Căn nguyên
Bệnh được phát hiện lần đầu tiên ở California (Hoa Kỳ), nên thường quen gọi là viêm não California. Nhưng thực tế, căn nguyên của bệnh là virut la Crosse. Virut la Crosse có 13 nhóm huyết thanh (serogroup), một số nhóm có khả năng gây bệnh cho người như virut Jamestown Canyon, virut Inkoo, virut Trivittatus… virut Jamestown Canyon thường gây ra những viêm não nặng ở người lớn với các biểu hiện rối loạn hô hấp…
Đặc điểm dịch tễ
- Trung gian truyền bệnh là giống muỗi Aedes, trong đó chủ yếu là muỗi triseriatus. Gần đây, thấy muỗi A. albopictus cũng đóng vai trò truyền bệnh rất quan trọng gây viêm não cho loài hổ ở châu á và truyền bệnh viêm não cho chuột.
- Nguồn bệnh chủ yếu trong tự nhiên là loài sóc chuột ở Nam Hoa Kỳ. Muỗi Aedes vừa là trung gian truyền bệnh, vừa là nguồn bệnh vì muỗi có thể truyền virut cho đời sau qua trứng.
- Bệnh gặp nhiều ở các tháng 6 – 9 hàng năm.
- ở những vùng có bệnh lưu hành, tỷ lệ kháng thể tìm thấy trong huyết thanh ≥ 20%. Bệnh thường gặp ở trẻ em < 15 tuổi.
Đặc điểm lâm sàng
- Có thể gặp một số tiền triệu như sốt, nhức đầu, ngủ lịm, buồn nôn và nôn…
- Co giật (gặp ở 58% số bệnh nhân).
- Hôn mê (1/3 số bệnh nhân).
- Những triệu chứng thần kinh hay gặp là: cơn động kinh cục bộ, bại nửa người, run cơ, múa vờn, mất vận động ngôn ngữ, Babinski (+)…
- Xét nghiệm: bạch cầu máu ngoại vi thường tăng cao (có thể đến 20000/mm3), công thức bạch cầu chuyển trái.
- Dịch não tuỷ: tế bào thường tăng (30 – 500/mm3), chủ yếu là lympho, nhưng số ít bệnh nhân có thể bạch cầu trung tính chiếm 25 – 90%. Protein bình thường hoặc tăng nhẹ, glucose bình thường.
- Tiến triển: ít thấy có di chứng, chỉ khoảng 10% bệnh nhân có cơn động kinh tái phát, một số ít trẻ có thiểu năng tinh thần và rối loạn nhân cách…
- Phân lập virut từ não tử thi.
Chẩn đoán
- Tìm kháng thể đặc hiệu chống virut lớp IgM trong huyết thanh và trong dịch não tuỷ.