Chứng Can dương thượng cang là chỉ một loạt biểu hiện lâm sàng do âm không phối dương của tạng Can dẫn đến Can dương không tiềm tàng hoặc Can khí thăng phát thái quá, dương khí nổi lên quấy động ở trên gây nên bệnh. Chứng này phần nhiều do phòng thất nhọc mệt, thất tình nội thương và ăn uống không điều hòa là những nguyên nhân cộng đồng tác dụng gây nên.
Biểu hiện lâm sàng chủ yếu của chứng này là chóang váng, đầu hơi trướng và đau, hoa mắt sợ sáng hoặc mắt nhìn không tỏ, lờm lợm buồn nôn, ưa yên tĩnh, hoặc có kiêm chứng mặt đỏ, tai ù, miệng lưỡi khô ráo, ven lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng hoặc trắng mỏng, mạch Huyền Tế hoặc Huyền Tế Sác.
Chứng Can dương thượng cang thường gặp trong các bệnh Đầu thống, Huyền vậng, tai ù tai điếc v.v…
Cần chẩn đoán phân biệt với “chứng Can phong nội động”, “chứng Can hỏa thượng viêm”, “chứng Can huyết hư”, “chứng Can âm hư”, “chứng Can Thận âm hư”.
Phân tích
Chứng này ở trong những bệnh có những đặc điểm khác nhau và có phép chữa tương ứng.
Trong bệnh Đầu thống, dương cang phần nhiều do Can nhiệt cho nên có từng cơn đau nhấm nhói, gặp khi cáu giận đột ngột thì bệnh tăng, kèm theo chứng trạng ngủ không yên, phiền táo dễ cáu giận, sườn trướng đau, mắt đỏ miệng đắng, mạch Huyền hoặc Huyền Sác; điều trị nên bình Can tiềm dương, thường dùng bài Thiên ma câu đằng ẩm (Tạp bệnh chứng trị tân nghĩa) bỏ Thiên ma, Chi tử, ích mẫu thảo, gia Cúc hoa, Hạ khô thảo, Khổ đinh trà, Chân châu trà…
Chứng Can dương thượng cang xuất hiện trong bệnh Huyễn vậng, phần nhiều do huyết hư nội nhiệt dẫn động Can dương gây nên, cho nên đầu chóang váng và đau nhẹ, mắt hoa sợ ánh sáng, ưa yên tĩnh, lờm lợm buồn nôn, mạch Tế; điều trị nên dục âm tiềm dương, cho uống bài Kỷ cúc địa hoàng hoàn (Y cấp) hợp với bài Thiên ma câu đằng ẩm (Tạp bệnh chứng trị tân nghĩa) gia các vị thuốc có tác dụng tiềm dương.
Trong bệnh tai ù tai điếc xuất hiện chứng Can dương thượng cang thì xảy ra hai tình huống
Vì thủy suy không hàm mộc, ngoài những chứng trạng dương cang, phải có kiêm hiện tượng Thận âm hư như mỏi lưng, kém ngủ, hay quên, dễ phiền dễ mệt, dễ bị tình tự kích thích mà bốc nóng vã mồ hôi; hơn nữa còn có bệnh sử phòng thất không điều độ hoặc thủ dâm di tinh; điều trị nên tư thủy hàm mộc, dùng bài Tả quy ẩm (Cảnh Nhạc toàn thư) hoặc Tri bá địa hoàng hoàn (Y phương thảo) hợp với Thiên ma câu đằng ẩm (Tạp bệnh chứng trị tản nghĩa) gia Từ chân hoàn (Bị cấp thiên kim yếu phương).
Vì Can dương thượng cang kiêm cả Can Đởm thấp nhiệt, có các chứng mắt đỏ, miệng đắng, đại tiện bí kết, tiểu tiện sắc vàng, âm nang ẩm ngứa, mạch Huyền Sác; điều trị nên bình Can tiềm dương kèm theo thuốc thanh hỏa lợi thấp như dùng bài Long đởm tả Can thang (Y tông kim giám).
Biểu hiện lâm sàng của chứng này kể cả kiêm tạp chúng, thường do mỗi con người mà có chỗ khác nhau; Ớ tuổi thanh niên khoẻ mạnh do Thận tinh hư suy mà mắc chứng này, thường có các chứng trạng tai ù, mỏi lưng, đùi yếu, gót chân đau, thậm chí thấy gái là chảy tinh dịch, rất dễ cường dương và cũng dễ tiết tinh, có thể dùng phép Bình can tiềm dương phối hợp với phép tư Thận kiên âm cùng áp dụng hỗ trợ nhau, ví dụ như khi uống Thiên ma câu đằng m, nên loại bỏ những vị quá đắng lạnh như Hoàng cầm, Chi tử, linh hoạt gia các vị Quy bản, Thục địa, Tri mẫu, Hoàng bá. Người nghiện rượu, thuốc lá hay ăn các đồ ngọt béo khi mắc chứng Can dương thượng cang, vì dễ nung nấu nhiệt hóa hỏa cho nên thường có kiêm chứng hậu Can Đởm thấp nhiệt như trướng đau bên sườn phải, đắng miệng, đầy bụng, hay nôn, tiểu tiện vàng đỏ, âm nang ẩm ngứa, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Huyền Hoạt Sác, điều trị vẫn nên bình Can tiêm dương làm chủ yếu, kèm theo những vị thuốc có tác dụng thanh tiết Can Đởm thấp nhiệt như Uất kim, Xuyên luyện tử, Long đởm thảo, Hoạt thạch, Sơn tra, Chỉ thực, Xích phục linh, Mộc thông; có thể tuỳ chứng chọn dùng vài ba vị.
Lại như phụ nữ ở thời kỳ trước hoặc sau khi mãn kinh, Thận khí suy dần, Xung Nhâm mạch Hư, huyết hải khô dần, Can dương dễ cang, nếu biểu hiện chóng mặt, ù tai, phiền táo không yên, mặt bốc hoả, miệng khô ráo là những chứng trạng thường gặp ở Can dương thượng cang, còn có những chứng trạng của Xung Nhâm như kinh nguyệt rối loạn hoặc lượng kinh ra ít và rít, thậm chí bế kinh, hơn nữa bệnh thường phát sinh ở sau lứa tuổi trung niên. Có khi ở lứa tuổi thanh niên mắc chứng này, cần hỏi kỹ phần nhiều có bệnh sử về thủ thuật ngoại khoa làm tổn thương Xung Nhâm như cắt buồng trứng, cắt dạ con v.v… Tình trạng chứng này với loại thủy không hàm mộc dẫn đến chứng Can dương thượng cang tuy đều do Thận và Can, nhưng có điểm độc đáo là phải nhằm vào Thận khí đã hư suy, mạch Xung Nhâm suy tổn không nuôi được Can mà dẫn đến bệnh cơ Can Thận âm dương mất điều hoà, lựa chọn phép chữa tương ứng, vừa phải dục âm tiềm dương lại vừa phải kiêm bổ Xung Nhâm. Có thể một mặt dùng Hoàng bá, Tri mẫu, Quy bản, Đương quy để củng cố phần Âm, một mặt lại dùng Lộc giác, Thỏ ty tử, Tiên mao, Tiên linh tỳ, Ba kích, Thung dung để bổ phần Dương, so với loại dục âm đơn thuần, hiệu quả rõ ràng hơn. Cũng như vậy, nam giới ở trước và sau lứa tuổi 8×8 xuất hiện chứng Can dương thượng cang, nếu cùng lúc có liên quan tới Thận khí suy và thiên quí hết, thường có kiêm chứng hậu phức tạp Can Thận âm dương đều hư, ngoài phép chữa chủ yếu, còn phải tư bổ cả Âm Dương thì với bệnh tình thực tế so với các phép chữa đơn thuần bình Can tiềm dương hoặc dục âm tiềm dương.
Chẩn đoán phân biệt
Chứng Can phong nội động và chứng Can dương thượng cang: Chứng Can phong nội động bao quát cả ba loại hình Can dương hóa phong, Can hỏa sinh phong và Huyết hư động phong, tựu trung rất dễ lẫn lộn với chứng Can dương thượng cang là loại Can dương hóa phong. Hai loại này đều có bệnh cơ âm hư dương cang, đều có thể xuất hiện các chứng hậu dương khí nổi lên quấy động ở trên như đau đầu, chóang đầu, mặt đỏ, mắt hoa, tai ù, miệng lưỡi khô ráo v.v… rất dễ chẩn đoán nhầm; Lại từ mối quan hệ lẫn nhau như trên để xem xét, chứng Can dương thượng cang nếu dùng nhầm các thuốc ôn bổ, thăng đề, trợ hỏa và cướp đoạt tân dịch, hoặc vì nguyên nhân nào khác, đều có thể thúc đẩy cái thượng cang của Can dương thành Can phong. Trái lại, chứng Can dương hóa phong kinh qua điều trị thích đáng, khi Can phong đã dẹp tắt, Can dương chưa kín đáo, lại có thể nghịch đảo biến hóa, trở thành chứng Can dương thượng cang. Vì mối quan hệ mật thiết của hai chứng, người xưa thường không phân tích tỉ mỉ mà gọi chung là Can phong, điểm phân biệt chủ yếu là:
Chứng Can dương hóa phong do dương cang quá nghịch, từ lượng biến thành chất biến, dương cực hóa phong, sẽ tập trung xuất hiện tượng trưng một nhóm chứng hậu Can phong như mắt giật và hoa không ổn định, nhìn mọi vật quay cuồng, chân tay tê dại và gân máy động, hồi hộp không ngủ, nôn mửa kém ăn, hễ động làm là vã mồ hôi, đứng lên loạng choạng muốn ngã; đó là những chứng hậu do Can dương thượng cang, khi còn chưa hóa phong, không thể xuất hiện tập trung.
Chứng Can dương hóa phong nế xuất hiện miệng mắt méo lệch, hôn mê ngã lăn không nói được, đây là chứng hậu Can phong nhiễm lên đỉnh đầu rất nguy hiểm. Nếu xuất hiện các chứng bán thân bất toại, chân tay co quắp, đó là Can phong chạy ra tứ chi, là những chứng hỗ trợ cho chẩn đoán phân biệt.
Can dương thượng cang một khi đã hóa phong, mạch tượng thường từ Huyền Tế hoặc Huyền sắc chuyển ra Huyền Trường có lực hoặc Huyền Kính.
Chứng Can hỏa thượng viêm và chứng Can dương thượng cang, nếu phân biệt theo cơ chế bệnh, thì hai chứng khác nhau về hư, thực không dễ lẫn lộn được. Vì chứng Can hỏa thượng viêm là khí uất hóa hoả, hoặc uất giận động hoả, hoặc tích nhiệt hóa hoả; Hoặc vì phong khí thông với Can, phong tác hại hỏa hun đốt, hỏa với nhiệt xung kích lên trên thành chứng Thực nhiệt. Chứng Can dương thượng cang thì Can âm bất túc, hoặc Can Thận âm hư không thể chế dương, đến nỗi Dương cang quấy rối lên trên, thành chứng Bản hư Tiêu thực. Nhưng trong chỗ khác nhau giữa hai chứng lại có chỗ giống nhau, và đều có đặc điểm là xu thế của bệnh hướng lên trên, biểu hiện lâm sàng đều có thể xuất hiện đau đầu vùng hai huyệt Thái dương, đầu trướng, mặt đỏ, tai ù, phiền táo dễ giận, miệng lưỡi khô ráo, ven lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Huyền v.v… trên lâm sàng rất dễ chẩn đoán nhầm lẫn, nên phân tích cho kỹ.
Đau đầu ở hai huyệt Thái dương và đau trướng: Ớ chứng Can hỏa thượng viêm là do thực hỏa theo đường kinh mà xung kích lên trên gây nên, mức độ đau và trướng khá kịch liệt và có kiêm chứng mắt đỏ. Ở chứng Can dương thượng cang là dưới hư trên thịnh, hư dương bốc lên đầu, đầu đau và trướng hơi nhẹ, thường có cả hiện tượng đầu nặng chân nhẹ, và mắt hoa sợ sáng hoặc nhìn vật không tỏ.
Mặt đỏ: ở chứng Can hỏa thượng viêm là hỏa nhiệt xông lên trên, tất nhiên lúc bắt đầu mắc bệnh là có chứng mặt đỏ, sờ tay vào có cảm giác nóng; Ở chứng Can dương thượng cang thì là âm hư nội nhiệt mà mặt đỏ, bệnh mắc đã lâu mới xuất hiện, như ẩn như hiện, tay sờ vào không có cảm giác nóng.
Tai ù: ở chứng Can hỏa thượng viêm là Can hỏa theo đường Kinh úng tắc lên tai, tất nhiên phải có tiếng như sóng trào, thậm chí tai điếc. Ớ chứng Can dương thượng cang là phần âm ở Can Thận không đưa lên tai đầy đủ, hư dương vượt lên trên gây nên cho nên tai như có tiếng ve kêu, tiếng kêu ban ngày không rõ, chỉ ban đêm mới rõ.
Phiền táo dễ giận: ở chứng Can hỏa thượng viêm vì bị thực hỏa xung kích cho nên khí giận bừng bừng như mũi tên đặt trên dây cung, động đến là phát ngay, cho dù ở nơi êm tĩnh cũng khó làm cho tâm khí được êm đềm. Ở chứng Can dương thượng cang thì đó là hiện tượng hư nhiệt Bản hư Tiêu thực, cho nên ưa tĩnh không chịu được quấy nhiễu, tự thân không nổi giận.
Miệng lưỡi khô ráo: Chứng Can hỏa thượng viêm thường do hỏa thúc bách Đởm chấp tràn ra ngoài nên đắng miệng, hỏa thịnh thương Âm mà họng khô miệng khát, khát lại thích uống. Chứng Can dương thượng cang thì do nội dịch tân dịch thiếu mà khô ráo, tuy khô nhưng lại không ưa uống nước.
Biểu hiện mạch và rêu lưỡi: Chứng Can hỏa thượng viêm thì ven lưỡi và đầu lưỡi đều đỏ, ven lưỡi nổi gai, rêu lưỡi vàng dầy mà khô, mạch Huyền hoặc Huyền Hoạt, phần nhiều kiêm Sác kiêm Đai. Chứng Can dương thượng cang thì lưỡi tuy đỏ mà không có gai, mạch Huyền Sác, đa số kiêm Tế mà không Đại.
Ngoài ra, có thể từ những chứng hậu trọng yếu khác để nhận thức đượ chứng, là một thuộc Thực hoả, một là thuộc bản hư tiêu thực, có bản chất khác nhau. Ví dụ: chứng Can hỏa thượng viêm thường thấy hiện tượng thực hỏa xung kích như các chứng trạng đau sườn, thổ huyết, nục huyết, nuốt nước chua, nấc, cuồng táo, đại tiện bí kết, tiểu tiện sẻn đỏ v.v… Chứng Can dương thượng cang lại thường gặp hiện tượng Can âm hư, hàng ngày vốn thấy sắc mặt kém tươi, chóng mặt hay mê, mắt khô rít, chân tay mình mẩy co cứng, tê dại, gán thịt máy động; phụ nữ thì hành kinh lượng ít hoặc bế kinh, mồ hôi trộm, có từng cơn nóng bừng, vã mồ hôi. Đồng thời, có thể có hiện tượng Thận âm hư như ù tai, hay quên, lưng gối mỏi, ngũ tâm phiền nhiệt v.v…
Chứng Can huyết hư và chứng Can dương thượng cang: Chứng Can huyết hư do sinh huyết bất túc hoặc mất huyết quá nhiều gây nên, thường xuất hiện chứng hậu lâm sàng gần giống với chứng Can dương thượng cang như chóng mặt, ù tai, mắt khô rít, nhìn mọi vật lờ mờ, móng chân tay không tươi, đêm ngủ hay mê, ở phụ nữ thì lượng kinh ít hoặc bế kinh. Đây là do một bộ phận trong chứng Can dương thượng cang trên cơ sở Can huyết hư phát triển mà thành, cho nên có biểu hiện lâm sàng Can huyết hư. Nhưng chứng Can dương thượng cang đặc điểm chủ yếu cuối cùng là dương cang, phương diện biểu hiện cộng đồng của hai chứng cũng có đặc điểm cụ thể. Yếu điểm chẩn đoán phân biệt là:
Chứng Can huyết hư vì huyết không làm tươi đẹp lên trên cho nên sắc mặt không tươi cũng xuất hiện với móng tay chân không nhuận. Chứng Can dương thượng cang thì do dương cang lên trên mà khiến cho sắc mặt vốn đã không tươi biến thành sắc đỏ nhợt.
Chứng Can huyết hư có chứng trạng tai ù, chóng mặt. Ở chứng,Can dương thượng cang thì tai ù mà âm thanh nặng hơn, chóng mặt lại thường đi kèm mắt khó mở, đầu não hơi đau và hơi trướng.Chứng Can huyết hư lưỡi nhợt không tươi, mạch Tế hoặc Trầm Tế. Khi Can dương thượng cang, ven lưỡi từ nhạt chuyển sang hồng, có thể kèm theo rêu vàng, miệng lưỡi khô ráo, mạch chuyển Huyền Tế có khi kiêm cả Sác.
Chứng Can âm hư và chứng Can dương thượng cang: Chứng Can âm hư so với chứng Can huyết hư càng dễ phát triển thành chứng Can dương thượng cang. Biểu hiện lâm sàng cũng có khá nhiều chỗ giống nhau. Bởi vì chứng Can âm hư ngoài những chứng trạng chung rất dễ lẫn lộn với chứng Can dương thượng cang do Can huyết hư, lại còn thêm mạch và chứng của hư nhiệt do âm hư sinh nội nhiệt như gò má đỏ, mồ hôi trộm, hư phiền mất ngủ, lưỡi đỏ, mạch Sác, vì thế càng dễ lẫn lộn với chứng Can dương thượng cang.
Điểm phân biệt chủ yếu là nội nhiệt của Can âm hư, phần nhiều biểu hiện ở trạng thái yên tĩnh- Còn Can dương thượng cang thì biểu hiện trạng thái bốc lên bồng bột. Tĩnh là âm cho nên nhiệt phần nhiều vào ban đêm, ra mồ hôi nhiều sau khi ngủ, ưa yên tĩnh, không có xu thế cang dương bồng bột. Động là dương, cho nên phiền nhiệt do Can dương thượng cang phần nhiều vào ban ngày, có từng cơn nóng bừng và tự ra mồ hôi, thường gặp chứng trạng đặc điểm cang bốc lên làm cho mắt hoa và hơi đỏ, đầu chóang vừa chướng vừa đau, lờm lợm buồn nôn, tâm phiền dễ cáu giận, về phương diện mạch, chứng Can âm hư mạch thường Huyền Tế Sác; Chứng Can dương thượng cang mạch thường Huyền Kính vượt bộ Quan đến bộ Thốn, vả lại vì lý do Dương cang, mạch Tế có thể tạm thời không xuất hiện. Đó là những căn cứ để chẩn đoán phân biệt không khó khăn gì.
Chứng Can Thận âm hư với chứng Can dương thượng cang: Mối quan hệ của hai chứng này càng gần gũi hơn chứng Can âm hư. Bởi vì chứng Can dương thượng cang từ chứng Can Thận âm hư chuyển hóa mà thành là hiện tượng thường hay gặp. Điểm phân biệt chủ yếu vẫn là chỗ Can âm hư nhiệt ở trạng thái yên tĩnh, Can dương thượng cang ở trạng thái quấy động. Ngoài ra cũng nân bổ xung: chứng Can Thận âm hư ngoài những chứng trạng Can âm hư, còn tồn tại cơ chế bệnh Thận âm hư và biểu hiện lâm sàng, như lưng gối yếu, ngũ tâm phiền nhiệt, não có tiếng kêu, hay quên, long hỏa hun đốt ở trong dễ cường dương dễ tiết tinh, di tinh, đới hạ v.v… đều là những căn cứ để chẩn đoán phân biệt trong lâm sàng.
Trích dẫn y văn
Tuổi cao thủy khuy, Can dương thăng lên không kiềm chế được, hai bên sườn cảm giác nóng âm ỉ, hỏa bốc lên mặt đỏ, gặp mệt nhọc thì bệnh tăng; Điều trị nên theo phép dưỡng Âm hòa Dương (Trung phong môn – Lâm chứng chỉ nam y án).
Khi ngủ thì dương khí ẩn náu vào trong. Dương quyết ở bên ngoài thì chân tay cứng như gỗ. Dương tụ ở bên trong, thì sợ sệt di tinh, tiết tinh. Bệnh thuộc Âm Dương cùng bị bệnh mà Can bệnh chiếm phần nhiều. Nên dưỡng âm tiềm dương, trấn Can an Vị… Khám lần thứ hai: Can âm bất túc thì Can dương nổi lên quấy rối, đêm ngủ không yên, thực là Dương mất sự tư dưỡng của Âm, nên không yên được, chứ không phải là Dương khí hữu dư. Thuốc tả Can cũng không nên dùng Mạch tượng Huyền Tế mà Sác không phản ứng lên ngón tay, tức là Can dương cũng có hiện tượng mệt nhọc; mồ hôi trộm và co cứng, hay mê, di tinh, tiết tinh, âm yếu mà dương không giữ ở trong, nên dùng phép dưỡng âm điều nhiếp, điều lý từ từ (Can hỏa môn – Liễu bảo trị y án).