Coxsackie là tên gọi một nhóm virus, trong đó virus đầu tiên của nhóm được tìm ra vào năm 1948 ở Coxsackie, gần New york, trên những bệnh nhân bị bệnh bại liệt. Virus Coxsackie thuộc họ enterovirus (virus đường ruột), và được phân làm hai nhóm: nhóm A (gồm có 23 typ) và nhóm B (có 6 typ). Những virus này được phát hiện thấy trong chất tiết ở miệng và trong phân của những người lành hoặc người mắc các bệnh hô hấp cấp tính có sốt, đặc biệt là vào mùa hè. Nguồn dự trữ những virus này là người.
Xét nghiệm cận lâm sàng: phân lập virus từ phân của bệnh nhân bằng cấy trong môi trường tế bào chỉ có thể thực hiện được ở những phòng xét nghiệm đặc biệt.
Chẩn đoán huyết thanh: hiệu giá kháng thể đặc hiệu tăng lên trong mẫu huyết thanh lấy cách nhau 2 tuần; phản ứng cố định bổ thể (ngưỡng 1/32), kỹ thuật ELISA.
ĐAU NGỰC DỊCH TỄ (còn gọi là bệnh Bornholm, hoặc đau cơ dịch tễ):
Dịch tễ học: bệnh được mô tả từ năm 1872 ở Na-uy và được phân tích chi tiết năm 1930 khi có vụ dịch xảy ra ở đảo Bornholm. Kể từ đó người ta đã thấy có những vụ dịch xảy ra ở châu Âu, Australia, ở Tân-Zêland, và ở Bắc Mỹ. Bệnh được cho là do virus Coxsacki, nhóm B, typ 1, 2, 3, 4 gây ra. Khi có dịch, thì có một số lớn đối tượng bị nhiễm, nhưng các triệu chứng lâm sàng chỉ biểu hiện trên một số ít người.
Triệu chứng: sau một thời kỳ ủ bệnh từ 3-5 ngày, bệnh khỏi phát bởi một cơn sốt, bệnh nhân bị đau ngực, đau bụng, nhức đầu và toàn thân mệt lả. Đau ngực và bụng có thể tối mức làm cho bệnh nhân thỏ khó khăn. Các dấu hiệu này tồn tại trong vòng 10 ngày và hay bị tái phát.
Điều trị
Chỉ điều trị triệu chứng.
VIÊM HỌNG APTƠ (viêm họng mụn nước, hoặc viêm họng hạch lympho cấp tính):
Dịch tễ học: bệnh được mô tả từ năm 1920 và hiện nay được cho là do virus Coxsacki nhóm A, typ 2, 3, 4, 5, 6, 10 và 22 gây ra. Bệnh phát thành dịch ở nhũ nhi và trẻ em.
Triệu chứng: bệnh khởi phát bởi dấu hiệu phát ban đỏ mụn nước xuất hiện ở các trụ trước của màn hầu. Các mụn nước có thể bị loét ra, và ban có thể lan tới cả bàn tay và bàn chân. Đồng thời, người ta còn thấy những dấu hiệu toàn thân như: sốt, chán ăn, nôn, nhức đầu, mệt lả. Bệnh diễn biến chủ yếu lành tính trong vòng 6-10 ngày.
Chẩn đoán phân biệt: viêm miệng herpes (viêm miệng mụn rộp: những tổn thương sâu hơn và gây đau hơn, nằm ở phần trước của niêm mạc miệng).
Điều trị: chỉ điều trị triệu chứng.
BỆNH CÚM MÙA HÈ: được cho là do virus Coxsackie nhóm A và B gây ra; bệnh biểu hiện bởi sốt, những dấu hiệu nhiễm khuẩn đường hô hấp và ho. Diễn biến lành tính. Điều trị: điều trị triệu chứng.
VIÊM MÀNG NÃO VÔ KHUÂN: xem viêm màng não do virus.
VIÊM NỘI TÂM MẠC CẤP LÀNH TÍNH: do các virus Cosxackie nhóm B typ 1, 2, 3, 4, và 5, và nhóm A typ 23 gây ra. Bệnh có biểu hiện là đau ngực vùng trước tim xuất hiện đột ngột và tăng thêm trong thì thở vào, sốt, đau cơ, nhức đầu. Nghe tim phổi mới đầu thấy tiếng cọ màng ngoài tim (ngoại tâm mạc), sau đó các dấu hiệu tràn dịch màng ngoài tim xuất hiện kèm theo những thay đổi về điện tâm đồ. Diễn biến lành tính, nhưng có xu hướng tái phát. Điều trị triệu chứng.
VIÊM NÃO CỔ TIM SƠ SINH: do virus Coxsackie nhóm B truyền qua rau thai từ mẹ sang con gây ra. Triệu chứng xuất hiện 8-10 ngày sau khi sinh: nôn, ỉa chảy, viêm họng, sốt, mạch nhanh, nhịp thở nhanh, tím tái, mệt lử. Điện tâm đồ biến đổi và có những dấu hiệu màng não và não. Hậu quả có thể nguy kịch trong 50% trường hợp do truy tuần hoàn.
VIÊM GAN TRẺ EM TRƯỚC Tuổi ĐI HỌC: virus Coxsackie có thể khu trú ở gan và gây ra gan lách to, sốt, sưng hạch bạch huyết, buồn nôn, nôn, viêm họng, viêm kết mạc. Diễn biến tự nhiên thuận lợi, nhưng có thể có tái phát.
HỘI CHỨNG “BÀN CHÂN – BÀN TAY- MIỆNG” (sốt aptơ): bệnh sốt lành tính, kèm theo viêm miệng aptơ và mụn nước mọc ở bàn tay và bàn chân. Bệnh được cho là do virus Coxsackie nhóm A typ 16 gây ra.