Cảm giác nóng rát và trào ngược là những triệu chứng phổ biến và điển hình của Bệnh trào ngược dạ dày thực quản. Cảm giác nóng rát đề cập đến cảm giác bỏng rát ở xương ức sau, trong khi trào ngược chỉ cảm giác thức ăn trong dạ dày chảy ngược lên họng và khoang miệng; cảm giác nóng rát và trào ngược là những triệu chứng điển hình nhất của Bệnh trào ngược dạ dày thực quản, nhưng tần suất xuất hiện của chúng ở bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản cao tuổi thường thấp hơn so với bệnh nhân không cao tuổi. Một nghiên cứu với 264 bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản cao tuổi và 417 bệnh nhân không cao tuổi cho thấy tần suất cảm giác nóng rát và trào ngược ở bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản cao tuổi lần lượt là 52,3% và 42,4%, nhưng cả hai đều thấp hơn đáng kể so với các bệnh nhân không cao tuổi, với tần suất cảm giác nóng rát và trào ngược ở bệnh nhân không cao tuổi lần lượt là 62,1% và 68,6%.
Độ nặng của cảm giác nóng rát ở bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản cao tuổi không tương xứng với mức độ tổn thương thực quản; triệu chứng của bệnh nhân có thể không điển hình hoặc thậm chí không có triệu chứng, và họ đã có những biến chứng nghiêm trọng vào thời điểm điều trị. Một nghiên cứu với 195 bệnh nhân cao tuổi có độ tuổi trung bình là 74 tuổi cho thấy 50% bệnh nhân viêm thực quản không có triệu chứng cảm giác nóng rát. Một nghiên cứu quy mô lớn khác với gần 12.000 bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản cho thấy tỷ lệ viêm thực quản loét nặng tăng dần theo tuổi tác, với 12% ở bệnh nhân dưới 21 tuổi và 37% ở bệnh nhân trên 70 tuổi; trong số những bệnh nhân viêm thực quản nặng, tỷ lệ triệu chứng nóng rát nghiêm trọng giảm dần theo tuổi, với 82% ở bệnh nhân dưới 21 tuổi và 34% ở bệnh nhân trên 70 tuổi. Điều này cho thấy mặc dù tỷ lệ viêm thực quản loét nặng tăng theo tuổi, nhưng độ nặng của cảm giác nóng rát lại không tương xứng với nó.
Một số bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản không có triệu chứng điển hình như cảm giác nóng rát hoặc trào ngược, nhưng lại xuất hiện các triệu chứng không điển hình như cảm giác nóng rát vùng thượng vị, ợ hơi, khó nuốt, đau vùng thượng vị hoặc đau ngực. Một nghiên cứu với 264 bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản cao tuổi và 417 bệnh nhân không cao tuổi cho thấy tỷ lệ cảm giác nóng rát vùng thượng vị, ợ hơi, khó nuốt, đau vùng thượng vị và đau ngực ở bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản cao tuổi lần lượt là 36,0%, 33,7%, 29,5%, 18,2% và 17,8%; tỷ lệ cảm giác nóng rát vùng thượng vị, khó nuốt, đau vùng thượng vị và đau ngực ở bệnh nhân không cao tuổi lần lượt là 24,5%, 13,4%, 12,5% và 8,4%, tất cả đều thấp hơn đáng kể so với bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản cao tuổi. Một nghiên cứu khác có 114 bệnh nhân trẻ bị viêm thực quản trào ngược (<50 tuổi), 126 bệnh nhân trưởng thành bị viêm thực quản trào ngược (50–69 tuổi), 425 bệnh nhân cao tuổi bị viêm thực quản trào ngược (70–84 tuổi) và 175 bệnh nhân rất cao tuổi bị viêm thực quản trào ngược (≥85 tuổi) cho thấy tỷ lệ khó nuốt tăng theo độ tuổi.
Ý kiến đồng thuận 6: Cảm giác nóng rát và trào ngược vẫn là những triệu chứng điển hình và phổ biến nhất ở bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản cao tuổi, nhưng tỷ lệ xuất hiện của chúng thấp hơn so với bệnh nhân trưởng thành và trẻ tuổi (các mức độ khuyến nghị: A+, 71%; A, 24%; A−, 5%. Mức độ bằng chứng: Chất lượng cao).
Ý kiến đồng thuận 7: Độ nặng của cảm giác nóng rát ở bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản cao tuổi không thể dự đoán mức độ tổn thương thực quản, và độ nặng của cảm giác nóng rát không tương xứng với mức độ viêm thực quản loét (các mức độ khuyến nghị: A+, 61%; A, 33%; A−, 6%. Mức độ bằng chứng: Chất lượng cao).
Ý kiến đồng thuận 8: Cảm giác nóng rát vùng thượng vị, ợ hơi, khó nuốt, đau vùng thượng vị, đau ngực, v.v. là những triệu chứng không điển hình phổ biến ở bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản cao tuổi, và tỷ lệ xuất hiện của chúng cao hơn so với bệnh nhân không cao tuổi mắc Bệnh trào ngược dạ dày thực quản (các mức độ khuyến nghị: A+, 56%; A, 42%; A−, 2%. Mức độ bằng chứng: Chất lượng cao).
Bệnh nhân cao tuổi mắc Bệnh trào ngược dạ dày thực quản có thể gặp phải đau ngực; đồng thời, tỷ lệ mắc bệnh mạch vành ở người cao tuổi cũng tăng lên đáng kể. Đau ngực do tim mạch gây ra bởi bệnh động mạch vành cũng là một trong những nguyên nhân phổ biến gây đau ngực ở người cao tuổi. Để tránh những hậu quả nghiêm trọng không thể đảo ngược có thể do việc điều trị bệnh tim bị trì hoãn, đối với những bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản cao tuổi có đau ngực, cần phải loại trừ đau ngực do tim trước tiên. Mặt khác, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng trào ngược dạ dày thực quản là phổ biến ở bệnh nhân mắc bệnh động mạch vành, với tỷ lệ từ 40% đến 50%. Trong số đó, đau ngực ở 40% đến 70% bệnh nhân có liên quan trực tiếp đến trào ngược dạ dày thực quản. Hơn nữa, những loại thuốc thường được sử dụng để điều trị bệnh động mạch vành, như nitrates, calcium antagonists và thuốc chống kết tập tiểu cầu, có thể gây ra hoặc làm trầm trọng thêm Bệnh trào ngược dạ dày thực quản. Vì những lý do trên, cần nghi ngờ Bệnh trào ngược dạ dày thực quản ở những bệnh nhân cao tuổi mắc bệnh động mạch vành và cơn đau ngực không điển hình hoặc dai dẳng; các nghiên cứu trước đây đã cho thấy rằng các thuốc ức chế bơm proton có thể làm giảm đáng kể cơn đau ngực và cải thiện chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân mắc bệnh động mạch vành và Bệnh trào ngược dạ dày thực quản sau liệu pháp ức chế acid. Trong thực tiễn lâm sàng, thường rất khó để phân biệt giữa đau ngực do thực quản và đau ngực do tim ở người cao tuổi, và cần các bác sĩ tiêu hóa và tim mạch có kinh nghiệm cùng đánh giá tình trạng của bệnh nhân và đưa ra những phán đoán chính xác.
Các triệu chứng ngoài thực quản của Bệnh trào ngược dạ dày thực quản bao gồm cảm giác có dị vật trong họng, kích ứng họng, ho mãn tính, trào ngược hầu họng, khàn tiếng, khó chịu trong họng, hen phế quản trào ngược, viêm tai giữa và viêm xoang trào ngược. Tỷ lệ xuất hiện của những triệu chứng này ở bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản cao tuổi cao hơn so với bệnh nhân không cao tuổi. Một nghiên cứu với 222 bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản cao tuổi từ 65 tuổi trở lên cho thấy tỷ lệ khàn tiếng mãn tính, ho mãn tính và thở khò khè lần lượt là 26,9%, 23,4% và 37,8%. Một nghiên cứu khác với 264 bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản cao tuổi và 417 bệnh nhân không cao tuổi cho thấy tỷ lệ triệu chứng ngoài thực quản ở bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản cao tuổi lên tới 49,6%, cao hơn so với bệnh nhân không cao tuổi mắc Bệnh trào ngược dạ dày thực quản (38,1%). Bệnh phổi kẽ vô căn (IPF) phổ biến hơn ở những người trên 50 tuổi. Hiện nay, tài liệu báo cáo rằng Bệnh trào ngược dạ dày thực quản là yếu tố nguy cơ độc lập cho bệnh phổi kẽ vô căn, và Bệnh trào ngược dạ dày thực quản có tỷ lệ cao ở bệnh nhân IPF.
Ý kiến đồng thuận 9: Nếu bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản cao tuổi có đau ngực, trước tiên phải loại trừ đau ngực do tim mạch và chú ý đến Bệnh trào ngược dạ dày thực quản ở những bệnh nhân cao tuổi mắc bệnh động mạch vành (các mức độ khuyến nghị: A+, 71%; A, 29%. Mức độ bằng chứng: Chất lượng cao).
Ý kiến đồng thuận 10: Tỷ lệ xuất hiện của các triệu chứng ngoài thực quản ở bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản cao tuổi là cao (các mức độ khuyến nghị: A+, 71%; A, 29%. Mức độ bằng chứng: Chất lượng cao).
Xét rằng tỷ lệ mắc các khối u đường tiêu hóa tăng theo độ tuổi và triệu chứng Bệnh trào ngược dạ dày thực quản ở người cao tuổi không nhất quán với mức độ nghiêm trọng của bệnh, cùng với thực tế rằng nội soi dạ dày được thực hiện rộng rãi ở Trung Quốc và chi phí ngày càng thấp, nội soi có thể trở thành lựa chọn tốt nhất cho chẩn đoán bệnh Bệnh trào ngược dạ dày thực quản ở người cao tuổi. Nội soi đường tiêu hóa có thể giúp phát hiện các tổn thương và biến chứng thực quản sớm, như viêm thực quản và hẹp thực quản, cùng với việc lấy mẫu mô cho xét nghiệm mô học để xác định bệnh lý ung thư. Hơn nữa, việc nội soi cũng có thể phát hiện sớm các khối u đường tiêu hóa trên, giúp cải thiện tỷ lệ sống sót cho bệnh nhân. Tuy nhiên, do độ tuổi và tình trạng sức khỏe của người cao tuổi mà một số bệnh nhân có thể không có khả năng thực hiện nội soi; do đó, cần có sự đánh giá lâm sàng toàn diện trước khi thực hiện nội soi. Các xét nghiệm không xâm lấn như theo dõi pH thực quản hoặc đo áp lực thực quản cũng có thể giúp đánh giá mức độ nghiêm trọng của Bệnh trào ngược dạ dày thực quản, nhưng khả năng tiếp cận hạn chế.
Ý kiến đồng thuận 11: Nội soi đường tiêu hóa nên được xem xét cho bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản cao tuổi, đặc biệt là khi có các triệu chứng không điển hình, để đánh giá mức độ nghiêm trọng của bệnh (các mức độ khuyến nghị: A+, 75%; A, 25%. Mức độ bằng chứng: Chất lượng cao).
Ý kiến đồng thuận 12: Ở những bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản cao tuổi có triệu chứng không điển hình, các xét nghiệm không xâm lấn như theo dõi pH thực quản hoặc đo áp lực thực quản cũng nên được xem xét (các mức độ khuyến nghị: A+, 67%; A, 33%. Mức độ bằng chứng: Chất lượng cao).