Rối loạn lo âu là sự lo sợ quá mức trước một tình huống xảy ra, có tính chất mơ hồ, vô lý, lặp lại và kéo dài gây ảnh hưởng tới sự thích nghi với cuộc sống.
Nguyên nhân lo âu gồm nhiều yếu tố khác nhau, nhưng chủ yếu liên quan tới các sang chấn tâm lý kết hợp với yếu tố nhân cách có xu hướng lo âu.
CHẨN ĐOÁN
Các rối loạn lo âu hay gặp ở trẻ em như:
Rối loạn lo âu ám ảnh sợ
- Ám ảnh sợ đặc hiệu: sợ các tình huống rất đặc hiệu như sợ tối gần các động vật, sợ ở chỗ cao, sợ bóng tối, sợ chỗ đóng kín…
- Ám ảnh sợ khoảng trống: lo âu hoảng sợ khi ra khỏi nhà, sợ đi vào các cửa hàng, sợ đám đông và các nơi công cộng, sợ đi một mình…
- Ám ảnh sợ xã hội: sợ ăn uống ở nơi công cộng, sợ nói trước công chúng, sợ gặp người khác giới…
Rối loạn ám ảnh nghi thức
Làm nhiều lần trong ngày.
Các động tác như: rửa tay nhiều lần, kiểm tra nhiều lần một việc, sắp xếp các đồ vật theo một cách thức nhất định, các động tác nghi thức bất thường…
Rối loạn lo âu chia ly
Trẻ lo lắng có điều không may sẽ xảy ra với người mà trẻ gắn bó (thường là mẹ), trẻ không chịu đi học do sợ phải chia ly với người gắn bó, không chịu ngủ một mình hoặc ở nhà một mình, xuất hiện những triệu chứng giận dữ, khóc lóc hoặc buồn rầu.
Rối loạn hoảng sợ (lo âu kịch phát từng giai đoạn)
Có những cơn lo âu xảy ra nhiều lần trong mỗi tháng. Trong cơn có nhiều triệu chứng rối loạn thần kinh tự trị trầm trọng.
Rối loạn lo âu lan toả
Người bệnh cảm thấy thường xuyên lo lắng sợ hãi về tương lai bất hạnh, căng thẳng vận động, bồn chồn run rẩy, không có khả năng thư giãn và khó tập trung chú ý.
Rối loạn stress sau sang chấn
Các triệu chứng điển hình thường xảy ra trong vòng 6 tháng kể từ thời điểm bị sang chấn, bao gồm: sự tái hiện những hình ảnh của sang chấn trong giấc mơ, cảm xúc thờ ơ hoặc tê liệt, né tránh các kích thích thu mình hoặc không đáp ứng với môi trường xung quanh, mất thích thú, hay bị giật mình, mất ngủ.
Các trắc nghiệm tâm lý cần làm để xác định lo âu:
- Test lo âu của Zung.
- Bảng liệt kê hành vi ở trẻ em (thang đo CBCL của Achenbach).
- Vẽ tranh, kể theo 10 câu chuyện của Duss, CAT.
ĐIỀU TRỊ
Nguyên tắc điều trị lo âu chủ yếu là bằng các liệu pháp tâm lý, nếu cần dùng thuốc thì không dùng kéo dài và không dùng nhiều loại thuốc.
Sử dụng thuốc
Điều trị thuốc khi lo âu nặng nhằm làm giảm các triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật và các triệu chứng cơ thể ở giai đoạn đầu.
- Nhóm thuốc giải lo âu: benzodiazepam (Seduxen, tranxen…) hoặc atarax uống với liều thấp; seduxen với liều 0,1 – 0,2mg/kg/ngày. Khi người bệnh có cơn hoảng sợ có thể cho tiêm bắp seduxen liều 5 – 10mg/lần.
- Thuốc chống trầm cảm: amitriptylin có thể chỉ định cho những bệnh nhân có nhiều than phiền về cơ thể hoặc có kết hợp bị trầm cảm, uống theo liều 25 – 50mg/ngày. Đối với bệnh nhân có các triệu chứng ám ảnh nên chỉ định Anafranil cũng với liều trên. Lưu ý các thuốc chống trầm cảm 3 vòng chỉ phát huy tác dụng điều trị sau khi uống thuốc từ 10 đến 14 ngày.
- Các vitamin và các yếu tố vi lượng như magie, ..
Các liệu pháp tâm lý
Đây là phương pháp điều trị chủ yếu và lâu dài nhằm thay đổi nhận thức và giúp người bệnh có khả năng ứng phó với lo âu một cách tích cực và chủ động.
- Tham vấn tâm lý.
- Liệu pháp thư giãn: hướng dẫn người bệnh những bài tập thả lỏng cơ bắp kết hợp với tập thở khí công.
- Liệu pháp hành vi – nhận thức: giúp cho người bệnh hiểu về bệnh, nhận ra những suy nghĩ chưa hợp lý và thay vào đó bằng những suy nghĩ hợp lý.
- Kết hợp trị liệu gia đình và liệu pháp nhóm.
Các điều trị hỗ trợ
Sinh hoạt điều độ, tránh căng thẳng, tổ chức cho người bệnh vui chơi, thường xuyên động viên bệnh nhân và gia đình.
Tiêu chuẩn ra viện và theo dõi ngoại trú
Bệnh nhân được ra viện khi các triệu chứng lo âu thuyên giảm và có khả năng trở lại sinh hoạt học tập bình thường, hẹn khám định kỳ ít nhất 1 lần trong 1 tháng.