* Triệu chứng:
- Phát sốt, ho, chảy nước mắt, hắt hơi, chảy nước mũi, điểm lấm chấm màu đỏ, hơi nổi mụn lên.
- Cấp tính, truyền nhiễm, thường có vào mùa đông và mùa xuân.
- Trẻ em từ 6 tháng – 5 tuổi thường mắc.
- Độc sởi phát thấu ra ngoài là thuận nhờ cơ thể mạnh, nọc nhẹ.
- Độc sởi truyền vào trong là nghịch do cơ thể yếu, nọc mạnh. Sởi thì nốt mọc lên như hạt vừng lan thành từng mảng, còn đậu thì nốt mọc như hạt đậu làm thành từng hạt, đều do hình dáng mà đặt tên.
Hai bệnh đều do một căn nguyên là thai độc:
- Đậu thì phát ra ở ngũ tạng, tạng thuộc âm chủ huyết, nên đậu có hình mà có nốt, phát chứng có hàn có nhiệt.
- Còn sởi thì phát ra đã khác thì cách chữa trị cũng khác. Chữa đậu phải củng cố bên trong, phải dùng thuốc bổ, chữa sởi không bổ bên trong mà phát tán, chỉ có lúc đậu mới phát thì có thể phát tán là hơi giống nhau; đến khi đã mọc ra thì đậu nên bổ khí để sinh huyết, còn sởi thì nên bổ âm để át bớt dương. Đó là nguyên tắc chính.
Lại lúc đầu sởi mọc phần nhiều giống thương hàn, nhưng sởi thì ho, hắt hơi, sổ mũi, chảy nước miếng trong, mí mắt hơi sưng, nước mắt chảy ràn rụa, mắt mặt phù thũng, hai má đỏ hồng, ợ mửa, ọc khan. Hễ thấy chứng này nên tránh gió rét cẩn thận, đừng cho ăn đồ tanh cay, dùng thuốc giải biểu làm cho da thịt mở ra thì độc sởi dễ ra.
- Sởi
Lá cối xay 10g
Lá dâu 12g
Lá súng 12g
Lá cúc tần 12g
4 vị dùng tươi sắc uống vào thời kỳ lúc sởi sắp mọc, cốt để sởi mọc đều.
- Sởi đã khỏi, bồi dưỡng
- Nam Bạch truật 10g
- Mộc hương 10g
- Liên nhục 5g
- Mạch môn 10g
- Cúc hoa 5g
- Nõn dâu 7g
- Nõn gừng tươi 1 lát
- Sinh địa (sao khô đến thơm) 10g
- Bài thuốc
- Kim ngân 16g
- Chi tử 10g
- Hoài sơn 10g
- Sài đất 10g
- Thổ phục linh 10g
- Sinh địa 5g
- Thương nhĩ tử 10g
- Kinh giới 10g
- Cây Tanh tách 10g
- Nam Mộc hương 10g
- Cúc hoa 5g
- Nõn Bạch chỉ 5g
- Mạch môn 10g
- Cam thảo đất 5g
- Nam sâm 10g
sắc uống chữa sởi mới phát:
Nếu tiêu chảy bỏ Sinh địa, Mạch môn, gia Mộc hương, Trần bì. Sởi hết bỏ Tanh tách gia Tang bạch bì Kiêng cá, chất tanh và chuôi tiêu.
Sởi không mọc được dùng hạt mùi già hòa rượu phun, lại nấu các thứ lá thơm tắm. Nấu cháo cho ăn để triệt nọc.
- Sởi
- Kinh giới tuệ 10 đồng cân – Bạc hà 2 đồng cân
- Tía tô 5 đồng cân
Có thể thêm Kim ngân, Liên kiều.
- Bài thuốc sởi
- Độc lực, Lá sắn thuyền, Vòi voi, Kim ngân, Lộc vừng, Phượng vĩ. Phòng biến chứng sởi sang lỵ.
- Bài thuốc bổ sau sởi
- Lá cây sâm, Lá sung tật, Rễ cây đùm đủm.
- Sởi
- Dầu cá mè nấu cháo cho ăn, trẻ em thì lấy nước trong cho uống.
- 20 phút sau: giã hạt mùi tán nhỏ, tẩm rượu xoa cả người.
- 20 phút sau nữa: lấy quả khế ngọt cho ăn, hoặc vắt quả khế chua cho uống.
- Khế khô, sắc cho uống, vỏ cây khế cũng được.
* Kiêng: muối, thịt gà 1 tuần.
- Sởi
- 1 nắm lá bàng, 1 nắm lá sả, 1 chén hạt mùi, nấu tắm 2 ngày 1 lần.
- Thiên niên kiện 5 đồng cân, Địa liền 5 đồng cân, Hoắc hương 5 đồng cân, Nhân trần 5 đồng cân.
Khi có người bị sởi trong nhà quạt lò than, bỏ các vị vào cho lên khói xông cho người bị sởi.
- Trong xóm có bệnh sởi; tuyệt đối không tắm, không cho ra gió, không ăn đồ tanh, lạnh.
- Tiền sởi: Kinh giới tuệ để sống sắc uống 1 lạng.
- Hậu sởi:
- Xơ mướp khô 5 đồng cân – Rễ thì là 2 đồng cân
- Rễ rau dệu 3 đồng cân Sao vàng sắc uống.
- Cả tiền sởi và hậu sởi:
- Long cốt 1 lạng, tẩm giấm 1 đêm, hầm trấu 2 ngày, hầm than 1-2 giờ.
- Thần sa: 5 đồng cân
Trẻ em: – Từ 1 tháng – 5 tháng: uống 1 phân – 2 phân
- Từ 5 tháng – 1 tuổi: uống 2 phân – 5 phân
- Từ 1 tuổi – ltuổi rưỡi: uống 5 phân – 1 đồng cân Thang với nước vỏ cây sắn thuyền
* Nếu có cam tẩu mã: vỏ chuôi tiêu chín phơi khô 1 bát to đốt cháy thành than + thìa muối cùng đốt với vỏ chuôi, tán nhỏ xát vào.
- Nếu đi tả: Rau dừa cạn sao vàng 1 nắm, sắc uống.
- Sởi
- Sởi đang mọc
Thăng ma 1,5 đồng cân
Phòng phong 1,5 đồng cân
Cam thảo 1 đồng cân
Ngưu bàng (sao) 2 đồng cân
Cát cánh 1,5 đồng cân
Kinh giới 1 đồng cân
Tiền hồ 1,5 đồng cân
Chỉ xác 1,5 đồng cân
* Ngày 1, 2, 3: cho phát ban đều, uống hai thang mọc đều thì nghỉ, chưa mọc thì uống thêm 1 thang nữa.
Cháu bé:
2 bát nước sắc còn 1 chén uống.
2 giờ 1 lần uống vài thìa.
- Sởi đang bay, còn sốt ho là do sởi bay chậm
Ngưu bàng (sao) 2 đồng cân – Mộc thông 1,5 đồng cân
Huyền sâm 1,5 đồng cân – Hắc chi tử 1,5 đồng cân
– Hoa phấn 2 đồng cân
– Địa cốt bì 29 đồng cân
– Cam thảo 1 đồng cân
– Cát cánh 1,5 đồng cân
– Tri mẫu (sao) 1,5 đồng cân
– Xuyên tâm liên 1 đồng cân
* Ngày 4,5,6 :
– Sởi bay, hết sốt, còn ho
– Cam thảo 1 đồng cân
– Thạch cao chín 2 đồng cân
– Cát cánh 1,5 đồng cân
– Tri mẫu (sao) 1,5 đồng cân
– Sinh địa 1,5 đồng cân
– Mạch môn 1,5 đồng cân
– Huyền sâm 2,5 đồng cân
– Trần bì 1 đồng cân
– Hoàng cầm 1 đồng cân
Kiêng: Muối, tôm, cá, cua, nước, gió.
- Biến chứng sởi
Mọc không đều, mọc ngược cam răng, cam tẩu mã, lỵ, tiêu chảy, ho gà
* Cam tẩu mã
– Bằng sa phi 1 đồng cân
– Xạ hương 2 phân
– Cam thảo 0,5 đồng cân
– Thạch cao sống 2 đồng cân
– Mai hoa 1 phân, tán riêng
– Liên kiều 1 đồng cân
Trong thì uống:
– Thạch hộc 5 đồng cân
– Quả ké 3 đồng cân
– Thổ phục linh 2 đồng cân
– Thạch xương bồ 3 đồng cân
– Rau má 2 đồng cân
– Cà gai 2 đồng cân
– Vỏ gạo 3 đồng cân
– Kinh giới 2 đồng cân
– Cương tàm 2 đồng cân
– Sinh địa 1 đồng cân
– Hoàng bá 0,5 đồng cân
– Cát căn 2 đồng cân
– Trúc diệp 1 đồng cân
– Mao căn 3 đồng cân
- Kim ngân 2 đồng cân – Hoàng liên 1 đồng cân
- Rễ rau dền dại thái mỏng, đốt thành than 3 đồng cân
- Sởi
Rễ rau dền, 1 lạng sao vàng
Vỏ cây khế cạo rêu, thái phơi khô, sao vàng khử thổ 5 đồng cân
Củ Cao lương khương (riềng ấm) thái phơi khô, sao vàng 1 đồng cân
Cây tanh tách, sao khô
Quả khế khô 1 đồng cân
Lá tía tô 2 đồng cân
Cát căn 2 đồng cân
Gừng sống 3 lát
Sắc uống. Nếu không có Cao lương khương, cây Tanh tách, thì lấy Cát căn, Tía tô.
Sởi mọc đến đầu gối thì thôi. Nếu bị gió nắng mưa, mỏi tay chân, lấy lá Phù dung + muối buộc vào 1 đêm.
Nọc vào mắt: Hồng hoa 3 đồng cân chế nước sôi, thấm vào một miếng bông gòn đắp vào.
* Chú ý: Kiêng nhất là mỡ lợn, thịt lợn, gà, cua, tôm, chất tươi.
- Sởi
Quả khế khô (nấu cá trê làm canh)
Lá giấp cá (1 nắm giã để uống sống nếu nóng nhiều 1, 2 lần sởi mọc thì thôi)
Lá Đại bi, khi mọc rồi ho, xông nước hơi với Đại bi.
- Sởi
- Tử thảo 1 lạng sao vàng – Hoắc hương khô 2 đồng cân
- Hương nhu tuệ khô 3 đồng cân – Cam thảo nam 3 đồng cân
- Tầm gửi cây khế phơi âm can không sao 1 lạng
Nếu sởi không mọc, phát mồ hôi sau gáy, tay chân lạnh, quằn quại thì dùng hạt mùi giã nhỏ với nước nóng, xoa cùng mình thì 5-6 giờ sau sởi sẽ mọc.
- Sởi
- Lá Tử thảo 2 lạng – Củ riềng ấm 2 lạng
Hai vị sao vàng sắc đặc cho uống từ khi bắt đầu đến lúc sởi bay. Khi bay hết rồi; thêm:
- Hoa kim ngân 2 lạng – Hoa kinh giới 2 lạng
Cho tiêu độc. Ản cơm nhạt với đường.
- Sởi
- Thăng ma, Tang bạch bì, Kinh giới, Cát căn, Đăng tâm.
- Nóng nhiều nói mê, gia Chi tử 2 đồng cân – Địa cổt 2 đồng cân.
- Đi cầu phân lỏng, gia Sơn tra, Hậu phác.
- Biến chứng lỵ: gia Hoàng liên 1 đồng cân, Hoạt thạch 1 đồng cân, Hòe hoa 1 đồng cân.
- Sởi đã bay: gia Liên kiều, Kim ngân hoa (tiêu độc)
- Chậm mọc: Bôi thăng ma; trên mọc, dưới chưa mọc gia Ngưu tất.
- Sởi bay rồi: bỏ Thăng ma – gia Thổ phục linh 2 đồng cân.
- Nóng nhiều: gia Hoàng cầm.
- Chữa sởi
Rễ mài với rượu, giấm xoa vào tay và thân mình.
Lá dành dành, Rau má, Kinh giới, Kim ngân, Lá vòi voi, sắc uống.
- Sởi
- Làm cho sởi lên: lấy nấm hương rửa sạch, xé tơi, ngâm nước nóng nấu sôi uống. 3 nấm mỗi ngày.
- Sởi
THỜI KỲ SỞI PHÁT
Từ khi phát nóng, sởi mọc 3-5 ngày. Bắt đầu ho, phát sốt, nghẹt mũi, chảy mũi, mỏi mệt, buồn ngủ, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc hơi vàng, ăn kém, tả loãng.
- Cho nọc sởi xuất ra ngoài:
- Rau giấp cá 16g
- Rau dệu 16g – Cam thảo đất 12g
- Đậu cọc rào 2 – 4 vị càng tươi càng tốt.
Sắc 300ml lấy 150ml chia 2-3 lần, uống cách 3 giờ 1 lần.
2 Lá Trân châu 40g (Nam tử thảo) tươi càng tốt.
Sắc 300ml lấy 150ml, chia 2-3 lần uống.
- Lá mọc sởi 40g (lá ban, cỏ cóc), sắc 300ml lấy 150ml, chia 2-3 lần uống.
- Củ Mã thầy 40g (củ năng)
- Củ cà rốt 40g
- Hột mùi 40g – 3 vị nấu chung uống như uống trà.
THỜI KỲ SỞI MỌC: TỪ MỚI MỌC ĐẾN KHI MỌC CẢ NGƯỜI 3 NGÀY
Sởi mọc nặng thêm, nóng dữ dội hơn, buồn phiền, khát nước, ho nhiều, tiêu chảy, màu sởi đỏ sẫm, rêu lưỡi vàng nhớt, lưỡi đỏ (nếu lưỡi khô thì nặng hơn)
- Uống dể thanh nhiệt giải độc:
- Lá tre 20g – Sa sâm 12g
- Sài đất 16g – Ngân hoa 16g
- Cam thảo đất 12g – Mạch môn 12g
- Củ sắn dây 12g
Sắc 600ml lấy 300ml, uống mỗi lần 30 – 40ml cách 3 giờ.
III. THỜI KỲ SỞI BAY: SỞI MỌC ĐỀU ĐEN HẾT 3 NGÀY
Sởi lặn, nóng sốt lui theo ngay
Nếu trẻ có xuất hiện gò má đỏ, nóng từng cơn, ho ít đàm, ra mồ hôi trộm, rêu lưỡi nhuận.
Sáng ra lưỡi đỏ mà khô là nhiệt độc tổn tân của sởi còn sót, làm hao
- dịch của phổi và dạ dày
- Chữa bằng cách: bồi dưỡng tân dịch
- Nam Sa sâm 120g
- Củ mài (sao vàng) 60g
- Cam thảo dây 80g
- Đậu đỏ (sao vàng) 120g
- Sả 80g
- Hạt sen (sao vàng) 120g Lá dâu non 120g Hoàng tinh 160g Mạch môn 80g
- làm viên, uống mỗi lần
- Lá mơ 16g Cỏ nhọ nồi 12g Rau sam 16g
Các vị tán mịn luyện hồ với mật ong 10g, ngày 3 lần.
- Nếu có chứng lỵ sau khi sởi bay
- Rau má 20g
- Củ phượng vĩ 12g
- Cam thảo dây 8g
- Vỏ núc nác 12g
Sắc 400ml lấy 150ml, chia 2-3 lần uống.
- Nếu sau khi sởi bay, có ho kéo dài
- Mạch môn 12g – Bách bộ 12g
- Cam thảo dây 8g – Lá táo 8g
- Vỏ rễ dâu (tẩm mật, sao vàng) 20g – Lá chanh 6g
Sắc 400ml lấy 150ml, chia 2-3 lần uống.
Bài thuốc này không độc hại cho cơ thể tí nào, chỉ bồi dưỡng (nếu làm sạch đất trong ruột giun) và có tác dụng chuyên diệt trùng bệnh, không phải chuyên hạ nhiệt.
- Công dụng: Trị sốt xuất huyết với các dạng biến chứng khác nhau, ở các trạng thái nặng nhẹ khác nhau (theo các trường hợp đã dùng qua thuốc này và đều hiệu quả từ 25 đến 60 phút).
- Thường ở trễ 1 đến 5 tuổi
- Sốt nhẹ, nổi mẩn đỏ như sởi, nổi giề cao như dị ứng mề đay, như ghẻ ngứa.
- Sốt cao, cũng nổi như trên, hoặc nổi chấm đỏ sẫm, mê man, nổi quầng đỏ như quầng hắc lào, vệt dỏ, như mẩn muỗi đốt v.v…
- Thường ở trẻ 5 đến 15 tuổi
- Sốt cao, sau đó ra máu cam, nôn ra máu, chảy máu chân răng, tiêu tiểu ra máu (do vỡ mạch máu).
- Sốt cao, sau đó nổi vệt xanh, đỏ bầm, tím hoặc đen ở vài nơi hoặc khắp người (do vỡ mạch máu nhỏ dưới da)
- Sốt mê man, co giật cấm khẩu đứng tròng, chướng bụng đầy hơi, bí đại tiểu tiện v.v… (do sốt cao).
- Sốt mê sảng, nói bậy, cũng có thể phát điên cuồng thường từ 13 tuổi trở lên.
- Sốt cao, hạ thân nhiệt, tay chân lạnh toát, người mệt, đau trong ngực, vật vã, buốt óc, kêu khóc.
- Thường ở phụ nữ, gái 16 tuổi đến già 45, 46 tuổi
- Sốt cao, có thể chướng bụng, bí đại tiểu tiện ra máu, trước kỳ kinh 5, 6 ngày ra máu (khác bệnh thần kinh ở chỗ người bệnh mệt lã, điên nằm điên ngồi, biểu hiện hết sức đau đầu, trợn liếc, nói bậy, có thể xé áo… ít thấy chạy nhảy lung tung (có thể do vỡ mạch máu nhỏ màng não).
- Nam trẽn 16 tuổi
- Sốt như sốt cảm cúm nhưng kéo dài mãi, buốt đầu, đau mình, chỉ muôn nằm, sốt như trúng nắng, trúng gió, cảm lạnh.
- Nói chung cả nam nữ trẻ em, thường ít muôn ăn, và phần lớn mặt vẫn tươi tỉnh, có lúc người rất mệt, các trường hợp nặng thì tim yếu mạch nhanh người mệt lã, hôn mê, lạnh xương sống, lạnh tay chân, thường bí đại tiểu tiện, chướng bụng khi bệnh nặng, gặp các triệu chứng trên uống thuốc này cho đủ liều lượng giun đất và rau ngót, cơn nguy kịch sẽ lui ngay trong vòng 30 đến 60 phút, 3 ngày liền uống 3 thang liền, ngày thứ tư khỏi bệnh, bảo đảm không chết từ sau khi uống thang đầu tiên khoảng 60 phút.
* Nên rõ mấy điều:
- Phải tuyệt đôi đủ liều lượng, nhất là giun. Không độc, không gây lạnh, nếu rửa bỏ hết đất trong ruột giun, ngộ độc là do giun ăn phải chất độc trong đất.
- Phát điên đừng để lâu quá 10 tiếng đồng hồ, đừng cho uống thuốc khác chỉ dùng thuốc này, 50 phút khỏi ngay. Thường là bị biến chứng não như thế, dù rất nặng, dù kéo dài đã 4, 5 ngày, thậm chí đã 6, 7 ngày 9, 10 ngày uống cũng khỏi ngay. Nhưng có người chỉ buốt đầu 1, 2 hôm đã chết cho nên đừng để lâu, đừng thấy uống thuốc gì đó để hết cơn điên, hết sốt mà vội cho, không dùng thuốc này.
- Phát lạnh dưới 36° nên uống sáng 1 thang tối 1 thang, và không hạn chế trong 3 ngày. Bao giờ thân nhiệt đạt 37° c kéo dài 3 ngày mới thôi. Hơ ấm bàn tay bàn chân (ấm bàn tay ấm tim, ấm bàn chân ấm não) và hơ các khuỷu tay chân (ấm khuỷu chân ấm phổi, ấm khuỷu tay ấm ruột gan) hơ đến ấm hẳn thì thôi. Còn cả ngực và bụng (trừ chỗ trái tim) thì phải hơ ấm nhiều ngày (theo sách xưa thì nam 7 ngày, nữ 9 ngày) để những chỗ bị tổn thương bên trong nhờ người ấm mà chóng hồi phục trạng thái bình thường. Hơ bằng muối rang bọc trong lá chuôi, ngoài bọc nhiều lần vải, có thể hơ ấm bằng cách cho nước nóng vào chai, bọc cao su, hay hơ bằng nhiều cách khác. Phải cho uống 15, 17 viên 1 ngày, hoặc cho uống nhiều nước chanh cam (nước phải đun thật sôi kỹ, các chén nhúng nước sôi, tránh cho vi trùng vào cơ thể lúc này), uống các thứ phải uống thật ấm, và từ từ cho uống nước rau má, rau ngót đun sôi pha đường để hàn các chỗ mạch máu vỡ, cho uống nước rễ tranh, râu ngô, đề tiểu nhiểu lọc máu sạch đỡ mệt, cho uống nước rễ cau (chỗ màu đỏ, non) để thông tiểu, cho uống nước đậu đen xanh dỏ rang v.v… và bôi nhờn như vazeline, dầu paraphin v.v… vào hậu môn, thông tiện. Dùng con gián không cánh giã nhỏ bọc trong 1 lớp gạc đặt ở rốn nếu quá đầy hơi, cho thông hơi. Thường uống thuốc 50 phút mọi thứ bí đại tiểu tiện, đầy hơi đều khỏi. Đánh gió kiểu đánh cấp cứu, đánh cho nổi giề thật bầm, đánh xuôi không đánh ngược các trường hợp phát lạnh đến tay chân lạnh ngắt và duỗi thẳng, mồ hôi trán vã ướt, người chỉ còn sống, tim thì xem như nặng nhất, có thể thì chậm chết, tuy vậy vẫn cố đổ thuốc, nếu thuốc thấm chậm nhất là 60 phút mà còn kịp thì vẫn cứu sống được, nhất định phải đánh gió cho hết lạnh và ổn định tim, trường hợp biến chứng lên não gây điên dại, có thể chết trong 1, 2 ngày nhưng cũng có thể sống 7, 8, 9, 10 ngày, cho nên có lâu mấy cung cố cho uống thuốc để nếu còn kịp thì vẫn cứu sống được, tốt nhất không để quá 4, 5 tiếng sau khi phát điên, trị sớm thì dù điên cuồng nặng vẫn khỏi trong vòng 50 phút. Dùng thuốc kiểu dập từng chứng, có thể khỏi sốt, khỏi điên, nhưng vẫn có thể còn những biến chứng dầy hơi, bí tiểu, ra máu không cầm được, co giật cấm khẩu v.v… Trị khỏi dễ dàng và nhanh chóng khoảng trên dưới 30 phút đến 60 phút thôi. Các dạng mẫn đỏ và chứng chảy máu cam nhẹ là nhẹ nhất, cũng nên uống thuốc kịp thời, đừng để biến chứng nặng, cũng nên uống đủ 3 thang, tránh bệnh tái phát, dễ chết vì lạnh, sợ lạnh bụng thì có thể cho vào thuốc uống 1, 2 lát gừng mỏng và sắc cô thuốc hơn (còn độ nửa bát), uống thật ấm, uống từ từ, để tránh nôn mửa (nôn nửa thang kể bỏ, phải làm lại thang khác ngay).
Bệnh này khó, trùng bệnh rất độc rất nhanh, chủ yếu là gây vỡ mạch máu trong ngoài mà chết, cho nên phải uống đúng thuốc “con giun” mới diệt được trùng, phải dùng nhiều rau ngót mới cầm được vỡ mạch máu. Nếu dùng cách trị “dập từng chứng” thì sẽ tạo trạng thái khỏi sốt, khỏi cơn bệnh một cách giả tạo, trùng bệnh vẫn phát triển ngầm, vẫn đục khoét tim óc bên trong, còn dựa vào sức đề kháng của cơ thể thì khó tránh tử vong khi bệnh nặng, biết thuốc sớm hay muộn, cũng nên cố dùng nó mà cứu mạng người, đừng chậm trễ; bệnh nặng hay nhẹ mấy cũng nên uống sớm và uống cho đủ hoặc quá 3 thang. Bệnh ghẻ lở kháp người chỉ ăn một lần cháo giun, cả bát giun, là khỏi ngay. Đông y ở khắp nước ta chỗ nào cũng biết dùng giun để trị các loại bệnh có trùng độc: Như sốt rét ngã nước, khô gan chướng nước, ban nặng v.v… Thậm chí có nơi dùng trị nọc rắn độc. Đông y gọi giun là rồng đất (địa long) hiệu thuốc bắc thường sẵn Địa long khô. Theo các cụ xưa, rồng là con vật “có phép mầu nhiệm”, thế tại sao trị bệnh cứu người các cụ gọi giun đất là rồng? Tại sao các cụ gọi bài thuốc này là chủ trị “ban xuất huyết”? và chỗ ghi triệu chứng thì (theo bài thuốc đăng ở báo “Hà Nội mới” ngày 17 tháng 9 năm 1969) bài thuốc có vẻ như trị nhiều thứ bệnh, kỳ thực qua thực tế ta thấy những chứng đó chỉ là biến chứng của một bệnh, lan tràn trong cùng một đợt và cùng chịu một bài thuốc… tôi nghĩ: chúng ta nên chú ý điều này. Đồng thời nên đặt việc cứu mạng người trên hết, đừng gớm con giun và nên tự hào con giun, về khoa học trị bệnh cố truyền của các cụ ngày trước, đừng khinh thường con giun và bài thuốc này, toàn những vị có vẻ tầm thường.
Còn khi tổng kết về đợt dịch này, tôi mong các nơi đều nhằm mấy điều sau đây:
- Có ai chết mà đã uống qua thuốc này (dù là chỉ một thang, đúng liều lượng) không?
- Có ai đã uống qua thuốc này (đủ liều lượng) mà 60 phút sau không lui cơn nguy kịch, ba ngày sau nghĩa là qua 3 thang thuốc mà không khỏi bệnh hẳn không?
- Thời gian đẩy lui cơn nguy kịch và đẩy lui bệnh của các thuốc khác trong mọi trường hợp như thế nào? (vấn đề thời gian luôn xác định bản chất của thuốc)
- Có ai bị phản ứng gì (dù nhẹ), sau khi uống thuốc này không? (Trừ trường hợp không chịu bỏ đất trong ruột giun) hoặc bị lạnh vì đêm ngủ không đắp chăn bị gió, toát mồ hôi không lau khô, đi chân đất lúc đang mệt nặng, lạnh sống lưng không đánh gió)
- Những trường hợp tử vong đã có uống qua những thuốc gì? Tôi xin đặt trước 5 vấn đề đó để mọi người thấy rõ: Bài thuốc này là bài thuốc chuyên trị bệnh này và đã được lưu truyền trong nhân dân ta từ lâu đời. Bài thuốc đến tay tôi, tôi chỉ thêm điểm bỏ đất trong ruột giun để tránh độc và thêm đậu xanh để phòng độc, nhỡ khi có người vội vàng làm giun không sạch đất. Nhưng nói chung đất dễ gây lạnh, sợ thuốc hàn, còn chất độc chỉ có trong đông rác có nấm độc có nhiều lân tinh và có chất độc do người đổ, bản thân đất không độc. Còn liều lượng giun thì trong sách xưa có giảng rõ: Sách Đông y nói giun đất dùng tối đa là 10 con, tức là xưa chỉ dùng loại “rồng”, to bằng ngón tay dài từ 25 đến 50 phân, không dùng thứ nhỏ. Loại to đó sấy khô chỉ còn bằng mút đũa và dài 15, 17 phân, cứ theo sách thì khó tìm đủ giun to, do đó nên ông bà ta đà chuyển sang dùng giun bằng đầu đũa, loại màu gụ, to bằng đầu đũa mà ngắn độ 1 tấc đào lên nó rất lành cứ cuộn tròn, không giẫy giụa. Loại này ở chỗ đất màu đâu cũng có giun đỏ và hung hăng, giun to trắng mà thịt bở mềm và ẩm không tốt, dùng không diệt nổi trùng bệnh này.
Trường hợp người kén uống thuốc, bỏ tí đường cho dễ uống và đường không làm giảm công hiệu của thuốc. Nước nhì có giá trị gần bằng nước nhất, không nên coi thường, cho bệnh nhân uống kể như uống 2 thang 1 ngày. Nước ba cũng còn nhiều công hiệu.
Thuốc này nếu sắc 2 nước rồi nhập lại mà lọc qua phương pháp nước cất, tôi nghĩ rằng có thể sẽ trở thành loại thuốc vaccin tốt. Đề nghị ngành dược nghiên cứu xem, còn như nấu thật cô dặc vào lọ bán trong mùa từ tháng 7 đến tháng 10 dương lịch rất tốt. Đối cùng lắm thì dùng cách sấy khô 4 vị cả rau ngót, dùng cả cây, gốc, rễ, làm thành thuốc bắc cũng có thể để được cả suốt mùa bệnh mà không sợ kém công dụng. Kết luận: Qua những lời chỉ dẫn trong sách, qua kinh nghiệm trị bệnh của tôi trước kia, hàng năm đều có gặp bệnh này rải rác, riêng năm 1954 từ tháng 7 đến tháng 10 ở vùng Ninh Thuận, Rạch Giá có một luồng bệnh tràn lan mạnh, tôi đã dùng thuốc này trị khỏi trong vòng 30 – 60 phút các cơn co giật đã 5, 6 tiếng, các cơn ra máu tươi mà 3 ống sinh tố K không cầm được, các trường hợp bí đại tiểu tiện, sốt cao 41 độ, ọc máu rất nhiều, v.v… nhất là trường hợp mà bệnh nhân qua nhiều bệnh viện.
- Sởi đã mọc mà tiêu lỏng
- Hột Mã đề, sao qua, sắc uống. Nếu tiểu không thông gia Mộc thông hoặc gia Cau dừa, sắc uống.
- Sởi đã mọc mà sốt không ha, ho không bổt
- Thiên môn đông, bỏ lõi, vỏ Thiên hoa phấn, Tang bạch bì (nướng mật), Tía tô, Cam thảo 1 ít, sắc uống sẽ khỏi
- Kinh giới, Địa cốt bì, Lá Xương sống, Chua me đất, đều nhau, sắc uống ấm, nếu tiêu lỏng thì bỏ Chua me đất.
- Thời tiết không lành, người hay phát ra chứng sởi, ban đầu mình nóng, nhức đầu, ho, sổ mũỉ, nên uông thuốc nầy, nếu cảm phong tà thì thanh nhiệt tán tà, nếu phát sởi thì gỉảm độc sơ thông nhẹ
- Bột chàm 1 thìa, hòa nước muối uống
- Cát căn 1 phân, Tía tô 1 phân, Cam thảo 1/2 phân, Hành 3 củ, sắc uống nóng.
- Phát sốt 6-7 ngày, sởi mọc ra không tốt, hoặc mọc rồi lại lặn là do lỗ chân lông bít kín hoặc phong hàn ngoại cảm, độc công vào trong
- Lá liễu, phơi khô, sao tán, 1 lần 1,2 đồng cân, lấy rễ cỏ tranh rửa sạch sắc nước uống. Ngoài dùng 1 nắm rau mùi, thái nhỏ, sắc với nước cho sôi, nhắc xuống chờ nguội, lấy vỏ cây gai, vò mềm chấm vào nước xoa đầu mặt tay chân, sởi mọc được thì yên.
- Sởi đã mọc mà chưa hết sốt, dạ dày khô táo, làm cho
phiền khát uống nước nhiều
- Mạch môn đông bỏ lõi, củ sắn dây, Thiên hoa phấn, hạt Dành dành ngâm đồng tiện sao đen – mỗi vị 1 đồng cân + 10 lá tre, sắc uống.
- Đậu sởi ban độc
Bài Thất điền (Nam dược Thần hiệu) chuyên chữa những chứng: lên đậu mùa, lên sởi, ung thư, tràng nhạc, tiền bối, hậu bối và các trẻ em đan độc.
- Công thức:
- Hoa cây cứt lợn 5 đồng cân – Dây kim ngân 5 đồng cân
- Hoa cúc áo 5 đồng cân – Lá Đinh lăng 5 đồng cân
- Lá lưỡi rắn 5 đồng cân
- Cách bào chế: 7 thứ trên lấy lá xanh không có sâu đem về, rửa sạch, chặt ngắn mỗi đoạn chừng ba phân đem phơi khô, sao vàng, khi có bệnh đem ra dùng.
- Cách dùng: Các thứ trên, đo 2 bát nước, sắc kỹ lấy bát trong, Sắn dây 5 đồng cân, Hoa Kinh giới 5 đồng cân, sắc lên vối thuốc, mỗi lần uống nguời lớn uống 1 bát
- Trẻ 5-10 tuổi uống 1/2 bát
- Trẻ 1-5 tuổi, uống 1 chén mắt trâu, 3 lần 1 ngày.
- Thủy đậu
Sa sâm 2 đồng cân
Huyền sâm 1,5 đồng cân
Tang bạch bì 1 đồng cân
Cam thảo 1 đồng cân
Địa cốt bì 2 đồng cân
Hoạt thạch 2 đồng cân
Tri mẫu sao 1,5 đồng cân
Cát cánh 1,5 đồng cân
Xích thược 2 đồng cân
Sắc uống
Kiêng: chất tanh, nước, gió không kiêng lắm.
- Bệnh sởi, thủy đậu, đậu mùa
- Nấm hương 5 đồng cân – Rễ cây cốt khí 1 lạng
Sắc uống 2 ngày, mỗi ngày uống 3 lần.
Kiềng: Chất tanh, chua, mật mía, tránh gió.
Nếu sốt cao: sắc nấm hương cho uống hạ nhiệt, bổ.
- Trẻ con nóng sốt
- Búp tre có gai nếu nóng có ho, không gai nếu nóng không ho – 20 cái.
- Bí đao, lấy dao cạo vỏ… Mỗi tuổi 1 lát.
- Đăng tâm: 1 nhúm
- Đường (có thể dùng bí đao thay cho bí và đường).
- Sởi
– Kim ngân hoa 2 đồng cân
Sắc uống. Trẻ em uống 1/2 liều
Làm kinh: gia Câu đằng 2 đồng cân, Thuyền thoái 10 con
Nhiệt ở miệng: gia Bồ công anh
Ho: gia Bách bộ
Ra máu: gia Trắc bá diệp sao vàng Tả lỵ: gia Mộc hương.