Bệnh Thái dương kinh (bàng quang, tiểu trường)

Lý luận Đông y

Thái dương kinh chứng

Thái dương chủ biểu, ngoại tà xâm nhập vào thân thể thì trước tiên phát ra bệnh thái dương.

Chứng trạng chủ yếu là:

Sợ lạnh, phát sốt, mạch phù, đầy, gáy cứng thể hiện bệnh tập trung ở biểu, khí huyết có xu hướng ra ngoài để chống đỡ bệnh tà. Do phong hàn ở ngoài, dương khí không thông ra được nên sợ lạnh, tà khí và chính khí đấu tranh sinh phát sốt, mạch phù là huyết dịch trào ra ngoài để ngăn chặn tà khí. Đầu gáy cứng đau là do kinh mạch thái dương bị trì trệ mà gây ra.

Bệnh nhân cảm thụ bệnh tà không giống nhau, thể chất cũng khác nhau, nên ngoài cơ sở chứng hậu chúng lại xuất hiện ra hai loại hình khác nhau là thương hàn và trúng phong. Đặt tên là thương hàn và trúng phong ở đây không phải là vì hàn tà và phong tà gây bệnh mà chủ yếu là “hàn khí chủ bế tàng” (đóng lại) chỉ bệnh không có mồ hôi “phong khí chưa sơ tán” (sơ thông) chỉ bệnh có mồ hôi.

Thái dương thương hàn: Thái dương thương hàn còn gọi là biểu thực chứng không ra mồ hôi mà mạch khẩn mình mẩy đau nhức nhiều mà ho suyễn. Bệnh này thường thấy ở người khoẻ biểu khí thực tà, khí chưa vào đâu được nên không ra mồ hôi, tân dịch chưa bị hao tổn, mạch khẩn tỏ ra bệnh nhận bị hàn tà bó chặt, mồ hôi chưa thóat ra được mình mẩy đau nhức là huyết dịch trì trệ, suyễn ho do bì mao bế tắc gây ra, Phép chữa: Khai biểu phát tán; dùng Ma hoàng thang: Ma hoàng 12 gam, khai biểu phát tán, hạnh nhân 12 gam, tuyên phế bình suyễn; quế chi 8 gam giúp ma hoàng phát tán. (Theo kinh nghiệm bản thân thì dùng quế chi tiêm là tốt hơn).

Chú ý sau khi uống ma hoàng thang nếu ra mồ hôi thì khỏi bệnh, khi uống thuốc tránh nơi trống trải có nhiều gió lạnh.

Có khi không ra mồ hôi, ra máu mũi gọi là hồng hãn (mồ hôi đỏ) đó là bệnh độc theo đường máu mũi thóat ra không e ngại.

Ra mồ hôi không nên cho quá nhiều, người dương hư hoặc âm hư không nên dùng Ma hoàng thang,

Thái dương trúng phong

Thái dương trúng phong còn gọi là biểu hư chứng, ngoài triệu chứng trúng phong ở trên ra có chứng trạng ra mồ hôi và mạch hoãn.

Bệnh này thường thấy ở người sức khoẻ yếu hơn, biểu khí hư, tà khí phạm quy biểu vào đến phần cơ nhục mà mồ hôi bị tiết ra, tân dịch bị hao do đó mà mạch phù hoàn.

Phép chữa: Điều hoà dich vệ và giải cơ. Dùng Quế chi thang.

Quế chi thang:

Quế chi tiêm

Bạch thược

Sinh khương

Chích thảo

Đại táo

12 gam phát tán thông kinh lạc.

12 gam hoà dinh liễm âm.

12 gam ôn trung tán hàn.

8 gam điều hoà bổ ích.

12 gam kiện tỳ hoà vỵ.

Bài thuốc này vừa bổ chính vừa khu tà,

Chú ý sau khi uống thuốc nóng thì ăn cháo nóng đắp chăn ra mồ hôi, có khi uống quế chi thang không đỡ châm huyệt Phong trì, Phong phủ rồi uống tiếp thì kết quả tốt. Người dương khí thịnh và người nghiện rượu thì không nên dùng.

Quế chi thang nếu uống nguội không ăn cháo nóng, sau khi uống thuốc để ra mồ hôi, thì chỉ có tác dụng điều hoà đinh vệ và không giải được cơ biểu.

Triệu chứng

Chứng sốt mà lưng gáy cứng đờ là do ngoại tà làm bế tắc (đi dọc hai bên xương sống) hoặc do tân dịch không đủ dinh dưỡng cân mạch.

Nếu biểu thực (không ra mồ hôi) thì dùng Cát căn thang (tức là bài Quế chi thang gia cát căn 16g, ma hoàng 12 gam.

Nếu thuộc chứng biểu hư (có mồ hôi) thì dùng Quế chi thang gia cát căn 16g, cát căn có tác dụng trong đường kinh sâu và dinh dưỡng cân mạch.

Điều hòa lý nhiệt

Biểu thực (không có mồ hôi) sốt cao trong người bứt rứt, bực bội, khát nước, do người vốn nhiệt hoặc có phục nhiệt ở trong bị hàn tà bó chặt ở ngoài mà sinh bệnh.

Phép chữa.

Phát tán tuyên phế, ôn hóa hàn đờm. Dùng Tiểu thanh long thang.

Ma hoàng 12g tuyên phế.
Tế tân 6g ôn thông kinh phế.
Bạch thược 12g hoà dinh liễm âm.
Ngũ vị 4g dẫn thuốc vào phế liễm âm
Chích thảo 8g điều hoà bổ ích.
Quế chi 12g tán hàn thông lạc.
Can khương 12g ôn trung tan hàn.
Bán hạ 12g hóa đờm giáng nghịch.

Theo kinh nghiệm của sách Nhật Bản và chính bản thân tôi bài này không có biến chứng, chỉ có hàn đờm, chữa cũng hay, duy ma hoàng về lượng giảm xuống 8 – 6g và không uống nóng.

Thái dương phủ chứng

Bệnh tà ở bệnh thái dương không giải được thì sẽ từ bệnh truyền vào phủ (bàng quang gây thành hai hiện tượng khác tức là chứng súc thủy và súc huyết).

Súc thủy:

Nhiệt tà vào phần khí của bàng quang, nhiệt và thủy kết hợp với nhau thành ra chứng súc thủy, chứng trạng của bệnh này là mạch phù sắc, phát nóng, khát nước bứt rứt, tiểu tiện không thông, uống vào thì nôn mửa ra ngay. Phép chữa hóa khí lợi thủy dùng bài Ngũ linh tán.

Quế tiêm 12 gam              ôn dương hóa khí, thông biểu

Bạch truật 12 gam                       kiện tỳ trừ thấp.

Phục linh 16 gam

Chư linh 12 gam

Trạch tả 12 gam               lợi thủy

Phát sốt là biểu tà chưa giải hết, khát nước bứt rứt do tiểu tiện không thông, trọc thủy không giáng xuống, thanh thủy không thăng lên được, uống nước thì nôn mửa do kết từ thủy ứ đọng nên không dung nạp được nước. Nếu tiểu tiện được thông lợi hoặc mồ hôi tiết ra được thì bệnh khỏi.

Kinh nghiệm bài này làm thuốc bột tán uống với nước nóng thì hay hơn làm thuốc thang sắc, sau khi uống mà không lợi được tiểu tiện mà ra được mồ hôi thì bệnh mau khỏi, nếu chỉ lợi tiểu tiện mà không ra được mồ hôi thì công hiệu chậm hơn.

Bài này và bài Tiểu thanh long thang đều có tác dụng phát tán lợi thủy nhưng bài bài nặng về mặt lợi thủy nhẹ về mặt phát hoả. Bài tiểu thanh long thang nặng phát tán nhẹ về mặt lợi thủy, Tiểu thanh long dùng để lợi thủy nên cho uống nguội vì ma hoàng uống nóng thì nặng về phát hoả, uống nguội thì nặng về lợi thủy. Ngũ linh tán uống nóng có tác dụng vi bản.

Súc huyết:

Nhiệt tà vào phần huyết của bàng quang nhiệt và huyết kết lại với nhau thành ra chứng súc huyết.

Chứng trạng: Mạch trầm, bụng dưới cấp kết (căng tức, tiểu tiện như thường có hiện tượng như điên cuồng đó là bệnh còn nhẹ nên dùng Đào nhân thừa khí thang để tả nhiệt thực ứ huyết. Nếu bụng dưới đầy cứng ấn vào có cục hoặc da phát vàng, tiểu tiện như thường mà phát cuồng thì dùng bài Để đương thang trục ứ huyết.

Xét chứng bàng quang súc huyết là huyết kết ở vùng bàng quang hoặc bào cung cũng như nội tâm hạ là vùng dưới tim chỉ về dạ dày.

Chứng súc huyết khác với chứng súc thủy là một đằng tiểu tiện tự lợi (súc huyết) một đằng tiểu tiện bất lợi (súc thủy) một đằng có chứng phát cuồng hoặc như cuồng (súc huyết) một đằng không có chứng phát cuồng (súc huyết).

Đào nhân thừa khí thang:

Đại hoàng 12 gam              tả nhiệt trục ứ.

Quế tiêm 12 gam                  ôn kinh thông lạc.

Cam thảo 4 gam                  điều hoà.

Mang tiêu 12 gam               làm mềm vật rắn.

Để đương thang

thủy điệt 8 gam                 (chế) hành ứ huyết.

Mạnh trùng 8 gam             (chế) hành ứ huyết.

Đào nhân 12 gam               (bỏ vỏ).

Đại hoàng 12 gam              tả nhiệt trục ủ.

Đào nhân thừa khí thang chữa bệnh ứ huyết nhẹ hoặc mới mắc, Để dương thang mắc bệnh nặng hoặc đã mắc lâu.

Thái dương hiệp chứng

Thái dương biểu chứng chưa hết mà dùng phép hạ phàn nhiệt tà hãm vào lồng ngực kết lại với đờm thủy, chứng trạng từ vùng dưới tim đến bụng dưới cứng đầy đau gọi là chứng đại kết hung dùng bài Đại hãm hung thang đuổi nhiệt trục thủy tà ứ như kết lại, còn nhẹ chỉ ở với vùng tim đè vào mới thấy đau, mạch phù hoạt đó là chứng kết tiểu hung dùng bài Tiểu hãm hung thang để lợi đờm thông kết.

Đại hãm hung thang

Đại hoàng 12 gam               tả nhiệt lợi dụng đại tiện.

Mang tiêu 12 gam               nhuyễn kiên.

Cam toại 4 gam trục thủy; cam toại và mang tiêu dùng liều thấp và thận trọng.

Tiếu hãm hung thang

Hoàng liên 12 gam              thanh nhiệt, tiêu ứ.

Bán hạ 12 gam                    tiêu đờm.

Qua lâu thực 12 gam – thanh hóa nhiệt đàm, tiêu kết.

Vì khí: Sau khi uống nhầm thuốc công hạ nếu phong biến ra chứng kết thang thấy vùng dạ dày đầy và không đau gọi là chứng ứ khí, chứng ứ là vị khí không điều hoà và hư nhiệt tắc trệ lại, nếu có chứng nôn oẹ vùng dưới tim đầy tức thì dùng bài Bán hạ tả tâm thang, dùng vị đắng để giáng, vị cay để khai, mục đích là tiết nhiệt tiêu ứ. Nếu trong vị không yên, vùng dưới tim đầy cứng, ợ ra mùi đồ ăn, dưới sườn có thủy khí bụng sôi, thì dùng bài Sinh khương tả tâm thang để tán thủy tà đình trệ. Nếu đã nhiều lần dùng nhầm thuốc hạ làm cho vị khí nghịch lên, vùng dưới tim đầy cứng thì dùng bài Cam thảo tả tâm thang điều hoà trung tiêu mà chữa bổ; nếu vùng dưới tim có có nhiệt tà, mạch bộ quan phù thì dùng bài Đại hoàng hoàng liên tả tâm thang để tiết nhiệt. Vùng dưới tim mà sợ rét thì dùng bài Phụ tả tả tâm thang để trợ dương mà tiêu bĩ.

Bán hạ tả tâm thang

Hoàng liên 12 gam thanh nhiệt tiêu bĩ
Hoàng cầm 12 gam thanh hoả tiết nhiệt
Bán hạ 12 gam giáng nghịch
Cam thảo 8 gam điều hoà
Nhân sâm 4 gam bổ hư
Can khương 12 gam  
Bài này chủ yếu chữa chứng nôn nhiều.

Sinh khương tả tâm thang.

Tức là bài thuốc trên thêm sinh khương 10 gam để ôn thông tuyên tán thủy đạo, rút bớt 4 gam can khương và 4 gam bán hạ. bài này chủ yếu chữa chứng hàn nhiều.

Cam thảo tả tâm thang.

Tức là bài bán hạ tả tâm thang bỏ nhân sâm, dùng cam thảo 16 gam để bổ tỳ bài này chủ yếu chữa chứng tỳ hư nhiều.

Đại hoàng hoàng liên tả tâm thang

Hoàng liên 12 gam              thanh nhiệt tiêu bĩ

Hoàng cầm 12 gam             thanh hoả tiết nhiệt

Đại hoàng 12 gam              tả hoả trục nhiệt

Phụ tử tả tâm thang

Tức là bài trên gia phụ tử 12 gam để ôn trung tiêu.

Chú ý: cũng là bệnh ở biểu mà hạ sớm quá. Người dương tạng có thủy độc đình trệ, mà gây ra bệnh bĩ khí.

Lý luận Đông y
Tìm kiếm điều bạn cần
Bài viết nổi bật
  1. Cảm thấy Mệt mỏi thường xuyên – Triệu chứng bệnh gì, phải làm sao
  2. Bị bệnh thủy đậu có nên tắm không?
  3. Tác hại của uống nhiều rượu bia đối với sức khỏe
  4. Dị ứng thuốc – biểu hiện, điều trị
  5. Thuốc chống dị ứng và cách dùng
  6. Sốt phát ban
  7. Thuốc chống say xe hiệu quả nhất hiện nay
  8. Cách chữa đau răng nhanh nhất, hiệu quả không dùng thuốc
  9. Cây Cà gai leo và tác dụng chữa bệnh gan thần kỳ
  10. Bệnh Zona (Giời leo) - Hình ảnh, triệu chứng và thuốc chữa bệnh Zona

Hỏi đáp - bình luận