Trầm cảm là một loại rối loạn khí sắc bao gồm khí sắc trầm dai dẳng, mất mọi quan tâm thích thú, hay mệt mỏi và giảm hoạt động làm giảm khả năng thích ứng của người bệnh với cuộc sống.
CHẨN ĐOÁN
Dựa vào các nhóm triệu chứng:
Ba triệu chứng đặc trưng
- Khí sắc trầm.
- Mất quan tâm thích thú.
- Tăng sự mệt mỏi.
Bảy triệu chứng phổ biến
- Giảm tập trung chú ý.
- Giảm tính tự trọng và lòng tự tin.
- Ý tưởng bị tội và không xứng đáng.
- Nhìn tương lai ảm đạm và bi quan.
- Ý tưởng và hành vi tự huỷ hoại hoặc tự sát.
- Rối loạn giấc ngủ.
- Ăn không ngon hoặc ăn nhiều.
Một số triệu chứng sinh học trong trầm cảm nặng
- Giảm 5% trọng lượng cơ thể trong 1 tháng, khí sắc giảm về buổi sáng, chậm chạp tâm lý vận động, thức giấc sớm.
- Sững sờ, hoang tưởng và ảo giác có thể gặp trong trầm cảm nặng. Nội dung hoang tưởng thường là có tội, không xứng đáng, bị truy hại hoặc không tồn tại, ảo giác thường gặp là ảo thanh.
- Chẩn đoán mức độ nặng của trầm cảm
- Mức độ nặng: gồm 3 triệu chứng đặc trưng kết hợp với trên 4 triệu chứng phổ biến.
- Mức độ vừa: có 2 triệu chứng đặc trưng kết hợp với 3 hoặc 4 triệu chứng phổ biến.
- Mức độ nhẹ: có 2 triệu chứng đặc trưng kết hợp với 2 triệu chứng phổ biến.
Chẩn đoán theo thể bệnh
- Giai đoạn trầm cảm: chỉ bị một giai đoạn trầm cảm.
- Rối loạn trầm cảm tái diễn: có sự tái phát của những giai đoạn trầm cảm.
- Rối loạn cảm xúc lưỡng cực: giai đoạn trầm cảm xen kẽ với giai đoạn hưng cảm.
ở trẻ nhỏ trầm cảm có thể biểu hiện dưới dạng cáu kỉnh hoặc khí sắc thay đổi nhanh, bứt rứt, ngủ nhiều, ăn nhiều, các triệu chứng đau cơ thể… Giảm vận động chủ ý, tư duy chậm gây ra những suy giảm về học tập. Đối với trẻ vị thành niên cảm giác tự ti, mặc cảm tội lỗi gặp khá phổ biến và có thể sự bi quan, thất vọng dẫn đến ý nghĩ tự sát hoặc hành vi tự sát. ở một số trẻ em trầm cảm có thể biểu hiện bằng những hành vi chống đối xã hội như bỏ học, phạm pháp, trốn nhà, gây rối nơi công cộng…
Test tâm lý thường dùng để nhận định trầm cảm là test Beck: nếu kết quả tổng điểm trên 15 là trầm cảm nặng, 8-14 điểm là trầm cảm vừa, 5-7 điểm là trầm cảm nhẹ. Ngoài ra test CBCL cũng được sử dụng để đánh giá trầm cảm.
ĐIỀU TRỊ
Điều trị bằng hoá dược là chủ yếu kết hợp với liệu pháp tâm lý. cần theo dõi đặc biệt tới những bệnh nhân trầm cảm nặng, chán ăn, có bệnh cơ thể kèm theo, có ý tưởng hoặc hành vi tự sát.
Liệu pháp hoá dược
Thuốc chống trầm cảm 3 vòng như amitriptylin, anafranil liều 25 – 75mg/ngày, uống.
– Thuốc chống trầm cảm mới: fluoxetin (Prozac) 20mg/ngày, uống.
Đốì với những bệnh nhân có hoang tưởng, ảo giác cho uống thêm an thần kinh như tisersin 25-75mg/ngày hoặc haloperidol 1,5 – 3mg/ngày.
Lưu ý tác dụng phụ của thuốc chống trầm cảm 3 vòng: có thể gây khô miệng, nhìn mờ, giãn đồng tử, chán ăn, bí tiểu tiện, chóng mặt, tăng nhịp tim… trong trường hợp đó cần phải giảm liều.
Liệu pháp tâm lý
Có thể áp dụng nhiều liệu pháp khác nhau nhưng thường sử dụng liệu pháp hành vi nhận thức và liệu pháp gia đình nhằm hỗ trợ tâm lý người bệnh, phục hồi chức năng tâm lý xã hội, giúp cho họ sớm thích nghi với cuộc sống trong cộng đồng.
Các phương pháp điều trị hỗ trợ khác
Nâng đỡ tâm lý người bệnh, đưa vào các hoạt động vui chơi giải trí, thể thao, lao động hợp lý… cần lưu ý tới chế độ ăn đảm bảo dinh dưỡng.
- Tiêu chuẩn ra viện và theo dõi điều trị ngoại trú
- Tiêu chuẩn ra viện
Khí sắc Ổn định, không có ý tưởng tự sát, người bệnh đã bước đầu có thể trở lại sinh hoạt bình thường, giao tiếp và học tập được.
- Theo dõi và điều trị ngoại trú
Điều trị bằng thuốc chống trầm cảm tối thiểu từ 6 đến 9 tháng kể từ khi bệnh đã ổn định vì bệnh rất hay tái phát. Đối với bệnh nhân bị trầm cảm tái diễn phải dùng thuốc chống trầm cảm kéo dài hơn kết hợp với depamid liều uống 200-400mg/ngày nhằm dự phòng nguy cơ tái phát. Bệnh nhân được theo dõi và khám định kỳ trong thời gian dài.