Tên khác: bệnh sốt đỏ, bệnh sốt xuất huyết
Định nghĩa: bệnh sốt do bị muỗi đốt truyền arbovirus vào cơ thể gây ra, bệnh có đặc tính là khởi phát đột ngột với sốt, nhức đầu, mệt lả, đau các khớp và các cơ, giảm bạch cầu trong máu, và phát ban mày đay hoặc ban dạng sởi vào thời kỳ sốt lại.
Căn nguyên: virus sốt dengue là một arbovirus (thuộc dưới nhóm flavivirus), trong đó người ta phân biệt được các typ 1, 2, 3 và 4. Người là nguồn dự trữ virus và vectơ truyền bệnh là muỗi cái (thuộc loài Aedes aegypti, Aedes albopictus). Có thể phân lập được virus trong máu bệnh nhân từ một ngày trước khi bị sốt đến ngày thứ 3-4 sau khi bắt đầu có sốt. Có nhiều trường hợp nhiễm virus không có biểu hiện triệu chứng. Miễn dịch sau khi bị sốt dengue, ngay cả với trường hợp nhiễm virus không triệu chứng, tồn tại lâu đối với virus cùng typ, nhưng mất đi nhanh đối với virus thuộc các typ khác.
Dịch tễ học
Sốt dengue là bệnh dịch địa phương xảy ra ở dọc những bờ biển và bò sống trong những vùng nhiệt đới và vùng gian chí tuyến thuộc Đông Nam Á, nhất là vào mùa hè. Cũng đã có những dịch xảy ra theo chu kỳ ở châu Phi, Nam Mỹ, vùng biển Caribê, ở Australia và trên những hải đảo thuộc Thái Bình Dương. Người ta ước lượng hàng năm có tới khoảng 10 triệu trường hợp mắc sốt dengue trên toàn thế giới, và tổng số người bị chết vì bệnh này vào khoảng 20.000 người mỗi năm.
Triệu chứng của sốt dengue kinh điển
THỜI KỲ ủ BỆNH: từ 7 đến 14 ngày.
THỜI KỲ SỐT ĐẨU TIÊN: khối đầu đột ngột bởi một cơn sốt với rét run, nhức đầu, đau ở sau hốc mắt khi nhãn cầu chuyển động, đau vùng thắt lưng, mới đầu bệnh nhân ở trong tình trạng bồn chồn lo lắng, nhưng sau đó mệt lả kiệt sức. Trong những giờ đầu, bệnh nhân thường cảm thấy đau dữ dội ở trong các bắp cơ và các khớp. Bệnh nhân không muốn đi lại, nhưng nếu phải đi lại thì dáng đi cứng nhắc và không vững, đôi khi bệnh nhân đi nhón trên đầu ngón chân. Do đó người ta đặt tên cho bệnh là “sốt kiểu cách” (vì tiếng Tây Ban Nha dengue có nghĩa là điệu bộ). Sốt tăng lên tới 40°c, nhưng mạch chậm tương đối và hạ huyết áp. Bệnh nhân chán ăn, xung huyết kết mạc và phát ban màu hồng nhạt tạm thời ở da mặt. Lách to vừa và mềm. Hạch bạch huyết vùng cổ, trên ròng rọc (trên khuỷu tay), và ở vùng bẹn thường bị sưng.
HẠ SỐT VÀ TẢNG LẠI THÂN NHIỆT: sau 48-96 giờ thì bệnh nhân hạ sốt, ra mồ hôi rất nhiều. Thời kỳ không sốt này thường làm cho bệnh nhân dễ chịu hơn, nhưng chỉ kéo dài được 24-48 giờ. Tiếp sau đó thân nhiệt lại tăng lên với ngoại ban thuộc typ dạng sởi, mới đầu khu trú ở các chi, sau đó lan ra toàn thân. Gan bàn tay và gan bàn chân thương đỏ và phù nề.
THỜI KỲ LẠI SỨC: có đặc điểm là xu hướng trầm cảm tâm thần.
CÁC BIẾN CHỨNG (HIẾM): nếu có thì là hội chứng màng não tạm thời hoặc suy giảm chức năng gan.
Xét nghiệm cận lâm sàng
Phân lập virus: virus huyết thường xảy ra sớm và kéo dài khoảng một tuần; những bệnh phẩm máu và mảnh mô sinh thiết phải được giữ trong khí carbonic hoá lỏng cho tới khi được đem đến phòng xét nghiệm để cấy trong môi trường nuôi các dòng tế bào thích hợp.
Chẩn đoán huyết thanh: có thể làm các phản ứng cố định hoặc trung hoà bổ thể và phản ứng ức chế ngưng kết hồng cầu (ngưỡng dương tính 1/10). Có thể phát hiện kháng thể đặc hiệu thuộc lớp IgM bằng các phương pháp huyết thanh vào ngày thứ 10 sau khi bắt đầu bị sốt. cần phải làm xét nghiệm với 2 mẫu huyết thanh lấy cách nhau 3 tuần.
Huyết đồ: giảm bạch cầu trong máu sớm và điển hình, với giảm bạch cầu hạt (trung tính). Số lượng bạch cầu giảm vào ngày thứ 2, và có thể chỉ còn 2000 đến 4000 vào ngày thứ 4. Tỷ lệ bạch cầu hạt chỉ chiếm 20-40% tổng số bạch cầu trong máu. Ngược lại, trong thời kỳ lại sức lại hay thấy tăng bạch cầu.
Nước tiểu: giảm số lượng và đậm đặc. Có thể thấy albumin và trụ niệu trong nước tiểu.
Chẩn đoán dựa vào
Bệnh khởi phát đột ngột bởi sốt, đau (cơ, khớp), và nhức đầu.
Sau một pha (thời kỳ ngắn) hết sốt, thì bệnh nhân bị sốt lại, và phát ngoại ban. Giảm bạch cầu.
Chẩn đoán phân biệt: cần phân biệt sốt dengue với bệnh sốt rét, với bệnh sốt rickettsia phát ban, bệnh sốt vàng da ở những vùng mà những bệnh này có dịch địa phương lưu hành. Vào giai đoạn đầu, sốt dengue có thể nhầm với bệnh cúm, sởi, và mốt số bệnh virus khác nữa.
Tiên lượng: tốt, trừ những thể xuất huyết (xem phần ghi chú bên dưới).
Điều trị
Không có biện pháp điều trị đặc hiệu. Phải để bệnh nhân nghỉ tại giường, theo dõi tình trạng mất nước, và cho các thuốc làm dịu (an thần kinh) để giảm bồn chồn lo lắng. Trong thể sốt dengue xuất huyết cần khắc phục sốc bằng truyền tĩnh mạch các dung dịch (như huyết thanh mặn, ngọt đẳng trương, huyết tương). Acid acetylsalicylic làm tăng nguy cơ xuất huyết. Corticoid không có hiệu quả gì. Cho thuốc làm dịu nếu bệnh nhân bị bồn chồn lo lắng.
Phòng bệnh: Phải để bệnh nhân nằm màn ít nhất 5 ngày sau khi bắt đầu bị sốt để tránh bệnh lan truyền. Diệt muỗi là vectơ truyền bệnh.
GHI CHÚ: sốt dengue xuất huyết
gặp ở trẻ em và có đặc điểm là vào ngày thứ 3 sau khi bắt đầu bị sốt, thì hội chứng xuất huyết xảy ra với chấm xuất huyết, ban xuất huyết, chảy máu cam, chảy máu lợi, nôn ra máu, ỉa phân đen, dấu hiệu dây thắt, giảm tiểu cầu trong máu, máu bị cô đặc. Hội chứng sốc dengue (“Dengue Shock Syndrome”-DSS) biểu hiện bởi: mạch yếu (nhỏ), hạ huyết áp động mạch, da lạnh và ẩm. Tỷ lệ tử vong biến động từ 10- 50%. Tác nhân gây bệnh và kiểu truyền bệnh cũng như sốt dengue kinh điển. Những vụ dịch dengue xuất huyết đã được báo cáo đầu tiên xảy ra ở Philippin, rồi lan ra toàn bộ miền Đông Nam Á, nhất là ở những khu vực thành thị.