Bệnh Nấm men thường do vi nấm Candida albicans gây ra, là loài vi nấm hạt men sống hoại sinh thường xuyên ở ống tiêu hóa của người gây bệnh khi có yếu tố thuận lợi như thai nghén, dùng thuốc (kháng sinh, ngừa thai, corticoids, giảm miễn dịch) hay trên cơ địa có suy giảm miễn dịch (đái tháo đường, bệnh nội tiết, khiếm khuyết miễn dịch mắc phải).
BỆNH NẤM HẠT MEN Ở DA
Nếp: Thương tổn nếp lớn, nếp nhỏ. cần điều trị bôi kháng nấm với dẫn xuất Imidazoles hay Ciclopiroxolamin dạng kem. Nếu thương tổn lan rộng hay suy giảm miễn dịch thì uống Kétoconazole (200mg/ngày), Itraconazole (100mg/ngày), Fluconazole (50mg/ngày) trong 15 ngày.
Móng: Thường ở móng tay và kết hợp viêm quanh móng. Điều trị với Imidazole hay Ci- clopiroxolamin dạng kem trên vùng viêm quanh móng và dung dịch sơn móng trên móng. Dùng thuốc uống khi lan rộng hay suy giảm miễn dịch.
Viêm nang lông: Xảy ra các ổ dịch nhỏ ở người nghiện ma túy, có thể gây tổn thương ở mắt đưa tới mù. Điều trị bằng uống Imidazole.
BỆNH NẤM HẠT MEN Ở NIÊM MẠC
Miệng: Đẹn miệng. Niêm mạc miệng lưỡi có nhiều bợn màu trắng khi cạo để lại những mảng màu đỏ, rất đau, xác định nhờ soi tìm vi nấm. Điều trị bằng thuốc thoa miệng có chứa Imidazoles (Daktarin) hay chứa Polyenes (Nystatin hay Amphotericin B). cần giữ thuốc trong miệng vài phút. Có thể dùng Imidazole uống: Kétoconazole 200mg/ngày trong 10 ngày hoặc Itraconazole100mg/ngày trong 14 ngày, Fluconazole 50mg/ngày trong 7 đến 14 ngày.
Họng, thực quản ở bệnh nhân nhiễm HIV: Tiên lượng xâu, luôn cần điều trị toàn thân lâu dài vì đáp ứng miễn dịch yếu. Thường bệnh nhân kháng với Fluconazole, đặc biệt là những bệnh nhân nhiễm Candida không phải albicans.
Âm đạo:
+ Viêm âm hộ-âm đạo cấp
. Xuất hiện ở phụ nữ dùng kháng sinh phổ rộng hay dùng kích thích tố, thuốc bôi không thích hợp (corticoid, sát khuẩn).
. Tiết dịch âm đạo trắng đục, sệt, ngứa nhiều.
. Nhạy cảm với trị liệu tại chỗ bằng viên đặt hay kem bôi. Khi có thương tổn ở hậu môn kết hợp thì phải điều trị nhiễm nấm đường tiêu hóa với thuốc uống có tác dụng tại chỗ (Fungizole, Daktarin). Nếu thương tổn nhiều dùng Imidazole uống như Kétoconazole, Itraconazole 200mg/ngày trong 2 ngày hay 400mg/ngày liều duy nhất. Fluconazole (1994) 150mg/ngày liều duy nhất, tỷ lệ lành bệnh 90% so với Kétoconazole 400mg/ngày trong 5 ngày, Itraconazole 400mg trong 2 ngày.
. Cần xét nghiệm xác định vi nấm.
+ Viêm âm hộ-âm đạo mạn tính
. Điều trị tại chỗ lúc đang trong cơn bộc phát: Clotrimazole viên đặt 200mg X 2 lần/tuần trong 6 tháng hoặc điều trị toàn thân được đề nghị như sau:
Kétoconazole 200mg X 2 lần ngày trong 3-5 ngày hay 1 lần ngày trong 6 ngày.
Itraconazole 200mg ngày kinh đầu hay 200mg mỗi 15 ngày trong 6 kỳ kinh.
Fluconazole 150mg X 1 lần/1 tháng lúc bắt đầu có kinh. Trị liệu này hiệu quả hơn dùng viên đặt, giá rẻ hơn.
. Viêm âm đạo tái phát do Candida glabrata còn là vấn đề vì lý do đề kháng thuốc, phác đồ Itraconazole 200mg/ngày trong 2 tháng được đề nghị kết hợp với Nystatin utmg và tại chỗ. Một số tác giả khác cho dùng viên đặt Acid boric (600mg trong gelatin), mỗi ngày trong 10-14 ngày rồi 1 viên cách 2 ngày sau đó 2 viên/tuần.
BỆNH NẤM HẠT MEN DA-NIÊM MẠC MẠN TÍNH
Bệnh kết hợp thương tổn da (móng thường bị) và tổn thương niêm mạc mạn tính tái phát kèm thay đổi suy giảm miễn dịch với nội tiết tố.
Điều trị bằng Imidazole hay Triazole (Itraconazole và Fluconazole) lâu dài với nhiều nguy cơ tái phát.
BỆNH NẤM MỐC
Là một loại nấm ngoài da nhưng không phải là nấm sợi tơ, thường có trong môi trường, cần cây để phân lập. Các loại nấm mốc thường gặp là:
Scopulariopsis brevicaulis (móng), thường kết hợp với Trichophyton rubrum, Penicllium sp, Aspergillus sp, Acremonium sp, Onychocola canadensis gây tổn thương ở móng.
Scytalidium dimidiatum và Scytalidium hyalinum gọi là nấm giả sợi tơ (Pseudodermato- phytes) gây bệnh ở da và móng giống Trichophyton rubrum, có thể kết hợp và rất khó trị.
Alternaria sp gây tổn thương da ở người suy giảm miễn dịch.
Điều trị nấm mốc thì khó, cần có các thuốc kháng nấm tại chỗ. Thuốc uống hiệu quả là Itraconazole, không có thuốc kháng nấm đặc hiệu cho nấm mốc. Đối với nấm mốc ở móng điều trị tại chỗ hiệu quả hơn thuốc uống.