Nhật Bản cho thấy ứng suất ô-xy hóa có thể hủy diệt các tế bào sản xuất insulin Rau má là một loại rau thông dụng có tác dụng sát trùng giải độc, thanh nhiệt lương huyết. Ngoài ra, rau má cũng là một loại dược thảo có tính bổ dưỡng rất cao, có nhiều sinh tố, khoáng chất, những chất chống oxy hóa, có thể dùng để dưỡng âm, cải thiện trí nhớ, làm chậm sự lão hóa, cải thiện vi tuần hoàn và chứa nhiều chứng bệnh về da.
Rau má hay tích tuyết thảo hoặc lôi công thảo (danh pháp hai phần: Centella asiatica) là một loài cây một năm thân thảo trong phân họ Mackinlayoideae của họ Hoa tán (Apiaceae), có nguồn gốc Australia, các đảo Thái Bình Dương, New Guinea, Melanesia, Malesia và châu Á. Tên khoa học đồng nghĩa là Hydrocotyle asiatica L., Trisanthus cochinchinensis
Mô tả
Thân
Thân cây rau má gầy và nhẵn, là loại thân bò lan, màu xanh lục hay llục ánh đỏ, có rễ ở các mấu. Nó có các lá hình thận, màu xanh với cuống dài và phần đỉnh lá tròn, kết cấu trơn nhẵn với các gân lá dạng lưới hình chân vịt. Các lá mọc ra từ cuống dài khoảng 5–20 cm. Bộ rễ bao gồm các thân rễ, mọc thẳng đứng. Chúng có màu trắng kem và được che phủ bằng các lông tơ ở rễ.
Hoa và lá rau má
Hoa rau má có màu trắng hoặc phớt đỏ [1], mọc thành các tán nhỏ, tròn gần mặt đất. Mỗi hoa được bao phủ một phần trong 2 lá bắc màu xanh. Các hoa lưỡng tính này khá nhỏ (nhỏ hơn 3 mm), với 5-6 thùy tràng hoa. Hoa có 5 nhị và 2 vòi nhụy. Quả có hình mắt lưới dày đặc, đây là điểm phân biệt nó với các loài trong chi Hydrocotyle có quả với bề mặt trơn, sọc hay giống như mụn cơm. Quả của nó chín sau 3 tháng và toàn bộ cây, bao gồm cả rễ, được thu hái thủ công.
Phân bố, sinh học và sinh thái
Chi Centella L. có khoảng 40 loài, phân bố ở Nam và Đông Nam châu Á. Ở Việt Nam, rau má mọc tự nhiên ở khắp nơi, ưa ẩm.
Mùa hoa quả: tháng 4-6.
Thành phần hóa học
Triterpen, tinh dầu, hợp chất polyacetylen, flavonoid (kaempferol, quercetin), steroid (β- sitosterol, stigmasterol, campestrol).
Một số bài thuốc dùng rau má
Bài 1. Rau má 8g, rễ tranh 8g, lá muồng trâu 4g, cỏ mần chầu 8g, cỏ mực 8g, cam thảo nam 8g, ké đầu ngựa 8g, củ sả 4g, gừng tươi 4g, vỏ quít 4g.
Đổ 3 chén nước sắc còn non một chén, uống lúc thuốc còn ấm.
Tác dụng: kích thích tiêu hóa, nhuận trường, lợi tiểu, giải độc.
Bài 2: Lá dâu tằm, mè đen, bột củ mài và rau má.
Mỗi vị ngang nhau, tán bột làm hoàn, mỗi hoàn khoảng 5g. Mỗi ngày dùng 2 lần, mỗi lần 1 hoặc 2 hoàn.
Có thể làm thuốc bổ dưỡng cho trẻ em, người già hoặc người ốm mới khỏi hoặc dùng làm lương khô mang theo khi đi xa phòng khi thiếu thốn thực phẩm.
Bài 3: Rau má 15%, hoạt thạch 30%, sắn dây 20%, sài hồ 15%, thạch cao 10%, cam thảo 10%.
Tán bột, ngày uống 3 lần, mỗi lần 4g.
Công dụng giảm nhiệt, hạ sốt, trừ khát, trấn kinh.
Bài 4. Rễ nhàu 16g, rễ kiến cò 12g, lá tre 12g, rễ tranh 12g, rễ cỏ xước 12g, rau má 16g, lá dâu 12g.
Sắc uống hoặc đóng viên làm trà uống thay nước hàng ngày.
Giúp hạ huyết áp.
Bài 5. Rau má 20g, cỏ mực 16g, rau sam 16g, đậu đen 16g, sắc uống.
Trị sốt xuất huyết.
Bài 6. Nước ép rau má là một cách sử dụng rau má đơn giản và thông dụng nhất. Nước ép rau má tươi có đầy đủ các hoạt chất và tác dụng đã đề cập. Mỗi người, mỗi ngày có thể dùng từ 30 đến 40g rau má tươi. Lá rau má rửa sạch, giã hoặc xay nát. Cho thêm một ít nước vào. Vắt và lọc bỏ xác. Thêm vào một ít đường cho dễ uống.
Một số cách sử dụng rau má đơn giản
- Rau má luộc chín, ăn cái và uống nước để chữa tiểu tiện đục, sỏi thận, sỏi bàng quang, ngày dùng 40-50g tươi.
- Rau má còn để chữa sốt, bệnh gan, thổ huyết, chảy máu cam. Tả lỵ, khí hư, bạch đới; ngày dùng 30-40g tươi, giã nát vắt lấy nước hoặc sắc lấy nước uống.
- Phụ nữ có kinh đau bụng, đau lưng dùng rau má phơi khô tán nhỏ, ngày uống 1 lần vào buổi sáng, mỗi lần 2 thìa cà phê.
- Khi bị rôm sảy, mẩn ngứa dùng rau má tươi trộn dầu, giấm, ăn hàng ngày hoặc giã nát vắt lấy nước uống.
- Nhiều tác giả nghiên cứu cho thấy hoạt chất của rau má là những saponin (axit Asiatic, axit brahmic) có tác dụng giúp các mô liên kết tái tạo nhanh chóng làm các tổn thương mau lành và lên da non.
- Rau má chế thành dạng cao khô rồi bào chế thành dạng viên nén 0,01g dùng chữa bệnh giãn tĩnh mạch, chứng nặng chân do máu ở tĩnh mạch chân chậm trở về tim, ngày uống 3-6 viên vào bữa ăn.
- Rau má dạng thuốc mỡ (1% cao rau má) hoặc thuốc bột để chữa vết bỏng, vết thương, các tổn thương ở da và niêm mạc (tai, mũi, họng).
- Rau có tác dụng tiêu viêm, sát trùng, cầm máu, dùng bên ngoài chữa các vết thương do ngã gãy xương, bong gân, đắp tan ung nhọt.
- Đối với bệnh ngứa do máu, (ở các lứa tuổi cả nam và nữ từ 50- 60 tuổi trở lên hay bị ngứa về mùa hè, ngứa từng đám ở cơ thể, ở chân tay. Khi cơn ngứa lên gãi khiến trầy da). Cách chữa: 50 gam rau má rửa sạch, vò nát, lọc qua nước sôi để nguội uống cùng vài hạt muối, uống 1 ngày 1 lần, khoảng 5 lần sẽ giảm bệnh rất nhiều.
Rau má dùng trong chữa bệnh
1. Hạ sốt
Khi trẻ bị sốt có thể dùng rau má, rửa sạch, vò nát, đổ xâm xấp nước, đun sôi nhỏ lửa khoảng 15 phút rồi chắt ra cốc lớn. Cứ khoảng một tiếng cho trẻ uống vài thìa. Trẻ sẽ giảm sốt.
2. Giúp tăng trí nhớ
Lá rau má sấy khô tán bột, uống chung với sữa mỗi ngày 3-5 gam sẽ có tác dụng tốt cho những người mắc bệnh suy giảm trí nhớ và thị lực.
3. Tốt cho các bệnh tim mạch
Rau má có thể giúp giảm sưng và cải thiện lưu thông trong cơ thể, nhất là với các bệnh liên quan đến tĩnh mạch như giãn tĩnh mạch và suy tĩnh mạch. Đối với những người thừa cân (béo phì), xơ vữa động mạch máu nếu ăn rau má lâu dài sẽ có tác dụng làm giảm lượng cholesterol trong máu và do đó làm cho các mạch máu mềm mại trở lại, hạn chế được những tai biến do xơ vữa động mạch máu gây ra.
4. Làm đẹp
Rau má không chỉ mát bổ lại làm đẹp rất hiệu quả. Đặc biệt đối với phái đẹp, rau má có những tác dụng “thần kỳ” đối với làn da của họ. Nước rau má có tác dụng dưỡng ẩm cho da, làm chậm sự lão hóa, cải thiện tuần hoàn và cải thiện trí nhớ… Không chỉ giúp ích cho quá trình thanh lọc cơ thể mà nó còn làm mát da, trị mụn và sẹo trên da.
5. Làm lành vết thương
Rau má có chứa hóa chất được gọi là triterpenoidscó công dụng tăng tốc độ chữa lành vết thương, tăng cường chất chống oxy hóa tại vị trí vết thương, tăng cường da và tăng cung cấp máu cho khu vực bị thương.
6. Giảm stress
Triterpenoids trong rau má cũng có thể làm giảm sự lo lắng và tăng cường chức năng tâm thần trong một số cá nhân. Ngoài ra, trong dân gian các thầy lang đã dùng rau má để điều trị cho các bệnh như bệnh vẩy nến, eczema, nhiễm trùng hô hấp, viêm loét, cảm lạnh, viêm gan, động kinh, mệt mỏi, sốt, hen suyễn và bệnh giang mai… Đồng thời, rau má còn có tác dụng trong việc điều trị chứng mất ngủ, xơ cứng bì, ung thư, rối loạn tuần hoàn, tăng huyết áp, mất trí nhớ, liền sẹo và giảm nốt cục trên da cellulite.
7. Chữa mụn nhọt:
Rau má 50g, lá gấc 50g. Cách dùng: Rửa cả hai thứ thật sạch, giã nhỏ, cho ít muối vào trộn đều, đắp lên chỗ đau rồi băng lại. Ngày thay thuốc hai lần. Đắp đến khi khỏi.
8. Chữa vàng da, vàng mắt:
Rau má 50g, lá ngải cứu 50g. Đem hai thứ rửa sạch, đun nước uống hàng ngày.
9. Chữa kiết lỵ:
Bài 1 (rau má 150g, muối ăn 10g). Rửa rau má thật sạch, để ráo nước, cho vào cối sạch, bỏ muối vào, giã thật nhỏ, sau chế thêm một bát nước sôi, quấy đều, để lắng, gạn lấy nước trong uống. Người lớn uống cả một lần, trẻ em tuỳ theo tuổi mà giảm liều lượng. Khi uống thuốc nên ăn cháo, kiêng các thứ khó tiêu, kiêng mỡ, các thức ăn tanh, cay, nóng; Bài 2, rau má, rễ cây ngải cứu, rễ cỏ may, rễ mơ lông, liều lượng bốn vị bằng nhau (khoảng 100g), sao vàng, hạ thổ, sắc uống ngày hai lần cho tới khi khỏi.
10. Chữa chảy máu cam: Rau má giã nhỏ, vắt lấy nước, uống mỗi ngày 2 – 3 lần trong 5 ngày liền.
11. Chữa sốt xuất huyết nhẹ tại nhà:
Rau má 30g, cỏ nhọ nồi 30g, lá và bông mã đề 20g (hay lá cối xay, rễ cỏ tranh). Đem các vị rửa sạch, giã nhỏ, cho nước sôi vào vắt lấy nước uống, hoặc sắc uống.
Rôm sẩy không chỉ gây ngứa ngáy khó chịu mà còn có thể gây biến chứng viêm cầu thận, nhiễm trùng lan rộng rất nguy hiểm. Đông y có vài bài thuốc trị rôm sảy mang lại kết quả tốt.
Lưu ý
Rau má có tính lạnh nên những người có Tỳ Vị hư hàn, hay đầy bụng hoặc đi tiêu lỏng cần cẩn thận khi dùng. Những trường hợp này chỉ nên dùng vài lá mỗi lần hoặc khi dùng kèm theo một vài lát gừng sống. Dùng ngoài da không giới hạn.