Định nghĩa về Bệnh trào ngược dạ dày thực quản kháng trị vẫn còn gây tranh cãi. Theo Đồng thuận Chuyên gia Trung Quốc về Bệnh trào ngược dạ dày thực quản, Bệnh trào ngược dạ dày thực quản kháng trị được định nghĩa là những bệnh nhân không có sự cải thiện đáng kể về triệu chứng ợ nóng hoặc trào ngược sau 8 tuần điều trị bằng liều gấp đôi PPI. Hiện tại, chưa có nghiên cứu nào về thống kê tỷ lệ mắc Bệnh trào ngược dạ dày thực quản kháng trị trong dân số cao tuổi. Có nhiều yếu tố có thể gây ra Bệnh trào ngược dạ dày thực quản kháng trị, bao gồm việc không tuân thủ nghiêm ngặt thời gian dùng thuốc PPI và tuân thủ kém đối với điều trị PPI, sự trào ngược axit còn sót lại sau khi điều trị bằng PPI, trào ngược yếu hoặc không có tính axit, trào ngược nhạy cảm, và ợ nóng chức năng, tất cả những điều này có thể gây ra Bệnh trào ngược dạ dày thực quản kháng trị.
Đối với những bệnh nhân cao tuổi có kết quả điều trị thông thường kém, cần chú ý đến nhạy cảm nội tạng và các yếu tố tâm lý. Một số nhà nghiên cứu trong nước cho rằng các yếu tố tâm lý ở người cao tuổi là yếu tố ảnh hưởng quan trọng đối với Bệnh trào ngược dạ dày thực quản kháng trị. Tỷ lệ mắc thực quản nhạy cảm, ợ nóng chức năng và đau ngực không do tim ở người cao tuổi không phải là thấp. Thực quản nhạy cảm liên quan đến trạng thái tâm lý (bao gồm lo âu và trầm cảm) và rối loạn giấc ngủ, có thể làm thay đổi độ nhạy cảm của thực quản. Các thuốc chống trầm cảm có thể có lợi cho các triệu chứng liên quan đến nhạy cảm nội tạng thực quản ở bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản. Các nghiên cứu đã báo cáo rằng ngưỡng đau thực quản tăng từ 7% đến 37% sau liệu pháp chống trầm cảm. Liệu pháp chống trầm cảm làm giảm đau ngực chức năng từ 18% đến 67% và giảm ợ nóng từ 23% đến 61%.
Khuyến nghị cải thiện nội soi dạ dày-tá tràng trên, theo dõi pH thực quản bằng cảm biến trở kháng, và đo áp lực thực quản cho bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản kháng trị, và phân tích lý do cho hiệu quả điều trị kém của PPI. Nội soi dạ dày-tá tràng trên có thể giúp loại trừ các bệnh lý thực quản và dạ dày khác, chẳng hạn như khối u đường tiêu hóa và bệnh hẹp thực quản, và nên thực hiện sinh thiết thực quản để loại trừ viêm thực quản do bạch cầu ái toan và các loại viêm thực quản khác. Ngoài việc phát hiện trào ngược axit, theo dõi pH thực quản bằng cảm biến trở kháng cũng có thể phát hiện trào ngược không có tính axit, và có thể theo dõi tất cả các sự kiện trào ngược bao gồm axit, axit yếu, không axit, và trào ngược khí, giúp phân biệt giữa thực quản nhạy cảm và ợ nóng chức năng. Đối với bệnh nhân có khó nuốt và trào ngược, cũng như trước khi thực hiện liệu pháp chống trào ngược xâm lấn, nên thực hiện đo áp lực thực quản để loại trừ rối loạn vận động thực quản. Đối với những bệnh nhân không đủ điều kiện thực hiện theo dõi pH thực quản bằng cảm biến trở kháng, có thể thay đổi loại PPI theo kinh nghiệm hoặc sử dụng P-CAB.
Đối với những bệnh nhân có trào ngược axit kéo dài được phát hiện qua theo dõi pH thực quản bằng cảm biến trở kháng, khuyến nghị sử dụng một liều H2-receptor antagonists trước khi đi ngủ. Đối với những bệnh nhân có kết quả theo dõi pH thực quản cho thấy trào ngược không axit và các triệu chứng liên quan, nên thử sử dụng baclofen. Đối với những bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản kháng trị có kết quả theo dõi pH thực quản bình thường (nhạy cảm thực quản hoặc ợ nóng chức năng), nên thử sử dụng các thuốc điều chỉnh đau như thuốc chống trầm cảm ba vòng, thuốc ức chế tái hấp thu serotonin-norepinephrine, thuốc ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc, hoặc trazodone. Đối với những bệnh nhân tiếp tục gặp triệu chứng Bệnh trào ngược dạ dày thực quản và có tình trạng làm rỗng dạ dày chậm sau khi điều trị bằng PPI, nên sử dụng các thuốc prokinetic để điều trị. Hiện tại vẫn thiếu các nghiên cứu lâm sàng chất lượng cao về điều trị thuốc cho bệnh nhân cao tuổi bị Bệnh trào ngược dạ dày thực quản kháng trị.
Sau khi kiểm tra toàn diện và kỹ lưỡng để loại trừ các nguyên nhân khác, nếu có thực sự có chứng cứ về trào ngược có triệu chứng đối với Bệnh trào ngược dạ dày thực quản kháng trị không đáp ứng với điều trị bằng thuốc, phẫu thuật chống trào ngược là khả thi. Phẫu thuật chống trào ngược bao gồm nội soi điều trị ( liệu pháp RF và phẫu thuật fundoplication không rạch miệng) và phẫu thuật mổ (phẫu thuật fundoplication nội soi). Một nghiên cứu đối chứng ngẫu nhiên đã sàng lọc 366 bệnh nhân bị ợ nóng kháng trị và cuối cùng bao gồm 78 bệnh nhân bị ợ nóng kháng trị do PPI. Kết quả cho thấy tỷ lệ thành công điều trị với phẫu thuật fundoplication nội soi là 67%, điều trị y tế chủ động (PPI cộng với baclofen, kết hợp với desipramine tùy theo triệu chứng) là 28%, và điều trị y tế kiểm soát (PPI cộng với giả dược) là 12%. Hiện tại vẫn thiếu dữ liệu nghiên cứu về phẫu thuật chống trào ngược ở bệnh nhân cao tuổi bị Bệnh trào ngược dạ dày thực quản kháng trị.
Ý kiến đồng thuận 22: Có nhiều yếu tố gây ra Bệnh trào ngược dạ dày thực quản kháng trị, và việc tuân thủ kém với điều trị PPI là một lý do quan trọng cho Bệnh trào ngược dạ dày thực quản kháng trị. Đối với bệnh nhân cao tuổi có kết quả điều trị thông thường kém, cần chú ý đến nhạy cảm nội tạng và các yếu tố tâm lý (các mức độ khuyến nghị: A+, 26%; A, 60%; A−, 14%. Mức độ bằng chứng: Chất lượng thấp).
Ý kiến đồng thuận 23: Khuyến nghị cải thiện nội soi dạ dày-tá tràng trên, theo dõi pH thực quản bằng cảm biến trở kháng, và đo áp lực thực quản cho bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản kháng trị; nếu thực sự có chứng cứ về trào ngược liên quan đến triệu chứng ở bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản kháng trị không đáp ứng với điều trị bằng thuốc, nội soi chống trào ngược và liệu pháp phẫu thuật là khả thi (các mức độ khuyến nghị: A+, 19%; A, 53%; A−, 21%. Mức độ bằng chứng: Chất lượng trung bình).