Tên Hán Việt: Toàn phúc hoa
Tên tiếng Trung: 旋覆花
Tên khoa học: Inula japonica Thunb. hoặc Inula britannica L., thuộc họ Cúc (Asteraceae).
Mô tả:
旋覆花 là tên dược liệu trong y học cổ truyền, là cụm hoa đầu khô của cây toàn phục hoa (Inula japonica) hoặc cây Âu Á toàn phục hoa (Inula britannica). Cụm hoa được thu hái vào mùa hè và mùa thu khi hoa nở, sau đó loại bỏ tạp chất, đem phơi hoặc sấy khô để làm dược liệu. Cây này có tác dụng giáng khí, tiêu đờm, hành thủy và ngừng nôn, thường được dùng để trị ho do phong hàn, đờm ứ tích tụ, tức ngực khó chịu, ho có nhiều đờm, nôn mửa, và ợ chua, cứng đầy dưới tim.
Tên khác: Kim tiền hoa, Mãn thiên tinh, Lục nguyệt cúc
Giới: Thực vật
Phân loại khoa học:
- Ngành: Thực vật hạt kín
- Lớp: Hai lá mầm
- Bộ: Cúc
- Họ: Cúc
- Chi: Toàn phúc hoa
Bộ phận dùng: Cụm hoa đầu khô của cây, đã được sấy hoặc phơi khô.
Vị và tính chất: Vị đắng, cay, mặn, tính hơi ấm.
Quy kinh: Quy vào các kinh Phế, Tỳ, Vị, Đại trường.
Tác dụng: Có tác dụng giáng khí, tiêu đờm, hành thủy, ngừng nôn.
Chủ trị:
Dùng để trị ho do phong hàn, đờm tích tụ, tức ngực, ho suyễn nhiều đờm, nôn mửa, ợ chua, đầy tức vùng thượng vị.
Phối hợp dược liệu:
- Trị ho do ngoại cảm phong hàn kết hợp đờm ẩm bên trong, dùng phối hợp với bán hạ, ma hoàng trong bài Kim phỉ thảo tán (theo sách Hòa Tễ Cục Phương).
- Trị đờm ẩm tụ ở trong, đờm ngược lên gây ho, tức ngực khó chịu, hơi thở dốc. Có thể phối hợp với tỳ bà diệp, bạch chỉ trong bài Toàn phúc hoa thang (theo sách Thánh Tế Tổng Lục).
- Trị khí nghịch, đờm tụ ở dạ dày gây nôn và đầy tức ở vùng thượng vị, thường phối hợp với chu sa, sinh khương trong bài Toàn phục đại chu sa thang (theo sách Thương Hàn Luận).
Liều dùng: 3–9g, nên được gói trong túi để sắc.
Chống chỉ định: Người bị ho do âm hư, phong nhiệt hoặc khô nhiệt không nên dùng.
Bào chế:
- Thu hoạch và xử lý: Hoa được thu hoạch vào mùa hè và mùa thu khi hoa nở, loại bỏ các tạp chất, phơi hoặc sấy khô.
- Cách bào chế: Có thể sử dụng toàn phục hoa đã được làm sạch tạp chất, hoặc sao qua với mật ong để dùng.
Đặc điểm thực vật:
- Toàn phúc hoa (旋覆花): Cây thân thảo sống lâu năm, cao 30-80cm, có rễ ngắn, thân màu xanh hoặc tía, có lông. Lá ở giữa thân hình thuôn dài, không cuống, lá bên trên hẹp dần, hình mũi mác. Hoa mọc thành đầu, có cuống dài, hoa màu vàng nhạt, cánh hoa dài 10-13mm. Hoa nở từ tháng 6-10, quả từ tháng 9-11.
- Âu Á toàn phục hoa (欧亚旋覆花): Khác với toàn phục hoa ở điểm lá hình trái tim, ôm sát thân. Đường kính hoa 2.5-5cm.
Môi trường sinh trưởng:
- Toàn phúc hoa: Phân bố ở nhiều vùng của Trung Quốc, đặc biệt ở Đông Bắc, Hoa Bắc, Hoa Đông, Hoa Trung và Quảng Tây. Toàn phúc hoa từ tỉnh Chiết Giang có màu vàng nhạt, hoa lớn, hoa sợi dài, ít bị gãy và ít tạp chất là loại tốt nhất.
- Âu Á toàn phục hoa: Chủ yếu ở Đông Bắc, Hoa Bắc và các tỉnh Thiểm Tây, Cam Túc, Tân Cương, Hà Nam.
Đặc điểm dược liệu:
Dược liệu có dạng cầu dẹt hoặc gần như cầu, đường kính từ 1-2cm, được bao bởi các lớp lá bắc xếp như ngói lợp. Mặt ngoài có lông trắng, hoa hình ống màu nâu vàng. Thân nhẹ, dễ vỡ, vị hơi đắng.
Luận dược lý:
- Sách Bản Kinh Phùng Nguyên: “Toàn phúc hoa có khả năng vừa thăng vừa giáng, là dược liệu của Phế và Đại trường. Tác dụng chính là khai uất, giáng khí, hành thủy, tiêu đờm, trị tâm phiền loạn, trừ chứng rắn, loại bỏ hàn nhiệt trong ngũ tạng, tiêu uất, trừ khí nghịch, có lợi cho ho do phong hàn tích đờm trong Phế.”
- Sách Bản Kinh: “Chủ trị khí kết, đầy tức vùng hông, loại bỏ thủy khí và hàn nhiệt ở ngũ tạng, bổ khí trung hạ.”
- Sách Bản Thảo Diễn Nghĩa: “Lá giống như lá đại cúc, có chút giống ngải. Hoa nở vào tháng 8-9, có kích thước như hạt ngô đồng, màu vàng nhạt và tỏa hương thơm hơn hoa cúc, dùng để hành khí tiêu đờm, giải phong, làm thuốc di chuyển khí, tiêu đờm và thông phong cho đầu mắt. Vị ngọt, đắng, cay, là loại dược liệu có tính phát tán.”