Hà thủ ô

Hà thủ ô ( 何首乌 )

Tên và nguồn gốc

+ Tên thuốc: Hà thủ ô (Xuất xứ: Nhật hoa tử bản thảo)

+ Tên khác: Địa tinh (地精), Diệc liễm (亦敛), Thủ ô (首乌), Trần tri bạch (陈知白), Hồng nội tiêu (红内消), Mã can thạch (马肝石), Hòang hoa ô căn (黄花乌根), Tiểu độc căn (小独根).

+ Tên Trung văn: 何首乌 HESHOUWU

+ Tên Anh văn: Tuber Fleeceflower Root

+ Tên La tinh: Polygonum multiflorum Thunb.

+ Nguồn gốc: Là rễ củ của Hà thủ ô thực vật họ rau Răm (Polygonaceae).

Hình thái thực vật

Hà thủ ô, còn tên Dã miêu (野苗), Giao hành (交茎), Giao đằng (交藤), Dạ hợp (夜合)、Đào liễu đằng (桃柳藤), Xích cát (赤葛), Cửu chân đằng (九真藤), Nhuế thảo (芮草), Xà thảo (蛇草), Thân đầu thảo (伸头草), Đa hoa liệu (多花蓼), Tử ô đằng (紫乌藤).

Cây leo sống nhiều năm. Rễ dài nhỏ, đầu mút thành rễ củ lớn, bên ngòai màu nâu đỏ đến sắc nâu tối. Phần gốc thân tựa như chất gổ, rỗng giửa. Lá mọc cách, có cuống dài, phiến lá hình trứng hẹp hoặc hình tim, dài 4 ~ 8 cm rộng 2,5 ~ 5cm, trước ngay thẳng dần nhọn, phần gốc hình tim hoặc hình mũi tên, mép đủ hoặc hơi dạng sóng, mặt trên sắc xanh thẳm, mặt dưới sắc xanh nhạt, 2 mặt đều bóng láng không lông. Lá kèm chất màng, hình vỏ bọc, màu nâu, ôm thân, dài 5 ~ 7mm. Hoa nhỏ, đường kính độ 2 mm, đa số, tập hợp dày thành hoa tự hình búp măng lớn, cành hoa nhỏ có đốt, phần gốc là lá bao chất màng; hoa bao màu trắng xanh, hình cánh hoa, tách 5, mảnh tách hình trứng ngược, lớn nhỏ không đều, phần lưng của 3 lá mặt ngòai có cánh; 8 nhị đực, ngắn hơn bao hoa; 1 nhị cái, bầu nhụy hình tam giác, ống nhị cái hoa ngắn, đầu nhị tách 3, hình đầu.

Quả bế hình bầu dục, có 3 góc, dài 2 ~ 3,5 mm, sắc đen sáng láng, bao ngòai bao hoa bền, bao hoa thành 3 cánh rõ rệt, sắc nâu lúc chín.

Tháng 10 là thời kỳ ra hoa, tháng 11 là thời kỳ kết qủa, mọc ở sườn cỏ, ven đường, lỗ đá sườn núi và trong bụi cây.

Phân bố ở các vùng Hà Nam, Sơn Đông, An Huy, Giang Tô, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Giang Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Quí Châu v.v… (Trung Quốc).

Thân dây của bổn thực vật (Dạ giao đằng 夜交藤), lá (Hà thủ ô diệp 何首乌叶) cũng cung cấp làm thuốc.

Hà thủ ô
Hà thủ ô

Phân bố

Phân bố ở các vùng Hà Nam, Sơn Đông, An Huy, Giang Tô, Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Giang Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Quí Châu, Vân Nam v.v…(Trung Quốc).

Thu hoạch

Sau khi trồng được 3 ~ 4 năm, mùa xuân, thu đào, rửa sạch, cắt bỏ 2 đầu, hoặc cắt phiến dày, phơi khô, hong khô hoặc sau khi nấu phơi khô.

Bào chế

– Hà thủ ô sống: Nhặt sạch tạp chất, rửa sạch, dùng nước ngâm thấm đến 8 phần, vớt ra, độ thấm ướt trong ngoài đều nhau, cắt lát phiến hoặc cắt thành khối vuông, phơi khô.

– Hà thủ ô chế: Lấy cục Hà thủ ô đổ vào trong chậu, dùng nước đậu đen và rượu vàng trộn đều, để trong lọ hoặc dụng cụ đựng thích hợp, đóng kín, trong nồi cách thủy, nấu cách thủy đến khi dịch thuốc bị hút cạn, lấy ra, phơi khô. (Cứ mỗi 100 cân củ Hà thủ ô, dùng đậu đen 10 cân, rượu vàng 26 cân. Cách chế nước đậu đen: Lấy đậu đen 10 cân, thêm nước nấu độ 4 tiếng đồng hồ, nấu dịch độ 16 cân, bã đậu lại thêm nước nấu độ 3 giờ, nấu dịch độ 10 cân, 2 lần gộp lại nấu dịch độ 25 cân).

Nguồn gốc

Đây là loại rễ củ khô của hà thủ ô thuộc loại cây họ rau răm. Sản xuất chủ yếu ở các tỉnh Ha Nàm, Hồ Bắc, Quảng Đông, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Quí Châu v.v…

Phân biệt tính chất, hình dạng

Chế thủ ô (Hà thủ ô qua bào chế)
Chế thủ ô (Hà thủ ô qua bào chế)

Chế thủ ô (Hà thủ ô qua bào chế), là những miếng dầy hoặc cục, có những đường nhăn đa dạng, bề mặt mầu nâu đen hoặc nâu, lồi lõm không đều. Chất rắn, mặt cắt như chất sừng, mầu nâu đen hoặc đen. Hương nhẹ, vị hơi ngọt mà đắng chất.

Sinh thủ ô (Hà thủ ô tươi), là những miếng dầy hoặc cục rất đa dạng, ngoài bề mặt màu nâu đỏ hoặc da lươn, nhiều nếp nhăn nheo không phẳng, mặt cắt màu nâu đỏ nhạt, lộ rõ tinh bột, phần vỏ có những ống nhỏ quấn vòng quanh tạo thanh hình tròn và nhiều hình thù kỳ dị, hình thành một loại hoa văn theo kiểu cẩm vân, phần gồ ở giữa khá to, có chỗ thấy cả lõi gỗ. Hương nhẹ, vị hơi đắng và chát.

Bảo quản

Vì hà thủ ô giầu chất tinh bột, bảọ quản không tốt dễ bị mọt, dễ sinh độc, nên bỏ vào vại, để nơi khô ráo.

Tính vị

– Trung dược học: Đắng, ngọt, chát, hơi ấm.

– Thủ ô biệt lục: Vị ngọt, ấm, không độc.

– Khai bảo bản thảo: Vị đắng chát, hơi ấm, không độc.

– Bản thảo hối ngôn: Dùng sống khí lạnh, tính liễm, có độc; Chế chín khí ấm, không độc.

Qui kinh

– Trung dược học: Vào kinh Can, Thận.

– Cương mục: Túc quyết âm, Thiếu âm.

– Bản thảo kinh giải: Vào kinh Túc thiếu dương Đởm, kinh Thủ thiếu dương Tam tiêu, kinh Thủ thiếu âm Tâm, kinh Túc Thiếu âm Thận.

– Bản thảo tái tân: Vào 3 kinh Tỳ, Phế, Thận.

Công dụng và chủ trị

Bổ Can, ích Thận, dưỡng huyết, trừ phong.

Trị Can Thận âm khuy (thiếu), râu tóc bạc sớm, huyết hư chóang đầu, eo lưng gối mềm yếu, gân xương mỏi đau, di tinh, băng đới, sốt rét lâu ngày, lỵ lâu, viêm gan mạn, ung nhọt sưng, tràng nhạc, trường phong, bệnh trĩ.

Hà thủ ô chế bổ Can Thận, ích tinh huyết, đen râu tóc, mạnh gân xương; Dùng vào chứng Huyền vựng ù tai, râu tóc bạc sớm, eo lưng gối mỏi mềm, tay chân tê, suy nhược thần kinh, mỡ máu cao.

– Hà Thủ ô biệt lục: Chủ 5 thứ trĩ, trong bụng eo lưng khí lạnh lâu ngày, lớn gân ích tinh, năng ăn, ích khí lực, sinh da, kéo dài tuổi thọ.

– Nhật Hoa tử bản thảo: Trị tất cả khí lạnh và trường phong.

– Khai bảo bản thảo: Chủ tràng nhạc, tiêu ung nhọt, trị đầu mặt phong sang, 5 thứ trĩ, ngừng đau tim, ích huyết khí, đen râu tóc, đẹp nhan sắc, cũng trị đàn bà sản hậu và các chứng đới hạ.

– Vương Hảo Cổ: Tả phong Can.

– Điền Nam bản thảo: Sáp tinh, ích Thận khí, cầm xích bạch tiện trọc, súc tiểu tiện, nhập phần huyết, tiêu đàm độc, trị bạch điến phong (bạch biến), ghẻ lở hắc lào ngoan cố, da dẻ ngứa ngáy. Cắt đứt sốt rét, trị sốt rét đàm.

– Dược phẩm hóa nghĩa: Ích Can, liễm huyết, tư âm. Trị eo lưng gối mềm yếu, gân xương đau mỏi, triệt hư ngược, cầm thận tả, trừ băng lậu, giải đới hạ.

– Bản thảo thuật: Trị trúng phong, đau đầu, hành tý, hạc tất phong, động kinh, hòang đản.

– Bản thảo tái tân: Bổ Phế hư, ngừng ói máu.

– Bộ đội Quảng Châu – Sổ tay Trung thảo dược thường dùng: Trị suy nhược thần kinh, viêm gan mạn.

– Thảo dược Giang Tây: Thông tiện, giải độc nhọt lở; Chế chín bổ Can Thận, ích tinh huyết.

Chế thủ ô có công hiệu bổ can thận, bổ tinh, huyết, đen râu, tóc, cường gân cốt.

Dùng cho người mắc các chứng huyết hư ủy hoàng, mắt hoa, tai ù, râu tóc bị bạc sớm, lưng đau gối mỏi, chân tay và cơ thể bị tê dại, băng huyết, ra khí hư, sốt rét lâu ngày thân thể hư nhược v.v… Gần đây người ta còn dùng cho các chứng như lượng mỡ quá cao trong máu, viêm gan mạn tính, bệnh ngoài da v.v…

Sinh thủ ô có công hiệu giải độc, tiêu nhọt, nhuận tràng, thông tiện. Dùng cho người bị táo bón, trĩ nội, mụn nhọt v.v…

Liều dùng và cách dùng

Sắc uống 10 ~ 30g.

Kiêng kỵ

– Trung dược học: Người đại tiện lỏng và thấp đàm khá nặng không nên dùng.

– Hà thủ ô lục: Kỵ thịt máu dê, heo.

– Khai bảo bản thảo: Kỵ sắt.

– Y học nhập môn: Phục linh làm sứ. Kỵ cải củ. Được Ngưu tất ắt đi xuống dưới.

– Cương mục: Kỵ hành, tỏi.

Những cấm kỵ khi dùng thuốc:

Giữa sinh thủ ô và chế thủ ô công dụng khác nhau, khi dùng cần lựa chọn.

Dùng vị thuốc này không được ăn hành, tỏi, củ cải và máu các loài động vật.

Khi bào chế và sắc thuốc phải tuyệt đối kỵ kim.

Người bị ngoại cảm phong hàn, tỳ hư, ỉa chảy hoặc hữu thấp đờm kiêng dùng.

Nghiên cứu hiện đại

  1. Thành phần hóa học:

Chủ yếu hàm chứa hợp chất Anthraquinones, thành phần chủ yếu là Chrysophanol và Emodin, còn hàm chứa Lecithin, Mỡ thô v.v…(Trung dược học).

  1. Tác dụng dược lý: Dùng thức ăn hàm chứa Thủ ô bột 0,4% , 2 % cho chim cun cút có tuổi ăn, có thể kéo dài thời gian sinh tồn, kéo dài tuổi thọ bình quân rõ rệt. Dịch nước sắc Hà thủ ô cho chuột nhắt già và chuột nhắt còn non uống, có thể tăng thêm hàm lượng protein trong não và gan; đối với họat tính amine oxidase đơn lọai B trong tổ chức gan và não có tác dụng ức chế rõ rệt, và có thể làm cho tuyến ức của chuột nhỏ già không teo co, thậm chí còn giữ mức trẻ. Có thể tăng thêm trọng lượng tuyến ức, lim pha xoang bụng, tuyến thượng thận của chuột con, làm lá lách có xu hướng tăng trọng. Mô hình thực nghiệm biểu hiện rõ chứng mỡ máu cao cấp tính ở thỏ nhà, Thủ ô có thể làm cho cholesterol cao trong máu hạ thấp nhanh đến mức bình thường. Chrysophanol chiết ra trong Hà thủ ô có thể xúc tiến vận động ống ruột (Trung dược học).
  2. Nghiên cứu lâm sàng:

– Hà thủ ô phiến diều trị cholesterol máu cao có hiệu quả điều trị khá tốt (Công nghiệp y dược ,1972,(7):23).

– Thủ ô xung tể điều trị cao huyết áp thể ứ huyết tổn hại Thận thời kỳ đầu có hiệu quả (Phòng thuốc Trung Quốc, 1993,4(4):36).

– Thủ ô chế, Thục địa hòang, Đương qui ngâm vào trong rượu trắng lương thực điều trị tóc bạc có hiệu quả (Tạp chí Trung y Sơn Đông, 1983,(4):41).

Theo các công trình nghiên cứu hiện đại, hà thủ ô có hàm chứa thành phần các chất anthraquinon, noãn lân chi, tinh bột, chất xơ v.v… có thể hạ thấp đảm cố thuần trong huyết thanh, làm giảm quá trình hình thành sự xơ cứng động mạch, chất noãn lâm chi có thể làm tăng chức năng thần kinh, có thể chữa khỏi bệnh ỉa chảy, có tác dụng kích thích tố đối với tuyến thượng thận, có tác dụng ức chế đối với các loại trực khuẩn lao, trực khuẩn lỵ.

Bài thuốc cổ kim tham khảo

+ Phương thuốc 1:

Đen râu tóc, mạnh gân xương, cố tinh khí: Xích, bạch Hà thủ ô đều 1cân (nước gạo tẩm ngâm 3, 4 ngày, lấy miếng sứ cạo đi vỏ, dùng đậu đen vo sạch 2 thăng, dùng nồi đất sành rải đậu và Hà thủ ô, rải phủ tầng lớp, chưng đến khi đậu chín lấy ra, bỏ đậu, phơi khô, thay đổi đậu lại chưng nữa, như thề 9 lần phơi khô nghiền nhỏ), Xích bạch Phục linh đều 1 cân (bỏ vỏ, nghiền nhỏ, dùng nước gạn bỏ đi gân màng và chất nổi, lấy cái lắng nắn cục, dùng sữa người 10 chén ngâm đều, phơi khô, nghiền nhỏ ), Ngưu tất 8 lượng (bỏ mầm, ngâm rượu 1 ngày, cùng với Hà thủ ô chưng 7 lần vậy, đến lần thứ 9 thì ngừng, phơi khô), Đương qui 8 lượng (tẩm rượu, phơi), câu kỉ tử 8 lượng (tẩm rượu, phơi), Thỏ ty tử (tẩm rượu mọc mầm, nghiền nát, phơi), Bổ cốt chi 4 lượng ( Dùng mè đen sao thơm, và kỵ đồ sắt, cối đá giã làm bột). Luyện mật hòa hòan lớn như viên đạn 180 hòan, mỗi ngày 3 hòan, uống với rượu ấm, giờ ngọ uống với nước gừng, lúc đi ngủ uống với nước muối. Số còn lại hòan như hạt ngô đồng, mỗi ngày bụng đói uống với rượu 100 hòan, uống lâu rất hiệu nghiệm.

(Tích thiện đường kinh nghiệm phương – Thất bảo mỹ nhiêm đơn)

+ Phương thuốc 2:

Trị phong xương mềm, lưng gối đau, đi giầy không được, khắp thân ngứa ghẻ: Hà thủ ô lớn mà có vân hoa, cùng Ngưu tất (cắt) đều 1 cân. Dùng rượu tốt 1 thăng, ngâm 7 đêm, phơi khô, giã nhỏ trong cối gổ, hòan mật. Mỗi ngày uống 30, 50 hòan với rượu nóng trước bửa ăn lúc bụng đói.

(Kinh nhiệm phương)

+ Phương thuốc 3:

Trị khí huyết đều hư, sốt rét lâu không ngừng: Hà thủ ô (Từ 3 chỉ đến 1 lượng, tùy bệnh nặng nhẹ mà dùng), Đương qui 2, 3 chỉ, Nhân sâm 3, 5 chỉ (hoặc 1 lượng tùy theo), Trần bì 2, 3 chỉ (đại hư không nên dùng), Sanh khương nướng 3 lát (hàn nhiều dùng 3 , 5 chỉ). Nước 2 chén, sắc 8 phân, uống ấm trước khi phát bệnh 2, 3 giờ. Nếu hay khát, dùng rượu ngâm 1 đêm, sáng thêm nước 1 chén sắc uống cũng hay, sắc nữa không cần dùng rượu.

(Cảnh Nhạc tòan thư)

+ Phương thuốc 4:

Trị khắp người nhọt lở sưng ngứa đau: Phòng phong, Khổ sâm, Hà thủ ô, Bạc hà phân lượng bằng nhau. Thuốc trên nghiền nhỏ, mỗi lần dùng thuốc nửa lượng, nước, rượu đều 1 nữa, tất cả dùng 1 đấu 6 thăng, sắc sôi 10 dạo, tắm nóng, ngủ 1 giấc nơi kín gió.

(Ngọai khoa tinh yếu – Hà thủ ô tán)

+ Phương thuốc 5:

Trị tràng nhạc lan ra, nóng lạnh gầy ốm, (kinh) Can uất hỏa, lâu không trị thành lao: Hà thủ ô như nắm tay lớn 1 cân, bỏ vỏ như phép chế, phối Hạ khô thảo 4 lượng, Thổ bối mẫu, Đương qui, Hương phụ đều 3 lượng, Xuyên khung 1 lượng. Tất cả nghiền bột, luyện mật hòan. Mỗi sáng tối đều uống 3 chỉ.

(Bản thảo hối ngôn)

+ Phương thuốc 6:

Trị ghẻ lở đầy người: Hà thủ ô, Ngãi diệp lượng bằng nhau, cắt nghiền nhỏ. Dùng thuốc trên tương ứng với ghẻ lở nhiều ít, sắc nước cho đặc, đựng trong chậu rửa, giảm đau sinh cơ.

(Bác tế phương)

+ Phương thuốc 7:

Trị đại trường phong độc, ỉa máu không ngừng: Hà thủ ô 2 lượng, giã nhỏ sàng làm bột, mỗi lần vào trước bửa ăn điều uống 1 chỉ với cháo nóng.

(Thánh huệ phương)

+ Phương thuốc 8:

Trị tự ra mồ hôi không ngừng: Bột Hà thủ ô, điều nước, đắp giữa rốn.

(Tần Hồ tập giản phương)

+ Phương thuốc 9:

Trị sốt rét lấy Hà thủ ô 6 ~ 8 chỉ, Cam thảo 0,5 ~ 1 chỉ (trẻ con giảm liều), mỗi ngày 1 thang, sắc đặc 2 tiếng đồng hồ, phân 3 lần uống trước bửa ăn, dùng liền 2 ngày.

Điều trị 17 ca, 15 ca sau khi uống triệu chứng tiêu mất, ngừng phát cơn; 2 ca sau khi uống 4 thang khống chế phát tác. Sau 4 tháng có 2 ca tái phát, vẫn dùng hà thủ ô trị khỏi. Thời gian nguyên trùng sốt rét chuyển âm đại thể sau khống chế triệu chứng là 2 ~ 21 ngày. Trong quá trình điều trị nói chung không có tác dụng phụ, chỉ cá biệt có hiện tượng tiêu chảy và đau bụng ngầm nhẹ.

(*Từ điển)

+ Phương thuốc 10:

– Chủ trị: Huyết hư, tóc bạc sớm.

– Thành phần: Hà thủ ô chế 30g, Trứng gà 1 ~ 2 trái.

– Cách dùng: Lấy Hà thủ ô sắc nước 2 lần bỏ bã, cho vào trứng gà nấu chín ăn, mỗi ngày 1 lần, liên tục dùng 30 ~ 60 ngày.

+ Phương thuốc 11:

– Chủ trị: Chứng cholesterol máu cao.

– Thành phần: Hà thủ ô sống 900g.

– Cách dùng: Sấy khô nghiền nhỏ, mỗi lần 15g, uống với nước sôi ấm, mỗi ngày 2 lần, uống liên tục 30 ngày.

(Còn gọi Dạ miêu, Dạ hợp, Năng tự, Giao đằng)

Theo “Dược phẩm vựng yếu”

Hà thủ ô

Khí vị:

Vị đắng, chát, hơi ôn, vào kinh Túc quyết âm và Túc thiếu âm, tính thăng lên, là dương dược, gặp được Ngưu tất thì đi xuống, Bạch linh làm sứ, kỵ mọi thứ huyết, La bặc, đồ dùng bằng sắt và cá không vảy. Một thuyết nói: kỵ cùng dùng với các vị thuốc có tính táo như Thiên hùng, Ô đầu, Phụ tử, Tiên mao, Khương, Quế, là vì Thủ ô có công dụng bổ phần vinh cho huyết.

Chủ dụng:

Chữa tràng nhạc, ung thư, mẩn ngứa ở đầu mặt, mạnh gân xương, đẹp nhan sắc, thêm huyết, khí, khỏi đau bụng, bổ chân âm, điều trị hư lao, uống lâu thêm tinh, làm cho người ta có con, chữa 5 chứng tri, xanh râu tóc, mạnh tinh, thêm tủy, chữa phụ nữ bị đới hạ. Tóm lại có công năng điều hòa khí huyết, trị sốt rét lâu ngày, kiết lỵ lâu ngày, khí huyết không điều hòa. Nó là thuốc rất tốt của 2 kinh Can và Thận. Mùi vị ngọt, ôn thì trừ phong, thêm huyết, thu sáp lại thì liễm được âm. Lấy cũ lâu năm to lớn bào chế cho tinh uống vào trẻ lâu, tăng tuổi thọ, còn như chữa ngoài thì chườm nóng đều có công hiệu.

Cách chế:

Có 2 loại Thư và Hùng, Hùng thì mầm nó sắc vàng trắng, Thư thì mầm nó sắc vàng đỏ, dùng dao Tre thái lát, ngâm nước vo gạo một đêm, phơi khô dùng, hoặc cùng đồ với Đậu đen, chín lần đồ, chín lần phơi.

Nhận xét:

Hà thủ ô bổ âm mà không trệ, không hàn, mạnh khí dương mà không táo, không nhiệt. Bẩm thụ khí xung hòa, được khí thuần túy của trời đất. Ngày xưa có ông già họ Hà thấy giây nó ban đêm quấn lại với nhau, đào lấy cũ sắc uống, tóc dần xanh lại, sau sinh nhiều con, nên đặt tên cho nó là Hà thủ ô, thế đủ biết Hà thủ ô có công dụng bổ Thận, ích tinh. Thục địa và Thủ ô đều là thuốc bổ âm, nhung Thục địa bẩm thụ khí giữa mùa Đông để sinh, nấu và phơi cho đến màu đen thì chuyên vào Thận mà tư nhuần cho chân Thủy của “Thiên nhất” mà sinh ra, lại bổ cả cho Can vì tư nhuần cho Thận mà liên cập đến, Thủ ô bấm thọ khí mùa Xuân để sinh, lại do phong mộc hóa ra, thông với Can là dương ở trong âm dược cho nên chuyên đi về kinh Can mà có tác dụng ích huyết, trừ phong, bổ cả Thận cũng nhân bổ Can mà tác dụng đến.

Một bên là thuốc bổ mạnh cho chân âm của Tiên thiên, có công cứu được ngay bệnh nguy do cô dương cang thịnh. Một bên thì cần dùng để bổ cho Vinh huyết hậu thiên, để nuôi tinh thần, trừ bệnh tật, điều nguyên khí. Chân âm của Tiên thiên và Hậu thiên không giống nhau, thì công hiệu cũng có hoặc chậm, hoặc nhanh, hoặc nhẹ, hoặc nặng rất khác nhau. Huống nữa tên gọi là Dạ hợp, là Năng tự thì trong bổ huyết lại có cả bổ dương, không phải như Thục địa công năng chỉ chuyên về tư nhuần cho Thủy, khí bạc mà vị hậu, là vị thuốc trọng trọc trong loại thuốc trọng trọc, có tác dụng cứng mạnh gân xương mà thôi.

GIỚI THIỆU THAM KHẢO

“Y phương tập giải”

Bài Thất bảo mỹ nhiệm đan

Hà thủ ô 200g, Bạch linh 500g, Ngưu tất 500g, Bổ cốt chỉ 160g, Đương quy 500g, Câu kỷ từ 500g, Thỏ ty tử 500g.

Cùng tán nhỏ, thêm Mật làm hoàn, liều uống 12-16g, ngày 2 lần.

Chữa Can Thận bất túc, râu tóc sớm bạc, răng lung lay, di, mộng, hoạt tinh, băng lậu, đới hạ, lưng gối mềm yếu.

“Thiên gia diệu phương”

Bài Tư âm nhuận táo phương gia vị

Sinh Hà thủ ô 15g, Đại phúc bì 12g, Sinh Chỉ xác 9g, Quất diệp 9g, Ngọc trúc 9g, Thanh bì 6g, Trần bì 6g, Ô dược 9g.

Sắc, chia uống vài lần trong ngày. Có tác dụng điều khí, lợi trung, hòa Vị, nhuận tràng. Chữa ruột khô không nhuận, khỉ trệ gây đầy trướng, đại tiện bí kết.

“Hướng dẫn sử dụng các bài thuốc”

Bài Đương quy ẩm tử

Đương quy 10g, Sinh địa 8g, Xuyên khung 6g, Phòng phong 6g, Bạch thược 6g, Bạch tật lê 6g, Hoàng kỳ 4g, Hà thủ ô 4g Kinh giới 4g, Cam thảo 2g. sắc, chia uống 2 lần trong ngày. Có tác dụng bổ huyết, dưỡng da.

Chữa những người âm huyết kém, không dưỡng được da, khô da, sinh ngứa, nặng thì sinh eczema, viêm ngứa không ướt, sinh mề đay…

Bài Gia vị tam ô nhân trần thang (Thiên gia diệu phương)

Đan bì 9g, Thuyền y 9g, Sinh địa 12g, Đương quy 4g, Cam thảo 6g, Ô mai 9g, Ô đậu y 9g, Thủ ô 15g, Nhân trần 15g. sắc, chia uống 3 lần trong ngày.

Có tác dụng dưỡng âm, bổ Can Thận, lợi thấp.

Chữa viêm Gan mạn kéo dài. (người bệnh miệng khô, đắng, lưỡi đỏ, rêu vàng mỏng, mạch huyền, tế, sác.).

Bài Giáng chỉ ẩm (Thiên gia diệu phương)

Sơn tra 15g, Hà thủ ô 15g, Quyết minh tử 15g, Câu kỷ tử 10g, Đan sâm 20g. sắc, chia uống vài lần trong ngày.

Có tác dụng ích âm, hoạt huyết.

Chữa lipid huyết tăng. (Người bệnh lưỡi đỏ xỉn, mạch huyền tế, rất mệt mỏi. Điều trị phải kéo dài).

Các phương thuốc bổ dưỡng thường dùng:

Hà thủ ô tửu (rượu Hà thủ ô)

Chế thủ ô 30g – Trắc bách diệp 15g

Đương qui thân 20g – Lá thông 30g

Vảy tê tê 20g – Ngũ gia bì 30g

Sinh địa 20g – Chế xuyên ô 3g

Thục địa 20g – Thảo ô 3g

Mỡ ha sư ma 20g – Hoàng tửu 3000 ml

Các vị trên nghiền chung cho nát, bỏ vào túi vải, ngâm rượu, sau 7 ngày đem ra uống. Uống lúc đói tùy tửu lượng.

Dùng để chữa bệnh vẩy nến.

Phản lão hoàn đồng trà (trà cải lão hoàn đồng)

Chế thủ ô 30g – Hoè giác 18g

Ô long trà 3g – vỏ bí đao 18g

Cùi sơn tra 15g

Bốn vị hoè giác, hà thủ ô, vỏ bí đao và cùi sơn tra, cho nước vào sắc chung, pha trà ô long, uống thay trà.

Dùng cho người do chất đảm cố thuần trong máu tăng lên dẫn tới xơ cứng động mạch, lại có thể tăng tính đàn hồi cho các mạch máu và có tác dụng dự phòng.

Thủ ô chúc (Cháo hà thủ ô)

Chế thủ ô 15g – Gạo tẻ 30 – 60g

Trước hết bỏ thủ ô vào nồi đất ninh nhừ, bỏ bã lấy nước

nấu cháo ăn. Dùng để chữa các chứng khí huyết bất túc, sắc mặt vàng vọt, chân tay đau nhức, chân nhũn bất lực, thân thể gầy mòn.

Thủ ô đại táo chúc (Cháo hà thủ ô, táo tầu).

Chế thủ ô 30g – Táo tầu 3 quả

Gạo lức 100g – Đường phèn vừa phải.

Trước hết bỏ chế thủ ô vào siêu đất sắc lấy nước bỏ bã,

cho gạo lức, táo tầu đường phèn vào nấu thành cháo. Ăn vào hai bữa sớm, tối.

Dùng cho người già can thận bất túc, âm huyết khuy tổn, dẫn tới đầu váng tai ù, sớm bạc tóc, thiếu máu, suy nhược thần kinh, và người già lượng mỡ trong máu cao, xơ cứng động mạch, đại tiện táo bón v.v…

Thủ ô diên thọ thang (thang thuốc trường thọ hà thủ ô)

Chế thủ ô 25g – Hạn liên thảo 10g

Nữ trinh tử 10g

Đem sắc lên uống. Ngày 1 thang, chia 2 lần, buổi sớm, buổi tối.

Dùng cho người can thận âm huyết bất túc sinh ra đầu váng mắt hoa, ù tai mất ngủ, râu tóc sớm bạc.

Thủ ô ngải diệp tẩy dịch (Nước tắm hà thủ ô, lá ngải)

Hà thủ ô tươi và lá ngải liều lượng ngang nhau, sắc đặc, đổ ra chậu mà rửa.

Dùng để chữa bệnh ghẻ lở toàn thân sinh ra ngứa ngáy.

Hà thủ ô du nhục chử kê đản (Hà thủ ô, sơn thù du hầm trứng gà)

Chế thủ ô 30g – Sơn du nhục 9g

Trứng gà 3 quả

Chế thủ ô và sơn du nhục sắc bỏ bã lấy nước, cho trứng gà vào nấu chín. Ăn trứng uống thang ngày hai lần vào 2 buổi sớm, tối; uống mấy ngày liền. Dùng để chữa bệnh sa dạ con.

Hà thủ ô chử kê đản (Hà thủ ô nấu với trứng gà)

Chế thủ ô 60g – Trứng gà 2 quả

Cho nước vào hầm chung. Trứng chín thì đập bỏ vỏ, bỏ vào nồi thang đun thêm một lát. Ăn trứng uống thang.

Dùng cho người huyết hư thể nhược, đầu váng mắt hoa, râu tóc bạc sớm, di tinh, rụng tóc, khí hư quá nhiều, huyết hư, táo bón v.v…

Thủ ô ý mễ tửu (Rượu hà thủ ô, hạt ý dĩ)

Chế thủ ô 180g – Hạt ý dĩ tươi 120g

Rượu trắng 500ml

Ngâm rượu sau nửa tháng là uống được. Ngày uỗng hai lần vào hai buổi sớm, tối, mỗi lần 10 – 20 ml.

Dùng cho người thận hư, phong hàn, đau lưng.

Thủ ô linh chi ẩm (thuốc sắc hà thủ ô, linh chi)

Chế thủ ô 20g – Linh chi 10g

Sắc uống ngày 1 thang, uống 2 lần sớm, tối.

Dùng cho người huyết hư mất ngủ.

Thủ ô huyền sâm ẩm (Thuốc sắc hà thủ ô, huyền sâm)

Hà thủ ô tươi 20g – Huyền sâm 10g

Sắc uống ngày 1 thang chia hai lần sớm, tối.

Dùng cho người đại tiện táo.

Thủ ô câu đằng ẩm (Thuốc sắc hà thủ ô, câu đằng)

Chế thủ ô 30g – Câu đằng 20g

Sắc uống ngày một thang chia 2 lần sớm, tối.

Dùng cho người già váng đầu, cao huyết áp.

Hà thủ ô ôi kê (Hà thủ ô ninh gà)

Chế thủ ô 30g nghiền bột.

Gà mái một con thịt bỏ lỏng và lòng ruột, rửa sạch.

Đựng bột hà thủ ô vào túi vải, đặt vào trong bụng gà,

thêm nước vừa phải, ninh chín, lấy túi thuốc ra, cho mắm muối gừng sống, rượu gia vị vừa phải là được. Ăn thịt uống thang.

Dùng cho người huyết hư, can âm hư dẫn tới mắt hoa đầu váng, mất ngủ, lòi dom, sa dạ con v.v…

Thủ ô cần thái chúc (Cháo hà thủ ô, rau cần)

Chế thủ ô 50g – Rau cần 100g

Thịt nạc băm vụn 50g – Gạo lức 100g

Hà thủ ô bỏ vào âm đất sắc đặc lấy nước, bỏ thịt nạc, gạo lức vào nãíi cháo, thêm muối, mì chinh, gia vị vào la ăn được.

Dùng để phòng trị các bệnh về hệ thống tim mạch, làm chậm quá trình xơ cứng động mạch.

Thủ ô thục địa thang (Thang thục địa ha thủ ô)

Chế thủ ô 15g – Thục địa 15g

Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần, dùng cho người huyết hư, bạc tóc.

Thủ ô sinh địa trà (Trà thủ ô sinh địa)

Chế thủ ô 16g

Sinh địa 30g (rửa bằng rượu)

Bỏ vào ấm sứ, rót nước sôi vào uống thay trà. Cứ 3 ngày thay thuốc 1 lần, uống liền trong 3 tháng.

Dùng cho người chưa già đã suy yếu, thân thể hư nhược và râu tóc bạc sớm.

Thủ ô xương bồ thang (Thang Hà thủ ô xương bồ)

Chế thủ ô 12g – Xương bồ 6g

Hoàng tinh 12g – Uất kim 6g

Bách tử nhân 12g – Nguyên hồ 3g

Sắc uống ngày 1 thang chia ba lần

Dùng cho người bị hẹp van tim, đau tức ngực do huyết hư sinh ra.

Thủ ô, đỗ trọng ẩm (Thuốc sắc hà thủ ô, đỗ trọng)

Chế thủ ô 13g – Đỗ trọng 10g

Câu kỷ tử 13g – Thục địa 10g

Sắc uống ngày một thang chia 3 lần.

Dùng cho người đầu váng mắt hoa do can thận tinh huyết bất túc sinh ra.

Bài viết liên quan
Bài viết cùng danh mục

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây