Tên khoa học:
Aconitum fortunei Hemsl. Họ khoa học: Họ Hoàng Liên (Ranunculaceae).
Tên khác:
Hắc phụ, Cách tử (Bản Thảo Cương Mục),
Mô Tả:
Cỏ cao 0,6-1m, thân mọc thẳng đứng, có lông ngắn. Lá chia 3 thùy, đường kính 5- 7mm, hình trứng ngược có răng cưa ở nửa trên. Hoa lớn màu xanh tím, mọc thành chùm dày, dài 6-15cm. Lá bắc nhỏ. Bao hoa gồm 5 bộ phận trong đó có 1 cái hình mũ, 2-5 tuyến mật. Quả có 5 đại mỏng như giấy, dài 23 mâm, hạt có vảy ở trên mặt.
Địa lý:
Mọc hoang ở Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên, vùng Tây Bắc
Thu hái:
+ Vào tháng 8, trước khi hoa nở (Dược Liệu Việt Nam).
+ Khoảng Hạ chí (18 đến 28 tháng năm Âm lịch)
Bộ phận dùng:
Rễ củ. Củ cái gọi là Ô đầu, củ con đã chế gọi là Phụ tử.
Mô tả dược liệu:
+ Diêm Phụ Tử: Hình dùi tròn, dài khoảng 6,6cm, đường kính 3,3cm. Đầu củ rộng, chính giữa có vết mầm trở xuống, thân trên béo, đầy, chung quanh co sphân chi nổi lên như cái bướu, thường được gọi là ‘Đinh giác’. Bên ngoài mầu đen tro, bao trùm bột muối. Thể nặng, chỗ cắt ngang mầu nâu tro, có những đường gân lệch hoặc giữa ruột có khe hổng nhỏ, trong đó có muối. Không mùi, vị mặn mà tê, cay. Loại củ lớn, cứng, bên ngoài nổi bậc muối là tốt (Dược Tài Học).
+ Hắc Phụ Phiến: Những miếng cắt dọc không giống nhau, trên rộng, dưới hẹp, dài 2-4cm, rộng 1,6-2,6cm, dầy 0,5cm. Ngoài vỏ mầu nâu đen, trong ruột mầu vàng mờ, nửa trong suốt, dầu nhuận sáng bóng, thấy được đường gân chạy dọc. Chất cứng dòn, chỗ vỡ nát giống như chất sừng. Không mùi, vị nhạt. Lựa thứ đều, bên ngoài có dầu nhuận sáng là tốt (Dược Tài Học).
+ Bạch Phụ Phiến: giống Hắc Phụ Phiến nhưng toàn bộ đều mầu trắng vàng, nửa trong suốt, miếng mỏng hơn, dài 0,3cm. Không mùi, vị nhạt. Lựa thứ phiến đều, mầu trắng vàng, dầu nhuận, nửa trong suốt là tốt (Dược Tài Học).
Bào chế:
+ Diêm Phụ Tử: Chọn lấy thứ rễ Phụ tử hơi to, rửa sạch, ngâm trong nước pha muối, hàng này lấy ra phơi dần cho đến khi thấy bên ngaòi Phụ tử có nhiều tinh thể muối và hóa cứng là được. Sau đó giần qua để bỏ bột muối đi là dùng được.
+ Hắc Phụ Phiến: chọn thứ Phụ tử cỡ vừa, ngâm trong nước muối mặn vài ngày, lấy nước đó nấu sôi, vớt ra, rửa sạch, cắt thành phiến dầy. Lại ngâm vào nước muối nhạt và thêm thuốc nhuộm mầu vào làm cho Phụ tử có mầu trà đặc. Lấy nước rửa cho đến khi nếm vào lưỡi không thấy tê cay nữa, lấy ra, đồ chín, sấy cho khô nửa chừng, lại phơi khô là được (Dược Tài Học).
+ Bạch Phụ Phiến: chọn loại Phụ tử nhỏ hơn, ngâm trong nước muối mặn vài ngày, lấy nước đó nấu cho đ n khi thấu tạn ruột, vớt ra, bóc vỏ ngoài, cắt dọc thành phiến mỏng, rửa cho đến khi nếm lưỡi không thấy tê cay nữa là được. Lấy ra, đồ chín, phơi khô nửa chừng, xông Lưu huỳnh cho khô là được (Dược Tài Học).
+ Đạm Phụ Phiến: Lấy Diêm Phụ Phiến ngâm nước, mỗi ngày thay 2 – 3 lần cho hết muối. Cho vào nồi cùng Cam thảo, Đậu đen nấu với nước cho thấm, đến khi cắt ra, nếm mà lưỡi không thấy cay, tê thì thôi. Lấy ra, bỏ hết Cam thảo, Đậu đen, cạo bỏ vỏ, chẻ làm 2 miếng, cho vào nồi, thêm nước, nấu độ 2 giờ, khi Phụ tử chín thì lấy ra, để cho ráo, lại ủ cho mềm rồi cắt miếng, phơi khô là được.
Hoặc cứ 50kg Diêm Phụ Tử rửa sạch, ngâm nước 1 đêm, bỏ vỏ và cuống, cắt miếng, lại ngâm nước cho đến khi nếm không thấy cay, tê thì thôi. Lấy ra, dùng nước Gừng tẩm 1 – 3 ngày, vớt ra, đồ chín, lại sấy khô đến 7/10, cho vào nồi rang với lửa to cho bay hơi và nứt ra. Lấy ra, để nguội là đụwc. Hoặc trải lên tấm lưới sắt đặt trên lò than hồng, lật qua lại nướng cho phồng nứt ra, để nguội là được (Dược Tài Học).
Thành phần hóa học:
+ Mesaconitine, Hypaconitine (Dược Học Học Báo 1965, 12 (7): 435).
+ Higenamine, Demethylcoclaurine, Coryneinechloride, Methyldopa hydrochloride (Nhật Bản Dược Học Hội 1978, (5): 163).
+ Isodephinine, Aconitine, Benzoylmesaconine, Neoline, Fuziline, 15a- Hydroxyneoline (Trương Địch Hoa, Trung Thảo Dược 1982, 13 (11): 481).
+ Salsolinol (Trần Địch Hoa, Dược Học Học Báo 1982, 17 (10): 792).
+ Karakoline, Beiwutine, 10-Hydroxymesaconitine (Vương Cát Chi, Dược Học Học Báo 1985, 20 (1): 71).
Tác dụng dược lý:
+ Nước sắc Phụ tử liều nhỏ làm tăng huyết áp ở động vật được gây mê với liều lượng lớn, lúc đầu làm hạ sau lại làm tăng, tăng lực co bóp cơ tim, tác dụng cường tim rõ, tăng lưu lượng máu của động mạch đùi và làm giảm lực cản của động mạch, làm tăng nhẹ lưu lượng máu của động mạch vành và lực cản. Thành phần cường tim của Phụ tử là phần hòa tan nước. Độc tính của phần hòa tan cồn rất cao so với phần hòa tan nước (Trung Dược Học).
+ Tác dụng kháng viêm: Thuốc sắc Phụ tử cho súc vật gây viêm khớp uống hoặc chích màng bụng đều có tác dụng kháng viêm (Trung Dược Học).
+ Tác dụng nội tiết: Thuốc có tác dụng làm giảm lượng Vitmin C ở vỏ tuyến thượng thận chuột đồng. Một số thí nghiệm trên súc vật chứng tỏ nước thuốc làm tăng tiết vỏ tuyến thượng thận và tăng chuyển hóa đường, mỡ và Protein, nhưng trên 1 số thí nghiệm khác thì tác dụng này chưa rõ (Chinese Herbal Medicin).
+ Thuốc có tác dụng làm tăng miễn dịch cơ thể (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Tác dụng lên hệ thần kinh trung ương: Aconite với liều 0,1 – 0,2mg/kg có tác dụng làm giảm phản xạ có điều kiện và không điều kiện, làm giảm nồng độ Ammoniac ở não (Trung Dược Học).
Tính vị:
+ Vị cay, tính ôn (Bản Kinh).
+ Vị ngọt, rất nhiệt, rất độc (Bản Thảo Cương Mục).
+ Khí nhiệt, vị rất cay (Y Học Khải Nguyên).
+ Rất cay, rất nóng, hơi kèm ngọt, đắng mà rất độc (Bản Thảo Kinh Sơ).
+ Vị cay, ngọt, tính rất nóng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Quy kinh:
+ Vào kinh thủ Thiếu dương Tam tiêu (Thang Dịch Bản Thảo).
+ Vào kinh túc Quyết âm Can, túc Thiếu âm Thận, thủ Thái âm Phế (Bản Thảo Kinh Giải).
+ Vào kinh Tâm, Thận, Tỳ (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Tác dụng:
+ Tính tẩu mà bất thủ, thông hành các kinh (Y Học Khải Nguyên).
+ Thông hành 12 kinh (Dược Tính Thiết Dụng).
+ Ôn Thận, hồi dương, hành thủy, chỉ thống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Chủ Trị:
+ Trị các chứng vong dương, dương hư, hàn tý, âm thư (Trung Dược Học).
+ Trị vong dương, dương hư, thủy thủng, phong thấp đau nhức khớp xương (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Kiêng kỵ:
+ Sợ Ngô công, ghét Phòng phong, Hắc đậu, Cam thảo, Hoàng kỳ, Nhân sâm(Bản Thảo Kinh Tập Chú).
+ Tương phản với Phòng phong (Trân Châu Nang).
+ Uống Phụ tử để bổ hỏa tất làm cho thủy bị cạn (Thang Dịch Bản Thảo).
+ Úy Lục đậu, Ô cửu, Tê giác, Đồng sấu. Kỵ Xị trấp (Bản Thảo Cương Mục).
+ Người không phải là Thận dương bất túc mà hư hàn nặng: cấm dùng. Tất cả các chứng dương, chứng hỏa, chứng nhiệt, âm hư nội nhiệt, huyết dịch suy đều không nên dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Âm hư dương thịnh, có thai: không dùng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Ngộ độc: Khi bị ngộ độc Phụ tử, Ô đầu có dấu hiệu: chảy nước miếng, muốn nôn, nôn, miệng khô, tiêu chảy, hoa mắt, chóng mặt, chân tay và cơ thể có cảm giác tê, tim hồi hộp, thân nhiệt giảm, huyết áp tụt, mạch chậm, khó thở, chân tay co giật, bất tỉnh, tiêu tiểu không tự chủ: Kim ngân hoa 80g, Đậu xanh 80g, Cam thảo 20g, Sinh khương 20g. sắc, pha thêm đường uống để giải (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Liều dùng:
3- 15g.
Đơn thuốc kinh nghiệm:
+ Trị nôn, tiêu chảy, ra mồ hôi, tay chân co rút, tay chân lạnh: Chích thảo 80g, Can khương 60g, Phụ tử 1 củ (dùng sống, bỏ vỏ, cắt làm 8 miếng). Sắc với 3 thăng nước, còn 1 thăng 2 hợp, bỏ bã, chia ra uống ấm (Tứ Nghịch Thang – Thương Hàn Luận).
+ Trị âm độc thương hàn, mặt xanh, tay chân lạnh, bụng đau, cơ thể lạnh, các chứng lãnh khí: Phụ tử 3 trái (bào chế, bỏ vỏ, cuống). Tán bột. Mỗi lần uống 9g với ½ chén nước cốt Gừng, ½ ch n rượu lạnh (Hồi Dương Tán – Tế Sinh Phương).
+ Trị lậu phong, ra mồ hôi không ngừng: Phụ tử 45g (chế, bỏ vỏ,, cuống), Thục tiêu (bỏ mắt, sao cho ra hơi nước) 15g, Hạnh nhân (bỏ vỏ, đầu nhọn, sao cho ra hơi nước) 15g, Bạch truật 60g. băm nát như hột đậu, sắc với 5 thăng nước còn 2 thăng, bỏ bã, chia làm 4 lần uống ấm (Phụ tử Thang – Thánh Tế Tổng Lục).
+ Trị quan cách, mạch Trầm, tay chân lạnh: Thục phụ tử (tẩm Đồng tiện), Nhân sâm đều 4g, Xạ hương 1 ít. Tán nhuyễn, trộn hồ làm viên, to bằng hạt Ngô đồng, lấy Xạ hương bọc ngoài. Mỗi lần uống 7 viên với nước sắc Đăng tâm (Ký Tế Hoàn – Y Môn Pháp Luật).
+ Trị ngực đau, giữa ngực có hàn khí uất kết không tan, ngực có hòn khối: Phụ tử (bào, bỏ vỏ, cuống), Nga truật (nướng) đều 30g, Hồ tiêu, Chỉ thực (sao trấu) đều 15g. tán bột. Mỗi lần uống 9g với rượu nóng (Tứ Ôn Thang – Phổ Tế phương).
+ Trị răng đau do âm hư: Phụ tử (sống), nghiền nát, trộn với nước miếng, đắp vào giữa lòng bàn chân, rất công hiệu (Hoa Đà Thần Y Bí Truyền).
+ Trị hàn tà nhập lý, chân tay lạnh, run, bụng đa, thổ tả, không khát, thân nhiệt và huyết áp tụt, mạch Vi muốn tuyệt: Thục phụ tử 12g, Nhục quế 4g, Can khương 6g, Đảng sâm, Bạch truật, Phục linh, Trần bì đều 12g, Cam thảo 4g, Ngũ vị tử 6g, Bán hạ, Sinh khương đều 12g. sắc, thêm Xạ hương 0,1g, uống (Hồi Dương Cấp Cứu Thang – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị thận viêm mạn, dương khí không đủ, lưng mỏi, chân lạnh, phù thủng: Thục phụ tử 12g, Nhục quế 4g, Thục địa, Sơn dược đều 16g, Sơn thù, Phục linh, Đơn bì, Trạch tả đều 12g. Tán bột, trộn mật làm viên. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 12g (Bát Vị Địa Hoàng Hoàn).
+ Trị hàn thấp thấm vào bên trong, khớp xương đau, cơ thể đau, lưng lạnh, chân tay mát, không khát: Thục phụ tử, Phục linh, Đảng sâm, Bạch truật, Thược dược đều 12g. Sắc uống (Phụ tử Thang – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Tham khảo “dược phẩm vựng yếu”
(Mọc phụ một bên là Phụ tử, tròn to, bằng và ngay thẳng, nặng chừng 1 lạng trở lên thì dược lực đầy đủ, là tốt. Ô đầu, Trắc tử, Thiên hùng, Ô nhuế đều cùng một xuất xứ mà khác tên).
Khí vị: Khí vị rất cay, rất nóng, có hơi ngọt và đắng, có độc nhiều, khí thì hậu, vị thì bạc, là thuốc âm trong dương dược, giáng xuống nhiều thăng lên ít, trong cái nổi mà có chìm, chỗ nào cũng có thể chạy đến, chủ yếu vào kinh Thủ quyết âm Mệnh môn, Thủ thiếu dương Tam tiêu, lại vào cả kinh Túc thái âm Tỳ và Túc thiếu âm Thận.
Sợ Phòng phong, Cam thảo, Nhân sâm, Hoàng kỳ, Đồng tiện, Tê giác và Đậu đen.
Chủ dụng: Chuyên chữa chứng ngũ tạng lạnh, chân tay quyết nghịch, bụng dạ lạnh đau, tích tụ trưng hà, hàn thấp bại liêt, ho hen, phong hàn, đột nhiên đi tả thoát dương, ỉa chảy kéo dài, nghẹn, nôn, ung nhọt không thu miệng, sốt rét và đàm nhức đầu phong, trẻ em mạn Tỳ kinh, nốt đậu còn sắc xám tro, Dạ dày lạnh, ăn vào mửa ra, có tác dụng cường dương ích khí, rắn xương khỏe gân, bệnh thương hàn âm chứng, âm độc, trúng hàn khí quyết, đàm quyết, buồn phiền vật vã, mê muội, bất tỉnh, chứng thương phong bán thân bất toại, các chứng tê đau, phong lạnh sưng trướng, hoắc loạn chuyển gân, xích bạch lỵ, đau đầu do Thận, huyết chứng do dương hư, hết thảy những chứng trầm hàn cố lãnh đều không thể thiếu. Phụ tử làm mạnh nguyên dương, nguyên hỏa, tán hết hàn thấp, hàn độc của 3 kinh âm, nếu không có Phụ tử thì không thể cứu vãn được. Chứng quyết nghịch của 3 kinh dương nếu không có Phụ tử thì cũng không làm gì nổi.
Hợp dụng: Tính của phụ tử rất mạnh dữ, nhất định phải trọng dụng Sâm, Truật để điều khiển nó, không thì gây tác hại không phải ít, không dùng chung với Can khương thì không nóng lắm, làm vị thần cho Thục địa thì có công dẫn vào âm để ức chế hỏa, gặp Cam thảo thì thêm hòa hoãn, gặp Nhục quế thì bổ Mệnh môn, gặp Bạch truật thì chữa hàn thấp ở Tỳ, gặp Can khương thì hồi dương, bổ trung khí, làm đầu cho trăm thứ thuốc chạy suốt các kinh, dẫn đạo rất chóng, dẫn thuốc bổ khí để lấy lại nguyên dương đã tan hết, dẫn thuốc bổ huyết để giúp chân âm thiếu kém, dẫn thuốc phát tán để khu trừ biểu tà, dẫn thuốc ôn lý để trừ bỏ hàn thấp bên trong, đó là tùy sự hợp dụng với từng vị thuốc mà có công dụng khác nhau. Lại nói: “chế chín thì bổ mạnh”, cho nên Phụ tử chế chín phối với Ma hoàng là trong phát tán đã có bổ, để sống dùng thì phát tán (Cho nên Phụ tử phối Can khương là trong thuốc bổ có phát tán, đấy là vì sống chín có tác dụng khác nhau vậy).
Kỵ dụng: Âm hư sinh nội nhiệt, trong thực nhiêt mà ngoài giả hàn thì không được dùng lầm, người có thai kiêng dùng vì uống vào trụy thai rất chóng.
Cách chế: Ngâm nước đậu đen 5 ngày, gọt bỏ vỏ và cuống rốn, lấy bã gừng bao quanh, ngoài dùng cám bọc lại, lùi vào tro có lửa than mà nướng chín, nếu ngoài vàng trong trắng thì độc tính vẫn còn nên thái mỏng sao lại cho trong, ngoài đều vàng. Một cách chế khác là dùng Đồng tiện nấu lên để giúp nó đi xuống. Cách nữa, nấu với Phòng phong, Cam thảo cho chín phơi khô, sao rồi dùng. Lại cách khác, nấu với 1 bát Đồng tiện 1 bát nước Cam thảo, nấu đến cạn nước làm chuẩn, đặt lên hòn ngói sấy khô. Nếu gặp chứng thực hàn trực trúng âm kinh thì dùng sống. Tôi tự chế lấy để dùng như sau; gọt bỏ vỏ và đầu nhọn, cắt làm 4 miếng, nấu chung với nước Phòng phong, Cam thảo, Đậu đen một lúc, nước cạn thì Phụ tử chín, phơi khô để dùng, nếu như chứng giả nhiệt thịnh thì tẩm Đồng tiên sao lên.
Nhận xét: Phụ tử là thuốc cốt yếu để bổ mạnh vào nguyên dương mà trừ 3 độc tà phong, hàn và thấp. Đan Khê nói: “Khí hư nhiệt lắm gia thêm chút Phụ tử để giúp cho công hiệu của Sâm, Kỳ; người béo mập có nhiều thấp cũng cứ dùng”. Sách Tập nghiệm nói: “Chứng thũng vì tích sinh ra, tích hết mà thũng lại phát, nêu dùng thuôc lợi thì tiêu tiện lại càng bê, phân nhiêu thầy thuốc đều bó tay, vì khí ở trung tiêu đã hư không thăng giáng được, bị hàn lạnh ngăn cách, phải dùng Phụ tử thì tiểu tiện mới thông được.
Ngô Thụ nói: “Bệnh thương hàn truyền biến đến 3 kinh âm, và bệnh thương hàn có ghé âm tà thì mình tuy nóng dữ mà mạch lại đi trầm, nên dùng Phụ tử, chứng đau bụng lạnh toát, mạch trầm tế, môi xanh, dái thọt, thì kíp dùng nó ngay vì nó có sức khởi tử hồi sinh.
Người đời cho Phụ tử rất nóng, Đại hoàng rất lạnh không dám dùng để đến nỗi dương cực âm kiệt rồi mới dùng một cách miễm cưỡng, rút cục chẳng làm gì được. Người giỏi dùng thuốc thì không có vị nào là thuốc độc. Sách nói bệnh mãn tính mà dùng thuốc cấp cứu là làm rối đến trạng thái bình thường, bệnh cấp tính mà dùng thuốc hòa hoãn thì cứu không kịp.
Phụ:
Ô ĐẦU: (tức là củ mẹ của củ Phụ tử)
Chủ dụng: Tính Ô đầu thưa nhẹ, công năng ôn Tỳ để khu phong, cho nên bệnh phong nên dùng Ô đầu, vã lại tính nó nóng để chạy khắp, có thể mượn nó để thông đạt chứng trầm hàn cố bế, ồn trung tán hàn, nếu muốn ôn mà kiêm bổ phải dùng Sâm, Truật làm quân mới bổ được.
TRẮC TỬ: Củ bé mọc liền bên cạnh củ Phụ tử gọi là Trắc tử.
Chủ dụng: Chữa mọi chứng tay chân tê đau vì phong thấp.
THIÊN HÙNG: Củ to mà dài không có củ con gọi là Thiên hùng.
Chủ dụng: Chữa hàn thấp tê lạnh, khớp xương co quắp, khai quan lợi khiếu, không có chỗ nào là không nhờ sức cay nóng xông bốc của nó, công dụng ngang với Ô đầu. Lại có câu: “Bổ chứng âm hàn nên dùng Phụ tử, giải trừ phong thấp nên dùng Thiên hùng”.
Ô NHUẾ: Chia 2 nhánh gọi là Ô nhuế.
Chủ dụng: Làm cho thổ ra phong đàm, chữa chứng điên giản, là vì nó có khí mạnh đi vào chỗ đau.
GIỚI THIỆU THAM KHẢO
“Thương hàn luận”
Bài Phụ tử thang
Phụ tử 8-12g, Bạch truật 8-16g, Bạch linh 8-12g, Đảng sâm 8-16g, Bạch thược 8-12g. sắc, chia uống vài lần trong ngày. Có tác dụng ôn trung, trợ dương, khu hàn hóa thấp.
Trị dương hư, hàn thấp, chân tay lanh, rêu lưỡi trắns hoat, mạch trầm, vỉ, vô lưc.
‘Hòa tể cục phương”
Bài Phụ tử lý trung hoàn
Nhân sâm, Phụ từ, Bạch truật, Cam thảo, Can Khương.
Lượng đều bằng nhau, cùng tán nhỏ, thêm Mật hoàn, liều uống 8-12g, ngày vài lần.
Có tác dụng ôn trung, khử hàn.
Trị Tỳ Vị hư hàn, ăn uổng không tiêu, chân tay lạnh, bụng sôi, bụng đau, nôn mửa, tiêu chảy, mạch trì vô lưc.
“Phụ nhân lương phương”
Bài Sâm phụ thang
Nhân sâm 8-16g, Thục Phụ tử 4-12g.
Hai vị sắc riêng, sau họp lại cùng uống, chia 2 lần trong ngày. Có tác dụng hồi dương, ích khí, cố thoát.
Trị âm dương, khỉ huyết sắp tuyệt, suyễn cấp, mổ hôi tự ra, tay chân lạnh, bụng đau, sinh xong phát sốt, vã mo hôi, phá thương phong, thổ tả.
Trên lâm sàng thường trị suy Tim, sốc do viêm Phổi thuộc thể nguyên khí đại hư, dương khí bạo thoát, mạch trầm, vi, nhươc, thâm chí mạch khó bắt.
“Y tông kim giám”
Bài Truật phụ thang
Bạch truật 8-16g, Thục Phụ tử 4-12g.
Sắc, chia uống 2 lần trong ngày.
Có tác dụng ôn Tỳ dương, khu hàn, táo thấp.
Trị bệnh hàn thấp, cơ thể đau nhức, chân tay lạnh, mạch trì. “Ngụy thị gia tàng phương”
Bài Kỳ phụ thang
Hoàng kỳ 8-16, Thục phụ tử 4-12g.
Sắc, chia uống 2 lần trong ngày.
Có tác dụng bổ khí, trợ dương, cố biểu.
Tri dương hư, mồ hôi ra dầm dề.
“Kim quỹ yếu lược”
Bài Đại hoàng phụ tử thang
Đai hoàng 6-12g, Tế tân, 4-8g, Thục Phụ tử 4-12g.
Sắc, chia uống 2 lần trong ngày.
Có tác dụng ôn hạ. Người vốn dương hư, hàn tà kết lại ở trong, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch trầm huyền khàn, hiện ra chứng dưới sườn đau, hoặc bụng đau, đại tiện bí kết, nếu không dùng ôn thì không trục được hàn, không hạ thì không thông được kết, dùng bài này rất thích hợp.
“Thương hàn luận”
Bài Quế chi Phụ tử thang
Phụ tử 4-6g, Quế chi 4-6g, Sinh khương 4-6g, Đại táo 2 quả.
Sắc, chia uống 2-3 lần trong ngày.
Có tác dụng thông dương, trục thấp,
Chữa phong hàn thấp, cơ thế đau, khó chuyển động, không nôn, không khát, mạch hư sáp.
“Thương hàn luận”
Bài Bạch thông thang
Phụ tử 1 củ, Can khương 2g, Thông bạch 4 củ
Sắc, chia uống vài lần trong ngày. Có tác dụng ức âm, hồi dương, tuyên thông nội ngoại.
Trị cảm hàn, chân tay lạnh, tiêu chảy, ho, mạch vi.
“Hành giản trân nhu”-Hải Thượng Lãn Ông
– Chữa chứng hư hỏa bốc lên, lưng nóng như lửa đốt, dùng Phụ tử tán bột (liều lượng vừa đủ) thấm với nước miếng, dán vào huyệt dũng tuyền (giữa gan bàn chân). Rất hiệu nghiệm.
– Chữa mọi chứng sán thống Tiểu trường, Bàng quang, Tỳ, Vị, hoặc phong hàn mà đau bụng co thắt, toát mồ hôi, chân tay lạnh, dùng đại Phụ tử 1 củ (sao), Chi tử 4 lạng (sao) tán nhỏ, môi lần uống 1-2đ với Rượu hoặc nước Muối loãng.
“Ngoại khoa chính tông”
Bài Ngọc chân tán
Bạch phụ tử, Nam tinh, Phòng phong, Bạch chỉ, Thiên ma, Khươmg hoạt. Các vị bằng nhau, tán bột, mỗi lần dùng lg, hòa với Rượu nóng uống và bôi vào chỗ đau.
Nếu hàm răng cắn chặt, lưng uốn cong, mỗi lần dùng 1-2g, hòa với Đồng tiện, uống nóng.
Nếu hôn mê, chết ngất mà chớn thủy còn ấm thì uống liên tiếp vài lần vẫn có thể sống lại.
Bài này có tác dụng trừ phong, chống co rút.
Trị phá thương phong, răng cắn chặt, thân thể cứng đau.
“Kim quỹ yếu lược”
Bài Bát vị thận khí hoàn (còn gọi Bát vị địa hoàng hoàn)
Thục địa 240g, Sơn thù 120g, Sơn dược 120g, Trạch tả 90g, Bạch linh 90g, Đan bì 90g, Hắc phụ tử 30g, Nhục quế (hoặc Quế chi) 30g.
Thục địa giã nát, nấu thành cao, các vị khác cùng tán nhỏ, thêm Mật làm hoàn, liều uống 8-12g, ngày 2 lần.
Có tác dụng ôn bổ Thận dương, bổ Mệnh môn hỏa.
Trị Mệnh môn hỏa suy, Thận dương bất túc, lưng gối đau lạnh, bụng đau, tiểu tiện không lợi hoặc tiểu tiện không tự chủ, ban đêm đái nhiều và các triệu chứng Thận dương hư suy như ho đờm, tiêu khát, thủy thũng, tiêu chảy lâu ngày, chất lưỡi nhạt dày, mạch 2 bô Xích vi, tể, nhươc.
Trên lâm sàng thường dùng chữa: viêm Thận câp và mãn, viêm đường niệu, tiểu nhiều hay tiểu ít, u xơ Tiền liệt tuyến, hẹp môn vị gây ra nôn mửa trầm trọng, huyết áp cao hay huyết áp thấp, viêm Phế quản, loét Tá tràng, đục thủy tinh thể, mắt có màng, tử cung xuất huyết, sa tử cung, thoái hóa khớp, rối loạn thần kinh, tình dục yếu, hiếm muộn.
Lãn Ông thường gia thêm Mạch môn, Ngưu tất, Ngũ vị tử và gọi là “Thủy hỏa thần đan”, “có thể chữa được nhiều bệnh hiếm nghèo dễ dàng như trở bàn tay”.
Bài này có thể gia giảm thành nhiều biến thể khác nhau, như: Hỏa chưa hư nhiều có thể dùng Quế chi thay Nhục quế, hoặc bỏ Phụ tử. Neu huyết hư, tinh thiếu có thể thêm Lộc nhung; Phế khí kém có thể thêm Nhân sâm, Mạch môn, Ngũ vị tử, tiểu tiện không lợi có thể thêm Ngưu tất, Xa tiền tử…
“Cảnh Nhạc toàn thư”
Bài Hữu quy ẩm
Thục địa 8-12g, Sơn dược, Câu kỷ, Đỗ trọng (chế Gừng), Sơn thù, Chích Cam thảo đều 8g, Nhục quế 2-4g, Hắc Phụ tử 1- 2g. Sắc, chia uống 3 lần trong ngày. Có tác dụng ôn Thận, chấn tinh. Chữa Thận dương bất túc, chân tay lạnh, giả nhiệt, âm thịnh cách dương, mạch tế.
Gia giảm: Khí hư, huyết thoát, ra mồ hôi, chóng mặt, hơi thở ngắn thêm Nhân sâm, Bạch truật; hỏa suy không sinh được Thổ gây nên nôn mửa, nuốt chua thêm Can Khương; dương khí suy, đại tiện lỏng thêm Nhân sâm, Nhục đậu khấu; bụng dưới đau thêm Ngô thù du; tiểu gắt, đái hạ thêm Phá cố chỉ; huyết thiếu, huyết trệ, thắt lưng đau, gối mỏi thêm Đương quy.
Trên lâm sàng hiện nay dùng chữa huyết áp cao, suy giảm miễn dịch, rối loạn vận mạch, hạ thân nhiệt, tinh dịch dị thường, lupus ban đỏ.