Biến chứng hiếm hiếm gặp của viêm tai giữa cấp tính có mủ không được điều trị triệt để. Hay gặp nhất là do tụ cầu, đôi khi do phế cầu. Viêm xương chũm có đặc điểm là tai vẫn chảy mủ 2 – 3 tuần sau viêm tai, bị đau khi ấn vào xương chũm, đôi khi vành tai bị vểnh ra và có dấu hiệu của nhiễm khuẩn huyết (tình trạng toàn thân suy sụp, sốt, nhức đầu). Trẻ còn bú bị viêm thông bào xương chũm, có sốt dao động, sút cân nhanh và có dấu hiệu bị nhiễm độc.
X quang cho thấy xương chũm bị mờ, không thấy các thông bào xương chũm.
Hiện ít gặp biến chứng như liệt mặt, hội chứng Gradenigo, tắc mach xoang, áp xe não hoặc áp xe tiểu não.
Điều trị: Kháng sinh phổ rộng; nếu thất bại phải mổ mở hang hoặc cắt bỏ rộng xương chũm. GHI CHÚ – viêm xương chũm mạn tính là biến chứng của viêm tai mạn tính. Viêm thường khu trú ở phần hang, đôi khi bị cả cholesteatôm. Nhỏ kháng sinh tại chỗ; nếu thất bại thì cắt bỏ xương chũm hoặc tái tạo màng nhĩ (xem viêm tai giữa mạn tính).
Là một áp-xe dưới da nằm ở búp ngón tay. Đây là loại nhiễm khuẩn bàn tay nhẹ nhất và hay gặp nhất.
Về giải phẫu thì búp ngón có nhiều vách xơ (xem hình 12.1), Các vách xơ này chia búp ngón thành các khoang nhỏ. Do đó khi bị vết thương nhiễm trùng thành chín mé, thì ổ áp-xe nằm trong các khoang chật hẹp không dãn nở nên bệnh nhân đau nhức rất nhiều, đau nhói lên theo nhịp tim, làm bệnh nhân mất ngủ.
Chín mé gồm có các loại
Chín mé nông (chín mé đỏ ửng, chín mé nốt phổng): là một nốt phồng đỏ trên mặt da ở đầu ngón tay, đau tức.
Chín mé sâu:
Hay gặp ở đầu ngón tay.
Xu hướng ăn sâu vào cả gân, xương
Xử trí
Nếu chẩn đoán đúng trước 48 giờ, cho điều trị kháng sinh toàn thân, chườm ấm, bất động bàn tay tốt thì chín mé tự khỏi.
Trong dân gian có cách điều trị chín mé: đắp quả cà muối, đắp lá mỏ quạ vào đầu ngón. Nhiều trường hợp cho kết quả tốt.
Khi chín mé quá 48 giờ thì đã thành mủ, phải rạch dẫn lưu mủ.
Nguyên tắc rạch dẫn lưu: đường rạch tránh làm đứt bó mạch thần kinh hai bên ngón, tránh làm sẹo xấu ở múp ngón và phải dẫn lưu tốt.
Cách rạch chín mé: (xem hình 12.3)
Ga- rô: tốt nhất là ga-rô cao ở cánh tay( khi chín mé sâu), có thể ga-rô gốc ngón ( nếu chín mé nông)
Đường rạch chín mé
Rạch hai bên ngón, mở hết các khoang, cắt hết các vách xơ.
Cắt lọc hết tổ chức hoại tử, rửa ô xy già.
Dẫn lưu bằng bấc gạc, rút sau 48 giờ. Để hở da hoàn toàn.
Các biến chứng của chín mé
Viêm xương (hay gặp đốt 3) do ổ áp- xe vỡ vào màng xương, xương đốt 3 bị phá huỷ thành xương chết, tạo hốc mủ dò ra phía trước búp ngón
Hoại tử búp ngón: nếu chín mé không được thoát mủ thì các mạch máu ngón tay sẽ bị tắc, dẫn tới hoại tử búp ngón
Viêm bao gân gấp ngón tay, do mủ tràn vào bao gân gấp ngón tay.
Có khoảng hơn 15 loài vi khuẩn Lao không điển hình trong môi trường (từ nước, đất, cây, súc vật). Chúng ít gây bệnh và không là nguồn nhiễm giữa người với người. Có sự gia tăng theo dịch nhiễm HIV. cấy khó, một vài loài chỉ được phát hiện nhờ sinh học phân tử.
Các vi khuẩn Lao không điển hình chủ yếu gây tổn thương ở da và mô mềm, viêm hạch, tốn thương phổi và các thể lan tỏa ở người suy giảm miễn dịch. Sự tiêm nhiễm vi khuẩn qua da do da bị rách hở vì tai nạn hay do một số điều trị như chích thuốc, phẫu thuật hoặc thứ phát bằng đường bạch huyết và máu.
LÂM SÀNG CÁC THƯƠNG TỔN LAO KHÔNG ĐIỂN HÌNH
Mycobacterium abscessus
Thuộc nhóm Mycobacteria sinh sản nhanh, ít gây bệnh, hiếm khi gây áp-xe, có nguồn gốc do thuốc.
Áp-xe lan tỏa được mô tả ở những người suy giảm miễn dịch và ở người thẩm phân lọc máu.
Mycobacterium avium nội tế bào
Tiêm nhiễm ở da tạo nên nốt viêm, áp-xe hay viêm hạch.
Những ca Lupus vulgaris đã được mô tả và hệ gene của vi khuẩn đã được tìm thấy trong bệnh Sarcoidose.
Là nguyên nhân chủ yếu của sự lan tỏa bệnh có liên quan nhiễm HIV mà hiếm khi kết hợp với thương tổn da nhưu mềm lây, Mụn mủ dạng thủy đậu, sẩn ngứa nốt.
Mycobacterium chelonae
Sinh sản nhanh, cho những áp-xe dạng giống Sporotrichose nguồn gốc chấn thương hay do điều trị.
Dạng nặng lan tỏa ở người suy giảm miễn dịch.
Mycobacterium fortuitum
Là nguyên nhân thường gặp của Lao da không điển hình sau M. marinum.
Khó cấy, gây những loét, nhiều nốt, áp-xe dưới da và thương tổn lan tỏa. Vài ca viêm xương tủy được mô tả.
Mycobacterium kansasii
Gây thương tổn phổi, ở da thì hiếm, đôi khi có dạng Ban Lao sẩn hoại tử.
Mycobacterium marinum
Là nguyên nhân thường gặp trong bệnh Lao da không điển hình gây bệnh u hạt hồ bơi. Tiêm nhiễm qua da sau một chấn thương nhỏ, thường ở vùng nhô lên của xương (đầu gối, cùi chỏ, bàn tay, chân, mặt).
Thời gian ủ bệnh trung bình là 3 tuần. Thương tổn đầu tiên là những sẩn không đau diễn tiến thành nốt viêm hay những mảng vảy có thể dẫn tới loét, phân bố giống bệnh Sporotrichose dọc theo đường bạch huyết, không gây tổn thương hạch, có thể kèm theo viêm khớp hay viêm màng bao hoạt dịch (ténosynovite).
Xét nghiệm trực tiếp thường âm tính. Chẩn đoán dựa vào bệnh sử lâm sàng, mô học và cây. Thử nghiệm trong da với marinin không còn được dùng nữa.
Điều trị bằng kháng sinh kết hợp như Rifampicin 300-600mg/ngày và Ethambutol 900- 1500mg/ngày hoặc đơn hóa trị liệu bằng Co-trimoxazole 2 viên X 800/160mg/ngày hoặc Minocycline100mg/ngày. Thời gian điều trị 6 tuần hay hơn. Có thể phẫu thuật trong vài trường hợp.
Mycobacterium ulcerans
Là tác nhân gây loét Buruli (ở Uganda) hay loét Baimsdale (ở úc) điển hình là sự lan rộng thành những loét sâu, thường xảy ra ở những vùng gian chí tuyến (intertropicale) như Uganda, Cộng hòa Congo, Côte d’Ivoire, úc, Nam Mỹ.
Thường ở trẻ em không mang giày dép đi trên cỏ gần dòng nước.
Là vi khuẩn Lao độc nhất tiết độc tố gây hoại tử mỡ dưới da.
Khởi đầu là một nốt hay viêm mô tế bào (ở đùi, cánh tay, thân mình). Diễn tiến nhanh thành mảng loét hoại tử, loét khổng lồ, không đau, kết hợp biến chứng xương khớp đa dạng.
Chẩn đoán dựa trên lâm sàng, dịch tễ học và mô học trong giai đoạn đầu có hoại tử quanh mô mỡ kết hợp với nhiều trực khuẩn và ở giai đoạn trễ là những u hạt dạng lao.
Cấy Mycobacterium ulcerans rất khó, đôi khi cần các xét nghiệm sinh học phân tử để xác định chẩn đoán.
Điều trị bao gồm phẫu thuật và ghép da nhất là tại những vùng khớp kết hợp với điều trị kháng sinh như Clofazimin, Rifampicin hay Trimethoprim-sulfamethoxazole.
Điều trị hỗ trợ bằng liệu pháp nhiệt.
Các loài khác
Có nhiều loài gây bệnh trong các thể lan tỏa, ở những người suy giảm miễn dịch.
Thường có biểu hiện gây sốt, tiêu chảy, nổi nhiều hạch, gan lách to và hiếm hơn là thương tổn phổi.
Các thương tổn da thì hiếm, là những nốt viêm mạn tính.
Bảng tóm tắt các bệnh Lao da không điển hình ở người:
Làm sạch, Trimethoprim-Sulfamethoxazol, RIF, Clofazimine
scrofulaceum
Hiếm
Hiếm
Điển
hình
Giống Mycobacterium avium
xenopi
Hiếm
Hiếm
Giống Mycobacterium avium
Tóm lại, đây là những thể bệnh tương đối ít gặp, việc cấy và định danh loài vi khuẩn gây bệnh vẫn còn giới hạn trong thực hành. Biểu hiện lâm sàng ở da thường là các sẩn cục tiến triển đến loét, viêm mạn tính. Do những tiến bộ trong trị liệu, tiên lượng bệnh cũng được cải thiện tốt hơn
Ngoại tâm thu (Ngoại tâm thu) là nhát bóp sớm so với các nhát bóp theo nhịp bình thường của tim được tạo nên bởi xung động phát ra từ ổ ngoại vị nằm ngoài chủ nhịp (pace‒marker) là nút xoang của tim. Vị trí ổ ngoại vị có thể nằm ở tâm nhĩ, bộ nối hoặc tâm thất phát xung động sớm hơn xung động nút xoang tạo nên khử cực nhĩ hoặc thất sớm.
‒ Do các bệnh lý tại tim: thường gặp nhất là TMCB cơ tim và Nhồi máu cơ tim, viêm cơ tim, viêm cơ tim – màng ngoài tim, bệnh cơ tim nguyên phát, sa van 2 lá và tất cả các bệnh tim bẩm sinh, bệnh van tim gây nên suy tim. Tần số Ngoại tâm thu xuất hiện cao nhất lần lượt ở Nhồi máu cơ tim cấp, TMCB cơ tim, các bệnh cơ tim, sa van 2 lá và suy tim.
‒ Do các yếu tố ngoài tim: các bệnh phổi và ĐM phổi, rối loạn điện giải, cà phê, thuốc lá, stress, …
Ngoại tâm thu có thể xuất hiện ở người hoàn toàn khỏe mạnh, không có bệnh ly tim mạch, có liên quan đến tuổi, gắng sức và chu kỳ sinh học.
3. CHẨN ĐOÁN
3.1. Lâm sàng: Bắt mạch và nghe tim 3.2. Cận lâm sàng
‒ Điện tâm đồ cung cấp những dữ liệu quan trọng giúp chẩn đoán hình dạng sóng Ngoại tâm thu, vị trí Ngoại tâm thu (nhĩ, thất, …), mức độ nặng của Ngoại tâm thu (phân độ theo Lown), nguyên nhân gây Ngoại tâm thu (NMCT, bệnh cơ tim, van tim) và tiên lượng của bệnh nền (nếu có) gây nên Ngoại tâm thu.
‒ Ghi ĐTĐ liên tục 24 giờ (phương pháp Holter) có giá trị rất lớn như đánh giá tần số các Ngoại tâm thu xuất hiện trong 24 giờ, thời điểm xuất hiện Ngoại tâm thu, hình dạng các Ngoại tâm thu, … và có thể phát hiện các bệnh lý gây Ngoại tâm thu (suy nút xoang, TMCB cơ tim, ….).
‒ X‒Quang tim – phổi: đánh giá hình dạng tim, đặc biệt là các dấu hiệu bất thường ở phổi – chụp động mạch vành khi có chỉ định.
‒ Siêu âm Doppler tim: Có giá trị quan trọng trong tìm hiểu các bệnh tại tim gây nên Ngoại tâm thu (TMCB cơ tim, sa van 2 lá, bệnh cơ tim, suy tim, …).
‒ Đo điện sinh lý: giúp chẩn đoán và xác định vị trí các ổ ngoại vị để có thể tiến hành cắt đốt các ổ đó điều trị tuyệt căn các Ngoại tâm thu nguy hiểm.
‒ Nghiệm pháp gắng sức: Trên xe đạp lực kế hoặc thảm lăn có thể làm xuất hiện các Ngoại tâm thu (tỷ lệ phát hiện tăng gấp 3‒5 lần so với ghi ĐTĐ lúc nghỉ).
‒ Xét nghiệm cận lâm sàng: Ngoài các XN tầm soát yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch như đường huyết, A. Uric máu, Cholesterol máu, … rất cần xét nghiệm điện giải đồ.
4. HÌNH ẢNH ĐIỆN TÂM ĐỒ CỦA NGOẠI TÂM THU
4.1. Ngoại tâm thu nhĩ
Trên ĐTĐ thấy sóng P đến sớm, hình dạng có thể gần giống hoặc khác sóng P của nhịp cơ bản (Tùy vị trí ổ ngoại vị nằm gần hay nằm xa nút xoang). Tiếp sau sóng P là phức bộ QRS hẹp, giống QRS của nhịp cơ bản. Nhịp tiếp sau Ngoại tâm thu dài hơn thời gian (PP) của nhịp cơ bản đó là “thời gian nghỉ bù” thông thường thời gian này là “thời gian nghỉ bù không hoàn toàn” vì nó không dài gấp 2 lần thời gian (PP) của nhịp cơ bản. Cần lưu ý:
‒ Trong một số trường hợp, sóng P đến sớm rơi chồng lên sóng T của nhịp cơ bản trước đó nên khó nhận ra (cần xem xét biên độ sóng T này có thể khác với sóng T của các nhịp cơ bản).
‒ Nếu sóng P đến quá sớm, rơi vào thời kỳ trơcủa bộ nối nên không thể dẫn xung động xuống tâm thất vì vậy không có phức bộ QRS đi sau P, đây là trường hợp Ngoại tâm thu nhĩ bị blốc. Một số trường hợp sóng P rơi sớm vào sóng T của phức bộ trước mà lại bị blốc và tiếp sau đó là một khoảng nghỉ dài hơn nhịp cơ bản thì rất dễ nhầm với ngưng xoang.
‒ Ngoại tâm thu nhĩ tạo xung động sớm dẫn truyền xuống thất, nếu thất chưa ra hết thời kỳ trơ thì phức bộ QRS sẽ dãn rộng hơn QRS của nhịp cơ bản (dễ nhầm với Ngoại tâm thu thất)
‒ Ngoại tâm thu nhĩ nhiều ổ có thể là tiền đề hoặc báo hiệu cho các cơn nhịp nhanh nhĩ, flutter hoặc rung nhĩ sẽ xảy ra. 4.2. Ngoại tâm thu bộ nối
Rất khó phân biệt với Ngoại tâm thu nhĩ hoặc thất (nếu dẫn truyền gây khử cực chậm trong thất) trên điện tâm đồ. Thông thường khoảng thời gian từ sóng P đến QRS ngắn hơn Pở nhịp cơ bản, sóng P thường âm tính đi trước hoặc đi sau QRS (tùy theo ổ ngoại vị nằm ở vị trí khác nhau của bộ nối). 4.3. Ngoại tâm thu thất
Khuyến cáo 2008 của Hội Tim mạch học Việt Nam về chẩn đoán và xử trí NGOẠI TÂM THU
‒ Trên ĐTĐ là hình ảnh phức bộ QRS đến sớm, dãn rộng với sóng T biến dạng khác T của nhịp cơ bản (thường là ngược chiều với QRS) tiếp theo là thời gian nghỉ bù hoàn toàn (gấp 2 lần thời gian của nhịp cơ bản).
‒ Phân tích Ngoại tâm thu thất cần quan tâm đến hình dạng sóng, chiều của véctơ khử cực (“trục” của QRS) và khoảng ghép (QE) để có thể đoán biết vị trí của Ngoại tâm thu (thất phải, thất trái, vách liên thất, …) cũng như phân độ nặng nhẹ của Ngoại tâm thu. Các hình thái Ngoại tâm thu thất liên quan với dạng QRS và nhịp cơ bản được gọi tên như sau:
+ Nhịp đôi: 1 Ngoại tâm thu/1 nhịp cơ bản
+ Nhịp ba: 1 Ngoại tâm thu/2 nhịp cơ bản.
+ Nhịp bốn: 1 Ngoại tâm thu/3 nhịp cơ bản.
+ Ngoại tâm thu thất xen cực: 1 Ngoại tâm thu nằm giữa 2 nhịp cơ bản.
+ Ngoại tâm thu cặp đôi (Pair hay Couplet): 2 Ngoại tâm thu đi liền nhau.
+ Ngoại tâm thu chuỗi (Salvos): từ 3 Ngoại tâm thu trở lên đi liền nhau (nhiều tác giả coi Ngoại tâm thu chuỗi là cơn nhịp nhanh thất không bền vững – Nonsustained Ventricular Tachycardia)
+ Nhịp thất đa ổ (Multifocal PVC): là các Ngoại tâm thu có hình dạng QRS khác nhau (nhiều tác giả gọi là Ngoại tâm thu đa dạng – Polymorphic PVC – vì không chắc chắn hình dạng đó là do nhieu ổ ngoại vị phát xung động hay chỉ có một ổ ngoại vị phát xung nhưng phức bộ QRS bị biến dạng do rối loạn dẫn truyền gây nên)
+ Khoảng ghép (Couplage) của Ngoại tâm thu có thể thay đổi hoặc cố định, người ta cho rằng có khoảng ghép cố định là do cơ chế vào lại và nảy cò (Triggered), còn khoảng ghép thay đổi là do cơ chế bàng tâm thu (Parasystole) thay đổi dẫn truyền ở vòng vào lại hoặc biến đổi nhịp phát xung từ ổ ngoại vị.
‒ Đánh giá mức độ nặng của Ngoại tâm thu thất được sử dụng phân độ của Lown:
+
Lown 0 :
Không có Ngoại tâm thu
+
Lown I :
Có dưới 1 Ngoại tâm thu đơn dạng/phút hay dưới 30 Ngoại tâm thu/giờ
+
Lown II :
Có trên 1 Ngoại tâm thu đơn dạng/phút hay trên 30 Ngoại tâm thu/giờ
+
Lown III :
Ngoại tâm thu đa dạng
+
Lown IV A:
Ngoại tâm thu cặp đôi
+
Lown IV B :
Ngoại tâm thu chuỗi
+
Lown V :
Ngoại tâm thu đến sớm (Ngoại tâm thu rơi vào sóng T của phức độ QRST trước đó)
Cần lưu ý: Phân loại của Lown xuất phát từ việc đánh giá Ngoại tâm thu thất xuất hiện trong Nhồi máu cơ tim cấp có thể có độ chính xác cao nhưng khi áp dụng rộng rãi cho các trường hợp khác cần phân tích kỹ để đánh giá đúng mức – thí dụ: một trường hợp có 40 Ngoại tâm thu/phút được phân độ Lown II có thể gây rối loạn huyết động nặng hơn trường hợp trong 1 giờ chỉ có 1 Ngoại tâm thu đa dạng (Lown III).
5. ĐIỀU TRỊ
Giải quyết các bệnh lý cơ bản gây Ngoại tâm thu hoặc những nguyên nhân có thể tác động được (Cà phê, thuốc lá, chất kích thích, stress, rối loạn điện giải, …) Có thể dùng thuốc cho:
‒ Ngoại tâm thu nhĩ, bộ nối: Thông thường ít phải điều trị, tuy nhiên khi Ngoại tâm thu xuất hiện dày gây loạn nhịp hoặc khó chịu cho bệnh nhân thì nên dùng: chẹn bêta giao cảm, đối kháng canxi, an thần.
‒ Ngoại tâm thu thất: Trong phần lớn trường hợp Ngoại tâm thu đơn dạng, nhịp đôi, nhịp ba không cần điều trị khi bệnh nhân không có các bệnh lý tim mạch do vậy chỉ điều trị khi nào bệnh nhân có những khó chịu ảnh hưởng đến chất lượng sống.
+ Nếu Ngoại tâm thu xuất hiện do nhịp chậm: cần nâng nhịp tim bằng Atropine, Isoproterenol (hoặc các loại thuốc uống như Theophylline, Ventoline) những trường hợp nặng phải sử dụng máy tạo nhịp tim.
+ Nếu Ngoại tâm thu xuất hiện do nhịp xoang nhanh đơn thần: làm chậm nhịp tim bằng chẹn bêta giao cảm hoặc Ivabradine.
+ Điều trị các Ngoại tâm thu phức tạp hoặc gây rối loạn huyết động trong bệnh viện có thể bằng: Lidocaine TM (lựa chọn khởi đầu) nếu Lidocaine không hiệu quả có thể dùng Procainamide TM. Có thể dùng Propranolol nếu các thuốc trên không hiệu quả hoặc Magnesium tiêm TM.
+ Điều trị duy trì bằng thuốc uống như thuốc chống loạn nhịp nhóm I, II, III có thể dự phòng các cơn nhanh kịch phát thất. Tuy nhiên nhóm IC như Flecainide và Moricizine có thể làm tăng tử vong trên các bệnh nhân bị Nhồi máu cơ tim Amiodarone tỏ ra có hiệu quả trong nhiều trường hợp. Chú ý cân bằng điện giải đặc biệt là Kalium và Magnesium.
6. TIÊN LƯỢNG
Ngoại tâm thu có thể xuất hiện trong những giai đoạn của bệnh nền và có giá trị báo hiệu hoặc giúp tiên lượng sự tiến triển của bệnh.
‒ Ngoại tâm thu nhĩ xuất hiện nhiều và đa ổ báo hiệu có thể sẽ dẫn tới cơn nhanh nhĩ, Flutter hoặc rung nhĩ.
‒ Ngoại tâm thu thất đa ổ xuất hiện ở bệnh nhân Nhồi máu cơ tim báo hiệu tiên lượng xấu có thể xảy ra các cơn nhanh thất và rung thất.
‒ Trên bệnh nhân suy tim Ngoại tâm thu thất cũng là dấu báo hiệu tiên lượng dè dặt.
‒ Ngoại tâm thu thất có thể là chỉ điểm cho các rối loạn khác cần được xử lý kịp thời: ngộ độc Dogitalis, nhịp chậm do dùng chẹn bêta giao cảm, tăng Kalium máu, hạ Magnesium máu v.v..
Bại não là tổn thương não không tiến triển xảy ra vào giai đoạn trước khi sinh, trong khi sinh và sau khi sinh đến 5 tuổi; Biểu hiện bằng các rối loạn về vận động, trí tuệ, giác quan và hành vi.
+ Phản xạ gân xương bình thường hoặc tăng ở các chi bị tổn thương.
+ Có các phản xạ nguyên thuỷ.
+ Dinh dưỡng cơ: không có teo cơ, ít co rút tại các khớp.
+ Cảm giác: có thể rối loạn điều hoà cảm giác.
+ Thần kinh sọ não: có thể bị liệt.
+ Các dấu hiệu khác: động kinh, rối loạn nhai nuốt, điếc ở tần số cao…
Chậm phát triển trí tuệ ở các mức độ khác nhau.
Thể thất điều (mất điều phối):
Có hai tiêu chuẩn sau:
Rối loạn về chức năng vận động do tổn thương hệ thần kinh trung ương:
+ Giảm trương lực cơ toàn thân.
+ Rối loạn hoặc mất điều phối vận động hữu ý (quá tầm, rối tầm), không thực hiện được động tác tinh vi, rối loạn thăng bằng đầu cổ và thân mình, dáng đi như người say rượu.
+ Phản xạ gân xương bình thường hoặc tăng nhẹ.
+ Có các phản xạ nguyên thuỷ.
+ Dinh dưỡng cơ: không có teo cơ hoặc co rút tại các khớp.
+ Cảm giác: có rối loạn điều hoà cảm giác.
+ Thần kinh sọ não: có thể bị liệt.
+ Các dấu hiệu khác: cong vẹo cột sống động kinh…
Chậm phát triển trí tuệ ở các mức độ khác nhau.
Thể nhẽo (giảm trương lực)
Có hai tiêu chuẩn sau:
Rối loạn về chức năng vận động do tổn thương hệ thần kinh trung ương:
+ Giảm trương lực cơ toàn thân.
+ Giảm vận động hữu-ý.
+ Phản xạ gân xương bình thường hoặc tăng nhẹ.
+ Có các phản xạ nguyên thuỷ.
+ Dinh dưỡng cơ: không có teo cơ hoặc co rút tại các khớp.
+ Cảm giác: có rối loạn điều hoà cảm giác.
+ Thần kinh sọ não: có thể bị liệt.
+ Các dấu hiệu khác: cong vẹo cột sống, động kinh, có dấu hiệu Bakinski.
Chậm phát triển trí tuệ ở các mức độ khác nhau.
Thể phối hợp co cứng và múa vờn
Có hai tiêu chuẩn sau:
Rối loạn về chức năng vận động do tổn thương hệ thần kinh trung ương giống thể co cứng và múa vờn.
Chậm phát triển trí tuệ ở các mức độ khác nhau.
Xét nghiệm
Điện não đồ: hoạt động điện não cơ bản bất thường, có các hoạt động kịch phát điển hình hoặc không điển hình, khu trú hoặc toàn thể hoá.
Siêu âm qua thóp: để tìm các tổn thương khu trú như chảy máu não, giãn não thất…
Chụp cắt lớp vi tính hoặc cộng hưởng từ: xác định một số tổn thương não.
Chụp Xquang: xác định dị tật cột sống, khớp háng, khớp gối, khớp cổ chân kèm theo
Đo thính lực, thị lực.
Các xét nghiệm khác: CK, LDH để loại trừ bệnh cơ; T3, T4, THS để loại trừ suy giáp.
PHỤC HỒI CHỨC NĂNG
Điều trị liệu
Tử ngoại
Chỉ định: bại não có còi xương-SDD, bại não thể nhẽo.
Chống chỉ định: bại não có kèm theo động kinh, lao phổi tiến triển, suy thận, suy gan cấp.
Phương pháp: tử ngoại bước sóng 280-315nm.
Thời gian: liều đỏ da độ 1 sau tăng dần lên (tổng liều 1-5 phút/lần) X 20-30 ngày/đợt.
Điện thấp tần
Là dòng điện một chiều có điện thế không đổi trong thời gian điều trị.
Chỉ định: trẻ bại não không có động kinh lâm sàng.
Chống chỉ định: bại não có động kinh trên lâm sàng; bệnh nhân thể co cứng nặng.
Các phương pháp điện thấp tần.
Gavanic dẫn CaCl2 cổ:
+ Chỉ định: cho bệnh nhi chưa kiểm soát được đầu cổ, chưa biết lẫy.
+ Mục đích: tăng cường cơ lực nhóm cơ nâng đầu- cổ.
+ Kỹ thuật điện cực: cực tác dụng mang dấu (+) có tẩm dung dịch CaCl2 đặt vào vùng cổ (C5–7); Cực đệm mang dấu(-) đặt ở vùng thắt lưng (L4–5). Cường độ: 0,3-0,5mA/cm2 điện cực.
+ Thời gian điều trị: 15-30 phút/lần hàng ngày X 20-30 ngày.
Gavanic dẫn CaCl2 lưng:
+ Chỉ định: cho trẻ chưa nâng thân mình lên (chưa biết ngồi).
+ Mục đích: tăng cường cơ lực nhóm cơ nâng thân.
+ Kỹ thuật điện cực: cực tác dụng mang dấu (+) có tẩm dung dịch CaCl2 đặt vào vùng thắt lưng (L4_5); Cực đệm mang dấu (-) đặt vào vùng cổ (C5.7) hoặc giữa 2 bả vai. Cường độ: 0,3-0,5mA/cm2 điện cực.
+ Thời gian điều trị: 15-30 phút/lần/ngày X 20-30 ngày.
Dòng Gavanic ngược toàn thân:
+ Chỉ định: cho trẻ thể co cứng liệt tứ chi.
+ Mục đích: giảm trương lực nhóm cơ gập mặt lòng khớp cổ chân nhằm đưa bàn chân về vị trí trung gian.
+ Kỹ thuật địên cực: hai cực tác dụng mang dấu (-) đặt vào vùng cơ dép hai bên; Cực đệm mang dấu (+) đặt ở vùng giữa hai bả vai hoặc thắt lưng. Cường độ: 0,3-0,5mA/cm2 điện cực.
+ Thời gian điều trị: 15-30 phút/lần hàng ngày trong 20-30 ngày.
Dòng Gavanic ngược khu trú chi trên:
+ Chỉ định: cho trẻ thể co cứng liệt nửa người.
+ Mục đích: giảm trương lực nhóm cơ gập mặt lòng khớp cổ tay nhằm đưa bàn tay về vị trí trung gian.
+ Kỹ thụật điện cực: cực tác dụng mang dấu (-) đặt vào phần dưới cẳng tay liệt (điểm vận động của các cơ gập mặt lòng khớp cổ tay); Cực đệm mang dấu (+) đặt ở vùng 1/3 giữa (cơ hai đầu) cánh tay. Cường độ: 0,3-0,5mA/cm2 điện cực. Thời gian điều trị: 15-30 phút/lần hàng ngày trong 20-30 ngày.
Dòng Gavanic ngược khu trú chi dưới:
+ Chỉ định: cho trẻ bệnh nhân thể co cứng liệt nửa người.
+ Mục đích: giảm trương lực nhóm cơ gập mặt lòng khớp cổ chân (cơ sinh đôi, dép) nhằm đưa bàn chân về vị trí trung gian.
+ Kỹ thuật điện cực: cực tác dụng mang dấu (-) đặt vào vùng cơ dép bên liệt (bắp chân); Cực đệm mang dấu (+) đặt ở vùng giữa hai bả vai hoặc thắt lưng. Cường độ: 0,3-0,5 mA/cm2 điện cực. Thời gian điều trị: 15-30 phút/lần hàng ngày trong 20-30 ngày.
Dòng Gavanic ngắt quãng (xung chữ nhật hoặc tam giác) khu trú (T/R);
+ Chỉ định: cho trẻ thể co cứng (bàn chân thuổng, bàn tay gập mu quá mức, co rút gập hình thành tại gối…).
+ Mục đích: không phải kích thích lên cơ trực tiếp mà kích thích lên thần kinh bị ức chế. Phương pháp này còn gọi là thể dục trị liệu.
+ Kỹ thuật điện cực: cực tác dụng mang dấu (-) đặt vào điểm vận động của cơ định kích thích (cơ gập mu bàn tay, cơ chày trước, cơ đầu đùi…); Cực đệm mang dấu (+) đặt ở vùng đầu gần của chi tương ứng (hoặc C4_6 hoặc vùng thắt lưng) Cường độ: dò cường độ và giữ lại ở liều có co cơ tối thiểu. Thời gian điều trị: 15-30 phút/lần hàng ngày trong 20-30 ngày.
Thuỷ trị liệu
Chỉ định: trẻ bại não không có động kinh trên lâm sàng.
Chống chỉ định: trẻ bại não có động kinh trên lâm sàng.
Mục đích: thư giãn, giảm trương lực cơ, tăng khả năng vận động có ý thức.
Phương pháp: bồn nước xoáy, bể bơi (nhiệt độ nước 36-38°C).
Thời gian: 20-30 phút.
Vận động trị liệu
Nguyên tắc
Theo các mốc phát triển về vận động thô của trẻ:
Kiểm soát đầu cổ -» lẫy-> ngồi -> quỳ-> bò -» đứng -» đi -> chạy.
Theo thể lâm sàng bại não.
Hoàn thành mốc vận động trước rồi mới chuyển sang mốc sau.
Mục tiêu và các bài tập cụ thể
Duy trì tầm vận động tối đa tại các khớp lớn:
+ Bài tập vận động thụ động, có trợ giúp, chủ động theo tầm hoặc hết tầm tại các khớp lớn.
+ Thay đổi tư thế nằm: chơi, ngủ đúng cho từng thể lâm sàng.
+ Kỹ thuật tạo thuận nâng đầu cổ: trên sàn, trên gối tam giác, trên gối tròn, trên bóng…
+ Kỹ thuật day dọc 2 bên gai sau cột sống.
+ Đai nâng cổ.
Tăng khả năng lẫy:
+ Bài tập lẫy thụ động, có trợ giúp trên sàn.
+ Tư thế nằm nghiêng có gối lót.
Tăng khả năng ngồi:
+ Bài tập vận động thụ động, trợ giúp trẻ nằm ngồi dậy.
+ Bài tập thăng bằng ngồi có trợ giúp: trên sàn, trên bóng, trên bàn thăng bằng, trên đùi…
+ Ngồi đứng tư thế trên ghế đặc biệt: ghế góc, ghế có bộ phận tách hai chân.
Tăng khả năng quỳ bò:
+ Bài tập quỳ bốn điểm có trợ giúp: trên sàn, trên gối tròn, trên đùi…
+ Bài tập bò có trợ giúp.
Tăng khả năng đứng:
+ Bài tập quỳ trên hai chân, một chân có trợ giúp: trên sàn…
+ Bài tập ngồi đứng dậy có trợ giúp từ ghế, trên sàn…
+ Tập ngồi xổm đứng dậy.
Tăng khả năng đi:
+ Bài tập thăng bằng đứng trên từng chân.
+ Tập đi có trợ giúp: kỹ thuật viên, thanh song song, khung tập đi, xe đẩy, nạng, gậy.
Ngôn ngữ trị liệu
Huấn luyện về giao tiếp sớm:
+ Kỹ năng tập trung.
+ Kỹ năng bắt chước.
+ Kỹ năng chơi đùa.
+ Giao tiếp bằng cử chỉ, tranh ảnh.
+ Kỹ năng xã hội.
Huấn luyện kỹ năng ngôn ngữ:
+ Kỹ năng hiểu ngôn ngữ.
+ Kỹ năng diễn đạt bằng ngôn ngữ.
Huấn luyện kỹ năng nhà trường:
+ Kỹ năng trước khi đến trường.
+ Kỹ năng nhà trường.
Hoạt động trị liệu
Huấn luyện khả năng sử dụng hai tay sớm: kỹ năng cầm đồ, kỹ năng với cầm.
Huấn luyện khả năng sinh hoạt hàng ngày sớm: kỹ năng ăn uống, kỹ năng mặc quần áo, đi giầy dép, kỹ năng vệ sinh cá nhân, kỹ năng tắm rửa, đánh răng rửa mặt.
Huấn luyện khả năng nội trợ: kỹ năng đi chợ tiêu tiền, kỹ năng nấu nướng.
Huấn luyện kỹ năng nghề nghiệp: chọn nghề, học nghề cho phù hợp, giao thông.
Dụng cụ chỉnh hình
Dụng cụ trợ giúp: ghế ngồi bại não, khung và xe tập đi, xe lăn.
Nẹp dưới gối, trên gối, áo cột sống, nẹp bàn tay, đai nâng cổ.
Giáo dục
Huấn luyện các kỹ năng giáo dục tiền học đường.
Huấn luyện kỹ năng giáo dục đặc biệt và giáo dục hoà nhập.
Phổ các bệnh phổi ở bệnh nhân nhiễm HIV bao gồm những biến chứng điển hình của HIV như lao, viêm phổi vi khuẩn, u lympho và tăng áp động mạch phổi do HIV, nhưng cũng có cả những bệnh lý thông thường hàng ngày như viêm phế quản cấp, hen, COPD và ung thư phế quản (Bảng 1). Các bệnh lý cổ điển như Viêm phổi Pneumocystis đã hiếm hơn do có HAART (trị liệu kháng retrovirus hiệu lực cao) và điều trị dự phòng (Lazarous 2007), do đó các biến chứng khác lại tăng hơn (Grubb 2006). Viêm phế quản chính là căn nguyên thường gặp nhất của các vấn đề hô hấp ở bệnh nhân HIV (Wallace 1997). Tuy nhiên, đặc biệt ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch nặng, cần lưu ý tới mọi chẩn đoán phân biệt. Bệnh sử và biểu hiện lâm sàng là rất quan trọng để phân biệt giữa những bệnh lý thông thường và bệnh lý nguy hiểm.
Bảng1: Các biến chứng phổi ở bệnh nhân HIV
Nhiễmtrùng
Ung thư
Khác
Pneumocystisjiroveci
Viêmphổi vi khuẩn
S.pneumoniae
S. aureus
H.influenzae
B.catarrhalis
P. aeruginosa Rhodococcus equi Nocardia asteroides Mycobacteria
Viêm phổi kẽ không đặc hiệu Tăng áp lực động mạch phổi COPD
Tăng tính phản ứng phế quản
Chương này đưa ra các chẩn đoán phân biệt ở bệnh nhân có biểu hiện hô hấp. Viêm phổi Pneumocystis, mycobacteria và tăng áp động mạch phổi đã có những chương riêng.
Người đã từng mắc Viêm phổi Pneumocystis một lần sẽ có nguy cơ mắc lần hai cao hơn. Một bệnh nhân có lipid máu cao và hẹp động mạch cảnh có thể mắc bệnh mạch vành.
Bệnhnhânđanguốngnhững thuốc gì?
Uống co-trimoxazole thường xuyên làm giảm khả năng Viêm phổi Pneumocystis, và có thể giảm cả nguy cơ viêm phổi vi khuẩn (Beck 2001). Tuy nhiên nếu dự phòng Viêm phổi Pneumocystis bằng pentamidine khí dung, có thể mắc Viêm phổi Pneumocystis không điển hình với biểu hiện chủ yếu vùng đỉnh phổi.
CóphảibệnhnhânvừabắtđầuđiềutrịHAART?
HAART có thể gây ra một số vấn đề về phổi:
Khi mới bắt đầu điều trị abacavir, hen có thể xảy ra do quá mẫn. Khó thở (13%), ho (27%) và viêm họng (13%) là các triệu chứng thường gặp (Keiser 2003). Một số bệnh nhân thậm chí còn có các thâm nhiễm ở phổi.
T-20 có vẻ làm tăng nguy cơ viêm phổi vi khuẩn, ít nhất là ở những người nghiện thuốc lá. Khó thở và thở nhanh cũng gặp ở bệnh nhân toan lactic do điều trị NRTI.
Ngoài ra, các triệu chứng về phổi xảy ra sau HAART (trị liệu kháng retrovirus hiệu lực cao) có thể còn là kết quả của hội chứng viêm phục hồi miễn dịch (IRIS). Căn nguyên bao gồm cả các yếu tố nhiễm trùng và không nhiễm trùng (Grubb 2006). CD4 thấp và VL cao là các yếu tố nguy cơ. Trong các phân tích hồi cứu, IRIS gặp ở 30% bệnh nhân với biểu hiện lao, mycobacteria không điển hình và cryptococcus (Shelburn 2005).
Bệnhnhâncó hút thuốc lá không?
Mặc dù hút thuốc gây hại nhiều hơn cho người nhiễm HIV so với người không nhiễm HIV, nghiện thuốc lại gặp nhiều hơn ở bệnh nhân HIV (Royce 1990). Các bệnh phổi có hay không liên quan đến HIV đều thường gặp hơn ở người hút thuốc. Các bệnh này là viêm phổi vi khuẩn và Viêm phổi Pneumocystis, ngoài ra còn hen, COPD và ung thư phổi (Hirschtick 1996). Hút thuốc kích thích gây thiếu hụt miễn dịch tại chỗ ở phổi: làm giảm số tế bào mang CD4 ở phế nang và giảm sự tạo ra các cytokine tiền viêm quan trọng như IL-1 và TNF-α (Wewers 1998). Ngoài ra, hút thuốc còn làm ức chế khả năng thực bào của đại thực bào phế nang. Hậu quả này nghiêm trọng hơn ở bệnh nhân HIV so với người không nhiễm HIV. Tuy nhiên bản thân HIV lại không tác dụng trực tiếp lên khả năng diệt vi khuẩn (Elssner 2004).
Khuyến khích bệnh nhân hạn chế hút thuốc là một nhiệm vụ y tế quan trọng, đặc biệt trong khi tư vấn HIV. Các chiến lược có khả năng thành công và được các nghiên cứu ủng hộ là tham gia các nhóm hỗ trợ, thay thế nicotine và việc uống Buproprion cần được lưu ý nếu có tương tác thuốc, đặc biệt với ritonavir.
Bệnhnhântừ đâu tới?
Một câu hỏi quan trọng là tiền sử lữ hành và/hoặc nguồn gốc quê quán của bệnh nhân. Có những địa điểm nơi các bệnh như histoplasmosis và coccidiomycosis lưu hành. Ví dụ, histoplasmosis gặp nhiều hơn ở một số vùng của Mỹ và Puerto Rico so với Viêm phổi Pneumocystis nhưng lại rất hiếm ở châu Âu.
Lao có vai trò quan trọng ở những người nhập cư.
BệnhnhânnhiễmHIV bằng cách nào?
Người tiêm chích ma túy thường mắc viêm phổi vi khuẩn hoặc lao (Hirschtick 1995). Sarcoma Kaposi ở phổi gần như chỉ gặp ở MSM.
Bệnhnhâncó những triệu chứng gì?
Đôi khi, một số thông tin quan trọng có thể thu thập được ngoài những triệu chứng chung như ho và khó thở, và có thể giúp ích phân biệt giữa Viêm phổi Pneumocystis và viêm phổi vi khuẩn. Ví dụ, viêm phổi vi khuẩn thường diễn biến cấp tính hơn. Bệnh nhân thường gặp bác sỹ chỉ sau 3-5 ngày có triệu chứng, trong khi bệnh nhân Viêm phổi Pneumocystis có thể có triệu chứng kéo dài tới trung bình là 28 ngày (Kovasc 1984). Bệnh nhân Viêm phổi Pneumocystis điển hình có khó thở và ho khan. Đờm nhiều và có màu chỉ điểm tới căn nguyên vi khuẩn hoặc phối hợp nhiều căn nguyên nhiễm trùng.
PhimX quang phổi ra sao?
Bảng2:X quang phổi và chẩn đoán phân biệt
X quang phổi
Các chẩn đoán phân biệt điển hình
Không có biểu hiện bệnh lý
PCP, hen, KS của khí quản
Thâm nhiễm đơn ổ
Viêm phổi vi khuẩn, mycobacteria, u lympho, nấm
Thâm nhiễm đa ổ
Viêm phổi vi khuẩn, mycobacteria, Viêm phổi Pneumocystis, KS
Thâm nhiễm lan tỏa
PCP (chủ yếu vùng trung tâm), CMV, KS, LIP, suy tim, nấm
Hình ảnh kê
Mycobacteriosis, nấm
Tràn khí màng phổi
PCP
Tổn thương hang
Mycobacteriosis (CD4 > 200), apxe vi khuẩn (Staph., Pseudomonas)
Tổn thương nang
PCP, nấm
Tràn dịch màng phổi
Viêm phổi vi khuẩn, mycobacteria, KS, lymphoma, suy tim
Hạch rốn phổi 2 bên
Mycobacteriosis, KS, sarcoidosis
Câu hỏi quan trọng nhất: tình trạng miễn dịch ra sao?
Số lượng CD4 là một chỉ điểm quan trọng về nguy cơ một bệnh nhân mắc một nhiễm trùng cơ hội cụ thể nào đó. Mức CD4 hiện tại quan trọng hơn so với mức CD4 thấp nhất. Ở những bệnh nhân có CD4 trên 200, khả năng mắc các bệnh cơ hội điển hình do HIV là rất thấp. Ở quần thể này, người ta nghĩ đến các vấn đề “thông thường” như viêm phế quản cấp và viêm phổi vi khuẩn, giống như ở quần thể HIV âm tính. Tuy nhiên, luôn nhớ đến lao. Cho dù nguy cơ nhiễm lao tăng lên khi suy giảm miễn dịch nặng hơn, vẫn có trên ½ số nhiễm lao ở bệnh nhân HIV xảy ra ở mức CD4 trên 200/µl (Lange 2004, Wood 2000).
Ở mức CD4 dưới 200, Viêm phổi Pneumocystis và hiếm hơn là viêm phổi do cryptococcus có thể xảy ra. Trong giai đoạn này, viêm phổi vi khuẩn vẫn là bệnh phổi hay gặp nhất.
Ở mức CD4 dưới 100, khả năng mắc Sarcoma Kaposi phổi, toxoplasma tăng lên. Khi CD4 dưới 50, có thể nhiễm các nấm lưu hành (Histoplasma capsulatum, Coccidioides immitis), hoặc không lưu hành (Aspergillus, Candida), mycobacteria không điển hình và các virus khác nhau (chủ yếu CMV). Đặc biệt ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch nặng, cần nhớ rằng biểu hiện phổi có thể chỉ là biểu hiện ở một phủ tạng của một nhiễm trùng toàn thân. Cần tiến hành các biện pháp chẩn đoán tích cực ở những bệnh nhân này.
Cácbệnh lý ở phổi
Viêmphổi vi khuẩn
Viêm phổi vi khuẩn xảy ra nhiều hơn ở bệnh nhân HIV so với người không nhiễm HIV, và tương tự như Viêm phổi Pneumocystis, bệnh để lại sẹo trong phổi, làm hạn chế chức năng hô hấp kéo dài hàng năm (Alison 2000). Mặc dù viêm phổi vi khuẩn hay xảy ra vào giai đoạn sớm của nhiễm HIV, nguy cơ vẫn tăng lên khi suy giảm miễn dịch nặng hơn. Viêm phổi vi khuẩn làm tiên lượng lâu dài của bệnh nhân tồi đi rõ rệt (Osmond 1999). Do đó, mắc viêm phổi nhiều hơn 1 lần trong 1 năm được coi là biểu hiện chỉ điểm AIDS. Việc sử dụng HAART (trị liệu kháng retrovirus hiệu lực cao) đã dẫn tới giảm rõ rệt tỷ lệ mắc viêm phổi vi khuẩn (Jeffrey 2000).
Về lâm sàng và tiên lượng của viêm phổi vi khuẩn, không có gì khác biệt lớn giữa bệnh nhân HIV và bệnh nhân có miễn dịch toàn vẹn. Tuy nhiên, bệnh nhân HIV thường có ít triệu chứng hơn và có bạch cầu bình thường (Feldman 1999). Về căn nguyên thì phế cầu và hemophilus là thường gặp nhất. Khi so sánh với bệnh nhân có miễn dịch toàn vẹn, nhiễm Staphylococcusaureus, Branhamella catarrhalis, và ở giai đoạn muộn (CD4 < 100), Pseudomonasspp. hay gặp hơn. Khi có tổn thương thâm nhiễm dạng hang, tiến triển từ từ, các căn nguyên hiếm như Rhodococcus equi và nocardia cũng phải được tính đến. Các nhiễm khuẩn đa căn nguyên và đồng nhiễm Pneumocystisjiroveci cũng thường gặp (10- 30%) và khiến đánh giá lâm sàng trở nên khó khăn (Miller 1994).
Ngoài các tiêu chuẩn thông thường (pO2, mức độ thâm nhiễm, tràn dịch, và điểm CBR-65 (lú lẫn, nhịp thở, huyết áp, > 65 tuổi, Lim 2003)), CD4 cũng là một yếu tố quan trọng để lượng giá nguy cơ của bệnh nhân. Tỷ lệ tử vong của bệnh nhân có CD4 dưới 100 tăng thêm 6 lần. Do đó, khi đánh giá bệnh nhân suy giảm miễn dịch nặng không được phép chỉ dựa vào các bảng điểm nguy cơ cho người bình thường và phải cho nhập viện các bệnh nhân bề ngoài có vẻ không nặng (Cordero 2000).
Khi không có nghi ngờ nhiễm mycobacteria, có thể chỉ định điều trị kháng sinh cho bệnh nhân có CD4 trên 200 bằng các kháng sinh có hiệu quả với S. pneumoniae, H. influenzae và S. aureus. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu kiểm chứng nào ủng hộ điều này. Theo các điều trị được khuyến cáo cho viêm phổi cộng đồng ở những người mắc cùng lúc nhiều bệnh, có thể dùng Cephalosporin thế hệ 2 như cefuroxim hoặc thế hệ 3a như Cefotaxim/Ceftriaxon hoặc aminopenicillin có chất ức chế betalactamase (Ampicillin/Sulbactam hoặc Amoxicillin/clavulanic acid, ví dụ Augmentan™ 875/125 mg, ngày 2 lần). Nếu trong vùng có tỷ lệ nhiễm legionella cao, có thể phối hợp macrolide (e.g. Klacid™ 500 mg ngày 2 lần). Khi đã có kết quả cấy, bệnh nhân cần được điều trị đặc hiệu. Khi bệnh nhân suy giảm miễn dịch nặng (CD4 dưới 200), cần ưu tiên chẩn đoán qua soi phế quản do phổ các căn nguyên rất rộng (Dalhoff 2002). Ở những bệnh nhân có nguy cơ cao nhiễm pseudomonas (CD4 thấp, nhiễm trùng bệnh viện, nhiễm trùng huyết), có thể dùng ngay từ đầu các kháng sinh chống pseudomonas. Bệnh nhân viêm phổi nặng cần được điều trị bằng phối hợp kháng sinh chứa một macrolide hoặc một quinolone.
Khuyến cáo tiêm vacxin phế cầu. Tuy vậy chưa có bằng chứng về hiệu quả của vacxin khi CD4 dưới 200. Do tỷ lệ bội nhiễm vi khuẩn cao, hàng năm cần tiêm phòng cúm.
Chiếnlượcchẩnđoánnào áp dụng được cho các thâm nhiễm ở phổi?
Mức độ quyết liệt của các biện pháp chẩn đoán ở bệnh nhân có thâm nhiễm trên phổi phụ thuộc vào giai đoạn bệnh và phổ các căn nguyên. Với CD4 trên 200, các biện pháp chẩn đoán không xâm nhập và điều trị kháng sinh là chấp nhận được. Các biện pháp chẩn đoán căn bản này bao gồm cấy máu 2 lần, soi và cấy đờm. Tỷ lệ nhiễm khuẩn huyết cao hơn so với bệnh nhân miễn dịch toàn vẹn (Miller 1994). Giá trị của cấy đờm là phân định được mycobacteria và aspergillus.
Trong từng ca bệnh cụ thể, cần lưu ý khả năng phát hiện kháng nguyên trong nước tiểu (ví dụ phế cầu, legionella. cryptococcus, histoplasma). Xác định kháng nguyên cryptococcus trong huyết thanh có giá trị dự báo cao (Saag 2000). CT ngực đôi khi rất có ích (CT phân giải cao). Ví dụ Viêm phổi Pneumocystis có thể được phát hiệnt rên HR-CT nhưng không thấy trên phim X quang thường.
Ở các giai đoạn muộn (CD4 < 200), nên soi phế quản để chẩn đoán (Dalhoff 2002). Tỷ lệ chẩn đoán thành công bằng soi phế quản ở bệnh nhân HIV có thâm nhiễm phổi là 55-70% và tăng lên đến 89-90% khi mọi kỹ thuật bao gồm cà sinh thiết xuyên phế quản được áp dụng (Cadranel 1995). Độ nhạy của rửa phế quản phế nang (BAL) lên tới 60-70% ở bệnh nhân viêm phổi vi khuẩn (khi chưa điều trị kháng sinh) và 85-100% ở Viêm phổi Pneumocystis (Baughman 1994). Do độ nhạy cao của BAL nên sinh thiết xuyên phế quản chỉ được chỉ định trong chẩn đoán Viêm phổi Pneumocystis khi các phương pháp chẩn đoán trước cho kết quả âm tính và khi bệnh nhân đã uống dự phòng (Dalhoff 2002). Khi nghi ngờ aspergillus phổi hoặc CMV, sinh thiết xuyên phế quản được ưu tiên hơn để phân biệt vi hệ bình thường và tổn thương tổ chức. Sinh thiết qua phẫu thuật mở và sinh thiết phổi qua thành ngực có CT chỉ dẫn rất hiếm khi được áp dụng.
Hen phế quản
Có người nghĩ rằng một bệnh suy giảm miễn dịch như HIV có thể bảo vệ bệnh nhân khỏi những biểu hiện của phản ứng miễn dịch quá mức như dị ứng và hen. Tuy nhiên, thực tế có điều ngược lại: một nghiên cứu từ Canada trên nam giới nhiễm HIV cho thấy trên 50% số bệnh nhân bị 1 đợt khò khè trong vòng 12 tháng trước, và gần một nửa trong số đó có biểu hiện tăng phản ứng phế quản. Các kết quả này đặc biệt đúng ở những người hút thuốc lá (Poirer 2001). Khi bệnh nặng thêm, có thể có tình trạng mất cân bằng giữa số lượng quá ít các tế bào TH1 “tốt” sinh interferon và số lượng quá nhiều các tế bào TH2 “gây dị ứng” làm tăng tổng lượng IgE. Đối với các ca ho, khó thở hoặc viêm phế quả tái phát không rõ căn nguyên, cần nghĩ đến tăng phản ứng phế quản, hen hoặc khí phế thũng.
Khí phế thũng
Những người nghiện thuốc lá nhiễm HIV hay bị khí phế thũng hơn so với những người không nhiễm HIV. Có thể có sự phối hợp gây bệnh giữa hút thuốc và thâm nhiễm phổi bởi các tế bào T gây độc do nhiễm HIV (Diaz 2000). Hút “crack” thậm chí còn tăng thêm nguy cơ khí phế thũng. Ở đây, có vẻ các cấu trúc biểu mô bề mặt và niêm mạc bị phá hủy (Fliegil 1997). Ngoài ra, cocaine có thể dẫn tới các biểu hiện khác thường như tràn khí màng phổi hoặc thâm nhiễm phế nang.
Viêmphổi kẽ dạng lympho (LIP)
LIP là một dạng viêm phổi có diễn biến mạn tính hoặc bán cấp và rất hiếm gặp ở người lớn. Về mặt X quang, biểu hiện thâm nhiễm lưới – nốt tương tự như Viêm phổi Pneumocystis. Ngược lại với Viêm phổi Pneumocystis, bệnh nhân LIP thường có CD4 trên 200 và có LDH bình thường. Biểu hiện mô bệnh học điển hình là viêm phế nang tăng lympho bào CD8 và không phát hiện được mầm bệnh nào. Chẩn đoán xác định chỉ dựa vào sinh thiết qua mở phổi. LIP đáp ứng với steroid. Vai trò của HAART (trị liệu kháng retrovirus hiệu lực cao) chưa rõ, đặc biệt là khi LIP đôi lúc cũng xảy ra trong bối cảnh hội chứng phục hồi miễn dịch do HAART.
Ung thư phế quản
Bệnh nhân HIV có nguy cơ ung thư phổi cao hơn. Phân tích hồi cứu ở 8400 bệnh nhân từ 1986 đến 2001 cho thấy tỷ lệ ung thư phế quản tăng cao gấp 8 lần so với quần thể người bình thường hút thuốc sau năm 1996. Phần lớn các ca ung thư phế quản là ung thư biểu mô tuyến, và điều này gây ra một cuộc tranh luận liệu bản thân HIV có gây ra sự bất ổn về di truyền (Bower 2003, Kirk 2007). Bệnh nhân HIV ung thư phế quản ở tuổi trẻ hơn, và bệnh thường nặng hơn khi biểu hiện và diễn biến ác tính hơn so với bệnh nhân HIV âm tính (White 1996, Karp 1993). Liệu có nên hóa trị liệu và dùng loại nào cần được quyết định tùy từng ca. Một nhóm thuần tập nhỏ đã cho thấy bệnh nhân HIV ung thư phế quản giai đoạn muộn có tiên lượng cũng tồi như những bệnh nhân HIV âm tính, bất kể tình trạng miễn dịch ra sao khi điều trị HAART (trị liệu kháng retrovirus hiệu lực cao) và hóa trị liệu (Powles 2003).
Các nhiễm trùng cơ hội ít gặp
Phát hiện CMV trong BAL nhiều lần làm dấy lên những thảo luận về mối liên quan về lâm sàng. Tỷ lệ huyết thanh dương tính rất cao (90%) và việc ký sinh ở đường hô hấp là thường gặp. Viêm phổi CMV là căn nguyên của 3.5% số thâm nhiễm phổi ở bệnh nhân AIDS. Mức độ gặp mầm bệnh ở các giai đoạn muộn có thể bị đánh giá thấp do xét nghiệm mô học lúc mổ xác phát hiện nhiễm CMV ở phổi tới 17% (Afessa 1998, Waxman 1997). Về aspergillus phổi, vốn chỉ xảy ra ở giai đoạn muộn và kèm theo các yếu tố nguy cơ khác như giảm bạch cầu hoặc điều trị steroid (Mylonakis 1998), xem thêm chương nhiễm trùng cơ hội.
Trong viêm tai giữa và viêm xương chũm, cholesteatome là một loại bệnh tích đặc biệt cần lưu ý đến vì :
Phá huỷ xương rất nhanh và mạnh nên làm suy giảm sức nghe rõ rệt và dễ đưa tới biến chứng.
Hầu như chỉ gặp trong bệnh học tai xương chũm, đặc biệt ở nước ta gặp với tỷ lệ cao.
Bệnh sinh: Tuy cholesteatome được biết đến từ lâu nhưng cho đến nay về bệnh sinh vẫn chưa rõ rệt. Các thuyết được nhắc đến là:
+ Thuyết nguyên phát: cho là cholesteatome sinh ra từ các mảnh ngoại bì của bào thai còn lại, do đó đôi khi thấy cholesteatome khu trú trong xương đá mà không có tổn thương ở xương chũm, thực ra những trường hợp này rất hiếm gặp.
+ Thuyết thứ phát.
Do viêm kích thích làm biến đổi lớp biểu mô của hòm nhĩ thành cholesteatome, hiện nay ít được nhắc tới.
Do di nhập: lớp biểu bì ở ống tai và màng nhĩ qua lỗ thủng màng nhĩ di nhập vào, sừng hoá thành cholesteatome. Do đó thường thấy cholesteatome khi thủng ở góc sau trên, màng chùng hay thủng rộng sát khung xương ở màng căng, đặc biệt khi vòi Eustachi bị tắc làm cho màng chùng bị lõm vào dễ gây nên sự di nhập.
Giải phẫu bệnh lý: Cholesteatome như một u bọc.
+ Bên ngoài là lớp vỏ khá dày, dai, màu trắng gồm 2 lớp: lớp biểu mô lát, dính sát vào lớp tổ chức liên kết, ở giữa có các tinh thể cholesterin nên thấy trắng sáng óng ánh. Người ta cho là chính lớp vỏ này ăn lấn và làm tiêu huỷ xương nên gọi là màng mái (matrice).
+ Bên trong là khối mềm, trắng như bã đậu gồm có những tế bào biểu mô lẫn với các tế bào mỡ và chất cholesterin.
Khối cholesteatome có thể khô, không mùi nhưng thường lẫn với mủ, khi đó có mùi thối khẳn.
Chẩn đoán.
Khi có cholesteatome thường thấy các triệu chứng:
+ Nghe kém rõ rệt, trong cả các trường hợp lỗ thủng ở màng nhĩ nhỏ. Nghe kém do khối cholesteatome làm cản trở dao động của chuỗi xương con hoặc làm gián đoạn sự dẫn truyền âm do các xương con bị tiêu huỷ.
+ Chảy mủ thối: trong các viêm tai, xương chũm có cholesteatome mủ có thể chảy nhiều hay ít nhưng bao giờ cũng có mùi thối khẳn, rất khó chịu. Điển hình thấy mủ lổn nhổn trắng như bã đậu, có các mảnh trắng, sáng óng ánh như xà cừ do vỏ khối cholesteatome vỡ ra, khi thả vào nước nổi vàng óng ánh như váng mỡ, thả vào dung dịch aldehyt acetic làm biến thành màu xanh.
+ Thủng góc sau trên: cholesteatome thường thấy ở các trường hợp có lỗ thủng nhỏ ở phía sau màng chùng, đặc biệt có lỗ thủng ở góc sau trên màng nhĩ: lỗ thủng ở sát khung xương, có thể ăn sâu một phần da ống tai ở rìa lỗ thủng. Lỗ thủng thường do đám mủ đặc hay vảy che lấp nên khó phát hiện.
Nếu màng nhĩ thủng rộng hay toàn bộ, bờ lỗ thủng sát khung xương, nham nhở, đáy lỗ thủng có lớp màng trắng, sáng óng ánh.
+ X-quang: trên phim Schuller hay Chaussé III có thể thấy hình ảnh cholesteatome thể hiện qua một vùng sáng không đều, lởn vởn như mây, khói, thường có hình tròn, bờ bao quanh đậm nét trên một xương chũm bị mờ đặc các thông bào.
Phần lớn các thể viêm xương chũm hồi viêm, xuất ngoại hay có các biến chứng như đã nêu đều có bệnh tích cholesteatome.
3.4. Xử trí.
Phẫu thuật: vì cholesteatome phá huỷ xương nhanh và mạnh, dễ đưa tới các biến chứng, làm suy giảm sức nghe rõ rệt, nếu phẫu thuật không lấy được hết lại tái phát rất nhanh, do đó cần làm:
+ Phẫu thuật tiệt căn: khi khối xương con đã bị huỷ hoại, khối cholesteatome có cả ở hòm nhĩ và xương chũm. Cần lưu ý: cholesteatome thường ăn lấn thành các hốc nhỏ trong xương nên khi phẫu thuật cần lấy hết lớp màng mái (vỏ cholesteatome), mở thông các hốc xương, dẫn lưu rộng.
+ Mở xương chũm phối hợp: khi khối cholesteatome khu trú. Sau khi mở sào bào thượng nhĩ lấy hết cholesteatome cần mở thêm khuyết ở thanh sau hòm nhĩ để có thể kiểm tra được hòm nhĩ vì cholesteatome thường hay có ở hòm nhĩ.
Bảo tồn: chỉ thực hiện khi khối cholesteatome khô, nhỏ, khu trú rõ.
Phải bảo đảm:
+ Lấy được hết cholesteatome qua rửa, hút, chú ý lấy hết lớp vỏ.
+ Để lỗ thủng dẫn lưu được tốt, không bị vẩy hay polyp che lấp.
+ Đốt tổ chức sùi ở da rìa lỗ thủng bằng (nitrat) bạc để đảm bảo không bị tái phát.
Viêm da thần kinh là một bệnh ngoài da mãn tính thường gặp. Đặc trưng của bệnh biểu hiện ra ngoài là: da nấm mốc như rêu, rất ngứa ngáy. Thường hay gặp nhiều ở thanh niên, trẻ thành niên. Trẻ em rất ít thấy bệnh này. Bệnh này khi bộc phát thành bệnh mãn tính chữa trị rất khó, trị lành bệnh cũng dễ tái phát.
Croton tonikensis Gagnep. Họ Khoa Học: Họ Thầu Dầu (Euphorbiaceae).
Tên Khác: Dã hoài căn, địa sâm, xuyên sâm
Mô Tả:
Cây nhỏ, cao 0,72m. Lá mọc so le nhưng gần như đối nhau, có khi mọc thành từng vòng giả 3-4 lá. Phiến dài hình mũi mác, mép nguyên, cả 2 mặt lá đều có nhiều lông tỏa tròn óng ánh. Khi phơi khô, mặt dưới lá có mầu trắng bạc, mặt trên lá có mầu đen. Cụm hoa mọc ở kẽ lá hoặc đầu cành, hoa lưỡng tính hoặc đơn tính. Hoa đực có 5 lá đài, 1-2 nhị, hoa cái cũng có 5 lá đài, 3 vòi nhụy. Quả gồm 3 mảnh vỏ, mầu hung đỏ, có lông trắng. Hạt hình trứng, có mỏ, màu nâu hung. Mùa hoa quả: tháng 5-8.
Khổ sâm là rễ khô của cây Khổ sâm.
Địa Lý:
Được trồng khắp nơi ở Trung Quốc, tại Việt Nam hiện nay còn phải nhập.
Khổ sâm
Thu Hái, Sơ Chế: Mùa xuân, thu đào hái về, cắt bỏ đầu rễ và rễ to, rửa sạch đất, phơi khô hoặc cắt thành từng miếng dày độ 0,3 – 1cm, phơi khô là được.
Bộ Phận Dùng:
Lá thu hái khi cây đang có hoa, phơi khô.
Mô Tả Dược Liệu:
Khổ Sâm hình trụ tròn dài, trên to, dưới nhỏ, thường chia thành trục, dài 10- 33cm, đường kính 1-2cm. Bên ngoài là lớp vỏ mỏng, mầu vàng nâu, thường bị nứt cuộn ra phía ngoài, dễ bóc, chỗ bị bóc vỏ mầu vàng bóng, hơi sáng, nhìn rõ vân dọc. Khổ sâm bán trên thương trường là miếng dầy hình tròn hoặc bầu dục, dầy 0,3-1cm, phần vỏ chỗ mặt cắt ngang và phần gỗ trung tâm phân từng tầng rất rõ, phần gỗ có vòng tròn rất rõ, đa số hình thành 2-4 lớp vân vòng, vân nhỏ hình hoa cúc. Loại rễ to khá gìa, thường có kẽ nứt. Chất cứng, khó bẻ gẫy, mặt gẫy mầu trắng vàng, ở giữa nhạt hơn, không mùi, vị đắng rất lâu. Loại củ dài, vỏ nhỏ, mịn, không còn đầu rễ, không có rễ tơ là loại tốt. Miếng Khổ sâm mầu trắng vàng, nguyên vẹn là loại tốt (Dược Tài Học).
Phân biệt tính chất, địa điểm:
Đây là những miếng dầy hình tròn hoặc bầu dục. Bề mặt bên ngoài có vân nhăn dọc rất rõ, vỏ thuyên mỏng, màu vàng nâu hoặc vàng xám. Phần nhiều nứt nẻ, cong ra bên ngoài, dễ bóc, chỗ bóc ra có màu trắng vàng. Mặt cắt màu trắng vàng, có tính xơ, có các đường vân và khe nứt nhỏ bé theo hình bức xạ, các vòng tuổi rõ rệt, đôi khi còn thấy các vân vòng đồng tâm. Mùi thoang thoảng, vị rất đắng. Loại nào đều con, không có bướu có tật, vỏ nhỏ, không có rễ phụ là loại tốt.
Bào Chế:
+ Dùng nước vo gạo đặc của gạo nếp ngâm 1 đêm, mùi tanh hôi nổi trên mặt nước, phải đãi lại rồi hấp 1/2 ngày, lấy ra phơi khô, thái để dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Cắt bỏ đầu rễ, rửa sạch, ngâm nước, vớt ra, sau khi thấm ẩm đều, cắt thành từng miếng, phơi khô là được (Dược Tài Học).
+ Rễ và lá có Luteolin-7-Glucoside (Chinese Hebral Medicine).
+Trong lá có các nhóm chất Flavonoid, Alcaloid và Tanin. Hàm lượng Alcaloid toàn phần là 0,310,33% (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
+ Matrine, Oxymatrine, N-Oxysophocarpine, Sophoridine (Bạch Tiết Giáng, Trung Thảo Dược Thông Báo, 1982, 13 (4): 8).
+ Kushenin (W L J và cộng sự, Chem Pharm Bull 1985, 33 (8): 3231).
+ Kuraridinol, Kurarinol, Neokurarinol, Norkurarinol, Isokurarinone, formononetin (Kyogoku K và cộng sự, Chem Pharm Bull, 1973, 21 (12): 2733).
Tác Dụng Dược Lý:
*Tác Dụng Chống Nấm: nước sắc Khổ sâm trong thực nghiệm có tác dụng kháng 1 số nấm ngoài da (Trung Dược Học).
+Tác Dụng Kháng Sinh: Khổ sâm có tác dụng kháng sinh đối với trực khuẩn lỵ đồng thời có tác dụng kháng lỵ amip, làm cho đơn bào co thành k n (Trung Dược Học).
+Tác Dụng Đối Với Ký Sinh Trùng Sốt rét: nước sắc của bài thuốc gồm Khổ sâm và vỏ Bưởi có tác dụng ức chế ký sinh trùng sốt rét mạnh trên động vật thí nghiệm được gây nhiễm sốt rét, nhưng tái phát trong thời gian 10 ngày theo dõi. Trên mô hình thực nghiệm chuột nhắt nhiễm Plasmodium Berghei và gà nhiễm Plasmodium Gallinaceum, Alcaloid chiết xuất từ Khổ sâm không thể hiện rõ tác dụng.
1 bài thuốc khác gồm lá Khổ sâm và vỏ Bưởi đào dưới dạng nước sắc và xi rô đã được thử nghiệm trên 59 bệnh nhân sốt rét và thấy thuốc có tác dụng hạ sốt, làm giảm mật độ ký sinh trùng ở bệnh nhân nhưng tác dụng yếu, không rõ rệt, đồng thời không có tác dụng phụ (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
+ Tác dụng lợi niệu: Cho thỏ uống hoặc chích dịch Khổ sâm thấy có tác dụng lợi niệu (Trung Dược Đại Từ Điển).
+ Tác dụng kháng khuẩn: Nước sắc Khổ sâm có tác dụng ức chế đối với Staphylococus aureus, lỵ trực khuẩn, trùng Amip (Trung Dược Học).
+ Tác dụng kháng ung thư: Khổ sâm có tác dụng ức chế S180 nơi chuột nhắt. Lâm sàng cho thấy Khổ sâm có hiệu quả nhất định đối với ung thư ở cổ, dạ dày, gan (Trung Dược Học).
+ Chích dịch Khổ sâm vào thỏ nhà thấy có tác dụng tê liệt trung khu thần kinh, gây nên co giật, ngưng hô hấp và tử vong (Trung Dược Học).
+Bài thuốc gồm Khổ sâm và 3 vị thuốc khác dưới dạng nước sắc để rửa âm đạo trong điều trị sa sinh dục, phối hợp với bài thuốc uống và bài thuốc đặt ở âm đạo, đạt kết quả khá tốt (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
Tính Vị:
+ Vị đắng, tính hàn (Bản Kinh).
+ Không độc (Danh Y Biệt Lục).
+ Vị rất đắng, tính rất hàn (Bản Thảo Tùng Tân).
+ Vị đắng, tính hàn (Trung Dược Đại Từ Điển).
+Vị đắng, tính hàn, không độc (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
+Vị đắng, tính lạnh (Trung Dược Học).
+Vị đắng, tính hàn (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Quy Kinh:
+ Vào Thiếu âm Thận (Trân Châu Nang).
+ Vào kinh Vị, Đại trường, Can, Thận (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).
+ Vào kinh Tâm, Phế, Thận, Đại trường (Bản Thảo Tân Biên).
+ Vào kinh Can, Thận, Đại trường, Tiểu trường (Trung Dược Đại Từ Điển).
+Vào kinh Can, Thận, Đại trường, Tiểu trường (Trung Dược Học).
+Vào kinh Tâm, Thận, Tỳ (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Tác Dụng:
+ Trục thủy, trừ ung thủng, bổ trung, minh mục, chỉ lệ (Bản Kinh).
+ Dưỡng Can Đởm khí, an ngũ tạng, định chí, ích tinh, lợi cửu khiếu, trừ phục nhiệt trường tích, chỉ khát, tỉnh rượu (Danh Y Biệt Lục).
+ Thanh nhiệt, táo thấp, sát trùng (Trung Dược Đại Từ Điển).
+Trừ thấp nhiệt, khứ phong, chỉ dưỡng (Trung Dược Học).
+Thanh hỏa, giải độc, sát trùng, khử thấp (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Chủ Trị: Trị lỵ ra máu, ghẻ lở, hắc lào, nhọt độc (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Liều Dùng:
6 – 30g.
Những cấm kỵ khi dùng thuốc:
Người nào viêm dạ dày, viêm đại tràng, viêm gan mạn tính, ăn uống giảm sút, đầy bụng đi ngoài, người tuổi cao sức suy giảm, ốm lâu ngày có thể suy yếu; người bị teo thần kinh thị lực, viêm quanh tĩnh mạch võng mạc, cao nhãn áp, đục nhân mắt, nam giới không hoạt động tình dục được, nữ giới không có mang, phải kiêng uống khổ sâm nhiều và kéo dài.
Trộn đều, uống ngày 1 thang, chia 2 lần sớm, tối. Mỗi liệu trình 30 ngày.
Chữa bệnh viêm đường ruột do nấm gây ra.
Khổ sâm thô dịch (dung dịch khổ sâm ngâm giấm)
Khổ sâm 200g, cho thêm 500ml giấm để lâu ngày, ngâm 5 ngày sau đem ra dùng. Chữa viêm da thần kinh. Lấy nước nóng rửa sạch chỗ viêm, lấy tăm quấn bông khử khuẩn chấm thuốc bôi vào chỗ viêm. Ngày bôi 2 lần: sớm, tối. Mỗi liệu trình 5 ngày.
Thấp chẩn tẩy tễ (thuốc tẩy phát ban)
Khổ sâm 60g – Bạch đầu ông 15g
Sắc 2 nước, trộn lẫn, lọc lấy nước bôi chỗ đau.
Dùng cho người bị phát ban, phụ nữ ra khí hư, ngứa âm hộ v.v…
Khứ tiết tẩy dịch (thuốc trị gầu)
Khổ sâm 15g – Hoàng bá 15g
Sắc 2 nước, trộn lẫn, gội đầu. Để trị gầu, giảm ngứa, phòng nấm đầu.
Bạch ban khang thang (thuốc bạch điến)
Khổ sâm 15g – Sà sàng tử 10g
Đương qui 10g – Thích tật lê 15g
Long đảm thảo 10g – Bạch tiên bì 10g
Xích thược 12g – Sơn chi tử 10g
Gừng tươi 3g – Cam thảo 3g
Sắc uống ngày 1 thang, chia 2 lần: sớm, tối.
Dùng cho phụ nữ ngoại âm bạch điên
Thất vị thang (thang thuốc 7 vị)
Khổ sâm 30g – Hoàng bá 30g
Bạch chỉ 10g -Hoàng liên 30g
Sà sàng tử 30g – Phèn chua 10g
Xuyên tiêu 6g
Sắc uống ngày 1 thang, chia 2 lần: sớm, tối.
Dùng cho phụ nữ bị loét cổ tử cung
Bách khổ tẩy tễ (thuốc tẩy bách bộ khổ sâm)
Bách bộ 30g – Lá hồ đào tươi 30g
Khổ sâm 30g – Ô mai 25g Sắc lấy nước rửa chỗ đau, ngày 1 thang.
Dùng cho phụ nữ bị viêm âm đạo trích trùng.
Chỉ tả tán (thuốc cầm ỉa chảy)
Khỏ sâm 3g – Xương truật lg
Trộn giấm đắp vào rốn, từ 4 – 12 giờ thay thuốc 1 lần.
Dùng cho trẻ con bị đau bụng, ỉa chảy.
Khô sâm tẩy tễ (thuốc ngứa khổ sâm)
Bách bộ 120g
Khổ sâm 120g
Ngân độc 15g Sà sàng tử 60g
Hùng hoàng 15g
Nghiền chung thành bột thô, cho vào túi vải mỏng, sắc lấy nước. Dùng khăn bông mềm chấm thuốc rửa chỗ đau. Dùng cho người bị bệnh da liễu, viêm da thần kinh, phát ban bừu dái, mẩn ngứa. Chỗ nào ngứa quá gãi sứt da, khi dùng phải thận trọng.
Khổ sâm tẩy dịch (thuốc tẩy khổ sâm)
Khổ sâm 30g – Sà sàng tử 30g
Hoa tiêu 20g – Bạch tiên bì 30g
Phòng phong 15g – Băng phiến 3g
Thấu cốt thảo 30g – Kinh giới 10g
Trừ băng phiến, các vị thuốc trên sắc chung 2 nước, lấy nước trộn lẫn, cho băng phiến vào, nhân lúc nóng, ngâm ngoại âm 20 phút, khi nước hơi nguội thì rửa vết thương. Ngày 1 thang, chia 2 lần ngâm rửa: sớm, tối.
Dùng cho phụ nữ bị bạch điến ngoại âm.
Thấp độc tẩy tễ (thuốc phát ban nặng)
Khổ sâm 6g – Xuyên tiêu 6g
Sà sàng tử 6g – Hùng hoàng 6g
Thương nhĩ tử 6g – Phèn chua 6g
Sắc 2 nước, trộn lẫn, cô đặc còn 50ml. Bôi thuốc lên chỗ đau. Ngày 2 lần. Dùng cho người bị phát ban chữa mãi không khỏi.
Khổ khô tẩy tễ (thuốc da liễu khổ sâm, khô phàn)
Khổ sâm 15g – Hoàng bá 15g
Khô phàn 15g – Sà sàng tử 15g
Sắc lấy nước rửa ngoài vết thương, ngày 1 thang.
Dùng cho phụ nữ bị da liễu ngoại âm, bị bệnh trích trùng.
Tham Khảo:
+ Huyền sâm làm sứ cho Khổ sâm. Khổ sâm ghét Bối mẫu, Thỏ ty tử, Lậu lô. Khổ sâm rất kỵ Lê lô, uống lẫn 2 thứ có thể gây chết” (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
+ Khổ sâm tuy đặt tên có chữ sâm nhưng không có tính bổ. Nha đảm tử là Khổ trân tử nhưng người ta đa số cứ lầm là hạt Khổ sâm. Khổ sâm với Hoàng liên đều là thuốc có vị đắng, tính hàn, có tác dụng tả hỏa. Khí vị của Hoàng liên thanh, trừ Tâm hỏa là chính. Khí của Khổ sâm trọc, trừ hỏa ở Tiểu trường là chính” (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Khổ sâm và Tần bì đều là những vị thuốc thanh nhiệt, táo thấp, trị kiết lỵ. Nhưng Khổ sâm khí vị đều trọc, thanh nhiệt và táo thấp mạnh hơn, lại có công dụng thông khí kết ở ngực và bụng, lợi huyết mạch, khứ phong, sát trùng. Trong điều trị thường được dùng trị bệnh ở tạng Tâm, Can, Vị, Đại trường, Bàng quang. Còn Tần bì có tác dụng Thanh nhiệt, táo thấp, yếu hơn Khổ sâm. Tần bì có tác dụng thanh Can, minh mục, tính của nó thu sáp, chỉ băng, giỏi về chỉ tả, bình suyễn, chỉ khái (Trung Dược Lâm Sàng Giám Dụng Chỉ Mê).
Bò bảy món là món ăn đặc sản xuất hiện từ thời cận đại của người Sài Gòn, cũng như phở Hà Nội, quãng thời gian từ trước hoặc sau năm 1930.
Tuy thịt bò không phải là thực phẩm quý hiếm và các món trong “Bò bảy món” là những món ăn phổ thông, nhưng được người Sài Gòn – Chợ lớn ưa thích có lẽ do chỉ từ một thứ thực phẩm mà người ta tạo dựng được một bữa ăn gồm bảy món liên tục mà càng ăn càng hấp dẫn, hứng thú cho đến món cuối cùng, và kết thúc bữa thường ăn tráng miệng bằng một trong các món bánh ngọt đã nói ở trên.
Vì vậy, kết cấu thực đơn “Bò bảy món” được coi là một nghệ thuật về ẩm thực.
Cấu tạo, cách làm hướng dẫn sau đây vừa đủ cho 4-5 người ăn/bữa.
Bánh đa gói khăn ẩm làm mềm. Sả thái mỏng trộn giấm + đường + tỏi làm chua. Dứa gọt bỏ vỏ, mắt, lõi, thái nhỏ trộn vào mắm nêm cho thêm đường + tỏi + ớt và nước chanh vắt làm trước cho ngấm. Rau ghém gồm: xà lách, hẹ, giá, thơm mùi, khế chua (hay dứa) nhặt rửa sạch vẩy ráo bầy sắp vào đĩa riêng từng cụm.
Cách làm bò nhúng giấm
Thịt + tim + lá sách thái mỏng bầy chung đĩa theo từng góc. Riêng lá sách tẩy rửa sạch, chần qua nước sôi rồi mới thái bầy đĩa, rắc ít bột canh, hạt tiêu.
Đục dừa lấy nước đổ vào xoong, chế thêm giấm + đường + nước mắm + bột canh đun sôi.
Cách ăn thịt bò bảy món
Đặt hỏa lò đun nước dừa ở giữa. Xung quanh bầy thịt, rau ghém, bánh đa, sả làm chua. Mắm nêm lấy riêng theo định suất.
Người ăn tự gắp thịt – tim – sách nhúng vào xoong giấm đang sôi, nhắc ra cuốn vào bánh đa cùng với rau ghém – sả, chấm mắm nêm. Ăn nóng. Thịt nhúng tái hay chín tùy theo ý thích mỗi người.
Cách ăn thịt bò nhúng giấm
Chú ý
Nước dừa + giấm chỉ cần đủ để nhúng thịt, cần lưu ý sao cho thịt hết thì nước nhúng cũng vừa cạn.
Xem cách làm ở món Bánh hỏi thịt nướng, là một trong “Bò bảy món”.
Chú ý
Bánh mướt cũng như bánh cuốn chay của miền Bắc. Nếu dùng bánh mướt thay bánh hỏi, cuốn bánh mướt từng cuốn nhỏ vừa gắp.
Ghim là cái xiên tre vót nhọn để xâu thịt đem nướng, gọi là lụi tre.
3. Món thứ ba
Bò rán tái
Nguyên liệu món ăn
Thịt bò nạc nõn 0,300 kg –
Gừng 1 nhánh nhỏ
Mỡ nước 2-3 thìa
Rau ghém 0,200 kg
Hành tỏi khô vài nhánh/thứ
Món chấm
Bột canh, hạt tiêu.
Cách làm thịt bò bảy món ngon hấp dẫn
Lựa thịt thăn chuột (phi-lê) lọc bỏ gân bạc nhạc, cắt miếng 4x4x1 cm, đập nhẹ làm thịt mềm hơn. Ướp kỹ
với bột canh + hạt tiêu và hành + tỏi + gừng giã nhỏ, rồi rưới ít mổ nước trộn đều. Rau ghém gồm xà lách + thơm, mùi nhặt rửa sạch vẩy ráo, bầy sẵn vào đĩa.
Lúc ăn, đun mỡ nóng già, để to lửa, bỏ từng miếng thịt vào lật nhanh tay, thịt vàng đểu cả hai phía, chín tái, lấy vào đĩa, mỡ còn lại và hành tỏi phi thơm dội lên thịt. Ăn nóng, kèm với rau ghém, chấm nước mắm giấm, ổt, tỏi.
Thái thịt ngang thớ tương đương 2x4x0,5 cm. Ướp kỹ với hành tỏi sả giã nhỏ + nước mắm + bột canh + hạt tiêu + đường và 1/2 lạc rang. Gan thái tương đương với thịt ưôp bột canh + hạt tiêu. Lạp xường thái vát mỏng to bằng miếng thịt. Hành hoa thái nhỏ xào thơm với mỡ để sẵn
Rửa sạch mỡ chài để ráo trải ra thớt cắt miếng vuông 7-8 cm. Lấy thịt + gan + lạp xương mỗi thứ một miếng để vào gói cuốn kiểu trụ tròn xếp vào vỉ (hoặc xâu vào ghim tre). Lúc ăn, đem nướng chín vàng đều trên bếp than hoa, lấy ra đĩa, rưới hành xào, rắc lạc rang, hạt tiêu. Ăn nóng, chấm nước mắm giấm tỏi, ăn kèm vói rau thơm và bánh đa nướng.
5. Món thứ năm
Chả bò hấp (chả đùm)
Nguyên liệu món ăn
Thịt bò nạc 0,300 kg
Miến 3-4 sợi
Thịt lợn xay 0,100 kg
Mộc nhĩ 1-2 tai
Mỡ phần 0,100 kg
Hành tỏi khô 1 củ/ thứ
Mỡ chài 0,050 kg
Lạc rang giã dập 2-3 thìa
Trứng vịt 1 quả
Bánh phồng tôm rán ăn kèm
Nước mắm, bột canh, hạt tiêu, đường, rau mùi.
Cách làm thịt bò bảy món
Dùng thịt bò nạc vụn băm nhuyễn bỏ vào thịt lợn xay. Mổ phần chần chín thái chỉ. Miến, mộc nhĩ ngâm rửa sạch thái vụn. Hành tỏi khô băm nhỏ.
Bỏ chung tất cả: thịt bò + thịt lợn + miến + mộc nhĩ + mổ phần + hành, tỏi khô + lạc rang vào chậu, đập trứng vào, nêm đủ nước mắm + bột canh + đường + hạt tiêu trộn đều để các thứ quánh quyện để làm nhân.
Mỡ chài rửa sạch để ráo trải ra thớt, cắt miếng theo định suất, bỏ nhân vào gói lại thành khôi tròn (có thể gói xong bỏ vào chén) đem hấp chín lấy ra. Lúc ăn, sắp mỗi viên một đĩa riêng theo từng suất, rắc rau mùi, hạt tiêu. Ăn nóng kèm với bánh phồng tôm rán hay bánh đa nướng tùy khẩu vị và sở thích.
Nếu cần thêm món chấm thì pha chế nước mắm giấm ớt như để chấm bò rán tái và bò nướng mổ chài.
6. Món thứ sáu
Bò nướng lá lốt (hoặc lá cách)
Nguyên liệu món ăn
Thịt bò nạc 0,200 kg
Thịt lợn xay 0,100 kg
Gan lợn 0,100 kg
Hành tỏi khô 1 củ/thứ
Mỡ nước 2-3 thìa
Món chấm, lá lốt
Nước mắm, bột canh, hạt tiêu, đường.
Cách làm thịt bò bảy món thơm ngon
Xem cách làm nướng thịt ở món bánh hỏi thịt nướng.
7. Món thứ bảy
Cháo bò
Nguyên liệu
Gạo tẻ 0,200 kg
Thịt bò nạc 0,200 kg
Thịt vai nạc lợn 0,100 kg
Tôm khô nõn 0,050 kg
Mỡ nước 2-3 thìa
Đường 1 thìa
Xương bò (hay lợn) 0,300 kg
Hành hoa, rau mùi 2-3 cây/thứ
Nước mắm, bột canh, hạt tiêu, mì chính.
Cách làm thịt bò bảy món thơm ngon
Xương ngâm rửa sạch, ghè vỡ bỏ vào nồi với 4,00 lít nước, nấu thành nước dùng sạch. Khi nước nổi váng béo lọc sang nồi khác đun sôi.
Vo đãi sạch gạo để ráo, rang chín với mỡ (không rang vàng) trút từ từ vào nước dùng đang sôi. Tiếp tục đun nhỏ lửa để cháo sôi lăn tăn. Tôm ngâm nở giã nhỏ. Cả hai thứ thịt băm nhỏ ướp nước mắm + bột canh + đường + hạt tiêu. Khi cháo nở rữa và sánh, nêm gia vị vừa ăn đủ ngọt. Trước lúc ăn múc cháo đang sôi đô vào thịt khuấy đều cùng với tôm nõn, xong trút lại vào xoong cháo để sôi lại thịt chín là được. Thái nhỏ hành hoa rau mùi bỏ vào bát múc cháo và rắc thêm hạt tiêu. Ăn nóng, có nước mắm để người ăn tự chế thêm.
Bạn đang có kế hoạch ăn uống hợp lý để có xương khỏe mạnh hơn? Canxi có lẽ là dưỡng chất mà bạn nghĩ đến đầu tiên. Nhưng vitamin D cũng quan trọng không kém trong việc giữ cho xương chắc khỏe và ngăn ngừa bệnh loãng xương, một căn bệnh có thể làm xương yếu và giòn.
Vitamin D giúp ruột của bạn hấp thụ canxi từ thực phẩm bạn ăn. Đảm bảo đủ cả hai dưỡng chất này có thể giúp giữ cho xương của bạn dày và mạnh.
Khác với canxi, mà bạn chỉ có thể nhận được qua thực phẩm, cơ thể bạn tự sản xuất vitamin D khi ánh sáng mặt trời chiếu vào da. Những người năng động sống ở những vùng nắng có thể nhận được ít nhất một phần vitamin D họ cần từ việc dành thời gian ở ngoài trời mỗi ngày. Nhưng ở những khu vực ít ôn hòa hơn như Minnesota, Michigan và New York, da sản xuất ít vitamin D hơn vào mùa đông, đặc biệt là nếu bạn lớn tuổi.
Vitamin D và Ánh nắng mặt trời
Lượng vitamin D mà da bạn sản xuất phụ thuộc vào nơi bạn sống, màu da của bạn sáng hay tối, và thời gian trong ngày bạn ở ngoài trời. Đối với một người có làn da rất sáng, có thể chỉ cần khoảng 15 phút, còn với người có làn da tối, có thể cần từ một đến hai giờ. Nhưng hãy cẩn thận – quá nhiều thời gian dưới ánh nắng mặt trời làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư da. Mặc dù ánh sáng mặt trời là một phần quan trọng trong việc sản xuất vitamin D của cơ thể, nhưng tốt nhất là bảo vệ da của bạn bằng quần áo và kem chống nắng nếu bạn sẽ ở ngoài trời lâu hơn vài phút.
Thực phẩm giàu Vitamin D cho bệnh loãng xương
Ngoài ánh nắng mặt trời, bạn còn có thể nhận được vitamin D từ một số thực phẩm, chẳng hạn như:
Cá béo, như cá hồi, cá ngừ và cá thu
Gan bò, phô mai và lòng đỏ trứng
Thực phẩm được bổ sung vitamin D, như sữa, nước cam và ngũ cốc
Tuy nhiên, rất khó để nhận đủ lượng vitamin D cần thiết chỉ từ thực phẩm. Các chuyên gia khuyến nghị người lớn dưới 70 tuổi nên nhận 600 đơn vị quốc tế (IU) vitamin D mỗi ngày và 800 IU cho những người từ 71 tuổi trở lên. Nếu bạn không nhận đủ vitamin D từ ánh nắng và thực phẩm, bạn có thể cần phải bổ sung thêm.
Các loại vitamin tổng hợp có thể là nguồn vitamin D. Bạn có thể uống bổ sung này cùng với bổ sung canxi hoặc riêng. Tuy nhiên, hãy lưu ý rằng nhiều loại thực phẩm chức năng có chứa vitamin D. Vì vậy, trước khi bạn uống một loại khác, hãy kiểm tra nhãn và thông báo cho bác sĩ biết bạn đang dùng gì. Lượng vitamin D quá nhiều, đặc biệt là trên 4.000 IU mỗi ngày, có thể nguy hiểm.
Nếu bạn đã bị loãng xương, hãy nhớ rằng vitamin D và canxi một mình không đủ để điều trị căn bệnh này. Bạn sẽ cần phải uống chúng cùng với các loại thuốc khác mà bác sĩ của bạn kê đơn.
Một số thực phẩm có thể làm gián đoạn khả năng lưu trữ hoặc hấp thụ canxi và vitamin D của cơ thể bạn, điều này có thể góp phần vào bệnh loãng xương khi bạn già đi.
Nguy hiểm từ chế độ ăn cho bệnh loãng xương: Muối có hại cho xương!
Muối có thể là một trở ngại lớn đối với một bộ xương chắc khỏe. Càng tiêu thụ nhiều muối, chúng ta càng mất nhiều canxi qua nước tiểu. Nếu bạn ăn quá nhiều muối, bạn có thể mất đủ canxi để xương của bạn yếu dần theo thời gian.
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng phụ nữ sau mãn kinh ăn chế độ ăn nhiều muối sẽ mất nhiều khoáng chất xương hơn so với những phụ nữ cùng độ tuổi khác.
Để bù đắp sự mất mát xương từ muối, việc hấp thụ đủ lượng canxi và vitamin D hàng ngày là rất quan trọng.
Người lớn dưới 50 tuổi cần 1,000 miligam canxi mỗi ngày – tương đương với khoảng ba ly sữa 8 ounce. Người lớn tuổi cần 1,200 miligam canxi mỗi ngày – tương đương với khoảng ba rưỡi ly sữa 8 ounce.
Trong tất cả những mối nguy hiểm đối với sức khỏe xương của bạn, muối có thể là thứ khó hạn chế nhất. Muối có mặt trong hầu hết tất cả các thực phẩm chế biến sẵn. Hãy chọn các phiên bản không có thêm muối khi có thể, và giảm bớt các thực phẩm có hàm lượng muối cao như:
Thịt chế biến, như gà tây và giăm bông, và xúc xích
Thức ăn nhanh, như pizza, burger, tacos và khoai tây chiên
Thực phẩm chế biến, bao gồm các bữa ăn đông lạnh thông thường và giảm calo
Súp và rau đóng hộp thông thường cùng với nước rau quả
Các sản phẩm nướng, bao gồm bánh mì và ngũ cốc ăn sáng
Nguy hiểm từ chế độ ăn cho bệnh loãng xương: Một số đồ uống phổ biến
Nhiều loại nước ngọt và đồ uống có ga khác chứa axit photphoric, có thể làm tăng lượng canxi mà bạn mất qua nước tiểu. Và gần như tất cả các loại nước ngọt đều thiếu canxi. Sự kết hợp này tạo ra rắc rối cho những người có nguy cơ bị loãng xương.
Nói chung, các chuyên gia dinh dưỡng khuyên nên cân bằng lượng phốt pho và canxi trong chế độ ăn uống của bạn. Nếu mức phốt pho trong chế độ ăn của cơ thể cao hơn mức canxi, cơ thể bạn sẽ rút canxi từ xương để cố gắng tự cân bằng.
Để giúp ngăn ngừa loãng xương, hãy thay vào đó thưởng thức những đồ uống sau:
8 ounce nước cam tăng cường canxi và vitamin D
Một hỗn hợp nước cam tăng cường và seltzer hoặc soda không chứa axit photphoric
Một ly sinh tố, làm từ 8 ounce sữa chua không béo, một quả chuối vừa hoặc một cốc quả mọng tươi hoặc đông lạnh, và hai viên đá, được chuẩn bị trong máy xay sinh tố hoặc máy xay thực phẩm
Sữa không béo thường hoặc sữa sô cô la
Caffeine làm rút canxi từ xương,
Nguy hiểm từ chế độ ăn cho bệnh loãng xương: Chi phí từ caffeine
Caffeine làm rút canxi từ xương, làm suy yếu chúng. Đối với mỗi ly cà phê bạn uống, bạn có thể mất khoảng 4 miligam canxi.
Đó không phải là một sự mất mát lớn như từ muối, nhưng vẫn là điều đáng lo ngại. Caffeine là một vấn đề đặc biệt đối với những người không nhận đủ canxi mỗi ngày ngay từ đầu.
Tin tốt là thêm 1-2 muỗng canh sữa vào cà phê của bạn có thể bù đắp bất kỳ sự mất mát canxi nào mà caffeine gây ra.
Cà phê là một nguồn cung cấp caffeine chính. Ví dụ, một ly cà phê 16 ounce có thể cung cấp 192 miligam caffeine. Nước ngọt có hàm lượng caffeine cao có thể chứa tới 33 miligam mỗi lon hoặc nhiều hơn.
Mặc dù trà cũng chứa caffeine, các nghiên cứu cho thấy nó không gây hại và có thể giúp cải thiện mật độ xương ở phụ nữ lớn tuổi, không phân biệt họ có thêm sữa vào đồ uống hay không. Các nhà nghiên cứu nghĩ rằng trà có chứa các hợp chất thực vật giúp bảo vệ xương của bạn.
Sẵn sàng hạn chế lượng caffeine của bạn chưa? Dưới đây là một số mẹo:
Giảm dần lượng cà phê bằng cách uống nửa ly thường và nửa ly không cafein để bắt đầu.
Tránh các đồ uống có chứa caffeine.
Chọn trà lạnh không cafein hoặc trà nóng.
Hãy chi tiền cho một ly latte không cafein và không béo để có thêm canxi.
Nguy hiểm từ chế độ ăn cho bệnh loãng xương: Chất đạm có vấn đề không?
Ý tưởng cho rằng protein, đặc biệt là protein động vật, có vấn đề với xương là một huyền thoại. Xương khoảng 50% là protein. Việc sửa chữa xương cần một nguồn cung cấp liên tục các axit amin từ chế độ ăn, là các khối xây dựng của protein trong cơ thể. Cung cấp đủ protein mỗi ngày có thể giúp ngăn ngừa loãng xương.
Lượng protein hàng ngày được đề xuất là 0.8 gram protein cho mỗi 2.2 pound cho nam và nữ trên 19 tuổi. Điều này tương đương với khoảng 55 gram protein mỗi ngày cho một người phụ nữ nặng 150 pound và khoảng 64 gram mỗi ngày cho một người đàn ông nặng 175 pound.
Để có được protein bạn cần để củng cố xương, hãy sử dụng các nguồn protein sau:
3.5 ounce cá ngừ nhẹ, đã ráo nước: 19 gram protein
3 ounce thịt gà, gà tây hoặc thăn lợn đã nấu: khoảng 20 gram
3.5 ounce cá hồi đã nấu: 25.5 gram
8 ounce sữa chua không béo: 10 gram
8 ounce sữa không béo: 8 gram
1 quả trứng vừa: 5.5 gram
Nguy hiểm từ chế độ ăn cho bệnh loãng xương: Có điều gì đó về đậu nành
Mặc dù các sản phẩm từ đậu nành như edamame, đậu hũ, tempeh và đồ uống từ đậu nành rất giàu protein xây dựng xương, nhưng chúng chứa các hợp chất thực vật có thể cản trở khả năng hấp thụ canxi.
Oxalat trong đậu nành có thể liên kết với canxi và làm cho nó không có sẵn cho cơ thể. Các vấn đề có thể xảy ra khi bạn ăn nhiều đậu nành nhưng không tiêu thụ đủ canxi.
Nghiên cứu về đậu nành có kết quả trái chiều. Một số nghiên cứu nhỏ cho thấy đậu nành có thể gây ra vấn đề với sức mạnh xương; trong khi đó, một số nghiên cứu khác cho thấy loại đậu nành đúng (với isoflavone đậu nành genistein và daidzein) bảo vệ sức mạnh xương. Để tránh bất kỳ rủi ro nào, hãy chắc chắn rằng bạn nhận đủ canxi trong chế độ ăn của mình, chủ yếu từ thực phẩm từ sữa hoặc thực phẩm bổ sung.
Các sản phẩm đậu nành tăng cường canxi có thể không cung cấp nhiều khoáng chất như bạn nghĩ. Các nhà nghiên cứu đã khảo sát các đồ uống bổ sung canxi phát hiện rằng phần lớn canxi trong đậu nành và các đồ uống khác đã lắng xuống đáy container và không thể trộn trở lại vào đồ uống, ngay cả khi lắc.
Tuy nhiên, các sản phẩm đậu nành tăng cường canxi, chẳng hạn như đậu hũ làm từ canxi, cung cấp một lượng lớn chất dinh dưỡng xây dựng xương. Nếu chế độ ăn của bạn nhiều đậu nành, hãy chắc chắn rằng bạn cũng nhận ít nhất 1,000 miligam canxi mỗi ngày.
Phù phổi cấp là một cấp cứu nội khoa đe dọa tính mạng bệnh nhân. Biểu hiện lâm sàng là suy tim trái và suy hô hấp. Suy thất trái gây tăng áp lực nhĩ trái, tăng áp lực tĩnh mạch và mao mạch phổi làm tăng tính thấm mao mạch hậu quả thấm dịch vào phế nang cản trở sự trao đổi khí, suy hô hấp.
Phi Dương là huyệt Lạc, ở đây có ý chỉ khí của túc Thái dương Bàng Quang bay lên hướng nhập vào túc Thiếu âm Thận, vì vậy gọi là Phi Dương (Trung Y Cương Mục).
Tên Khác:
Quyết Dương.
Xuất Xứ:
Thiên ‘Kinh Mạch’ (Linh khu.10).
Đặc Tính:
Huyệt thứ 58 của kinh Bàng Quang.
Huyệt Lạc của kinh Bàng Quang.
Vị Trí huyệt:
Đỉnh ngoài mắt cá chân đo lên 7 thốn, ngang huyệt Thừa Sơn 1 thốn. Nơi tiếp giáp giữa phần thịt và phần gân của bờ ngoài cơ sinh đôi ngoài.
Giải Phẫu:
Dưới da là bờ ngoài chỗ tiếp nối giữa phần thịt với phần gân của cơ sinh đôi ngoài, cơ dép, cơ gấp dài ngón chân cái, cơ chày sau, màng gian côt.
Thần kinh vận động cơ là các nhánh dây thần kinh chày sau.
Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh S2 hoặc L5.
Tác Dụng:
Khu phong tà ở kinh Thái Dương, tán phong thấp ở kinh lạc.
Chủ Trị:
Trị vùng lưng và chân đau, khớp viêm do phong thấp, Bàng Quang viêm, Thận viêm, động kinh.
Phối Huyệt:
1. Phối Thừa Phò (Bàng quang.36) + Uỷ Trung (Bàng quang.40) trị trĩ (Giáp Ất Kinh).
2. Phối Hoạt Nhục Môn (Vị 24) + Thái Ất (Vị 23) trị điên cuồng, nôn mửa (Thiên Kim Phương ).
3. Phối Dũng Tuyền (Th.1) + Hàm Yến (Đ.4) + Hậu Đỉnh (Đc19) trị gáy và đỉnh đầu đau (Thiên Kim Phương ).
4. Phối Phế Du (Bàng quang.13) trị chóng mặt (Tư Sinh Kinh ).
5. Phối Chi Chánh (Tiểu trường.7) trị chóng mặt (Tư Sinh Kinh).
6. Phối Dương Cốc (Tiểu trường.5) trị chóng mặt (Tư Sinh Kinh).
7. Phối Bộc Tham (Bàng quang.61) + Hoàn Cốt (Đ.12) + Phục Lưu (Th.7) + Túc Tam Lý (Vị 36) + Xung Dương (Vị 43) trị chân teo, chân mất cảm giác, rơi dép mà không biết (Tư Sinh Kinh).
8. Phối Hoạt Nhục Môn (Vị 24) + Thái Ất (Vị 23) trị điên cuồng le lưỡi (Phổ Tế Phương).
9. Phối Hoàn Khiêu (Đ.30) + Quan Nguyên Du (Bàng quang.26) + Tam Âm Giao (Tỳ 6) + Thận Du (Bàng quang.23) + Túc Tam Lý (Vị 36) trị lưng và đùi đau, chân tê dại, mất cảm giác (Châm Cứu Học Giản Biên).
10. Phối Âm Lăng Tuyền (Tỳ 9) + Bàng Quang Du (Bàng quang.28) + Trung Cực (Nh.3) trị Bàng Quang viêm (Châm Cứu Học Thượng Hải).
– Thiên ‘Hàn Nhiệt Bệnh’ ghi: “Da bị hàn nhiệt, không thể nằm xuống được, lông tóc khô, mũi khô, mồ hôi không ra, Thủ huyệt Lạc của kinh Tam dương (túc Thái Dương – huyệt Phi Dương) nhằm bổ cho kinh Thủ Thái Âm (Linh khu.21, 1)
Bệnh Giun đũa là bệnh đường ruột do Ascaris Lumbricoides rất phổ biến, có tính chất dễ lây lan, bệnh thoáng qua trong giai đoạn xâm nhập (Loeffer), triệu chứng không đặc hiệu trong giai đoạn giun trưởng thành với các hội chứng đường ruột, “Hội chứng giun”, triệu chứng nhiễm độc. Các biến chứng ngoại khoa ít gặp, nhưng cần sự can thiệp khẩn cấp.
Ascaris Lumbricoides là một loại giun tròn lớn, màu trắng hồng, con đực dài 20-25cm, đuôi cong, có gai giao hợp. Con cái dài 20-30 cm, đuôi thẳng.
Giun trưởng thành sống ở ruột non, hấp thụ các thức ăn có trong lòng ruột (carbonhydrat, protein…). Giun cái đẻ khoảng 200.000 trứng/ ngày. Trứng theo phân ra ngoài mới chỉ có một đám tế bào phôi. Sau 2-4 tuần ở ngoại cảnh (đất, rau, nước, trong trứng đã có ấu trùng). Khi được nuốt vào ruột non, trứng nở ra ấu trùng; ấu trùng chui vào vách ruột theo máu lên gan, từ đó đến phổi, ấu trùng ở phổi khoảng 1 tuần rồi theo tiểu phế quản, đi lên phế quản và được nuốt xuống thực quản, rồi định vị ở ruột non. Giun trưởng thành sau 1 tháng, nhưng phải thêm 1 tháng nữa mới bắt đầu đẻ trứng.
Giun sống được 12-18 tháng.
DỊCH TỄ
Bệnh giun đũa gặp ở khắp nơi. Trứng giun đũa được thải ra ngoài với số lượng lớn, vỏ trứng dầy và bền vững với nhiều tác nhân lý hoá, trứng giun đũa sống được nhiều tháng cho đến 6 năm ở ngoại cảnh nhất là những nơi sử dụng phân người để bón cây ( ở Việt Nam : miền Bắc 70-80%, miền Nam 18-35%).
Người ta thường nhiễm giun là do ăn rau sống có lẫn trứng hoặc uống nước không đun sôi.
BỆNH SINH
Ấu trùng giun thường không gây thiệt hại gì cho gan. Ở phổi, ấu trùng to hơn, phá vỡ vách huyết quản để vào phế nang và tiểu phế quản gây xuất huyết và viêm phổi. Một số người bị dị ứng với ấu trùng.
Giun trưởng thành trong ruột có thể gây các tổn thương cơ học như làm trầy xước niêm mạc, tắc nghẽn lòng ruột, giun chui lên ống mật chủ, ống tụỵ hoặc xuyên thủng ruột, cũng như bò lên thực quản. Nó có thể tước đoạt thức ăn của ký chủ. Các chất thải ra của giun sống hoặc do xác giun rữa nát có thể ngấm vào máu gây hiện tượng nhiễm độc và dị ứng.
TRIỆU CHỨNG
Giai đoạn ấu trùng
Hội chứng Loeffer: ( Từ ngày 3-4 đến 10-15 sau khi nuốt trứng):
Sốt có thể đến 39-40°C.
Khó thở dạng hen
Tăng bạch cầu toan tính trong máu đến 20-40%.
Đôi khi có nổi mề đay, phù.
quang có hình ảnh thâm nhiễm phổi nhất thời, hình ảnh đó biến mất sau 1 tuần.
Giai đoạn giun trưởng thành: (Từ tuần lễ thứ 3 trở đi).
Triệu chứng đường ruột:
Đau mơ hồ quanh rốn.
Có thể ăn chậm tiêu, tiêu chảy.
Xen kẽ táo bón, buồn nôn.
Hội chứng giun: Ho, chảy nước bọt, co giật cơ, vẻ mặt buồn bã, sốt nhẹ.
Triệu chứng nhiễm độc: (Toxemia)
Khó ngủ, vật vã.
Biểu hiện giống viêm màng não, liệt chi dưới.
Ngứa, phù Quink, nổi mẩn đỏ da. –
Biến chứng
Tắc ruột bởi búi giun.
Xoắn ruột.
Lồng ruột.
Thoát vị bẹn.
Giun chui ống mật.
Giun chui ông tuỵ.
Giun gây viêm ruột thừa.
Giun làm thủng ruột dẫn đến viêm phúc mạc.
Giun chui ngược lên thực quản, phế quản.
CHẨN ĐOÁN
Giai đoạn ấu trùng: Dựa vào:
Gia tăng bạch cầu toan tính trong máu.
Sự thay đổi nhanh của phim X quang phổi.
Giai đoạn trưởng thành
Từ tuần lễ thứ 3 đến thứ 8:
Giun trưởng thành nhưng chưa đẻ trứng, xét nghiệm phân âm. tính, bạch cầu toan tính giảm từ 20-40% xuống dần đến 6-7%.
Từ tuần lễ thứ 9 trở đi:Xét nghiệm tìm trứng trong phân rất dễ dàng.
ĐIỀU TRỊ
Giai đoạn ấu trùng: Không có điều trị đặc hiệu.
Giai đoạn trưởng thành
Có thể dùng thuốc xổ giun từ tuần lễ thứ 3 trở đi:
Piperazin dưới dạng sirô citrat hay hydrat piperazin 50mg/kg/ ngày trong 5- 7 ngày, hay dạng sebacat piperazin liều 50mg/kg/ ngày trong 2 ngày.
Levamisol 3 mg/kg liều duy nhất.
Pyrantel pamoat 10mg/kg liều duy nhất.
Mebendazol 100 mg X 2 lần/ ngày trong 3 ngày.
Albendazol 400 mg ( người lốn) hay 200 mg (trẻ em) liều duy nhất.
Can thiệp ngoại khoa khẩn cấp:
Cho các trường hợp:
Tắc ruột.
Viêm ruột thừa.
Viêm tuỵ cấp.
Vàng da do tắc ống mật chủ.
DỰ PHÒNG VÀ CHĂM SÓC
Dự phòng
Điều trị hàng loạt để giảm số lượng người mang ký sinh trùng.
Quản lý phân bằng các loại hcí xí hợp tiêu chuẩn vệ sinh, không sử dụng phân tươi để bón cây.
Làm sạch nước uống.
Vệ sinh cá nhân, vệ sinh thực phẩm.
Chăm sóc bệnh nhân
Với các người sổ giun:
Chăm sóc chính là giúp bệnh nhân xổ sạch giun và hạn chế các phản ứng phụ do thuốc, cũng như tránh các trường hợp chống chỉ định thuốc (ví dụ tránh dùng Vemox, Zentel cho phụ nữ có thai…).
Với các người cần can thiệp ngoại khoa:
Chăm sóc, điều dưỡng ở đây nằm trong chăm sóc điều dưỡng chung tiền phẫu, hậu phẫu của các bệnh cảnh ngoại khoa ây (tắc ruột, viêm ruột thừa, viêm tuy cấp, tắc ống mật chủ…)
Adrenaclick là một thiết bị tiêm tự động, có thể sử dụng một lần, chứa epinephrine, được sử dụng để điều trị các tình huống khẩn cấp dị ứng đe dọa đến tính mạng, bao gồm cả sốc phản vệ, cho những người có nguy cơ hoặc có tiền sử gặp phải các tình huống khẩn cấp dị ứng nghiêm trọng. Mỗi thiết bị chứa một liều đơn của epinephrine.
Adrenaclick được sử dụng để tiêm ngay lập tức cho bản thân (hoặc người chăm sóc) và không thay thế cho việc chăm sóc y tế khẩn cấp. Bạn nên nhận sự trợ giúp y tế khẩn cấp ngay lập tức sau khi sử dụng Adrenaclick.
Adrenaclick chỉ dành cho những người đã được nhà cung cấp dịch vụ y tế kê đơn thuốc này.
Adrenaclick 0.3 mg được sử dụng cho bệnh nhân nặng từ 30 kg (66 pounds) trở lên.
Adrenaclick 0.15 mg dành cho bệnh nhân nặng khoảng từ 15 đến 30 kg (33 đến 66 pounds).
Chưa biết Adrenaclick có an toàn và hiệu quả cho trẻ em nặng dưới 15 kg (33 pounds) hay không.
Tác dụng phụ của Adrenaclick:
Adrenaclick có thể gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng.
Adrenaclick chỉ nên được tiêm vào giữa đùi ngoài (đùi trên). Không tiêm Adrenaclick vào:
tĩnh mạch
mông
ngón tay, ngón chân, bàn tay hoặc bàn chân
Nếu bạn vô tình tiêm Adrenaclick vào bất kỳ phần nào khác trên cơ thể, hãy đến ngay phòng cấp cứu gần nhất. Hãy cho nhà cung cấp dịch vụ y tế biết bạn đã tiêm ở đâu trên cơ thể.
Hiếm khi, những người đã sử dụng Adrenaclick có thể phát triển nhiễm trùng tại vị trí tiêm trong vài ngày sau khi tiêm. Một số nhiễm trùng này có thể nghiêm trọng. Gọi ngay cho nhà cung cấp dịch vụ y tế của bạn nếu bạn có bất kỳ dấu hiệu nào sau đây tại vị trí tiêm:
Đỏ không biến mất
Sưng
Nhạy cảm
Vùng đó cảm thấy ấm khi chạm vào
Các vết cắt trên da, kim tiêm cong và kim tiêm vẫn còn trong da sau khi tiêm đã xảy ra ở những trẻ nhỏ không hợp tác và đá hoặc di chuyển trong quá trình tiêm. Nếu bạn tiêm cho một trẻ nhỏ bằng Adrenaclick, hãy giữ chân trẻ chắc chắn trước và trong khi tiêm để tránh chấn thương. Hãy nhờ nhà cung cấp dịch vụ y tế của bạn chỉ cho bạn cách giữ chân của trẻ nhỏ đúng cách trong quá trình tiêm.
Nếu bạn có một số tình trạng y tế nhất định, hoặc uống một số loại thuốc nhất định, tình trạng của bạn có thể xấu đi hoặc bạn có thể gặp phải nhiều tác dụng phụ hơn hoặc kéo dài hơn khi sử dụng Adrenaclick. Hãy thảo luận với nhà cung cấp dịch vụ y tế của bạn về tất cả các tình trạng y tế của bạn.
Tác dụng phụ phổ biến của Adrenaclick bao gồm:
Nhịp tim nhanh, không đều hoặc “đập mạnh”
Đổ mồ hôi
Đau đầu
Yếu ớt
Run rẩy
Da xanh xao
Cảm giác phấn khích quá mức, lo lắng hoặc lo âu
Chóng mặt
Buồn nôn và nôn
Vấn đề về hô hấp
Các tác dụng phụ này có thể giảm bớt khi nghỉ ngơi. Hãy cho nhà cung cấp dịch vụ y tế của bạn biết nếu bạn có bất kỳ tác dụng phụ nào gây khó chịu hoặc không biến mất.
Đây không phải là tất cả các tác dụng phụ có thể xảy ra của Adrenaclick. Để biết thêm thông tin, hãy hỏi nhà cung cấp dịch vụ y tế hoặc dược sĩ của bạn.
Liều lượng của Adrenaclick là gì?
Liều lượng khuyến cáo theo trọng lượng cơ thể của bệnh nhân:
Bệnh nhân từ 30 kg (khoảng 66 pounds) trở lên: 0.3 mg
Bệnh nhân từ 15 kg đến 30 kg (33 pounds đến 66 pounds): 0.15 mg
Hướng dẫn sử dụng:
Tiêm Adrenaclick liều đơn qua đường bắp hoặc dưới da vào phần bên ngoài của đùi, có thể qua quần áo nếu cần thiết. Không tiêm vào tĩnh mạch, không tiêm vào mông, ngón tay, bàn tay hoặc bàn chân.
Hướng dẫn cho những người chăm sóc trẻ nhỏ được kê đơn Adrenaclick, những trẻ có thể không hợp tác và đá hoặc di chuyển trong quá trình tiêm, cần giữ chân trẻ chắc chắn và hạn chế di chuyển trước và trong khi tiêm.
Mỗi Adrenaclick là một liều tiêm epinephrine dùng một lần. Vì liều lượng epinephrine được cung cấp từ Adrenaclick là cố định, nên nên xem xét việc sử dụng các hình thức epinephrine tiêm khác nếu liều thấp hơn 0.15 mg là cần thiết.
Trong trường hợp sốc phản vệ nặng kéo dài, có thể cần tiêm lại với Adrenaclick bổ sung. Nhiều hơn hai liều liên tiếp epinephrine chỉ nên được sử dụng dưới sự giám sát y tế trực tiếp.
Giải pháp epinephrine trong cửa sổ quan sát của Adrenaclick cần được kiểm tra bằng mắt để phát hiện các hạt lạ và sự đổi màu.
Tương tác thuốc với Adrenaclick:
Glycosides tim, thuốc lợi tiểu và thuốc chống loạn nhịp:
Bệnh nhân sử dụng epinephrine trong khi đang dùng glycosides tim, thuốc lợi tiểu hoặc thuốc chống loạn nhịp nên được theo dõi cẩn thận để phát hiện sự phát triển của loạn nhịp tim.
Thuốc chống trầm cảm, ức chế monoamine oxidase, levothyroxine và thuốc kháng histamine:
Tác dụng của epinephrine có thể bị tăng cường bởi thuốc chống trầm cảm ba vòng, ức chế monoamine oxidase, levothyroxine sodium và một số thuốc kháng histamine, đặc biệt là chlorpheniramine, tripelennamine và diphenhydramine.
Thuốc chẹn beta-adrenergic:
Tác dụng kích thích tim và giãn phế quản của epinephrine bị đối kháng bởi các thuốc chẹn beta-adrenergic, như propranolol.
Thuốc chẹn alpha-adrenergic:
Tác dụng co mạch và tăng huyết áp của epinephrine bị đối kháng bởi các thuốc chẹn alpha-adrenergic, như phentolamine.
Alkaloid ergot:
Alkaloid ergot cũng có thể đảo ngược các tác dụng làm tăng huyết áp của epinephrine.
Adrenaclick có an toàn khi sử dụng trong thời kỳ mang thai hoặc cho con bú không?
Chưa có dữ liệu về việc sử dụng Adrenaclick ở phụ nữ mang thai để đánh giá rủi ro liên quan đến thuốc đối với các kết quả phát triển bất lợi.
Epinephrine là thuốc hàng đầu được lựa chọn để điều trị sốc phản vệ trong thời kỳ mang thai ở người.
Epinephrine nên được sử dụng để điều trị sốc phản vệ trong thời kỳ mang thai theo cách giống như ở bệnh nhân không mang thai.
Chưa có dữ liệu về sự hiện diện của epinephrine trong sữa mẹ, hoặc tác động của epinephrine đối với trẻ bú mẹ hoặc sản xuất sữa.
Epinephrine là thuốc hàng đầu được lựa chọn để điều trị sốc phản vệ; nó nên được sử dụng theo cùng một cách ở bệnh nhân đang cho con bú và không cho con bú.
Tóm tắt:
Adrenaclick là một thiết bị tiêm tự động, có thể sử dụng một lần, được sử dụng để điều trị các tình huống khẩn cấp dị ứng đe dọa đến tính mạng, bao gồm cả sốc phản vệ, cho những người có nguy cơ hoặc có tiền sử gặp phải các tình huống khẩn cấp dị ứng nghiêm trọng. Các tác dụng phụ nghiêm trọng của Adrenaclick bao gồm phản ứng dị ứng và (hiếm khi) nhiễm trùng tại vị trí tiêm. Adrenaclick chỉ nên được tiêm vào giữa đùi ngoài (đùi trên). Không tiêm Adrenaclick vào tĩnh mạch, mông, ngón tay, ngón chân, bàn tay hoặc bàn chân
Vỡ một phồng động mạch bẩm sinh: là nguyên nhân hay gặp nhất (90% các trường hợp). Phồng động mạch thường ở các động mạch của đa giác Willis, hoặc ở vài cm đầu tiên của các nhánh của đa giác này. Các typ vỡ phồng động mạch:
Vỡ túi phồng: xuất hiện hội chứng màng não với cường độ thay đổi và những rối loạn tri thức cũng thay đổi tuỳ theo tầm quan trọng của chảy máu.
Nứt túi phồng: máu từ các túi phồng động mạch đi vào khoang dưới nhện không tạo thành lực. Triệu chứng sẽ là: nhức đầu dữ dội, có hoặc không buồn nôn và tri thức bình thường.
Vỡ tung túi phồng: máu tràn ở ạt vào khoang dưới nhện ở nền sọ, vào hệ thống các não thất, vào mô não hoặc vào cả ba nơi. Có thể gây đột tử.
Vỡ phồng động mạch tự phát xảy ra trung bình ở tuổi 40, với những trường hợp cực sớm hoặc cực muộn kể từ tuổi trẻ em tới tuổi già. Vỡ hay xảy ra hơn trong những hoàn cảnh gây tăng huyết áp động mạch (như trong khi đang cúi hoặc ưỡn thân người, trong khi rặn lúc đại tiện, ho, giao hợp, V..V…). Bệnh nhân có thể sống được là nhò cục máu động bịt kín chỗ vỡ ở đáy của túi phồng. Chảy máu lại có thể do áp lực va đập của dòng máu vào cục máu đông làm cho nó bong ra (khi chuyển bệnh nhân bằng máy bay trực thăng đến cơ sở phẫu thuật thần kinh có thể nguy hiểm vì lý do này). Không hiếm trường hợp tái phát hoặc sau 2 đến 3 tuần, hoặc muộn hơn. Phồng động mạch có thể làm mòn xương sọ, nhất là ở hố yên (thân xương bướm) (chụp X quang cho hình ảnh điển hình).
Vỡ một u mạch máu: những u mạch máu thường hay khu trú ở vùng đỉnh-chẩm hơn các vùng khác, và hay được hình thành bởi những mạch có cấu trúc động-tĩnh mạch. Khối u mạch máu thường kèm theo cơn động kinh Bravais-Jackson, và vỡ u thường xảy ra trước 40 tuổi. Trường hợp ngoại lệ xảy ra khi u mạch máu nằm trong phức hợp bệnh u mạch máu phức tạp, ví dụ hội chứng Sturge-Weber, hoặc bệnh u mạch máu von Hippel-Lindau.
Nếu không có phồng động mạch bẩm sinh, thì bệnh xơ cứng động mạch hoặc tăng huyết áp động mạch thường không phải là nguyên nhân gây ra chảy máu dưới màng nhện, vì vỡ động mạch bị xơ vữa chỉ là trường hợp cực kỳ hiếm hoi.
NHỮNG THỂ THỨ PHÁT, do những trường hợp sau:
Chấn thương sọ: gây ra tổn thương trực tiếp tới một động mạch, hoặc làm vỡ lỗ rò giữa động mạch cảnh trong và xoang tĩnh mạch hang sau chấn thương.
Hội chứng chảy máu: ban xuất huyết giảm tiểu cầu, bệnh ưa chảy máu, bệnh bạch cầu.
Điều trị bằng các thuốc chống đông máu.
Viêm màng não, nhất là lao màng não, viêm não, u não.
Những bệnh nhiễm khuẩn: nghẽn mạch nhiễm khuẩn có thể làm yếu thành của động mạch từ đó sinh ra phồng động mạch nấm, có thể xuất hiện trong những trường hợp sau: bệnh viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, bệnh sốt thương hàn, những bệnh sốt phát ban, bệnh do brucella, bệnh do xoắn khuẩn leptospira.
Nhiễm độc (chì, arsen).
Cảm nóng (say nắng, say nóng): là yếu tố phát động.
Triệu chứng: trong những thể tự phát, bệnh nhân có thể ngã ra đất trong khi đang hoạt động, thường là trong lúc đang gắng sức làm một việc gì đó. Đôi khi, có các tiền triệu như chóng mặt. Mức độ nặng nhẹ của bệnh cảnh lâm sàng phụ thuộc vào kiểu vỡ mạch máu.
NHỨC ĐẦU: thường dữ dội, như dao đâm ở vùng chẩm, mức độ đau đạt tới đỉnh điểm sau một vài phút, đôi khi kèm theo nôn.
MẤT TRI THỨC (bất tỉnh): hoặc chỉ ngủ lơ mơ.
HỘI CHỨNG MÀNG NÃO: cứng gáy, dấu hiệu Kernig, nôn, tăng cảm giác ở da, sợ ánh sáng, đôi khi mê sảng (màng não bị kích thích bởi máu thoát ra ngoài mạch máu).
CÁC DẤU HIỆU VỎ NÃO BỊ TÁC ĐỘNG: tăng phản xạ gân, đôi khi có dấu hiệu Babinski cả hai bên, và liệt nhẹ nửa người. Chóng mặt, ý thức u ám, xen kẽ với những cơn kích động hoặc co giật. Diễn biến có thể tới hôn mê với những rối loạn thần kinh thực vật đe doạ sinh mạng bệnh nhân.
TĂNG THÂN NHIỆT: tới 38°-39°C, đôi khi kết hợp với nhịp tim chậm tương đối (những trung tâm điều hoà nhiệt bị tác động).
Xét nghiệm cận lâm sàng
– Dịch não tuỷ: có máu hoà lẫn đều (nếu lấy dịch lần lượt vào ba Ống nghiệm khác nhau thì dịch trong các ống nghiệm đều có màu đỏ như nhau, điều này cho phép phân biệt chảy máu dưới màng nhện với chảy máu tại chỗ do chọc dò tủy sống). Dịch não tủy không thể đông được, và hồng cầu sẽ lắng xuống đáy ống nghiệm mà không thành cục máu đông. Sau khi ly tâm thì dịch nổi bên trên sẽ trắng ra nếu chảy máu dưới màng nhện mới xảy ra, nhưng sẽ có màu hồng hoặc vàng (sắc vàng) nếu chảy máu xảy ra đã vài ngày. Tăng protein trong dịch não tuỷ. Chỉ được chỉ định chọc dò tủy sống thắt lưng khi chụp cắt lớp vi tính vẫn không chẩn đoán được bệnh và phải chắc chắn không có dấu hiệu của khối u trong hộp sọ, hoặc dấu hiệu nghẹt hố sọ sau.
Máu:tăng bạch cầu và tăng glucose huyết nhưng không nhất thiết.
Nước tiểu:albumin niệu, glucose niệu.
Xét nghiệm bổ sung
Chụp cắt lớp vi tính(chụp quét): thấy được máu trong khoang dưới nhện trong 75% trường hợp, nếu tiến hành chụp trong vòng 72 giờ đầu tiên sau khi chảy máu, và gây ra dấu hiệu ứ nước não (não úng thuỷ) cấp tính ngẫu nhiên. Có thể phát hiện những dị dạng mạch máu bằng cách chụp với chất cản quang.
Chụp động mạch não: cóthể phát hiện được một bất thường mạch máu.
Soi đáy mắt:có khả năng thấy xuất huyết hoặc u mạch máu võng mạc.
Điện tâm đồ:có thể thấy những biến đổi ở đoạn S-T, phức hợp QRS giãn rộng và khoảng Q-T dài ra, tuy không bị thiếu máu cơ tim.
Biến chứng
Co thắt mạch máu não:xuất hiện từ 7-10 ngày sau khi chảy máu dưới màng nhện và xảy ra ở toàn bộ vùng cấp máu của động mạch có phồng bị vỡ. Co thắt mạch máu gây ra suy giảm thần kinh khác với những suy giảm ban đầu và thường là nguyên nhân gây tử vong muộn. Biến đổi thần kinh này có thể hết đi sau một vài ngày hoặc để lại di chứng vĩnh viễn.
Tăng huyết áp nội sọ và thuỷ thủng não lưu thông:hình thành từ 1 đến 3 tuần sau khi chảy máu dưới màng nhện và biểu hiện bởi những rối loạn tri thức và đôi khi bởi các dấu hiệu tăng áp lực dịch não tuỷ. Thường tình trạng này thuyên giảm tự phát, nhưng trong trường hợp thuỷ thũng não tiến triển có hôn mê thì vẫn phải chỉ định phẫu thuật dẫn lưu.
Chảy máu lại:xảy ra vào những tháng tiếp sau lần chảy máu đầu tiên trong 20-30% số trường hợp. Tỷ lệ tử vong cao.
Những biến chứng khác:viêm tĩnh mạch huyết khối với nghẽn mạch phổi, loạn nhịp tim, hội chứng chế tiết hormon chống đái tháo không thích đáng.
Chẩn đoán phân biệt
Xuất huyết não: hôn mê sâu hơn, có những dấu hiệu thần kinh khu trú rõ nét hơn, bệnh nhân bị tăng huyết áp từ trước. Có những trường hợp vừa xuất huyết não vừa chảy máu dưới màng nhện.
Viêm màng não: chẩn đoán bằng xét nghiệm dịch não tuỷ.
Nhồi máu cơ tim kèm với hôn mê: chẩn đoán đôi khi khó khăn vào lúc bắt đầu.
Tiên lượng
Uớc lượng tỷ lệ tử vong v5 phồng động mạch não là 20% trong 24 giờ đầu. Chảy máu lại là nguyên nhân hay gặp gây ra tử vong và có thể xảy ra rất muộn, có khi vài năm sau lần chảy máu đầu tiên. Thường để lại những di chứng khác nhau: nhức đầu thường xuyên, chóng mặt, cơn động kinh, rối loạn trí tuệ và tính cách.
Điều trị
ĐIỀU TRỊ TRIỆU CHỨNG: trong trường hợp bị kích động thì chườm túi đá, cho diazepam hoặc chloral, không cho morphin (vì nguy hiểm ức chế hô hấp) , nghỉ tuyệt đõì tại giường trong vòng một tuần, cho thuốc nhuận tràng để tránh bị táo bón, thông khí nhân tạo (thở máy) cho những bệnh nhân bị hôn mê, theo dõi và kiểm soát huyết áp (cho thuốc hạ huyết áp nếu thấy cần thiết).
PHẪU THUẬT: ngày nay, người ta có khuynh hướng can thiệp sớm trong vòng 2-3 ngày đầu tiên sau khi xuất hiện những triệu chứng vỡ phồng động mạch có đường vào tới nơi bị vỡ. Sau khi định vị trí bằng chụp động mạch, thì phương pháp thông dụng nhất là kẹp phồng động mạch. Nếu là u mạch máu, thì phẫu thuật chỉ có khả năng thực hiện được- trong một số trường hợp, nhưng di chứng để lại thường nặng nề nếu khối u nằm ở bên bán cầu trội của đại não.
Chọn thời điểm phẫu thuật là tuỳ theo từng mỗi trường hợp cá biệt. Phẫu thuật trên một bệnh nhân đang hôn mê thường đưa lại tỷ lệ tử vong rất cao.
Có thể có những trường hợp cần phải phẫu thuật cấp cứu để lấy đi khối máu tụ dưới màng cứng và dẫn lưu úng thuỷ não tiến triển nhanh.
THUỐC CHẸN KÊNH CALCI: để phòng ngừa những di chứng do thiếu máu não vì co mạch máu. Người ta đề nghị truyền tĩnh mạch nimodipin với tốc độ 1 mg / giờ trong hai giờ đầu tiên, sau đó 2 mg/ giờ trong suốt 14 ngày đầu tiên. Tiếp sau là cho uống liều 60 mg / ngày tới tận ngày thứ 21.
Chống chỉ định những thuốc kháng đông máu.
GHI CHÚ: Chảy máu dưới màng nhện tủy sống hầu như bao giờ cũng do nguyên nhân chấn thương, nhưng đôi khi cũng có thể do bất thường mạch máu (nhất là u mạch máu, hiếm hơn mối do phồng động mạch) hoặc do khối u (u biểu mô ống nội tuỷ, u nguyên bào mạch máu). Trong những trường hợp này thường có triệu chứng đau, và các dấu hiệu cứng gáy, cứng cột sống. Dịch não tủy có máu. Chẩn đoán được khẳng định nhờ chụp động mạch chọn lọc những nhánh ngực của động mạch chủ. Điều trị phẫu thuật bằng các vi kỹ thuật (vi phẫu thuật) chuyên sâu có thể có hiệu quả.
Nói hư yếu chủ yếu là nói khí của trung tiêu hư yếu mà sinh ra đau, đặc trưng là lúc đau phần nhiều khi đói bụng (đói bụng đau còn có nguyên nhân do loét, khi đói axit Clo Hydric trực tiếp thấm vào vết loét) hễ được ăn hoặc chườm nóng là đỡ đau, sợ lạnh thích ấm, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi mỏng, mạch tượng trầm tế vô lực (không có sức đập) hoặc hư huyền. Lúc đau nhẹ lúc đau nặng vài năm không khỏi, nặng hơn thì còn xuất hiện nôn ra máu, đại tiện ra máu.
Chứng này không riêng tại dạ dày đâu còn quan hệ mật thiết với lách (tỳ) nữa. Bởi vì dạ dày chủ giữ việc nhận thức ăn, tỳ chủ việc vận chuyển thức ăn, vị nên giáng xuống, tỳ nên thăng lên, vị thì thích mát, tỳ lại thích ấm, vị nên thông tỳ nên giữ. Tỳ và vị tác dụng tuy không giống nhau nhưng lại có quan hệ tương hỗ tác dụng. Vậy:
Vị (dạ dày) hư đau về bệnh cơ có khuynh hướng do tạng tỳ hư lạnh, người xưa hay dùng thang “Hoàng kỳ kiến trung” để nuôi dưỡng và làm ấm khí trung tiêu, khi đỡ ra máu thì Gừng tươi phải đổi thành Gừng nướng và cho thêm Địa du, A giao, Kinh giới (sao) cháy để cầm máu nữa. Tôi nghĩ:
Một thang Hoàng kỳ kiến trung thì lực thuốc còn yếu, nên thêm các vị bổ và làm ấm tỳ vị như Đương qui, Ngô thù, Ma nhân, Bạch truật, Đậu khấu, Quan quế, Đinh hương, Bào khương, Hạt sen mà thêm vào. Chứng này do hư nên dễ bị lạnh, vì hư hay đi với hàn mà, nên thời tiết đổi thay hay dấy cơn đau lặp đi lặp lại nhiều lần, đồng thời do sức vận hóa kém, cho nên xuất hiện chứng đầy chướng bụng, thức ăn đình trệ, cần phân biệt cái nào là gốc bệnh, cái nào là ngọn bệnh để xử lý thích đáng, không thể đơn thuần chữa theo một phương nhất định, như đau do lạnh, do nóng, do khí… mà chữa được.
Thang Hoàng kỳ kiến trung (Thương hàn luận)
Quế chi 2 đồng cân
Bạch thược 4-6 đồng cân
Cam thảo 1 đồng cân
Sinh khương 1 đồng cân Đại táo 5 quả
Di đường 1-2 lạng
Hoàng kỳ 3-4 đồng cân.
Trong trường hợp do dạ dày khí trung tiêu hư yếu gây ra đau. Tôi thường dùng:
Thang Hoàng kỳ kiến trung gia vị (Hy Lãn phương)
Vị thuốc bạch thược trong điều trị đau dạ dày
Như liều lượng thang Hoàng kỳ kiến trung ở trên gia thêm:
Đậu khấu
3 đồng cân
Hoài sơn
4 đồng cân
Ngô thù
2 đồng cân
Hạt sen
4 đồng cân
Đảng sâm
4 đồng cân
Đương qui
4 đồng cân
Bạch truật
3 đồng cân
Hậu phác
2 đồng cân
Trần bì
2 đồng cân
Bạch linh
3 đồng cân.
Ý nghĩa phương:
Thang Hoàng kỳ kiến trung tức là thang Quế chi thêm Di đường và Hoàng kỳ. Hoặc là thang Tiểu kiến trung thêm Hoàng kỳ, thang Tiểu kiến trung tức là thang Quế chi tăng bội lên số lượng Thược dược và Hoàng kỳ. Lượng dùng Thược dược gia tăng gấp bội thì tác dụng của nó không những chỉ hợp đồng với Quế chi để điều hòa doanh vệ, mà còn có công sức làm nhu mềm gan, hòa doanh huyết làm ngừng đau bụng. Lại thêm Di đường ngọt ấm cùng Cam thảo, Gừng phối ngũ càng tăng cường tác dụng ôn âm bồi dưỡng cho dạ dày, cho nên mới gọi tên thang là thang Kiến trung (tức là xây dựng trung tiêu) đó là phương thuốc thường dùng chữa đau bụng, đau dạ dày do tỳ vị hư hàn, phương này trên cơ sở thang Quế chi dùng tăng Bạch thược và Di đường, tác dụng không những cho ra mồ hôi, giải phần biểu mà còn tác dụng làm ấm huyết mạch cho dễ vận chuyển, thông cái dương của tâm, ích cái khí của tâm, hòa cái máu ở phần doanh, cho nên có thể chữa được chứng tâm run rẩy hư phiền khí của tâm không đủ.
Vị thuốc Hoàng kỳ trong điều trị sa dạ dày
Khi thêm Hoàng kỳ vào thì thành ra thang Hoàng kỳ
kiến trung, nó có tác dụng bổ khí, lại có thể chữa được bụng đau do tỳ vị hư lạnh, nếu muốn bổ cả khí lẫn huyết thì thêm Đảng sâm, Đương qui vào.
Trên lâm sàng, 3 thang Tiểu kiến trung, Hoàng kỳ kiến trung và thang Đương qui kiến trung (Thang Tiểu kiến trung thêm Đương qui) nước Trung Quốc hay dùng chữa bệnh công năng vị tràng (dạ dày và ruột) rối loạn mà thấy tỳ vị hư lạnh, khí huyết không đủ, còn chữa dạ dày vỡ lở, kết quả tương đối tốt.
Nay thêm Đậu khấu, Ngô thù ôn ấm trung tiêu, thêm Sâm, Truật, Linh thì có tác dụng bổ khí của bài Tứ quân tử, có Truật, Phác, Thảo, Trần bì là có tác dụng của bài bình vị tán. Ngoài ra thêm Qui bổ huyết, bổ chân âm của tỳ, có Xương truật, Hậu phác có thể có tác dụng san bằng gò đống, trị được tỳ tích, có Bạch linh là có thể thấm thấp ở thổ (tỳ), phạt tà ở mộc (can). Hạt sen ôn bổ vị, Hoài sơn tăng chất nhầy cho niêm mạc dạ dày, đồng thời còn tác dụng liễm âm nữa.
Ô bồ, Ô phiến (Bản Kinh), Hoàng viễn (Ngô Phổ Bản Thảo), Ô siếp, (Nhĩ Nhã), Dạ can (Bản Thảo Kinh Tập Chú), Ô xuy, Thảo khương (Biệt Lục), Quỷ phiến (Trửu Hậu phương), Phượng dực (Bản Thảo Bổ di), Biển trúc căn (Vĩnh Loại Kiềm phương), Khai hầu tiễn, Hoàng tri mẫu (Phân Loại Thảo Dược Tính), Lãnh thủy đơn (Nam Kinh Dân Gian Dược Thảo), Ô phiến căn, Tử hoa hương, Tiên nhân chưởng, Tử hoa ngưu, Dã huyên thảo, Điểu bồ, Cao viễn, Bạch hoa xạ can, Địa biển trúc, Thu hồ điệp, Quỉ tiền, Ngọc yến, Tử kim ngưu, Tử hồ điệp (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển), Rẽ quạt, Biển Trúc (Dược Liệu Việt Nam).
Tên khoa học:
Belamcanda chinensis Lem.
Họ khoa học:
Họ Lay Ơn (Iridaceae).
Mô Tả:
Cây thảo, sống dai, thân rễ mọc bò. Thân bé, có lá mọc thẳng đứng, cao tới 1m. Lá hình mác dài, hơi có bẹ, mọc xen kẽ thành 2 hàng, dài 20-40cm, rộng 15-20mm.
Gân lá song song. Lá hình phiến dài, lá ở phía dưới úp lên gốc lá ở phía trên. Cụm hoa có cuống, cánh hoa màu vàng cam điểm đốm tím, 3 nhị, bầu hạ. Quả nang hình trứng, có 3 van, dài 23-25mm. Hạt xanh đen hình cầu.
Địa lý:
Mọc hoang và được trồng làm cảnh ở khắp nơi.
Thu hoạch:
Vào mùa xuân, thu
Phần dùng làm thuốc: Thường dùng Thân Rễ.
Mô tả dược liệu:
Rễ Xạ can cong queo, có đốt ngắn, mầu vàng nhạt hoặc vàng nâu, ruột trắng. Chất cứng, vị thơm.
Bào chế:
+ Lấy nước ngâm mềm, thái nhỏ, phơi khô (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Dùng tươi: rửa sạch, gĩa với ít muối, ngậm. Dùng khô: mài thành bột trong bát nhám, uống với nước (Dược liệu Việt Nam).
Bảo quản:
Để nơi khô ráo.
Thành phần hóa học:
+ Irigenin (Hồ Hiểu Lan, Trung Dược Thông Báo 1982, 7 (1): 29).
+ Tectorigenin, Tectoridin (Ngô Ác Tây, Dược Học Học Báo 1992, 27 (1): 64).
+ Belamcanidin, Methylirisolidone, Iristectoriginin A (Yamaki M và cộng sự, Planta Med 1990, 56 (3): 335).
+ Irisflorentin (Từ Ác Cương, Dược Học Học Báo 1983, 18 (12): 969).
+ Iridin (Kukani N và cộng sự, C A 1951, 45: 820b).
+ Noririsflorentin (Woo W S và cộng sự, Phytochemistry 1993, 33 (4): 939).
Tác dụng dược lý:
+ Tác dụng chống nấm và virus: Chích liều cao dung dịch Xạ can, in vitro thấy có tác dụng ức chế nhiều loại nấm da. Thuốc cũng có tác dụng chống virus hô hấp (Trung Dược Học).
+ Tác dụng đối với nội tiết; Dích chiết và cồn chiết xuất Xạ Can cho uống hoặc chích đều có kết quả làm tăng tiết nước miếng. Thuốc chích có tác dụng nhanh và dài hơn (Trung Dược Học).
+ Tác dụng giải nhiệt: Cho chuột đang sốt cao uống nước sắc Xạ can, thấy có tác dụng giải nhiệt (Ngô Trạch Phương, Trung Dược Dược Lý Dữ Lâm Sàng 1990, 6 (6): 28).
+ Tác dụng kháng viêm (Fukuyama Y và cộng sự, Chem Pharm Bull 1991, 39 (7): 1877).
+ Tác dụng khứ đờm: cho chuột nhắt uống nước sắc Xạ can, thấy hô hấp tăng, tống đờm ra mạnh hơn (Ngô Trạch Phương, Trung Dược Dược Lý Dữ Lâm Sàng 1985, (1): 153).
+ Tác dụng kháng vi sinh: Nước sắc Xạ can có tác dụng ức chế Bồ đào cầu khuẩn,, Liên cầu khuẩn, khuẩn bạch hầu, khuẩn thương hàn quách Võ Phi, Trung Hoa Y Học Tạp Chí 1952, 38 (4): 315).
Tính vị:
+ Vị đắng, tính bình (Bản Kinh).
+ Vị đắng, cay, tính hơi hàn, có độc ít (Trấn Nam Bản Thảo).
+ Vị đắng, tính hàn, không độc (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Vị đắng, tính bình (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Quy kinh:
+ Vào kinh Phế, Can, Tỳ (Lôi Công Bào Chích Luận).
+ Vào kinh thủ Thiếu dương Tam tiêu, thủ Thiếu âm tâm, thủ Quyết âm Tâm bào (Bản Thảo Kinh Sơ).
+ Vào kinh Phế, Can (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Tác dụng:
+ Tuyên thông tà khí kết tụ ở Phế, thanh hỏa, giải độc (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Tiêu đờm, phá trưng kết, khai Vị, hạ thực, tiêu thủng độc, trấn Can, minh mục (Nhật Hoa Tử Bản Thảo).
+ Thanh nhiệt, giải độc, lợi niệu, tiêu thủng, sát trùng (Hồ Nam Dược Vật Chí).
Chủ trị:
+ Trị nấc, khí nghịch lên, đờm dãi ủng trệ, họng đau, tiếng nói không trong, phế ung, họng sưng đau do thực hỏa (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Trị phế khí suyễn, ho, ho khí nghịch lên, trẻ nhỏ bị sán khí, mụn nhọt sưng đau, tiện độc (Y Học Nhập Môn).
Kiêng kỵ:
+ Uống lâu ngày cơ thể bị hư yếu (Biệt Lục).
+ Uống lâu ngày sinh tiêu chảy (Bản Thảo Cương Mục).
+ Trỳ Vị hơi yếu, tạng hàn, khí huyết hư, bệnh không có thực nhiệt: không dùng (Bản Thảo Kinh Sơ).
+ Phế không có thực tà: không dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Bệnh không có thực nhiệt, Tỳ hư, tiêu lỏng, phụ nữ có thai: không dùng (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Đơn thuốc kinh nghiệm:
+ Trị ho mà khí nghịch lên, trong họng có nước khò khè như gà kêu: Xạ can 13 củ, Ma hoàng 120g, Sinh khương 120g, Tế tân, Tử uyển, Khoản đông hoa đều 90g, Ngũ vị tử ½ thăng, Đại táo 7 trái, Bán hạ(chế). Sắc Ma hoàng với 1 đấu 2 thăng nước cho sôi, vớt bỏ bọt, cho các vị kia vào nấu còn 3 thăng, chia làm 3 lần, uống ấm (Xạ Can Ma Hoàng Thang – Kim Quỹ Yếu Lược).
+ Trị thủy cổ, bụng to như cái trống, trong bụng kêu óc ách, da xám đen: Quỉ phiến căn (Xạ can), gĩa vắt lấy nước cốt, uống 1 chén thì sẽ tiêu tiểu xuống thông ngay (Trửu Hậu phương).
+ Trị âm sán sưng đau, đau như kim đâm vào hông sườn: Xạ can sống, gĩa nát, vắt lấy nước cho uống, hễ đi tiểu được là khỏi. Hoặc dùng Xạ can tán bột làm viên cũng tốt (Trửu Hậu phương).
+ Trị ghẻ lở do trúng phải xạ độc: Xạ can, Thăng ma, đều 80g,sắc với 3 ch n nước, uống nóng, bã đắp vết thương (Tập Nghiệm phương).
+ Trị hầu tý (họng sưng đau): Xạ can, thái ra, mỗi lần dùng 20g, sắc với 1,5 chén nước còn 8 phân, bỏ bã, cho ít mật vào, uống (Xạ Can Thang – Thánh Tế Tổng Lục).
+ Trị sốt rét lâu ngày, có báng: Xạ can, Miết giáp (chế), sắc uống hoặc làm thành viên uống (Tụ Trân phương).
+ Trị họng sưng đau, ăn uống khó: Xạ can (tươi) 160g, Mỡ heo 160g. nấu cho gần khô, bỏ bã. Mỗi lần ngậm 1 viên bằng trái táo, dần dần là khỏi (Tụ Trân phương).
+ Xạ can cho vào với giấm nghiền nát, vắt lấy nước cốt ngậm. Hễ nước miếng ra nhiều thì nhổ đi (Y Phương Đại Thành phương).
+ Trị họng sưng đau, ăn uống không thông: Tử hồ điệp căn (tức Xạ can) 4g, Hoàng cầm, Cam thảo (sống), Cát cánh đều 2g. tán bột, hòa với nước mát uống hết là khỏi (Đoạt Mệnh Tán – Giản Tiện phương).
+ Trị vú sưng mới phát: Xạ can, lựa loại gốc giống hình con Tằm nằm chết cứng, cùng với rễ cỏ Huyên. Tán bột, trộn với mật, đắp vào (Vĩnh Loại Kiềm phương).
+ Trị táo bón, tiểu bí: rễ Tử hoa biển trúc (Xạ can), gĩa vắt lấy nước cốt 1 chén, uống thì thông ngay (Phổ Tế phương).
+ Trị bạch hầu: Xạ can 3g, Sơn đậu căn 3g, Kim ngân hoa 15g, Cam thảo 6g, sắc uống (Thanh Đảo Trung Thảo Dược Thủ Sách).
+ Trị quai bị: Rễ Xạ can tươi 10-15g, sắc uống, ngày hai lần (Phúc Kiến Dân Gian Thảo Dược).
+ Trị quai bị: Xạ can, Tiểu huyết đằng [lá], nghiền nát, đắp chỗ sưng (Hồ Nam Dược Vật Chí).
+ Trị khớp gối viêm, té ngã tổn thương: Xạ can 90g, ngâm với 500ml rượu một tuần, Mỗi lần uống 20ml, ngày 2 lần (An Huy Trung Thảo Dược).
Tham khảo:
+ Xạ can giáng được hỏa vì vậy nó là thuốc chủ yếu dùng trị họng sưng đau. Tôn Tư Mạo trong sách ‘Thiên Kim Phương’ có bài ‘Ô Dực Cao’, Trương Trọng Cảnh trong sách ‘Kim Quỹ Ngọc Hàm’ trong bài thuốc trị ho, khí nghịch lên, trong họng có tiếng nước khò khè như tiếng gà kêu, đã dùng bài ‘Xạ Can Ma Hoàng Thang’. Trong bài ‘Miết Giáp Hoàn’ dùng trị chứng ngược mẫu [sốt rét], dùng Ô phiến [Xạ can] là để giáng tướng hỏa của Quyết âm vậy. Hỏa giáng thì huyết tan, thủng sưng+ tiêu, đờm kết tự giải, chứng trưng hà tự hết (Bản Thảo Cương Mục).
+ Xạ can có tác dụng khai thông mạnh hơn là tả giáng, là vị thuốc thường dùng trị họng đau (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Xạ can vị vốn đắng mà chất nhẹ. Đắng thì giáng tiết hỏa ở Phế, nhẹ thì có thể tuyên thông Phế khí. Vừa giáng lại vừa tuyên thông, cho nên nó là vị thuốc chủ yếu trị bệnh ở Phế. Dù Phế nhiệt hoặc hàn, biết phối hợp sử dụng hỗ trợ với liều lượng phù hợp thì hiệu quả thu được rất cao (Đông Dược Học Thiết Yếu).