Dương minh vị là giai đoạn cuôl cùng của tam dương, dương sinh chứng đã đến tột bực rồi cho nên bệnh thế nhiệt hóa rất lán mạnh, là chứng thực nhiệt, bệnh tà đã truyền vào lý, chứng trạng nói chung là: mình nóng, tự ra mồ hôi mà sợ nóng, toả ra nhiệt đã phát triển tới mức tối cao, khát uống nước nhiều, bứt rứt khó chịu, tỏ ra tân dịch đã bị tổn thương nhiều, hoặc đại tiện táo kết, bụng đầy đau, rắn chắc nóng từng cơn, nóng về chiều, nói mê sảng.
Chứng trạng dương minh phần nhiều bị táo nhiệt kết lại gây nên.
Nguyên nhân gây bệnh của dương minh có ba phương diện:
Từ thái dương truyền vào, vì bệnh ở thái dương phát hãn nhiều quá làm cho hao tổn tân dịch, hoặc bệnh ở thái dương mà phân hóa chưa đúng mức, biểu tà còn sót lại, truyền vào lý mà hóa thành nhiệt, thành táo.
- Bệnh tà từ thiếu dương truyền đến vì phát hãn, lợi tiểu tiện thái hóa làm hao tổn tân dịch đến nỗi vì táo mà thành ra kết thực (đại tiện táo).
- Tà ở dương minh kinh truyền vào phủ, nhiệt kết ở thượng vị gây thành chứng “Vị gia thực” của thương hàn.
Trừ những nguyên nhân nói trên còn có khi vì bệnh ở tâm âm kinh. Khi mà chính khí đã dần dần hồi phục, tà khí dạt ra ngoài âm chứng mà vào dương minh. Trong ba thiên âm ở Thương hàn luận đều có chứng ôn hạ, cấp hạ, tức là nói rõ âm chứng có thể chuyển thành dương chứng, bệnh ở tạng có thể chuyên ra phủ, căn cứ vào đó thì bất kì chứng hậu nào mà khi bệnh thể truyền đến dương minh phần nhiều là có tiên lượng tốt, vì người bệnh phải có đủ cơ năng chống bệnh mới có thể gây nên chứng hậu thực nhiệt. Người xưa nói: “Dương minh vào tử chứng” nghĩa là dương min không có bệnh chết lúc ấy mà biết chữa ngay, thường có thể chữa khỏi bệnh một cách nhanh chóng.
Tuy thế nhưng hoàn toàn không phải là sau khi đã trở thành bệnh dương minh rồi thì không có biến chuyển gì nữa, nếu người bệnh hư nhược, trung khí ở trung tiêu kém thì cũng có thể từ chứng “vị gia thực” của dương minh mà chuyển các chứng hư hàn của thái âm như: Bụng đầy ỉa chảy, nôn mửa, không khát nước hoặc ít khát. Nói chung tà khí thực thì ở dương minh chính khí hư, thì ở thái âm thậm chí còn có thể chuyển thành thiếu âm, tay chân giá lạnh, mạch trầm tế, có khi dẫn đến tử vong.
Chứng trạng của dương minh bệnh tuy biểu lộ ra trạng thái đều nhiệt như lí nhiệt là căn bản, biểu nhiệt chỉ là do ảnh hưởng của lí nhiệt mà thôi.
Dương minh bệnh chưa làm kinh chứng và phủ chứng có nhiệt độc chưa kết tụ hay đã kết tụ lại mà gây ra chứng thực.
Kinh chứng
Sốt cao, tự ra mồ hôi, không sợ rét mà sợ nóng bứt rứt, khát nước nhiều, mạch hồng đại, là tà nhiệt dương minh tản mạn khắp toàn thân, chưa kết lại một chỗ mà thành ra chứng thực gọi là dương minh kinh. Phép chữa dùng bạch hổ thang để thanh nhiệt, sinh tân, ích khí, dưỡng âm.
Bạch hổ thang
Tri mẫu 12 gam thanh vị nhiệt
Thạch cao 20 gam (sống) thanh vị, chỉ khát trị phiền táo
Nghạnh mễ 20 gam hoà vị sinh tân
Chích thảo 12 gam
Bài này có tác dụng thanh nhiệt, ích khí bảo dưỡng vị âm. Nếu khát nước nhiều, ra mồ hôi quá nhiều mà hơi sợ lạnh (do ra nhiều mồ hôi, tấu lý bị sơ hở) gia nhân sâm 8 gam gọi là Nhân sâm bạch hổ thang.
Theo kinh nghiệm bản thân tôi thường gia Sâm 12 gam, Thiên hoa phấn 12 gam, bỏ ngạnh mễ tác dụng chỉ khát thanh nhiệt mau hơn và dễ uống (sắc ngạnh mễ nhỏ chất dẻo sánh khó uống).
Phủ chứng
Nếu đến quá trưa có chứng đau từng cơn, nóng hâm hấp ra mồ hôi, đại tiện bí, bụng đầy đau, đánh hơi, nói sảng, mạch trầm thực là nhiệt tà đã kết cấu với chất cặn bã ở trường vị, trong bụng có táo thành ra thực rồi gọi là chứng dương minh phủ, nên dùng phép hạ làm chủ yếu nhưng bệnh trạng có mức độ khác nhau, cần phân biệt trình độ nặng nhẹ, hoãn cấp của bệnh mà xử lý.
- Như chỉ có “chứng táo kết, chứng bí môn chưa nặng” thì nên hoà hạ dùng bài Điều vị thừa khí thang hạ một cách nhẹ nhàng, hoà bĩ mà nhuận táo.
Điều vị thừa khí thang
Đại hoàng 16 gam tiết nhiệt tả thực
Cam thảo 8 gam hoà trung
Mang tiêu 1/2 nhuyễn kiên
Đại hoàng, Cam thảo sắc bỏ bã rồi sau cho Mang tiêu vào đun kĩ uống nóng (ấm).
Tiêu chuẩn chủ yếu: Táo thực chưa bĩ mãn.
- Táo nhiệt kết ở trong vị còn nhẹ, đầy chướng mà chưa có táo thực thì dùng bài Tiểu thừa khí thang để hoãn hạ mà tả nhiệt điều khí.
Tiểu thừa khí thang
Đại hoàng 16 gam tiết nhiệt tả thực
Hậu phác 8 gam thông khí tiết mãn
Chỉ thực 8 gam tán kết trừ mãn
Tiêu chuẩn chủ yếu: Bĩ mãn mà chưa táo thực.
- Táo nhiệt kết ở trong, phân đã cứng rắn có đủ thang để hạ gấp (cấp hạ) làm mềm vật cứng rắn, tả nhiệt, thông lợi đường ruột tông hêt ứ trệ ra ngoài.
Đại thừa khí thang
Đại hoàng 16 gam tiết nhiệt tả thực.
Hậu phác 16 gam tán kết trừ mãn.
Phác tiêu 12 gam nhuyễn kiên
Tiêu chuẩn chủ yếu: Bí, mãn, táo, thực.
Dương minh táo nhiệt mạnh quá tất nhiên làm thương tổn đến tân dịch, cho nên khi chữa cần phải tránh những phép phát hãn và lợi tiểu tiện, sợ làm ảnh hưởng đến chân âm thì lại táo thêm, nếu bệnh mới truyền vào đường dương minh, biểu tà chưa hết, tân dịch chưa bị tổn thương thì có thể châm chước phép dùng ma hoàng, quế chi để giải biểu trước, rồi sau khi biểu tà giải được rồi sẽ công lý.
Theo thiển ý của tôi lấy bài Ma hạnh thạch cam thang (ma hoàng, hạnh nhân, thạch cao, cam thảo) hoặc bài Quế chi thang gia Hoàng cầm tuỳ chứng trạng mà sử dụng.
Bệnh dương minh ngoài đường tà khí hóa nhiệt quá mà gây ra hai chứng kinh và phủ, có khi theo chấp biến hóa mà gây nên chứng phát hoàng.
Phát hoàng (dương hoàng)
Do trong khi mắc bệnh dương minh, hoặc trong khi dù nhiệt mà trái lại không có mồ hôi, nhiệt độc không tiêu ra ngoài cơ biểu được, dừng lại ở lý nên kiêm có chứng tiểu tiện không lợi nữa tất thành ra bệnh hoàng đản. Tuy cũng thuộc về loại dương hoàng nhưng bệnh tình và phương pháp chữa có khác nhau.
- Bệnh thiên về lý bụng hơi đầy, tiểu tiện không lợi, phát nóng, chỉ sợ nóng không sợ rét, mồ hôi chỉ ra khắp mình, mặt, mắt đều vàng, màu vàng tươi sáng, màu quạ quýt chín, khát nước, đại tiện bí kết, dùng Nhân trần cao thang để lợi tiểu tiện trừ thấp nhiệt.
Nhân trần cao thang
Nhân trần 40 gam thanh thấp nhiệt lợi thủy.
Thanh sơn chi nhân 24 gam thanh uất hoạt lợi tiểu tiện.
Đại hoàng 8 gam.
Sau khi uống thuốc tiểu tiện đi ra đỏ như nước bồ kết là chất vàng theo tiểu tiện ra ngoài. Bài này mục đích lợi tiểu tiện là chính, nên quân thần dược là nhân trần và sơn chi, mà đại hoàng chỉ là tá dược nên liều lượng dù ít (nếu đại tiện táo huyết, đại hoàng dùng tăng lượng thêm).
- Bệnh thiên về biểu mạch phù, phát sốt sợ rét, không có mồ hôi, tiểu tiện không lợi, vàng khắp mình, mặt mắt, dùng Ma hoàng hoàng liên liên kiều xích tiểu đậu thang để giải biểu tà thanh thấp nhiệt (biểu lý song giải).
Ma hoàng liên kiều xích tiểu đậu thang.
Ma hoàng 8 gam
Mạch môn 12 gam |
Tiêu phế lợi khí giải biếu tán hàn.
|
Liên kiều 8 gam
Xích tiểu đậu 16 gam |
Thanh nhiệt lợi thấp |
Sinh khương 8 gam
Đại táo 12 gam Cam thảo 8 gam |
Kiện tỳ hoà trung |
- Bệnh thiên lý, kiêm biểu, không phát sốt, không sợ rét cũng không sợ nóng và cũng không có mồ hôi trong lòng buồn bực, tiểu tiện không lợi, khắp mình, mắt, mặt nên dùng Chi tử bá bì thang để thanh trừ thấp theo đường tiểu tiện thoát ra ngoài.
Chi tử bá bì thang
Sơn chi nhân 24 gam, thanh uất hoả lợi tiểu tiện.
Trích thảo 12 gam, hoà trung kiện tỳ.
Hoàng bá 16 gam, thanh nhiệt hóa thấp.
Nếu mắc bệnh thương hàn dùng thuốc phát hãn mồ hôi, mồ hồi đã ra rồi mà khắp mình và mắt đều vàng, màu vàng tối, sẫm là do lý có hàn thấp, bệnh thuộc thái âm phải dùng thuốc ôn bổ tỳ.
Bệnh dương minh là thời kỳ cao độ của chứng phát sốt, thế bệnh tuy nặng hơn thái dương và thiếu dương nhưng khi tà đã truyền đến dương minh là bệnh tình có chiều hướng ổn định, kinh này lại nhiều khí huyết, sức chống đỡ mạnh, nếu chữa được đến hoặc thanh hoặc hạ thì bệnh mau lành, người thầy thuốc phải tinh tế và quyết đoán không nên để lỡ thời cơ.