Trang chủChứng trạng Đông yNói sảng (Thiềm ngữ) - Triệu chứng bệnh Đông y

Nói sảng (Thiềm ngữ) – Triệu chứng bệnh Đông y

Khái niệm

Nói sảng là một chứng trạng có đặc trưng là thần chí không tỉnh táo, nói càn nói bậy phần nhiều gặp ở thực chứng do sốt cao gây nên.

Tố vấn – Nhiệt luận gọi là “Thiềm ngôn”. Chư bệnh nguyên hậu luận gọi là “Mậu ngữ”. Tố vấn – Khí giao biến đại luận lại mô tả là “Thiềm vọng”. Nhưng Thiềm vọng ngoài các triệu chứng thần chí mơ hồ, nói năng vô luân ra, thường còn có biểu hiện tình tự sợ sệt hoặc hưng phấn, kích động.

Thiềm ngữ với “Thác ngữ” “Cuồng ngữ”, “Trịnh thang” khác nhau. Thác ngữ là thần chí tỉnh táo mà nói năng lẫn lộn hoặc sau khi nói cảm thấy là nói sai. Cuồng ngữ là do tà nhiệt quá thịnh hoặc đờm hỏa quấy rối ở trong, người bệnh nói cuồng kêu gào chửi bới, cười liên tục, cởi áo mà chạy, trèo cao mà hát. Trịnh thanh là thần chí hôn trầm, nói năng yếu ớt bợt bạt không tiếp nối, phần nhiều gặp ở chứng Tâm khí tổn hại ở trong ở giai đoạn nguy hiểm, tinh thần tán loạn. Các chứng nói trên đều có chuyên mục giới thiệu riêng.

Nhiệt vào huyết thất, sau khi đẻ mà Thiềm ngữ là chứng bệnh thường gặp Phụ khoa cũng không thảo luận ở mục này.

Phân biệt

Chứng hậu thường gặp

  • Thiềm ngữ do nhiệt hun đốt Dương minh: Có triệu chứng thần chí không tỉnh táo, nói sảng, nói bậy, sốt cao mặt đỏ, khát nước vã mồ hôi, thở thô, hổn hển, tiểu tiện sẻn đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Hồng Đại.
  • Thiềm ngữ do Dương minh phủ thực: Có chứng triều nhiệt về buổi chiều, phiền táo nói sảng, ngực khó chịu, suyễn đầy, bụng đầy cứng rắn, đau quanh rốn, đại tiện bí kết, rêu lưỡi vàng dày mà khô, hoặc khô ráo mầu đen tro, mạch Trầm Thực có lực.
  • Thiềm ngữ do nhiệt độc hun đốt: Có chứng sốt cao nói sảng, phiền táo không yên, mặt đỏ, khát nước, mụn nhọt ung thũng lưu trú, len lỏi ra bôn phía hoặc hạ lỵ ra máu mủ, hoặc ruột đau quặn thắt, chất lưỡi đỏ tía, rêu lưỡi vàng sẫm khô ráo, mạch Hoạt Sác.
  • Thiềm ngữ do thấp nhiệt quấy rối: Có chứng mình nóng khó chịu hoặc sốt cao, về chiều sốt nặng hơn, có lúc nói sảng, bụng trướng đầy, nôn oẹ, thân thể và mắt có mầu vàng, sắc tươi hoặc hạ lỵ ra trắng đỏ lẫn lộn, tiểu tiện vàng đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Nhu Sác.
  • Thiềm ngữ do nhiệt vào Tâm doanh: Có chứng mình nóng, nặng về đêm, nói sảng nói bậy phiền táo không yên, ban chẩn lờ mờ, chất lưỡi đỏ tía, mạch Tế Sác.
  • Thiềm ngữ do nhiệt ở huyết phận: Có chứng sốt cao hôn mê, nói sảng, chập tôi và ban đêm bệnh tăng, vật vã không yên, thổ huyết nục huyết và phát ban hoặc triều nhiệt gò má đỏ, tối nóng sáng mát hoặc chân tay rung động tứ chi co giật, hoặc chân tay mình mẩy khô gầy, môi trễ, lưỡi rụt, răng khô nhiều cáu, mắt lốm con ngươi ngơ ngác, lưỡi sáng và khô tía, mạch Tế Sác hoặc Vi hoặc Nhược.
  • Thiềm ngữ do Đàm hỏa quấy rối lên trên: Có chứng mặt đỏ, phiền nhiệt, nói sảng hành động bừa bãi, thở gấp nôn oẹ đờm dãi úng tắc, ho, mửa ra đờm vàng, đờm keo dính, tiểu tiện sẻn đỏ, đại tiện bí kết, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Hoạt Sác.
  • Thiềm ngữ do ứ huyết xông lên Tâm: Có chứng thần chí không tỉnh táo, nói sảng, nói bậy, da dẻ phát ban, sắc mặt tía tối, thể huyết nục huyết, thân thể nóng rát, bụng dưới rắn đầy, đau bụng cự án, tiểu tiện tự lợi, đại tiện phân đen, chất lưỡi tía tối, có nốt ứ huyết, mạch Trầm Sác hoặc Trầm sắc.
  • Thiềm ngữ do âm thịnh cách dương: Có chứng sợ lạnh nằm co, hơi thở lạnh và nhỏ nhẹ, nói sảng phiền táo, tinh thần uỷ mị tứ chi quyết lạnh, đau bụng ưa chườm nóng, tiểu tiện trong dài, hạ lợi ra nguyên đồ ăn, mình nóng lại muốn mặc áo, mặt và gò má đỏ non, khát mà không muốn uống nước hoặc ưa uống nóng, chất lưỡi nhợt tối, rêu lưỡi đen tro mà trơn nhuận, mạch Vi Tế hoặc Tật Sác nhưng ấn vào vô lực.
  • Thiềm ngữ do âm kiệt dương thoát: Có chứng hôn trầm nói sảng mình nóng mặt đỏ, ra mồ hôi, chân tay ấm, thở nhỏ mà gấp, khát muốn uống nước lạnh, mạch Tế Sác vô lực, tiếp đó là xuất hiện các chứng đoản hơi thở nhẹ, sắc mặt xanh nhợt, vã mồ hôi đầm đìa, môi lưỡi nhợt nhuận, mạch Vi muốn tuyệt.

Phân tích

  • Chứng Thiềm ngữ do nhiệt hun đốt Dương minh với chứng Thiềm ngữ do Dương minh phủ thực: Đều thuộc bệnh chứng Dương minh, nhưng hai chứng này khác nhau rõ rệt. Thiềm ngữ do nhiệt hun đốt Dương minh có kiêm chứng mình nóng, ra mồ hôi, miệng khát ưa uống nước, mạch Hồng Đại. Cơ chế bệnh là: tà khí ở Thái dương không giải, tà nhiệt từ biểu truyền lý, Dương minh khí phận nhiệt thịnh tràn lan toàn thân. Loại chứng trị tài – Thương hàn viết: “Thương hàn Dương minh chứng… nhiệt khí hun đốt, miệng khát nói sảng, đó là cái nhiệt tràn lan, tà khí chưa kết tụ”. Thiềm ngữ do Dương minh phủ thực tất phải có các chứng: đại tiện bí kết, bụng rắn đầy, đau bụng cự án, rêu lưỡi vàng khô nổi gai, mạch Trầm Thực có lực. Cơ chế bệnh là: Vị Trường táo nhiệt thành thực, táo nhiệt kiêm trọc khí xông lên, phân táo nghẽn trệ, phủ khí không thông. Thiềm ngữ do nhiệt hun đốt Dương minh điều trị theo phép thanh nhiệt sinh tân dùng phương Bạch hổ thang. Thiềm ngữ do Dương minh phủ thực điều trị theo phép quét rửa táo kết dùng phương Đại thừa khí thang.
  • Chứng Thiềm ngữ do nhiệt độc hun đốt với chứngThiềm ngữ do thấp nhiệt quấy rối: Cả hai đều là chứng thực nhiệt nhưng nguyên nhân cơ chế bệnh khác nhau. Thiềm ngữ do nhiệt độc hun đốt là do cảm nhiễm tà khí hỏa độc thời dịch hoặc tà khí hỏa nhiệt uất kết thành độc, nhiệt độc quấy rối ở trong thì nói sảng không yên. Thiềm ngữ do thấp nhiệt quấy rối là do thấp nhiệt từ ngoài xâm phạm bị uất mà không đạt được hoặc Tỳ hư không vận chuyển, thấp trọc từ trong sinh ra, thấp uất hơn nhiệt, thấp nhiệt uất kết quây rối Tâm khiếu. Thiềm ngữ do nhiệt độc hun đốt là vì độc úng tắc ở Thượng tiêu như các chứng đầu mặt sưng đỏ, họng sưng loét và độc tà hun đốt khí huyết như thấy chứng sốt cao Tâm phiền, thổ nục, phát ban hoặc lưu trú len lỏi ra bôn phía như cơ phu sưng đỏ và đau, vỡ loét chảy mủ, hoặc nhiệt độc thương âm như các chứng gò má đỏ, triều nhiệt hoặc hạ lỵ trắng đỏ, lý cấp hậu trọng, rêu lưỡi vàng dầy nhớt, môi lưỡi đỏ khô, mạch Tế Sác là những yếu điểm để biện chứng. Còn Thiềm ngữ do thâp nhiệt quấy rối chủ yếu có hiện tượng thấp nhiệt gây bệnh như các chứng mình nóng bứt dứt, tiểu tiện vàng đỏ, có lúc nói sảng, đôi khi tỉnh táo hoặc thân thể và mắt có mầu vàng, màu tươi sáng, mạch Nhu Sác. Thiềm ngữ do nhiệt độc hun đốt điều trị theo phép thanh nhiệt giải độc lương huyết cứu âm; dùng phương Thanh ôn bại độc ẩm. Thiềm ngữ do thấp nhiệt quấy rối điều trị theo phép Thanh hóa thấp nhiệt, chọn dùng phương Xương bồ uất kim thang.
  • Chứng Thiềm ngữ do nhiệt vào Tâm doanh với chứng Thiềm ngữ do nhiệt ở huyết phần: Doanh khí thông với Tâm, Tâm chủ huyết chứa thần, vì thế nhiệt ở doanh phần và nhiệt ở huyết phần đều có thể xuất hiện chứng Thiềm ngữ. Nhưng Thiềm ngữ do nhiệt vào Tâm doanh là do tà nhiệt xâm phạm vào doanh phận gây nên, cho nên có đặc điểm chủ yếu là ban chẩn nổi lờ mờ, chất lưỡi đỏ tía. Thiềm ngữ do nhiệt ở huyết phần phần nhiều do thể bệnh nói ở trên phát triển thêm một bước gây nên, cho nên ngoài những biểu hiện về nhiệt ở Doanh phần còn có các chứng trạng ban chẩn nổi rõ rệt, thổ huyết nục huyết, sắc huyết đỏ sẫm, sắc lưỡi đỏ tía, hoặc có các chứng trạng huyết nhiệt thương âm như lòng bàn tay chân nóng, miệng khô họng ráo, lưỡi đỏ ít rêu… hoặc thấy hiện tượng Can nhiệt phong động, có các chứng lưng gáy cứng dơ có từng cơn co giật. Thiềm ngữ do nhiệt vào Tâm doanh điều trị nên thanh doanh tiết nhiệt, dùng phương Thang doanh thang. Thiềm ngữ do nhiệt ở huyết phận điều trị nên thanh nhiệt lương huyết dùng phương Tê giác địa hoàng thanh.
  • Chứng Thiềm ngữ do đờm hỏa quấy rối lên trên với chứng Thiềm ngữ do ứ huyết xông lên Tâm: Một chứng thuộc đờm hỏa, một chứng thuộc ứ huyết. Thiềm ngữ do đờm hỏa quấy lối lên trên là do thể trạng vốn có đờm thịnh, đờm uất hóa nhiệt, hoặc do ngoại cảm thời tiết nhiệt thịnh ở trong hun đốt tân dịch biến thành đờm trọc, đờm với nhiệt câu kết hun đốt, quấy rối thần minh ở trên. Chứng Thiềm ngữ do ứ huyết xông lên Tâm là do tà nhiệt vào huyết, huyết bị hun đốt khô đọng lại, hoặc sau khi đẻ bị cảm nhiễm tà độc, tà và huyết trọi lẫn nhau, mọi bộ phận và các khiếu không vận động. Chứng Thiềm ngữ do đờm hỏa quấy rối lên trên mấu chốt biện chứng là ở chỗ nói sảng, nói bậy, mặt đỏ phiền nhiệt, đờm dãi úng tắc, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Hoạt Sác. Thiềm ngữ do ứ huyết xông lên Tâm thì yếu điểm biện chứng là: môi miệng móng tay chân tím tái, bì phu phát ban, bụng dưới rắn đầy đau, đại tiện phân đen, tiểu tiện tự lợi, chất lưỡi tía tôi và có nốt ứ huyết. Túc như Thương hàn luận cương mục có nói: “ứ huyết ở lý thì đại tiện phân đen, tiểu tiện lợi, tiểu phúc đau, người bệnh nói sảng như cuồng”. Thiềm ngữ do đờm hỏa quấy rối lên trên điều trị nên thanh hóa nhiệt đờm, dùng phương Thanh khí hóa đờm hoàn hợp với Chí bảo đan. Thiềm ngữ do ứ huyết xông lên Tâm điều trị nên hoạt huyết trục ứ dùng phương Đào hạch Thừa khí thang.
  • Chứng Thiềm ngữ do âm thịnh cách dương với chứng Thiềm ngữ do âm kiệt dương thoát: Đều gặp trong giai đoạn tật bệnh nghiêm trọng, là một hiện tượng âm dương sắp tuyệt, nhưng nguyên nhân và cơ chế bệnh khác nhau. Chứng Thiềm ngữ do âm thịnh cách dương là âm hàn thịnh ở trong bức dương ra ngoài. Chứng Thiềm ngữ do âm kiệt dương thoát là do âm dịch hao tổn, nguyên dương thoát tuyệt. Thiềm ngữ do âm thịnh cách dương là chứng chân hàn giả nhiệt, vừa có chứng tứ chi quyết nghịch, ỉa chẩy ra nguyên đồ ăn, sợ lạnh nằm co, hơi thở lạnh và nhỏ, rêu lưỡi đen tro, trơn nhuận là hiện tượng hàn, vừa có hiện tượng giả nhiệt như các chứng: mình nóng lại muốn mặc áo, mặt và gò má đỏ non, khát nước mà không muốn uống hoặc thích uống nước nóng. Tức như trong Thương hàn luận cương mục có viết: “Tiểu tiện như thường, đại tiện rót xuống ồ ạt hoặc phát táo, hoặc lại phát nhiệt nói sằng, đó là nói sảng do âm cách dương”. Chứng Thiềm ngữ do âm kiệt dương thoát là âm dương đều vong, phần nhiều bắt đầu có chứng vong âm: vã mồ hôi chân tay ấm thích uống nước mát, lưỡi đỏ mà khô, mạch Sác vô lực. Tiếp theo xuất hiện các chứng vong dương như: sắc mặt tái nhợt, mồ hôi ra đầm đìa, đoản hơi thở khẽ, tứ chi quyết lạnh, mạch Vi muốn tuyệt. Tức như Chư bệnh nguyên hậu lụân có nói: “Nói sảng do vong dương”. Thiềm ngữ do âm thịnh cách dương điều trị nên phá âm hồi dương dùng phương Thông mạch Tứ nghịch thang. Thiềm ngữ do âm kiệt dương thoát điều trị nên hồi dương cứu nghịch, dùng phương Sâm phụ thang.

Chứng Thiềm ngữ tuy nhiên gặp trong các chứng Hư – Thực – Hàn – Nhiệt nhưng phần nhiều là Nhiệt chứng, Thực chứng, còn Hư chứng Hàn chứng ít gặp hơn. Nói chung thuộc thực thuộc nhiệt thường gặp ở thời kỳ tật bệnh cực điểm, lúc này tà khí quá thịnh, chinh khí chưa suy cho nên thường dễ chữa. Còn hư chứng, hàn chứng thường gặp ở giai đoạn cuối của tật bệnh rất nguy hiểm. Lúc này chính khí hư suy, sức chống tà yếu ớt cho nên khó chữa. Cảnh Nhạc toàn thư – Thương hàn điển hạ có viết: “Bởi vì chứng nói sảng rất dễ bị hư tổn không nến có chứng này, cho nên thân thể có hơi nóng mà mạch thấy Hồng Hoạt thì sống. Vùng Tâm lại thấy hay phiền táo, mạch thấy Vi Nhược Tế Cấp mà nghịch lạnh thì chết, cho nên gặp bệnh chứng hư tổn mà lại Thiềm ngữ là dấu hiệu cực nguy, cần phải tăng cường lưu ý.

Trích dẫn y văn

Tuế thủy thái quá, hàn khí lưu hành, tà hại Tâm hỏa dân mắc bệnh mình nóng phiền Tâm vật vã hồi hộp là Âm quyết, trên dưới trúng hàn, nói sảng nói bậy là Tâm thống, (Tố vấn – Khí giao biến đại luận).

Thương hàn bụng đầy, thiềm ngữ, Thốn khẩu mạch Phù mà Khẩn đó là Can lấn Tỳ gọi là Túng, châm huyệt Kỳ môn”. (Thương hàn luận – Biện Thái dương bệnh mạch chứng tính trị – trung).

Dương minh bệnh, hạ huyết mà nói sảng là nhiệt vào huyết thất. Nếu chỉ ra mồ hôi ở đầu thì nên châm huyệt Kỳ môn, tùy theo thực chứng mà dùng phép tả, ra mồ hôi nhâm nhâp thì khỏi (Chư bệnh nguyên hậu luận – Thương hàn bệnh chư hậu – Thượng).

Chứng Thiềm vâng lắm lời nói bậy. Nói là thanh của Tâm do hỏa hun đốt mà phát tiếng vang, cho nên Tâm nhiệt thì lắm lời… Nếu nhiệt nặng mà tinh thần lơ mơ khồng tỉnh táo đó là Thiềm ngữ (Trương thị y thông – Thần chí môn).

Thiềm ngữ phần nhiều do huyết trệ, cũng có khi do huyết hư nhiễm phong tà mà đàm uất thì không nên chuyên phán đoán là do đờm, cũng không thể cho là huyết nghịch. Nếu phát sinh Thiềm ngữ, mạch tất Đại và hữu lực (Trương thị y thông – Thần chí môn).

Huyết thất tức là Can. Can là tạng chứa huyết cho nên gọi là huyết thất. Phụ nữ phát huy tác dụng nhờ huyết cho nên gặp bệnh hạ huyết khá nhiều. Nếu nam giới không bị tổn thương sẽ không có bệnh hạ huyết. Chỉ có Dương minh chủ về huyết phát sinh bệnh là vì kinh này nhiều huyết nhiều khí, đi phía trước cơ thể gần gũi với Xung Nhâm. Dương minh nhiệt thịnh xâm lấn huyết thất, trào ra tiền âm cho nên cả nam và nữ đều mắc chứng này… các chứng Xúc huyết, đại tiện ra mủ và máu tất cả đều là nhiệt vào huyết thất (Thương hàn luận cương mục – Dương minh kinh chứng).

Bài viết liên quan
Bài viết cùng danh mục

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây