Trang chủBệnh chứng Đông yKinh nghiệm dùng Hoàng Kỳ trong Đông y

Kinh nghiệm dùng Hoàng Kỳ trong Đông y

Hoàng kỳ chất khinh khí bạc, Là thuốc sở trường bổ khí, cổ nhân nói rằng thuốc có tính vị cam ôn, khí bạc vị hậu, có thể thăng có thể giáng, tức là thuốc của da biểu, lại là thuốc của Trung châu, còn có thể bổ nguyên khí của tạng thận, có thể thấy phạm vi dùng rộng rãi.

Lịch sư cho rằng cái nòng cốt là ở ích khí thăng dương. Hoàng kỳ nhập thủ thái âm phế kinh, túc thái âm Tỳ kinh, là thuốc quan trọng bổ khí tỳ phế. Lịch sư cho rằng nó có thể dùng rộng rãi cho nhiều chứng khí tâm khí hư, phế khí hư, tỳ khí hư, thận khí hư, tâm phế khí hư, phế tỳ Khí hư, phế thận khí hư … Đặc biệt đối với bệnh vị trí thiên về biểu, bệnh tính thiên về hư, thiên về hàn, Khi được sử dụng đúng cách, nó thường công hiệu như một cái trống.

1. Cố biểu chỉ hãn

Lịch sư đối với chứng vệ khí hư nhược, tấu lý bất cố, luôn luôn trọng dụng hoàng kỳ để trị. Như trường hợp hãn xuất dị thường, bệnh tuy có khác giữa: tự hãn, đạo hãn, hoàng hãn, chiến hãn, sản hậu hãn xuất, bệnh cơ có khác như: khí hư, âm hư, khí huyết lưỡng hư, thấp nhiệt uẩn chưng, doanh vệ bất hòa, bộ vị có không giống nhau như: đan đầu hãn xuất, tâm hung hãn xuất, thủ túc tâm hãn xuất. nhưng lịch sư cho rằng bệnh cơ chủ yếu đều có liên quan đến khí hư bất cố, khai hợp thất ty. Nội kinh viết: Vệ khí giả, sở dĩ ôn phân nhục, sung bì mao, phì tấu lý, nhi tư khai hợp dã. ” Nếu vệ khí bất túc, vệ ngoại công năng thất thường ắt có thể biểu hiện ra hãn xuất dị thường. Lịch sư cho rằng vệ khí hư chính là một biểu hiện của khí hư. Hoàng kỳ bổ vệ khí, đối với vệ khí hư mà dẫn đến tấu lý bất cố có hiệu quả rõ. Đối với trường hợp hãn xuất dị thường, thường thường trọng dụng hoàng kỳ 50 g, lấy bổ ích vệ khí, cố biểu chỉ hãn. Đối với mồ hôi đột nhiên ra râm rấp, khi hoạt động càng ra nhiều, thuộc trường hợp khí hư,phần nhiều phối ngũ dùng bạch thuật, phòng phong, tang diệp, ma hoàng căn, phù tiểu mạch, hoặc cố hoặc tán, cố biểu mà bất lưu tà, khư tà mà không thương chính. Đối với trường hợp khí hư vô hãn, do khí hư thôi động vô lực mà mồ hôi không thể ra được, lịch sư dùng sinh hoàng kỳ để bổ khí, khí vượng ắt tự có thể cổ động hãn xuất. Còn đối với tấu lý bất cố, thưa không cố sáp, trường hợp mồ hôi ra không ngừng, hoàng kỳ ích vệ khí mà cố biểu, biểu được cố nên mồ hôi tự ngừng.

Trường hợp 1 người nữ, 59 tuổi, mồ hôi ra rõ rệt, ngủ mồ hôi ra ít, tỉnh thì ra nhiều, có khi hung muộn, khí đoản, tâm hoảng, phạp lực. Cho uống ngọc bình phong tán để thu liễm cố sáp hiệu quả không rõ, lịch sư nhận thấy trường hợp này khí hư rõ ràng, ích khí cố biểu không hiểu quả chỉ là bệnh trọng dược khinh (bệnh nặng thuốc nhẹ), kèm tỳ hư có thấp, Cần bổ khí và kiện tỳ hóa thấp làm trọng, trọng dụng sinh hoàng kỳ.

Sinh hoàng kỳ 75 g, đương quy 15 g, đảng Sâm15 g, bạch thuật 15 g, phục linh 30 g, bán hạ 15 g, quất hồng 25 g, quế chi 15 g, toan táo nhân 25 g, bạch thược 15 g, địa cốt bì 25 g, ngũ vị tử 15 g, ma hoàng căn 20 g, phù tiểu mạch 30 g, sinh mẫu lệ 30 g, 7 thang, sắc nước uống, 2 lần/ngày. Bệnh nhân sau khi uống thuốc mồ hôi ra ít hơn rõ rệt, sau uống tiếp 14 ngày thu được công hiệu. Lịch sư nhấn mạnh dùng sinh hoàng kỳ dụng lượng phải lớn, ít thì không có hiệu quả, trường hợp hư nhược sử dụng thời gian phải dài, uống nhiều uống lâu mới hiệu quả tốt.

2. Lợi thủy tiêu thũng

Sự phát sinh của Thủy thũng phần nhiều có liên quan đến phế tỳ thận khí hư, phế khí hư ắt không thể thông điều thủy đạo, tỳ khí hư không thể vận hóa thủy thấp, thận khí hư ắt thủy không có chủ. Mà hoàng kỳ chính là thuốc của thượng trung hạ tam tiêu, Nên với nhiều loại thủy thũng có công hiệu lợi thủy tiêu thũng. Lịch sư rất hay ứng dụng đại tễ lượng lớn hoàng kỳ trị liệu nhiều loại hư tính thủy thũng.

Bệnh nhân suy tim, nam, 46 tuổi, tâm hoảng, phạp lực, khái suyễn, đàm trắng, ra mồ hôi, có khi vùng trước ngực đau đớn, 2 chi dưới thủy thũng, lưỡi đỏ nhạt rêu vàng, mạch trầm tế. Cho sinh hoàng kỳ 90 g, đương quy 18g, hồng Sâm 10g, mạch môn đông 20 g, ngũ vị tử 20 g … Sau khi uống thuốc, tâm hoảng, khái suyễn, hung thống chuyển tốt rõ rệt, 2 chi dưới thủy thũng biến mất. Lịch sư đối với trường hợp thủy thũng thiên về phần nhiều trọng dụng phòng kỷ phục linh thang, phòng kỷ hoàng kỳ thang để trợ vệ lợi thủy. Đối với trường hợp bệnh biến bộ vị thiên về tỳ thận phần nhiều trọng dụng thực tỳ ẩm, chân vũ thang, thận khí hoàn gia giảm, thuốc lấy hoàng kỳ, nhân Sâm, phụ tử, bạch thuật, phục linh, dâm dương hoắc đẳng ích khí ôn dương, lợi thủy tiêu thũng.

3. Ích khí thăng dương

Lịch sư đối với khí hư mà thấy huyễn vựng, tiêu khát, liệt nửa người đến phụ khoa kinh đái thai sản … phần nhiều dùng hoàng kỳ để trị. Đối với trường hợp tiêu khát, lịch sư phần nhiều theo hoàng kỳ thang trong << thiên kim yếu phương >>, trọng dụng hoàng kỳ 50-100 g, phần nhiều phối ngũ thuốc ích khí kiện tỳ: thương thuật, sơn dược, huyền Sâm … thường đạt hiệu quả tốt. Đối đối với chứng sau trung phong chi thể hoạt động bất lực, tê liệt, đến phong hàn thấp tê thuộc khí hư huyết ứ, thường lấy sinh hoàng kỳ 75-00 g phối ngũ hoạt huyết: đào nhân, hồng hoa, xuyên khung, sinh địa, xích thược, địa long, cương tàm,… đại bổ nguyên khí khiến khí vượng huyết hoạt, đi khắp toàn thân, tư dưỡng bách hài, kinh mạch tuyên sướng, ắt ứ trệ tự tiêu, chỉ cần kiên trì dùng uống, chứng trạng phần nhiều cải thiện. Đối với khí hư thanh dương không thể thăng lên, hoạt động thì đầu choáng, tự cảm thấy đầu não trống rỗng, mệt mỏi vô lực, cứ khi mệt thì chứng huyễn vựng nặng thêm, lịch sư cho rằng chỉ cần mạch hư tế vô lực, lưỡng thốn mạch càng vậy, thì phần nhiều lấy bổ trung ích khí thang gia cát căn để trị.

Lịch sư rất hay ứng dụng hoàng kỳ trị liệu các loại sa nội tạng, đi ngoài lâu ngày làm trung khí hạ hãm khiến thoát giang, khí hư không thể nhiếp huyết gây ra băng lậu, tiện huyết…, trên lâm sàng, hoàng kỳ dụng lượng dùng không nên quá lớn, nhưng khi ứng dụng thời gian phải dài, lâu ngày ắt sẽ thấy công hiệu, cần chú ý giải thích rõ với người bệnh, tạo lập niềm tin với bệnh nhân.

Sinh hoàng kỳ
Sinh hoàng kỳ

4. Thác độc sinh cơ

Hoàng kỳ tố (Astragalin) được gọi là thuốc quan trọng chữa lở loét, đây chủ yếu chỉ nói đến dương khí hư nhược sang thương lâu ngày không hóa mủ hoặc sau lở loét không khép miệng, đối với biện chứng thuộc hư thuộc hàn, thực là có công hiệu sinh cơ trường nhục, sửa chữa vết thương. Nếu sang thương giai đoạn đầu, sưng nóng đỏ đau thuộc thực thuộc nhiệt thì tuyệt không được dùng. Lịch sư cho rằng hoàng kỳ đẩy nhanh tác dụng làm lành vết thương mạn tính có liên quan đến cái công hiệu ích khí thăng dương, như cổ phương thác lý thấu nùng thang, nội bổ hoàng kỳ thang  đều bắt nguồn từ đó. Lịch sư cho rằng hoàng kỳ tất có tác dụng dinh dưỡng với các tổ chức như: nhục, cân, mạch, cốt, thần kinh, huyết quản… không chỉ giới hạn trong phương diện ngoại khoa, đối với nội khoa cũng có tác dụng dinh dưỡng , như hoàng kỳ kiến trung thang trị liệu viêm loét dạ dày tá tràng chính là thuộc phạm vi này. Lịch sư đã lấy hoàng kỳ tác dụng sinh cơ trường nhục, để ứng dụng đẩy nhanh hồi phục bệnh nhân nhồi máu cơ tim, biện chứng trường hợp bệnh nhân thuộc về khí hư, khí âm lưỡng hư, tuy nhiên hiện nay không thể chứng minh tác dụng của tái thông mạch máu trên cơ tim bị nhồi máu theo quan điểm giải phẫu học, nhưng để lâm sàng chứng trạng phân tích, đại bộ phận bệnh nhân tiếp nhận hoàng  kỳ sau điều trị, Chức năng tim được cải thiện, các triệu chứng và dấu hiệu ban đầu giảm, không tái phát hoặc làm nặng thêm bệnh. Điều này có thể liên quan đến chức năng sửa chữa dinh dưỡng của cơ tim bị nhồi máu do Hoàng Kỳ.  Điều đáng chú ý.

Bài viết liên quan
Bài viết cùng danh mục

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây