt lớp não.

Chẩn đoán phân biệt

Đối với các trường hợp có biểu hiện các triệu chứng giống sa sút trí tuệ, cần kiểm tra kỹ bằng các bài kiểm tra về trí nhớ, nhận thức, các xét nghiệm có liên quan với các bệnh mà thầy thuốc nghi ngờ. Từ đó có thể giúp thầy thuốc tìm ra nguyên nhân các triệu chứng của bệnh. Ví dụ: những vấn đề về tuyến giáp, phản ứng thuốc, u não, bệnh mạch não… có thể là nguyên nhân gây ra các triệu chứng giống như chứng sa sút trí tuệ. Trong đó, một số bệnh có thể điều trị khỏi.

Điều trị

Mục đích của việc điều trị là làm giảm và hạn chế tiến triển các triệu chứng của sa sút trí tuệ. Có thể sử dụng các thuốc điều trị đặc hiệu. Biện pháp điều trị tại bệnh viện có thể cần thiết trong một thời gian ngắn.

Việc: chăm sóc người bệnh có thế cải thiện được các triệu chứng của bệnh.

Việc dừng thuốc hoặc thay đổi thuốc có thể làm cho tình trạng bệnh xấu hơn. Các thuốc góp phần làm cho tình trạng bệnh xấu hơn bao gồm:

  • Các thuốc kháng lại hệ
  • Các thuốc giảm đau.
  • Các thuốc: ức chế thần kinh trung ương.
  • ..

Trong đó, các thuốc giảm đau và các thuốc ức chế thần kinh trung ương có tác dụng ngược lại, người bệnh có cảm giác đau tăng hơn hoặc các kích thích thần kinh nặng lên.

Những nguyên nhân thực thể góp phần gây bệnh cũng phải được điều trị như: các bệnh tim mạch, giảm oxy máu (hyphoxia), các rối loạn của tuyến giáp, thiếu máu. rối loạn dinh dưỡng, nhiễm trùng, và các bệnh tâm thần như trầm cảm.

Những thuốc được dùng trong bệnh này bao gồm:

  • Thuốc chống rối loạn tâm thần (dùng vào buổi tối).
  • Các thuốc ức chế serotonine như: trazodone,

Các thuốc ức chế dopamine: haloperidole, risperidale, olanzapine, clozapine.

  • Các thuốc ức chế men Cholinesterase: donepezil (Aricept), rivastigmine (Exelon) hoặc một loại thuốc mới dùng để điều trị sa sút trí tuệ của bệnh Alzheimer là gaìantamine (Reminyl).
  • Fluoxetine, imipramine, celexa có thể giúp ổn định tính tình của người bệnh.
  • Các thuốc kích thích như methylphemdate có thể làm tăng hoạt động của người bệnh.
  • Vitamin

Chức năng cảm giác phải được đánh giá thường xuyên và cần có đủ các dụng cụ do thính lực, thị lực để theo dõi tình trạng bệnh.

Các hình thức điều trị bằng tâm lý như: tâm lý liệu pháp hoặc điều trị theo nhóm bệnh nhân hiếm khi có tác dụng vì có thể tạo ra tình trạng quá tải đối với sự nhận thức hạn chế ổ những người sa sút trí tuệ.

Bệnh sa sút trí tuệ không thể điều trị khỏi. Tuy nhiên, trong giai đoạn sớm và nhẹ của bệnh thì các thuốc tacrine (Cognex), donepezil (Aricept), rivastigmine (Exelon) hoặc galantamine (Razadyne, trước đây là Reminyl) có thể ngăn chặn tiến triển của một s<3 triệu chứng trong một thời gian nhất định. Các thuốc khác như memantine (Nameda) hiện nay được sử dụng để điều trị sa sút trí tuệ ở giai đoạn nặng mặc dù chúng cũng chỉ có tác dụng một cách hạn chế.

Cũng như vậy, một số thuốc có thể kiếm soát các triệu chứng của chứng sa sút.- trí tuệ như: mất ngủ, kích động, de dọa, lo lắng và chán nản cực độ. Việc điều trị các triệu chứng trên thường làm cho bệnh nhân cảm thấy thoải mái và làm cho họ chăm sóc bản thân dễ dàng hơn.

Predian

Thuốc Predian
Thuốc Predian

PREDIAN

SANOFI SYNTHELABO VIETNAM

Viên nén dễ bẻ 80 mg: vỉ 10 viên, hộp 10 vỉ – Bảng B.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Gliclazide 80 mg

DƯỢC LỰC

Gliclazide là sulfamide hạ đường huyết, về phương diện dược lý có 2 tác dụng: tác dụng trên sự chuyển hóa và trên vi mạch.

Những tính chất trên sự chuyển hóa:

Predian là tác nhân kích thích bài tiết insuline và làm tăng tác dụng bài tiết insuline của glucose. Predian làm tăng đáp ứng của tụy tạng và tái lập lại đỉnh bài tiết sớm insuline sau khi ăn.

Những tính chất trên vi mạch:

  • Predian làm giảm sự kết dính và sự ngưng tập của tiểu cầu, làm bình thường hóa hoạt động phân hủy fibrine.
  • Trong bệnh lý võng mạc do tiểu đường: Predian làm chậm sự tiến triển của bệnh lý võng mạc do tiểu đường ở giai đoạn không tăng.
  • Trong bệnh lý thận do tiểu đường: dùng dài lâu Predian không những không gây ra những biến đổi trên chức năng thận, mà còn làm giảm tiểu protéine song song với sự kiểm soát tốt huyết áp và đường huyết.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Predian nhanh chóng được hấp thu qua dạ dày-ruột và đạt nồng độ tối đa trong máu trong khoảng giờ thứ 2 và thứ 6. Gắn 94,2% trên protéine huyết tương.

Thời gian bán hủy sinh học trung bình là 12 giờ.

Chuyển hóa: chất chuyển hóa chính chiếm 2-3% liều dùng và không có hoạt tính hạ đường huyết nhưng lại có những tính chất sinh hóa-máu.

Thải trừ chủ yếu qua thận: dưới 1% liều uống vào được tìm thấy dưới dạng không đổi trong nước tiểu.

CHỈ ĐỊNH

Predian được dùng trong các trường hợp tiểu đường thực sự cần đến các thuốc điều trị tiểu đường đường uống: tiểu đường không nhiễm cétone-acide, tiểu đường không phụ thuộc insuline ở người lớn và người già, khi chỉ bằng chế độ ăn không đủ để thiết lập sự cân bằng đường huyết.

Có thể kết hợp Predian với insuline trong điều trị tiểu đường lệ thuộc insuline, nhưng cần phải theo dõi kỹ bệnh nhân trong trường hợp này.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

– Tiểu đường ở trẻ em, tiểu đường ở người trẻ.
– Nhiễm cétone nặng, nhiễm toan.
– Tiền hôn mê và hôn mê do tiểu đường.
– Suy thận nặng.
– Suy gan nặng.
– Tiền sử dị ứng với sulfamide.
– Kết hợp với miconazole.
– Phụ nữ mang thai.

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG và THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Có thể dùng kết hợp Predian với các thuốc chống đông máu, nhưng phải tăng cường kiểm tra sinh học.

Trường hợp suy thận, giảm liều dùng hoặc ngưng sử dụng mọi thuốc uống. Hạ đường huyết có thể xảy ra, do:

  • cho thuốc không đúng, khi tiểu đường đã được kiểm soát chỉ bằng chế độ ăn ;
  • dùng quá liều, nhất là trên những bệnh nhân lớn tuổi ;
  • ăn uống không đầy đủ hay chế độ ăn bị mất cân bằng carbone hydrate ;
  • suy thận và/hay suy gan nặng.

TƯƠNG TÁC THUỐC

  • Chống chỉ định kết hợp với các sulfamide hạ đường huyết khác, với dạng uống của miconazole do làm hạ đường huyết nặng (hôn mê).
  • Giảm hoạt tính của các thuốc
  • Một số thuốc làm tăng đường huyết: corticoide, thuốc lợi tiểu..

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

  • Xáo trộn tiêu hóa: nôn, buồn nôn, táo bón, tiêu chảy.
  • Các phản ứng dị ứng da-niêm, đặc biệt là ngứa sần, phát ban, mề đay, giảm khi ngưng điều trị.
  • Rối loạn về huyết học: nhìn chung có hồi phục như giảm tiểu cầu, mất bạch cầu hạt hay giảm bạch cầu, thiếu máu.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Trong tất cả các thể tiểu đường không kiểm soát được chỉ bằng chế độ ăn. Tiểu đường mập phì:

Trong phần lớn các trường hợp: 2 viên/ngày, chia làm 2 lần.

Nhưng liều lượng của Predian rất linh động và có thể điều chỉnh trong tất cả các trường hợp:

  • 1 viên trong những thể tiểu đường nhẹ ;
  • 3 viên trong những thể tiểu đường nặng hơn.

Khi cần điều trị thay thế: ngưng điều trị thuốc cần thay thế trước, sau đó mới kê toa Predian. Chất lượng điều trị liên quan chặt chẽ với giảm thể trọng.

Tiểu đường với thể trọng bình thường, không thiếu insuline:

Theo đuổi chế độ ăn, sau đó mới dùng Predian. Trong đa số trường hợp: 2 viên/ngày, chia làm 2 lần.

Liều lượng của Predian rất mềm dẻo và có thể điều chỉnh trong tất cả các trường hợp (xin xem tiểu đường mập phì).

QUÁ LIỀU

Quá liều do tai biến hay do tự ý chủ yếu biểu hiện bằng hiện tượng hạ đường huyết.

Trong trường hợp nặng, nếu như đã có rối loạn ý thức: tiêm tĩnh mạch ngay tức thì glucose ưu trương 10 hay 30%, sau đó đưa bệnh nhân nhanh chóng đến bệnh viện.

BẢO QUẢN

Giữ nơi khô mát, nhiệt độ không quá 25oC.

Nhiễm khuẩn huyết trên bệnh nhân đặt catheter mạch máu

  1. ĐỊNH NGHĨA

Là tình trạng nhiễm khuẩn máu ở bệnh nhân có đặt catheter mạch máu trung tâm hoặc ngoại biên để truyền dịch, lấy máu hoặc kiểm soát huyết động trong vòng 48 giờ trước khi xuất hiện nhiễm khuẩn máu và đáp ứng một trong các tiêu chuẩn sau:

  1. TIÊU CHUẨN XÁC ĐỊNH

Nhiễm khuẩn máu lâm sàng: Áp dụng một trong hai tiêu chuẩn sau:

Tiêu chuẩn 1:

  • Lâm sàng: bệnh nhân có ít nhất 1 hoặc nhiều dấu hiệu trong số những triệu chứng dưới đây mà không tìm ra nguyên nhân nào khác: sốt (> 38oC), tụt huyết áp (HA tâm thu < 90 mmHg), vô niệu (<20ml/giờ).

Tiêu chuẩn 2:

  • Lâm sàng: bệnh nhân ≤ 1 tuổi, có ít nhất 1 trong các dấu hiệu hoặc triệu chứng dưới đây: sốt (đo hậu môn > 38oC), hạ thân nhiệt (đo hậu môn < 36oC), ngừng thở, tim đập chậm mà không tìm ra nguyên nhân nào khác

Cả 2 tiêu chuẩn đều kèm thêm điều kiện sau:

  • Không thực hiện cấy máu hoặc không tìm ra tác nhân gây bệnh hoặc kháng nguyên của chúng từ máu
  • Không có nhiễm khuẩn tại vị trí khác
  • Bác sĩ cho chẩn đoán và điều trị kháng sinh theo hướng nhiễm khuẩn máu.
  1. NHIỄM KHUẨN MÁU CÓ KẾT QUẢ PHÂN LẬP VI SINH DƯƠNG TÍNH

Áp dụng một trong hai tiêu chuẩn sau:

Tiêu chuẩn 1: có tác nhân gây bệnh được phân lập từ 1 hoặc nhiều lần cấy máu và tác nhân này không liên quan tới vị trí nhiễm trùng khác

– Tiêu chuẩn 2: có ít nhất 1 trong các dấu hiệu hoặc triệu chứng dưới đây:

+ Sốt ( >38oC)

+ Ớn lạnh

+ Tụt huyết áp

và kèm theo ít nhất 1 trong các dấu hiệu (**) sau:

+ Phân lập được vi khuẩn thường trú trên da từ 2 hoặc nhiều lần cấy máu. 2 lần cấy máu này phải riêng biệt và cách nhau trong vòng 48 giờ và cho kết quả kháng sinh đồ như nhau.

+ Phân lập được vi khuẩn thường trú trên da ít nhất 1 lần cấy máu ở bệnh nhân tiêm truyền mạch máu và điều trị kháng sinh hoặc tìm thấy antigen trong máu (H. Influenzae, S. Pneumoniae…)

+ Ghi chú: Tiêu chuẩn 2 đối với trẻ ≤ 1 tuổi có ít nhất 1 trong các dấu hiệu hoặc triệu chứng dưới đây: sốt > 38oC, hạ thân nhiệt <36oC, ngừng thở, tim đập chậm và có ít nhất 1 trong các dấu hiệu (**) nói trên.

  1. TÁC NHÂN

  • Vi khuẩn: phần lớn nhiễm khuẩn huyết do Catheter là do tụ cầu

– S. aureus.
– Coagulase negative Staphylococci.
– Pseudomonas.
– Klebsiella.
– E.coli.

  • Nấm Candida thường gặp ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch, giảm bạch cầu hạt, truyền dung dịch
  1. XÉT NGHIỆM

    • Công thức máu.
    • Soi và cấy mủ nơi tiêm.
    • Cấy đầu catheter ngay lúc rút bỏ
    • Cấy máu.
  2. ĐIỀU TRỊ

    • Thời gian điều trị kháng sinh từ 10 -14 ngày.
  • Kháng sinh
    • Tụ cầu: Oxacilin hoặc Vancomycin phối hợp
    • Vi khuẩn Gr (-):

+ Cephalosporin thế hệ 3 (Cefotaxim hoặc Ceftriaxon) hoặc Ceftazidin.

+ hoặc Quinolon (Ciprofloxacin/Pefloxacin).

+ hoặc Carbapenem (Imipenem/Meropenem).

+ hoặc Ticarcillin –clavulanic hoặc Cefoperazon – Sulbactam.

  • Phối hợp với Aminoglycosid (Amikacin).
  • Nấm: Amphotericin B hoặc Fluconazon trong 2 tuần
  • Rút bỏ ngay Catheter, chích Catheter nơi khác nếu cầu
  • Chăm sóc vết nhiễm khuẩn
  1. CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA

1.Vệ sinh bàn tay

  • Vệ sinh bàn tay bằng dung dịch xà phòng sát khuẩn với nước hoặc bằng dung dịch sát khuẩn tay nhanh nếu tay không nhìn thấy vết bẩn
  • Với đặt catheter trung tâm thì nên sát khuẩn lại bằng cồn 70o hoặc cồn trong iodine hoặc trong chlohexidine.
  • Phải để tay khô trước khi thực hiện các thao tác tiếp
  • Mang găng sạch, nếu đặt catheter trung tâm thì phải sử dụng găng vô trùng
  • Chọn vị trí đặt catheter tối ưu
    • Nên chọn ở chi trên, tốt hơn chi dưới, tuy nhiên có thể sử dụng mu bàn chân không nên dùng tĩnh mạch trên đầu
    • Đối với catheter trung tâm, nên chọn tĩnh mạch dưới đòn tốt hơn là tĩnh mạch cảnh, tĩnh mạch đùi.
    • Ở trẻ em, đặt catheter trung tâm từ các mạch máu ngoại biên được khuyến cáo nhằm làm giảm nguy cơ đưa vi khuẩn trực tiếp vào vòng đại tuần hoàn. Khuyến cáo sử dụng tĩnh mạch nền hơn tĩnh mạch đùi.
  • Kỹ thuật đặt và chăm sóc vô khuẩn
    • Sử dụng bảng kiểm khi đặt và chăm sóc để đảm bảo rằng thực hiện quy trình đúng.
    • Sử dụng hàng rào vô khuẩn: mũ, khẩu trang, găng Nếu là catheter trung tâm thì cần quần áo vô trùng, săng vô trùng phủ từ đầu tới chân chỉ trừ lại vị trí đặt.
    • Sử dụng kỹ thuật vô trùng trong toàn bộ quá trình đặt
    • Tốt nhất là sát trùng da bằng chlohexidine 2% với trẻ lớn, với trẻ sơ sinh dùng nồng độ 0,5% hoặc iodine 10% trong alcohol trước khi đặt, trong trường hợp không có cồn chuyên dụng, có thể dùng cồn 70ohoặc povidone-iodine và dùng kỹ thuật chà sát phẫu thuật khi sát trùng da
    • Lưu ý sát khuẩn kỹ các chỗ nối, chạc ba bằng cồn 70ovới thao tác đếm đến 10 trước khi mở.
    • Tốt nhất nên sử dụng đường tiêm truyền, lấy máu kín (closed system for infusion)
  • Theo dõi và giám sát hàng ngày
    • Đánh giá hàng ngày đối với chỉ định rút catheter
    • Nếu sử dụng catheter để nuôi dưỡng tĩnh mạch

+ Cân nhắc rút catheter khi trẻ ăn qua đường miệng trên 120 ml/kg/ngày

+ Nếu trẻ đang được truyền Lipid, cân nhắc dừng truyền Lipid nếu trẻ ăn được trên 2,5 g chất béo/kg/ngày.

  • Kiểm tra vị trí đặt, các vị trí nối hàng ngày.
  • Sử dụng kỹ thuật vô trùng tiêm truyền, lấy máu
  • Giảm số đường truyền vào nếu có thể
  • Chuyển tĩnh mach ngắt quãng sang truyền liên tục
  • Chuyển thuốc tĩnh mạch sang dạng uống khi lâm sàng cho phép.

Bệnh xơ cứng từng mảng (xơ cứng nhiều ổ, nhiều chỗ, xơ cứng rải rác)

Tên khác: xơ cứng nhiều ổ, xơ cứng nhiều chỗ, xơ cứng rải rác.

Định nghĩa

Bệnh của người trẻ tuổi, chưa biết căn nguyên, do hình thành những mảng mất myelin ở trong toàn bộ hệ thống thần kinh trung ương và biểu hiện bởi những triệu chứng đa dạng, tiến triển thành từng đợt xen lẫn những đợt thuyên giảm, và triệu chứng thay đổi tuỳ theo những khu vực thần kinh bị tổn thương tiếp nối nhau.

Căn nguyên và dịch tễ học

Căn nguyên chưa biết. Tố bẩm di truyền HLA-A3, B7 và DR2. Tỷ lệ bệnh chiếm 0,5 trong 1000 dân. Tỷ lệ mới mắc khoảng 10 trường hợp mới hàng năm trong 100.000 dân, trong đó 60% là nữ giới. Bệnh hiếm gặp ở Phương Đông và châu Phi. Người ta nhận thấy rằng bệnh xơ cứng từng mảng rất hiếm ở những miền quanh xích đạo, và tần suất mắc bệnh càng tăng hơn ở những nước càng gần các cực địa cầu. Chưa chứng minh được bệnh là do nhiễm một loại virus chậm.

Giải phẫu bệnh

Những mảng xơ cứng là những vùng bị mất myelin.

Kích thước của các mảng này thay đổi từ cỡ của một đầu đanh ghim tới kích cỡ của một hạt dẻ, và nằm rải rác khắp nơi trong hệ thống thần kinh trung ương, nhất là trong chất trắng của các cột bên và cột sau của tủy sống, trong dây thần kinh thị giác, trong những vùng quanh não thất, trong thân não và trong tiểu não. Những mảng mất myelin này phân bố không theo hệ thống nào cả. Những tổn thương mới thì màu hồng, thường ở quanh mạch máu, phù nề (bao myelin phồng to lên). Những tổn thương đã cũ thì bị xơ cứng, mất các tế bào ít nhánh, các tế bào thần kinh đệm sinh sản, và những sợi trục của nơron bị biến dạng. Những dây thần kinh ngoại vi không bị bệnh tác động tới.

Triệu chứng: bệnh xảy ra ở người trẻ tuổi, hiếm khi ở người dưới 15 tuổi hoặc trên 40 tuổi. Bệnh thường khởi phát âm thầm, với những triệu chứng: cảm giác kiến bò, dị cảm, chóng mặt, yếu hai chân, rối loạn bước đi, suy giảm thị giác, song thị tạm thời. Diễn biến đặc biệt bởi những đợt phát triển nhanh và ở giai đoạn đầu có xu hướng thuyên giảm. Khoảng cách giữa những đợt tiến triển thường kéo dài độ một vài tuần. Triệu chứng bệnh nặng thêm do bị mệt, bị stress, và nóng bức.

RỐI LOẠN VẬN ĐỘNG

– Dấu hiệu bó tháp: một số bệnh nhân đến khám với lý do bị yếu hai chân. Liệt nhẹ khu trú ở một số nhóm cơ diễn biến thành từng đợt có thể khỏi hoàn toàn. Tuy nhiên, thường tiến triển tới liệt hẳn các cơ hoặc liệt cứng hai chi dưới. Những dấu hiệu bó tháp thông thường (tăng phản xạ gân, tăng trương lực cơ, dấu hiệu Babinski, dấu hiện rung giật xương bánh chè) hay xảy ra trước khi liệt cơ và có ý nghĩa quan trọng trong chẩn đoán sớm.

  • Dấu hiệu tiểu não:run hữu ý ở bàn tay, rung giật nhãn cầu, mất phối hợp các động tác, thất điều (bước đi lảo đảo, chệnh choạng, hoặc bước đi co cứng tiểu não) mất liên động (thử nghiệm ngón tay- mũi dương tính), rối loạn lời nói bùng nổ và lời nói ngắt thành từng đợt (nói chậm chạp và xu hướng do dự khi định nói một lời). Những rối loạn này tạo nên tam chứng Charcot (rung giật nhãn cầu, rối loạn ngôn ngữ, và run).

RỐI LOẠN CẢM GIÁC

  • Chủ quan:cảm giác kiến bò, dị cảm, hiếm thấy đau dây thần kinh. Dấu hiệu Lhermitte(cảm giác phóng điện lan toả xuống các cẳng chân khi cúi đầu ra phía trước). Đau dây thần kinh.
  • Khách quan:những rối loạn cảm giác nông không quan trọng lắm, nhưng nếu khám kỹ thì thường phát hiện thấy những vùng mất cảm giác thay đổi từ lúc này sang lúc khác.

RỐI LOẠN NHÃN CẦU

  • Viêm dây thần kinh sau nhãn cầu(viêm thị thần kinh): thường hay một bên, gây ra ám điểm trung tâm, nhất là ám điểm màu sắc, và đôi khi bệnh nhân thấy đau ở nhãn cầu một bên, tăng lên khi nhãn cầu vận động. Hiếm khi thấy có biến đổi ở gai thị. Những rối loạn thị giác thường mất đi sau một thời gian, để rồi lại xuất hiện khi bệnh có cơn mối. Mù loà chỉ là ngoại lệ.
  • Rối loạn vận nhãn: song thị thường hay xảy ra, trong khi hiếm thấy lác và sụp mí.

RỐI LOẠN TIỀN ĐÌNH: chóng mặt, rung giật nhãn cầu.

RỐI LOẠN TỦY SỐNG

  • Vận động: yếu cơ, liệt nhẹ, liệt thật sự, co cứng, rung giật, dấu hiệu Babinski.
  • Giác quan: giảm các cảm giác đau, nóng, lạnh, giảm cả cảm giác sâu.
  • Cơ thắt: đái khó, đa tiểu tiện (đái nhiều lần), tiểu tiện phải rặn mạnh, tiểu tiện không chủ động, táo bón, bất lực.
  • Những rối loạn ở tủy sống có thể dẫn tới hội chứng Brown- Séquart hoặc thậm chí hội chứng viêm tủy sống cắt ngang.

RỐI LOẠN TÂM THẦN: giảm trí nhớ và hoạt động trí tuệ. Xúc cảm không vững. Hưng khởi kinh điển hiếm thấy, nhưng bệnh nhân thường lãnh cảm (lãnh đạm), bàng quan với tình trạng của mình hoặc đôi khi bị trầm cảm. Có những cơn khóc hoặc cười co cứng (liệt hành não).

Xét nghiệm cận lâm sàng: dịch não tủy bình thường trong 50% số trường hợp. Trong những đợt cấp tính đôi khi thấy tăng tế bào lympho kín đáo, tăng protein và tăng gammaglobulin vừa phải (IgG > 13%), điện di thấy xuất hiện những giải ít dòng.

Xét nghiệm bổ sung

  • Khám mắt: đo thị trường, đo thị lực, khám thị giác màu sắc, khám phản xạ đồng tử. Soi đáy mắt để phát hiện phù gai thị và những dấu hiệu teo dây thần kinh thị giác.
  • Chụp cắt lớp vi tính: có thể cho thấy những vùng sáng quanh não thất trở nên đậm (cản quang hơn) trong thời kỳ những đợt bệnh cấp tính.
  • Ghi hình cộng hưởng từ: là phương pháp nhạy nhất, có thể làm rõ những mảng mất myelin quanh các não thất, tuy nhiên ở những bệnh nhân trên 50 tuổi phương pháp này không đặc hiệu.

Chẩn đoán: khó, và đôi khi muộn nếu thiếu những tiêu chuẩn chặt chẽ. Trong những trường hợp này có nguy cơ để cho một bệnh thần kinh đáng lẽ có thể chữa khỏi tiếp tục tiến triển.

  • Xơ cứng từng mảng có khả năng:nếu

+ Có hai thời kỳ suy giảm thần kinh và có bằng chứng về một tổn thương não chứng minh được bằng khám thần kinh.

+ Có một thời kỳ suy giảm thần kinh và có bằng chứng về hai tổn thương não được chứng minh bằng khám thần kinh (bằng chứng của tổn thương não có thể do khám X quang, scanner, hoặc ghi hình cộng hưởng từ cung cấp).

  • Xơ cứng từng mảng chắc chắn: nếu có một hoặc nhiều đợt suy giảm thần kinh và có bằng chứng lâm sàng và X quang của nhiều tổn thương (ở đường thần kinh thị giác, ở thân não, ở tủy sống).

Chẩn đoán phân biệt

  • Xơ cứng bán cấp tính phối hợp của tủy sống: thường có thiếu máu ác tính phối hợp.
  • Bệnh giang mai não-tủy và tabét: phản ứng huyết thanh dương tính, khởi phát muộn.
  • Thất điều tủy sống di truyền: mất phản xạ gân.
  • Những bệnh khác: u não (nhất là u tiểu não và u ở góc cầu tiểu não), u tủy sống, xơ cứng cột bên teo cơ, bệnh rỗng tủy sống, thoát vị đĩa đệm, dị dạng mạch máu của não và tủy sống.

Diễn biến

Khó dự đoán. Mới đầu những đợt cấp tính xảy ra cách nhau hàng tháng hoặc hàng năm, nhưng rồi khoảng thời gian thuyên giảm ngắn dần. Sau 20 năm, có 35% số bệnh nhân vẫn còn có cuộc sống tích cực, nhưng 20% khác đã bị tử vong, và 45% còn lại ở trong tình trạng liệt giường, với liệt cứng hai chi dưới, run, rối loạn lời nói, thoái triển trí tuệ, và rối loạn cơ thắt. Tuy nhiên, cũng có những thể lành tính với những đợt cấp tính thưa thớt.

Điều trị

Không có biện pháp điều trị đặc hiệu, nhưng đã có nhiều cách điều trị đang trong thời kỳ thử nghiệm.

  • Điều trị những đợt cấp tính: khả năng thuyên giảm tự nhiên làm cho khó đánh giá hiệu quả của thuốc. Người ta đã đề nghị cho uống corticoid (prednison 60 mg/ngày trong 3 tuần) hoặc tiêm tĩnh mạch (methylprednisolon 500 mg/ngày trong 5 ngày) ngay từ lúc khởi đầu của cơn cấp tính, rồi giảm dần liều.
  • Điều trị dài hạn: động viên bệnh nhân sống hoạt động càng nhiều càng tốt, nhưng vào lúc không có cơn. Khi cần, bố trí nhà ở nhờ một chuyên gia tổ chức hợp lý lao động làm tư vấn. Chế độ ăn uống đủ calo, tránh béo phì. Liệu pháp vận động nhẹ nhàng. Liệu pháp tâm thần nâng đỡ. Điều trị tình trạng co cứng (baclofen, dantrolen). Điều trị rối loạn bàng quang, nhiễm khuẩn tiết niệu, và táo bón.

Azathioprin đôi khi làm giảm tần suất những cơn cấp tính.

  • Biện pháp điều trị đang được nghiên cứu: Interferon beta-lb đã cho một số kết quả đáng quan tâm trong bệnh xơ cứng từng mảng diễn biến thành đợt. Những biện pháp điều trị khác đang được nghiên cứu bao gồm: cyclophosphamid, Ciclosporin, thay huyết tương, Copolymere I (Cop-1), oxy cao áp, chế độ ăn giàu acid béo nhiều liên kết không no hoặc không bão hòa (đặc biệt là acid linoleic).

Cây chua ngút

CHUA NGÚT

Tên khác: Cây chua meo, Cây thùn mũn, Cây phi tử.

Tên khoa học: Embelia ribes Burn, họ Đơn nem (Myrsinaceae).

Mô tả:

Cây bụi leo cao 1-2m, có thể đến 7m, hay hơn. Trục cụm hoa, cuống hoa, lá bắc và lá đều có lông, màu hơi trắng. Thân màu nâu đỏ hay nâu sẫm, hơi có khía dọc. Lá mọc so le, thuôn, gốc tròn hoặc có góc, có mũi nhọn ngắn hay tự ? đầu, nguyên, nhẵn, cuống lá lõm ở mặt trên. Hoa nhiều nhỏ, màu vàng lục, xếp thành chùm ở ngọn. Quả hạch hình cầu, màu đỏ sẫm, lẫn những điểm màu lơ, dài và rộng khoảng 2,5mm, vỏ quả thường nhăn nheo.

Cây ra hoa tháng 2-4, có quả tháng 3-10.

Bộ phận dùng: Quả phơi hay sấy khô.

Phân bố: Cây mọc hoang ở nhiều nơi trong nước ta.

Thành phần hoá học:

Quả chứa tanin, hợp chất anthraquinon, tinh dầu, dầu béo và 2-3% embelin (embelic acid). Ở Ấn Độ người ta đã tìm thấy trong quả có embelin 2,5-3, quercitol 1-0 và thành phần chất béo là 5,2%, một alcaloid là christembin, một resinoid và phần hay hơi. Trong lá có caroten 4,6mg% và vitamin C 62,5mg%.

Tác dụng:

Kháng sinh, sát trùng. Thân cây có vị ngọt, tính mát có tác dụng bổ huyết. Quả có tác dụng trừ giun sán, làm se, gây trung tiện, tăng chuyển hoá và kích thích giải khát và bổ. Cao lỏng của quả có tác dụng kháng khuẩn Staphylococcus aureus và Escherichiacoli; cao này cũng có tác dụng co bóp tử cung, có tác dụng trên chức năng nội tiết sinh dục và khả năng sinh sản.

Công dụng:

Lá non của Chua ngút thường được dùng nấu canh chua và cũng dùng trị rắn cắn (nhai lá tươi nuốt nước lấy bã đắp). Quả có vị chua ăn được, có tác dụng giải khát, cũng thường được dùng trị giun, nhất là giun đũa, giun kim. Thân cây dùng trị ban trái, bạch đới. Người ta cho người bệnh uống 5g (trẻ em 2-2,5g) bột quả trộn với đường hay mật vào buổi sáng sớm (sau khi đã nhịn ăn tối hôm trước). Ở Ấn Độ người ta dùng làm thuốc trị giun, dưới dạng bột uống với sữa, sau đó uống thuốc tẩy. Nước sắc quả khô làm thuốc hạ sốt và trị bệnh về ngực và da. Quả khô Chua ngút cũng là thành phần của những chế phẩm chữa bệnh nấm da loang vòng và các bệnh da khác; cũng được dùng trị vết đốt của bọ cạp và rắn cắn. Nước hãm rễ dùng trị ho và ỉa chảy.

Cách dùng, liều lượng: Nhịn ăn tối hôm trước, sáng sớm hôm sau uống 5g bột quả.

Ghi chú: Các nước khác dùng quả cây Embelia robusta Roxb., cây E. micrantha DC. với cùng tác dụng.

Lách To – Triệu chứng, nguyên nhân

GIÁ TRỊ TRIỆU CHỨNG HỌC CỦA LÁCH TO: tăng thể tích lách thấy trong một số lớn các bệnh cấp tính và mạn tính có bản chất rất khác nhau. Nếu nguyên nhân gây ra lách to chưa sáng tỏ thì cần phải làm xét nghiệm huyết học đầy đủ (bao gồm cả đếm hồng cầu lưới)

  • Nếu bệnh nhân bị sốt, thì hướng chẩn đoán về các bệnh sau: sất thương hàn, nhiễm khuẩn huyết, bệnh do brucella, bệnh do ký sinh vật (đặc biệt là bệnh sốt rét hoặc do leishmania). Cũng phải nghĩ tới cả lao cấp tính, tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn, bệnh máu ác tính (ví dụ bệnh bạch cầu cấp).
  • Nếu thấy sưng hạch bạch huyết nông và/hoặc huyết đồ không bình thường: làm các xét nghiệm bổ sung để phát hiện bệnh bạch cầu lympho, hội chứng sinh sản tủy xương, bệnh Hodgkin, bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn, bệnh lao lách-hạch, bệnh sarcoid, ..V.V
HỘI CHỨNG BANTI

(Tăng áp tĩnh mạch cửa)

Xơ gan

Huyết khối hoặc chèn ép tĩnh mạch cửa hoặc tĩnh mạch lách Suy tim phải

CÁC BÊNH NHIỄM KHUẨN Cấp tính và bán cấp

–  nhiễm khuẩn huyết

–  bệnh sốt vẹt

–  bệnh sốt thương hàn

– viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn bán cấp.

–  viêm gan do vlrus

–  tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn

–  nhiễm virus cự bào, V..V…

Mạn tính

–  lao kê

–  bệnh do brucella

–  bệnh giang mai

–  bệnh sốt rét

–  bệnh do leishmanla (kala-azar)

–  bệnh do trypanosoma

–  bệnh sán máng

–  bệnh nấm histoplasma

TĂNG SẢN LÁCH Thiếu máu tan máu mạn tính: bệnh hổng cầu hình cầu di truyền, bệnh hổng cầu hình bầu dục, giảm sút enzym.

Bệnh hemoglobln, bệnh thiếu máu vùng biển Đa hổng cầu huyết nguyên phát

Thiếu máu mạn tính không tan máu hoặc tan máu vừa phải Dị sản tuỳ xương, xơ tủy xương.

Tăng nguyên hổng cầu phôi thai

Thiếu máu giảm sắc mạn tính

Ban xuất huyết giảm tiểu cẩu Werlhof.

Bệnh Basedovv

UNG THƯ Bệnh Hodgkin và u lympho không phải hodgkin Bệnh bạch cầu, nhất là bệnh bạch cầu mạn tính Đa u tủy xương Tăng mô bào X
CÁC BÊNH MIỄN DỊCH-VIÊM Viêm đa khớp dạng thấp, hội chứng Felty Lupus ban đỏ rải rác và các bệnh tạo keo khác Bệnh sarcoid. Thoái hoá dạng tinh bột
BÊNH TÍCH TU LIPID Ở MÔ LƯỞI Bệnh mucopolysaccharid

Bệnh Gaucher. Bệnh Niemann-Pick.

CÁC BỆNH KHÁC Lipid huyết đái tháo đường

U nang ký sinh vật, u nang dạng biểu bì, bọc nang sán Giả u nang, tụ máu trong lách.

Khối u lành tính: u mạch máu, u bạch huyết, u xơ.

Khối u ác tính tiên phát hoăc di căn

  • Nếu có xuất huyết đường tiêu hoá, thì chẩn đoán hướng về xơ gan với tăng áp tĩnh mạch cửa, huyết khối tĩnh mạch lách, hội chứng Banti.
  • Nếu thấy vàng da: thì nghĩ tới: vàng da tan máu bẩm sinh, vàng da tan máu mắc phải, hemoglobulin niệu kịch phát do lạnh.
  • Nếu bệnh nhân da nhợt nhạt: nghĩ tối bệnh bạch cầu tủy bào mạn tính, thiếu máu Biermer.
  • Nếu bệnh nhân đỏ da quá: có thể là bệnh đa hồng cầu huyết nguyên phát.
  • Nếu chụp nhấp nháy lách thấy có lỗ hổng: có thể là hình ảnh u nang sán ở lách, bệnh máu ác tính, khối u, apxe, hoặc nhồi máu trong lách.
  • Lách đồ: trong bối cảnh lâm sàng với đặc điểm lách to tiến triển, với các triệu chứng toàn thân nặng, đau ở vùng lách và giảm tế bào nặng ở máu ngoại vi (giảm bạch cầu hạt trung tính và/hoặc giảm tiểu cầu, thiếu máu tuy hiếm), thì có thể phải chọc hút lách hoặc phẫu thuật cắt bỏ lách để nghiên cứu tế bào học (gọi là lách đồ) và cả nghiên cứu vi khuẩn học trong mô lách. Chống chỉ định phương pháp xét nghiệm này trong những trường hợp tăng áp tĩnh mạch cửa, có u nang sán trong lách, và bệnh nhân bị những rối loạn đông máu.

ƯU NĂNG LÁCH: thuật ngữ này được sử dụng để chỉ vai trò quan trọng của yếu tố lách to (dù do nguồn gốc nào) khi thấy xuất hiện tình trạng giảm tế bào nặng trong máu ngoại vi (giảm bạch cầu hạt trung tính và/hoặc giảm tiểu cầu, thiếu máu hiếm thấy hơn). Với phương pháp đồng vị phóng xạ, có thể nghiên cứu động học của các bạch cầu hạt, tiểu cầu và hồng cầu nhằm chứng minh rằng những yếu tố tế bào này lúc đầu tăng đình lưu ở trong mô lách. Giảm tế bào trong máu ngoại vi nếu thật sự là do lách to gây ra, thì thường sẽ khỏi sau khi làm phẫu thuật cắt lách

Chẩn đoán Bệnh Parkinson và khuyến cáo điều trị hiện nay

Bệnh Parkinson là nguyên nhân thường gặp nhất của Hội chứng Parkinson. Theo y văn tỷ lệ mắc bệnh là 187/100.000 dân (nguy cơ suốt đời 1/40). Lứa tuổi khởi phát từ 50 – 70, mặc dù bệnh có thể xãy ra từ 20 tuổi (khoảng 10%). Tuổi tử vong của bệnh nhân Parkinson tương tự với nhóm chứng. Sa sút trí tuệ có khuynh hướng xãy ra trong giai đọan muộn của bệnh trong khoảng 30% số bệnh nhân.

Căn nguyên gây bệnh hiện không được biết, có thể có vai trò của stress oxy hóa và các rối loạn chức năng ty lạp thể.

Yếu tố di truyền: Nguy cơ di truyền khi tiền căn gia đình mắc bệnh trước 50 tuổi. Yếu tố môi trường: Tiếp xúc với thuốc trừ sâu ở các vùng nông thôn.

Triệu chứng chính là run “tremor” còn gọi là tình trạng liệt run “shaking palsy”. Triệu chứng run có thể ngưng khi bệnh nhân cầm đũa hay cầm tờ báo. Hậu quả sau cùng của bệnh là mất thăng bằng hay cứng cơ.

I- CHẨN ĐOÁN.

Chẩn đoán bệnh Parkinson đòi hỏi các điều kiện:

  1. Hiện diện ≥ 2 trong những biểu hiện chủ yếu của hội chứng Parkinson: Run khi nghỉ, chậm vận động, cứng đờ, tư thế khom gấp, đông cứng và mất phản xạ tư thế.
  2. Không có bệnh sử, tiền sử của những nguyên nhân khác gây hội chứng Parkinson (Viêm não, phơi nhiễm với độc chất, mới dùng thuốc chống loạn thần gần đây, chấn thương đầu, bệnh lý mạch máu ở vị trí phù hợp)
  3. Không có thất điều tiểu não, liệt vận nhãn dọc, các biểu hiện tổn thương thần kinh thực vật nặng.
  4. MRI không có nhồi máu lỗ khuyết, đầu nước áp lực bình thường, teo tiểu não và hoặc thân não.
  5. Đáp ứng rõ với Levodopa.

Nói chung cần nghĩ đến bệnh Parkinson nếu bệnh nhân có hội chứng Parkinson với run khi nghỉ, khởi phát không đối xứng và đáp ứng rõ với Levodopa, với điều kiện không có những dấu chứng bất thường tiểu não, tổn thương bó vỏ gai, mất phản xạ tư thế sớm, rối loạn chức năng thực vật nặng và sa sút trí tuệ sớm.

*   CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT

  • Liệt trên nhân tiến triển.
  • Thoái hóa vỏ não nhân nền
  • Lú lẫn lan tỏa với thể Lewy Bodies.
  • Teo đa hệ thống gồm teo tiểu não cầu và nhân trám và hội chứng Shy-Drager
  • Bệnh Parkinson với xơ cứng teo cơ cột bên.

II- TRỊ LIỆU NỘI KHOA BỆNH PARKINSON

Mục tiêu:

Cải thiện các rối loạn bệnh lý làm cản trở sinh hoạt hàng ngày

Giữ cho bệnh nhân duy trì được hoạt động càng lâu càng tốt. Hạn chế tối đa các biến chứng của bệnh.

Bệnh luôn tiến triển, không có phương pháp nào làm chặn lại được; nên điều trị sớm, đúng và đủ.

Dopamine là thuốc có hiệu quả nhất làm giảm triệu chứng bệnh Parkinson.

Tất cả những thuốc trị liệu chống bệnh Parkinson nên dùng liều thấp và gia tăng từ từ để tránh những phản ứng phụ.

* CÁC THUỐC ƯU TIÊN:

  1. L-DOPA phối hợp CARBIDOPA:

Sinemet(Carbidopa kết hợp levodopa ) viên( 10/100, 25/100,25/250) :

Khởi đầu 100 –150mg levodopa/ngày, chia làm 2 – 3 lần sau bửa ăn. Tăng 100mg mỗi tuần, liều nên giữ ở mức tối thiểu làm cải thiện triệu chứng.

Stalevo ( Carbidopa plus levodopa plus entacapone ): viên             (mg): 12.5/50/200; 18.75/75/200; 25/100/200; 31.25/125/200; 37.5/150/200; 50/200/200; khởi đầu liều

thấp 1 lần/ngày nên giữ ở mức tối thiểu làm cải thiện triệu chứng.

  1. ỨC CHẾ MEN COMT: Catechol-O-Methyltransferase

Tolcapone(Tasmar) khởi đầu 100mg  3 lần/ngày. khởi đầu liều thấp 1 lần/ngày nên giữ ở mức tối thiểu làm cải thiện triệu chứng.

3.   CHẤT ĐỒNG VẬN DOPAMINE:

Bromocriptine( parlodel ) viên 2,5mg, 5mg khởi đầu 1,25mg tăng dần mỗi 2 – 4 tuần cho đến khi đạt hiệu quả và duy trì 2,5 – 10mg, 3 lần/ngày.

Pergolide khởi đầu 0,5mg, duy trì 1mg 3lần/ngày.

* THUỐC CHỌN THỨ HAI

  1. Thuốc kháng cholinergic: Giúp cải thiện triệu chứng run Artan( trihexylphenidyl) 0,5 – 2mg x3 lần/ngày
  1. Amantadine (symmetrel) viên 100mg khởi đầu 100mg buổi sáng, có thể tăng liều đến 100mg x 3/ngày.
  2. Thuốc chẹn Beta (Propanolol, Metoprolol …): Có hiệu quả hơn những thuốc kháng cholinergic trong điều trị run, nên dùng liều thấp tăng dần, cần lưu ý huyết áp và chống chỉ định.
  3. Thuốc khác: Pramipexol

IV-  KHUYẾN CÁO

Hiện diện của run, cứng cơ và loạn động ở bệnh nhân là những yếu tố của khởi phát sớm của bệnh Parkinson, nếu không có triệu chứng thần kinh nào khác, và nếu bệnh nhân không dùng thuốc gây ra hội chứng parkinson, chẩn đoán chắc chắn bệnh Parkinson. Cần:

Giải thích cho bệnh nhân rõ bệnh tình.

Khuyến khích bệnh nhân luyện tập thể lực đều đặn.   Triệu chứng nhẹ không cần trị liệu.

Nếu bệnh nhân có những than phiền cản trở chức năng, cần xem xét trị liệu. Nếu bệnh nhân nhỏ hơn 70 tuổi, trí tuệ còn minh mẫn nên khởi động trị liệu với đồng vận dopamine non-ergot bởi vì ít có nguy cơ biến chứng về vận động trong năm năm đầu. Kế đó levodopa có thể cho thêm vào nếu không có đáp ứng với đồng vận dopamine.

89 bài thuốc nam chữa bệnh ung độc, nhọt độc, đinh râu

1. Chữa hết thảy ung độc phát bối gần chết

  • Lấy củ chuôi giã nát đắp vào.
  1. Phong sang (ghẻ lở)
  • Hùng hoàng tán bột hòa nước bôi vào.
  1. Lên đinh sang gần chết
  • Cúc hoa giã lấy nước 1 cân, uống sống ngay.
  1. Ghẻ lở
  • Hạt máu chó, hạt củ đậu, củ nghệ (bằng nhau), Lưu hoàng chút ít, hòa với mỡ lợn bôi vào, trẻ con dùng dầu vừng hòa với thuốc mà bôi.
  1. Phong ngứa sinh ghẻ lở suốt năm
  • Lấy lá Nhân trần nấu đặc bôi vào.
  1. Ác sang vỡ nát tới xương
  • Uất kim tán bột, sáp ong, dầu dừa nấu cao bôi vào.
  1. Lở hai chân ngứa lắm, chảy nước vàng dầm dề
  • Lá dâu, giã nhỏ với một ít muối đắp vào mỗi ngày 3 lần.
  • Hoàng bá 2 đồng cân, Khinh phấn 1 đồng cân hòa vời nước mật lợn bôi vào.
  1. Ghẻ ngứa
  • Ba đậu 10 hạt, Mộc miết tử 12 hạt, Đan bì 7 cành, vỏ hòe 7 cành, đều tán bột, nấu với 1 bát dầu vừng, lắng trong bôi vào.
  1. Đinh độc sang
  • Phèn chua, Bạch chỉ, gừng sống, hành, đun với nước và uống với rượu.
  • Vôi, Bán hạ, đều nhau, tán, rịt.
  • Gan cóc 3 – 4 cái, lá vông 3 – 4 lá, tán hòa với mật, lấy gai tre khêu đầu nhọt, đem thuốc đổ vào, trong thì ăn Đinh hương với miếng trầu là khỏi.
  1. Đinh sang như mắt cá
  • Phèn phi tán, nấu hồ trộn đều mà bôi thì sưng tan không làm mũ.
  1. Nhiễm đỉnh độc sang thũng các chứng
  • Kinh giới 1 nắm sắc nước uống nguội.
  • Lại dùng phèn sống, Hoàng đơn tán, lấy kim khêu nặn hết mủ mà rịt.
  1. Đinh thũng gần nguy
  • Cúc hoa 1 nắm, giã vắt lấy nước 1 cân, đổ vào miệng là tỉnh ngay.

(Không có hoa thì dùng gốc rễ)

Hoa Cúc dại trắng chữa lẹo mắt
Hoa Cúc dại trắng
  1. Cấp mạn tính đinh sang
  • Cây ích mẫu giã vắt lấy nước uống, bã thì rịt.
  1. Rút ngòi đinh độc ra
  • Bột gạo, Hoàng đơn, mủ cóc trộn đều mà viên, khêu vỡ chỗ đầu mụn ra nhét thuốc vào, lấy cao mà dán.
  • Một nắm ngọn ngải bỏ vào ống tre tươi mà đốt, chắt lấy nước cốt, trộn nước cốt với vôi thành hồ, khêu mụn đinh ra mà bôi vào, 3 lần thì ngòi tự ra.
  1. Hết thảy các thứ ác sang thũng độc
  • Lưu hoàng 3 lạng, bột kiến mạch 2 lạng, hòa với nước giếng han mai mà viên, cất đi, khi dùng lấy hòa với nưđr. mới múc về, bôi khỏi ngay
  • Đất tổ mối ở trên cây khô, nếu được trên cây thông thì tốt nhất. Hoàng đơn sao đen, đều tán nhỏ, hòa với dầu vừng, bôi, khỏi ngay
  1. Đinh độc vỡ nát ở trong miệng
  • Lá chanh, lá Thanh yên, lá Tía tô, đem giã nhỏ, lấy lá chuối tiêu bọc ngoài đắp chỗ đau, ngày đêm thay vài lần,

lại lấy vỏ trái chanh bỏ vỏ ngoài lấy vỏ vàng nghiền bột rắc vào ngoài miệng nhọt rồi đắp thuốc vào.

  1. Chữa 18 loại đỉnh độc, đắp vào vỡ ngay
  • Lá phèn đen đất (nhiều), củ chuối tiêu, 2 vị nghiền nát. Đại hoàng, Hoàng bá, Phác tiêu, Hoàng cầm, đều bằng nhau, mài với nước, hòa thuốc trên, đắp.
  1. Mọi chứng đỉnh độc cùng đan độc, ung độc
  • Lá phèn đen 3 phân, cánh bèo to, lá mồng tơi, đều 1 phân, đều giả nhỏ đắp, mụn chưa làm mủ thì tiêu, có mủ rồi thì vỡ nếu mới mọc chưa làm mủ thì lấy 3 phân Bạch lạp, 1 phân Ngân châu, nấu với mỡ lợn thành cao, dán rồi lấy thuốc trên bôi chung quanh ngoài chỗ mụn.
  1. Đinh râu
  • Đinh râu là một thứ mụn nhọt nhỏ thường mọc ở chung quanh môi miệng, mụn tuy bé nhưng gốc lại sâu. Lúc đầu chỉ bằng hạt tấm, ngứa khó chịu rồi sưng đỏ, to dần lên, đau nhức như đinh đóng (nên gọi đinh râu), nặng thì phát sốt. Loại này, nặng thì phải chữa kịp thời nếu không thì hay biến chứng nguy hiểm.
  • Nguyên nhân Hỏa độc uất kết ở trong, bị cảm khí độc ở ngoài.
  • Phép chữa Cần làm cho tán huyết, tiêu độc, không nên cứu, không nên nặn non sẽ gây biến chứng nguy hiểm.
  • Những phương thuốc uống trong:
  1. Thời kỳ mới phát

Sưng, đỏ, nóng, đau, nhức, có phát scít hoặc không phát sốt, mạch hoạt sác, (mạch đi lưu lợi và nhanh), dùng phương thuốc:

  • Bồ công anh (diếp dại) 20g
  • Mía ngọt 12g (róc vỏ chẻ nhỏ)
  • Cây Ké đầu ngựa 20g

Các vị cho vào ấm, đổ 1/2 lít nước sắc còn 1/4 lít, người lớn chia 2 lần uống trong một ngày, trẻ em uống nhiều lần.

  1. Thời kỳ làm mụn

Mụn bắt đầu mềm ở giữa và có mủ, dùng phương thuốc:

  • Dây kim ngân 20g – Kinh giới 8g
  • Cải rừng (cải trời) 12g – Hà thủ ô 20g (sao rượu)
  • Củ xương bồ 12g (sao rượu) – Gai bồ kết 12g
  • Vảy tê tê (Xuyên sơn giáp) 12g (sao với cát cho phồng)
  • Nam Bạch chỉ 12g

Cho các vị vào ấm, đổ 1 lít nước, sắc còn 1/2 lít, người lớn chia làm 3 lần uống. Trẻ em tùy theo tuổi uống ngày 2-3 lần.

  1. Chú ý

Khi mụn đinh râu mới mọc, có thể dùng phương thuốc sau đây, trong uống, ngoài đắp:

  • Cây rau má lá rau muông (tức tử hoa địa tinh) 80g
  • Hoa cúc, lá cúc 80g

Hai thứ dùng tươi, giã nát, thêm ít nước sôi, vắt lấy nước cốt mà uống, bã thì đắp ở mụn đinh râu.

  • Thuốc đắp ngoài

Bắt 1 con nhện giã nát, trộn với 1 củ hành ăn, đắp vào mụn đinh (được thứ nhện ôm trứng càng tốt).

Cứt ráy tai mới lấy, đắp vào đinh dán lại.

  • Châm cứu

Dùng kim hào châm (2 phân hoặc 3 phân), châm tả các huyệt: Hợp cốc – Nội đình – Giải khê.

  1. Đinh râu
  • Húng lủi 1 nắm rửa sạch – Hùng hoàng 1 đồng cân
  • Cách hào chế: Húng lủi rửa sạch giã nhỏ, Hùng hoàng tán nhỏ cho vào giã chung với húng lủi rồi vắt lấy nước uống.
  • Cách dùng: Nước húng uống xong còn bã thì thêm một tí mắm tôm vào trộn đắp vào chỗ mụn.
  1. Nhọt lở trên đầu

Bỏ vôi trộn vào cơm giã nát, đắp lên.

  1. Nhọt ngứa ở trong rắn chắc

Sâm kỳ đều 1 lạng, tán, bỏ vào 1 đồng cân Long não, hòa với nước ngó sen tươi mà viên, uống với nước ấm mỗi lần 30 viên.

  1. Nhọt vỡ mà ngứa

Lấy muối xát chung quanh khỏi ngay.

  1. Nhọt phát bối đau lắm

Bài 1

  • Gai bồ kết sao, tán bột 1 lạng
  • Hoàng kỳ nướng 1 lạng – Cam thảo tán 1/2 lạng

Nhũ hương nấu với rượu, lấy nước hòa 1 đồng cân thuốc tán, uống ấm.

* Bài 2

Lấy các kén tằm đã cắn lở, đốt uống với rượu một lúc thì tan.

  1. Nhọt phát bối đau lắm muốn nguy

Quả bí đao cắt bỏ khúc đầu, úp lên mụn nhọt, bí nát lại thay, nếu thấy hơi thu miệng lại thì dùng cao mà dán.

  1. Nhọt phát bối to như cái đĩa lổn

Lá vông nấu với giấm đắp lên mụn, nóng lui, đau khỏi, thu miệng, rất hay.

  1. Nhọt phát bối
  • Trong uống:

+ Quy 6 phân, Kỳ 1,5 đồng cân, Sâm 5 đồng cân, Bạch chỉ, Phòng phong đều 4 phân, Mộc hương, Cam thảo, Binh lang, Đậu xanh, Ô dược, Hậu phác, Tử tô, Xuyên khung, Cát cánh đều 4 đồng cân, Nhục quế 2 đồng cân, Hồi hương 3 đồng cân, Kim ngân 2 đồng cân, sắc với rượu và nước, uống + Đậu xanh tán 3 đồng cân, sắc nước Kim ngân làm thang uống.

  • Ngoài bôi:

+ Lược sừng cũ đốt ra than, viên với hồ, phơi khô, lúc dùng mài với rượu đổ lên nhọt, tiêu ngay.

+ Nam Mộc hương, lá Huyết dụ, Ô long vĩ (bồ hóng) đun trước, mài Đại hoàng, hột gấc mà bôi.

+ Quả bìm bìm, hạt gấc, bồ hóng, Thanh hao, đều tán, hòa với Hoàng đơn mà viên, mỗi lần 5 viên, lại lấy cây chuôi, bông Mã đề, lá Trường sinh, chuôi dại giã vắt lấy nước, mài viên thuốc trên mà bôi.

  1. Nhọt hậu bôi

Liên kiều – Ngưu bàng – Đương quy – Cam thảo, đều nhau, sắc uống.

  1. Cao thái huyền, chữa mọi thứ ung thư phát bôi, ác sang, đỉnh độc và lở tay, bất cứ đã vỡ mủ hay chưa vỡ mủ, có tác dụng trị độc, hút mủ, lên da non, gỉảm đau
  • Ba đậu, hạt gấc, đều bỏ vỏ 3 đồng cân, Hoàng đơn 5 đồng cân, cành Hòe, cành Bồ kết, cành Dâu, đều dùng cành khô bằng cái đũa, dài 7 tấc, giã nát, lấy dầu vừng tẩm một đêm, cô thành cao, đổ vào lọ kín, ngâm nước 3 ngày cho hết hỏa độc, phết lên giấy mà dán.
  1. Đầu ngón tay mọc nhọt như đầu rắn
  • Lấy quả trứng gà khoét thủng lỗ, cho đầu ngón tay vào, hễ trứng tan ra nước thì đổi cái khác.
  • Hoặc dùng một con rết đốt, tán, hòa với nước mật lợn mà đổ
  1. Nhọt lở vì nhiệt và phong độc khắp mình, chảy nước vàng

Sắc Cam thảo lấy nước rửa rồi lấy Hoạt thạch tán rắc vào.

  1. Cao dán nhọt
  • Hạt gấc 3 phân                             – Đại hoàng 1 phân
  • Phác tiêu 1 phân                          – Hạt cà độc dược 1 phân
  • Nhựa thông hoặc mỡ lợn hoặc dầu lửa.
  1. Nhọt u
  • Xoa nước phèn trước
  • Đắp nước bã trầu + Hạt gấc mài bôi vào.
  1. Hết thảy những chứng ung nhọt, phát bối, nhũ ung, đan độc
  • Đất lòng bếp, tán, tỏi giã nát như bùn mà rịt.
  1. Ung nhọt sau khi vỡ mủ, quanh thịt kết cục rắn
  • Vôi 1/2 cân. Kiều mạch 1/2 cân, tro rơm lúa nếp 1/2 cân.

Đổ nước vào đun cho thành màng sương, lấy kim khêu cho mụt vỡ, rồi đổ thuốc vào thì thịt ấy sẽ tiêu hết.

  1. Các chứng ung nhọt
  • Chích thảo 3 lạng, rượu 1 đấu ngâm trong bình. Dùng 1 miếng chì nấu ra nước trút vào bình ấy. Lại nấu lại trút vào 9 lần, lấy rượu uống say nằm ngủ sẽ khỏi.
  1. Các chứng ung nhọt
  • Lấy quả cà hoang chín lũn (tức chín bấy ra) ở ngoài đồng cho nhiều, nghiền ra, bỏ vào khăn tay vắt lấy nước, măng tre xanh 5 cái, đun nhỏ thành cao, khi dùng thì phết ra giấy mà dán, ung nhọt tiêu ngay, rất hay.
  1. Hết thảy ung nhọt mới mọc, uống phòng trước có thể tiêu sưng trừ độc
  • Cam thảo 5 cân đập nát, ngâm với nước 1 đêm, gạn lấy nước, lọc sạch, cô thành cao, hòa với nước uống mỗi lần 1 thìa, nếu tiêu hơi lỏng đừng ngại.
  1. Nhọt độc
  • Thiên man thanh (cây cải rừng) nấu lấy nước 1 cân, uống ngày 2 lần, ngoài dùng đậu đỏ tán bột hòa với nước, bôi.
  1. Nhọt độc
  • Lá cây móng tay, đất lòng bếp, củ chuối, cho ít muối vào, giã nát mà đổ, khô lại thay, khỏi trăm phần trăm.
  1. Ung nhọt mà bí tắc đại tiện
  • Cam thảo sống 2,5 đồng cân, lấy nước giếng ban mai nấu uống, có thể đi ra các chất độc.
  1. Ung nhọt gây ra bí đại tiểu tiện
  • Tử thảo – Qua lâu nhân, đều nhau, đun với nước mới gánh, uống.
  1. Ung nhọt thũng độc đã vỡ hay chưa vỡ
  • Hồ hoàng liên, Xuyên sơn giáp (đốt cháy), Binh lang, bằng nhau, tán, hòa với lòng trắng trứng gà mà bôi.
  1. Ung nhọt sưng đỏ nhiệt độc
  • Bạch chỉ, Đại hoàng, bằng nhau, tán, uống với nước cơm 2 đồng cân, giã rau má sống mà rịt.
  1. Những chứng ung nhọt, phát bối sang độc, có máu ứ ở trong thì không đau mà rịt vào thì đau; vì lo giận khí xung lên phát đau, rịt vào thì khỏi đau; hoặc phát sốt, rịt vào thì mát; hoặc vỡ không thu miệng lại, rịt vào thu miệng ngay; nếu vì thất tình uất ức ở trong, bất cứ hư thực hàn nhiệt đều khỏi
  • Vi củ chi nhục không cứ nhiều ít, ngâm nước gạo, đập dập bỏ lõi, tán, cho 3 đồng cân vào rượu ấm khuấy đều đợi cho lắng xuống, uống rượu trong, còn bã thì đắp vào chỗ đau.
  1. Phế ung đã thổ ra được
  • Hoàng kỳ 2 lạng sắc uống nóng ngày 3-4 lần.
  1. Phế ung ho ngực đầy, rét run, mạch sác, cổ họng khô, không khát thổ ra đờm đục hôi thối, thổ ra mủ như cháo
  • Cát cánh 1 lạng – Cam thảo 2 lạng, sắc với nước chia 2 lần uống sáng và chiều, uống nóng, thổ ra mủ máu khỏi ngay.
  1. Phế ung thổ ra máu
  • Tóc đốt ra than 1 lạng, giấm 2 cáp, nước sôi để nguội 1 chén hòa lẫn mà uống.
  1. Trường ung đau ở trong ruột
  • Mai ba ba đốt tồn tính, tán, hòa với nước, uống, mỗi lần 2 đồng cân, ngày 3 lần.
  1. Ung ruột
  • Dùng sáp ong, phèn chua sống làm viên, uống với rượu.
  1. Trong ruột sinh ung, mọi thuốc không khỏi
  • Trái Bồ kết 1 cáp, cắt nhỏ, rượu ngon 1 bát sắc còn 7 phân, uống nóng, máu mủ sẽ theo tiêu tiểu ra hết, nếu không uống được rượu, thì sắc nước uống cũng được.
  1. Ung mọc trong ruột
  • Lông trên đầu gà trống và phân của nó, 2 vị bằng nhau, đốt tán, uống 1 đồng cân với rượu lúc đói.
  1. Chứng đầu hạch não tủy ở sau gáy sinh ra hạch đờm,

sinh ở giữa là não, ở bên cạnh là tủy

  • Lấy đá bọt loại nhẹ mà trắng đốt tồn tính, tán, cho vào ít khinh phấn, hòa với dầu vừng mà bôi, chớ lấy tay ấn vào vi ấn vào sẽ sưng lên.
  1. Hạch bướu ở đầu
  • Cũng dùng phương chữa đầu hạch trước, gia thêm phân bò.
  1. Ung nhọt không thu miệng
  • Lưu hoàng phấn rắc vào lỗ miệng nhọt đến khỏi thì thôi.
  1. Ung độc mới mọc
  • Lá phèn đen 1 phân, cánh bèo ván 1 phân, giã nát, vắt lấy nước hòa đều, đắp.
  1. Ung mọc ở các khớp xương mới, hay đã lâu
  • Bạch hoa xà, dây bướm bướm (lấy ở cây không có lông), 0 dược, Trầm hương, Quan quế, Cam thảo, Kim ngân hoa. Lấy 1 bát lớn bỏ thuốc vào nấu cách thủy độ chừng nứt hạt lúa là được, đồng cânm nước chôn xuống đất để tiết hết hỏa độc rồi uống.
  1. Ung nhọt và phát bối sưng đau, chưa thành thì tiêu, thành thì vỡ mủ, sinh da non rất mau
  • Phèn phi 5 phân, nghiền – Nhục quế – Đinh hương – Hồi hương đều 1 đồng cân, Nhũ hương, Mộc dược, Long não, Hoàng đơn, Đại phong từ, Son tàu đều 1 phân, Xạ hương 1 ít – đều tán – trước lấy dầu vừng 1 bát lớn bỏ vào 1 lạng sáp ong nấu tan hết sáp thì cho thuốc bột vào, nếu khô thì thêm dầu vừng, nấu thành cao, dán.
  1. Mọi chứng ung độc
  • Hùng hoàng không cứ nhiều ít, tán, trộn với bột gạo rắc vào trên nhọt, lấy mồi ngải to để cứu, không kể mấy mồi, cứu luôn 3 – 4 lần, chưa làm mủ thì tiêu, có mủ cũng khỏi.
  1. Ung nhọt phát ở 2 chân
  • Lá xoan dâu, Bồ kết (sao), đậu xanh giã, đắp.
  1. Ung nhọt đi tiểu tanh hôi
  • Bạch chỉ 1 lạng, Hồng quỳ căn 2 lạng, Khô phàn – Bạch thược, đều 5 đồng cân, tán, viên với sáp ong to bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 10 viên với nước cơm khi đói, hết mủ thì dùng thuốc bổ để bổ.
  1. Ung độc thũng độc
  • Hạt Khổ qua mài với giấm, bôi.
  1. Ung nhọt ở cánh tay
  • Nhũ hương 5 đồng cân, Mộc dược 3 đồng cân, Đào du (dầu đào) nấu cao dán.
  • Hùng hoàng, Hoàng du 5 đồng cân tán. Nấu với 3 đồng cân sáp ong, trộn thuốc vào đều, dán.
  1. Cao dán chữa ung độc và mọi thứ sang độc
  • Mật đà tăng 3 lạng, tán – tóc (lấy nước bồ kết rửa sạch) 3 đồng cân, sáp ong 2 đồng cân.
  • Hoàng du 7 lạng, tóc – Mật đà tăng – Hoàng du bỏ vào trong nồi đất, nấu bằng lửa than, thấy tóc hóa tan hết, cho sáp ong vào làm cao, khi dùng phết giấy dán.
  • Sáp ong, dầu vừng, Hoàng đơn, Nhựa thông, nấu nhỏ lửa thành cao dán.
  1. Cao Thương nhĩ chữa tất cả các chứng ung nhọt phát bối, ác sang, thũng độc, đinh nhọt, lở ống chân (liêm sang), lở do bị đánh đập, cùng mọi chứng phong ngứa, nhức răng, đau họng, dùng dán vào chỗ đau
  • Ké đầu ngựa – ngày 5 tháng 5 âm lịch, nhớ lấy cành, lá, quả, rễ, rửa sạch, phơi khô, thái nhỏ, đổ nước, nấu ra nước đậm, lọc bỏ bã rồi hỗn hợp cô thành cao, rót vào bình cất kín. Khi dùng tùy chỗ đau to hay nhỏ mà lấy giấy dày, trét cao vào dán. Đồng thời mỗi ngày hòa 1 thìa với rượu uống, kiêng ăn thịt lợn.
  1. Phép cứu, chữa ung nhọt phát bối mới phát, sưng đỏ đau nhức, trong 6 ngày có thể cứu được, ngoài 7 ngày không thể cứu được
  • Dùng tờ giấy nhúng nước lạnh đem đắp lên chỗ có nhọt độc, coi chỗ nào khô trước là đầu nhọt kết tại đó, bóc bỏ giấy, đặt 1 lát tỏi lên đầu nhọt, để ngải lên trên mà cứu 3 mồi, lại thay lát tỏi, lại đốt, đau đốt đến hết đau, không đau đốt đến đau mới thôi.
  • Hoặc là nhọt độc có nhiều đầu thì lấy tỏi giã nát như bùn nặn thành bánh mà trải lên các đầu. Mồi ngải mà cứu y như trên, cần nhất là bệnh mới phát 2-3 ngày cứu ngay.
  • Dùng tỏi 10 củ, đậu xị 1/2 cáp, Nhũ hương 1 đồng cân cùng nghiền nho, tùy nhọt to nhỏ mà khoanh 1 cái vòng bằng tre, rồi dán thuốc vào trong vòng ấy dày 2 phân, trải ngải nhung lên trên mà đốt, đau thì đốt đến ngứa, ngứa thì đốt đến đau, đốt đến 100 mồi thì bệnh tiêu tan.
  1. Ung độc phát bối, và tất cả các loại thũng độc mới phát
  • Mật lợn 1 cái – Hành 1 nhánh – mật ong chút ít, cùng cho vào bát, nhồi nặn thành bánh, đắp chỗ đau ngày 3-4 lần.
  • Rượu hoa hòe, chữa các chứng như trên. Hoa hòe 4-5 lạng sao vàng, đang nóng chế vào 5 bát rượu, đun sôi hơn 10 dạo, lọc bỏ bã cho uống nóng, thũng độc sẽ tiêu ngay
  • Hoa hòe sao qua – Đào nhân, đều 2 lạng, rượu ngon 1 chén, đun sôi hơn 10 dạo, uống nóng, nhọt chưa thành thì uống 2-3 lần, đã thành thì uống 1-2 lần
  • Hạt gấc, bỏ vỏ, dùng 5 hạt – Phèn chua – Diêm tiêu – Bồ kết (bỏ vỏ đen và hạt). Đều 4 đồng cân, tán, viên với hồ bằng đầu ngón tay, phơi khô, bỏ vào lọ, cất kín không cho gió lọt vào. Lúc dùng lấy đọt chuối giã lấy nước mài với thuốc trên, bôi ngày đêm 4-5 lần đến tiêu hết thôi.
  1. Ung độc phát bối, mới phát chưa thành
  • Củ gai, giã nát đắp, ngày đêm thay đổi luôn.
  • Gạc hươu, đẽo vụn, tán, trộn với giấm như bùn, phết vào ngày 4 – 5 lần.
  • Gạc hươu, mài với nước lã phết – khô lại phết, đến tiêu thì thôi, chừa trống ở giữa 1 lỗ cho tiết hơi độc.
  • Lá móng tay giã với ít muối đắp, khô thì thay, làm 2-3 ngày thì tiêu.
  • Xuyên sơn giáp 1 lạng, trước dùng trấu, đốt ra tro rồi vùi vảy ấy vào nướng chín, tán với ít xạ hương, 1 lần uống 2,5 đồng cân với rượu.
  • Lá khoai nước (môn nước) giã nát trộn giấm, gói lá chuối nướng chín, chườm.
  • Thạch xương bồ tươi, giã nát đắp, nếu không có Xương bồ tươi thì dùng Xương bồ khô tán trộn nước phết.
  • Bèo váng, giã nát, trộn lòng trắng trứng gà, đắp vào.
  1. Ung nhọt phát bôi và các loại vô danh thũng độc mới phát dùng cho người khỏe
  • Hạt bìm bìm trắng, hạt bìm bìm đen, đều bằng 1 lạng, giã nát, đổ vào 1 bát rượu ngon, sắc còn 8 phân, phơi sương 1 đêm, uống ấm, tiêu ra được máu mủ là khỏi.
  • Lá Phù dung (hoặc dùng hoa hay vỏ trắng) giã trộn với mật ong đắp chung quanh mụn nhọt, chừa 1 lỗ giữa cho tiết hơi độc, khô thì thay, hoặc gia thêm đậu đỏ tán nhỏ càng tốt.
  • Quả cà dại, chín mùi hái nhiều về, nghiền nát, gói khăn vải, vắt lấy nước cho vào nồi nhỏ lửa cô thành cao, dùng 5 cành tre non khuấy xong rót vào lọ cất kín, khi dùng trát lên giấy dán, khô lại thay, dán đến tiêu hết thôi.
  • Lá cà dại rửa sạch, mài ra nước đặc, trong uống ngoài bôi, ngày 3 lần. Trước đó dùng lá thài lài trát ít muối, vò lấy nước đặc rửa sạch chỗ nhọt độc rồi rịt thuốc trên
  • Bồ kết, hái lần trước từ mùa xuân sau lại hái 1/2 phần, phơi khô, tán, uống 3 đồng cân với rượu nhạt sau bữa ăn, chưa thành mủ thì tiêu, có mủ thì vỡ.
  • 1 quả bàng, bỏ vỏ lấy nhân, đậu xanh 1/2 cáp, chút ít muối, giã lẫn trộn giấm đắp, khí nóng bốc lên là khỏi.
  • Cỏ roi ngựa, giã vắt lấy nước cốt uống, bã đắp.
  1. Ung nhọt cùng mọi thứ nhọt độc uống bài này thì nọc độc không phá hạỉ được
  • Dầu vừng 1 cân, nấu trong cái nồi bằng bạc, sôi 20 dạo, chế vào 1 bát giấm, chia uống 5 lần.
  1. Ung nhọt độc mọc ở chỗ hiểm, uống bài này khí độc không công vào trong
  • Cao da trâu 4 lạng, rượu 1 chén, chưng cách thủy cho tan, tùy ý uống cho say.
  1. Âm thư phát ở lưng sắp chết
  • Đất lòng bếp, tán, nhào với rượu như bùn, phết, khô lại
  • Như trên, nhưng trộn với giấm thanh và tro, Ké đầu ngựa, phết.
  • Củ chuối hột, giã, rịt vào
  • Rau giấp cá, dùng lá chuối gói lại nướng chín, đắp chỗ đau, chừa 1 lỗ giữa cho tiết hỏa độc. Thay đổi luôn.
  1. Ung nhọt phát bối to bằng cái bát
  • Lá vông giã nát, xào giấm, rịt, phương này lưu được nóng, giảm được đau, dần dần sinh da non, liền miệng.
  1. Ung nhọt vì tức giận mà phát, uống thuốc này để dẫn khí lại hành huyết, nhọt sẽ tiêu
  • Hương phụ mễ 1-2 cáp, gừng sống giã vắt lấy nước, ngâm 1 đêm, rồi sấy khô tán, uống 2 đồng cân với nước sôi, ngày 3 lần.
  1. Ung nhọt đỉnh độc và tất cả chứng thũng dộc vô danh
  • Cúc dại, dùng cả cành lá hoa giã nát, cho rượu vào đun sôi, uống, bã đắp chỗ đau.
  • Như trên, thay Cúc dại bằng Ké đầu ngựa.
  • Đậu đỏ, tán, trộn với nước, đắp chỗ đau tan ngay.
  • Gừng khô, sao biến sắc tím, tán, trộn giấm, đắp chỗ đau, chừa 1 lỗ nhỏ ngay giữa, cho tiết hơi độc.
  • Tổ tò vò, tán, trộn giấm đắp.
  1. Mọi thứ ung nhọt
  • Củ tóc tiên leo mới đào 3,5 lạng rửa sạch, bỏ vỏ và lõi, mài trong cái nắp khạp, hòa rượu ngon, lọc lấy nước, uống hết một lần.
  • Hà thủ ô, không cứ nhiều ít, dùng dao đồng cắt nhỏ, đổ nước, sắc nhỏ lửa còn 1/2, đang nóng chế rượu ngon vào, lại sắc sôi 3 dạo, thường uống.
  • Mộc nhĩ lấy ở cây nhãn – Chỉ xác – Nghệ vàng – 3 vị bằng nhau, dùng lá dưa chuột vò lấy nước đặc mài 3 vị trên với ít xạ hương, trộn đều, phết.
  • Củ Tầm sét, giã nát với ít giấm, gói lá chuối lại nướng chín chườm, buộc chặt lại, ung nhọt sẽ tiêu.
  • Cây vú bò, dùng 1 khúc cạo bỏ vỏ xanh, giã nát, xào với giấm cho nóng đắp.
  • Hạt cải, tán nhỏ trộn với mật lợn hoặc mỡ lợn, đắp, ngày thay 3 lần.
  1. Tất cả ung nhọt phát bối, đinh độc sưng vú, hột xoài, đau họng, song nga, đơn nga, bất kỳ đã vỡ mủ hay chưa
  • Kim ngân hoa, cả cành lá, giã nát, vắt lấy nước cốt 1/2 chén, chế rượu vào 1/2 chén, đun nóng, uống. Mùa thu đống không có thứ tươi thì dùng hoa khô, sắc hòa rượu uống.
  • Cá gáy 1 con, đốt ra tro, tán, trộn giấm bôi.
  • Hoàng đơn, 3 đồng cân, Hạt thầu dầu 60 hạt, tóc đàn ông đốt ra tro 2 đồng cân, đều tán. Dầu vừng nấu thành cao mới cho Hoàng đơn vào, khuấy đều để dán. Hoặc cho vào ít sáp ong càng tốt.
  1. Ung nhọt vơi chứng trường ung, hột xoài – thuốc này có tác dụng củng cố tạng phủ, cắt cơn đau nhức bảo vệ màng da, chỉ tả, hóa mủ, nên uống lúc đã vỡ mủ
  • Phèn chua, tán, sáp ong, 2 đồng cân, nấu sáp trước cho chảy tan, trộn phèn thành viên bằng hạt ngô đồng, uống 20 – 30 viên ngày 3 lần với rượu hoặc nước sôi.
  1. Nhọt độc sưng đau kêu khóc vang cả xóm, không nhắm mắt được, không ai biết là bệnh gì
  • Tỏi 1 củ, giã nát, trộn với dầu vừng đắp vào, khô thì thay.
  1. Ung nhọt phát bối đã vỡ miệng
  • Hạt thầu dầu 1 cáp, nghiền nát, giấm lâu năm 1 bát, muối 1 nhúm, cùng cho vào nồi đun, dùng cành hòe khuấy liền tay đến thành cao. Kinh nghiệm dùng lâu nước vo gạo rửa chỗ đau cho sạch, lấy lông gà chấm thuốc luôn phết chỗ tổn thương, da sẽ nhăn lại, thịt sẽ sinh ra.
  • ích mẫu thảo, giã sống đắp.
  1. Ung nhọt vỡ miệng có giòi
  • Gạc hươu, đốt, tán, trộn giấm đắp vào, hoặc dùng gạc hươu mài với giấm.
  • Lá xoan, mầm tre non cùng giã nát đắp vào, chừa 1 lỗ giữa giòi sẽ ra hết.
  1. Ung nhọt mọc ở sau gáy, chỗ bị bệnh này 10 người chết

7-8, mới phát thì dùng

  • Mỡ lợn sống trắng sạch, thái lát, dán vào mụt, ngày thay 3 – 5 lần.
  1. Vô danh ác sang
  • Bọ hung 1 con, giã nát, đắp.
  1. Thạch ung, rắn như đá, không có mủ
  • Xác rắn lột, sao, tán, trộn rượu đắp, 1 đêm là khỏi.
  1. Truyền trị ung nhọt sưng cứng không có đầu, không biến sắc
  • Hành 4 lạng, sao cháy, giã nát trộn giấm, rịt vào, hồi lâu thay cái khác.
  • Phương khác chỉ dùng củ hành sao nóng giã nát cho vào túi vải mà chườm, nguội lại thay.
  1. Ung nhọt phát bối lâu ngày không vỡ mủ, uống thuốc này có tác dụng bài nùng thác lý
  • Gai bồ kết không cứ nhiều ít, cho vào cái lọ sành với muối 1 cáp, đất bùn đắp bên ngoài, đốt lửa. Chờ nguội tán, 1 lần 1 đồng cân, dùng rượu nhạt đun nóng uống với thuốc, mùa hè dùng nước gạo lâu năm làm thang.
  • Bài nùng: 1 phương pháp chữa làm cho mủ đẩy ra ngoài.
  • Thác lý: 1 phương pháp chữa thúc dộc bên trong ra ngoài. Hai danh từ này thường đi đôi trong điều trị các bệnh ngoại khoa.
  1. Nhọt rò chảy nước, đấy là thận hư
  • Hạt bìm bìm, tán, rây lấy bột 2 đồng cân, dùng 1 bầu dục lợn bổ đôi, bóc bỏ màng, dồn thuốc vào, ngoài dùng lá tre gói lại, vùi vào lửa cho chín, ăn, thang bằng rượu ấm. Bài thuốc này, mượn thận để đưa vào thận, đường ngang, đường dọc đều đạt yêu cầu, độc tiết ra được không còn chảy nước.
  1. Bệnh ung thư máu
  • Kê huyết đằng 160g – Trứng gà 2 quả
  • Mơ tam thể (dây mơ lông) 80g

4 bát nước sắc còn 1 bát chia 2 lần uống. Ăn 2 quả trứng gà.

  1. Bài thuốc ung thư
  • Đại hoàng 3 chỉ                           – Cương tàm 1-5 chỉ
  • Bạch chỉ 2 chỉ                              – Đường 1 lạng

Sắc uống, 3 chén sắc còn 7 phân, thêm đường uống.

  • Gia giảm: Nếu nóng quá nhức đầu gia Xuyên khung 1 chỉ, Hoàng bá 0,5 chỉ.
  • Nếu đi tiêu nhiều: bớt Đại hoàng.
  • Nếu bón nhiều: thêm Đại hoàng.

Thuốc Arzerra (ofatumumab) được sử dụng như thế nào?

Sử dụng, Tác dụng phụ, Liều dùng, Tương tác thuốc, Cảnh báo

Arzerra (ofatumumab) là gì và nó hoạt động như thế nào?

  • Tên thuốc gốc: ofatumumab
  • Tên thương hiệu: Arzerra

Arzerra (ofatumumab) là một loại kháng thể đơn dòng được sử dụng để điều trị bệnh bạch cầu lympho mãn tính (chronic lymphocytic leukemia – CLL). Arzerra thường được sử dụng khi các loại thuốc khác đã được thử nhưng không có hiệu quả điều trị các triệu chứng.

Các tác dụng phụ của Arzerra là gì?

Các tác dụng phụ phổ biến của Arzerra bao gồm:

  • Buồn nôn
  • Nôn mửa
  • Tiêu chảy
  • Mệt mỏi
  • Phù tay, mắt cá chân, hoặc bàn chân
  • Khó ngủ
  • Phát ban da
  • Triệu chứng cảm lạnh như nghẹt mũi, hắt hơi, và đau họng.

Arzerra có thể làm giảm chức năng tủy xương, dẫn đến giảm số lượng các tế bào máu như hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu. Tác dụng phụ này có thể gây ra thiếu máu, giảm khả năng chống nhiễm trùng của cơ thể, hoặc dễ bị bầm tím hoặc chảy máu. Hãy thông báo cho bác sĩ nếu bạn gặp phải các triệu chứng sau:

  • Dễ bị bầm tím hoặc chảy máu
  • Da nhợt nhạt
  • Mệt mỏi không bình thường
  • Dấu hiệu nhiễm trùng (chẳng hạn như sốt, ớn lạnh, ho, đau họng kéo dài).

CẢNH BÁO

TÁI KÍCH HOẠT VIRUS VIÊM GAN B VÀ BỆNH NÃO TIÊU ĐIỂM ĐA Ổ TIẾN TRIỂN (PML)

  • Tái kích hoạt virus viêm gan B (HBV) có thể xảy ra ở bệnh nhân đang điều trị bằng các kháng thể tiêu diệt tế bào CD20, bao gồm cả Arzerra, trong một số trường hợp dẫn đến viêm gan cấp tính, suy gan, và tử vong.
  • Bệnh não tiêu điểm đa ổ tiến triển (PML) dẫn đến tử vong có thể xảy ra ở bệnh nhân đang điều trị bằng các kháng thể tiêu diệt tế bào CD20, bao gồm cả Arzerra.

Liều dùng của Arzerra là gì?

Phác đồ liều dùng được khuyến nghị

Pha loãng và tiêm dưới dạng truyền tĩnh mạch theo lịch trình sau. Không tiêm tĩnh mạch nhanh hoặc tiêm dưới da. Trước mỗi lần truyền, cần phải dùng thuốc dự phòng.

CLL chưa được điều trị trước: Liều lượng và lịch trình khuyến nghị khi kết hợp với chlorambucil là:

  • 300 mg vào Ngày 1, sau đó 1 tuần là 1.000 mg vào Ngày 8 (Chu kỳ 1), tiếp theo là
  • 1.000 mg vào Ngày 1 của các chu kỳ 28 ngày tiếp theo, tối thiểu 3 chu kỳ cho đến khi đạt được đáp ứng tốt nhất hoặc tối đa là 12 chu kỳ.

CLL tái phát: Liều lượng và lịch trình khuyến nghị khi kết hợp với fludarabine và cyclophosphamide là:

  • 300 mg vào Ngày 1, sau đó 1 tuần là 1.000 mg vào Ngày 8 (Chu kỳ 1), tiếp theo là
  • 1.000 mg vào Ngày 1 của các chu kỳ 28 ngày tiếp theo, tối đa 6 chu kỳ.

Điều trị mở rộng trong CLL: Liều lượng và lịch trình khuyến nghị dưới dạng đơn trị liệu trong điều trị mở rộng CLL là:

  • 300 mg vào Ngày 1, tiếp theo là
  • 1.000 mg 1 tuần sau vào Ngày 8, tiếp theo là
  • 1.000 mg sau 7 tuần và mỗi 8 tuần sau đó, tối đa là 2 năm.

CLL kháng trị: Liều lượng và lịch trình khuyến nghị là 12 liều được tiêm như sau:

  • 300 mg liều ban đầu vào Ngày 1, tiếp theo là
  • 2.000 mg hàng tuần trong 7 liều (Truyền 2 đến 8), tiếp theo là
  • 2.000 mg mỗi 4 tuần trong 4 liều (Truyền 9 đến 12).

Quản lý liều dùng

Quản lý Arzerra trong môi trường có đủ thiết bị để giám sát và điều trị các phản ứng truyền dịch.

Chuẩn bị tất cả các liều bằng cách pha 1.000 mL dung dịch tiêm 0,9% Sodium Chloride Injection, USP.

CLL chưa được điều trị, CLL tái phát và điều trị mở rộng trong CLL:

  • Đối với liều ban đầu 300 mg: Bắt đầu truyền dịch với tốc độ 3,6 mg/giờ (12 mL/giờ).
  • Đối với các lần truyền tiếp theo với liều 1.000 mg: Bắt đầu truyền dịch với tốc độ 25 mg/giờ (25 mL/giờ). Bắt đầu truyền với tốc độ 12 mg/giờ nếu có phản ứng phụ liên quan đến truyền dịch cấp độ 3 hoặc cao hơn trong lần truyền trước đó.

Nếu không có phản ứng phụ liên quan đến truyền dịch, tốc độ truyền dịch có thể tăng dần sau mỗi 30 phút (Bảng 1). Không vượt quá tốc độ truyền được quy định trong Bảng 1.

Bảng 1. Tốc độ truyền dịch cho Arzerra trong CLL chưa được điều trị, CLL tái phát và điều trị mở rộng trong CLL

Khoảng thời gian sau khi bắt đầu truyền dịch (phút) Liều ban đầu 300 mg (mL/giờ) Các lần truyền sau (mL/giờ)
0-30 12 25
31-60 25 50
61-90 50 100
91-120 100 200
121-150 200 400
151-180 300 400
>180 400 400
  • Liều ban đầu 300 mg: thời gian truyền trung bình = 4,8 đến 5,2 giờ.
  • Các lần truyền tiếp theo 1.000 mg: thời gian truyền trung bình = 4,2 đến 4,4 giờ.

CLL kháng trị:

  • Truyền dịch 1 (liều 300 mg): Bắt đầu truyền với tốc độ 3,6 mg/giờ (12 mL/giờ).
  • Truyền dịch 2 (liều 2.000 mg): Bắt đầu truyền với tốc độ 24 mg/giờ (12 mL/giờ).
  • Truyền dịch 3 đến 12 (liều 2.000 mg): Bắt đầu truyền với tốc độ 50 mg/giờ (25 mL/giờ).

Nếu không có phản ứng phụ liên quan đến truyền dịch, tốc độ truyền có thể được tăng lên mỗi 30 phút (Bảng 2). Không được vượt quá tốc độ truyền quy định trong Bảng 2.

Bảng 2. Tốc độ truyền dịch cho Arzerra trong CLL kháng trị

Khoảng thời gian sau khi bắt đầu truyền dịch (phút) Truyền dịch 1 và 2a (mL/giờ) Các lần truyền tiếp theo b (mL/giờ)
0-30 12 25
31-60 25 50
61-90 50 100
91-120 100 200
>120 200 400
  • a Truyền dịch 1 và 2 (300 mg và 2.000 mg): thời gian truyền trung bình = 6,8 giờ.
  • b Các lần truyền tiếp theo 2.000 mg: thời gian truyền trung bình = 4,2 đến 4,4 giờ.

Điều chỉnh liều lượng và tốc độ truyền cho các phản ứng truyền dịch

Ngừng truyền dịch cho các phản ứng truyền dịch với bất kỳ mức độ nào. Việc điều trị có thể được tiếp tục theo quyết định của bác sĩ điều trị. Các điều chỉnh tốc độ truyền dịch sau đây có thể được sử dụng làm hướng dẫn.
Nếu phản ứng truyền dịch đã giải quyết hoặc vẫn còn dưới mức độ 2, hãy tiếp tục truyền dịch với các điều chỉnh sau theo mức độ ban đầu của phản ứng truyền dịch.

  • Mức độ 1 hoặc 2: Truyền với tốc độ bằng một nửa tốc độ truyền trước đó.
  • Mức độ 3 hoặc 4: Truyền với tốc độ 12 mL/giờ.

Sau khi tiếp tục truyền dịch, tốc độ truyền có thể được tăng theo các Bảng 1 và 2 ở trên, dựa trên sự dung nạp của bệnh nhân.
Cân nhắc việc ngừng sử dụng Arzerra vĩnh viễn nếu mức độ nghiêm trọng của phản ứng truyền dịch không giảm xuống dưới mức độ 2 mặc dù đã can thiệp lâm sàng đầy đủ.
Ngừng vĩnh viễn liệu pháp cho những bệnh nhân phát triển phản ứng phản vệ với Arzerra.

Tiền điều trị

Bệnh nhân nên nhận tất cả các tác nhân tiền điều trị sau đây từ 30 phút đến 2 giờ trước mỗi lần truyền Arzerra. Xem Bảng 3 để biết lịch trình tiền điều trị trước mỗi lần truyền.

Bảng 3. Lịch trình tiền điều trị cho Arzerra

Bệnh CLL chưa điều trị, CLL tái phát hoặc Điều trị kéo dài trong CLL CLL kháng trị
Số lần truyền 1 và 2 3 và tiếp theoa 1, 2 và 9 3 đến 8 10 đến 12
Corticosteroid tiêm tĩnh mạch (prednisolone hoặc tương đương) 50 mg 0-50 mgb 100 mg 0-100 mgb 50-100 mgc
Acetaminophen uống 1.000 mg
Antihistamine uống hoặc tiêm tĩnh mạch Diphenhydramine 50 mg hoặc cetirizine 10 mg (hoặc tương đương)
a Tối đa 13 lần truyền cho bệnh CLL chưa điều trị; tối đa 7 lần truyền cho CLL tái phát; tối đa 14 lần truyền cho điều trị kéo dài trong CLL.
b Corticosteroid có thể được giảm liều hoặc bỏ qua cho các lần truyền sau nếu không có sự kiện bất lợi liên quan đến truyền dịch từ cấp độ 3 trở lên xảy ra với lần truyền trước đó.
c Prednisolone có thể được cho với liều giảm từ 50 mg đến 100 mg (hoặc tương đương) nếu không có sự kiện bất lợi liên quan đến truyền dịch từ cấp độ 3 trở lên xảy ra với lần truyền thứ 9.

 

Chuẩn bị và Quản lý

  • Không lắc sản phẩm.
  • Kiểm tra thuốc tiêm parenteral bằng mắt để phát hiện các hạt lạ và sự đổi màu trước khi sử dụng. Arzerra phải là một dung dịch trong suốt đến đục nhẹ, không màu. Không sử dụng dung dịch nếu có sự đổi màu, đục hoặc nếu có hạt lạ xuất hiện.

Chuẩn bị dung dịch:

  • Liều 300 mg: Rút và loại bỏ 15 mL từ một túi 1.000 mL dung dịch Natri Clorua 0,9% tiêm, USP. Rút 5 mL từ mỗi 3 lọ đơn sử dụng 100 mg Arzerra và thêm vào túi. Trộn dung dịch đã pha loãng bằng cách lật nhẹ.
  • Liều 1.000 mg: Rút và loại bỏ 50 mL từ một túi 1.000 mL dung dịch Natri Clorua 0,9% tiêm, USP. Rút 50 mL từ một lọ đơn sử dụng 1.000 mg Arzerra và thêm vào túi. Trộn dung dịch đã pha loãng bằng cách lật nhẹ.
  • Liều 2.000 mg: Rút và loại bỏ 100 mL từ một túi 1.000 mL dung dịch Natri Clorua 0,9% tiêm, USP. Rút 50 mL từ mỗi 2 lọ đơn sử dụng 1.000 mg Arzerra và thêm vào túi. Trộn dung dịch đã pha loãng bằng cách lật nhẹ.

Lưu trữ dung dịch đã pha loãng ở nhiệt độ từ 2° đến 8°C (36° đến 46°F).
Không có sự tương hợp không tốt nào giữa Arzerra và túi nhựa polyvinylclorua hoặc polyolefin cũng như các bộ truyền dịch đã được quan sát.

Hướng dẫn quản lý:

Không trộn Arzerra với, hoặc truyền đồng thời với các sản phẩm thuốc khác.
Sử dụng bơm truyền và bộ truyền dịch để quản lý.
Xả đường truyền tĩnh mạch với dung dịch Natri Clorua 0,9% tiêm, USP trước và sau mỗi liều.
Bắt đầu truyền trong vòng 12 giờ sau khi chuẩn bị.
Vứt bỏ dung dịch đã chuẩn bị sau 24 giờ.

Có thuốc nào tương tác với Arzerra không?

Không có thông tin nào được cung cấp.

Arzerra có an toàn để sử dụng khi mang thai hoặc cho con bú không?

Arzerra có thể gây giảm B-cell thai nhi dựa trên các phát hiện từ các nghiên cứu trên động vật và cơ chế hoạt động của thuốc.
Không có dữ liệu về việc sử dụng Arzerra ở phụ nữ mang thai để thông báo về nguy cơ liên quan đến thuốc. Tuy nhiên, có những xem xét lâm sàng.
Không có thông tin về sự có mặt của Arzerra trong sữa mẹ, các tác động đối với trẻ sơ sinh bú sữa, hoặc tác động đến sản xuất sữa.
IgG của người được biết là có mặt trong sữa mẹ. Dữ liệu đã công bố cho thấy rằng các kháng thể trong sữa mẹ không đi vào tuần hoàn của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ với lượng đáng kể.

Tóm tắt

Arzerra (ofatumumab) tiêm là một kháng thể đơn dòng được sử dụng để điều trị bệnh bạch cầu lympho mạn tính. Các tác dụng phụ phổ biến của Arzerra bao gồm buồn nôn, nôn, tiêu chảy, mệt mỏi, sưng tay/mắt cá chân/chân, khó ngủ, phát ban da, hoặc các triệu chứng cảm lạnh như nghẹt mũi, hắt hơi và đau họng. Arzerra làm giảm chức năng tủy xương, có thể gây thiếu máu.

Ngũ gia bì

Tên khoa học:

Schefflera Octophylla (Lour.) Harms Cây Men – Mosla Dianthera Chi Chân Chim (Schefflera), Loài S. Heptaphylla, Bộ: Hoa Tán (Apiales) Họ Ngũ Gia Bì (Araliaceae)

Tên khác: Ngũ gia bì chân chim, Cây đáng, Cây lằng

Mô tả:

Ngũ gia bì chân chim
Ngũ gia bì chân chim

Cây cao 2-8 m. Lá kép hình chân vịt, mọc so le, có 6-8 lá chét hình trứng. Cụm hoa mọc thành chùm tán, hoa nhỏ màu trắng. Quả mọng hình cầu, đường kính 3-4 mm, khi chín có màu tím đen, trong có 6-8 hạt. Cây mọc nhiều ở các tỉnh phía Bắc, miền Trung và có nhiều ở dãy Nam Trường Sơn. Ngay cả vùng đồng bằng cũng trồng tốt. Gần đây, ngũ gia bì chân chim được xem là cây cảnh đẹp thuộc loại cao cấp, đắt tiền.

Điều kiện sống của cây Ngũ gia bì:

Cây Ngũ Gia Bì ưa thích khí hậu nóng ẩm và chịu bóng, thích ánh nắng và chịu được hạn.
Đất trồng tốt nhất là đất chua và phì nhiêu. Nhiệt độ sinh trưởng thích hợp là 20°C – 30°C. Cây ưa sáng hoặc chịu bóng, nhu cầu nước trung bình, cây dễ trồng bằng giâm cành, lá xanh quanh năm, là cây nội thất đẹp vì có khả năng chịu bóng tốt.

Hàng tuần cho cây Cây Ngũ Gia Bì – Cây Chân Chim tiếp xúc với ánh sáng mặt trời tối thiểu 120 phút.

Cụ thể:

Ánh sáng: Ưa bóng bán phần, chỉ cần đảm bảo trong nhà có đầy đủ ánh sáng, mỗi ngày nếu được chiếu sáng khoảng 4 tiếng thì cây sẽ phát triển tốt.

Nhiệt độ: Cây Ngũ Gia Bì – Cây Chân Chim Không chịu được quá lạnh hoặc quá nóng, nhiệt độ sinh trưởng thích hợp trong khoảng 20°C – 30°C, mùa đông nhiệt độ không được thấp dưới 5°C, nếu không cây sẽ bị rụng lá.

Nước và độ ẩm: Thích hợp với môi trường có độ ẩm không khí cao, độ ẩm của đất tốt, nhưng cây cũng có khả năng chịu đựng khí hậu khô.

Đất và dinh dưỡng: Trộn đất bùn than, đất mùn và đá trân châu với nhau, thêm một lượng nhỏ phân trộn tổng hợp là được.

Phân bón: Mùa hè là thời gian sinh trưởng, nên bón phân cho cây vào thời điểm này để cây phát triển tốt.

Ngũ gia bì gai
Ngũ gia bì gai

Khí vị:

Vị cay, hơi đắng, hơi ôn, không độc, vào kinh Túc thiếu âm và Túc quyết âm, Viễn chí làm sứ, ghét Xà thoát, Huyền sâm.

Chủ dụng:

Trục ứ huyết lâu năm ở da và gân, trừ phong tý thường đau buốt trong chân, chữa 5 chứng yếu liệt, rã rời vì phong, chữa sống lưng đau nhức, bại liệt, chứng sán đau ở bụng, chữa cả tà khí phong hàn thấp, trẻ em xương mêm chậm biết đi, lở loét ác sang ở Hạ bộ, cứng gân, mạnh chân, tăng cường ý chí, bổ ích tinh, làm cho đàn ông cường dương, trị tiểu tiện nhỏ giọt, trừ ung nhọt có trùng ăn ở âm khí đàn bà, khỏi ngứa âm hộ, nhẹ mình sống lâu, trẻ mãi không già, thực là vị thuốc tiên.

Cách chế:

Kỵ sắt, để sống dùng, hoặc tẩm Rượu sấy qua. Thứ cây xanh, đôt trăng, hoa đỏ, vỏ vàng, rê đen, đủ 5 màu sắc của ngũ hành.

Nhận xét:

Ngũ gia bì ở trời thì được khí Thiếu dương là tinh của 5 ngôi sao, ở đất thì được vị của Kim, Hỏa, lá ra 5 cánh, mùi vị cay thì thuộc khí mà hóa đờm, đắng thì cứng gân xương mà thêm tinh, thấm thì trừ được Phong mà thắng thấp, đuổi huyết ứ ở bì phu, khỏi gân xương co quắp. Cho nên có câu : Thà được một nắm Ngũ gia bì còn hơn vàng bạc đầy xe. Nhưng chứng của chân âm của Can và Thận không đầy đủ thì phải dùng kèm với thuốc tư bổ mới được.

GIỚI THIỆU THAM KHẢO

Ngũ gia bì khu phong, thắng thấp lực mạnh, lại hóa được ứ. Đối với các bệnh phong thấp, kinh lạc bị cản trở, gân cốt đau đều nên dùng Ngũ gia bì.

“Trần thị tôn sinh thư”

Bài Ngũ gia bì tán

Dùng Ngũ gia bì phối hợp với Mộc qua, Tùng tiết, Đỗ trọng, Tục đoạn.

Trị gân cốt nhức đau, lưng gối yếu mỏi.

Ngũ gia bì cường Tâm, bổ hư, như:

Bài Phục phương Ngũ gia bì thang

Ngũ gia bì, Đảng sâm, Thái tử sâm, Bạch linh, Trạch tả, Xa tiền tử, Trư linh.

Trị chứỉĩg xung huyết, Tâm lực suy kiệt, tiểu ít, mệt mỏi.

Chữa thủy thũng dùng Ngũ gia bì phối hợp với bài Ngũ bì ẩm (gồm: Tang bì, Trần bì, Sinh Khương bì, Đại phúc bì, Phục linh bì).

“Toàn ấu tâm giám”

Bài Gia bì ngưu tất mộc qua tán

Ngũ gia bì 5đ, Ngưu tất 1,5đ, Mộc qua 1,5đ, cùng tán nhỏ, liều dùng 0,5đ hòa với nước Cơm cho uống.

Chữa trẻ 3 tuổi chưa đi được. Rất hay.

“Hành giản trân nhu”- Hải Thượng Lãn Ông

Bài Gia bì viễn chí tán Ngũ gia bì 4 lạng, Viễn chí 4 lạng. Cùng tẩm Rượu, ủ 1 ngày nếu mùa Xuân, 2 ngày nếu mùa Hạ, 3 ngày nếu mùa Thu, 4 ngày nếu mùa Đông. Phơi khô, tán nhỏ. Liều uổng 12-16g.

Chữa nam, nữ bị cước khí, các khớp xương đều đau do thấp.

“Phụ nhân lương phương”

Bài Âm lãnh phương

Ngũ gia bì 10g, Can Khương 6-10g, Sà sàng tử 10g, Đan sâm 6g, Chung nhũ thạch 6g, Thục địa 8g, Địa cốt bì 10g Thiên môn đông 6g, Đỗ trọng 8g, Rượu 10 ml. sắc, chia uống 3 lần trong ngày (Rượu cho vào nước thuốc).

Ứng dụng lâm sàng:

+ Có tác dụng trị mệt mỏi tốt hơn Nhân sâm. Tăng sức chịu đựng đối với thiếu oxy, nhiệt độ cao, điều tiết rối loạn nội tiết, điều tiết hồng cầu, bạch cầu và huyết áp, chống phóng xạ, giải độc. Ngũ gia bì có tác dụng chống lão suy, tăng thể lực và trí nhớ, tăng chức năng tuyến tình dục và quá trình đồng hoá, gia tăng quá trình chuyển hoá và xúc tiến tổ chức tái sinh (Trung Dược Học).

+ Có tác dụng tăng cường miễn dịch của cơ thể như tăng khả năng thực bào của hệ tế bào nội bì võng, tăng nhanh sự hình thành kháng thể, làm tăng trọng lượng của lách. Thuôc còn có tác dụngkháng virus, kháng tế bào ung thư, điều chỉnh miễn dịch (Trung Dược Học).

+ Ngũ gia bì có tác dụng an thần rõ, điều tiết sự cân bằng giữa hai quá trình ứ chế và hưng phấn của trung khu thần kinh. Tác dụng hưng phấn của thuốc không làm ảnh hưởng đến giấc ngủ bình thường (Trung Dược Học).

+ Ngũ gia bì có tác dụng kháng viêm cả đối với viêm cấp và mạn tính (Trung Dược Học).

+ Ngũ gia bì có tác dụng gĩan mạch, làm tăng lưu lượng máu động mạch vành và hạ huyết áp (Trung Dược Học).

+ Thuốc có tác dụng long đờm, giảm ho và làm giảm cơn hen suyễn (Trung Dược Học).

+ Ngũ gia bì có tác dụng chống ung thư (Trung Dược Học).

+ Âm hư hoả vượng: không dùng (Thực Dụng Trung Y Học).

+ Trị phong thấp đau nhức, cơ thể mệt mỏi, đau nhức, liệt dương: Ngũ gia bì sao vàng 100g, rượu 30o một lít, ngâm trong 10 ngày, thỉnh thoảng lắc đều. Ngày uống 20~40ml vào trước bữa ăn tối (Ngũ Gia Bì Tửu – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị thấp khớp: Ngũ gia bì, Mộc qua, Tùng tiết đều 120g. Tán bột, mỗi lần uống 3~4g, ngày 2 lần (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị phụ nữ cơ thể suy nhược: Ngũ gia bì, mẫu đơn bì, Xích thược, Đương quy đều 40g. Tán bột. Ngày uống hai lần, mỗi lần 4g (Những Cây Thuốc Vị Thuốc Việt Nam).

+ Trị gẫy xương, sau khi phục hồi vị trí: Ngũ gia bì, Địa cốt bì đều 40g, tán nhuyễn, Gà 1 con nhỏ, lấy thịt, gĩa nát, trộn đều với thuốc, đắp bên ngoài, bó nẹp cố định, sau một uần, bỏ nẹp đi (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+ Trị ngực đau thắt, mỡ máu cao: Dùng chất chiết xuất từ Thích Ngũ gia bì (Nam Ngũ gia bì) chế thành thuốc viên ‘Quan Tâm Ninh’. Uống mỗi lần 3 viên, ngày 3 lần, liên tục 1~3 tháng. Đã trị 132 ca ngực đau thắt, có kết quả 95,45%, mỡ máu cao 53 ca, kết quả làm hạ Cholesterol và Triglycerid (Trung Y Dược Học Báo 1987, 4: 36).

+ Trị bạch cầu giảm: dùng Thích Ngũ gia bì trị 43 ca bạch cầu giảm. Kết quả cho thấy so với chứng giảm bạch cầu do hoá liệu, có kết quả tốt hơn (Quảng Tây Y Học Viện Học Báo 1978, 3: 1).

+ Trị bạch cầu giảm: Dùng viên Ngũ gia bì trị 22 ca, có kết quả 19 ca (Hồ Bắc Trung Y Tạp Chí 1982, 6: 52).

+ Trị nhồi máu não: Dùng dung dịch chíhc Ngũ gia bì 40ml, cho vào 300ml dịch truyền Glucoỳ 10%, truyền tĩnh mạch ngày 1 lần, kèm uống thuốc thang. Theo dõi 20 ca, có kết quả tốt (Cam Túc Trung Y Học Viện Học Báo 1988, 1: 27).

+ Trị huyết áp thấp: Dùng viên Ngũ gia bì, mỗi lần uống 5 viên, ngày 3 lần, 20 ngày là một liệu trình. Kết quả tốt (Châu Long, Trung Quốc Dược Thành Phẩm Đích Nghiên Cứu 1985, 12: 43).

Tham khảo:

Ngũ gia bì có thể làm mạnh gân xương được là nhờ công năng khu phong, trừ thấp. Khu được tà thì Can Thận mạnh, gân xương được thông. Ngũ gia bì có hai loại, thứ dùng làm thuốc là Nam Ngũ gia bì, có mùi thơm. Cong bắc Ngũ gia bì có độc, khi dùng phải cẩn thận (Thực Dụng Trung Y Học).

+ Ngũ gia bì tuy không có tác dụng thuần bổ nhưng cùng không có hại tổn thương chính khí. Gọi là Ngũ gia bì tửu nên có thể dùng uống lâu dài (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Loãng xương ở người cao tuổi và những điều cần chú ý

Loãng xương là hậu quả của sự giảm dần của khối xương, làm teo xương xốp, đặc biệt gây chèn ép hay nén các đốt sống làm gãy cổ xương đùi.

Nguyên nhân

Kém hấp thụ canxì ở ruột hoặc trong trường hợp cường giáp trạng thời kỳ mãn kinh.

Các yếu tố về môi trường cũng ảnh hưởng rất lớn đến căn bệnh này: sông tỉnh lại thiếu vận động, nghiện thuốc lá, nghiện rượu, thiếu dinh dưỡng làm thiếu canxi trong thức ăn, rối loạn hấp thu ở ruột.

Triệu chứng

Chứng bệnh loãng xương ở người cao tuổi gặp chủ yếu ở nữ giới.

Đau cột sống hay thắt lưng xuất hiện đột ngột hay sau một động tác cố gắng đôi khi có tính chất tự phát. Có hiện tượng đau như thế là do sự nén hay chèn ép các đốt sống.

Có thể gãy xương tự phát hay do một chấn thương tối thiểu gây ra (gãy xương cổ, xương đùi, xương sườn).

Người mắc chứng bệnh này sẽ bị gù lưng, nhưng dấu hiệu này xuất hiện từ từ, kèm theo đau lưng.

Các dấu hiệu này thường xuất hiện khi không có dấu hiệu khác: gầy, sốt hay ăn không ngon.

Cần phải chú ý xem trước đó người bệnh có dùng thuốc Corticoit, Heparin.

Điều trị

Trường hợp bị nén cột sống có dấu hiệu đau, nên cho bệnh nhân nằm nghỉ, nằm lưng thẳng trên ván cứng trong thời gian không quá 2 ha.y tuần lễ để tránh mất chất xương, Nên cùng các loại canxi: Calcitonine người tổng hợp, thuốc có tác dụng giảm đau và ức chế sự tiêu hoá xương.

Uống thuốc giảm đau: Aspirin, Paracetamol.

Khi dùng các loại thuốc chống viêm không steroid nên thận trọng vì có nguy cơ không dung nạp thuốc của người cao tuổi, đặc biệt là đường tiêu hoá.

Sau khi nằm nghỉ 3 tuần, bệnh nhân có thể ngồi dậy cho ngồi ghế phô tơi và tập đi dần, nếu cần tiến hành vận động liệu pháp và bệnh nhân sẽ hết đau sau 4 – 6 tuần.

Nếu bệnh nhân để lâu ngày thì phải có phương pháp điều trị lâu dài.

Muốn hạn chế sự mất xương, cần phải bảo đảm cung cấp đủ canxi và vitamin D. Cho canxi 1 g/ngày dưới dạng glucônlâctte hay carbonatr de canxi 2 viên, ngày hay Calcìíediol 5 giọt/ngày.

Hạn chế sự vận động quá nặng cho cột sống: mang các vật nặng không nên hoạt động quá nặng, chỉ nên tập thể dục các động tác nhẹ nhàng nhưng cũng phải thận trọng để giảm sự tiêu hao xương (VD: đi bộ mỗi ngày từ 1 – 2 tiếng).

Không nên nằm giường quá lâu.

Không được té ngã, nếu đi lại nên dùng gậy.

Thận trọng khi dùng thuốc an thần và các loại thuốc gây hạ huyết áp thê đứng, chóng mặt, buồn ngủ.

Tránh tình trạng làm hao hụt canxi trong cơ thể.

Phải theo dõi chặt chẽ người bệnh các dấu hiệu: khát nước, buồn nôn, ăn không ngon.

Phòng bệnh loãng xương bằng ăn uống ở người cao tuổi

như chứng loãng xương diễn biến từ từ, là tất yếu, thì chế độ ăn uống vệ sinh an toàn thực phẩm và dinh dưỡng hợp lý có thể ngừa được bệnh này.

ở người cao tuổi hay bị gãy xương là do loãng xương. Đó là mất đi một lượng lớn tổ chức xương trong toàn bộ khối lượng xương, làm độ đặc của xương giảm đi. Tỷ lệ khối xương giảm đi theo hàng năm 0,5 – 2% tuỳ theo từng người. (Những người khi còn trẻ có độ đặc xương thấp, thì khi về già càng dễ loãng xương).

Người cao tuổi dễ bị gãy xương, thường là xương đùi và xương chậu, có khi chỉ do một chấn thương nhẹ, (nhất là ở các cụ bà) hậu quả thường rất trầm trọng, có nhiều ca tử vong, một số người đã tạm gọi là khỏi nhưng đòi hỏi sự chăm sóc lâu dài và chu đáo.

Tỷ lệ người cao tuổi càng tăng trong cộng đồng, loãng xương càng trở thành vấn đề lớn đối với việc chăm sóc sức khoẻ.

Nhiều người thường liên kết calci với loãng xương. Nhưng calci chỉ là một trong nhiều yếu tố: Muốn tăng cường chất xương, cần phải chú ý đến cách sống hợp vệ sinh, và dinh dưỡng hợp lý. Phải hạn chế dùng calci mà phải chú ý phối hợp tập luyện.

Đề phòng loãng xương:

Nên ăn nhiều trái cây, rau và có chế độ ăn đầy đủ, hợp lý.

Các yếu tố sau đây có ảnh hưởng tới độ đặc của xương: Thiếu oestrogen, thiếu hoạt động, hút thuốc lá, uống rượu, chế độ ăn uống không hợp lý (nhất là không nên thiếu calci), cà phê, trà, cô la.

Có thời gian hoạt động ngoài trời đổ tổng hợp vitamin trong cơ thể.

Vitamin D rất cần thiết để củng cố xương, được tổng hợp bởi da, dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời. Cá béo, lòng đỏ trứng rất giàu vi ta min D.

Nôn sử dụng lượng protein vừa phải:

Trong thời kỳ phát triển cơ thể, nếu thiếu protein, sẽ ảnh hưởng xấu đến sự tạo bộ xương. Nên ăn nhiều protein, đảm bảo đủ calci vì ăn nhiều protein làm tăng bài xuất calci theo nước tiểu, gây rối loạn chức năng tuyến giáp.

Đối với phụ nữ: Khi ở tuổi 50, các vấn đề về xương khớp cần phải tuyệt đối lưu ý (vì phụ nữ dù ở tuổi nào cũng rất sợ tăng cân nên họ thường giảm ăn). Nên giữ nguyên lượng thực phẩm ăn vào cơ thể và phải tăng hoạt động cơ thể. Những năm đầu của thời kỳ mãn kinh lượng calci mất đi đáng kể. Có hai phương thức phòng chống: tăng lượng calci bằng cách dùng nhiều sữa và các chế phẩm từ sữa: yaourt, phomat và sử dụng nhiều rau quả là nguồn calci và vi chất dinh dưỡng. Rau quả là nguồn vitamin c rất quan trọng, tác dụng của vitamin c là rất tốt.

Các phụ nữ mãn kinh không sử dụng được hormon thì có thể dùng phytooestrogen. Phytoestrogen có trong đậu nành: sữa đậu nành, tàu hủ miếng, chè tàu hủ, ngũ cốc, đậu xanh, đậu phộng. Rau tươi là thực phẩm cần thiết cho xương. Cải bắp có khả năng biến đổi oestrogen tốt (làm giảm triệu chứng thời kỳ kinh nguyệt). Trái cây, nước trái cây ép, trà xanh rất giàu flavanoid. Hành củ có chứa polyphenod có vitamin quan trọng trong chuyển hoá xương.

Khoáng chất và vitamin phải được cung cấp đầy đủ. Nếu sợ tăng cân có thể dùng sữa bớt kem, trái cây. Rau quả, giàu acid hữu cơ và kali, ngăn chặn sự bài tiết calci qua nước tiểu. Ngoài ra, magnesium rất cần thiết để phân phối calci đến xương. Nếu thiếu magnesium, calci sẽ tích tụ trong tế bào của các mô mềm, dẫn đến xơ hoá động mạch, đỏ cứng, viêm các khớp và sỏi thận.

U Lympho tiến triển nhanh và tiến triển chậm

U LYMPHO TIẾN TRIỂN CHẬM

Các bệnh này có lịch sử tự nhiên được tính bằng năm. Thời gian sống thêm trung bình khoảng 10 năm. U lympho thể nang hay gặp nhất trong nhóm này, chiếm khoảng một phần ba tất cả các bệnh lý lympho ác tính.

U LYMPHO THỂ NANG

Thường xuất hiện với các bệnh hạch ngoại vi không đau, thường liên quan đến một số vùng hạch. “Hội chứng B” (sốt, vã mồ hôi, gầy sút cân) xảy ra ở 10%, ít gặp hơn bệnh Hodgkin. Trong khoảng 25%, các hạch lúc thịnh lúc suy trước khi bệnh nhân tìm kiếm sự chăm sóc y tế. Tuổi trung bình là 55 tuổi. Bệnh lan rộng lúc chẩn đoán trong 85%. Gan và tủy xương là các vị trí ngoài tủy hay gặp bị ảnh hưởng.

Các khối u phát triển dạng nang hoặc nốt phản ánh nguồn gốc trung tâm nang của các tế bào ác tính. T(14;18) có mặt trong 85% trường hợp, dẫn đến quá mức bcl-2, một loại protein tham gia phòng chống tế bào chết theo chương trình. Tế bào B trung tâm nang bình thường trải qua đột biến tích cực trong vùng biến đổi globulin miễn dịch nhằm tạo ra các kháng thể có ái lực cao hơn với kháng nguyên được chọn. Các tế bào u lympho thể nang cũng có tỷ lệ đột biến cao dẫn đến sự tích tụ các tổn thương di truyền.

Theo thời gian, u lympho thể nang có đủ tổn thương di truyền (VD đột biến p53) để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển thành u lympho tế bào B lớn lan tỏa thường khó điều trị. Phần lớn các bệnh nhân chết vì u lympho thể nang đã trải qua những biến đổi mô học. Sự chuyển đổi này xảy ra với tốc độ khoảng 7% mỗi năm và là một thuộc tính của bệnh, không điều trị.

Chỉ có 15% bệnh nhân có bệnh khu trú nhưng hầu hết các bệnh nhân này có thể chữa được bằng xạ trị. Mặc dù nhiều hình thức điều trị làm khối u thoái lui trong giai đoạn tiến triển, không có bất kỳ cách điều trị nào làm thay đổi rõ ràng lịch sử tự nhiên của bệnh. Không điều trị, tác nhân alkyl hóa đơn độc, chất tượng tự nucleosid (fludarabine, cladribine), kết hợp hóa trị, xạ trị và tác nhân sinh học [interferon (IFN) α, kháng thể đơn dòng như rituximab (anti-CD20)] đều được coi là phù hợp. Hơn 90% bệnh nhân đáp ứng điều trị; đáp ứng hoàn toàn thấy ở 50–75% bệnh nhân điều trị tích cực. Thời gian thuyên giảm trung bình của bệnh nhân dùng cyclophosphamide, doxorubicin, vincristine, và prednisone (CHOP) + rituximab quá 6 năm. Các bệnh nhân trẻ được điều trị thực nghiệm bằng trị liệu liều cao và tế bào gốc tạo máu tự thân hoặc cấy ghép mini. Không rõ liệu cách này có chữa được không. Xạ trị miễn dịch với isotop được đưa vào bằng kháng thể kháng CD20 (ibritumomab tiuxetan, In-111; tositumomab, I-131) có thể có đáp ứng bền. Kết hợp hóa trị kèm theo duy trì IFN hoặc không kéo dài thời gian sống thêm và trì hoãn hoặc ngăn ngừa biến đổi mô học, đặc biệt ở bệnh nhân có đặc điểm tiên lượng xấu. Thuyên giảm có vẻ kéo dài lâu hơn khi hóa trị cộng thêm rituximab; một số dữ liệu cho thấy thuyên giảm kéo dài làm tăng thời gian sống thêm.
Đọc Chương 110 và e21 trong HPIM-18 để thảo luận về các u lympho tiến triển chậm khác.

U LYMPHO TIẾN TRIỂN NHANH

Một số lượng lớn các bệnh lý thực thể có chung lịch sử tự nhiên phát triển nhanh; thời gian sống thêm không điều trị trung bình 6 tháng và gần như tất cả các bệnh nhân không điều trị đều chết trong vòng 1 năm. Bệnh nhân có thể có bệnh lý hạch không triệu chứng hoặc triệu chứng của hạch hoặc các vị trí ngoài hạch bị ảnh hưởng: ở trung thất có thể có hội chứng tĩnh mạch chủ trên hoặc chèn ép màng ngoài tim; hạch sau phúc mạc có thể chèn ép niệu quản; khối u vùng bụng gây đau, cổ trướng, tắc ruột hoặc thủng ruột; ảnh hưởng hệ thống thần kinh trung ương (CNS) gây lú lẫn, triệu chứng thần kinh sọ, đau đầu, co giật, và/hoặc chèn ép tủy sống; tổn thương xương gây đau hoặc gãy xương bệnh lý. Khoảng 45% bệnh nhân có hội chứng B.

U lympho tế bào B lớn lan tỏa là chẩn đoán mô học hay gặp nhất trong các u lympho tiến triển nhanh, chiếm 35–45% tổng số u lympho. Các loại u lympho tiến triển nhanh chiếm ~60% tổng số u lympho. Khoảng 85% u lympho tiến triển nhanh có nguồn gốc từ tế bào B trưởng thành; 15% từ tế bào T ngoại vi (sau tuyến ức).

Sinh thiết chẩn đoán sớm rất quan trọng. Kiểm tra bệnh nhân khi có các triệu chứng và mô hình hướng đến bệnh. Bệnh nhân có vòng Waldeyer nên được đánh giá đường tiêu hóa cẩn thận. Bệnh nhân có tổn thương xương hoặc tủy xương nên làm chọc dò tủy sống để đánh giá tổn thương màng não.

Các u lympho tiến triển nhanh khu trú thường được điều trị bằng bốn đợt CHOP kết hợp hóa trị ± xạ trị trường chiếu liên quan. Khoảng 85% các Bệnh nhân này được chữa khỏi. CHOP + rituximab thậm chí có hiệu quả hơn CHOP + xạ trị. Phác đồ cụ thể cho Bệnh nhân có nhiều bệnh tiến triển còn nhiều tranh cãi. Sáu đợt CHOP + rituximab là lựa chọn cho bệnh trong giai đoạn tiến triển. Kết quả phụ thuộc vào độ lớn của khối u (đánh giá qua nồng độ LDH, giai đoạn và số lượng vị trí ngoài hạch bị ảnh hưởng) và khả năng đáp ứng của cơ thể (đánh giá dựa vào tuổi và thang điểm Karnofsky) (Bảng 73-3). CHOP + rituximab chữa được khoảng hai phần ba số BN. Sử dụng phác đồ hóa trị liều cao liên tục ở các Bệnh nhân có bệnh nguy cơ cao hoặc trung bình cao đã kéo dài thời gian sống thêm ở khoảng 75% Bệnh nhân trong một số nghiên cứu. Các nghiên cứu khác không xác nhận vai trò của hóa trị liều cao.
Khoảng 30-–45% Bệnh nhân không chữa được bằng hóa trị kết hợp chuẩn ban đầu có thể điều trị bằng phác đồ liều cao và ghép tế bào gốc tạo máu tự thân.

Cần tiếp cận chuyên khoa với các u lympho ở một số vị trí nhất định (VD hệ TKTW, dạ dày) hoặc trong một số bệnh cảnh lâm sàng phức tạp (VD nhiều bệnh chồng chéo, AIDS). U lympho xảy ra ở Bệnh nhân suy giảm miễn dịch do điều trị có thể thoái triển khi ngừng thuốc ức chế miễn dịch. U lympho xảy ra sau ghép tủy đồng loại có thể thoái triển khi truyền bạch cầu hiến.

Bệnh nhân có u lympho lớn phát triển nhanh chóng có thể xuất hiện hội chứng ly giải u khi điều trị (Chương 27); điều trị dự phòng (hydrat hóa, alkalin hóa nước tiểu, allopurinol, rasburicase) có thể chữa được.

BẢNG 73-3 CHỈ SỐ TIÊN LƯỢNG QUỐC TẾ CỦA ULPKH

5 yếu tố nguy cơ trên lâm sàng:
Tuổi ≥60
Nồng độ lactate dehydrogenase huyết thanh tăng
Trạng thái chức năng ≥2 (ECOG) hoặc ≤70 (Karnofsky)
Ann Arbor giai đoạn III hoặc IV
>1 vị trí ngoài hạch bị tổn thương
Bệnh nhân được quy một số cho mỗi yếu tố nguy cơ

Bệnh nhân được phân nhóm khác nhau dựa trên typ u lympho

Với u lympho tế bào B lớn lan tỏa:

0, 1 yếu tố = nguy cơ thấp:
2 yếu tố = nguy cơ trung bình thấp
3 yếu tố = nguy cơ trung bình cao:
4, 5 yếu tố = nguy cơ cao:
35% TH; sống thêm 5 năm, 73%
27% TH; sống thêm 5 năm, 51%
22% TH; sống thêm 5 năm, 43%
16% TH; sống thêm 5 năm, 26%
Với u lympho tế bào B lớn lan tỏa điều trị bằng R-CHOP:
0 yếu tố = rất tốt:
1, 2 yếu tố = tốt:
3, 4, 5 yếu tố = kém:
10% TH; sống thêm 5 năm, 94%
45% TH; sống thêm 5 năm, 79%
45% TH; sống thêm 5 năm, 55%

Viết tắt: ULPKH: U lympho không Hodgkin; ECOG: Nhóm Hợp tác Ung thư Miền Đông Hoa Kỳ; R-CHOP: rituximab, cyclophos-phamide, doxorubicin, vincristine, prednisone; TH: trường hợp.

Niềng răng

Niềng răng là gì?

Niềng răng là công cụ nha khoa, đôi khi được gọi là thiết bị, giúp sửa chữa các vấn đề với răng của bạn, như tình trạng chen chúc, răng không thẳng hàng hoặc răng không được căn chỉnh đúng cách. Nhiều người bắt đầu sử dụng niềng răng khi họ còn là thanh thiếu niên, nhưng người lớn cũng sử dụng niềng răng. Khi bạn đeo niềng, chúng từ từ làm thẳng và căn chỉnh răng của bạn cho đến khi cắn khớp được sửa chữa.

Quy trình niềng răng

Một số bác sĩ nha khoa tổng quát làm việc với niềng răng, nhưng khả năng cao là quá trình điều trị của bạn sẽ được giám sát bởi một bác sĩ chỉnh hình, loại bác sĩ chuyên sửa chữa răng và điều chỉnh cắn khớp không thẳng hàng, cũng như xử lý các vấn đề về hàm. Một bác sĩ chỉnh hình thường có từ 2 đến 3 năm đào tạo và giáo dục chuyên sâu về chỉnh hình sau khi tốt nghiệp trường nha khoa.

Bác sĩ nha khoa hoặc bác sĩ chỉnh hình mà bạn chọn sẽ hỏi về tình trạng sức khỏe của bạn, thực hiện một cuộc kiểm tra lâm sàng, chụp quét kỹ thuật số cho răng của bạn, chụp ảnh mặt và răng của bạn, và yêu cầu chụp X-quang miệng và đầu của bạn. Họ sẽ xây dựng một kế hoạch điều trị dựa trên thông tin này. Niềng răng là công cụ nha khoa, đôi khi được gọi là thiết bị, giúp sửa chữa các vấn đề với răng của bạn, như tình trạng chen chúc, răng không thẳng hàng hoặc răng không được căn chỉnh đúng cách. Nhiều người bắt đầu sử dụng niềng răng khi họ còn là thanh thiếu niên, nhưng người lớn cũng sử dụng niềng răng.

Các loại niềng răng

Niềng răng là phương pháp phổ biến nhất để làm thẳng răng và sửa chữa cắn khớp không thẳng hàng ở trẻ em. Chúng không chỉ xuất hiện dưới dạng kim loại sáng bóng như những năm trước đây. Nhiều lựa chọn hơn hiện nay đã có sẵn.

Bác sĩ nha khoa hoặc bác sĩ chỉnh hình của bạn sẽ chỉ định niềng răng dựa trên nhu cầu và sở thích của bạn. Niềng răng của bạn có thể bao gồm các vòng, dây và các công cụ hoặc thiết bị điều chỉnh cố định hoặc có thể tháo rời. Không có phương pháp nào phù hợp cho tất cả mọi người.

Niềng răng kim loại/truyền thống

Niềng răng truyền thống được làm bằng kim loại. Chúng bao gồm các mắc cài gắn vào mặt trước của răng hoặc các vòng quanh mỗi chiếc răng, cũng như các dây linh hoạt, hoặc dây cung, giữ các mắc cài hoặc vòng lại với nhau. Một số niềng răng cũng bao gồm các dây thun hoặc dây kim loại liên kết các mắc cài với dây. Những dây này tạo áp lực để giúp làm thẳng và căn chỉnh răng của bạn. Bác sĩ chỉnh hình có thể yêu cầu bạn đeo một thiết bị gọi là headgear vào ban đêm. Nó cung cấp áp lực bổ sung để giúp làm thẳng răng của bạn.

Niềng răng sứ

Còn được gọi là niềng răng trong suốt, những thiết bị này hoạt động giống như niềng răng kim loại, nhưng màu sắc của chúng phù hợp với răng của bạn. Điều này làm cho chúng ít nổi bật hơn (nhưng không hoàn toàn vô hình). Chúng không bền như niềng răng kim loại, khiến chúng dễ bị gãy hơn, nhưng cung cấp hiệu quả điều chỉnh tương tự.

Niềng răng lưỡi

Các mắc cài trên những niềng răng này gắn vào mặt sau của răng, quay về phía lưỡi của bạn. Điều này giữ chúng ngoài tầm nhìn trong khi thực hiện chức năng của mình.

Niềng răng tự buộc

Được làm từ kim loại hoặc sứ, những niềng răng này tạo ít ma sát hơn vì chúng có các kẹp tích hợp trong các mắc cài để giữ dây. Niềng răng tự buộc thường cho phép bạn có nhiều thời gian hơn giữa các lần hẹn. Chúng dễ dàng vệ sinh và khó bị phát hiện, có thể cần ít thời gian hơn so với các loại niềng răng khác để điều chỉnh răng của bạn.

Niềng răng
Niềng răng

Niềng răng mini

Chúng nhỏ hơn khoảng 30% so với niềng răng truyền thống, nhưng được làm bằng thép không gỉ mạnh mẽ hơn. Chúng ít nổi bật hơn, dễ vệ sinh hơn và hoạt động tốt như các loại niềng răng lớn hơn.

Niềng răng so với Invisalign

Invisalign là tên thương hiệu của một lựa chọn phổ biến thay thế cho niềng răng, được gọi là khay niềng trong suốt. Trong khi cả niềng răng và khay niềng trong suốt đều giúp làm thẳng răng của bạn, chúng có những khác biệt đáng kể.

Khay niềng trong suốt là các mô hình nhựa của răng của bạn. Khi bạn đeo chúng, chúng áp dụng áp lực nhẹ nhàng giúp dần dần định hình lại răng của bạn. Các gắn màu răng có thể giúp giữ khay niềng của bạn tại chỗ nếu cần thiết. Khác với niềng răng, luôn gắn chặt vào răng của bạn, khay niềng như Invisalign có thể dễ dàng tháo ra. Thực tế, bạn sẽ tháo chúng ra khi ăn cũng như khi đánh răng và dùng chỉ nha khoa. Được khuyến nghị là bạn nên đeo chúng ít nhất 22 giờ mỗi ngày. Khay niềng trong suốt ít nổi bật hơn nhiều so với niềng răng truyền thống. Một nhược điểm tiềm tàng so với niềng răng: Bạn có thể làm mất hoặc hỏng khay niềng trong suốt khi tháo ra. Bạn cũng cần tránh uống đồ uống có tính axit và/hoặc có đường, như nước ngọt và đồ uống thể thao, khi đeo khay niềng trong suốt. Nếu các chất lỏng này vào khay niềng của bạn, chúng có thể làm ố răng và gây sâu răng.

Niềng răng hoạt động như thế nào?

Niềng răng tạo áp lực lên răng của bạn trong một khoảng thời gian để từ từ di chuyển chúng theo một hướng cụ thể. Áp lực này từ từ đưa răng của bạn vào vị trí tốt hơn. Xương dưới răng cũng thay đổi hình dạng.

Niềng răng được tạo thành từ nhiều phần, bao gồm:

Mắc cài

Mắc cài là những hình vuông nhỏ phù hợp với mặt trước hoặc mặt sau của mỗi chiếc răng, tùy thuộc vào loại niềng răng mà bạn và bác sĩ chỉnh hình chọn. Bác sĩ gắn chúng bằng một chất kết dính đặc biệt hoặc với các vòng chỉnh hình. Mắc cài hoạt động như tay cầm, giữ các dây cung để di chuyển răng của bạn. Mắc cài của bạn sẽ được làm bằng thép không gỉ hoặc sứ màu răng hoặc nhựa.

Vòng chỉnh hình

Các vật liệu bằng thép không gỉ, trong suốt hoặc màu răng này được gắn vào răng của bạn. Chúng quấn quanh mỗi chiếc răng để tạo điểm neo cho các mắc cài của bạn. Bác sĩ chỉnh hình sẽ sử dụng các vòng thun nhỏ, gọi là khoảng trống hoặc tách, để tạo ra một khoảng cách giữa các răng của bạn cho các vòng chỉnh hình. Các vòng trong suốt hoặc màu răng ít nhìn thấy hơn, nhưng chúng cũng đắt hơn so với thép không gỉ. Không phải ai cũng cần vòng chỉnh hình. Bác sĩ chỉnh hình sẽ xác định xem bạn có cần chúng hay không.

Dây cung

Dây cung gắn vào các mắc cài của bạn và kéo răng vào đúng vị trí theo thời gian. Một số dây cung được làm bằng kim loại. (Ví dụ, dây của bạn có thể là sự pha trộn giữa nickel và titanium.) Dây cung của bạn có thể trong suốt hoặc màu răng để làm cho chúng ít nhìn thấy hơn. Các vòng thun nhỏ hoặc dây mảnh, gọi là dây buộc, sẽ giữ dây cung của bạn vào các mắc cài. Một phần kim loại nhỏ gọi là ống buccal sẽ được hàn vào một vòng gắn trên một trong những chiếc răng sau của bạn, hoặc răng hàm. Điều này sẽ giữ dây cung của bạn ở vị trí.

Dây thun

Những vòng thun cao su nhỏ này giữ dây cung vào các mắc cài.

Bác sĩ chỉnh hình có thể đặt lò xo trên dây cung giữa các mắc cài để đẩy, kéo, mở hoặc đóng các khoảng cách giữa các răng của bạn.

Dây nối lực

Thiết bị này bao gồm một số vòng thun được nối với nhau và kéo dài qua hơn một chiếc răng của bạn. Dây nối lực cung cấp lực bổ sung để di chuyển răng của bạn vào đúng vị trí.

Dây chun

Những vòng thun nhỏ này gắn vào các móc trên các mắc cài. Chúng đi giữa các răng trên và dưới của bạn theo nhiều cách khác nhau, cung cấp thêm áp lực, nếu cần, để di chuyển răng của bạn vào đúng vị trí. Chúng có nhiều màu sắc khác nhau. Bác sĩ chỉnh hình sẽ chỉ cho bạn cách đặt chúng đúng cách, sau đó bạn sẽ phải đeo chúng theo chỉ dẫn.

Headgear

Bạn cũng có thể cần headgear, một công cụ bằng dây giúp di chuyển các răng hàm trên của bạn ra phía sau hơn trong miệng để sửa chữa các vấn đề cắn khớp hoặc tạo thêm không gian cho các răng bị chen chúc. Bác sĩ chỉnh hình sẽ gắn các ống headgear vào hai vòng trên răng hàm trên của bạn để giữ phần facebow của headgear tại chỗ. Phần còn lại của miếng hình chữ U này bao quanh khuôn mặt của bạn và kết nối với một dây đeo ở phía sau đầu. Nếu cần headgear, thường chỉ cần đeo trong khi ngủ hoặc ở nhà.

Tôi sẽ phải đeo niềng răng trong bao lâu?

Bạn có thể sẽ phải đeo niềng răng trong khoảng 2 năm, nhưng hãy nhớ rằng điều này thay đổi tùy theo từng người. Bạn có thể chỉ cần đeo trong chưa đầy 1 năm hoặc lên đến 3 năm. Thời gian cần thiết để niềng răng khắc phục vấn đề của bạn phụ thuộc vào một số yếu tố, bao gồm:

  • Độ nghiêm trọng của vấn đề của bạn
  • Số lượng khoảng trống trong hàm của bạn
  • Tình trạng sức khỏe răng miệng tổng thể của bạn
  • Mức độ bạn tuân thủ hướng dẫn của bác sĩ chỉnh hình

Sau khi niềng răng được tháo, bạn sẽ cần phải đeo một thiết bị giữ (retainer). Thiết bị giữ sẽ giúp giữ cho các răng mới được định vị ở đúng chỗ. Nếu bạn không đeo nó, răng của bạn có thể di chuyển trở lại vị trí trước đó. Trong 4 đến 6 tháng đầu, bạn sẽ phải đeo nó mọi lúc. Sau đó, bạn chỉ cần đeo khi ngủ. Thời gian bạn cần giữ thiết bị giữ sẽ phụ thuộc vào lời khuyên của bác sĩ chỉnh hình; bạn có thể cần đeo thiết bị giữ cho đến hết đời để giữ cho răng ở vị trí đúng.

Điều trị niềng răng

Bác sĩ chỉnh hình của bạn sẽ muốn kiểm tra tiến trình khoảng 4 đến 8 tuần một lần, tùy thuộc vào giai đoạn điều trị của bạn. Tại cuộc hẹn, bác sĩ sẽ siết chặt hoặc nới lỏng niềng răng của bạn. Những điều chỉnh này có thể gây khó chịu cho bạn trong một hoặc hai ngày. Các loại thuốc giảm đau không kê đơn có thể giúp giảm cảm giác khó chịu.

Niềng răng có đau không?

Bạn có thể cảm thấy một chút khó chịu khi mới đeo niềng răng, khi điều chỉnh và khi bắt đầu sử dụng các thiết bị mới, như dây thun hoặc headgear.

Các loại thuốc giảm đau không kê đơn như acetaminophen hoặc ibuprofen có thể giúp ích. Hãy cho bác sĩ chỉnh hình biết nếu bạn cảm thấy đau nhiều sau mỗi lần điều chỉnh. Họ có thể thực hiện các điều chỉnh khác đi một chút. Nếu niềng răng gây kích ứng, bác sĩ chỉnh hình hoặc hiệu thuốc có thể cung cấp sáp nha khoa đặc biệt mà bạn có thể đặt lên những vùng sắc nhọn trên niềng răng.

Chăm sóc răng miệng với niềng răng và thiết bị giữ

Mảng bám và cao răng có thể tích tụ xung quanh niềng răng và các phần khác nhau của chúng, dẫn đến sâu răng và viêm lợi. Hầu hết các bác sĩ chỉnh hình khuyên bạn nên đánh răng sau mỗi bữa ăn hoặc bữa ăn nhẹ bằng kem đánh răng chứa fluoride và cẩn thận loại bỏ bất kỳ thức ăn nào có thể bị mắc kẹt trong niềng răng của bạn. Một số bác sĩ chỉnh hình cũng sẽ kê đơn hoặc khuyên bạn sử dụng nước súc miệng chứa fluoride, có thể vào được những chỗ trong miệng mà bàn chải không với tới. Máy xịt nước (Waterpik) hoặc AirFloss cũng có thể giúp rửa sạch thức ăn mắc kẹt.

Để chỉ nha khoa nếu bạn đang đeo niềng răng, hãy cho đầu ngắn của chỉ qua khoảng trống giữa dây cung chính và phần trên của răng gần nhất với nướu. Sử dụng một chuyển động cưa nhẹ nhàng để làm việc chỉ ở mỗi bên của hai răng mà chỉ đang ở giữa. Cẩn thận không kéo quá mạnh quanh dây cung.

Bắt đầu đánh răng bằng cách sử dụng bàn chải mềm bình thường. Đánh răng từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên trên mỗi răng có niềng. Tiếp theo, hãy đánh răng bằng bàn chải Proxabrush hoặc bàn chải “cây thông Giáng sinh”. Bàn chải này được thiết kế đặc biệt để làm sạch giữa hai mắc cài. Chèn bàn chải từ trên xuống và sau đó lên từ dưới giữa hai mắc cài. Sử dụng nhiều lần đánh ở mỗi hướng trước khi chuyển sang khoảng trống tiếp theo giữa hai mắc cài. Lặp lại quy trình cho đến khi tất cả các răng được làm sạch.

Khi niềng răng của bạn được tháo ra và bạn bắt đầu đeo thiết bị giữ, hãy đánh răng thiết bị giữ mỗi lần bạn đánh răng, nhưng không dùng kem đánh răng. Một lần mỗi ngày hoặc ít nhất một lần mỗi tuần, hãy khử trùng thiết bị giữ bằng cách ngâm nó trong dung dịch tẩy rửa nha khoa, như Efferdent, Polident hoặc dung dịch khác, theo hướng dẫn trên bao bì. Thêm chất tẩy rửa vào một cốc nước ấm – không nóng. Rửa sạch thiết bị giữ bằng nước sạch trước khi cho nó vào miệng.

Thực phẩm nên tránh khi có niềng răng Niềng răng là rất nhạy cảm. Nếu chúng bị gãy, điều đó có thể kéo dài thời gian điều trị của bạn. Để bảo vệ chúng, hãy tránh các thực phẩm cứng, dính hoặc dai, bao gồm:

  • Đá
  • Hạt
  • Bắp rang bơ
  • Kẹo cứng
  • Kẹo cao su
  • Kẹo dẻo, như caramel
  • Kẹo dẻo
  • Thực phẩm cứng hoặc khó cắn, chẳng hạn như táo hoặc bánh bagel, ổ bánh mì cứng và vỏ bánh pizza
  • Ngô trên bắp
  • Bánh quy cứng và khoai tây chiên
  • Cà rốt và các loại rau sống giòn khác

Khi nào nên đeo niềng răng

Bác sĩ nha khoa của bạn có thể cho bạn biết khi nào nên tìm kiếm sự đánh giá từ bác sĩ chỉnh hình, tất cả trẻ em nên được đánh giá về chỉnh hình khi lên 7 tuổi. Đến độ tuổi này, bác sĩ chỉnh hình có thể phát hiện ra những vấn đề nhỏ về sự phát triển của hàm và các răng đang mọc. Hầu hết trẻ em bắt đầu điều trị chủ động trong khoảng từ 9 đến 14 tuổi. Các bác sĩ chỉnh hình khuyên bạn nên khắc phục các vấn đề về răng miệng khi trẻ vẫn đang phát triển.

Quá trình cơ học được sử dụng để di chuyển răng với niềng răng là giống nhau ở mọi độ tuổi. Điều đó có nghĩa là niềng răng có thể giúp cả trẻ em và người lớn. Sự khác biệt chính: Thời gian điều trị có thể lâu hơn do độ trưởng thành và độ đặc của mô xương ở người lớn.

Những gì cần làm nếu một mắc cài hoặc dây bị gãy

Niềng răng bị gãy, các băng lỏng hoặc dây nhô ra có thể gây ra vấn đề nhưng hiếm khi cần điều trị khẩn cấp. Nhưng hãy gọi cho bác sĩ chỉnh hình của bạn để đặt lịch hẹn sửa chữa vấn đề. Nếu bạn có chấn thương miệng hoặc mặt nghiêm trọng hơn, hãy nhận sự giúp đỡ ngay lập tức. Dưới đây là một số mẹo để xử lý một số vấn đề phổ biến hơn cho đến khi bạn có thể gặp bác sĩ chỉnh hình:

  • Mắc cài lỏng: Áp dụng một miếng sáp chỉnh hình nhỏ để tạm thời gắn lại mắc cài lỏng, hoặc đặt sáp lên mắc cài để tạo ra một lớp đệm giữa mắc cài và nướu cùng các mô mềm khác trong miệng. Bác sĩ chỉnh hình thường sẽ cung cấp sáp chỉnh hình cho bạn khi bạn được gắn niềng.
  • Băng lỏng: Những băng này sẽ cần được thay thế hoặc gắn lại. Hãy giữ lại băng và lên lịch hẹn để sửa chữa.
  • Dây nhô ra hoặc gãy: Sử dụng đầu tẩy của bút chì để di chuyển dây đến một vị trí ít gây khó chịu hơn. Nếu bạn không thể di chuyển nó ra khỏi đường, hãy đặt một ít sáp chỉnh hình lên đầu dây nhô ra. Không cố cắt dây, vì bạn có thể vô tình nuốt hoặc hít vào phổi. Nếu xuất hiện vết thương trong miệng do dây chọc vào bên trong, hãy súc miệng bằng nước muối ấm hoặc nước súc miệng kháng khuẩn. Một loại thuốc gây tê nha khoa không kê đơn cũng có thể được sử dụng để làm dịu cảm giác khó chịu.
  • Răng đau hoặc đau nướu: Nếu bạn cảm thấy đau, hãy dùng một loại thuốc giảm đau không kê đơn, như ibuprofen hoặc acetaminophen. Hãy cẩn thận và làm theo hướng dẫn trên bao bì.

Câu hỏi thường gặp về niềng răng

Ai cần đeo niềng răng?

Nếu bạn gặp phải các vấn đề như răng đông đúc hoặc răng lệch, hoặc các vấn đề về cắn hoặc sự căn chỉnh hàm, bạn có thể sẽ được lợi từ việc đeo niềng răng.

Loại niềng răng nào làm việc nhanh hơn?

Một số chuyên gia cho rằng niềng răng kim loại truyền thống hoạt động nhanh nhất, trong khi những người khác lại cho rằng niềng răng tự buộc thực hiện công việc nhanh hơn. Tuy nhiên, tốt nhất là bạn nên dựa vào ý kiến của bác sĩ chỉnh hình về loại niềng răng nào sẽ phù hợp nhất cho bạn.

Độ tuổi nào là tốt nhất để đeo niềng răng?

Niềng răng có thể hiệu quả ở bất kỳ độ tuổi nào, nhưng bạn có thể cần phải đeo chúng lâu hơn nếu bạn bắt đầu đeo khi đã là người lớn.

Bạn có thể chơi thể thao với niềng răng không?

Có! Nhưng bạn cần phải cẩn thận. Bạn nên luôn đeo bảo vệ miệng để giảm nguy cơ tổn thương cho niềng răng và răng của bạn. Bác sĩ chỉnh hình của bạn có thể gợi ý loại bảo vệ miệng phù hợp với bạn. Các miếng bảo vệ miệng được làm theo đơn đặt hàng mang lại sự bảo vệ tốt nhất.

Bệnh zona (herpes zoster) và điều trị

Bệnh zona hay herpes zoster là bệnh nhiễm trùng da với biểu hiện là các ban đỏ, mụn nước, bọng nước tập trung thành đám, thành chùm dọc theo đường phân bố của thần kinh ngoại biên. Bệnh do sự tái hoạt của virút Varicella zoster (VZV) tiềm ẩn ở rễ thần kinh cảm giác cạnh cột sống.

Bệnh hay gặp ở những người già, những người suy giảm miễn dịch, đặc biệt ở người nhiễm HIV/AIDS.

CĂN NGUYÊN, BỆNH SINH

Căn nguyên

Căn nguyên là một virút hướng da và thần kinh có tên là Varicella zoster virus (VZV), thuộc họ virút herpes, và cũng chính là virút gây bệnh thủy đậu.

Bệnh sinh

Ở người đã mắc bệnh thủy đậu, sau khi khỏi, một số ít virút tồn tại trong các hạch thần kinh cảm giác cạnh cột sống dưới dạng tiềm tàng, im lặng. Khi gặp điều kiện thuận lợi (các yếu tố khởi động) như suy giảm miễn dịch (suy giảm về thần kinh và thể lực, người già yếu, dùng thuốc ức chế miễn dịch, các bệnh về máu, đái tháo đường), bệnh tạo keo (đặc biệt là bệnh lupus ban đỏ), stress, điều trị tia xạ, ung thư, HIV/AIDS…, virút sẽ tái hoạt, nhân lên và lan truyền gây viêm lan toả và hoại tử thần kinh. Đồng thời virút lan truyền ngược chiều đến da, niêm mạc và gây tổn thương.

CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán xác định: chủ yếu dựa vào lâm sàng.

Zona mắt: chiếm 10-15% các thể z Do tổn thương thần kinh V hay thần kinh sinh ba chi phối cho mắt, hàm trên và hàm dưới, trong đó tổn thương nhánh mắt gấp 5 lần các nhánh khác. Có thể có các biến chứng về mắt như viêm kết mạc, giác mạc, củng mạc, thậm chí nặng đe doạ thị lực như hoại tử võng mạc cấp tính, viêm dây thần kinh thị giác, hội chứng đỉnh ổ mắt, viêm hậu củng mạc, glaucome thứ phát…

+ Các thể zona đặc biệt

Zona tái phát.

Zona nhiều dây thần kinh.

Zona lan toả (disseminated zoster).

+ Theo hình thái tổn thương: những hình thái này thường gặp ở những người suy giảm miễn dịch như HIV/AIDS, ung thư, hoá trị liệu…, bao gồm:

Zona hông, bụng, sinh dục, bẹn, xương cùng, ụ ngồi, đùi.

Zona gáy cổ: có tổn thương ở gáy, da đầu, vành

Zona cổ (đám rối cổ nông) và cổ cánh tay.

Zona liên sườn và ngực bụng: là thể lâm sàng hay gặp nhất, chiếm 50% trường hợp.

+ Theo vị trí tổn thương

Các thể lâm sàng

Các rối loạn khác: có thể thấy rối loạn bài tiết mồ hôi, vận mạch, phản xạ dựng lông (nhưng hiếm gặp).

Triệu chứng đau thường phụ thuộc vào lứa tuổi. Ở trẻ em, người trẻ đau ít. Người nhiều tuổi đau thành từng cơn, kéo dài, thậm chí hàng năm khi tổn thương ngoài da đã lành sẹo, còn gọi là đau sau zona.

Triệu chứng cơ năng: đau xuất hiện sớm, có thể trước cả tổn thương ngoài da và luôn thay đổi trong suốt thời gian bệnh tiến triển. Mức độ đau rất đa dạng từ nhẹ như cảm giác rát bỏng, âm ỉ tại chỗ hay nặng như kim châm, giật từng cơn.

Hạch bạch huyết vùng lân cận sưng to.

Vị trí: thường chỉ ở một bên, không vượt quá đường giữa cơ thể và theo đường phân bố của một dây thần kinh ngoại biên; cá biệt bị cả hai bên hay lan toả.

Triệu chứng da: vài ngày sau, trên những mảng đỏ da xuất hiện mụn nước, bọng nước tập trung thành đám giống như chùm nho, lúc đầu mụn nước căng, dịch trong, sau đục, hóa mủ, dần dần vỡ đóng vảy tiết. Thời gian trung bình từ khi phát tổn thương đến khi lành sẹo khoảng 2-4 tuần. Người cao tuổi tổn thương nhiều, diện rộng; mụn nước, bọng nước có thể xuất huyết, hoại tử da, nhiễm khuẩn, sẹo xấu và kéo dài. Ở trẻ em tổn thương ít, tiến triển nhanh.

+ Toàn phát

+ Khởi phát: khoảng nửa ngày đến một ngày sau, trên vùng da có dấu hiệu tiền triệu xuất hiện những mảng đỏ, hơi nề nhẹ, đường kính khoảng vài cm, gờ cao hơn mặt da, sắp xếp dọc theo đường phân bố thần kinh và dần dần nối với nhau thành dải, thành vệt.

+ Tiền triệu: bệnh khởi đầu với các cảm giác bất thường trên một vùng da như bỏng, nóng rát, châm chích, tê, đau, nhất là về đêm, hiếm gặp hơn là dị cảm ở một vùng hoặc nhiều dây thần kinh chi phối từ 1-5 ngày. Kèm theo có thể nhức đầu, sợ ánh sáng và khó chịu. Thời kỳ này được cho là thời kỳ virút lan truyền dọc dây thần kinh.

– Lâm sàng

Zona hạch gối hay hội chứng Ramsay Hunt: do thương tổn hạch gối của dây thần kinh Bệnh nhân liệt mặt một bên, ù tai, nghe kém hoặc mất khả năng nghe, buồn nôn, nôn, chóng mặt và giật nhãn cầu. Mắt không nhắm kín được (hở mi), có dấu hiệu Charler Bell. Mất cảm giác vị giác một bên 2/3 trước lưỡi, mụn nước mọc ở màng nhĩ, ống tai, vành tai. Có thể có viêm não, màng não.

Zona vùng xương cùng (S2, S3, S4): do viêm dây thần kinh chi phối vùng bàng Bệnh nhân khó tiểu, tiểu dắt, bí tiểu, có trường hợp tiểu máu và tiểu mủ. Đau bụng giống như các triệu chứng ngoại khoa, đau quặn bụng dưới, căng tức, bí trung đại tiện, hậu môn co thắt và cứng như đá không thể khám được, đau nhức vùng da một bên sinh dục kèm theo thương tổn da điển hình.

Zona tai: cảm giác rát bỏng, đau vùng tai, có thể lan ra thái dương và gáy. Ðau xảy ra từng cơn kéo dài nhiều ngày làm bệnh nhân không ăn, không ngủ được, đặc biệt là zona tai kết hợp với zona họng gây đau họng không nuốt được. Rối loạn cảm giác vùng mặt, liệt mặt ngoại biên, nghe kém.

Zona ở người nhiễm HIV/AIDS: bệnh zona ở người có HIV dương tính giai đoạn sớm tương tự như bệnh zona ở người bình thường. Nếu nhiễm HIV giai đoạn muộn/AIDS, zona có thể tái phát thường xuyên, tổn thương không điển hình như xuất hiện trên diện rộng, mụn nước xuất huyết, hoại tử, nhiễm khuẩn, sẹo xấu, bệnh kéo dài.

Cận lâm sàng

+ Chẩn đoán tế bào Tzanck: thấy các tế bào gai lệch hình và tế bào đa nhân khổng lồ.

+ Nuôi cấy virút: thường ít thực hiện.

+ PCR với bệnh phẩm trong dịch và các mô.

+ Sinh thiết da: được tiến hành nếu lâm sàng không điển hình.

+ Xét nghiệm HIV.

Chẩn đoán phân biệt: tùy theo từng giai đoạn

Giai đoạn khởi phát: phân biệt với các loại đau như đau đầu, viêm mống mắt, viêm màng phổi, viêm thần kinh cánh tay, đau do bệnh tim, viêm ruột thừa hoặc viêm túi mật, sỏi mật, đau quặn thận, thoát vị đĩa đệm, đau thần kinh toạ…

Giai đoạn mụn nước, bọng nước: phân biệt với herpes simpex, viêm da tiếp xúc dị ứng (với một số loại cây cỏ, côn trùng). Hiếm hơn là một số bệnh da bọng nước tự miễn như pemphigus, pemphigoid, Duhring-Brocq, bệnh tăng IgA thành dải.

ĐIỀU TRỊ

Mục tiêu điều trị: làm liền tổn thương; giảm đau; ngăn ngừa biến chứng.

Phác đồ điều trị

Trường hợp không biến chứng và ở người có miễn dịch bình thường:

+ Tại chỗ: bôi hồ nước, dung dịch màu millian, castellani, mỡ acyclovir, mỡ kháng sinh nếu có nhiễm khuẩn

+ Toàn thân:

Uống acyclovir: thuốc kháng virus có tác dụng nhanh lành vết thương, giảm số tổn thương mới và giảm đau sau Thuốc nên được dùng sớm, tốt nhất trong vòng 72 giờ đầu. Liều 800mg x 5 lần/ngày trong 7-10 ngày

Hoặc, famciclovir 500mg mỗi 8 giờ (3 lần mỗi ngày) x 7 ngày

Hoặc, valacyclovir 1000mg mỗi 8 giờ (3 lần mỗi ngày) x 7 ngày

Ngoài ra: kháng sinh chống bội nhiễm; giảm đau, kháng viêm, an thần, sinh tố nhóm B liều Nếu đau dai dẳng: bôi kem chứa lidocain và prilocain, kem capsaicin, lidocain gel, uống thuốc chống trầm cảm ba vòng, phong bế thần kinh và vật lý trị liệu kết hợp. Corticoid: có tác dụng giảm đau trong thời kỳ cấp tính và nhiều tác giả cho rằng thuốc có tác dụng giảm đau sau zona.

Trường hợp suy giảm miễn dịch hay tổn thương lan rộng:

Tiêm tĩnh mạch acyclovir 30mg/kg/ngày, chia 3 lần x 7 ngày hoặc cho đến khi thương tổn đóng vảy tiết.

Trường hợp có tổn thương mắt: kết hợp khám chuyên khoa mắt, điều trị acyclovir đường tĩnh mạch.

Đau sau zona (post herpetic neuralgia-PHN): là hiện tượng đau dai dẳng trên 1 tháng, thậm chí hàng năm với biểu hiện đau nhạy cảm, rát bỏng, đau âm ỉ hay đau nhói như dao đâm ở vùng da tổn thương zona đã lành sẹo. Bệnh thường xuất hiện ở người già, người suy giảm miễn dịch, mắc bệnh ung thư. Nguyên nhân: do VZV gây viêm, hoại tử và xơ hóa các đầu mút thần Một số trường hợp có thể kèm đau cơ, đau khớp, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống.

Điều trị và dự phòng PHN:

+ Điều trị bệnh zona bằng thuốc kháng virus sớm trong vòng 72 giờ đầu.

+ Amitripylin viên 25mg, liều 25-75mg/ngày. Tác dụng phụ: hạ huyết áp tư thế, ngủ gà, khô miệng, lú lẫn, táo bón, bí tiểu, tăng cân. Hạn chế tác dụng phụ bằng cách dùng liều tăng dần.

+ Carbamazepin viên nén 200mg, liều 400-1.200mg/ngày. Tác dụng phụ: chóng mặt, buồn nôn lúc bắt đầu điều trị, hạn chế bằng cách tăng dần liều.

+ Gabapentin viên 300mg, liều 900-2.000mg/ngày. Tác dụng phụ: ngủ gà, nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn, đi loạng choạng, run. Hạn chế tác dụng phụ bằng cách tăng dần liều.

+ Pregabalin 150mg-300mg/ngày.

+ Bôi kem chứa lidocain và prilocain tại chỗ, ngày 3-4 lần.

Bệnh lao da – Triệu chứng và cách điều trị

Lao da là bệnh nhiễm khuẩn da mạn tính, do trực khuẩn lao có tên khoa học là Mycobacterium tuberculosis gây nên. Bệnh thường gặp ở những nước kém phát triển đặc biệt là ở những người suy dinh dưỡng, giảm miễn dịch.

NGUYÊN NHÂN

– Trực khuẩn lao do Robert Koch tìm ra năm 1892, có chiều dài từ 2-4μm, rộng 0,2-0,6μm Bình thường trực khuẩn chủ yếu gây bệnh lao phổi. Tuy nhiên, vi khuẩn lao thể gây bệnh ở bất kỳ cơ quan bộ phận nào của cơ thể.

– Lao da được xếp vào nhóm bệnh da hiếm gặp. Ước tính lao da chiếm khoảng 1% tất các các loại Lao da có thể kèm theo lao ở các cơ quan khác như lao phổi (25-30% các trường hợp), hoặc lao ruột, sinh dục,…

– Trực khuẩn lao có thể trực tiếp đến da từ cơ quan nội tạng hoặc hiếm hơn là từ bên ngoài.

– Các yếu tố ảnh hưởng đến tổn thương lao da:

+ Độc lực của trực khuẩn.

+ Số lượng của trực khuẩn.

+ Sức đề kháng của người bệnh: đại đa số những người bị bệnh lao da thể hiện dị ứng với tuberculin hoặc BCG. Trong lao nặng thì phản ứng này là âm tính.

+ Nghiện rượu, dinh dưỡng kém, mắc các bệnh mạn tính hoặc giảm miễn dịch làm cho bệnh trầm trọng hơn.

CHẨN ĐOÁN

a) Săng lao

Do trực khuẩn lao xâm nhập trực tiếp vào da lần đầu ở những người bệnh chưa có đáp ứng miễn dịch.

– Lâm sàng

+ Thường gặp ở trẻ em

+ Thời gian ủ bệnh khoảng 15 đến 20 ngày

+ Thương tổn thường ở vùng sang chấn

Biểu hiện là vết loét không đau, kích thước khoảng 0,5 cm ở tại nơi vi khuẩn thâm nhập vào cơ thể, sau đó lan rộng vài cm, bờ không đều, hàm ếch, đáy không cứng, màu đỏ nhạt, mùi hôi, đôi khi có vảy. Dần dần, đáy vết loét thâm nhiễm và trở nên cứng. Trường hợp vi khuẩn thâm nhập sâu có thể gây áp xe. Ở niêm mạc thường là các vết trợt, màu hồng, phù nề, không đau.

Hạch vùng tương ứng phát triển tạo thành phức hợp lao nguyên phát. Lúc đầu hạch cứng, sau đó mềm loét, chảy dịch chứa nhiều vi khuẩn.

Tiến triển nhiều tháng và có thể khỏi. Một số trường hợp có thể chuyển thành lao thông thường hoặc hồng ban nút, lao kê, viêm màng não hay cốt tủy viêm.

– Cận lâm sàng

+ Soi trực tiếp

+ Mô bệnh học: hình ảnh nang điển hình

+ Nuôi cấy vi khuẩn

+ PCR dương tính với trực khuẩn lao

– Phản ứng tuberculin

– Chẩn đoán xác định

+ Lâm sàng.

+ Xét nghiệm vi khuẩn lao dương tính tại thương tổn.

+ Phản ứng tuberculin dương tính.

– Chẩn đoán phân biệt

+ Ung thư tế bào đáy

+ Nấm sâu

+ Leishmania

+ Bệnh do trực khuẩn kháng cồn kháng toan không điển hình.

b) Lupus lao

– Do sự lây truyền và phản ứng từ ổ vi khuẩn hoạt tính hay tiềm tàng của các nội tạng trong cơ thể hoặc sự tái hoạt hóa từ ổ vi khuẩn tiềm tàng trong

– Là thể lao da thường gặp nhất (50-70%), tiến triển dai dẳng, điều trị lâu dài, có thể 10 đến 20 năm.

– Trẻ em hay bị hơn người lớn.

+ Lâm sàng

Thương tổn là củ lao màu vàng đỏ, kích thước bằng đầu ghim hay hạt đậu, bóng, ấn kính củ lao xẹp xuống, nhìn qua kính củ lao trong suốt màu vàng nâu, châm kim vào củ lao dễ dàng và có cảm giác như châm kim vào bơ. Các củ lao tập trung thành đám lan rộng ra xung quanh, có thể có loét ở giữa, có bờ nối cao trên mặt da không đồng đều, khúc khuỷu. Sau một thời gian tiến triển, vết loét có thể lành sẹo nhăn nhúm, co kéo, trên có những cầu da. Trên các tổn thương sẹo lâu ngày có khi lại xuất hiện các củ lao mới.

Vị trí thường ở mặt, môi trên, có thể gặp ở tứ chi, mông, rất hiếm khi ở đầu.

Nếu gặp ở bộ phận sinh dục hoặc hậu môn thì thường từ lao ruột lan ra.

– Xét nghiệm cận lâm sàng

+ Mô bệnh học: hình ảnh nang điển hình

+ Nuôi cấy vi khuẩn

+ Phản ứng với tuberculin dương tính

Các xét nghiệm tìm ổ lao ở các cơ quan, nội tạng.

– Chẩn đoán xác định: dựa vào lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng.

– Chẩn đoán phân biệt:

+ Giang mai thể củ: thương tổn màu đỏ hồng, thâm nhiễm, xét nghiệm chẩn đoán giang mai dương tính.

+ Phong thể củ: thương tổn là các củ phong, có rối loạn cảm giác và kèm theo thần kinh to.

+ Nấm sâu

+ Viêm mủ da hoại thư

+ Bệnh sarcoid

+ Bệnh leishmania

+ Ung thư da

c) Lao cóc

Do trực khuẩn vào da qua tiếp xúc trực tiếp hay tai nạn nghề nghiệp (bác sỹ thú y…), đôi khi do tự lây truyền ở những người bệnh bị lao. Bệnh gặp ở hai giới, nam mắc nhiều hơn nữ.

– Lâm sàng

+ Tổn thương là những mảng sùi, lúc đầu là sẩn màu đỏ nhạt, cứng, ấn kính không xẹp, các sẩn lớn dần, không tạo thành mảng, giữa thương tổn dày sừng, sau đó sùi lên nứt nẻ, có thể có mủ. Xung quanh có một vùng thâm nhiễm màu tím thẫm, trên có vảy da lẫn vảy tiết, ngoài cùng có một vùng xung huyết màu đỏ. Vị trí chủ yếu ở các chi như mu bàn tay, các ngón tay, mu bàn chân.

+ Có thể kết hợp với lao ở các bộ phận khác như lao phổi, ruột, hay lao xương.

+ Tiến triển lâu năm, lan ra xung quanh và để lại sẹo.

– Xét nghiệm cận lâm sàng

+ Mô bệnh học: hình ảnh thâm nhiễm viêm và nang lao điển hình.

+ Xét nghiệm trực khuẩn lao có thể dương tính.

– Chẩn đoán xác định: dựa vào

+ Lâm sàng

+ Mô bệnh học

+ Phản ứng Mantoux dương tính

– Chẩn đoán phân biệt

+ Nấm sâu

+ Bớt sùi

+ Hạt cơm thể khảm trai

+ Lichen phẳng sùi

d) Loét lao

Do lây nhiễm trực khuẩn lao từ ổ lao trong cơ thể như lao phổi, lao ruột hay

lao đường tiết niệu.

– Lâm sàng

+ Thương tổn thường ở các hốc tự nhiên như miệng, hậu môn, sinh dục.

+ Vết loét màu đỏ, thâm nhiễm, kích thước từ 1-2 cm, bờ nham nhở, không đều, đau, không có xu hướng lành.

– Xét nghiệm cận lâm sàng: như các thể lao khác

– Chẩn đoán xác định: dựa vào đặc điểm lâm sàng, xét nghiệm trực tiếp tìm vi khuẩn, tổ chức học và nuôi cấy vi khuẩn.

– Chẩn đoán phân biệt với loét do ung thư, nấm da, giang mai, leishmania hay các bệnh do trực khuẩn kháng cồn kháng toan không điển hình.

e) Lao tầng (scrofuloderma)

– Là hình thái lao thường gặp ở trẻ em hoặc người nhiều tuổi.

– Tổn thương thường xuất hiện ở vùng cổ dưới hàm và vùng trên xương đòn. Biểu hiện đầu tiên là các nốt chắc dưới da, giới hạn rõ, di động dễ và thường không có triệu chứng gì đặc biệt. Tổn thương ngày càng to lên, mềm, tạo thành các ổ áp xe lạnh sau đó vỡ ra để lại các vết loét và rò, chảy dịch. Nhiều lỗ rò thông với nhau tạo thành đường hầm dưới Sau nhiều năm tiến triển, tổn thương có thể lành để lại các vết sẹo co kéo, nhăn nhúm. Tổn thương loét và rò trên da cũng có thể xảy ra sau lao xương, lao hạch, lao khớp hoặc lao mào tinh hoàn.

– Chẩn đoán xác định chủ yếu dựa vào lâm sàng, xét nghiệm thấy trực khuẩn Cần làm các xét nghiệm chụp X-quang để phát hiện tổn thương lao ở các tổ chức dưới da như ở xương, khớp…

f) Á lao sẩn hoại tử

– Á lao sẩn hoại tử là bệnh mạn tính, phát triển thành từng đợt, thường gặp ở người trẻ, nữ nhiều hơn nam, đặc tính chung là sẩn hoại tử ở giữa, khi lành để lại sẹo lõm.

– Vị trí khu trú thường ở mặt duỗi của các chi, mông, có khi ở mặt, tai, da đầu, cá biệt có thể phát triển toàn thân. Thương tổn là sẩn, khu trú ở trung bì, kích thước bằng hạt đậu hoặc lớn hơn, hình bán cầu, cứng, màu sắc lúc đầu đỏ nhạt, hoại tử ở giữa, lên sẹo.

– Tiến triển: mỗi thương tổn riêng lẻ tiến triển khoảng 2-3 tháng. Sau tái phát

từng đợt, triệu chứng chức năng không có gì đặc biệt, toàn trạng ít bị ảnh hưởng.

g) Hồng ban rắn Bazin

– Lâm sàng: xuất hiện ở da, thường là ở cẳng chân, thương tổn thường là những cục nhỏ phát triển chậm, lúc đầu dưới da dần nổi cao lên mặt da, hình tròn, kích thước bằng hạt đậu, hoặc to hơn, màu đỏ tím, có thể đau khi sờ nắn .

– Tiến triển: thương tổn lúc đầu cứng sau đó mềm ở giữa và loét, vết loét có bờ thẳng đứng, đáy mềm, màu vàng đỏ, xung quanh vết loét có viền đỏ tím, xơ cứng, giới hạn không rõ với da lành. Các cục này tồn tại lâu vài tháng, tiến triển chậm, khi lành có thể để lại sẹo

– Chẩn đoán phân biệt với hồng ban nút, gôm lao, gôm giang mai, nấm sâu.

ĐIỀU TRỊ

a) Nguyên tắc điều trị

– Nâng cao thể trạng

– Chăm sóc tại chỗ

– Kháng sinh điều trị lao

b) Điều trị cụ thể

– Kháng sinh điều trị: cũng như điều trị lao phổi, việc điều trị lao da cần phối hợp nhiều loại thuốc khác nhau (đa hóa trị liệu). Tùy theo từng trường hợp cụ thể để chỉ định các phác đồ.

Thuốc Phác đồ 1 Phác đồ 2 Phác đồ 3
8 tuần đầu 16 tuần

sau

2 tuần đầu 6 tuần

sau

16 tuần

sau

Rifamycin 10 mg/kg Uống hàng

ngày

3 lần/tuần Uống

hàng ngày

Uống hàng

ngày

Uống hàng

ngày

3lần/tuần
INH/5 mg/kg Uống hàng

ngày

3 lần/tuần Uống hàng ngày Uống hàng

ngày

Uống hàng

ngày

3 lần/tuần
Pyrazinamid 30 mg/kg Uống hàng

ngày

Uống

hàng ngày

Uống hàng

ngày

3 lần/tuần
Ethambutol 15mg/kg hoặc streptomycin 15 mg/kg Uống hàng

ngày

Uống

hàng ngày

2 lần/tuần 3 lần/tuần

– Thời gian điều trị là 6 tháng, đối với những người bệnh mắc hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải, thời gian điều trị là 9 tháng.

– Trong quá trình điều trị cần theo dõi chức năng gan, thận, công thức máu và soi đáy mắt.

– Đối với trường hợp lupus lao hoặc lao sùi, có thể áp dụng các biện pháp

khác nhau để xóa bỏ thương tổn như đốt điện, laser CO2, hoặc áp nitơ lỏng.

– Đối với các trường hợp loét hoại tử thì làm sạch tổn thương đóng vai trò quan trọng, làm vết thương hàn gắn

– Chế độ ăn uống, dinh dưỡng tốt, nâng cao thể trạng.

THAM KHẢO THÊM

Lao Da

Là bệnh lây do nhiễm nhóm trực khuẩn Lao (Mycobacteria). Đó là những vi khuẩn kháng cồn acid. Người ta phân biệt 2 nhóm: Nhóm gây bệnh Lao da thực sự (Mycobacterium tuber­culosis, Mycobacterium bovis, Mycobacterium africanum) và nhóm do trực khuẩn Mycobac­teria không điển hình (Atypical Mycobacteria).

LÂM SÀNG:

Bệnh thường gặp ở các quốc gia đang phát triển trên thế giới nhưng cũng có ở phương Tây, ở những người di dân, người nhiễm HIV và những người già.

Sơ nhiễm là do hít, nuốt hoặc hiếm hơn là do nhiễm qua da vi khuẩn Lao ở những người chưa có tiếp xúc trước kia với bệnh Lao.

Nhiễm khuẩn thứ phát là do sự lan tràn hoặc tái nhiễm trực khuẩn Lao.

Ban Lao là những biểu hiện tăng miễn dịch do sự tích tụ kháng nguyên từ một ổ nhiễm Lao bên trong. Tính đa dạng của bệnh là do độc lực của chủng vi khuẩn, cách lan tràn của bệnh và miễn dịch của ký chủ.

Lao da tiên phát

Săng lao (Tuberculous chancre; Primary tuberculous complex,chancre tuberculeux primaire.)

Hiếm, do nhiễm trực tiếp vi khuẩn qua da và niêm mạc ở những người không miễn dịch. Thường ở vùng tiếp xúc với chấn thương nhất là trẻ em có thể xảy ra trong trường hợp dùng kim chích không được khử khuẩn, xâm hoặc xỏ lỗ tai.

Thương tổn ở miệng có thể do uống sữa bị nhiễm Mycobacterium bovis. Thương tổn sinh dục gặp sau khi cắt da qui đầu hay tiếp xúc sinh dục với người bị Lao vùng hậu môn sinh dục.

Sau thời gian ủ bệnh 1 đến 3 tuần, xuất hiện nốt đỏ tím cứng, đường kính 5 tới 10mm, bề mặt diễn tiến thành loét sau vài tuần.

Loét không đau từ 0,5cm đến vài cm, nền cứng, đáy dơ đôi khi có mài, có thể dẫn đến áp-xe, hạch liên hệ to nhanh, diễn tiến thuận lợi dưới trị liệu, ít có biến chứng đưa đến Hồng ban nút, Lao kê hoặc Viêm xương tủy.

Chẩn đoán dựa vào bệnh cảnh lâm sàng, tìm vi khuẩn trong thương tổn và/hoặc sinh thiết, phản ứng với Tuberculin dương tính, cần loại trừ loét do vi nấm, Giang mai, nhiễm My­cobacteria không điển hình…

Lao da thứ phát

Do sự lan rộng, sự tái nhiễm hoặc phân tán trong máu từ một ổ nhiễm Lao hoạt động hoặc tiềm ẩn.

Loét lao (Tuberculosis cutis orificialis, Ulcère tuberculeux.)

Do sự lan tràn từ ổ nhiễm khuẩn ở phổi, ruột hay hậu môn sinh dục đến da hoặc niêm mạc, vị trí nổi trội ở miệng (lưỡi, vòm họng, nướu), vùng quanh hậu môn, bộ phận sinh dục. Là vết loét l-2cm, bờ cao, không đều, viêm và đau, đáy có mủ, không có khuynh hướng lành.

Chẩn đoán dựa trên đặc tính đau, vị trí và gợi ý Lao nội tạng được xác định thêm bởi xét nghiệm trực tiếp, mô học (u hạt dạng Lao sâu) và cấy. Chẩn đoán thương tổn da múp ta hướng tìm một Lao nội tạng.

Scrofuloderma-Scrofuloderme.

Là dạng thương tổn da gần với ổ nhiễm ở sâu, thường là vùng hạch, xương khớp. Là dạng lan rộng ở da của viêm hạch hay viêm xương khớp.

Da đỏ rồi biến thành những loét hoại tử với bờ rách nát và đáy có hạt. Diễn tiến chậm lành và hóa xơ để lại sẹo co kéo và sẹo lồi, thường ở vùng tuyến mang tai, trên xương đòn hay mặt ngoài của cổ.

Chẩn đoán dựa vào vị trí, loại thương tổn kế cận và tìm thấy vi khuẩn, mô học. cần loại trừ với gôm nấm, Giang mai và Viêm tuyến bã nước ở vùng nách (hidosadénite).

Lao cóc (Tuberculosis verrucosa cutis-Tuberculose verruqueux)

Do tái nhiễm ở da, do tiếp xúc nghề nghiệp (bác sĩ, thú y, bán thịt) hay tự tiêm nhiễm ở người bị Lao đã được xác định.

Lâm sàng: Thương tổn thường đơn độc, khởi đầu là một nốt cứng tăng sừng, diễn tiến thành mảng dày sừng bờ không đều, tiến triển ly tâm với bờ viêm. Vị trí thường ở bàn tay, chi dưới, mông, có hạch liên quan.

Chẩn đoán: Lâm sàng và phản ứng lao tố dương tính. Sinh thiết có tăng sinh thượng bì giả biểu mô, thâm nhiễm ở bì và những u hạt dạng Lao điển hình. Chẩn đoán phân biệt với Nấm sâu, Leishmaniose, Viêm da mủ sùi, Giang mai thời kỳ 3, Lichen veưucaria.

Gôm lao(Gomme tuberculeux)

Còn gọi là Áp-xe Lao di chuyển do sự lan tỏa vi khuẩn qua đường máu từ ổ nhiễm khuẩn ở phổi hay nội tạng. Trẻ em suy dinh dưỡng thường bị.

Lâm sàng: Nhiều nốt dưới da ở đầu chi hay thân mình diễn tiến mềm và xì mủ ra da và hoặc niêm mạc giống như Scrofuloderma.

Chẩn đoán: Xét nghiệm trực tiếp dương tính, mô học có u hạt dạng lao, có phản ứng viêm hoại tử. Việc cấy xác định chẩn đoán và giúp loại trừ gôm Giang mai, Nấm sâu, Viêm tuyến bã nước.

Lao kê (Tuberculosis mỉliaris disseminata-Tuberculose miliaire disséminé.)

Thường ở trẻ nghèo và người suy giảm miễn dịch do sự phân tán vi khuẩn từ da vào máu hoặc từ nhiễm khuẩn ở phổi và nội tạng nặng. Tổng trạng thường thay đổi.

Lâm sàng: Phát ban chủ yếu ở thân mình, lan tỏa trên da, đa dạng. Khởi đầu là những sẩn nhỏ biến thành mụn mủ, ngứa hay có dạng lichen.

Chẩn đoán chủ yếu dựa vào lâm sàng, cấy dương tính nhưng phản ứng Lao tố thường âm tính. Sinh thiết trễ cho thấy cấu trúc dạng Lao có nhiều vi khuẩn.

Lao da bẩm sinh

Do lây nhiễm vi khuẩn trong tử cung qua nhau thai hoặc do nuốt và hoặc hít dịch cuống rốn bị nhiễm khuẩn.

Phát ban ở trẻ sơ sinh tương ứng như dạng lao kê có sốt, gan to và tình trạng tổng quát thay đổi.

Chẩn đoán dựa vào bệnh sử và việc tìm thấy vi khuẩn.

Lupus Lao (Lupus vulgaris-Lupus vulgaire)

Xuất phát từ ổ nhiễm tiềm tàng ở da, hạch, xương, phổi. Xuất phát từ máu thì hiếm gây ra nhiều thương tổn da và niêm mạc.

Lâm sàng: Vị trí chủ yếu là đầu cổ, khởi đầu là thương tổn nhô cao, mềm, màu hơi vàng hay đỏ gọi là lupome. Diễn tiến chậm thành mảng với bờ không đều đang tiến triển, trung tâm lành sẹo, dưới kính đè lupome có màu vàng. Nếu thương tổn ở miệng, mắt thì dẫn đến gây chít hẹp và lộn mi. Các biến chứng có thể gặp như Ung thư tế bào gai. Tùy tình trạng miễn dịch của bệnh nhân và độc lực của vi khuẩn mà có nhiều thể lâm sàng như dạng Giả khôi u (Lupus tumidus), dạng loét nhiều chỗ (Lupus vorax), dạng sẩn nốt (Lupus miliaris), dạng sau chích BCG giống như vảy nến.

Chẩn đoán: Diễn tiến chậm, giải phẫu bệnh lý có u hạt dạng lao, không hoại tử, không có vi khuẩn. Phản ứng Lao tố, cấy và PCR (đôi khi) dương tính. Chẩn đoán phân biệt với Sar- coidose, Lymphocytome, Leishmaniose, bệnh Phong, Nấm sâu, Giang mai thời kỳ 3 hay với Ung thư tế bào đáy.

Thương tển da do BCG (Bacille de Calmette-Guerin)

Đây là biến chứng hiếm khi chủng ngừa BCG hoặc điều trị miễn dịch trong ung thư. cần kiểm tra huyết thanh HIV trước khi chủng ngừa vì có nguy cơ viêm BCG toàn thân, các biến chứng da do BCG:

Không đặc hiệu Đặc hiệu
Dị ứng: Mày đay, Ban đỏ, Chàm

Hồng ban đa dạng, Hồng ban nút

U da: Kén thượng bì, sẹo lồi, K tế bào đáy

Áp-xe, viêm hạch

Lupus vulgaris

Lao cóc, Gôm lao

BCGite: hạch, xương, nội tạng

Ban Lao sẩn, Lichen scroíulosorum

Ban Lao (Tuberculids-Tuberculides)

Là những phản ứng tăng miễn dịch do sự tích tụ kháng nguyên từ ổ nhiễm Lao bên trong thường không được biết, cấy vi khuẩn Lao ở thương tổn âm tính nhưng PCR đôi khi dương tính là phương tiện xác định chẩn đoán khi khó khăn.

Đây là các dạng hiếm của Lao da không có vi khuẩn được phân chia thành hai nhóm là Lichen scrofulosorum và Ban Lao sẩn hoại tử. Hồng ban nút và Hồng ban cứng của Bazin cũng là các dạng hiếm của Ban Lao.

Thường bệnh được thây ở người có ổ nhiễm Lao ở phổi hay ở ngoài phổi.

Lichen scrofulosorum

Bệnh xuât hiện ở trẻ em hay người trẻ, phát ban là những vi sẩn nhỏ như đầu kim, màu đỏ đậm hay vàng, thường ở nang lông đôi khi dạng mụn mủ nhỏ hay đội lên một vảy dạng sợi.

Có thể dễ nhầm với Giang mai nang lông (Follicular Syphilis-Syphilis folliculaire), Lichen phang nang lông (Follicular Lichen planus-Lichen plan folliculaire), Ban chàm (Eczé- matide) và Dày sừng nang lông (Follicular hyperkeratosis-Hyperkeratose folliculaire).

Ban Lao sẩn hoại tử (Papulonecrotic Tuberculids-Tuberculides papulonécro- tiques)

Phát ban thường lan tỏa ở chi, đối xứng, là những sẩn đỏ sẫm ở trung tâm phủ mụn mủ hoặc một mài màu đen, hoại tử dạng thuỷ đậu.

Chẩn đoán phân biệt với Giang mai thời kỳ 2 dạng thủy đậu, Á vảy nến, Tam chứng Gougerot, sẩn ngứa và vết đốt côn trùng.

Hồng ban nút (Erythema nodosum-Érythème noueux)

Nhiều nốt 2-6cm trên thân mình nhưng thường thấy nhất là ở mặt trước hai cẳng chân, đỏ tươi, đau, bờ không rõ, sau một tuần trở nên xanh tím rồi nhạt dần, mất đi không hóa mủ và không loét. Các nốt có nhiều tuổi khác nhau do có nhiều nốt mđi kế tiếp nổi lên.

Có thể kèm triệu chứng toàn thân như sốt, đau nhức, phù nhẹ ở chi dưới.

Hồng ban cứng Bazin (Bazin’s Disease = Erythema induratum-Érythème induré de Bazin)

Là một biểu hiện lâm sàng của Lao da, bao gồm viêm mạch các động mạch và tĩnh mạch dưới da lành tính mạn tính, đi lèm với hoại tử mô mỡ.

Bệnh giảm đi khi đáp ứng miễn dịch của ký chủ được cải thiện, và thương tổn thường được chữa khỏi nhờ dùng corticoids hơn là nhờ vào thuốc kháng lao.

Các thể lâm sàng của Lao da:

Loại bệnh Tổn

thương

Cách nhiễm Lâm sàng Xét nghiệm Mô học
Săng lao I Tiêm nhiễm tại chỗ Loét không đau Ziehl/cấy +

Mantoux +

Viêm

U hạt bã đậu

Lupus lao I/II Lan trực tiếp qua hệ lym- pho máu Mảng ngoằn ngoèo, ly tâm, vàng tím, vảy, teo Ziehl –

Mantoux +

Cấy/PCR +/-

Tăng sinh thượng bì

U hạt bì

Lao cóc II Tự tiêm nhiễm Mảng tăng sừng, bờ không đều, sẹo teo Ziehl/cäy +/-

Mantoux +

Dày sừng

Tiêu gai

U hạt bì

Scrofulo­

derma

II Lan từ ổ lao kế cận Nốt đỏ tím, không đau, di động, dính, nung mủ Ziehl/cäy +

Mantoux +

– Bờ: u hạt với xơ bã đậu
Gôm lao II Lan theo máu Nốt cứng dưới da, đỏ tím, loét Ziehl/cä”y +

Mantoux +

Áp-xe với bã đậu

-u hạt xơ

Lao kê I/II Lan theo máu Sẩn mụn nước lan tỏa, mài Ziehl/cäy +

Mantoux –

Mạch máu bị hủy

Viêm

Lao ở các hốc II Tự tiêm nhiễm từ ổ tiên phát Nốt, loét đau, áp- xe, lỗ dò Ziehl/cäy +

Mantoux +

Viêm ít đặc hiệu

U hạt hiếm

Hồng ban

cứng

Bazin

Ban

lao (T)

Thời kỳ lui bệnh lao Nốt dưới da, 2 chi dưới lạnh, đỏ xanh, loét -Ziehl/cäy – -Mantoux +/PCR +/- Viêm hạ bì u hạt
Hồng ban nút T Thời kỳ lui bệnh lao Nhiều nốt đau Ziehl/cäy –

Mantoux +

Viêm hạ bì có vách
Ban Lao sẩn hoai tử T Thời kỳ lui bệnh lao Sẩn, mụn mủ hoại tử với sẹo teo dạng thủy đậu – Ziehl/cä”y – -Mantoux +/PCR +/- Viêm mạch

Hoại tử bì thượng bì

Lichen

scrofu-

losorum

T Kết hợp Lao hạch, Lao xương Sẩn dạng lichen quanh nang lông, vàng, đỏ nâu Ziehl/cäy –

Mantoux +

u hạt dạng lao nông quanh nang lông

 

Bệnh loét dạ dày – tá tràng Cấp tính (Bệnh loét do stress)

Tên khác: viêm dạ dày cấp tính do stress

Định nghĩa

Tổn thương mất niêm mạc dạ dày và đôi khi cả tá tràng phát sinh trong vài giờ sau khi đối tượng bị stress có thể thuộc nhiều nguồn gốc khác nhau.

Bệnh viêm trợt dạ dày (xem bệnh này) là một bệnh tương tự với bệnh loét do stress.

Căn nguyên

Đa chấn thương với tình trạng sốc, thiếu oxy mô, nhiễm khuẩn.

Chấn thương sọ não: loét rất hay và chỉ phát sinh ở tá tràng.

Bỏng rộng (> 35%): vết trợt ở dạ dày chỉ xuất hiện sau vài giờ.

Can thiệp ngoại khoa nặng, nhất là ở hệ thống thần kinh trung ương.

Suy hô hấp cấp tính ở người lớn.

Chảy máu với thể tích lớn.

Tình trạng sốc.

Uống aspirin, thuốc chống viêm không steroid.

Thông khí cơ học (thở máy) lâu hơn 48 giờ.

Giải phẫu bệnh

Tổn thương dạ dày (và/hoặc tá tràng) mới đầu xuất hiện như những chấm xuất huyết hoặc vết bầm máu, sau đó chuyển thành vết loét niêm mạc có đường kính vài mm. vết loét có thể sâu tới lớp dưới niêm mạc và gây ra chảy máu ở nhiều chỗ. Tổn thương mô tả ở trên thường khu trú ở dạ dày, nhưng đôi khi cũng xuất hiện và thậm chí xuất hiện chỉ riêng ở tá tràng (gọi là loét Cushing trong trường hợp chấn thương sọ não, hoặc loét Curling trong trường hợp bỏng rộng).

Triệu chứng

Bệnh thường biểu hiện bởi chảy máu ở ạt ở đường tiêu hoá, hoặc thủng tuy rất hiếm, mà tai biến này lại xảy ra ở bệnh nhân đang trong thời gian nằm điều trị ở một trung tâm chăm sóc tăng cường.

Phòng bệnh

Cho sucrạlfat (1 g, 6 lần /ngày) có thể làm giảm tần suất loét cấp tính liên quan tới tăng acid chlohydric dạ dày, nhất là ở bệnh nhân bị đa chấn thương hoặc bị phẫu thuật ở hệ thống thần kinh trung ương, hoặc bỏng rộng, hoặc bị sốc hoặc nhiễm khuẩn huyết. Cho ranitidin 50 mg cứ 6 giờ một lần tiêm tĩnh mạch hình như có thể phòng ngừa được loét do stress xảy ra thứ phát sau những bệnh nặng. Misoprostol (100 pg, uống 4 lần mỗi ngày) có thể phòng ngừa được loét do uống aspirin hoặc thuốc chống viêm không steroid.

Điều trị

Truyền máu. Nếu chảy máu không cầm tự nhiên được và nếu bệnh nhân không thể phẫu thuật được thì cố gắng cầm máu bằng chụp động mạch vành vị (còn gọi là động mạch vị trái), đồng thời truyền động mạch dung dịch vasopressin. Hiệu quả truyền ranitidin tĩnh mạch để điều trị chảy máu chưa được thừa nhận.